Tuesday, October 6, 2009

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ kêu gọi Đồng bào trong và ngoài nước không dùng hàng hóa Trung quốc

    PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
    Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
    Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
    E-mail : ubcv.ibib@buddhist.com
2009-10-05 | | PTTPGQT
Source: http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=1255#note1

PARIS, ngày 5.10.2009 (PTTPGQT) - Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến “Lời Kêu gọi Không dùng Hàng hóa Trung quốc”, viết từ Saigon ngày 3.10 vừa qua.

“Lời Kêu gọi Không dùng Hàng hóa Trung quốc” hôm nay tiếp nối “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” công bố hôm 29.3 đầu năm nay trước vấn nạn nguy cơ mất nước của dân tộc. Nguy cơ này khác với 7 hay 10 thế kỷ trước. Trước kia, hàng trăm nghìn quân Tống, quân Nguyên, quân Minh tràn sang đất nước ta sát hại dân lành, trấn chiếm kinh đô, đốt sách và Hán hóa nền văn hiến Việt Nam. Ngày nay, cuộc xâm lăng không bằng quân đội, nhưng lại thông qua sự chỉ đạo chính trị từ thiên triều Trung Nam Hải ở Bắc Kinh, thông qua các vị tham tán Đại sứ theo dõi hằng ngày cách ăn nói, phê phán, xử sự liên quan đến Trung quốc, và thông qua hàng nghìn công nhân trá hình tại các cứ điểm quân sự yết hầu như Quảng Ninh, Hải Phòng, Tây nguyên. Một cuộc xâm lăng thông qua trung gian nội địa của Tung đội thứ năm (1) là Đảng Cộng sản Việt Nam trên các lĩnh vực sinh tử như tư tưởng, chính trị, văn hóa, kinh tế, là trùng điệp vi khuẩn độc hại hoành phá tinh não Việt Nam.

Hai ví dụ điển hình thấy rõ mà Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đưa ra, là bài đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam hôm 4.9 nhằm “bảo vệ biên cương Trung quốc” trên biển đảo, và lệnh từ Đại sứ quán Trung quốc bó buộc Hà Nội phải kiểm duyệt mọi nguồn tin phê phán hàng hóa Trung quốc trên hệ thống truyền thông Việt Nam. Phải chăng sự kiện sau này đã được nhà cầm quyền Hà Nội tuân thủ để ban hành Quyết định 97 cấm các tổ chức Khoa học và Công nghệ không được có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Cộng sản ?

Lời Kêu gọi không dùng hàng hóa, tức tẩy chay hàng Trung quốc, mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng, theo Hòa thượng Thích Quảng Độ “không phải là biểu tỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi chống nhân dân Trung quốc, chống công nhân Trung quốc. Vì nhân dân Trung quốc, công nhân Trung quốc cũng là nạn nhân của Đảng Cộng sản như nhân dân, công nhân và nông dân Việt Nam. Tẩy chay hàng Trung quốc là tẩy chay chủ nghĩa bá quyền xâm lược của Nhà cầm quyền Cộng sản Bắc Kinh. Ngoài lý do chính trị mà tẩy chay, còn lý do hàng xấu và hàng độc Trung quốc đang gây nguy hại cho cơ thể và môi sinh người tiêu dùng Việt Nam”. Đây là một nhận định quan trọng của Phật giáo trên lập trường liên minh hai dân tộc Việt - Trung trước thảm nạn cộng sản nói chung, mà tiền nhân chúng ta không ngừng áp dụng. Nhưng lại dứt khoát và quyết liệt trước chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của giới cầm quyền Bắc Kinh.

Tiếng nói của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ còn nhắm trỏ vào Quốc nạn ngày nay được cấu kết song hành giữa hai lực lượng Nội xâm và Ngoại xâm chưa hề thấy trong lịch sử Việt Nam. Hòa thượng viết:

“Người dân Việt không có các tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, cũng không có chính quyền hay quân đội để trực tiếp và mạnh mẽ phản chống nạn xâm lăng quân sự, xâm lăng tư tưởng và xâm lăng kinh tế. Vũ khí của người dân bị trị ngày nay là THÁI ĐỘ. Chúng ta cần biểu tỏ qua THÁI ĐỘ để chống hai quốc nạn Nội xâm và Ngoại xâm”.

Xin mời bạn đọc xem toàn văn “Lời Kêu gọi Không dùng Hàng hóa Trung quốc” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ sau đây:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO


Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu,
Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP. Sài gòn
--------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch 2553 Số 07/HĐLV/TB/XLVTT

LỜI KÊU GỌI
KHÔNG DÙNG HÀNG HÓA TRUNG QUỐC

Kính gửi Đồng bào trong và ngoài nước,

Ngày 4.9 vừa qua, trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài “Hải quân Trung quốc diễn tập tại Biển Đông” trích từ báo Hoàn Cầu, Phượng hoàng của Trung quốc, có những dòng như sau:

“… Ngày 18.8.2009, đội tàu hộ tống gồm hơn 100 sĩ quan và binh lính đã cập bến bãi đá Vĩnh Thử (đảo Chữ Thập) thuộc quần đảo Trường Sa để tiến hành tiếp tế, hậu cần, tham quan cơ sở công tác và sinh hoạt của binh lính trên đảo, đồng thời đưa 2 tàu chở trực thăng là “Thâm Quyến” và “Hoàng Sơn” cập đảo, tiến hành diễn tập cho trực thăng lên xuống và lực lượng đặc nhiệm đổ bộ đường không.

“Phát biểu với binh lính trên đảo, chỉ huy đội tàu hộ tống Phó Tư lệnh hạm đội Nam Hải nhấn mạnh: “Bất kể là binh sĩ hộ tống hàng hay binh sĩ bảo vệ đảo, đều có chung một sứ mệnh đó là bảo vệ lợi ích quốc gia, hy vọng các binh sĩ tập luyện để bảo vệ tốt biên cương trên biển phía Nam Tổ quốc”. Đến 9 giờ 30 ngày 18.8.2009, đội tàu đã rời đảo, tiếp tục hành trình quay về căn cứ.

“Ngày 24.8.2009, lực lượng Hải quân Trung quốc bắt đầu giai đoạn huấn luyện nhảy dù kéo dài 2 tháng, các hoạt động huấn luyện này được bắt đầu từ một sân bay ở quần đảo Hoàng Sa. Đây được coi là một hoạt động tập dượt kịch bản đổ bộ bằng đường không của Hải quân Trung quốc. Một trong những nội dung mới đáng lưu ý trong các hoạt động huấn luyên quân sự năm 2009 là hoạt động huấn luyện nhảy dù từ máy bay trực thăng và từ một sân bay ở quần đảo Hoàng Sa”.

Bản tin trên báo của Đảng lãnh đạo qua các trích đoạn dẫn thượng cho thấy Đảng Cộng sản “bảo vệ lợi ích quốc gia và biên cương” ở đây là Trung quốc chứ không phải Việt Nam. Đồng thời thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Bắc Kinh.

Một sự việc khác là cuộc tọa đàm trực tuyến Tuần Việt Nam trên VietnamNet, dưới đề mục “Giải pháp với hàng Trung Quốc chất lượng thấp / Doanh nghiệp thua đau bởi hàng Trung quốc giá rẻ” ngày 16.6.2009, và “Tuyên chiến với cuộc tấn công của hàng ngoại chất lượng thấp” ngày 18.6.09, do ký giả Nguyễn Quang Thiều phụ trách với hai nhà Trung quốc học về kinh tế, bà Phạm Chi Lan, thành viên Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) và ông Nguyễn Minh Phong cho thấy hàng hóa Trung quốc chất lượng xấu đang tràn ngập thị trường Việt Nam. Bà Phạm Chi Lan báo động hàng Trung quốc là “lũ quét” tai hại cho người chi dùng: “Trung quốc làm cái gì là làm tới cùng cho được. Có khi họ không cần quan tâm nhiều hoặc bất chấp những cái thuộc về đạo lý kinh doanh hay lương tâm kinh doanh, làm hàng xấu, hàng độc. Ngay cả đối với người dân của họ, họ còn không quan tâm. Trẻ em của họ phải uống sữa độc hại mà họ còn không quan tâm …”. Ông Nguyễn Minh Phong thì báo động “Trung quốc đã hy sinh 750 triệu người nông dân của họ để có giá thành lao động cực thấp”.

Liền đó, ông Hồ Tỏa Cẩm được sự ủy quyền của ông Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội phản đối buổi tọa đàm bàn tròn trên VietNamNet đã phát biểu những ngôn luận không hữu nghị với Trung Quốc. Ông Cẩm bênh vực cho hàng Trung quốc và yêu sách Việt Nam “kiểm điểm công việc này. Không để việc này tổn hại, thương hại cho dân chúng Trung quốc, thương nhân Trung quốc, chính phủ Trung quốc. Với những bài có liên quan tới quan hệ đối ngoại, chính trị, bộ phận nội bộ, không nên tung ra bên ngoài mà không có quản lý”.

Phải chăng Quyết định 97 do Thủ tướng ký và ban hành ngày 24.7.2009 nhằm cấm các tổ chức Khoa học và Công nghệ không được có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, là sự đáp ứng yêu sách của Bắc Kinh cấm nhân dân Việt Nam phản biện Trung quốc ?

Kính thưa Đồng bào trong và ngoài nước,

Chẳng nghi ngờ gì nữa, qua hai sự việc nêu trên, từ việc bảo vệ lãnh hải, lãnh thổ dân tộc cho đến bảo vệ quyền lợi kinh tế quốc gia, Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã phó mặc cho ngoại bang. Nguy cơ mất nước vào tay Trung quốc là nguy cơ cụ thể và hiện tiền.

Ngày 29.3 đầu năm nay, nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi đã cất “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại Gia”, mở đầu cuộc đấu tranh bất bạo động để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, lãnh hải mà hai nghìn năm tiền nhân ta không ngừng đem ý chí bất khuất và máu xương gìn giữ non sông.

Hôm nay, nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi xin cất lời kêu gọi Đồng bào trong và ngoài nước hãy có thái độ trước hai hiện trạng Trung quốc xâm lấn và Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bó tay đầu hàng.

Người dân Việt không có các tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, cũng không có chính quyền hay quân đội để trực tiếp và mạnh mẽ phản chống nạn xâm lăng quân sự, xâm lăng tư tưởng và xâm lăng kinh tế. Vũ khí của người dân bị trị ngày nay là THÁI ĐỘ. Chúng ta cần biểu tỏ qua THÁI ĐỘ để chống hai quốc nạn Nội xâm và Ngoại xâm.

Thái độ cần biểu tỏ hôm nay để Nhà cầm quyền Bắc Kinh thấy rõ ý chí kiên cường của người dân Việt là phát động phong trào không dùng hàng Trung quốc. Không dùng hàng Trung quốc không phải là biểu tỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi chống nhân dân Trung quốc, chống công nhân Trung quốc. Vì nhân dân Trung quốc, công nhân Trung quốc cũng là nạn nhân của Đảng Cộng sản như nhân dân, công nhân và nông dân Việt Nam. Tẩy chay hàng Trung quốc là tẩy chay chủ nghĩa bá quyền xâm lược của Nhà cầm quyền Cộng sản Bắc Kinh. Ngoài lý do chính trị mà tẩy chay, còn lý do hàng xấu và hàng độc Trung quốc đang gây nguy hại cho cơ thể và môi sinh người tiêu dùng Việt Nam.

Và thái độ biểu tỏ đối với Nhà cầm quyền Hà Nội là Bất tuân Dân sự như tôi đã gợi ý trước đây qua “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại Gia”.

Kính mong được đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng kể từ khi đọc Lời Kêu Gọi Không Dùng Hàng Trung quốc công bố hôm nay.

Thanh Minh Thiền Viện, Saigon ngày 3.10.2009
Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
Source: http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=1255#note1


Những Tháng Ngày Đen Tối - Trúc Giang

Trúc Giang (*)

Năm Kiến Vũ thứ mười, tức năm Giáp Ngọ 34 sau Tây Lịch, vua Hán là Quang Vũ Đế cử Tô Định làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đuổi Tô Định ra khỏi thành Luy Lâu, gây nền tự chủ cho dân Việt trên địa giới cũ của các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố.

Nền tự chủ ấy chưa được bao lâu, tháng Chạp năm Kiến Vũ thứ 17, tức tháng 1 năm 42 sau Tây lịch, Hán Quang Vũ cử Mã Viện Nam chinh, đánh lấy lại đất Giao Châu.

Mã Viện là một đại danh tướng của Đông Hán, được mệnh danh là Phục Ba tướng quân, tức là Tướng quân hàng phục sóng dữ. Năm ấy Mã Viện đã 70 tuổi, vừa dẹp xong cuộc nổi loạn của Lý Quảng ở Hoãn Thành, thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc ngày nay. Mã Viện có hai phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách thủy quân. Mã Viện mang một vạn quân lấy ở các quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương và Thương Ngô; từ Hồ Nam xuôi xuống Lưỡng Quảng. Tại những vùng chưa thuộc ảnh hưởng của Hai Bà Trưng, Mã Viện tuyển thêm một vạn hai ngàn quân bộ rồi hội binh với thủy quân của Đoàn Chí tại Hợp Phố, tức vùng bán đảo đối diện đảo Hải Nam bây giờ. Mã Viện theo đường thủy tiến vào Quảng Yên, theo sông Thái Bình tiến vào Trung Châu.

Quân Đông Hán đông hơn về số lượng, thiện chiến hơn, lại được chỉ huy bởi một danh tướng đã có gần nửa thế kỷ cầm quân. Trong khi đó, quân Nam tuy lòng yêu nước có thừa, nhưng số lượng đã ít, lại là quân ô hợp. Đánh nhau nhiều trận cho đến tháng 4 năm 43. Quân Nam và quân Đông Hán giao chiến với nhau một trận lớn tại hồ Lãng Bạc.

Nam quân thua trận, Hai Bà lui về Cẩm Khê. Theo sử nước ta thì Hai Bà tự trầm ở Hát Giang.

Mã Viện lập lại nền đô hộ ở Giao Châu, lại dựng một cột đồng to, cho khắc mấy chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Tức cột đồng gãy thì Giao Chỉ sẽ bị diệt.

Năm Bính Tuất 1406, Minh Thành Tổ hạ chiếu đánh nước ta, lúc ấy do nhà Hồ cai trị đã được sáu năm. Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm Đại tướng, Tán Bình Hầu Trương Phụ và Tây Bình Hầu Mộc Thạnh làm tả, hữu phó tướng. Phong Thành Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm tả, hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo tiến sang nước ta.

Khi đến Long Châu, Quảng Tây thì Chu Năng bị bệnh chết. Trương Phụ lên thay, theo lối Bằng Tường, từ Quảng Tây đánh vào ải Nam Quan. Mộc Thạnh đi ngã Vân Nam, đánh vào Phú Lĩnh, xuôi theo sông Thao mà xuống, họp cùng Trương Phụ tại Bạch Hạc, Vĩnh Yên. Tháng Chạp năm Bính Tuất 1406, Trương Phụ đánh thành Đa Bang. Trương Phụ cùng Đốc tướng Trần Duệ đánh mặt Đông Nam, đều dùng thang vân thê để leo thành. Thành vỡ, quân Minh tiến xuống Đông Đô, tức Hà Nội ngày nay.

Tháng 3 năm Đinh Hợi 1407, Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm giang, hạ trại hai bên bờ sông. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, là con thứ của Hồ Quý Ly đem 300 chiến thuyền đánh vào Mộc Phàm, bị quân Minh tập công từ hai phía phải rút lui về cửa Muộn Hải, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bây giờ, hợp với hai tướng Hồ Đô, Hồ Xạ đào hào đắp lũy, tính kế phòng thủ lâu dài.

Hồ Nguyên Trừng rước Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương ở Tây Đô ra Hoàng Giang, mở một trận phản công lớn vào Hàm Tử. Thủy lục của Hồ Nguyên Trừng lúc ấy có 7 vạn. Hồ Xạ, Trần Đĩnh đánh vào bờ phía Nam, Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân do Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy.

Quân Minh để quân Nam vào sâu trong trận mới ra đánh. Quân Nam đại bại. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt và bị Trương Phụ chém. Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và Hán Thương chạy ra bể lui về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo rất gấp. Quý Ly lại chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407) Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La, nay thuộc huyện Kỳ Anh tỉnh Nghệ An.

Trương Phụ sai Mộc Thạnh đi đường bộ, Liễu Thăng đi đường thủy vây bắt được Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Tả Tướng Quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu Tướng Quốc Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly cùng nhiều đại thần. Tất cả bị giải về Kim Lăng, Trung Hoa.

Cũng năm Đinh Hợi 1407, Giản Định Vương Trần Quỹ, con thứ vua Trần Nghệ Tông

phất cờ khởi nghĩa, được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân theo phò tá, lòng người theo về. Tháng Chạp năm Mậu Tý 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến ra phía Bắc. Tướng Minh đang cai trị nước ta là Lữ Nghị cấp báo về Kim Lăng. Minh Thành Tổ phái Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam sang cứu viện. Giản Định Đế muốn thừa cơ đánh thẳng ra Đông Đô, còn Đặng Tất lại chủ trương đợi quân các nơi về đông đủ rồi hãy tấn công. Vua tôi bất hòa, Giản Định Đế nghe lời dèm pha giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, lòng người chán nản.

Con Đặng Tất là Đặng Dung và con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị đem quân bản bộ bỏ Giản Định Đế về Hà Tĩnh lập cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi, hiệu là Trùng Quang. Quý Khoách sai Nguyễn Súy bắt Giản Định Đế đưa về tôn làm Thái Thượng Hoàng để thống nhất hai đạo quân kháng chiến.

Trương Phụ lại đem viện binh từ Trung Hoa sang. Quân kháng chiến sức yếu, thua nhiều trận phải lui về phía Nam. Tháng 6 năm Quý Tỵ 1413, quân Minh chiếm Nghệ An, tháng 9 đến Hóa Châu. Quân kháng chiến phản công được vài trận nhưng cuối năm ấy, Quý Khoách cùng các tướng đều bị bắt. Còn Giản Định bị bắt trước đó đã giải về Kim Lăng.

Trương Phụ cho giải Trùng Quang Đế Quý Khoách, Nguyễn Suý, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị về Yên Kinh, Trung Quốc. Dọc đường, vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự vận, còn các Tướng kia cũng tử tiết cả.

Tháng Tư năm 43, tháng Năm năm 1407, tháng Mười Một năm 1413 đều là những năm tháng đen tối của đất nước. Trong những năm tháng ấy, đất nước rơi vào tay giặc; lãnh đạo đất nước kẻ tự sát, người bị bắt, bị giết; dân tộc lầm than.

Nhưng lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc đã nhiều lần chứng minh rằng những giờ phút đen tối ấy rồi sẽ qua đi, bởi dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất và không chấp nhận bị ngoại bang thống trị. Bà Trưng mất thì đến Bà Triệu, đến Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương mất lại có Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương, họ Khúc và cuối cùng là Ngô Quyền giành lấy độc lập.

Nhà Hồ vừa bị tiêu diệt thì đến Giản Định Đế, Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần. Nhà Hậu Trần dứt thì chỉ năm năm sau, Bình Định Vương dấy nghĩa ở đất Lam Sơn, mười năm kháng chiến gian khổ để nước nhà độc lập hơn bốn trăm năm.

Mã Viện đã đánh dấu chiến công của mình ở phương Nam bằng cách dựng lên một cột đồng và ngạo nghễ khắc vào đó một lời nguyền, đe dọa diệt chủng: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Cây cột đồng ấy không bao lâu đã bị chôn vùi dưới những viên đá được ném đi bởi lòng căm hờn của những người bị trị; tuy sức yếu nhưng không thiếu tinh thần quật khởi.

Năm Vĩnh Tộ thứ 10, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm đỗ Thám Hoa. Năm Dương Hòa thứ 3, cũng đời vua Lê Thần Tông, ông được cử đi sứ sang nhà Minh để nạp đồ tiến cống. Truớc mắt bá quan văn võ và sứ thần các tiểu quốc khác; để thử tài sứ thần nước Việt, vua nhà Minh đã trịch thượng ra câu đối:
    Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
    (Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Sứ thần Việt quốc ngạo nghễ đối lại:
    Đằng giang tự cổ huyết do hồng.
    (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Câu đối của sứ thần Giang Văn Minh vừa đanh thép vừa tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc, nhắc lại ba lần máu nhuộm Đằng Giang: Ngô Vương Quyền giết Hoàng Thao, phá quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống năm 981 và Hưng Đạo Đại Vương phá Nguyên năm 1288. Mất mặt, vua Minh nổi giận đã làm một chuyện tàn ác là ra lệnh mổ bụng Giang Văn Minh để xem gan sứ Việt bao lớn. Rồi cho khâm liệm và trả di hài về nước.

Vua Lê Thần Tông vô cùng thương tiếc đã thân hành làm lễ tế với lời điếu:
    “Sứ bất nhục quân mệnh, khả thi vị thiên cổ anh hùng”.
    (Tức là: Đi sứ không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng ngàn thuở)
Có một sự trùng hợp lạ lùng: Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm cũng lại là quê của Ngô Vương Quyền, người đã lập chiến công đầu tiên trên Bạch Đằng Giang với lời thơ hùng tráng của Phạm Sư Mạnh đời Trần:
    Hung hung Bạch Đằng đào,
    Tưởng tượng Ngô Vương thuyền

    (Bạch Đằng cuồn cuộn sóng trào
    Tưởng thuyền Ngô Chúa hôm nào trên sông).
Cuộc đô hộ của nhà Minh đối với nước Việt kéo dài 20 năm, nhưng thực sự chỉ có 5 năm hơi yên ổn từ 1413 cho đến năm 1418 là năm mà Bình Định Vương xướng nghĩa. Giặc dù mạnh cũng khó ngồi yên ổn đặt ách cai trị lên đất nước Việt bởi vì:
    Nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng văn hiến đã lâu.
    Cõi bờ cương vực đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập
    Cùng Hán, Đuờng, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Nhưng hào kiệt đời nào cũng có…”
    (Bình Ngô đại cáo)
Hoàn cảnh của miền Nam sau 1975 có hơi khác hơn một chút. Miền Nam đã thực sự bị xâm chiếm và đặt lên một ách cai trị hết sức hà khắc bởi chính những người cộng sản cùng màu da, cùng dòng máu. Tám mươi bốn triệu dân cả nước bây giờ tuy không phải chịu cảnh bị ngoại nhân trực tiếp đô hộ như thời Đông Hán, thời Minh, nhưng bị đô hộ bởi một giai cấp bóc lột, phi nhân là đảng Cộng Sản. Cho đến giờ này, những quyền tự do căn bản nhất của tám mươi bốn triệu người dân chỉ có trên giấy tờ và các ống loa tuyên truyền của đảng. Các quyền tự do căn bản nhất ấy đối với người dân chỉ là những giấc mơ chưa với tới.

Có người sẽ hỏi: Các người đã tranh đấu, đã kêu gào ba mươi bốn năm nay mà chế độ Cộng sản Việt Nam có sụp đổ đâu?

Xin thưa rằng chưa. Chưa chứ chẳng phải là sẽ không bao giờ! Nếu những người dân Đông Âu cứ chấp nhận rằng chế độ Cộng sản Đông Âu sẽ không bao giờ sụp đổ; không có cuộc đấu tranh ở Ba Lan, không có những đợt sóng ngầm ở Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi… Nếu thế giới cũng nghĩ như vậy và cũng ngồi yên thì Cộng Sản Đông Âu sẽ không nối nhau sụp đổ trong năm 1989.

Đó là một tấm gương, xin những ai chủ bại cho rằng cuộc đấu tranh để giải trừ Cộng Sản ở nước ta hiện nay là lỗi thời hoặc vô vọng. Đó chỉ là những lời xảo ngôn để che dấu tinh thần cầu an, trốn tránh trách nhiệm.
    Đố chúng tắc mộc chiết; Nghị đa tắc đê quyết.
    Nhiều mọt sẽ làm đổ cây; Nhiều tổ kiến sẽ làm sụp đê!
Trăm suối nhỏ sẽ thành sông lớn. Hàng ngàn sự chống đối đấu tranh, tưởng chừng vô vọng từ mọi phía, góp lại sẽ thành cơn bão lớn đối với Cộng sản Hà Nội.

Những năm tháng đen tối của lịch sử đất nước đã qua đi vì chúng ta đã có Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam, đã có Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị tử tiết khi nước mất, có Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành khi thành mất.

Những năm tháng đen tối của đất nước ta hiện nay cũng sẽ qua đi vì năm 1975 chúng ta đã có Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn… Và sau năm 1975, chúng ta đã có Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân cùng hàng ngàn anh hùng, liệt sĩ khác mà rồi một ngày không xa lịch sử sẽ tìm đến để ghi tên.

Những năm tháng đen tối hiện nay rồi cũng sẽ qua đi vì hiện nay trong cũng như ngoài nước vẫn còn những người âm thầm hy sinh cho đại cuộc bằng cách này hay cách khác.
    Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới…
    (Bình Ngô đại cáo).
Dân tộc nào, đất nước nào lại chẳng phải trải qua những tháng năm đen tối, đau buồn. Dân tộc và đất nước Việt Nam cũng thế. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành một cái móc lịch sử, một kỷ niệm đau buồn chứ không còn là một vết thương ngày đêm làm tâm can chúng ta nhức nhối, nếu chúng ta đừng ngã lòng.

Trúc Giang cư sĩ

(*) Trúc Giang cư sĩ là một trong những bút hiệu của nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn. Ông hiện là chủ nhiệm, chủ bút tuần báo Tiếng Dân phát hành ở San José. Ông cũng là giám sát viên của Ban Đại Diện CĐVN/BC nhiệm kỳ 5.


Con giun xéo mãi … - Nguyễn Đạt Thịnh


Nguyễn Ðạt Thịnh

Con giun trong bài báo này là ông Nguyễn Trung Dân, phụ tá chủ bút tạp chí Du Lịch, cơ quan ngôn luận của tổng cục du lịch. Tờ báo ông làm dĩ nhiên là “công báo” như mọi tờ báo khác xuất bản tại Việt Nam: báo in ra và phát hành bằng ngân quỹ của tổng cục du lịch, một cơ quan nhà nước. Ông Dân lãnh lương của nhà nước như mọi công chức khác.

Gót giầy xéo con giun Dân là bộ Thông tin và Truyền thông của nhà nước Việt Cộng; bộ này của nhà nước quyết định đình bản tờ báo Du lịch cũng của nhà nước trong ba tháng vì 'sai phạm nghiêm trọng' trong số Tết Kỷ Sửu 2009.

Quyết định ký hôm 14 tháng Tư viết "lãnh đạo báo Du lịch đã không chấp hành sự chỉ đạo đối với các thông tin quan trọng, phức tạp và nhạy cảm".

Du lịch Xuân Kỷ Sửu có một số bài đề cập tới chủ đề biên giới lãnh thổ cũng như chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quyết định đình bản 3 tháng không nhất thiết có nghĩa là sau 3 tháng tờ Du Lịch được tái bản. Ông Dân viết cho đài BBC, “Đình bản ba tháng (từ 14/4/09 cho đến hôm nay 26/9/09 là 5 tháng 12 ngày) - từng ấy ngày không lương ăn, không việc làm và kinh khủng hơn là không ai thèm biết đến sự tồn tại của hơn 50 con người đang vất vưởng, tội nghiệp, chờ kiếm cho ra một người phụ trách mới.”

Ông hỏi ông phạm “tội gì” mà cả tòa soạn Du Lịch bị trừng phạt nặng nề đến như vậy; câu hỏi giúp ông trả lời, “Có chăng là tội muốn nói lên cho mọi người biết rằng Việt Nam vẫn có - và có nhiều - những thanh niên sẵn sàng xuống đường (và sẵn sàng chết) cho Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam (xem bài “Tản mạn cho đảo xa” của Trung Bảo).

“Và cho dù đã "lỡ lầm" mất Ải Nam Quan thì cũng cần ghi dấu "Hận Nam quan" cho con cháu mai sau biết được rằng: Nước Việt Nam ta hình cong chữ S, liền một dải từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (xem Hận Nam quan của Hoàng Cầm).”

Ông Dân cho là ông vô tội vì bài báo của cậu Trung Bảo chỉ nói lên sự thật, nhưng sự thật đó, lại làm gai mắt tòa đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam, và do đó trở thành “nhậy cảm”, cấm không được đề cập đến.”

Người cả gan viết lên sự thật “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” - ký giả Trung Bảo - lại là cậu con trai đầu lòng của ông Dân.

Ông đã từng khuyên con “vào đại học muốn học gì thì học, nhưng đừng học nghề làm báo”, nhưng cậu Trung Bảo vẫn theo nghề của bố; rồi vì bài báo của cậu mà 50 nhân công phục vụ tờ báo trở thành thất nghiệp, không có lương ăn suốt 5 tháng, trong số đó có bố con cậu.

Ông Dân không giận con mà lại giận cái gót giầy đang xéo 50 con giun. Xỉ vả họ, ông viết, “Có phải khi đã yên vị ngôi cao, được phong thánh bằng niềm kiêu hãnh đem lại độc lập dân tộc, thì đất nước, lòng yêu nước trở thành của riêng một nhóm người độc quyền bắt người khác phải nghe, phải theo mình, mà mình thì không thấy điều gì quan trọng hơn cái ghế của mình hay không?"

Câu hỏi đầy phẫn nộ, ai cũng biết ông hỏi ai, nhưng những người bị hỏi không buồn trả lời ông. Cũng viết báo như bố con ông, tôi cầu nguyện không bao giờ họ trả lời ông cả, vì chắc chắn họ không trả lời bằng lời, mà bằng nhiều thủ đoạn tàn độc.

Tôi kính phục ông sau khi đọc đoạn ông trần tình với độc giả và giải thích vì sao ông đăng bài báo “nhậy cảm” của Trung Bảo.

Ông viết, “Khi cầm bài báo Trung Bảo viết cho số Xuân Du lịch, tôi đã đắn đo rất lâu. Trong tình hình lúc ấy, với sự nhạy cảm cần thiết, tôi hiểu được điều gì có thể xảy ra khi các bài báo này được in ra.

“Thế nhưng, tất cả những điều có thể xảy ra ấy có khiến tôi chùn tay không dám ký duyệt cho đăng bài viết này, mà khi đọc tôi thật sự xúc động tận tâm can?

“Tôi thương cho bầu nhiệt huyết của lớp lớp tuổi trẻ sẵn sàng xả thân mình, xuống đường biểu tình và có lẽ không ngần ngại hy sinh thân mình khi tấc đất quê hương đang bị xâm chiếm.

“Rồi tôi sợ.

“Tôi sợ phải đối diện với ánh mắt con tôi, sợ phải nghe câu hỏi là bao nhiêu sự tích anh hùng của cha ông, sao bây giờ lại thế này?”

Thưa ông Dân,

Câu nói dân gian, “con giun xéo mãi cũng quằn” giúp tôi hình dung được sự quằn quại đau đớn của ông, và của 50 người bạn đồng nghiệp với ông. Mọi người đã cúi mặt từ ngày bắt đầu biết cầm bút, và đang đói từ 5, 6 tháng nay chỉ vì ông chọn thái độ không bịt miệng một cậu thanh niên yêu nước viết lên lòng yêu nước của mình nhân danh một thế hệ trẻ.

Ông giúp tôi bớt bi quan với tình hình quốc nội ngày một đen tối hơn trước thái độ hung hãn của một đế quốc Trung Hoa đang tái sinh, và thái độ cúi đầu tùng phục của đám thái thú công trường Ba Ðình.

Cảm ơn ông.

Nguyễn Ðạt Thịnh


Tên đao phủ Tết Mậu Thân 1968: Nguyễn Đắc Xuân


Nguyễn Dắc Xuân: tên đao phủ thành phố Huế
cùng với 2 tên: Hoàng Phủ Ngọc Phan
Hoàng Phủ Ngọc Tường, đã sát hại trên 6,000
người dân vô tội trong dịp csBV tổng tấn công
Tết Mậu Thân 1968


Sunday, October 4, 2009

Chúng lại xạo nữa rồi Thiên Chúa ơi! - Trịnh Du

    Chúng lại xạo nữa rồi Thiên Chúa ơi!
    (Thương tặng Cha Lý, người linh mục kính yêu)

    Sáng thứ Bảy đọc thư từ bên ấy
    Con tự nhiên thấy lạ lắm Chúa ơi
    Nơi trại tù hẻo lánh trận chân trời
    Ngài đọc báo, trồng hoa thơm cỏ lạ?

    Hởi bè lũ Việt gian chuyên đánh phá
    Bây nở nào bịa chuyện với trần gian
    Ngài bị giam trong phòng nhỏ tồi tàn
    Không bệnh xá khi Ngài bị té ngã

    Tòa Gíam Mục xem Ngài như nước lã
    Gởi hai Cha tra hỏi tội trần gian
    Ngài ngây thơ xưng tội đến chiều tàn
    Nào có biết hai Cha là “mật thám”?

    Ôi Thượng Đế, cho con lòng can đảm
    Trở về quê dù bỏ xác rừng hoang
    Giúp cho con trí dũng được vẹn tòan
    Để con phá ngục tù nơi Ngài ở

    Con sẽ phá ngục tù để trả nợ
    Trả tự do cho Tám Chục Triệu dân
    Từ núi cao cho đến bờ biển ngần
    Người dân Việt được cơm no áo ấm

    Toàn dân Việt được thương yêu đầm ấm
    Thánh đường xưa ta xây lại khang trang
    Ngôi Chùa xưa được tu bổ đàng hoàng
    Và Cha Lý được tự do cầu nguyện …

    Thượng Đế hỡi, cho con một lời nguyện
    Dù chỉ là một lời nguyện đơn sơ
    Xin Chúa thương đừng trách móc thờ ơ
    Khi Cha Lý bị giam cầm trong ngục

    Con vẫn biết: Chết Vinh Hơn Sống Nhục
    Chiên đầu đàn có Nhục cũng có Vinh
    Xin Chúa Thương khi phán xét Thiên Đình
    Hãy loại bỏ Chiên nào đã sống nhục!

    (Trịnh Du, một sáng cuối tuần, tháng 9/2009)

Mũ Đỏ VNCH với Cờ Vàng tham dự diễn hành trên đại lộ Champs-Elysées


Mũ Đỏ VNCH với Cờ Vàng tham dự diễn hành trên đại lộ Champs-Elysées và đặt vòng hoa tại mộ bia chiến sĩ vô danh dưới chân Khải Hoàn Môn tại Paris hôm 03/10/2009 do hội Union Nationale des Parachutistes tổ chức để mừng ngày lễ St-Michel (29/09).


















Chuyện hoang thưởng của loại "Tiến Sĩ Cầu Muối" - Triệu Hoàng Nguyên

CHUYỆN HOANG TƯỞNG CỦA LOẠI ‘TIẾN SĨ CẦU MUỐI’

Triệu Hoàng Nguyên

Lúc này các đài Phát thanh ngoại quốc thường hay phỏng vấn các trí thức xã hội chủ nghĩa tai to mặt lớn ở VN. Các vị này tự nhiên thấy mình thành nhân vật quan trọng, nên phát biểu vung tí mẹt, quên mất câu “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Ngày 9/2/09, đài BBC có làm một cuộc phỏng vấn ông giáo sư Nguyễn Trọng Phúc thuộc Học Viện Chính Trị-Hành Chánh Quốc Gia Hồ Chí Minh, nhà Nghiên cứu, và nguyên Viện Trưởng Viện Lịch Sử Đảng thuộc Học Viện Cao Cấp của nhà nước CSVN.

Nghe thành tích và chức vu dài lòng thòng của vị này là thính gỉa đã táng đởm kinh hồn rồi, thế mà nghe câu trả lời phỏng vấn của ông thì người ta còn bị toát mồ hôi, sôi bọt mép nữa. Ông nói: “Người ta có nhiều con đường để đi đến khẳng định chế độ chính trị nào được toàn dân ủng hộ, chứ không phải chỉ trưng cầu dân ý. Nước Anh, nước Mỹ có trưng cầu dân ý không?”

Ông Phúc chắc chắn là đã phải vất vả “học tập theo gương cáo Hồ vĩ đại” cho nên mới bò lên được tới điạ vi nhà nghiên cứu, viện trưởng và giáo sư các cơ sở giáo dục quan trọng hàng đầu của đảng và nhà nước. Thế thì tại sao ông không trích dẫn gương Liên sô và Trung quốc vĩ đại mà lại đi so bì với các nước tư bản phản động Anh Mỹ là “có ý đồ gì đây”? Ông có nhớ rằng dân chủ xã hội chủ nghiã gấp một triệu lần dân chủ tư bản hay không? Cho nên có vẻ như ông không hiểu “bầu cử” “ trưng cầu dân ý” đều có cùng mục đích tương tự như nhau.

Ông Phúc ơi, xin chỉ giúp ông con đường để khẳng định chế độ chính trị được toàn dân ủng hộ ở VN nhé . Đó là con đường vượt biên giúp mấy triệu người bỏ nước ra đi để lánh nạn CS đấy ! Cái con đường này người dân nói rằng nếu mà cái cột đèn biết đi thì nó cũng đi, chỉ hiềm hơi nguy hiểm, và chỉ vì “đảng và nhà nước ta” ngăn chặn bắn giết ráo riết nên nhiều người không dám đi. Chắc ông dư biết. Nói xa như vậy thì ông cho là chuyện cũ nhắc lại làm gì, nhưng trước mắt ngày nay, tin báo trong nước cũng như những nghiên cứu ngoại quốc cho biết rằng đa số các du sinh (tức là thuộc giới quyền chức và có tiền bạc) cũng chỉ muốn ở lai ngoại quốc khi đã ra được đến ngoài rồi, ông có biết không?

Sau đây là cuộc phỏng vấn của nhà Tiến sĩ Lê Anh Sắc, chuyên viên cao cấp Sở Nội Vụ Hà Nội, thành viên soạn thảo Chiến lược cán bộ, công chức khối chính quyền Thành phố. Chỉ tiêu của Tiến sĩ Sắc đề ra là: “Đến năm 2020, Hà nội phấn đấu có 100% cán bộ diện Thành Ủy quản lý có trình độ Tiến Sĩ. 100% cán bộ diện UBND TP quản lý có trình độ trên đại học, trong đó một nửa cần đạt trình độ Tiến sĩ, 100% cán bộ chủ chốt xã, phường, thi trấn có trình độ đại học, trong đó 50% trên đại học.”

Có lẽ ông Lê Anh Sắc lấy bằng Tiến Sĩ nên ông muốn mọi người đều phải có bằng Tiến sĩ như ông. Cứ nghe chỉ tiêu ông Lê Anh Sắc đề ra thì người ta liên tưởng là tới năm 2020, ở VN, các Tiến Sĩ sẽ bò lổm ngổm, đầy rẫy đầu đường xó chợ, ngõ hẻm hang cùng.

Tuy nhiên, chỉ tiêu của ông đề ra không có tính cách thực dụng. Này nhé, hiện thời 14 cấp lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, các Chủ Tịch nhà nước, Thủ Tướng và phó Thủ Tướng chính phủ chưa ai có bằng Tiến sĩ cả. Thời gian đào tạo cho môt tiến sĩ “chính quy”, theo chữ của đảng và nhà nước ta, thì phải mất 5 năm tiểu học, 7 năm trung học, 4 năm cử nhân, 2 đến 4 năm tiến sĩ tuỳ ngành và tuỳ khả năng. Tổng cộng là 20 năm. Nay ông ra chỉ tiêu 10 năm nữa 100% cán bộ Thành Ủy phải có bằng TS thì hơi kẹt cho các đồng chí của ông chỉ có tốt nghiêp trường tù, trường điạ đạo Củ Chi, hoặc chiến khu D. Không lẽ ông khiêng mấy vị này liệng xuống ao cá vồ , cá tra hết để cho mấy ông TS lên thay thế à ? Việc gì bầy đăt nhiêu khê như thế mà tại sao không cứ yên lặng in bằng cấp cho các lãnh đạo như hiên nay đang làm có phải đỡ tạo sầm sì bàn tán hay không?

Ông Sắc có vẻ không nhớ lời "cáo Hồ vĩ đại" dạy “trồng người 100 năm” nên mới tính trồng “thành ủy” tiến sĩ 10 năm! Khi bị hỏi rằng: ”ông có cho rằng mục tiêu đưa ra là quá cao và khó thực hiện không ?.” Ông trả lời: “Việc đưa ra mục tiêu cao sẽ tạo áp lực cho thành phố nghĩ ra được cơ chế để thực hiện. Khó khăn thách thức, mình sẽ gỡ dần.” Câu trả lời này nghe thật đúng sách vở và “có tình có lý” của lãnh đạo đã đề ra từ khi đổi mới. Đó là “sai đâu sưả đấy và sửa đấy sai đâu, sửa đâu sai đấy”.

Về câu hỏi: “ Những vị trí quản lý cần nhiều kinh nghiệm thực tiễn hơn là bằng cấp?” Ông trả lời: “Những người có trình độ học vấn ở mức giới hạn, thì kinh nghiệm dù có nhiều hơn nữa, cũng chỉ có thể giúp giải quyết những vấn đề cá nhân, chứ không thể dùng được cho bộ máy hành chánh, khó mang ra để gíúp dân, giúp nước được.” Chỉ vì say mê cái chiến lược đào tạo tiến sĩ nên lại nói đụng chạm đến các cán bộ đảng viên quyền lực quanh ông đó, ông Sắc ơi. Tính lại đi, kẻo mà mất ghế. Câu này không những làm mất lòng quan chức đảng, mà còn làm động lòng những tiến sĩ xã hội chủ nghĩa không nhiều lắm hiện nay nữa, và những người này không thể nào không phê bình chiến lược của ông. Tại sao ông có biết không? Tại vì nếu mà tiến sĩ nhiều quá thì họ còn đâu mà đươc phỏng vấn hoài hoài như hiên nay nữa?

Triệu Hoàng Nguyên

Chính Trị Hóa Gia Đình, Một Chính Sách Lớn Của Cộng Sản - Nguyễn Hưng Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

Trong bài “Chế độ gia đình trị của cộng sản” tôi đã phân tích một chiến lược cầm quyền và duy trì quyền lực của đảng Cộng sản Việt Nam: Ðó là chiến lược gia đình hoá sinh hoạt chính trị trong phạm vi quốc gia. Lãnh tụ tối cao của đảng và nhà nước là “Cha”, là “Bác” của dân tộc; các lãnh tụ khác, thấp hơn một chút, là “anh” là “chị”. Quan hệ giữa giới lãnh đạo và quần chúng, do đó, là thứ quan hệ gia tộc.

Chiến lược ấy có ưu thế ở chỗ tận dụng được nhiều truyền thống văn hoá của Việt Nam vốn trọng tình gia đình và, một phần do ảnh hưởng của Nho giáo, đề cao chữ hiếu. Nó tỏ ra cực kỳ có hiệu quả trong việc loại trừ ý thức phản kháng và bất phục tùng của cấp dưới. Bất cứ người cấp dưới nào, khi có ý kiến khác với cấp trên, đều ít nhiều mang mặc cảm là mình “hỗn” cho dù về lý, họ hoàn toàn đúng.

Không phải trong lãnh vực chính trị, ngay cả trong lãnh vực xã hội, chiến lược gia đình hoá như vậy cũng có tác dụng triệt tiêu tinh thần dân chủ và ý thức bình đẳng.

Một người bạn của tôi, trong một chuyến về Việt Nam, ghé thăm công ty của một người em trai, nhận ra một thứ quan hệ kỳ lạ trong công ty, một thứ quan hệ mà anh không hề thấy ở Úc.

Người em trai của anh là giám đốc một công ty kỹ thuật lớn ở Sài Gòn. Ðang ngồi nói chuyện với anh một lát, người em sai một nhân viên kỹ thuật đang làm việc gần đó: “Cháu chạy xuống đường mua cho chú hai ly cà phê đi, cháu!”. Cô gái, nghe đâu tốt nghiệp từ ngoại quốc về, vui vẻ chạy đi và lát sau mang về hai ly cà phê. Lát sau, anh giám đốc lại ới một nhân viên kỹ thuật khác: “Em chạy mua cho anh bao thuốc lá nhé!” Và người nhân viên ấy lại chạy đi.

Người bạn của tôi nhận xét: Những chuyện như thể không những không hề có mà cũng không thể tưởng tượng ra được ở Úc. Mà có lẽ ở Úc cũng không có giám đốc nào dám sai nhân viên những chuyện như vậy. Và cũng hiếm có nhân viên, nhất là nhân viên kỹ thuật, nào lại sẵn lòng làm những chuyện như vậy.

Anh và tôi đồng ý với nhau ở điểm này: Nguyên nhân chính của việc sẵn-sàng-sai-bảo và sẵn-sàng-vâng-lời ấy nằm trong cách xưng hô.

Dùng “I” và “you” như trong tiếng Anh hay “Je” và “tu” hay “vous” trong tiếng Pháp, những sự sai bảo kiểu đó rất dễ trở thành một sự xúc phạm. Nhưng khi người ta dùng chữ “chú” / “cháu” hay “anh” / “em” thì vấn đề lại khác. Ðó không còn là sự sai khiến của một người chủ, một cấp chỉ huy mà là sự nhờ vả thân tình của một người anh hay một người chú.

Với tư cách người anh hay chú, vị giám đốc cảm thấy hoàn toàn thanh thản sai khiến em hay cháu. Và với tư cách em hay cháu, các nhân viên cũng thấy bình thường trước những yêu cầu ngoài công việc của anh hay chú của mình.

Một chuyện như thế xảy ra ở một công ty cũng có thể cũng dễ dàng xảy ra ở các công sở thuộc mọi cấp, từ trung ương xuống địa phương.

Trong một không khí sinh hoạt như thế, ý niệm về bình đẳng hay dân chủ khó mà nẩy nở trọn vẹn được.

Có thể đó là điều Hồ Chí Minh và các lãnh tụ khác của cộng sản đã thấy và đã tận dụng để duy trì quyền lực của họ.

Nhưng ngoài chiến lược gia đình hoá chính trị ấy, cộng sản còn có một chiến lược quan trọng khác nữa: chính trị hóa mọi quan hệ gia đình.

Nói cách khác, ở cấp quốc gia, cộng sản biến mọi sinh hoạt chính trị thành thứ quan hệ gia đình; nhưng ở cấp gia đình, cộng sản lại làm mọi cách để chính trị hoá các quan hệ thân tộc, từ quan hệ cha/mẹ-con đến quan hệ vợ – chồng.

Lâu nay, người ta hay dẫn mấy câu thơ của Tố Hữu viết nhân ngày Stalin chết để chế diễu cái họ gọi là thói nịnh bợ của người được gọi là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng tại Việt Nam:
    Stalin!Stalin
    Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
    Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
    Áo ông trắng giữa mây hồng
    Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
    Trên đồng xanh mênh mông
    Ông đứng với em nhỏ
    Cổ em quàng khăn đỏ
    Hướng tương lai
    Hai ông cháu cùng nhìn
    Sta-lin! Sta-lin!
    Yêu biết mấy nghe con tập nói
    Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!
    Mồm con thơm sữa xinh xinh
    Như con chim của hoà bình trăng trong
    Hôm qua loa gọi ngoài đồng
    Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
    Làng trên xóm dưới xôn xao
    Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!
    Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
    Hỡi ôi Ông mất! Ðất trời có không?
    Thương cha thương mẹ thương chồng
    Thương mình thương một thương Ông thương mười
    Yêu con yêu nước yêu nòi
    Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu
    Ngày xưa khô héo quạnh hiu
    Có người mới có ít nhiều vui tươi
    Ngày xưa đói rách tơi bời
    Có người mới có được nồi cơm no
    Ngày xưa cùm kẹp dày vò
    Có Người mới có tự do tháng ngày
    Ngày mai dân có ruộng cày
    Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
    Ơn này nhớ để hai vai
    Một vai ơn Bác một vai ơn Người
    Con còn bé dại con ơi
    Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông
    Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
    Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con
    Ông dù đã khuất không còn
    Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
    Trên đường quê sáng tinh sương
    Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
    Ngàn tay trắng những băng tang
    Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.
    (Tố Hữu 1953)
Xin lưu ý là năm 1953, lúc Tố Hữu viết bài thơ trên, ông không phải chỉ là một nhà thơ bình thường như vô số các nhà thơ khác. Mà ông, với tư cách uỷ viên dự khuyết Trung ương đảng, đang đảm trách vai trò lãnh đạo toàn bộ sinh hoạt văn học nghệ thuật và tư tưởng của Việt Nam.

Những câu tán tụng công ơn của Stalin như vậy không phải chỉ là những lời nịnh bợ bình thường mà chắc chắn phải xuất phát từ một chính sách tuyên truyền nhất định.

Chính sách ấy là biến Stalin thành một người Ông, nghĩa là một thành viên trong gia đình. Nhưng đó không phải là một thành viên bình thường. Ðó là người đã ban phát ân huệ cho cả nhân loại, trong đó có Việt Nam, do đó, mọi người cần phải biết ơn, hơn nữa, thương yêu; quan trọng hơn nữa, thương yêu hơn cả đối với những ngượi ruột thịt hay với chính bản thân mình: “Thương cha, thương mẹ, thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông thương mười”. Nói cách khác, sau khi đưa Stalin vào quan hệ gia đình, Tố Hữu hạ thấp tất cả các quan hệ cố hữu trong gia đình: mọi thứ tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng đều là thứ yếu so với tình cảm dành cho Stalin, và cùng với Stalin là Hồ Chí Minh: “Một vai ơn Bác, một vai ơn Người”.

Không những xem tình cảm đối với Stalin và Hồ Chí Minh cao hơn tình cảm cha – con, mẹ – con và vợ – chồng, Tố Hữu còn phá vỡ cả quan hệ nam – nữ vốn dựa chủ yếu trên tình yêu cá nhân bằng cách chính trị hoá nó.

Trong bài Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu viết:
    Như buổi đầu hò hẹn, say mê
    Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
    Mà nói vậy: “Trái tim anh đó
    Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
    Anh dành riêng cho đảng phần nhiều
    Phần cho thơ và phần để em yêu”.
    Em xấu hổ: “Thế cũng nhiều, anh nhỉ?”
    Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí.
Ðoạn thơ trên bị nhiều người giễu cợt. Tuy nhiên không nên vì giễu cợt mà quên đi hậu ý của Tố Hữu, vị trưởng Ban Tuyên huấn của đảng Cộng sản.

Ðại ý của bài thơ là: Trái tim Tố Hữu chia làm ba ngăn: ngăn lớn nhất dành cho đảng cộng sản, hai ngăn nhỏ còn lại chia đều cho thơ và cho người tình.

Thì cũng được. Thật ra, đó cũng là điều khá bình thường ở những người đang theo đuổi một lý tưởng lớn nào đó. Cái bất bình thường ở đây là: sự khác nhau giữa các ngăn không phải chỉ ở thể tích mà còn ở quan hệ.

Nói một cách tóm tắt, cái ngăn nhỏ trong trái tim ấy chỉ dành cho em với một điều kiện: em cũng phải là người trong đảng. Ðó là ý nghĩa của câu cuối: Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí. Câu thơ chín chữ, thừa bốn chữ: hai người đồng chí. Giả dụ trong thơ tình bình thường, người ta chỉ cần viết: Rồi hai đứa hôn nhau. Ðã quá đủ. Thêm “hai người đồng chí” không có ý nghĩa nào khác ngoài ý đồ làm mờ bớt màu sắc của nụ hôn, đặt ra những giới hạn cho nụ hôn.

Ðó là nụ hôn của tình đồng chí trước khi là của tình yêu trai gái.

Nói cách khác, “anh” chỉ hôn “em” nếu em là “đồng chí” của anh. Còn tình đồng chí ấy thì còn tình yêu. Mất tình đồng chí, tình yêu cũng mất. Nếu có sự mâu thuẫn giữa tình đồng chí và tình yêu, ưu tiên lựa chọn là tình đồng chí chứ không phải là tình yêu.

Xin lưu ý là, với tư cách lãnh đạo tư tưởng của đảng, quan điểm của Tố Hữu cũng đồng thời là quan điểm chính thống của đảng. Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những người cảm bút khác đều răm rắp đi theo ông.

Trong bài Núi đôi, Vũ Cao cũng có cái nhìn tương tự. Bài thơ, được sáng tác năm 1956, kể lại một mối tình trong chiến tranh chống Pháp với một kết thúc bi thảm: người con gái hy sinh. Người con trai còn sống, nghe tin, bàng hoàng, đau đớn cực độ:
    Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng núi
    Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Thế nhưng, nỗi đau riêng tư ấy nhanh chóng bị mờ đi trước những thắng lợi rực rỡ của cách mạng:
    Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
    Làng ta rồi sẽ đẹp bao nhiêu.
Chỉ còn, ở người con trai, một nỗi nhớ:
    Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí
    Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Quan trọng nhất là câu áp chót ở trên. “Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí”. Em không còn là em. Em chỉ là một người đồng chí. Chỉ là một trong muôn vàn những đồng chí. “Một tấm lòng trong vạn tầm lòng”. Nghe bất nhẫn? Nhưng đó là ý đồ của đảng cộng sản.

Trong bài “Không nói”, Nguyễn Ðình Thi cũng viết:
    Dừng chân trong mưa bay
    Liếp nhà ai ánh lửa
    Yên lặng đứng trước sau
    Em em nhìn đi đâu
    Em sao em không nói
    Mưa rơi ướt mái đầu
    Mỗi đứa một khăn gói
    Ngày nào lần gặp sau
    Ngập ngừng không dám hỏi
    Chuyến này chắc lại lâu
    Chiều mờ gió hút
    Nào đồng chí – bắt tay
    Em
    Bóng nhỏ
    Ðường lầy.
Bài thơ này được Nguyễn Ðình Thi sáng tác năm 1948. Sau này, trong Thơ, tác phẩm chọn lọc, xuất bản năm 1994, ông sửa lại, ngắn hơn:
    Dừng chân trong mưa bay
    Ướt đầm mái tóc
    Em em nhìn đi dâu
    Môi em đôi mắt
    Nhìn em nữa
    Phút giây
    Chiều mờ gió hút
    Em
    Bóng nhỏ
    Ðường lầy
Trong bản mới, chữ “đồng chí” biến mất.

Nhưng ảnh hưởng tai hạn của việc chính trị hoá tình cảm gia đình, trong đó có tình cảm nam nữ và tình cảm vợ chồng có thể dễ dàng biến mất?

Người ta không thể không nhớ đến những cảnh con cái tố bố mẹ hay vợ chồng tố cáo lẫn nhau ở miền Bắc, nhất là thời cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950.

Tôi nghĩ việc tìm hiểu các di hại của âm mưu chính trị hoá gia đình có thể là một đề tài cực hay cho giới nghiên cứu.

Bạn nghĩ sao?

Nguyễn Hưng Quốc, Australia 2-10-2009

Saturday, October 3, 2009

Xem phong cách và nghe giọng nói của người đại diện nước cộng hòa xuống hàng chó ngựa VN

    Bạn thử tắt âm thanh rồi đoán xem ông phó tưởng thú Phạm Gia Khiêm nói gì?

Tưởng thú của nước cộng hòa xuống hàng chó ngựa đươc người ngoại quốc chào đón


Dân ngoại quốc chào đón Tưởng thú của nước cộng hòa xuống hàng chó ngựa
Nguyễn Tấn Dũng



Friday, October 2, 2009

Đặt ưu tiên chống Việt cộng hay Trung cộng ? - Nguyễn Kim Đễ

Nguyễn Kim Đễ

1. NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH:

Trong suốt 34 năm qua, chưa bao giờ tình-hình chính-trị tại Quốc nội và Hải Ngoại lại trở nên sôi-động như vào thời-điểm này.

Tinh-thần chồng cộng của người Việt trong nước và Hải ngoại đang bừng bừng khí thế, phải chăng đến lúc hồn thiêng sông núi đã thức tỉnh, hướng-dẫn tất cả những người Việt yêu nước cùng muốn nhận dạng kẻ thù.

Có nhiều người mong muốn thấy chế độ cộng-sản tại VN bị giải-thể trước. Nhưng lòng yêu nước của nhiều người khác đã đã coi nạn ngoại-xâm từ phương Bắc là mối lo ngại chính cần phải lo trước, có lẽ bầu nhiệt huyết đã bị sôi sục khi thấy những hành động quá “lép vế, khôn nhà dại chợ” của nhà nước XHCN-VN trước những ngang-ngược của TQ.

Về đối-nội thì trong suốt 34 năm qua, nhà nước XHCN-VN (Xã-Hội Chủ-Nghĩa) quả tình là đã biệt đãi giai cấp cán bộ khiến tệ nạn tham nhũng nặng đến độ hết phương cứu chữa, nhưng dường như nhà cầm quyền muốn áp dụng chính sách bần cùng hoá nhân dân để dễ bề cai trị, đồng thời tạo nên một giai cấp thống trị là có chủ đích để bảo vệ chế độ.

Vài tháng gần đây, nhà nước đã dùng nhiều thủ đoạn mới để đàn áp những cuộc biểu tình của đồng bào công giáo trong nước từ Bắc tới Nam, họ bắt giam nhiều nhà tranh đấu cho Tự do, dân chủ, và tất cả những kẻ truyền thông, báo chí nào dám kể tội hèn nhát của nhà nước trước những lấn áp của TQ trên các địa hạt về chính trị, kinh tế và lãnh thổ ...

Về đối ngoại thì nhà nuớc đã bịt tai, bất chấp mọi sự chống đối của toàn dân. Họ chấp thuận cho TQ khai thác tài nguyên quốc gia, hủy hoại môi trường….

Dù là có ngu dốt (cán ngố) tới đâu, nhưng chắc chắn rằng nhà nước cũng đã nhìn thấy trước mắt cái hiểm họa ngoại xâm, tuy nhiên họ vẫn không dám lên tiếng. Họ biết rằng nếu chỉ thở mạnh, chưa cần lên tiếng cũng có thể bị TQ lấy cớ để phát động ngay một cuộc chiến-tranh xâm lăng. Bởi vậy họ đang nằm trong trong tình trạ ng “ Nín thở để qua sông “ …

Có lẽ họ cũng đã đọc biết ước-tính của một chuyên gia quân sư tại Hoa lục được phổ biến hồi đầu năm 2009 trên mạng Chino (bán chính thức của TC) cho rằng nếu có chiến-tranh thì QĐND (Quân Đội Nhân Dân) của VN-XHCN sẽ bị TÊ-LIỆT sau 1 tuần lễ đầu !!!

Những ý kiến dưới đây được trình-bầy với mục-đích đóng góp vào những sự kiện mà nhiều người đã biết để chúng ta có thể nhận diện (ID) đúng kẻ thù.

2. VẾT HẰN KHÓ QUÊN:

Cộng-sản VN đã làm quá nhiều lỗi lầm đối với dân tộc Việt, họ đã gây nên một mối thù khó quên mà dưới đây chỉ là một bản liệt-kê dưới hình thức của một điện thư:

- Tại miền Bắc thì ngoài những màn đấu tố rất ác độc trong kế hoạch cải cách ruộng đất, đề cao vô sản trong giai cấp đấu tranh.

- Họ đơn phương xoá bỏ hiệp định Geneve xua quân xâm-chiếm miền Nam, gây chiến tranh tang tóc cho cả hai miền. Cuộc chiến đã kéo dài trên 25 năm khiến cả một thế hệ chúng ta đã không có tuổi trẻ.

- Tạo nên những tàn sát dã man trong 2 cuộc tổng công kích Mậu Thân 1 và 2 (đặc biệt tại Huế),

- Tạo ra những thảm trạng trong cuộc triệt thoái cao nguyên và miền Trung

- Những tang thương của hàng triệu người vuợt biên, vượt biển trên đường tìm tự do,

- 25 năm chiến tranh, 25 năm tuổi trẻ của thế hệ chúng ta đã mất. Tới lúc về già hiện đang phải mang kiếp lưu vong giữa hoàn-cảnh đổi đời, thứ tự xã hội bị đảo ngược … ông trở nên thằng ... và ngược lại.

* Theo thiển nghĩ thì LỖI LẦM LỚN NHẤT của nhà nước XHCN là đã TRẢ THÙ bằng cách:

- Đầy đọa tất cả những người Việt QG vào tù đầy bằng cách lừa dối họ với chiêu bài học tập cải tạo.

- Phá huỷ tất cả những di tích, mồ mả tại các nghĩa trang QĐ.

- Những TPB và những vợ con người Việt QG đến giờ phút này vẫn chưa được phục hồi nhân-quyền (vẫn còn bị kỳ-thị trong mọi sinh-hoạt hàng ngày kể cả học vấn …).

- Nếu bạn là những nhà Trí thức, những Quân Cán Chính đã từng bị lùa vào trại tù cải tạo thì mới hiểu được lòng uất hận của họ đối với cái gọi là XHCN mà người Hải Ngoại gọi là Việt cộng !

- Ta không nên lầm-lẫn nỗi uất-hận này là mối thù cá-nhân mà là niềm đau-đớn và nhục-nhã chung của dân-tộc Việt. Bởi vì đọc sử thế-giới, không thể thấy một dân-tộc hoặc quân-đội nào trên thế giới lại có thể đối xử với kẻ thất-trận đồng chủng một cách tàn-độc như vậy !

- Bởi vậy mặc dầu nhà nước XHCN dù có phổ-biến hàng trăm hoặc hàng ngàn chiêu-bài Hoà-hợp, Hoà-giải cũng không thể nào làm giảm bớt được lòng uất-hận của những người Việt QG chân-chính.

- Biết vậy nên họ đã phải chi hàng tỉ Dollars vào kế-hoạch mang tên là Nghị-Quyết số 36 (NQ-36), gửi hàng ngàn cán-bộ VGCS ra hải-ngoại, trà-trộn vào để phá-hoại sự đoàn-kết cuả người Việt Hải-Ngoại.

3. KẺ THÙ TRUYỀN THỐNG (Truyền-kiếp):

Những ai có dịp nhìn vào tiến-trình lập-quốc của Trung-Hoa thì mới thấy rằng nước Tầu có lãnh-thổ rộng lớn như hiện tại là do tổ-tiên của họ đã ăn cướp đất (xâm-lăng) của các nước láng giềng.

Theo sử sách, ta cũng biết rằng họ đã xua quân Nam tiến vài lần và nước ta cũng đã từng bị đô-hộ cả ngàn năm. Nhưng may thay, cuối cùng thì lãnh-thổ của Viêt-Nam vẫn được bảo-toàn (nguyên-vẹn) cho tới năm 1954 (ghi-chú: sau 1954 đã bắt đầu có vài sự nhượng đất cho Tầu, điển-hình là văn-kiện ấn-định nhường ranh-giới ranh giới về lãnh-hải tại vùng Vịnh Bắc-Việt do Phạm-văn-Đồng ký vào năm 1958).

Đọc sử Việt thì chúng ta đều biết rằng qua nhiều triều-đại, nước ta đã có không biết bao nhiêu vị anh-hùng, hào-kiệt đánh đuổi quân Tầu để bảo-toàn bờ cõi ...

Có một điều mà rất ít sử-gia viết lên và cũng ít người nghĩ tới, đó là tài ngoại-giao mềm mỏng của tiền-nhân chúng ta. Nhiều câu chuyện triều-cống (như Trạng Trình đi sứ ..) khiến ta phải hiểu rằng sau mỗi lần đánh đuổi quân Tầu, tổ tiên chúng ta cũng đã phải sai sứ sang Tầu xin lỗi để tỏ lòng thần-phục, triều cống ... như các tiểu-quốc khác để được yên thân

- Xin mời mọi người Click vào đây để coi tiến-trình bành-trướng lãnh-thổ của Trung-quốc qua nhiều triều đại.

( Click: http://en.wikipedia.org/wiki/File:Te...s_in_China.gif )

- Lãnh-thổ của TQ có được như hiện tại cũng là vì sau cuộc nội-chiến thất-bại, phe Trung-Hoa QG của Tưởng-Giới-Thạch phải bỏ Hoa-lục để chạy sang đảo Đài-Loan cố-thủ. Trung-Cộng tuyên-bố độc lập (chính-thức lập-quốc) và bắt đầu tổ-chức diễn-binh hàng năm vào ngày 1 tháng 10.

Họ ra quyết định mỗi 5 năm làm lễ nhỏ, 10 năm làm lễ lớn. Năm nay là năm kỷ niệm 60 lập quốc và nhằm dúng vào năm sẽ làm lễ lớn (1-10-2009).

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng TQ đã trưng bày những chiến-hạm, tiềm-thủy-đĩnh tối-tân của họ trong dịp biểu-dương lực lượng HQ trên biển vài tháng trước đây.

Vào tuần sau cả thế-giới có dịp thấy những vũ-khí mà TQ sẽ phơi-bày. Có lẽ lần này cả thế-giới sẽ chú-tâm quan-sát các hỏa-tiễn liên lục-địa, hỏa-tiễn phòng không, chiến-xa, phi cơ mới ...

Xin mời Click vào đây để coi tổng cộng 37 tấm hính chụp cuộc chuẩn bị biểu diễn cho ngày 1-10-2009 được đăng trên Boston Globe USA trong tuần qua [ Click ==> (37 photos total).]

4. VIỄN ẢNH NGOẠI XÂM:

4.1 Viễn-ảnh gần nhất:

Có lẽ nhiều người đã theo-dõi những lời tuyên bố của các vị nguyên-thủ quốc-gia tại cuộc họp G-20 tại Pittsburg, PA. USA trong tuần qua đều cảm-nhận rằng mặc dầu thế-giới hiện nay được tạm yên-ổn dưới mái nhà dột-nát của Hội-Đồng Bảo-An LHQ.

Nhưng có rất nhiều chỉ-dấu khiến ta hiểu rằng những nước giầu mạnh vì nhu-cầu riêng vẫn có thể kiếm bất cứ lý-do nào để tấn-công nước khác vào bất cứ lúc nào thuận-tiện. Hoặc những anh TT quá kích (khùng) lãnh-đạo QG cũng có thể gây nên thảm-họa thế-chiến ...

Trong phạm-vi thảo-luận nhỏ hẹp này chúng ta chỉ nên đề-cập tới viễn-ảnh tổ-quốc VN có thể bị TQ xâm chiếm bằng VÕ-LỰC (luật rừng) hay không?

- Theo tin trên báo Bắc-Kinh ngày 24-9-2009 thì Trung-Cộng và Việt-Cộng có cuộc họp an-ninh quốc-phòng ( ? ) giữa Phó TTMT-TQ tướng Mã-Hiểu-Thiên và Phó TTMT-QĐND-VN.

Hiện-diện trong buổi họp này người ta thấy có mặt Bộ-Trưởng Tình-Báo TTM-TQ Dương-Huy, Phó TMT Hải-Quân TQ Tiêu-Tân-Niên và Đại-Sứ VN tại Bắc-Kinh Trần-Văn-Thi.

- Mặc dầu VN đang cố gắng tránh phật lòng Trung-Quốc nhưng theo GS Stephan Young trả lời trong cuộc họp báo tại Orange County vào tháng 7-2009 rằng VN đang đối-diện với nguy-cơ xâm-lăng từ Bắc triều.

Tưởng cũng nên biết rằng GS Young từng là khoa trưởng của Hamline University School of Law, và phó khoa-trưởng của Harvard Law School . Trước kia, ông từng làm việc trong Ủy Ban Quan-Hệ Ngoại-Giao và là cố-vấn cho Bộ-Ngoại-Giao Hoa-Kỳ.

(Click để đọc thêm: http://www.skyscrapercity.com/archiv.../t-920162.html )

- Xét về những điều-kiện Điạ-lý, Nhân-văn và Tương-quan lực-lượng quân-sự ... thì ai cũng có thể cảm-nhận rằng anh khổng-lồ Trung-Cộng ĐANG TRÔNG-CHỜ có một lý do nào đó để TIÊU DIỆT toàn thể quân đội của VN-XHCN trong vòng 1 tháng !

- Gần đây TQ đã hoàn-tất nhiều đập thủy-điện vĩ-đại trên thượng-nguồn các sông Hoàng-Hà và Dương Tử. Những con đập này là những vũ-khí tiềm-ẩn có khả-năng huỷ-diệt dân-cư cả vùng DNA dưới hạ-nguồn một cách dễ dàng bằng cách điều-khiển (control) lưu-lượng nước của các sông này (Ít nước thì chết đói, nhiều nước quá thì chết đuối ... )

- Đó là chưa kể tới nguy-hại sẽ mang đến từ thượng-nguồn sông Mekông. Những nguy-hại này đã được BS Ngô-thế-Vinh MD (một cụu CVA) đã viết bài khảo-luận tại đây:

(Click: http://www.talawas.org/talaDB/showFi...s=5438&rb=0502 )

- Trong kế-hoạch hữu-hiệu hoá QĐ, hiện nay TQ đã xử-dụng người lính làm giả-dạng các nhà sư để đánh phá Phật-giáo tại Tibet (Tây-Tạng). Riêng tại VN họ đã ém quân cỡ hàng Trung-đoàn dưới hình thức là các công-nhân tại các mỏ Bauxite ở Trung-Nguyên, khu-biến chế quặng mỏ tại Tuy-Hoà, mỏ Đồng và Bạc tại Nông-Sơn, Ninh Bình, ngoài ra được biết trong nước ta còn có vài làng Trung-Quốc tự-trị thiết-lập ngay trên lãnh-thổ Việt tại Móng-Cái và Kiến-An (cảng Hải-phòng) ....

4.2 Viễn ảnh trong tương-lai:

- Trong kế hoạch xoá-đói giảm nghèo, nhà nước XHCN có kế-hoạch xuất cảng công-nhân và phụ nữ ra nước ngoài nhưng họ lại chấp-nhận cho nhập-khẩu những nhân-công từ Trung-Quốc gửi tới VN. Những người này được nhà nuớc cho đặc-quyền, đặc- miễn như những nhà ngoại-giao.

Những công-nhân này (đa số là dân tha-phương cầu-thực) đã không phải qua các thủ-tục nhập-khẩu (không cần Passport, Visa ... như Việt kiều Hải-Ngoại !!!).

Chính vì vậy mà hiện thời nhà nước chỉ biết có bao nhiêu VIỆT KIỀU Hải Ngoại đang tạm trú (sic) nhưng KHÔNG thể biết được con số Hoa-kiều nhập-cư tại Việt Nam là bao nhiêu !

- Chúng ta nên nhớ lại thời cực-thịnh của VNCH, với một số gian-thương trong Chợ-Lớn mà cũng đã có thời khuynh-đảo nền kinh-tế toàn-quốc. Trong hoàn-cảnh hiện tại thì không ai có thể ước-tính được rằng những gì họ có thể làm trong tương-lai ... !

- Cộng-sản VN thâm-hiểm, nhưng cái thâm-hiểm đó cũng chỉ mới đáng là học trò của TQ trong kế-hoạch CẤY-GIỐNG và TRỒNG-NGƯỜI. Hẳn chúng ta còn nhớ bên Tầu vốn có nạn „Trọng Nam, khinh Nữ. Vào triều-đại Mao-trạch-Đông còn có chính-sách Sinh Nam, diệt Nữ (để có thêm lính !!!), hậu-quả bây giờ là bên Tầu đang rất thiếu đàn bà !

Với quốc-sách "Xóa đói, giảm nghèo", trong khi nhà nuớc XHCN đang phải xuất cảng những cô gái Việt, rao-bán tại ngoại-quốc (Đại-Hàn, Sigapore, Đài-Loan ...), thì người đàn anh TC đã viện-trợ cho người em VC bằng cách xuất-cảng những anh lao-công vào VN với một công đôi việc mà mục đích lâu dài là để ... cấy GIỐNG !!!

- Hiểm-họa bị mất nước bằng đường lối này quả thật là nguy-hiểm !

5. THAY CHO PHẦN KẾT-LUẬN:

5.1. Đã có người đề-nghị cộng-đồng người Việt Hải-ngoại nên đóng góp để gửi về giúp nước nhà mở mang, cải-thiện đời sống cho dân chúng, tương-tự như mô-hình của Do-Thái ...

- Tiếc rằng đây là một phương-thức vói danh-từ thật đẹp nhưng nếu ngẫm cho kỹ thì không thực-tế vì tình-hình kinh-tế và chính-trị của hai dân-tộc này hoàn-toàn KHÁC nhau; đó là chưa kể tới đặc-tính về sự đoàn-kết của hai giống dân này cũng KHÔNG giống nhau !!!

- Hơn nữa thực ra VN không thiếu ngoại-tệ để kiến-thiết và mua vũ khí để tự-vệ. Tưởng cũng nên biết thêm rằng tổng-số tiền của người Việt Hải-Ngoại hàng năm gửi về nội-điạ giúp thân nhân đã lên tới con số 1.5 Tỉ (Billion) USD, số ngoại-tệ này lớn gấp hai lần tổng-số viện-trợ của HK cho chiến tranh VN trước 1975.

- Tiếc rằng tuy có nguồn ngoại-tệ lớn đó, nhưng suốt 34 năm qua thay vì họ đem dùng vào việc kiến-thiết QG thì đã chia chác, lọt vào lỗ thủng trong đáy túi của giai-cấp cán-bộ tham-nhũng.

5.2. Trở lại câu hỏi của đề-tài tham-luận là:

- Người Việt yêu nước nên đòi hỏi giải-thể chế độ cộng-sản VN trước hay lo chống nạn ngoại-xâm của Trung-Cộng trước ?

- Câu hỏi này có thể ví như hỏi một cách khác:

(Nên đặt con Trâu trước cái cầy hay cái cầy trước con Trâu ?)

5.3. Chỉ cần một chút suy-nghĩ, ta cũng có thể trả lời ngay rằng:

- Chỉ khi nào chế-độ Mafia cộng-sản VN được thay thế bằng một CHÍNH-PHỦ HỢP-PHÁP DÂN-CỬ thì khi đó mới được tôn-trọng và bảo vệ bởi cộng-đồng Quốc-tế và chỉ lúc đó mới hy-vọng thoát khỏi sự uy-hiếp của đảng Mafia cộng-sản Trung-Quốc.

* Tóm lại thì ĐỀ-NGHỊ ưu-tiên chống cộng là phải đòi giải-thể chế-độ cộng-sản tại Việt-Nam.

5.4. Theo tin chính thức thì nhà nước sẽ tổ-chức Hội-nghị đại-biểu Việt-Kiều toàn thế-giới lần thứ nhất tại Hanoi vào tháng 11-2009

Để chuẩn-bị cho cuộc hội-nghị này, nhà nước đã chỉ-thị cho toà Tổng Lãnh-sự tại San Francisco của VC sẽ tổ chức một cuộc họp sơ-khởi tại toà hành-chánh thành-phố San Francisco vào ngày 15 và 16 tháng 11-2009.

(Tin dẫn-chiếu Click: http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=6733)

4.4 Tất cả hai cuộc hội-nghị này (tại SF và HN) để ngụy-trang những chiêu-bài Hoà-hợp, Hoà-giải dưới một hình-thúc khác. Đó là những viên thuốc độc bọc đường, đó chỉ là những liều thuốc dán, không thể chữa căn bệnh ung-thư.

Nếu nhà nước thật lòng mong muốn Hoà-Hợp và Hoà giải thì nên chứng tỏ thiện chí trước bằng các hành-động sơ-khởi sau đây:

a. Trước dư-luận quốc-tế, Chủ-tịch nhà nước hoặc Thủ-tướng XHCN phải chính thức xin lỗi tất cả toàn dân Việt về những lỗi lầm trong quá khứ đã được nêu trong đoạn số 2 kể trên.

Các nước văn-minh trên thế giới đã làm được, nhà nước VN có can-đảm và theo được hay không:

- Chính phủ Đức đã nhiều lần xin lỗi dân Do-Thái về vụ Hollocaust,

- Vài vị Tổng-thống Hoa-Kỳ đã chính-thức xin lỗi về chế độ bắt người da đen làm nô-lệ vào thời nội-chiến tại Hoa-Kỳ …

b. Đền bù cho tất cả các TPB của cả hai QĐ bằng cách cho hưởng quyền lợi như nhau.

c.- Bãi bỏ những kỳ thị trong sinh hoạt thường nhật đối với tất cả những gia đình đã bị mang danh là NGỤY kể từ 34 năm qua (cho họ hưởng quyền lợi sinh hoạt đồng đều, buôn bán, học-vấn …)

4.5. Trên dây chỉ là những nhận xét của một cá nhân, tất nhiên còn nhiều thiếu sót. Hy vọng rằng quý vị và các bạn sẽ bàn luận và đóng góp thêm những kiến thức, tài liệu và kinh-nghiệm để những người Việt còn giữ lý tưởng có thể hiểu nhau hơn và cùng nhìn về một hướng.

Trâu-Già Mũ Xanh
Nguyễn Kim Đễ

Đài Việt Nam Hải ngoại “chiêu hồi” VC ? - Trần Xuân Ninh

Trần Xuân Ninh

Lá thư của ông Lê Hồng Phúc, tức Lê Hồng Long đưa lý do từ chức Giám đốc Chương trình của đài phát thanh Việt Nam Hải ngoại, đã tạo nên nhiều bàn tán trong cộng đồng hải ngoại. Giám đốc chương trình có thể kể như nhân vật quan trọng số 3 trong đài, vì trách nhiệm nội dung, sau chủ đài là ông Ngô ngọc Hùng và giám đốc điều hành và tài chánh là người trách nhiệm điều hành và tiền bạc. Nội dung, nói chung, là tùy thuộc vào chủ đài, chứ không tùy ở người phụ trách mà công việc chủ yếu là mang cái khả năng của mình ra để mà chuyển nội dung của chủ đài đi. Nguyên tắc thì là như thế, nhưng trong trường hợp đài VNHN thì nội dung này là do sự đồng thuận giữa hai bên người chủ đài, và người giám đốc chương trình, bởi vì cứ theo như số thù lao ông LHP tiết lộ đã nhận được thì nó là con số tối thiểu. Nói khác đi thì người làm việc này chủ yếu không vì tiền bạc. Hợp tác với nhau vì một cái chung là nói lên tiếng nói chống độc tài Cộng sản. Nhìn rõ sự việc như thế, thì sự ra đi của ông LHP không có lý do nào quan trọng hơn là lý do nội dung, mà chủ đài Ngô ngọc Hùng và giám đốc chương trình Lê Hồng Phúc không đồng ý được.

Những lý do đã được nêu ra trong bức thư giải thích của ông Lê Hồng Phúc với các chi tiết rõ ràng. Là: ban giám đốc đã móc nối liên hệ với toà đại sứ Hà nội tại Washington, DC, đ ã giao tiếp với cán bộ Cộng sản vân vân, mà ông LHP tóm tắt nói rằng là đài đã phản bội niềm tin của đồng bào hải ngoại. “Niềm tin” nói ở đây là cái ấn tượng rằng đài VNHN có lập trường chống Cộng. Thính giả nghe đài cho biết rằng sau một số các vòng vo cải chính, ban giám đốc VNHN đã phải nhận rằng những điều ông LHP nêu lên là , và đưa ra lý do bào chữa rằng là để “chiêu hồi” các cán bộ CS. Ngoài ra ban giám đốc còn thêm rằng vì sự tố cáo của ông LHP mà việc chiêu hồi này đã gặp khó khăn, và làm trở ngại cho công cuộc đấu tranh, nhưng ban giám đốc đài VNHN sẽ tiếp tục con đường này.

Trên lý thuyết, chiêu hồi kẻ lạc nẻo về đường chính thì thật là đúng lắm, không ai cãi được. Việt Cộng sai trái đi theo con đường Cộng sản phản quốc hại dân ai cũng thấy rồi, không phải là chỉ trong quá khứ, mà ngay cả bây giờ, qua việc dâng đất phiá bắc, nhượng biển phía đông, và bán Tây nguyên cho Tầu khai mỏ bauxite, không kể những sang nhượng kinh doanh nhiều nơi khác khắp nước cho các loại tài phiệt với những điểu kiện dễ dàng để lấy tiền hoa hồng bỏ túi. Cho nên kêu gọi những kẻ này về với chính nghĩa thật không có gì đúng hơn, nhất là đối với những người thường lớn tiếng “chính nghĩa tất thắng”. Tuy nhiên chỉ suy nghĩ một tí thôi thì ai cũng thấy rằng chính nghĩa không đủ sức lôi kéo, vì ở đời người ta có thể thấy cái phải cái hay, nhưng chưa chắc đã theo, bởi vì theo nhiều khi không thấy cái lợi mà chỉ thấy cái hại. Vì thế cho nên câu hỏi đơn giản đầu tiên là cứ giả sử như đài VNHN có điều kiện phân giải phải trái với các cán bộ VC, nhưng rút cuộc thì những người này sẽ phải cân nhắc là theo VNHN thì được gì, mất gì?

Những viên chức toà đại sứ nói chung đều là những người được đãi ngộ đặc biệt, thuộc quy chế ngoại giao, so với rất nhiều cán binh khác. Đài Việt Nam hải ngoại có gì để lôi kéo họ? Tiền thì VNHN không có bao nhiêu, phải kêu gọi đồng hương đóng góp từng đồng, mà chi thu thì theo ông LHP cũng không minh bạch. Tiếng tăm thì không bao nả, cán bộ VC bỏ quy chế đãi ngộ ngoại giao đi theo VNHN để lấy cái gì? Chẳng lẽ họ đi theo để lấy tiếng chống Cộng, hay để lấy tiến trợ cấp bằng số tiền của ông Lê Hồng Phúc là giám đốc chương trình? Ngoài ra khi VNHN giải thích công khai là đang thi hành công tác chiêu hồi thì hỏi liệu có mấy cán bộ CS đến với VNHN nữa, trừ những kẻ khùng? Còn những cán bộ gọi là đã được VNHN móc nối chưa biết chừng đang bị làm khó dễ. Nói khác đi, nếu mà thực sự có làm công vi êc chiêu hồi thì VNHN đã tự phá huỷ cái chủ trương này của mình khi giải thích ra như vậy.

Tóm tắt thì lời giải thích của VNHN khi việc tiếp xúc với cán bộ VC bị lộ không giúp gì cho VNHN hết. Vì không những nghe không lọt tai mà vì nó dở quá cho nên lại làm gia tăng mối nghi ngờ là có gian ý, giải thích ch ỉ để khoả lấp. Xem ra thì không khác gì chủ trương “tiếp cận để thay đổi” của mấy tay chính trị thời cơ và “đầu tư để giúp dân khỏi khổ” của mấy thương nhân theo voi ăn bã mía.

Trần Xuân Ninh

Thursday, October 1, 2009

Sách giáo khoa: Nước VN từ Ải Nam Quan (1885) hay từ Hầm Xe Lửa Trung Cộng (2009) đến Mũi Cà Mau? -

Sông Hồng

Nước Việt Nam ta kéo dài từ Hầm Xe Lửa Trung Cộng đến Mũi Cà Mau là câu viết sẽ được ghi vào sách giáo khoa cho các em học sinh Việt Nam học thuộc lòng trong những ngày sắp đến.

Khi xem lại các bức ảnh của Xinhua chụp và gửi đi trên mạng và do Anh Trương Nhân chuyển đến mà sau này tôi biết phát xuất trên một trang lưới Việt ngữ, tôi cảm thấy như kim châm vào da thịt, như lòng quặn thắt mà cứ suy nghĩ về cái buổi lễ Dâng Đất ngày 23/02/2009 này.

Trong tác phẩm Sur Les Frontiers du Ton Kin 1885-1887 của Bác sĩ Paul Marie Neis khi mô tả lại cửa Ải Nam Quan mà phái đoàn Ngoại Giao Pháp đã chụp được thì Ải Nam Quan nằm trên đường biên giới phía Bắc của nước ta tiếp giáp với nước Trung Hoa, Ải Nam Quan do người Tàu xây dựng, nhưng bức tường thành là đường biên giới lịch sử từ hai ngàn năm xưa mà tổ tiên ta đã bảo vệ chống xâm lăng. Cuộc chiến đấu dũng cảm và kiên quyết vì tổ quốc suốt hai ngàn năm khiến giặc Tàu run sợ mà phải xây tường lũy đển ngăn chận.

Ải Nam Quan trông giống một cái hang người xe chui qua được, theo hình mái vòm cung mà chúng ta thường thấy người Tàu làm cửa xây gạch thẻ màu đỏ cho các khu nhà ở của họ. Khung cảnh chung quanh Ải Nam Quan thật hùng vĩ đến kinh ngạc, con đường nguy hiểm chạy giữa khe núi trông giống vị trí hiểm trở chiến lược mà bất cứ đạo quân nào cũng rất cẩn trọng. Cách phía trước Ải Nam Quan trong phần đất Việt nam chừng 150 mét có một khe suối nơi mà tương truyền Nguyễn Trãi nhận lời dạy cuối cùng của cha Ông là Nguyễn Phi Khanh: “Con theo ta khóc lóc có ích gì, sao không về trả thù cho ta, rửa hận cho nước”. Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt Nguyễn Trãi vì biết rằng trong khoảnh khắc cuối cùng của đời mình, khoảng cách ngắn ngủi còn lại biết đâu địch có thể sẽ bắt luôn Nguyễn Trãi sang Tàu. Giòng suối đó, nơi chia tay vĩnh biệt đó của ba cha con Nguyễn Phi Khanh (vì anh của Nguyễn Trãi đi theo săn sóc cha) đã trở thành đường biên giới mới sau khi Pháp và Trung Hoa ký kết hiệp ước phân giới tại Ải Nam Quan.

Ngày 23 tháng 2 Năm 2009, một buổi Lễ Dâng Đất được tổ chức tại khu đất trũng trước là ruộng lúa phía Nam của đường hầm xe lửa được người Pháp xây dựng trước đây. Đường hầm xe lửa hướng Bắc Tây Bắc – Nam Tây Nam xuyên qua chân của một ngọn đồi hình tam giác có cao độ khoảng 340m, cách Thị trấn Đồng Đăng khoảng 1800 m xuyên qua hai xã Na Hac và Na Hang. Hai cột mốc biên giới 1116 (VN) và 1117(?) Trung Cộng nằm bên phải Quốc Lộ 1 (chạy từ Hà Nội lên biên giới). Giờ đây các vị trí trọng điểm chiến thuật, chiến lược đất nước ta trên trục Quốc lộ 1 sát với Hữu Nghị Quan đã hoàn toàn lọt vào tay Trung Cộng!

Từ cột cây số Km0 nay là cột biên giới 1116 người ta nhìn thấy rất rõ hai cửa hầm xe lữa trông thật quái dị nằm trong đất Trung Cộng, tương tự như một bức ảnh của Bác sĩ Paul Neis về cửa Ải Nam Quan giống một cái cửa hang vào đất Trung Hoa xưa. Xem ảnh:


Giờ đây đất nước ta không còn kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau nữa mà phải nói là đất nước Việt Nam ta kéo dài từ Hầm Xe Lữa Trung Cộng kéo dài đến Mũi Cà Mau. Rất tiếc câu nói ấy mĩa mai nhưng là sự thật.

Dân tộc Việt Nam từ nay được coi là một bộ tộc Kinh của dân tộc Trung Hoa vì trong Lễ Dâng Đất 23/02/2009 có hai thiếu nữ mặc áo vàng có thể tượng trưng cho phụ nữ Việt chăng? Hình ảnh ấy gợi lên ý nghĩ chua chát về thân phận của người Việt hiện nay.

Khi gặp những điều khó khăn, người ta tự hỏi “nhưng chúng ta sẽ còn làm gì được?”

Người cộng sản Việt Nam nói nôm na là Việt Cộng (VC) họ đã làm gì và suy nghĩ như thế nào trước hiện tình đất nước hiện nay? Nhục nhã thì quá nhục nhã rồi, nhưng thôi cứ im lặng nhận chỉ thị Đảng để sống qua ngày, Đảng còn thì còn tất cả cho dù nước có mất, nhà có tan, cho dù ngày mai này khi Trung Cộng có chiếm trọn Việt nam, thì họ cũng chẳng phải lo. Những cán binh bộ đội VC không có một chút danh dự để tự mổ bụng, phơi gan mình khi tổ quốc rơi vào tay giặc, thà tự sát chết đi để khỏi phải nhìn thấy cảnh đất mất, nhà tan, rồi thận phận sẽ như nô lệ không còn nơi trú ẩn, bị mọi người khinh miệt. Nhưng đất nước mất, nhà không còn, thì gia sản sự nghiệp cũng không còn nữa, và vợ con họ cũng sẽ bị giặc Tàu đồng hóa. Các sĩ quan cán bộ, các binh lính chiến sĩ khắp nơi hãy mau thức tỉnh quay về với chính nghĩa dân tộc, đừng làm nô lệ, tay sai cho giặc thù truyền kiếp.

Các cấp lãnh đạo VC phè phởn vui chơi, coi thường sinh mạng người dân, cướp đất đai sản nghiệp bao nhiêu năm xây dựng bằng mồ hôi nước mắt người dân xây dựng. VC còn cướp đoạt Nhà Thờ, Chùa Miểu của đồng bào không cho thờ phượng thì Tôn giáo làm sao có thể sống chung với VC được. Chẳng những thế VC còn giả dạng côn đồ, hàng hung, đánh đập dã man người dân hiền lành vô tội và các tu sĩ linh mục thì quả thật VC là loài cầm thú không có lương tri. Đảng cộng sản đã lãnh đạo, dạy cho VC những phương thức ác ôn chống người dân hiền hoà vô tội thì e rằng Đảng mang sắc thái của loài thú rừng hoặc giả nhận theo chỉ thị của các cố vấn Trung Cộng ăn sâu trong gốc rễ đảng chăng? Khi người dân đi đòi công lý mà các cấp VC lại trù dập, ra tay ác ôn đàn áp thì VC không còn có thể sống chung với đồng bào lưƠng thiện được rồi và rồi đây khi ngày tàn của VC sẽ đến thì những tên ác ôn này sẽ trốn chạy đi đâu mà sống những ngày còn lại của chúng? Những ai còn mê hoặc chạy theo VC hãy lập tức thức tỉnh quay về với cội nguồn dân tộc ngay lúc này vì đồng bào đã nhận ra bộ mặt của chúng là ai rồi.

Các đảng viên VC hãy mau chóng thức tỉnh, hãy sớm từ bỏ Đảng và quay về với người dân chân chính, thấp cổ bé miệng lại còn bị đàn áp đánh đập dã man. Một khi đất nước không còn VC nữa, lý lịch và hoạt động đảng viên của các anh chị vẫn còn thì chừng ấy làm sao anh chị có thể sống chung với chính đồng bào mình được.

Thanh niên sinh viên học sinh tuổi trẻ còn ham vui trác táng say vùi trong những cuộc liên hoan nhạc tình lãng mạn nên ý thức về đất nước trước hiểm hoạ giặc dữ đã đứng trước cửa ngỏ nhà. Phải dốc sức chăm lo học, phải biết theo đuổi các mục tiêu đấu tranh cho quyền công dân, phải biết lên tiếng đòi hỏi công lý cho đồng bào bị bách hại cho dù có phải bị VC bắt bỏ tù, đánh đập, hành hạ, bỏ đói, vu khống mạ lỵ, nhưng VC làm sao có đủ nhà tù, làm sao có thể tồn tại khi triệu người như một đứng lên đòi quyền làm con người? Tám mươi triệu người dân trong nước cần phải bất hợp tác, không tuân hành mệnh lệnh, không nghe theo tuyên truyền của VC, không đọc báo VC, không tiêu xài tiền du hí làm lợi cho VC. Các bạn hãy đứng thẳng lên làm người, các bạn đừng bao giờ làm một kẻ nô lệ cho chứ vị mà VC ban bố cho các bạn. Nếu các bạn có bằng cấp hãy sử dụng bằng cấp ấy cho các việc làm công chính.

Các nhà văn nhà báo trong nước hãy sống vững vàng, hãy viết đúng và cho sự thật, đừng trở thành công cụ của VC, vì khi VC không còn tồn tại nữa, ngòi bút của các anh chị giống như một que củi vô ích bị đời đời nguyền rũa. Và như thế làm sao các anh chị có thể sống với người dân mà trước kia anh chị đã viết bằng những lời gian trá.

Các công nhân nhà máy hãy ý thức việc làm, tuy vì miếng cơm manh áo, nhưng khi thấy việc bất bình xin hãy sẳn sàng giúp đỡ người cô thế. Xin các anh chị hãy sống đoàn kết che chỡ, đùm bọc lẫn nhau, đề phòng bọn chủ nhân đàn áp khi các bạn riêng lẽ. Cũng chẳng vì vậy mà sợ hãi, nhưng hãy sống thật đoàn kết tránh bị VC và chủ nhân cấu kết đàn áp, bóc lột. Ngày nay hiểm họa bô xít thật kinh hoàng, các anh chị hãy luôn luôn thức tỉnh nhận ra đâu là các nhà máy nước ngoài, các công nhân nước ngoài, hãy luôn luôn thức tỉnh và cảnh giác trước hiểm họa đang ẩn tàng trong đời sốnh chung quanh các bạn.

Việc nước sống còn hôm nay cũng liên quan đến sự sống còn của con cháu mai sau. Người người Việt nam kể từ nay nên luôn cảnh giác chẳng những cả về sự tranh đấu hôm nay mà cả cho con cháu mai sau nữa.

Ngày mai đây, trong các sách giáo khoa Việt ngữ, con trẻ Việt Nam không còn nhìn thấy, nghe đọc “Nước Việt Nam kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” mà chỉ còn đọc rằng “Nước Việt Nam ta kéo dài từ Hầm Xe Lửa Trung Cộng đến Mũi Cà Mau” hoặc “Nước Việt Nam không còn rừng vàng biển bạc vì rừng vàng biển bạc bị chính nhưng tên VC bán đứng cho ngoại bang để hưởng sự sống còn của loài vong quốc.”

Sông Hồng

Tâm Thư của PTQDVN Xóa Bỏ Huyền Thoại HCM

Kính thưa toàn thể đồng bào Quốc nội và Quốc ngoại,

Trong tinh thần hun đúc của giòng giống Rồng Tiên, Phong Trào Quốc Dân Vitệ Nam Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh (Nô Hồ) đã được thành lập ngày 29/12/1991 tại thành phố San Jose, miền bắc tiểu bang California, Hoa Kỳ. Trong nhiều năm qua Phong trào đã ra tuyên cáo, phát hành Bạch Thư vạch trần tội ác của quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng CSVN trước công luận quốc tế.

Kính thưa đồng bào,

ho-chi-minhTừ khi chiếm được miền Bắc VN và cho tới nay Hồ Chí Minh và tập đoàn phản dân, hại nước CSVN đã cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho Tàu Cộng để được vinh thân phì gia liên tục như: Năm 1958, Phạm văn Đồng ký văn bản thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc chủ quyền Tàu Cộng. Năm 1999, Lê khả Phiêu ký văn bản thừa nhận biên giới Tàu Cộng lấn sâu vào lãnh thổ VN vượt qua Ải Nam Quan trên 15 ngàn ký lô mét vuông. Năm 2000, Lê Khả Phiêu một lần nữa ký Hiệp Định Biên Giới và Lãnh Hải thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng lấn thêm mấy chục ngàn hải lý vùng biển Vịnh Bắc Việt. Và đến nay năm 2009, Nguyễn tấn Dũng lại ký văn thư thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng trên hàng chục ngàn kí lô mét vuông vùng đất Tây Nguyễn để khai thác Bauxite phá hủy môi sinh của đất nước.

Phong Trào ý thức được từ lòng nhân hòa của Mẹ Âu Cơ, nên long trọng phát động chiến dịch mang tên Mẹ Dân Tộc gởi tới tất cả đồng bào lời kêu gọi tha thiết nhất để chung tay hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong giai đen tối do tập đoàn lãnh đạo CSVN gây ra gồm những tên như: Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Gia Khiêm, Phùng Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng , Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị.

Phong Trào Quốc Dân Xoá Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh xin gởi Tâm Thư này tới đồng bào được chia làm hai phần gồm Núi Cao gởi về đồng bào quốc nội và Biển Rộng gởi tới đồng bào hải ngoại như sau:

Núi Cao biểu tượng cho nguồn gốc Mẹ là Tiên, Phong Trào xin gởi đến đồng bào quốc nội những đề nghị sau đây:

- Xin đồng bào không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giai cấp, tổ chức chính trị hãy đứng lên lấy lại quyền dân bằng hình thức tự mình bỏ phiếu qua ngôn ngữ, hành động để bày tỏ sự Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh cũng như phủ nhận bạo quyền CSVN hiện nay.

- Xin đồng bào tích cực dùng mọi phương tiện có được để biểu lộ ý muốn của toàn dân như: có phấn thì dùng phấn, có than thì dùng than … gạch bỏ mọi hình ảnh vết tích Hồ Chí Minh và viết các khẩu hiệu chống tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh ở khắp nơi trong nước trước viễn ảnh xâm thực của Tàu Cộng phát xuất từ Tây Nguyên.

- Xin đồng bào xé ảnh Hồ Chí Minh, gạch mặt bọn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh trên sách báo và xé cờ đỏ sao vàng vứt ra đường. Dùng mọi sáng kiến cá nhân, tổ chức để đóng góp vào mục tiêu chung là Xóa Bỏ Chế Độ CSVN. Hô hào, rĩ tai hưởng ứng lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hoà Thượng Thích Quảng Độ và đình công, bãi thị.

- Đối với Công an, Bộ đội, Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh kêu gọi các bạn hãy quay về với Mẹ Việt Nam tức toàn dân để chung tay làm lại lịch sử trước nguy cơ kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tàu Cộng đang âm mưu thôn tính VN. Các bạn hãy hợp tác với toàn dân trong chiến dịch Âu Cơ bằng cách trực tiếp xóa bỏ các dấu tích Hồ Chí Minh, hay gián tiếp làm lơ để dân chúng thực hiện những khẩu hiệu kêu gọi mọi giới đồng bào vùng lên lật đổ tập đoàn CSVN bán nước cầu vinh. Và ít nhất là cùng đồng nguyen-minh-tri-tbào hãy nhắc tên Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ, thì tự cái tên này đã mang trọn ý nghĩa chống chế độ Cộng Sản Việt Nam rồi.

- Đối với các cấp lãnh đạo CSVN, Phong Trào kêu gọi cả tập đoàn này phải ý thức về làn gió Dân Chủ là sức mạnh của thời đại nên chấm dứt sự ngoan cố, tham lam, ích kỷ để tự động giải tán. Các cấp lãnh đạo CSVN hãy lựa chọn việc giải tán đảng CSVN như một giải pháp ôn hòa để tránh các khó khăn khủng khiếp cho Dân Tộc Việt Nam, và cho chính cá nhân mình. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên chọn lối thoát an toàn là tìm cách lưu vong ra nước ngoài để trao lại quyền hành cho toàn dân. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên thức tỉnh để hiểu rõ rằng không còn thời giờ để trì hoãn nhằm nắm giữ quyền bính lâu hơn nữa, và càng lầm lẫn khi cấu kết với Tàu Cộng. Quí vị phải ý thức rằng nếu còn cố ở lại sẽ gặp nguy hiểm cho tính mạng cá nhân, như gương đã thấy ở Lỗ Ma Ni năm 1991, Nam Tư 1992, vì tức nước sẽ vở bờ trước làn sóng phẩn nộ của toàn dân trong và ngoài nước.

Biển Rộng biểu tượng cho nguồn gốc của Cha là Rồng, Phong Trào xin gởi đồng bào ở khắp nơi trên thế giới, tức đồng bào Hải ngoại các đề nghị sau đây:

- Xin đồng bào dùng ảnh hưởng cá nhân, tổ chức, đoàn thể của mình để vận động với các quốc gia mình đang sống hổ trợ cho công cuộc Cách Mạng Dân Chủ của Dân Tộc Việt Nam. Hãy tích cực tham gia đông đảo mọi cuộc biểu tình để giương cao lá cờ chính nghĩa màu vàng ba sọc đỏ mỗi khi có phái đoàn VC xuất hiện nơi địa phương mình cư trú. Dặn dò thân nhân vì hoàn cảnh nào đó về VN hãy thông báo cho mọi người biết âm mưu thôn tính VN của Tàu Cộng, chuẩn bị tư tưởng để sẳn sàng tham gia vào cuộc Tổng Nổi Dậy do các lực lượng đấu tranh cho dân chủ trong nước khởi xướng.

- Xin đồng bào tìm kiếm và phát giác các dấu tích của Hồ Chí Minh, của CSVN ở nước ngoài từ tượng đài, các tên đường, bảng tên, sách vở và vận động với mọi chính quyền ở các địa phương đồng bào đang sống nhằm yêu cầu được phép xóa bỏ, ngay cả trong các thư viện và trường học.

- Xin đồng bào giải thích với các bạn bè ngoại quốc biết rõ, rằng Hồ Hồ Chí Minh chỉ là một kẻ xảo trá, gian ác cũng như đảng CSVN là một tập đoàn bạo ngược, ăn cướp đang còn thống trị tại Việt Nam.

Phong Trào tin tưởng rằng các mục tiêu và phương cách hành động đã nêu ra rất cụ thể, giản dị mà đồng bào quốc nội, hải ngoại đều có thể dễ dàng thực hiện được. Sự Thành công sẽ đến chính là kết quả đoàn kết của toàn dân Việt Nam trước nhiệm vụ làm lại lịch sử. Chắc chắn nước Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ được giải phóng khỏi ách thống trị độc tài gian ác của Việt Cộng, để gia nhập vào giòng sống của nhân loại trong thời đại này.

Trân trọng kính chào toàn thể đồng bào.

Làm tại San Jose, ngày 6 tháng 05 năm 2009
Ban Thường Vụ Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ

Chủ tịch: Đặng thiên Sơn
Phó Chủ tịch Nội vụ: Nguyễn thiếu Nhẫn
Phó Chủ tịch Ngoại vụ: Trần minh Xuân
Tổng Thư Ký: Kiêm Ái