Saturday, November 8, 2008

Thư lên tiếng của tập thể CĐNVHN Tị Nạn CSVN qua thái độ trịch thượng của cô TIM Aline REBEAUD

Kính thưa quí đồng hương

Ngày 25/10/2008 vừa qua, Cộng Đồng Người Việt Tị nạn CSVN tại San Fernando Valley, California đã tổ chức một buổi quyên góp ngay trong trụ sở của Cộng Đồng, nhằm mục đích giúp đở cho các em tàn tật thuộc Trung Tâm Chấp Cánh Nhà May Mắn, với sự có mặt của cô TIM Aline REBEAUD là người sáng lập và đến từ trong nước.

Trong khi mọi người nghiêm chỉnh chào lá Quốc Kỳ Việt Nam Tự Do thì cô TIM đã giận dỏi bỏ ra ngoài sân đậu xe, sau khi chào cờ xong, cô TIM đã trở lại và tuyên bố như sau:

- Trong các chương trình có tôi hiện diện (cô TIM nói), tôi không muốn quí vị treo cờ và chào cờ, vì việc làm của tôi là việc làm từ thiện, tôi chủ trương phi chính trị ?.

- Trong các buổi sinh hoạt trong nước và ngay tại Trung Tâm Chấp Cánh tôi đều không cho treo bất cứ lá cờ nào ? có thật hay không ? (Bấm vào đây: Aline Rebeaud)

Chúng tôi là những Người Việt Hải Ngoại Tị Nạn CSVN tỏ thái độ bất mãn trước những hành động và những lời tuyên bố trịch thượng đầy gian ý Chính Trị của cô TIM Aline REBEAUD, tại trụ sở Hội Người Việt ở San Fernando Valley, California với những ly do sau đây:

1. Thái đồ trịch thượng ! đến nhà chúng ta xin tiền lại bắt buộc chúng ta dẹp bàn thờ !

Ở khắp nơi trên thế giới, nơi nào có văn phòng hay trụ sở của Cộng Đồng NVHN Tị Nạn CSVN đều cờ lá Quốc Kỳ, cờ vàng ba sọc đỏ, một biểu tượng linh thiêng của tất cả mọi người VN yêu chuộng Tự Do Dân Chủ. « Nhập giang tùy khúc - Nhập gia tùy tục » trước khi đến nhờ Cộng Đồng để tổ chức một buổi quyên góp, cô TIM hẳn đã biết chúng ta là ai ? tai sao chúng ta có mặt ở đây ? Chúng ta đứng dưới lá cờ nào ? và dĩ nhiên cô TIM cũng biết trong mọi sinh hoạt có tính tập thể của Cộng Đồng đều có làm lể chào Quốc Kỳ.

Việc bỏ ra ngoài và ra lịnh dẹp bỏ lá cờ cùng logo có lá cờ vàng của Cộng Đồng, là một thái độ trịch thượng, không tôn trọng biểu tượng và thông lệ cao quý của chúng ta ! thì cô TIM cũng không xem chúng ta ra gì cả !. Cô TIM lấy tư cách gì để phát ngôn như vậy ? Có phải chăng cô TIM được chỉ đạo trước khi ra đi: chỉ lợi dụng lòng từ tâm của Người Việt Hải Ngoại Tị Nạn CSVN chúng ta để quyên góp tiền bạc và cùng lúc bắt buộc chúng ta phải chấp nhận tự xóa bỏ căn cước tị nạn chính trị của chúng ta hay không ?.

2. Phi chính trị hay cố ý chính trị !

Một tổ chức từ thiện thật sự phi chính trị như cô TIM đã tuyên bố, sẽ không bao giờ quan tâm đến vấn đề chính trị cũng như sẽ không bao giờ phân biệt màu sắc chính trị. Họ có thể đi đến bất cứ nơi đâu, ở bất cứ quốc gia nào, để vận động lòng từ tâm của mọi người cho mục đích từ thiện, là mục đính duy nhất của tổ chức từ thiện, mà họ sẽ không phân biệt nơi họ đến là quốc gia nào ? hay thuộc một tổ chức chính trị nào và nhất là người cho tiền thuộc khuynh hướng chính trị nào. Họ chỉ cần biết nơi đó : nhiều người có điều kiện và giàu lòng từ tâm để giúp đở cho mục đích từ thiện của họ. Ngược lại, cô TIM cũng phải hiểu rằng, Công Đồng NVHN Tị Nạn CSVN nói chung và CĐ Tị Nạn CSVN San Fernando Valley đã không phân biệt màu màu sắc, khi đã vui vẻ tổ chức nhiều buổi kêu gọi quyên góp cho Trung Tâm Chấp cánh của cô TIM.

Việc tuyên bố không chấp nhận sự hiện diện của lá Quốc Kỳ và nghi thức chào Quốc Kỳ của Cộng Đồng NVHN Tị Nạn CSVN ở San Fernando Valley trong ngày tổ chức vận động quyên góp, cô TIM đã tự xác nhận chính cô đã quan tâm đến vấn đề chính trị hay nói khác hơn là cố ý phân biệt màu sắc chính trị trong việc làm từ thiện của cô.

3. Sự gian dối ấu trỉ của cô TIM !

Có thật sự trong các sinh hoạt từ thiện của cô TIM ở trong nước và ngay tại Trung Tâm Chấp Cánh Nhà May Mắn, cô TIM hoàn toàn không chấp nhận sự hiện diện của một lá cờ đại diện cho một màu sắc chính trị nào hay không ? Thưa không, cô TIM đã không thành thật, vì trên các tấm ảnh chụp được, trong các sinh hoạt từ thiện trong nước của cô TIM, đều có sự hiện diện của lá cở Đỏ CSVN.

Kính thưa quí vị

Chúng ta khâm phục việc làm từ thiện của cô TIM, nhưng không vì thế chúng ta quên đi bao công lao hi sinh xương máu của những người đã nằm xuống vì lý tưởng Tự Do.

Chúng ta sẳn sàng giúp đở các em tàn tật cũng như khuyến khích việc làm của cô TIM, nhưng cô TIM cũng phải thật tâm biết ơn sự đóng góp của Cộng Đồng NVHN Tị Nạn CSVN.

Chúng ta thương xót cho số phận tật nguyền của các em thuộc Trung Tâm Chấp Cánh Nhà May Mắn, nhưng đất nước chúng ta ngày nay không chỉ có 300 trẻ em tận nguyền này để thương xót. Bao nhiêu trẻ thơ nghèo dốt bịnh tật ở nông thôn, bị bán làm nô lệ tình dục bên Campuchea, Trung Cộng và ngay trên quê hương VN ngày nay ? Và còn biết bao nhiêu đồng bào Dân Oan mất nhà mất cửa lang thang sống trong cảnh màn trời chiếu đất ?.

Lá thư này, nhằm mục đích vạch trần những âm mưu đen tối đàng sau những buổi quyên góp “từ thiện phi chính trị “của cô TIM Aline REBEAUD hiện nay cũng như những lần quyên góp “Từ thiện phi chính trị “ của các tu sỉ quốc doanh trước đây mà quí vị đã biết.

Làm “từ thiện phi chính trị” là đồng nghĩa với việc “đừng đấu tranh nữa và hãy chấp nhận vỉnh viễn đưa tay cứu vớt những nạn nhân của chế độ độc tài tham nhũng CSVN” ? Lá cờ vàng Quốc Gia là biểu tượng của cuộc Đấu Tranh giành lại Tư Do Dân Chủ cho đất nước, ngày nào xóa sạch chế độ phi nhân CSVN, ngày đó người dân VN mới hết khổ.

Cám ơn những người cương trực trong Cộng Đồng San Fernando Valley đã thẳng thắn phản ứng thái độ trịch thượng và đầy gian ý của cô TIM Aline REBEAUD.

Kính thư

***********
    CHUYỆN CÔ TIM
Tú Kép, Nov 05, 2008

Trước khi vào chuyện, Tú Kép xin kể cho bà con nghe một chuyện dzui:

Ngày xửa ngày xưa, có một ông quan rất thanh liêm. Một đời làm quan mà khi hưu trí, chỉ có một mái tranh lụp xụp. Đúng là một túp lều tranh, hai trái tim vàng. Một hôm, quan ông đau nặng. Nhà nghèo không tiền thuốc thang. Quan ông nghĩ rằng phen nầy quan sẽ toi mạng. Nhưng không hiểu sao, sau một thời gian hôn mê, quan tỉnh lại rồi dần dần mạnh khỏe. Khi lành bệnh, trong một bữa cơm, quan hỏi vợ:

“Này bà, hôm tôi đau nặng, tưỏng sắp chết, bà lấy tiền đâu mà thuốc thang tẩm bổ cho tôi được khỏe mạnh trở lại?”

Quan bà sợ quá, rụt rè trả lời với quan ông rằng: “Tôi thưa thật với ông, xin ông đừng rầy la tôi, thì tôi mới dám nói.”

Quan ông gật đầu đồng ý: Bà vợ liền kể: “Ông một đời làm quan thanh liêm, không ăn hối lộ bất cứ của ai. Làm gì có tiền để giành. Có một lần ông giúp người ta. Người ta biết ông rất thanh liêm nhưng người ta không dám đưa tiền trả ơn, mà người ta chỉ hỏi tôi rằng ông tuổi gì. Tôi tình thật trả lời ông tuổi tý. Ngưòi ta liền mang đến tặng cho tôi một con chuột bằng vàng. Tôi thấy đẹp quá, cất làm kỷ niệm, không ngờ hôm ông đau nặng, nhà hết tiền, tôi nhớ đến con chuột, liền đem đi bán để thuốc thang cho ông.”

Nghe đến đây, quan ông đập bàn cái rầm, mấy đĩa thức ăm đạm bạc trên bàn rung rinh, suýt rớt. Quan bà sợ quá năn nỉ: “Thôi mà ông, chuyện xưa rồi, tôi đã xin ông tha lỗi tôi mới dám nói, ông còn la tôi nữa sao?”

Quan ông liền bảo: “Không, tôi muốn nói với bà rằng tại sao bà không nói với người ta tôi tuổi sửu (con trâu) mà lại nói tôi tuổi tý (con chuột)?” Hà hà, con trâu bự hơn con chuột bà con ơi!

Câu chuyện nầy chỉ là một chuyện tầm phào cho vui, nhưng cũng có một ý nghĩa nào đó cho chúng ta suy nghĩ. Con người dù thanh liêm trong sạch, nhưng rồi cũng có lúc, do hoàn cảnh nào đó, do một nhu cầu nào đó, do điều kiện nào đó, lại yếu lòng trước đồng tiền. Vì vậy, ở các nước tây phương nầy, trước vấn đề đồng tiền, để cho chắc chắn, việc quản lý tài chánh cần phải có cơ chế đầy đủ chứ không thể để một người, một mình nắm hết tiền bạc mà không có một nguyên tắc kiểm soát hay chi thu nào cả. Việc quản lý tiền bạc ít nhất phải có bộ “tam xên” tướng sĩ tượng. Ngoài giám đốc hay chủ tịch hay là cái ông gì đó, phải có thủ quỹ, có người chi thu, phải có hóa đơn, chứng từ đầu vào đầu ra … Việt Nam ngày nay luôn luôn có đủ bộ sậu như thế, mà Việt Nam cũng tham nhũng tràn lan. Tham nhũng ở Việt Nam ngày nay trở thành quán tính của cán bộ VC, đến nỗi ngày nay dân chúng trong nước kháo nhau rằng không tham nhũng thì không phải VC.

Thế mà vừa qua, ở Toronto, có một hiện tượng lạ lùng: Cô Tim Thụy Sĩ đến Toronto, nhân danh một hội từ thiện ở Việt Nam do cô lập ra, quyên tiền bà con để giúp Hội từ thiện của cô. Bà con Toronto vốn tốt bụng tốt dạ, mở hầu bao giúp đỡ cô Tim. Nghe nói có người cho cả chục ngàn, tiền đâu mà lắm thế? Tiền sạch hay tiền rửa? Tiền nữ hoàng chứ đâu phải tiền già râu của bọn mafia VC, mà tiêu xài sang quá dzậy? Tuy nhiên, nếu bà con tinh ý, trong cuộc lạc quyên nầy có ba điều lạ:

Điều lạ thứ nhất là tổ chức của cô Tim, chỉ có một mình cô Tim vừa làm giám đốc, vừa làm kế toán, vừa làm thủ quỹ, vừa xuất chi, vừa thu nhập, nghĩa là một mình cô độc diễn chuyện tiền bạc. Điều nầy được mấy cái video, DVD không biết là để khen cô Tim quán xuyến mọi việc của hội từ thiện, hay là để báo động một cách kín đáo chuyện cô Tim độc diễn tiền bạc, lại được nhắc lui nhắc tới hoài hoài à.

Với số tiền ít ít, thì không sao, nhưng với những số tiền lớn, ai dám bảo đảm con tim của cô Tim không bồi rung động như quan ông quan bà trong chuyện con chuột kể trên. Nếu, Tú Kép nói nếu mà thôi, nếu cô Tim lỡ để quên con tim ở đâu đó, rồi lỡ quên một số tiền nào đó, hay làm rơi rớt một số tiền nào đó, nghĩa là Tú Kếu giả thiết là cô Tim rủi ro chứ không cố tình làm thất thoát tiền bạc, rồi chỉ đem về Việt Nam một ít trong số tiền cô quyên được, thì làm sao ai mà biết? Mà có biết thì làm gì nhau? Đó là chưa kể người ta rửa tiền, nhờ cô Tim cầm về Việt Nam cho đám Mafia VC thì sao? Nếu không rửa tiền thì tiền đâu mà có người dám bỏ ra sáu hay bảy chục ngàn cho cô Tim đem về?

Điều lạ thứ hai là khi nhận những số tiền khá lớn, cô Tim mang về Việt Nam cô sẽ khai báo thế nào với Việt Cộng? Việt Cộng có cho mang tiền ra vào dễ dàng không? Việt Cộng hay xài luật rừng, đóng hụi phần trăm. Cô Tim phải đóng tiền mãi lộ bao nhiêu? Một số người ở nước ngoài về Việt Nam cứu trợ, đều phải biết “lịch sự”. Ngày nay, người ta không còn dùng “thủ tục đầu tiên”, mà người ta quay qua biết “lịch sự” với nhau mà thôi. Ai biết “lịch sự” thì người đó biết sống. Cô Tim biết “lịch sự” nhiều ít cho Việt Cộng đây?

Điều lạ thứ ba, trên mỗi bàn tiệc ở nhà hàng tại Toronto mà cô Tim tổ chức, có đặt một phíếu lập danh sách người cho. Danh sách nầy ghi tên, họ, địa chỉ, số điện thoại, nghề nghiệp của người cho. Cách nầy, Việt Cộng gọi là lý lịch trích ngang. Lý lịch trích ngang nầy, cô Tim nộp cho ai? Cho tòa đại sứ Việt Cộng ở Ottawa hay cho công an ở Tân Sơn Nhất? Qua danh sách nầy, tòa đại sứ Ottawa sẽ dễ dàng nắm rõ những nhà “hảo tâm” để tổ chức tiếp những cuộc “lạc quyên” khác hay sao?

Chuyện cô Tim ngang đây chưa hết. Sau Toronto, cô Tim thừa thắng xông lên, qua Hoa Kỳ. Cô đến nhiều nơi để quyên tiền. Một trong những chỗ cô đến là Hội Người Việt ở San Fernando Valley (California) ngày 25-10-2008. Vì đây là trụ sở Hội Người Việt nên có sẵn cờ Việt-Mỹ. Như thông lệ, Hội Người Việt làm lễ chào cờ trước khi sinh hoạt. Cờ Việt đây là cờ của người Việt tỵ nạn, tức cờ quốc gia. Cô Tim liền bỏ hội trường, ra ngoài Parking đứng, và không chào cờ Quốc Gia. Cô còn yêu cầu ban tổ chức phải cất hết các lá cờ quốc gia, cất luôn cái logo của Hội Người Việt, cô mới chịu vào.

Có một số người bênh vực cô Tim cho rằng cô Tim không chào cờ vì cô sợ khi về Việt Nam, công an Cộng sản sẽ làm khó khăn đối với cô. Lý luận nầy có người phản bác ngay. Sợ công an gây khó khăn, sao không ở lại trong nước xin tiền công an, mà lại xin công an chạy ra nước ngoài xin tiền tụi tỵ nạn là tụi chạy theo đế quốc sau năm 1975. Công an Việt Cộng dư biết tiền nầy là tiền móc ruột của ngụy quân ngụy quyền mà.

Đến nhà người ta xin tiền mà bảo người ta cất cờ đi. Lá cờ là biểu tượng thiêng liêng của người Việt Hải ngoại, không khác gì bàn thờ của cộng đồng người Việt Hải ngoại. Cô Tim tới trụ sở Hội Người Việt xin tiền mà cô bảo cất cờ đi, thì không khác gì cô tới nhà người ta xin tiền, mà bảo người ta cất bàn thờ đi. Cô chơi cha quá dzậy? Mà cái ông người Việt nào ở San Fernando Valley cũng kỳ quá dzậy. Đáng lẽ phải tống cổ kẻ nào không chịu chào cờ Việt Nam Quốc Gia ra khỏi trụ sở của người tỵ nạn, các ông lại để cho nó tiếp tục chương trình “xin đểu” như thế?

Tú Kép viết hai chữ “xin đểu” vì cô bé nầy láu cá quá, chỉ muốn xin tiền của cộng đồng người Việt Hải ngoại mà không kính trọng người Việt Hải ngoại, không kính trọng biểu tượng của cộng đồng. Hành động của cô Tim không phải là một sơ sót hay lỗi lầm. Hành động nầy là một sự cố ý, quyết tâm rõ rệt, là một chủ trương có sẵn trong đầu óc cô Tim.

Hành động nầy là bài bản mà công an cộng sản Việt Nam đã cho cô Tim học tập, giống y chang các ông bà tu sĩ quốc doanh, ra hải ngoại nầy chỉ khoái chơi các nốt đô-la, chứ tránh tất cả những nơi có treo cờ vàng. Việt Cộng bây giờ ở trong nước kiếm đủ tất cả mánh khóe để moi tiền hải ngoại, nhưng tiền thôi nhé, những chuyện khác, là VC xin chừa.

Lâu nay, người Việt hải ngoại biết chuyện cô Tim đều xuýt xoa khen ngợi: một cô gái trẻ ở nước ngoài vào Việt Nam giúp trẻ em Việt Nam, thật là quý hóa. Ai cũng quên rằng việc nầy là việc của Việt Cộng. Cán bộ VC chỉ tham nhũng, còn dân chúng sống chết mặc bay. Cô Tim làm việc nầy là gánh dùm gánh nặng cho VC. Cái nhãn hiệu người nước ngoài càng làm cho cô Tim dễ xin tiền, đem về nói là nuôi trẻ em, chính là giúp cho VC giải quyết tệ nạn xã hội do VC tạo ra. Đó là chưa kể bản thân cô Tim, không biết cô làm nghề nghiệp gì ở Thụy Sĩ, bây giờ qua Việt Nam chớp một cái job ngon lành, làm tiền một cách dễ ẹt. Job thơm quá mà, dại chi không làm, lại còn được đi du lịch miễn phí khắp nơi, được đón tiếp đãi đằng ăn ở, và không biết cô có rửa tiền dùm cho ai không?

Những lần viễn du quyên tiền, cô Tim thường tổ chức ở nhà hàng, ăn uống nhảy đầm nên chẳng có chào cờ. Lần nầy, tổ trát gặp phải trụ sở Hội Người Việt, có kính chiếu yêu yểm sẵn, nên mới loài chân tướng cô Tim là cô Tim đỏ. Thôi thì từ nay cộng đồng xin vĩnh biệt em Tim!

Tú Kép
(Toronto 4-11-2008)


Tiền Lương Tâm Hay Đồng Tiền Chính Nghĩa

Mai Ly

Xưa nay Tâm vẫn ấm ức giữa việc sống đức bác ái qua việc làm từ thiện cho người còn ở Việt Nam và việc vô tình làm như vậy là nuôi dưỡng kẻ cứ nhởn nhơ đè cổ dân mình, tức là Việt cộng.

Từ bé, Tâm đã được ba mẹ dạy rằng: phải thương thằng em của Tâm, chia bánh kẹo cho nó, có món ăn ngon trong nhà thì phải nhớ để dành cho nó, không có xơi tuốt một mình, những đêm trời lạnh, phải nhớ dành chút mền đắp cho nó, không được lôi hết đắp cho mình mình. (Chả là hồi đó còn ở Việt Nam, ba mẹ chỉ có một cái giường cho hai anh em Tâm ngủ chung, nên ba mẹ phải nhắc nhở như vậy).

Từ những tâm tình bé thơ đó, Tâm lớn lên và mở lòng với người chung quanh khi họ gặp thiếu thốn. Đối với Tâm, việc làm từ thiện là chuyện tự nhiên. Được sống ở Úc, đầy đủ mọi mặt, việc gởi tiền về giúp cho gia đình và những người thân, và ngay cả người không thân, không quen, là một chuyện đương nhiên, miễn là họ đúng là người đang gặp khó khăn thiếu thốn thật, đừng có gian dối (đây cũng là một đức tính Tâm học được ở Úc). Chính vì thế mà Tâm rất hăng hái đóng góp cho các chùa, các nhà thờ, các nhóm người gây quỹ gởi về giúp người ở Việt Nam. Tâm không thắc mắc, vì bao giờ lý do gây quỹ cũng là giúp người kém may mắn hơn mình: nào là trẻ em nghèo, trẻ mồ côi, đau mắt cườm, nạn nhân lũ lụt, dân oan khiếu kiện, v.v.... và v.v....., vì ở Việt Nam thì thiếu gì người cần giúp đỡ.

Tâm rất khâm phục những người đứng ra xả thân, có khi đem hết thời gian tâm trí để tạo những buổi gây quỹ cho người cùng khổ tại Việt Nam, nhất là người trẻ, và lại là người không phải là người Việt Nam, như cô Tim chẳng hạn. Tâm thì chỉ việc đến dự tiệc, vui vẻ, gọi là “gãi ngứa lương tâm mình cho khỏi bị cắn rứt”, nhưng những người tạo nên những buổi gây quỹ đó mới là quý hơn nhiều vì họ rất cực. Tham dự hết buổi gây quỹ từ thiện này đến buổi gây quỹ từ thiện kia để gởi về Việt Nam mà Tâm thấy không những không bớt những buổi gây quỹ, mà còn ngày càng nhiều hơn nữa, càng quy mô hơn nữa. Ở đâu, trên khắp các tiểu bang tại Úc, tuần nào Tâm cũng thấy đó đây những buổi gây quỹ cho người ở Việt Nam.

Tâm miên man suy nghĩ: việc mình cứ gởi tiền về như vậy, chừng nào mới châm dứt, chừng nào dân mình mới đứng dậy tự lo cho mình mà không cần những “tấm lòng bác ái” từ người Việt nước ngoài? Đương nhiên người mình chỉ trông mong vào người mình chứ quốc tế thì chắc chắn không thể lâu dài, không thể mãi mãi được. Người ta còn phải lo cho các người cùng khổ từ các nước khác. Bằng chứng là hồi ba mẹ Tâm vượt biên, còn ở đảo tỵ nạn Pulau Bidong hồi đầu những năm 80, cả thế giới đổ dồn về giúp người Việt Nam tỵ nạn, nào là cho định cư, nào là tiếp tế lương thực, quần áo, v.v.... Thế rồi lòng từ tâm đó cũng phải chấm dứt, và các trại tỵ nạn đóng cửa. Nay quốc tế chuyển lòng từ tâm đến những người tỵ nạn từ các xứ Trung Đông, Phi Châu. Còn người Việt khốn khổ tại quê nhà thì quốc tế đâu rỗi hơi để màng đến một cách ồ ạt! Chỉ có dân mình mới xót xa cho nhau.

Tâm cũng miên man suy nghĩ rằng, cứ cho là những khoản tiền, từ vô số các buổi gây quỹ từ thiện mà Tâm tham dự, chắc chắn đến tay những người Tâm muốn giúp, không bị chặn đầu chặn đưôi, không bị kẻ lợi dụng thì ...... có vô tình làm ..... Bộ Xã Hội dùm cho nhà nước Việt Nam không, mình có đang là Centrelink hay Department of Welfare/Community Services không. Ở Úc, cũng có những cơ quan vô vị lợi như Saint Vincent De Paul, Salvation Army, và biết bao nhiêu cơ quan làm việc xã hội để giúp người dân trong lúc khó khăn. Các cơ quan này sống còn để tiếp tục làm việc được là do những tài khoản của chính phủ Úc, có khi vài trăm, vài ngàn đô la Úc, có khi lên tới vài trăm ngàn, và chính phủ chỉ cung cấp tài khoản cho họ mỗi năm hay mỗi hai năm. Luôn luôn chính phủ đòi báo cáo rành mạch mỗi cuối thời kỳ của tài khóa rồi mới cấp tài khóa mới. Và từ đâu mà chính phủ có những tài khóa này nếu không phải từ đồng tiền đóng thuế của người dân?

Như vậy, việc vận hành của đồng tiền đến những người được giúp đỡ rất là minh bạch. Người chính thức nắm vận mệnh của các việc bề ngoai xem như là giúp người trong lúc khó khăn, hay nói cách khác là việc “từ thiện”, chính là CHÍNH PHỦ, là Nhà Nước.

Vậy thì Nhà Nước VN làm gi để giúp những người dân đang gặp khó khăn?

Người dân Úc nhận những sự giúp đỡ khi cần và hiểu đó là sự vận hành của đồng tiền trong sạch, đồng tiền lương tâm, chính nghĩa trong một guồng máy chính phủ có kiểm soát và công bằng cho mọi người dân. Đồng tiền đi từ tiền thuế của một số công dân, qua việc làm của một số công dân khác, và đến tay một số công dân đang cần đến sự giúp đỡ đó.

Ở Việt Nam , đồng tiền thuế của dân lại .... nằm trong tay một lớp người giầu sụ. Nhìn quanh, những người này toàn là cán bộ cộng sản, con em họ hay những người có ăn tay ăn tấm gì với họ mà bà con hay gọi là tư bản đỏ. Họ tiêu xài đồng tiền, không biết từ đâu tới này, Tâm thấy mà ngợp mắt.

Do đó, đồng tiền giúp người dân, đồng tiên lương tâm của những người “có lòng”, bắt buộc PHẢI đến từ một nguồn vận hành CÓ CHÍNH NGHĨA, tức là một chính phủ trong sạch, công bằng, phải có dân chủ, có đối lập thực sự (không phải dân chủ cuội đâu nhé), để ngăn chặn những gian ác của những phường hại dân.

Qua các việc từ thiện đối với người dân trong nước, người Việt hải ngoại không thể khơi khơi làm dùm “job” cho một nhà nước Việt Nam nhởn nhơ sống trên xương máu và nước mắt của người dân. Bởi vì như thế thì nhà nước đó sẽ khoẻ re, rất rảnh tay khi cái khối người Việt hải ngoại làm dùm cái “job” của Centrelink và các cơ quan xã hội.

Tâm không hiểu tại sao cô Tim, một người dám xả thân giúp người cùng khổ tại Việt Nam, lại sợ chụp hình với lá cờ chính nghĩa?

Lẽ ra, cái việc làm “lương tâm” của cô phải đi kèm với việc giúp cho người dân Việt Nam, cả trong lẫn ngoài nước thấy được cái phần “chính nghĩa” mà dân tộc Việt Nam đang cần. Người dân đang cần được thoát khỏi cái đói của bao tử, nhưng họ cũng cần thoát khỏi cái đói về một nhà nước trong sạch, dân chủ, tự do. Nhà nước đó là cái khao khát của người Việt Nam trong và ngoài nước. Nhà nước đó hiện nay được biểu hiện qua lá cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho cái gì hay, đẹp, đi ngược lại với cái gian tà của cờ đỏ.

Trong hiện tại, cái biểu hiện tốt đẹp đó chỉ có người Việt ở nước ngoài mới được dùng. Lá cờ tưng bừng, lá cờ chính nghĩa, làm rung động cả một vùng trời Sydney và cả thế giới trong dịp World Youth Day (Ngày Giới Trẻ Thế Giới) vào tháng 7 năm 2008. Bao nhiêu người, người Úc và cả thế giới đổ về nơi hành lễ, rưng rưng tâm nguyện rằng: phải làm sao giúp cho lá cờ này sớm hiện diện tại Việt Nam, làm sao đem những giá trị dân chủ, nhân bản, nhân quyền mà lá cờ này biểu tượng, đem về Việt Nam thì mới sớm chấm dứt được nỗi ngặt nghèo của người Việt.

Đây không khải là một đòi hỏi quá đáng. Đây là nhu cầu cấp bách của người dân Việt Nam .

Tâm tin rằng, một khi lá cờ vàng hiện hữu tại Việt Nam , với các giá trị nhân bản cao quý mà lá cờ này biểu hiện, thì những buổi gây quỹ ồ ạt tại hải ngoại như hiện nay sẽ bớt đi và sẽ đến ngày không cần thiết.

Tâm mong rằng những người đang làm việc từ thiện cho Việt Nam, khi mang đến miếng cơm manh áo cho người cùng khổ thì cũng trao cho họ thông điệp rằng: Họ cần phải có một chính phủ tốt lành, trong sạch thì họ và con cháu họ mới chấm dứt được cái đói nghèo triền miên này.

Tâm rất buồn và rất bực khi cô Tim không hiểu cái đói chính nghĩa của người Việt Nam, mà lại không chịu chụp hình với lá cờ vàng. Tâm càng buồn và bực hơn nữa khi thấy các bác cha chú lại cũng tránh né chụp hình với cờ vàng. Người mừng nhất trước sự tránh né này là cái nhà nước độc ác đang hưởng nguyên một bộ Xã Hội Centrelink từ túi tiền người Việt hải ngoại. Tâm dứt khoát không làm Bộ Xã Hội cho Việt cộng, không để cho cái ác duy trì trên đất nước Việt Nam . Sống đức bác ái, có tấm lòng từ tâm, từ thiện như ba mẹ dậy Tâm, theo ý Tâm, là phải làm mọi cách để tiêu diệt sự ác. Do đó, mọi sự tránh né lá cờ vàng, tức là cố ý hay vô tình làm lợi cho cái ác duy trì thêm, đều phải chấm dứt.

Đồng tiền của lương tâm phải là đồng tiền của chính nghĩa thì mới mong sớm chấm dứt được mọi khổ đau trên quê hương.

Mai Ly (8/11/2008)

Cô Tim ... Gì Đó

OBaBa

Trước hết tôi xin lỗi, cái tên một người ngoại quốc không dễ gì nhớ nổi. Thôi thì gọi cô ta là Tim cũng được, tuy nhiên tôi chắc là cái tên này cũng là giả vờ mà thôi, không phải là tên cha mẹ đặt, không phải là tên cúng cơm đâu.

Cái cô Tim này gần đây xuất hiện hơi nhiều trên các báo điện tử, thành ra dù không muốn, chúng ta cũng phải nói đến cô. Vào thời điểm này, thời sự chú trọng vào việc ông Obama mới được bầu làm Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ.

Nước Mỹ là nước giầu mạnh nhất thế giới.nước Tư Bản, nước Sen Đầm, của bọn da trắng chuyên bóc lột các nước nghèo hèn, nếu ta tin vào lời tuyên truyền của Đảng ta. Vậy mà một tên Mỹ da đen, cha mẹ chia tay từ nhỏ, lại có thể trở thành Tổng Thống, lãnh đạo mấy trăm triệu người.Bóc lột, kỳ thị gì kỳ vậy.

Trong khi đó, bọn trẻ nghèo khổ ở VN, nước Xã Hội Chủ Nghĩa, nước văn minh, đỉnh cao trí tuệ,vô sản chuyên chế, lại phải nhờ vả vào một cô Tim ... gì đó để có thể sống sót, học hành và nên người, theo những tài liệu viết bằng tiếng Việt được phân phát trong kỳ viếng thăm và quyên tiền của cô gần đây ở Montréal.

Chuyện nghịch lý là ở chỗ đó.

Chuyện hoang đường là ở chỗ đó.

Dân Việt mình, trên 80 triệu, lại được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Ta, từ trên 3 chục năm nay, đất nước giầu mạnh, tiền rừng, bạc biển, sao không lo được chuyện cỏn con đó, để Mẹ Tim phải cực khổ. Không lẽ thành phố Saigon còn nghèo hơn thành phố Calcutta của mẹ Térésa. Tôi không tin như vậy.

Thực ra thì người Việt CS có thể lo được cho đám nhỏ đó, chuyện nhỏ thôi, khi họ nắm chính quyền trong tay. Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào mà còn làm được cơ mà. Họ không làm chỉ vì họ không muốn làm. Họ không cần làm, họ còn đang bận vơ vét tiền của để nhét vào cái túi không đáy của bọn họ.

Bởi vậy nên mới có chuyện Cô Tim...gì đó phải lo chuyện xã hội Việt Nam, phải phí phạm tuổi thanh xuân của cô để lo cho đám trẻ bất hạnh. Cứ coi như là cô Tim này là một người có lòng nhân từ đặc biệt, biết quên mình để cứu người.

Thế nhưng nếu chỉ có thế, thì tại sao cô ta lại phải sợ hãi cái cờ vàng đến như vậy?

Cô làm việc từ thiện, cô có làm chính trị đâu. Hồi xưa, tôi thấy mẹ Tê Rê Sa đi khắp nơi, không từ nan, không phân biệt, miễn là thuận lợi cho công tác từ thiện của mẹ. Không vì Thiên Chúa Giáo, không vì Hồi Giáo, không vì Ấ n Độ Giáo, mà vì lòng nhân từ.

Mà người Việt mình cũng kỳ, cứ thấy một người da trắng nói được tiếng Việt là thích lắm, là cảm động lắm. Mặc cảm tự ty. Thế mấy triệu người Việt nói tiếng Pháp, tiếng Anh như gió thì bỏ đi hết hay sao. Cái việc cứu trợ nếu có tiền, thì chúng ta làm lấy. Việc gì phải nhờ đến cô Tim gì đó, để rồi bực mình khi thấy cô ta tránh lá cờ vàng như tránh tà.

Cô ấy đã vậy, chỉ cần tẩy chay cô ấy là xong.

Họ vào nhà mình, không chào hỏi, thiếu lễ độ thì mời họ ra.

Tóm lại chuyên Cô Tim ... gì đó là một việc làm chúng ta cần suy nghĩ, để rút kinh nghiệm.

Một bài học, rất cay đắng nhưng cũng rất đáng ghi nhớ.

OBABA - 5/11/08


Theo Chân Người Pháo Thủ SĐ 23BB


Kính Chuyển
Bài viết của Đại Úy PB/SĐ23BB Từ Đức Tài
MG

Kính Thưa các Bác, Chú, Cô

Cháu tên là Tăng Ngọc Thanh muốn biết thêm về cha cháu là Tăng Thanh Tâm thuộc Sư đoàn 23 Bộ Binh Tiểu đoàn 231 Pháo binh trước 75 đóng quân ở Ban Mê Thuột. Cháu không biết ba cháu đã chết hoặc mất tích ở đâu. Có người thì nói đã chết v.v.v. nhưng chưa bao giờ thấy xác. Các Bác, Chú, Cô ai biết được lúc cha cháu còn sống xin gửi cho cháu vài lời cháu muốn biết rõ thêm về cha mình. Cháu xin cảm ơn

Xin gửi về địa chỉ e-mail

thanhtang71@ hotmail.com

Theo Chân Người Pháo Thủ SÐ23BB

Ưu ái gửi cháu Tăng Ngọc Thanh, thứ nam cố Ðại úy Pháo binh Tăng Thanh Tâm, Pháo đội trưởng Pháo Ðội B thuộc Tiểu Ðoàn 231 Pháo binh đã kiên cường chiến đấu đến giây phút cuối cùng tại căn cứ hỏa lực Ðức Lập, Quảng Ðức vào ngày 7 và ngày 8 tháng Ba năm 1975.

Oct 8th 2008

Từ Đứ Tài

Portland

Cháu Thanh thân ái:

Cháu chào đời vài năm trước ngày tàn cuộc chiến, đi đứng nói năng chưa thành thạo, cả tiếng kêu ba thân yêu còn ngọng nghịu, và cháu đã sớm mất cơ hội bập bẹ thêm tiếng ba ngọt ngào trên đầu môi. Ba cháu đã từ giã các cháu trong lúc các cháu còn nhỏ dại. Ba cháu đã vĩnh viễn ra đi, thân xác tả tơi tan nát theo đoàn quân VNCH, theo đất nước miền Nam thân yêu& vào ngày 7 và 8 tháng Ba năm 1975. Các cháu dần dần trưởng thành trong tình thương yêu đùm bọc của người mẹ đầy bất hạnh, đã sớm thành quả phụ trong lúc tuổi còn thanh xuân. Mẹ các cháu, bà mẹ hiền thêm nặng gánh làm cha dạy dỗ nuôi nấng các con nên người. Thật vô vàn trân quý!

Bác lớn hơn ba cháu vài tuổi, ba cháu nhập ngũ trước bác một khóa, cùng đi Pháo binh. Ðơn vị ba cháu Tiểu Ðoàn 231 PB đóng ở Ðà Lạt, bác ở Bộ chỉ huy PBSÐ23BB (Ban Mê Thuột). Bác liên lạc với ba cháu vài lần qua điện thoại và đã gặp ba cháu môt lần tại Ban Mê Thuột. Từ đó hai người quen biết nhau 3, 4 năm sau, đến năm 1974 tình cờ bác gặp ba cháu tại Pleiku. Ba cháu đi với một người bạn; dường như Ðại úy Bùi Minh Ngọc, Phan Thiết. Cuộc tao ngộ trong chớp nhoáng, chỉ nhìn nhau thăm hỏi vài câu rồi chia tay&vĩnh viễn. Bác đi với người bạn về lại đơn vị đang đóng ở Hàm Rồng, Pleiku. Bác ở Pleiku cho đến ngày tàn cuộc chiến.

Mọi việc tưởng như đã chìm trong dĩ vãng. Kẻ mất để lại bao thương nhớ đau buồn cho gia đình, vợ con và người thân, người còn cũng trải qua những năm tháng dài đắng cay chua chát. Bây giờ vợ con người đồng đội năm xưa đã làm trỗi dậy một thời khói lửa trong lòng bác, biết bao hình ảnh của những chàng trai trẻ, đầy ước mơ mộng đẹp cho tương lai. Tất cả đều trôi theo dòng định mệnh của dân tộc.

Mới đây bác có điện thoại hỏi người bạn năm xưa. Quách Văn Ðại, San Jose, còn nhớ buổi chiều trên phố Pleiku gặp Ðại úy Tăng Thanh Tâm. Mọi chuyện xảy ra gần 40 năm cho nên ai cũng còn lờ mờ trong tâm trí. Ông bạn nói: “Còn nhớ lúc đó Ð/úy Tâm đẹp trai, hào hoa, và phong độ, tướng tá giống như đại ca nhưng đại ca ngày ấy hơi ốm hơn.”

Lúc nào bác cũng nhớ đến ba con, và nhớ cả tên họ rõ ràng. Ngày mới vào trại tù cải tạo, gặp ai người Ðà Lạt bác cũng hỏi thăm ba con. Bác có hỏi Ð/úy Nho, Ðà Lạt, cùng đơn vị với ba con: “Không biết anh Tâm, sau trận Ðức Lập có về lại Ðà Lạt không?". Chiến tranh vốn đã phũ phàng! Trận chiến Ðức Lập quá ác liệt. Không nghe thấy ai được trở về!

Những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến ba cháu có mặt tại Ðức Lập chỉ huy pháo đội trừ (-) 4 khẩu 105 ly. Pháo đội của ba cháu được phối trí bên trong Chi khu Ðức Lập, và 2 khẩu tại Núi Lửa cách Ðức Lập vài cây số thuộc Pháo binh Diện Ðịa Quảng Ðức. Chắc chắn hôm đó ba cháu có mặt tại hầm chỉ huy vừa là Ðài tác xạ của Pháo đội bên trong khuôn viên Chi khu Ðức Lập. Phía trên đồi cách Bộ chỉ huy Chi khu khoảng nửa cây số đường chim bay là Căn cứ hỏa lực của Chiến đoàn 53 (-). Dĩ nhiên đều có hầm hố kiên cố phòng thủ vững vàng. Ðại úy Bùi Minh Ngọc, bạn của ba cháu là Sĩ quan liên lạc Pháo binh (SQLL/PB) cạnh Trung tá Trần Nguyên Khoa, Trung đoàn phó Tr. Ð 53. Căn cứ hỏa lực còn có một Chi đội Thiết giáp 4 chiếc M41 trang bị đại bác 76 mm và một Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn 53.

Quận Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức, nằm trên quốc lộ 14 đường Ban Mê Thuột đi Quảng Ðức. Ðức Lập cách Ban Mê Thuột từ 45 đến 50 cây số về hướng Tây nam và cách biên giới Cam Bốt từ 6 đến 7 cây số, và xa hơn nữa gần tới Quảng Ðức có chỗ chỉ cách Cam Bốt 3 cây số. Có ngã ba Tam biên, ranh giới giữa Trung phần, Nam phần của Việt Nam và Cam Bốt. Dân chúng phần lớn là người Bắc di cư sống bằng nghề trồng cà phê, ngũ cốc hoa màu. Có những vườn cà phê ngút ngàn xa tít tận chân núi. Rừng có nhiều gỗ quý.

Bác cũng có mặt trên vùng Ðức Lập vài lần. Mỗi lần độ 2 hay 3 tháng, theo Bộ Tư Lệnh nhẹ, Sư Ðoàn hành quân. Lần mới nhất trước ba cháu độ nửa năm. Lúc đó các trận chạm súng giữa đôi bên còn chưa tới cấp Tiểu đoàn.

Quốc Lộ 14 chạy dài từ Bắc xuống Nam: lần lượt qua các tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac, Quảng Ðức, Phước Long. Vào khoảng thập niên 1950 bọn thổ phỉ Fulro thường xuất hiện chặn xe đò, xe taxi chở khách để cướp bóc, bắn giết và hãm hiếp; gây bao tang tóc cho dân lành trên đoạn đường từ Ðức Lập đi Quảng Ðức. Và cũng trên quốc lộ 14 này vào thời Pháp thuộc đã xảy ra nhiều trận đánh đẫm máu và ác liệt. Chiến tích được ghi lại bằng các tên gọi: ÐỒI ÔNG HOÀNG, và ÐÈO TỬ SĨ. Có đoạn rừng già mọc lấn ra đường, cây lá um tùm bao phủ cả con đường. Khúc đường từ Ðức Lập tới quận Nghi Xuân sắp đến Quảng Ðức, hai bên đồi cát chập chùng nối tiếp nhau nhấp nhô đến tận biên giới Cam Bốt, đường hẹp quanh co khúc khuỷu, dễ bị phục kích. Chiến tích được truyền miệng: Ðồi Ông Hoàng. Ngược lại đoạn từ Ban Mê Thuột đi Pleiku, ra khỏi Buôn Hô chừng hơn chục cây số, xe vừa lên tới đầu dốc, ai đó đã dựng một bia đá bên đường: Ðèo Tử Sĩ. Chắc chắn nơi này là nấm mồ chung của cả hai bên. Dân tộc ta triền miên đau khổ! Chiến tranh xảy ra từ ngàn xưa, bao thế hệ cha ông đã tiếp nối nhau nằm xuống cho quê hương được trường tồn.

Thưở xưa bác là lính, một đời Pháo thủ “trấn thủ lưu đồn”, theo chân người lính bộ binh Sư đoàn 23, “Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn”, gót giầy một thời cũng xuyên rừng vượt suối khắp cả cao nguyên. Có lúc bác theo doàn quân hộ tống đoàn xe xuôi ngược trên Quốc lộ 14 và Quốc lộ 21 đường về Nha Trang. Ðời chiến binh mấy người đi trở lại!

Bác may mắn còn lại sau cuộc chiến, hôm nay làm người bạn vong niên của các cháu, ba người con trai của cố Ðại úy Tăng Thanh Tâm. Bác là người trong cuộc, bác ghi lại vài địa danh, và phác họa một vài hình ảnh. Hy vọng các cháu sẽ hình dung được đôi nét những nơi ba các cháu đã đến, đã đi, để người thân chờ mãi không thấy về!

Ðêm ngày 9 rạng 10 tháng Ba năm 1975 vào khoảng 2 đến 3 giờ sáng, giữa đêm trường tịch mịch cả thị xã Ban Mê Thuột bừng tỉnh dậy trong kinh hoàng, hoảng hốt, và lo sợ nhốn nháo khác thường với những tiếng nổ long trời vỡ đất. Tiếng đạn pháo vèo vèo xé nát không gian, tóe lửa làm sáng rực cả bầu trời. Bom đạn khô khan, chát chúa vô tình cày nát một phần mảnh đất quê hương. Mảnh đạn tung tóe xé nát da thịt người vô tội thành trăm mảnh. Quân đội Bắc Việt đã khai pháo bất ngờ, rót hàng trăm hàng ngàn quả đạn pháo vào Ban Mê Thuột, vào tổng hành dinh của Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.

Tiếng thét, tiếng kêu đau thương vì mảnh bom đạn của cả hai bên. Tiếng gọi nhau ơi ới tìm nhau trong hỗn loạn. Xác người, lớp chết lớp bị thương nằm la liệt bên đường. Dòng người tìm nơi an toàn; xa lánh vùng giao tranh ác liệt.

Cảnh tượng hãi hùng và kinh hoàng đã diễn ra trước mắt của Bác gái và hai người con trai của Bác lúc ấy độ 10-13 tuổi. Hơn 30 năm trôi qua, gia đình có dịp nhắc lại vẫn còn bị ám ảnh hãi hùng.

Lúc đó bác đang ở Pleiku và vài ngày sau theo cả Sư đoàn trực thăng vận về Phước An, cách Ban Mê Thuột 30 cây số, định giải tỏa Ban Mê Thuột. Bác gái và hai người con của bác, nhà sát bên Bộ Tư Lệnh Sư đoàn nên đã trải qua mấy ngày sống trong vùng lửa đạn và gánh chịu bao nhiêu hiểm nguy như người lính chiến. Phập phồng, lo sợ, và số mệnh rủi may phó thác cho Trời Ðất. Gia đình mất hết tất cả, chịu đựng khổ cực và nguy hiểm còn hơn 10 năm tuổi lính của bác. Gia đình tan tác, không tin tức, đến hai tháng sau mới đoàn tụ đầy đủ tại quê hương Phan Thiết. Nhờ Phật Trời phù hộ, may mắn tất cả đều an toàn nguyên vẹn!

Cháu Thanh thương mến!

Các cháu thiếu tình thương yêu của cha trong tuổi còn thơ dại. Khi trưởng thành và tương đối đầy đủ điều kiện vẫn không biết cha được chôn cất nơi nào, để đi thăm mộ, thắp cho cha một nén huơng. Hài cốt cha bây giờ ở đâu?. Không nghe ai kể chuyện cha mình trong những giây phút lâm chung, trước khi từ giã cõi đời có trăn trối nhắn nhủ với bạn bè cùng cảnh ngộ chuyển cho vợ con điều gì không?. Trường hợp của gia đình cháu là trường hợp của trăm ngàn gia đình Việt Nam đau thương khác. Nhiều khi bất hạnh hơn bác cháu mình, còn ở lại bên nhà giờ này đang sống lây lất qua ngày.

Mọi gia đình Việt Nam đều bị cuốn theo giòng lịch sử đau thương của dân tộc, vận nước lúc đó đã đến hồi suy yếu, như ánh tà dương trong buổi bóng xế chiều tà, dần dần nhường lại cho đêm đen dầy đặc. Chiến tranh phũ phàng, tàn nhẫn đã gây bao tang tóc cho nhiều gia đình bị phân chia ly tán, mất mát do con người tàn ác gây ra. Chúng ta cùng chung số phận. Gia đình bác ai ai cũng đã trải qua những giờ phút hãi hùng trong những ngày hấp hối của miền Nam, và sau đó còn bị ảnh hưởng, chịu đựng thêm những năm dài gian nan vất vả của gần 8 năm tù cải tạo của bác. Cháu Thanh! Cuộc đời như đám phù vân dễ tan biến, đầu hôm sớm mai thành mây khói.

Trong những ngày khói lửa Ban Mê Thuột, có một cô giáo dạy cùng trường với bác gái, vợ của một Thiếu tá Bác sĩ, gia đình giàu có. Trong lúc chạy loạn gặp bác gái hỏi: “Chị Tài có dư cái áo, cái quần nào, tôi xin một cái.” Ðời vô thường, không có gì vĩnh cửu cả; vạn vật đều thay đổi.

Cháu Thanh, cháu đã cho bác biết không rõ từ trại tù nào đã gửi cho gia đình một tờ giấy viết tay sơ sài, không con dấu chứng nhận ba cháu đã chết vào ngày 1 tháng 7 năm 1975. Như vậy, ba cháu là tù binh, bị bắt tại mặt trận. Tiếc thay! Quy chế tù binh cũng trôi theo nước.

Bác phác họa đôi nét về cuộc đời của những người chung số phận như ba cháu vào những ngày tháng đầu tiên trong trại tù cải tạo. Gia đình cháu có thể hình dung được phần nào hình ảnh của người cha quá cố. Chắc chắn ba cháu cũng đã trải qua cái buổi giao thời đầy ác mộng đó. Ðời tù cải tạo nơi nào cũng giống nhau “Nhất nhật tại tù, Thiên thu tại ngoại.”

Vào đầu tháng 5 năm 1975 bác đi “trình diện học tập” tại Phan Thiết. Bác gặp một số bạn bè cũ hồi còn ở bậc Tiểu học, Trung học “Sĩ quan ngụy” cấp Thiếu tá trở xuống, kể cả Bác sĩ. Cả trăm cả ngàn người được đưa vào rừng Cà Tót, chỗ mật khu của họ ngày xưa cách Phan Thiết độ 15-20 cây số về hướng Tây Bắc. Rừng thiêng nước độc! Họ bắt tất cả cởi giầy nhà binh, tịch thu mùng mền, những gì thuộc “Mỹ Ngụy”. Gạo, sữa, kể cả thuốc men, muối mè, chà bong, cá khô, nuớc mắm, xì dầu, cũng đều bị tập trung. Trong thoáng mắt tất cả thành vô sản. Mỗi bữa ăn một chén cơm độn (khoai nhiều hơn gạo, em bé lên 5 ăn chưa thấy no) với nước trà pha muối cho giống nước mắm, chút ớt bột nổi lềnh bềnh, “canh toàn quốc” với vài con cá khô trơ xương chìm đáy nước.

Có người lúc “đi cải tạo” mập mạp khoảng 60 kg, vài ngày sau ốm thấy rõ và chừng một tháng sau đã có người chống gậy lê từng bước đi không nổi! Người bị bệnh sốt rét nằm la liệt. Mới gần hai tháng đi tù đã thấy có người chết vì bệnh không thuốc chữa. Chính bác khiêng một người bạn ra góc rừng đào lỗ chôn. Người chết được cuốn tròn trong manh chiếu, kẹp bảy thanh tre, vùi nong một nấm, chẳng nhang đèn bia mộ gì cả. Anh em xin bộ đội cho làm thủ tục quân đội tiễn biệt người chiến binh một thời về cõi vĩnh hằng. “Nghiêm! Chào tay. Vĩnh biệt anh ở lại với núi rừng, an giấc nghìn thu.” Bác cũng bị bệnh sốt rét, nhưng may mắn cả trại lần lượt được chuyển ra khỏi rừng sang trại khác. Bác mượn tiền, nhờ mua thuốc uống khỏi bệnh và đi tiếp quãng đời cải tạo đầy nghiệt ngã còn lại.

Ngày mới vào trại tù cải tạo, người trại trưởng biết bác là Pháo binh đã nói: “Nhất Phi, nhì Pháo, không có chính sách khoan hồng, ta làm ráo.” Khiếp!

Cháu Thanh, ngày xưa ba cháu đường đường là một sĩ quan Pháo binh QLVNCH, đầy đủ phong độ. Binh chủng Pháo binh hào hoa thông thái, vừa là sát thủ chiến trường. Dân gian thường khôi hài: “Ai ơi đừng lấy pháo binh, đêm đêm súng nổ rung rinh cửa nhà.”

Kể từ khi Ðồng Minh Hoa Kỳ phản bội bỏ rơi miền Nam Việt Nam bằng cách rút quân và cắt viện trợ, VNCH phải một mình đương đầu chiến đấu với cả khối Cộng Sản. Quân Lực VNCH cạn nguồn tiếp liệu, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng dầu. Quân đội phải phân chia mỏng để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ. Trong khi đó CS Bắc Việt được cả hai siêu cường CS Nga Tàu hậu thuẩn, ủng hộ triệt để. Họ viện trợ súng đạn tối đa để quân Bắc Việt ồ ạt xâm nhập vào Nam, hầu thanh toán sớm chiến trường Việt Nam. Cán cân lực lượng giữa hai miền Nam Bắc đã nghiêng hẳn về phía Quân đội Bắc Việt. VNCH như con bệnh ngày một yếu, không thuốc chữa, chờ chết và tử thần đã vung lưỡi hái từ Căn cứ Hỏa lực Ðức Lập-Quảng Ðức.

Cháu Thanh! Bác nhớ rất rõ trước khi tấn công vào Ban Mê Thuột, vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 BB, trước đó hai ngày vào ngày 7 và 8 tháng 3 năm 1975, Bộ đội Bắc Việt đã ồ ạt tấn công Ðức Lập.

Quận Ðức Lập đang trong đêm trường tĩnh mịch vụt bừng bừng rực lửa chiến tranh. Tiếng còi báo động, tiếng đạn nổ dồn dập, những chiến sĩ VNCH đang ngon giấc bỗng giật mình choàng dậy, phút chốc tại các hầm hố chiến đấu những tay súng đã sẵn sang tác chiến chờ địch.

Những tiếng nổ sấm sét long trời vỡ đất của đại bác, hỏa tiển hòa cùng những tràng đại liên súng to, súng nhỏ tứ phía của toàn vùng Ðức Lập đã xé tan bầu không khí hiền hòa yên tĩnh của vùng rừng núi cao nguyên Ðức Lập. Tiếng đạn pháo kinh thiên động địa của cả hai bên đã làm rung chuyển một vùng trời. Ðến nỗi người con trai lớn của bác ở Ban Mê Thuột còn nhớ đêm đó có nghe tiếng đại bác từ xa vọng về. Có thể từ Ðức Lập hay một nơi nào khác cũng đang có chạm súng lớn.

Với quyết tâm chiếm trọn miền Nam Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt bằng mọi giá bất ngờ tấn công Ðức Lập, chiếm Ðức Lập làm bàn đạp, làm mồi lửa châm ngòi tiến đánh Ban Mê Thuột và toàn miền Nam. Họ sử dụng một lực lượng hùng hậu gồm mấy sư đoàn bộ binh, pháo binh, thiết giáp T54 tấn công vào Ðức Lập và Ban Mê Thuột, trong đó có Sư Ðoàn 320 Thép. Trước đó 3 năm, vào mùa hè đỏ lửa năm 1972 SÐ 320 đã đụng độ nảy lửa với SÐ 23 BB tại chiến trường Kontum. Bác theo SÐ23 vào khoảng hạ tuần tháng 4 năm 1972, có mặt suốt cuộc chiến tại Kontum. Chiến trường Kontum cũng đầy máu lửa, sự sống và cái chết kề nhau trong gang tấc, sinh mạng con người rất mong manh!. T54 của Cộng quân đã xâm nhập vào doanh trại của TÐ 69 PB, ven thị xã. Anh em binh sĩ PB đã hợp đồng tác chiến với bộ binh “bắt sống” một chiếc còn mới toanh. Anh em thiết giáp lái qua Bộ Tư Lệnh/Hành Quân, tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh SÐ có lên ngồi lái thử, và sau đó đưa về Sài Gòn triển lãm. Có một khu dân cư trong thị xã, bom đạn đã cày nát thành bình địa. Bác không nhớ ba các cháu vào thời điểm đó có mặt ở Kontum hay không?. Bác còn nhớ trên chiếc áo trận của người lính SÐ23 còn đính thêm phù hiệu “Kontum Kiêu Hùng”. Lúc đó còn trẻ bác thấy mình cũng “ngầu” lắm! Ba năm sau vào thời kỳ suy thoái của miền Nam, khởi đi từ mặt trận Ðức Lập, SÐ23 phải trả đủ món nợ cũ đã tạo ra ngày trước; chưa đánh đã tan rã và cuốn theo đôi chân mềm của toàn dân miền Nam.

Bộ đội Bắc Việt áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, dũng mãnh và ác liệt, lợi dụng đêm trường tịch mịch vạn vật đều chìm trong bóng đêm, bất ngờ nã những tràng đạn pháo 130 mm, hỏa tiễn 122 mm từ phía bên kia biên giới Việt Miên liên tục phủ đầy trận địa Ðức Lập hầu làm tê liệt sức kháng cự và uy hiếp tinh thần chiến đấu của QLVNCH. Không một sinh vật nào có thể tồn tại trong đêm đó, sắt thép cũng không chịu nổi! Sau đó T54 và bộ đội Bắc Việt ào ạt xung phong vào trận địa. QLVNCH sử dụng toàn bộ hỏa lực: pháo đội (-) 4 khẩu 105 mm kể cả hai khẩu tại Núi Lửa hợp đồng với 4 khẩu pháo 76 mm đặt trên thiết giáp M41 cùng với súng lớn nhỏ của lực lượng phòng thủ căn cứ và Chi khu đã bắn gục ngã và chận đứng nhiều đợt xung phong của địch. Những tiếng mìn bẫy nổ ngoài hàng rào phòng thủ, và những xác người tung lên khỏi mặt đất. Một trận cận chiến bằng súng cá nhân và lựu đạn đã diễn ra. Máu đổ thịt rơi, thây phơi nơi chiến địa của cả hai bên. Lực lượng quân Bắc Việt ngay đêm đó rất hùng hậu có thể gấp 5-10 lần bên QLVNCH, cho nên dù có gan trời cũng đành thất thủ thành người bại trận. Người bị thương hay còn sống sót, theo lệnh của lưỡi lê, họng súng của người chiến thắng. Hận thù, chiến tranh tự cổ chí kim phủ phàng và tàn bạo. Mạnh được, yếu thua.

Ðồi Ðức Lập kể từ ngày 7 và ngày 8 tháng 3 năm 1975 thành “Ðồi Tử Sĩ”, chiến tích thứ ba trên Quốc lộ 14, mồ chung của người Việt Nam, kể cả bộ đội Bắc Việt, sanh Bắc tử Nam. Chết, hết hận thù!

Cháu Thanh!

Mấy ngày qua bác cháu mình lần theo dấu chân của người lính Pháo binh SÐ 23 BB xuyên suốt gần hết Quốc Lộ 14, từ Kontum, Pleiku, Darlac (Ban Mê Thuột), Quảng Ðức (Ðức Lập)&vào thời điểm chiến trường nơi nơi đếu sôi động. Bác đưa cháu đi qua những vùng toàn máu, lửa và nước mắt. Ðưa cháu đi thăm chiến trường xưa -Mặt trận Ðức Lập- ít người biết đến nhưng nơi đó ba các cháu, Ðại úy Tăng Thanh Tâm, bạn của bác Ðại úy PB Bùi Minh Ngọc (Phan Thiết) và những chiến sĩ QLVNCH đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu mất còn với Bắc quân đến sức tàn, lực tận&Con cháu hãnh diện với tinh thần kiên cường bất khuất của Cha Ông.

Khi Nỏ Thần hết linh nghiệm thì thành An Dương Vương một thời oanh liệt đã làm kinh tâm tán đởm quân thù cũng bị thất thủ phải rơi vào tay giặc Triệu Ðà (207-107 trước Công nguyên)

Than ôi!

***

Từ Ðức Tài

Ðầu Thu Oregon 2008

Kính gửi Quý Sư Phụ Lê Ðình Ninh và Trần Văn Hiệp

Thân tặng Quý Ðồng Môn Khóa 22 SQ PB Thủ Ðức

Thư của cháu Thanh:

Con Kinh gửi bác Tài:

Ðọc những dòng chữ của bác, con như người trong cuộc. Tất cả những gì bác diễn tả, con thấy như rõ từng chi tiết. Con cứ đọc đi đọc lại mãi.

Con đã đọc rất nhiều sách báo, bài viết về cuộc chiến này, nhưng những gì bác viết gây cho con sự xúc động đến tột cùng. Con không hiểu sao ? Có lẽ đó là vì bác viết về những giây phút cuối cùng của cuộc đời ba con chăng?

Con xin cảm ơn bác nhiều lắm. Bác đã làm sống lại hình ảnh người cha trong con ...

Má con nói có biết về Ðại úy Nho. Má con gửi lời cảm ơn bác.

Tăng Ngọc Thanh
*****

Các cháu thân thương!

Bác kể thêm vài người bạn cùng chiến đấu với ba các cháu. Trước cuộc chiến Ðức Lập, ba các cháu và Ðại úy Bùi Minh Ngọc (Phan Thiết), rất thâm tình và thường gặp Trung tá Nguyễn Cao Vực, khóa 13 Ðà Lạt,Quận trưởng Ðức Lập, nguyên là Tiểu Ðoàn trưởng TÐ 230 PB (BMT). Trong chiến đấu, mỗi người mỗi nơi, đều có trách nhiệm riêng.

* Trung tá Vực thoát ra khỏi vùng tử địa 3, 4 ngày sau được trực thăng bốc về Quảng Ðức rồi về Ðà Lạt. Trước 30/4 vài ngày trong khi bác chờ bổ nhiệm đơn vị mới, bác và Tr. Tá Vực có thoáng thấy nhau trên đường phố Sài Gòn. Khoảng năm 1962-1963, bác Vực là Trung úy Pháo đội trưởng Biệt khu Bình Lâm. Lúc đó bác là giáo sư toán vài trường Trung học tư thục tại Phan Thiết; bác quen biết và thân với bác Vực từ đó. Khi bác còn ở TÐ 232 PB (BMT), năm 1969 Ðại úy Vực về giữ chức TÐ phó, sau đó lên Thiếu tá, và Trung tá TÐ trưởng TÐ 230 PB. Trung tá Vực có mặt ở mặt trận Kontum trước khi được bổ nhiệm làm Quận trưởng Ðức Lập. Hình như ông lập gia đình sau năm 1972, ông có hỏi bác thủ tục lập hôn thú&

Tr. Tá Nguyễn Cao Vực, người đôn hậu, vui vẻ, khí khái, tánh tình phóng khoáng, thẳng thắn, và tiêu xài rất rộng rãi. Người thích uống rượu và hút thuốc liên miên. Khi bác được tin bác Vực thì bạn bè cho biết ông đã mất trước đó vài năm; chắc tại hút thuốc nhiều quá!

* Ðại úy Ngọc bị thương rất nặng cùng với Tr. Tá Khoa gãy gần lìa cánh tay vì đạn pháo 130 mm trúng hầm chỉ huy trong những giờ đầu cuộc chiến tại Ðức Lập. Tr. Tá Khoa bị thương nhưng còn đi được. Anh em binh sĩ dìu ra khỏi vùng lửa đạn và sau đó bị bắt. Bác Khoa có thể bị nhốt cùng trại với ba cháu. Ông đang sống ở Hoa Kỳ; chúng ta có thêm hy vọng.

* “Ðại úy Tánh, Phú Long, Phan Thiết, Chi đội trưởng Thiết giáp bị thương và chết tại mặt trận.

* “Trung tá Nguyễn Cao Vực, Ðại úy Bùi Minh Ngọc, Ðại úy Tăng Thanh Tâm, “Ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” “Les trois Mousque taires”, một thời “hô phong hoán vũ”, kẻ trước người sau vào ba thời điểm, ba hoàn cảnh khác nhau, cùng hội ngộ tại miền miên viễn, nơi đó không có đau thương và không hận thù.

* “Chúng tôi, bạn bè, đồng đội vô cùng đau xót mong được chia sẻ niềm thương tiếc, nổi nhớ nhung với gia đình các chị và các cháu thân thương.

Trân trọng


Úm ba la Alibaba Nguyễn Chí Thiện!

Trần Thanh

Trong tuần lễ vừa qua, có ba biến cố quan trọng đã xảy ra, liên quan đến nghi án văn học "tập thơ Vô Ðề".

BIẾN CỐ MỘT:

Ðầu tiên là việc tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên đã viết bài "Bản chính thư của ông Nguyễn Chí Thiện" *(xin đọc phần Chú Thích 1). Trong bài viết này, tác giả đã nêu ra và phân tích những sự khác biệt về nét chữ giữa hai lá thư viết bằng tiếng Pháp, một bản đen trắng của báo Văn Nghệ Tiền Phong, và một bản in trên giấy màu hồng của ông Nguyễn Chí Thiện.

Sau đây là những trích dẫn nhận xét của tác giả:

"..... Trong lá THƯ mà Văn Nghệ Tiền Phong đang giữ, thì chữ S sau chữ E có sự đồng nhất từ đầu THƯ cho đến cuối như chúng tôi liệt kê trên đây. Như vậy chữ S này là cùng một người viết.

Trong lá THƯ mà Ông NGUYỄN CHÍ THIỆN đang giữ, thì từ đầu cho đến chữ infortunes, các chữ S sau chữ E cũng đồng nhất như trong lá THƯ của Văn Nghệ Tiền Phong, trừ chữ S cuối cùng của chữ INFORTUNES. Chữ S này trong THƯ của Ông Nguyễn Chí Thiện có thêm phần trên cao hơn lên và đồng thời chữ S này trở thành lạc loài, không phải cùng một người viết.

Vì vậy, có thể nói rằng lá THƯ mà Văn Nghệ Tiền Phong đang giữ có tính cách đồng nhất từ một người viết; còn lá THƯ mà Ông Nguyễn Chí Thiện đang giữ không mang tính cách đồng nhất của một người.

=> Nếu Văn Nghệ Tiền Phong nói rằng THƯ mình đang giữ là Bản gốc, thì việc nói này có lý hơn bởi lẽ chữ S sau chữ E chứng tỏ một người viết. Còn nếu Ông Nguyễn Chí Thiện nói lá THƯ mà Ông đang giữ là Bản gốc, thì chúng ta có lý do nghi ngờ bởi lẽ chữ S cuối cùng không phải là của tác giả đã viết một kiểu chữ S từ đầu thư đến phút chót...."

Có thể nói bài viết này của tiến sĩ Liên là một đòn sấm sét giáng lên đầu những kẻ gian manh, xảo quyệt đã lừa gạt đồng bào suốt mấy chục năm nay. Với những chứng cớ rất rõ ràng mà bất cứ người nào cũng có thể nhìn thấy trên internet, không cần phải có kiến thức chuyên môn về khoa học nhận dạng chữ, chúng ta có thể nhận định ngay ai là kẻ gian Alibaba đã ăn cắp kho tàng văn học của thi sĩ Vô Danh!

BIẾN CỐ HAI:

Trong khi những kẻ gian đang còn choáng váng vì quả đấm ngàn cân, chưa kịp hoàn hồn thì tiến sĩ Liên tung thêm một chưởng pháp ngoạn mục khác qua bài viết "Xin đánh cá USD 200 ngàn với ông Thiện" * (xin đọc Chú Thích 2)

Trong buổi "họp báo" ngày 25 - 10 - 2008, băng đảng Alibaba Thiện định "lấy tiền đè người", cứ tưởng cứ thách đố 200 ngàn đô la thì có thể làm cho mọi người sợ hãi, phải đầu hàng. Vì có mấy ai có đủ 200 ngàn để cá độ? Mà cho dù có đi chăng nữa thì liệu có dám đụng chạm đến băng đảng Mafia Alibaba Việt Tân hay không?

Ấy vậy mà có một cao thủ võ lâm, thuộc dạng "đại lão tiền bối" dám nhận lời cá độ. Ðó là tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên đang sống tại Thụy Sĩ. Tiến sĩ Liên là người có thực học, thực tài và đang làm việc liên quan đến tài chánh. Ông đã đề nghị những bước sau đây để thực hiện việc cá độ:

1. Mục đích Thương vụ (Purpose of Transaction)

2. Hợp đồng cho Thương vụ (Transaction Agreement)

3. Ngân hàng giữ tiền cá độ (Escrow Accounts - Closing Bank)

4. Chuyển tiền vào Ngân hàng Trung gian (Funds transferred to Escrow Accounts)

5. Chứng từ cung cấp theo Hợp đồng (Proofs provided according to Transaction Agreement)

6. Trao tiền thua cho phía thắng (Releasing Funds by Escrow Bank)

Khi lời ngỏ ý "tiếp chiêu" của tiến sĩ Liên được tung ra, nhiều người đã hào hứng bắt cá độ theo phía ông Liên, số tiền từ vài trăm cho đến vài ngàn đô la. Dân bắt cá độ lý luận rằng: tiến sĩ kinh tế mà đã nhận lời bắt độ tức là chắc ăn rồi. Ổng là tiến sĩ, lại có nhiều kinh nghiệm trong ngành tài chánh, không lẽ ổng tính sai? Nghe nói có hai công ty tài chánh, một ở Anh Quốc, một ở Hồng Kông cũng sẽ bắt độ phía ông Liên.

Còn phía ông Thiện thì sao? Theo lời của "phát ngôn nhân" Bút Vàng .... "dẻo" thì ông Thiện đã có một danh sách những mạnh thường quân sẵn sàng bắt độ phía ông Thiện. Riêng anh ... hề Lý Tống, tuy là "homeless" nhưng cũng có hai chục ngàn đô để đặt cược trong cuộc chơi đầy hào hứng này! Bà Bút Vàng đã trịnh thượng hỏi: - Phía ông Thiện tiền bạc đã sẵn sàng, còn phía ông Liên đã có ai dám bỏ tiền ra chưa mà dám lên tiếng thách đố!

Rõ ràng đây là một cuộc cá độ đầy hào hứng và mang tính cách lịch sử. Cái tên "Alibaba Thiện" sẽ được đi vào lịch sử văn học của nước ta, dù là bị thua cá độ! Tuy nhiên, sau gần một tuần chính thức lên tiếng nhận lời thách đấu, người ta chưa thấy phía ông Thiện hẹn ngày giờ và địa điểm để chuẩn bị tỷ thí võ nghệ. Hay ông Thiện và nhóm "Tứ Nhà Thiện" * (Xin xem Chú Thích 3) rét quá, tính bỏ chạy? Bọn chúng cứ tưởng là lên tiếng hù thiên hạ chơi mà không ngờ có người dám làm thật!

BIẾN CỐ BA:

Vào ngày 7 tháng 11, 2008, bác sĩ Nguyễn Thị Thanh đã đưa lên Diễn Ðàn Phố Nắng hai lá thư viết bằng tiếng Pháp, một bản trắng đen của báo Văn Nghệ Tiền Phong và một bản viết trên giấy màu hồng do ông Nguyễn Chí Thiện cho trình làng hồi tháng 8 năm 2008. (Xin coi thêm phần Chú Thích 4) Bác sĩ Thanh đã phân tích tự dạng một số chữ và đi đến kết luận:

"Theo suy nghĩ thì bức thư Đỏ đồ lại bức thư đen qua máy tính dễ dàng với giấy trong."

Bác sĩ Thanh là bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ.

NHẬN XÉT CHUNG:

Tiến sĩ Liên và Bác sĩ Thanh tuy không phải là chuyên viên giảo nghiệm chữ viết nhưng cả hai vị đều là bậc "cao thủ võ lâm, đại lão tiền bối", có kiến thức chuyên môn về khoa học, do đó sự nhận xét của họ chắc hẳn phải có giá trị, đáng để cho chúng ta suy nghiệm và cân nhắc.

BA BIẾN CỐ QUAN TRỌNG KHÁC:

1. Bài viết quan trọng của tác giả Văn Trần đăng trên báo điện tử Hồn Việt UK. Bài viết này phân tích về mặt kỹ thuật, vạch trần những trò bịp, những mưu gian của đám lưu manh, ăn trộm Alibaba. (Xin coi phần chú thích 5 bên dưới)

2.
Vị cao thủ võ lâm, đại lão tiền bối Bút Xuân Trần Ðình Ngọc thách đấu "thi pháp chưởng" với vè sĩ Nguyễn Chí Thiện:

Mới đây, tôi đọc trên báo điện tử Hồn Việt UK, thấy đăng một bài thơ song thất lục bát rất hay và thú vị, nên tôi xin phép tác giả Bút Xuân Trần Ðình Ngọc sao chép lại nguyên văn. Nội dung bài thơ này như sau:

THÁCH NGUYỄN CHÍ THIỆN
Tôi thách anh cùng tôi tỉ thí
Bằng vần thơ, chữ nghĩa, văn xuôi
Muốn cuộc thi có đầu đuôi
Cộng Đồng cầm chịch, ngàn người cùng coi!
Cộng Đồng ra một đề là viết
Khoảng thời gian mười phút phải xong!
Đề tài đủ thứ phượng, long
Kinh tế, chính trị cả trong nhân quần!
Cấm không ai được gà bài hộ
Cấm phao đề kiểu Cộng lâu nay
Thơ tình, thơ đạo, thơ say
Cộng đồng giám khảo là hay lắm rồi!
Cho sử dụng thể thơ mặc ý
Nhưng nội dung phải bám chủ đề
Cộng đồng sẽ rất hả hê
Chấm bài cho biết ai về trước, sau?
Cộng đồng phải vô cùng minh bạch
Và công tâm phân tích thơ văn
Anh tài, anh chắc phải ăn
Tôi thua, tôi cũng chẳng ân hận gì!
Ưng không? Anh hứa chịu đi!
Thơ "Hoa Địa Ngục" tôi thì rất mê
Cảm phục, kính trọng khỏi chê
Chẳng riêng tôi, có bề bề dân gian!
Thua anh, tôi tặng chỉ vàng
Lương hưu có thế, trăm ngàn thì không!(1)
Thôi đừng có nói lông bông
Chịu đi, tôi báo Cộng đồng biết ngay!
16-10-2008
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
(1) Ông NCT đã đòi 100,000 đô nếu ông chứng minh được ông là tác giả tập thơ Vô Đề.

Ông Thiện nên chấp nhận cuộc tỷ thí này đi! Vàng thiệt không sợ lửa. Ông là "thứ thiệt" kia mà, chính ông đã tự nhận như vậy và cái đám lâu la của ông, chúng nó cũng tôn vinh ông như vậy! Ðây là dịp may để ông chứng tỏ cái thiên tài làm thơ của ông cho cộng đồng biết, tại sao đã gần một tháng rồi mà ông vẫn im hơi lặng tiếng, không dám nhận lời thách đấu?

3. Hồn thiêng của thi sĩ Vô Danh:

Người Việt ta thường nói "thần khẩu hại xác phàm" Câu này này ứng với trường hợp của bà Bút Vàng Ðỗ Thị Thuấn. Trong quá trình ra sức khuyển mã để bảo vệ "anh Thiện", bà đã cao hứng kể câu chuyện Ả Rập "Ali Ba Ba và bốn mươi tên cướp", trong đó tên ăn trộm Ali Ba Ba đã láu cá ăn cắp kho tàng từ bọn cướp. Tất nhiên kho tàng này bọn cướp có được là nhờ đi cướp bóc từ những người dân oan, cũng y hệt như bọn cướp việt gian cộng sản đang tung hoành tại Việt Nam.

Và bà Thuấn đã vô cùng .... hồ hởi, phấn khởi kết luận: - Nguyễn Chí Thiện chính là Ali Ba Ba!!!

Rõ ràng là không đánh mà khai, lạy ông tôi ở bụi này! Cái hay của "thần khẩu hại xác phàm là ở chỗ đó! Ðúng là thi sĩ Vô Danh rất linh thiêng, đã bắt buộc bọn gian manh tự động phải "tự thú trước bình minh", khỏi cần có ai tra khảo gì hết!

Tôi nhớ trước đây có đọc một chuyện vui về "thần khẩu hại xác phàm", xin kể hầu quý bạn đọc cho vui:

Có một anh nọ -biệt hiệu là Công Tử Vàng Khè- si mê một cô gái đẹp, con ông phú hộ trong vùng. Ông phú hộ này đang kén rể nhưng ông cũng thuộc loại người khó tính, ưa xét nét. Công tử Vàng Khè vốn con nhà giàu nên mướn một tên ma cô có tài ăn nói giảo hoạt làm người hầu và thổi ống đu đủ cho mình. Công tử nói:

- Ê, Ðồ Thúi, mày có tài ăn nói, mày đóng vai người hầu, đi theo hầu tao để tao ra mắt ông phú hộ. Tao ăn nói vụng về, chậm chạp, nếu ông phú hộ có hỏi tao câu gì khó thì mày nhớ đỡ đòn cho tao nghe mày. Xong việc, tao sẽ thưởng tiền cho mày đi hút thuốc phiện, chơi gái!

Tên ma cô nghe có hơi hám đồng tiền, mừng rơn, bèn trả lời:

- Dạ, cậu Hai cứ yên tâm. Tui đây một bụng .... Tam Tự Kinh, tiếng Tây, tiếng Tàu, tiếng Mẽo gì cũng rành tuốt luốt. Bảo đảm cậu Hai sẽ trúng tuyển, cưới được con gái ông phú hộ!

Thế là vào một ngày đẹp trời, công tử Vàng Khè xin ra mắt ông phú hộ để dự kỳ thi tuyển xin làm rể. Qua một vài tuần trà, ông phú hộ đưa mắt nhìn chàng rể tương lai rồi hỏi:

- Thế cậu học hành tới đâu rồi?

Công tử Vàng Khè tái mặt vì cậu là con nhà giàu chỉ lo đi ăn chơi tối ngày, mới học hết lớp tám, trong khi bạn bè cùng lứa nhiều người đã học xong đại học. Công Tử ấp úng:

- Dạ, thưa bác, cháu mới học hết lớp tám ....

Thấy ông chủ của mình gặp nguy, tên ma cô Ðồ Thúi đứng hầu kế bên vội lên tiếng đỡ đòn:

- Dạ, thưa phú ông: cậu Hai của con là người rất khiêm tốn! Thật ra cậu Hai của con đã có văn bằng tiến sĩ văn chương, tốt nghiệp tại trường Ðại học Hà Nội! (Xin xem Chú Thích số 6)

Ông phú hộ gật đầu, tỏ vẻ hài lòng vì có chàng rể quý là đại trí thức. Ðiều ông quan tâm tiếp theo là anh chàng rể này có phải là con nhà giàu, môn đăng hộ đối hay không. Do đó, ông hỏi dò:

- Gia cảnh của cậu thế nào? Cậu đi làm có tài sản riêng gì chưa?

Công tử Vàng Khè lại ấp úng vì tài sản cha mẹ cho bao nhiêu thì đã nướng hết vào các sòng cờ bạc, động điếm và ổ hút thuốc phiện. Thế là công tử ấp úng:

- Dạ, dạ, .... thưa bác, cháu nghèo lắm ạ!

Chỉ chờ có nhiêu đó, tên ma cô đứng hầu kế bên lại lên tiếng đỡ đòn cho chủ:

- Dạ, thưa phú ông: cậu Hai của con là người rất khiêm tốn. Cậu nói như dzậy mà hổng phải như dzậy. Thật ra cậu Hai của con chính là người giàu nhất thiên hạ đó. Cậu đang làm chủ một kho tàng rất lớn của bốn mươi tên cướp. Cậu Hai của con chính là Alibaba đó!!!

Ðúng là nhanh nhẩu đoảng, đầy tớ hại chủ! Ông phú hộ vừa nghe xong lời anh đầy tớ thì ông đá đít cả hai thầy trò ra khỏi cửa gấp. Không ai muốn gả con gái mình cho một thằng ăn trộm!

KẾT LUẬN:

Trước đây nhà văn kiêm nhà báo lão thành Ðặng Văn Nhâm đã từng nói: - đã làm việc gì thì chúng ta phải làm cho tới nơi tới chốn, đừng có đánh trống bỏ dùi. Nhà báo Ðặng Văn Nhâm là cao thủ võ lâm, vị đại lão tiền bối có trên 50 năm kinh nghiệm viết báo. Do đó, ý kiến của ông rất đáng để chúng ta trân trọng.

Lần này nhất định chúng ta phải giải quyết dứt điểm nghi án văn học. Những tên tội phạm phải bị đưa ra tòa hoặc bị trục xuất về Việt Nam. Bọn lưu manh chính trị, băng đảng Việt Tân thường lợi dụng những người có tên tuổi trong cộng đồng để lèo lái cộng đồng đi theo ý muốn của bọn chúng. Ðằng sau lưng của Việt Tân là đảng cướp việt gian cộng sản. Chúng ta có thể ví đảng cướp Việt Tân như những cái vòi của con quái vật bạch tuộc việt gian cộng sản. Bọn chúng vừa là vòi vừa là ăng ten, làm tai mắt cho bộ đầu não tội ác đóng đô tại Hà Nội. Nếu chúng ta chặt đứt hết những vòi bạch tuộc thì con quái vật tại Hà Nội có còn tai mắt thì cũng như mù như điếc. Những cái vòi bạch tuộc không hút được máu để nuôi con quái vật thì nó sẽ bị suy yếu và sẽ bị toàn dân vật ra làm thịt. Thế là đi tiêu tùng cái chế độ việt gian cộng sản. Tám mươi ba triệu đồng bào sẽ được tự do, đúng như mong ước của thi sĩ Vô Danh:

Ðảng tắt thở thì cuộc đời mới thở

Ðảng còn kia thì bát phở hóa thành mơ!

Tuy nhiên Alibaba Nguyễn Chí Thiện không muốn cho đảng bị tắt thở. Ðảng mà tắt thở thì Alibaba cùng với các "hiền huynh" của hắn như những tên việt gian Phan Nhật Nam, Trần Phong Vũ, Ðỗ Thị Thuấn và tờ báo điện tử Ánh Dương, ổ rắn độc của việt cộng cũng sẽ tắt thở!!!

Ðó là lý do vì sao chúng ta phải đấu tranh thật mạnh và bền bỉ như những chiến sĩ kiên cường bất khuất đang đấu tranh vì công lý trước "hang Bắc Pó", tòa soạn báo Người Việt tại quận Cam!

Trần Thanh
Ngày 8 tháng 11 năm 2008
--------------------------------------------------------------------------------

Chú Thích:

1. Xin đọc báo điện tử: http://www.tinparis.net
2. Xin đọc báo điện tử Hồn Việt UK: http://hon-viet.co.uk
3. "Tứ Nhà Thiện": bốn "người nhà" của ông Nguyễn Chí Thiện, gồm Phan Nhật Nam, Trần Phong Vũ, Ðỗ Thị Thuấn và Chu Tất Tiến

4. HAI THƯ BẰNG PHÁP NGỮ ĐÍNH KÈM

1- THỨ TRẮNG ĐEN: GỌI THƯ ĐEN LÀ DO VNTP ĐƯA RA NĂM 1980. THƯ NÀY CÓ NGUỒN GỐC BNG ANH QUỐC.

2- THƯ THỨ 2: GIẤY HỒNG MỰC BIC ĐỎ: DO NCT ĐƯA RA THÁNG 8/2008, NÓI RẰNG DO 1 ĐÀN BÀ BÊN ANH, CHỒNG CHẾT, THẤT TRONG ĐỐNG RÁC, GỜI CHO NCT.

Giảo nghiệm các nét chữ trong 2 bức thư

qua mắt của Bs. giải phẩu thẩm mỹ :

1- Thơ Đỏ (chữ đỏ): do NCT đưa ra vào tháng 8/2008

2- Thư Đen (chữ đen): do VNTP đưa ra năn 1980

Nhận xét chung:

a- Thư Đen có các nét chữ mập, không đều, trông như tèm nhem. Phải chăng tác giả đã dùng viết Bic bằng với mực nội hóa vào những năm trước 1979? Hay tác giả đã dùng viết tre chấm mực nên có nét không đều?

b- Thư Đỏ có các nét chữ viết Bic, rất đều, sắc sảo, gọn gàng, không thấy vẻ tèm nhem.

c- Dù sao, một điều chắc chắn là Photocopy năm 1980 của BNG Anh Quốc và của VNTP không thể làm thành nét to ra và tèm nhem.

Chữ lấy từ bức thư Đen do VNTP từ 1980

Chữ lấy từ bức thư Đỏ do của NCT đưa ra tháng 8/2008

Giảo nghiệm chữ "Monsieur"

I- Xin nhìn kỷ, trên chữ M có 4 khác biệt: - a- Hai nét giữa của chữ M làm thành chữ V: Vòng V Đen mở ra gọn, tóp trên; khác với vòng V Đỏ mở ra rộng trên. – b- Góc nhọn bên dưới chữ V Đen nét bự to và sắc không tèm nhem, coi như chữ viết bút 'tre rong' rất đẹp. Góc nhọn bên dưới chữ V Đỏ ngờ ngệch và ốm o. - c - Nét cuối chữ M Đen cao ngổng lên, nét cuối chữ M Đỏ ngắn ngủn. d- Cái đuôi cuối cùng của chữ M Đen đến gặp chữ O thì ngắn; cái đuôi cuối cùng của chữ M Đỏ dài hơn. Vì vậy khoảng cách giữa chữ M và O hoàn toàn không bằng nhau.

II- Cũng như trên, nếu nhìn kỷ 2 chữ O hoàn toàn không giống nhau. Chữ O Đen nét lớn, có lổ tròn nhỏ (rộng chiều ngang) khác với nét và lổ méo (hình hơi bán nguyệt) của O Đỏ

III- Hai chữ N có 3 điểm khác biệt nhau: - a- N Đen: góc đầu tròn trặn, dịu dàng, mập, nét không đều, như viết bằng bút tre chấm mực; N Đỏ: Nét ốm đều đặn, có góc gãy, nhọn hều. - b- Có dấu ngắt hở nhiều giữa chữ N và S. - c- Đuôi chữ N Đỏ dài hơn đuôi chữ N Đen.

IV- Xin nhìn đầu và chân hai chữ S khác biệt hoàn toàn: Phần đầu và phần chân, hai chữ đều khác nhau.

V- Nhìn kỷ hai chữ I không giống nhau: I Đen ngắn hơn I Đỏ

VI- Hai chữ E có 3 khác biệt nhau: a- E đen không có nghéo đi trước b- Chữ E Đen ốm từ trên xuống dưới. b- Cắt đứt hẳn với chữ U tiếp. Chữ E Đỏ: a- Có cái nghéo nhỏ đi trước. b- Có hình vòng tròn, trên dưới đề nở nang. c- Có đuôi đi thẵng đến dính liền vào chữ U.

VII- Hai chữ U đều khác biệt: Chữ U Đen: nghiêng về trái và hơi tóp trên nở dưới; chữ U Đỏ: nghiêng về phải và không nở dưới.

VIII- Chữ R Đen: mập lùn, nét không đều, đứt ra như con sâu ngắn, không có đuôi; chữ R Đỏ: có nét đều, không đứt ra, giống hình con sán đủa, đầu dính với chữ U, cuối là cái đuôi nòng nọc.

Kết quả: Hai chữ MONSIEUR Đen và Đỏ trong hai bức thư là của hai cây bút khác nhau xa, và không thể là photocopy của nhau. Theo suy nghĩ thì bức thư Đỏ đồ lại bức thư đen qua máy tính dễ dàng với giấy trong.

BS Nguyễn Thị Thanh

5. Bài viết quan trọng của tác giả Văn Trần:

Nguyễn Chí Thiện Không Phải Là Tác Giả Của Tập Thơ Vô Đề

Kính gởi quý đọc giả diễn đàn

Gởi ông Nguyễn Phúc Liên

Gởi bạn Dao Nguyen.

Thứ nhất chúng ta đừng đi vào cái bẫy bọn cò mồi của con Vàng và thằng Vện. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy thằng Vện (NDMT) lập luận dưới đây không khác chi con Vàng đã nói. Vẫn bản của NCT là “Bản Gốc”, báo VNTP “copy” từ “Bản Gốc” của Bịp Thiện và vì copy nhiều lần nên laser bị mờ...v.v… ôi thôi đám bịp này dốt về kỹ thuật in ấn nhưng lại nhiều trò lắm.

Van Tran dám nói chỉ có những người không biết về kỹ thuật Đồ Chữ viết theo kiểu Tracing Paper mới dám nói “ không thể có trường hợp một bức thư được viết lại mà đúng gần 95% so với bản gốc”. Nói như vậy là SAI vì không hiểu kỹ thuật viết như thế nào.

Trước nhất phóng cả tập thơ Vô Đề lớn lên cỡ khổ 500, xong dùng loại Transparent sheet (loại mỏng nhất) ĐỒ đúng như vậy (mấy em nhỏ học lớp 7 hay lớp 8 cũng làm được không cần phải chuyên môn - loại bỏ các vết dơ bên ngoài ) trang nào xếp theo thứ tự trang đó. ĐỒ xong cả tập thơ, đem tất cả các Transparent sheet này cho vào máy và thu chữ nhỏ lại cùng khổ chữ với bản của VNTP đã in ra năm 80. Bấy giờ mới muốn in ra giấy màu gì thì cứ tự nhiên mà in. Nhưng thiên bất dung gian, bọn này đã để 1 sơ hở chết cho chúng nhưng chúng lại không biết (để đó đúng lúc sẽ nói ra )

Không biết giáo sư Liên có nhớ vụ “Vẽ tờ bạc 100 đô la” hồi khoảng năm 87 hay 88 gì đó. Phải tốn gần 3 năm sau FBI mới bắt được anh thợ vẽ ra tờ 100 đô. Nhưng bị can chỉ bị tù 3 năm (giảm án) và tay thợ vẽ này chỉ ở tù có 1 ½ thì được phóng thích. Lý do? Vì anh ta Vẽ Tiền chứ không In Tiền. Phải nói anh thợ vẽ này vẽ tờ bạc 100 đến độ mắt thường không nhìn thấy được. Nhưng máy móc trong nhà Bank thì nhìn ra. Theo lời khai thì anh này vẽ để xài vì thất nghiệp, xài hết 100 anh lại vẽ 100 khác và trung bình anh vẽ 2- 3 ngày 1 tờ 100 đô la. Sau này anh thợ vẽ làm part time lại cho cơ quan FBI về họa hình cho đến nay. Đại khái câu chuyện như vậy

Trở lại vấn đề bức thư của VNTP và bức thư khác do tên bịp Thiện chụp hình đưa ra là : Thiện và nhóm của Thiện đã dùng dạng viết theo kiểu Tracing Paper để viết lại theo bản Thật (được copy) của báo VNTP in ra vào năm 80. Điều này nếu muốn viết đúng 100% cũng không khó (Van Tran đã cho thử đứa cháu viết theo dạng Tracing Paper dưới sự chứng kiến của cả 2, 3 gia đình chúng tôi. Kết quả đúng 99% - chứ không phải 95%. Nhưng xin nói trước với đọc giả các diễn đàn là Van Tran không bao giờ post lá thư đứa cháu viết thử này lên diễn đàn cả, vì làm như vậy thì dễ bị loạn giữa 2 bức thư cũng như của đọc giả) còn làm cho giấy giống như cũ mèm thì lại càng dễ vì kỹ thuật in ấn như hiện nay đến mức tinh vi, cũng như để kiểm chứng bằng cách nào mà biết đây là bản Tracing paper thì cũng không khó.

Một điều nửa là tên nào trong nhóm Thiện viết lại lá thơ đó “Cố Ý” để sai một vài nét mà bất cứ ai tinh ý nhìn vào lá thơ đều có thể nhận ra (chẳng hạn như chữ “M” và chữ “S” mà bạn Dao Nguyen đã có nói tới). Với kỹ thuật bây giờ người ta có thể làm mới thành cũ và ngược lại không có gì khó cả. Cho Nên chúng ta đừng mắc mưu bọn chúng mà nhìn vào lá thơ viết tay của ông Vô Danh (VNTP) và bức thơ được nhóm của Bịp Thiện viết lại theo kiểu Tracing Paper nói trên.

Ông Nguyễn Phúc Liên (hay bất cứ bạn đọc nào nếu muốn thử cho biết, và bạn chỉ tốn có 3 đô la thôi. Thử đi cho biết Van Tran nói đúng) thử copy bằng loại Transparent Paper cả hai lá thơ. 1 do báo VNTP in ra năm 80 và 2 là lá thơ của nhóm NCT viết bằng cách viết nói trên. Rồi chồng cả 2 lá thơ lên nhau chúng ta sẽ thấy lá thơ của NCT từ giòng 1 đến giòng 20 đều dài hơn lá thơ của VNTP in ra năm 1980. Với cách “giảo nghiệm” như vậy nên Van Tran quả quyết chúng viết lại với cách viết nói trên. Nhưng tại sao chúng lại viết câu văn dài hơn bản của VNTP?! Đây là chủ ý của chúng để đánh lạc hướng dư luận và chúng cho rằng “Bản của tên Thiện mới là “Bản Gốc” còn tất cả các bản khác đều là bản copy nên “dĩ nhiên” đó là bản “gỉa”.

Đến đây thì chắc có lẽ bạn đọc đã hiểu được phần nào. Nếu chúng ta cứ mãi chỉa vào chuyện tranh cãi chữ viết Sai hay Đúng thì chúng ta sẽ bị bọn Vàng, Vện lừa chúng ta nửa, ví như chuyện Thiện Thật, Thiện giả và Thiện có ở tù, hay có bạn đồng tù xác nhận Thiện mà quên đi vấn đề chính là : Nguyễn Chí Thiện Không Phải Là Tác Giả Của Tập Thơ Vô Đề. Nếu muốn thử Nghiệm chữ Viết, cách hay nhất là Nguyễn Chí Thiện ngồi xuống viết lại lá thơ bằng tiếng Pháp trước sự chứng kiến của hàng trăm ống kính và trước 1 cử tọa vài chục người như Bà HDT đã làm vào ngày 25 tháng 10 vừa qua. Điểm thứ 2 nếu muốn thử nữa thì NCT cũng ngồi xuống viết lại 1 bài thơ dài (bài Đồng Lầy chẳng hạn) trong tập thơ Vô Đề, rồi dùng lá thơ đó so sánh thì Thiện mới hết đường chạy và Van Tran cũng còn nhiều cách khác nữa nhưng chưa tiện nói ra. Nếu NCT thật sự muốn “giảo nghiệm” thì Van Tran chỉ cần 1hr thôi là để đủ chứng minh NCT có phải là tác giả tập thơ Vô Đề kia hay không?.

Vì vậy đừng cần tranh luận với con Vàng, thằng Vện về bức thư “Thật, giả hay Đen, Đỏ ” nửa mà nên tìm đọc lại những gì tên Thiện Bịp và đám cò mồi của chúng đã nói và viết ra trong nhiều năm qua để đưa ra cái Bịp của bọn chúng. Có như vậy thì các đọc giả trên khắp các diễn đàn họ mới thấy rõ Nguyễn Chí Thiện đúng là một tên Đại Láo và Đại Bịp.

Van Tran

6. Lý lịch "một cây xanh rờn" của Alibaba Nguyễn Chí Thiện đăng trên trang nhà của Hưng Việt (đảng Việt Tân):

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, 56 tuổi, người Hà Nội, con của ông bà Nguyễn Công Phụng. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương tại trường Ðại Học Hà Nội, thông thạo Anh văn, Pháp văn, Hán văn... Ông bị bắt lần đầu tiên vào năm 1958, trong chiến dịch Trăm Hoa Ðua Nở do nhà cầm quyền Hà Nội phát động sau năm 1954. Ông bị bắt trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm cùng với các nhà văn nổi tiếng như Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm, Phan Khôi, Bùi Quang Ðoài, Hữu Loan... Ông bị kết án hai năm tù khổ sai trong trại tập trung cải tạo và được thả vào đầu năm 1961. Tháng 11 năm 1961, ông lại bị bắt lần thứ hai mà không hề biết tội trạng và không được xét xử, được phóng thích vào tháng 9 năm 1964. Ông bị bắt lần thứ ba vào tháng 10 năm 1965 và mãi đến tháng 6 năm 1978 mới được phóng thích. Ông bị bắt lần thứ tư vào tháng 7 năm 1979 sau khi thành công trong việc đưa tập thơ "Hoa Ðịa Ngục" cho tòa đại sứ Anh quốc để đem ra ngoại quốc và được thả năm 1991

Theo bản lý lịch trích ngang này thì độc giả có một vài théc méc:

- Ở tù 27 năm, thời gian nào ông Thiện có thể thu xếp để đi học Ðại học Hà Nội, tốt nghiệp cử nhân văn chương?

- Ðại học Hà Nội là đại học quỷ quái gì?

Phải chăng là Ðại học Tổng Hợp hay Ðại học Văn Khoa? Làm gì có cái đại học nào mang cái tên chung chung là Ðại học Hà Nội, sao thấy mơ hồ quá!

- Bị bắt lần đầu tiên vào năm 1958 nhưng trong cuộc trả lời phỏng vấn bà Bút Vàng vào ngày 2 tháng 10 năm 2008 thì ông Thiện nói là ông bị bắt lần đầu tiên vào năm 1961! Sự khác biệt giữa hai cái lý lịch là BA NĂM! Chỉ có người ăn cắp lý lịch, mang lý lịch giả mới .... hay quên về những mốc biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời mình! Lần đầu tiên đi ở tù thì phải nhớ chớ tại sao lại quên, lúc thì nói năm 1958, lúc thì nói năm 1961!!! Lý do đi ở tù cũng khác nhau: - năm 1958 thì đi tù vì chiến dịch Trăm Hoa Ðua nở. Năm 1961, khi tâm sự với Thị Nở thì "anh Thiện" cao hứng sáng tác ra câu chuyện dạy học môn lịch sử "phản động" ở cái "trường" chỉ có .... một lớp, rồi bị đi tù lần đầu tiên!!! Úm ba la Alibaba Nguyễn Chí Thiện có nhiều lý lịch, nhiều năm sinh và nhiều câu chuyện ly kỳ về cuộc đời xạo ke của mình quá! Nghe nói ông Thiện có tới .... SÁU NĂM SINH KHÁC NHAU, không thua gì Hồ Chủ Tịt!!!

- Bị bắt cùng với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, cùng với những cây cổ thụ trong làng thi văn như: Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Hữu Loan, Hoàng Cầm mà không một người nào trong nhóm này, khi được phỏng vấn, biết Nguyễn Chí Thiện là cái anh chàng tép riu nào!!! Sao lọa quá!!!

- Trong cuộc tâm sự với Thị Nở ngày 2 tháng 10 năm 2008, Thiện nói là hắn bị đi tù BA LẦN. Còn theo bản lý lịch trích ngang của Hưng việt thì Thiện đi tù BỐN LẦN!

Nêu trên chỉ là một vài điểm bố láo điển hình của Alibaba Thiện. Ngoài ra còn hàng trăm thứ vô lý, dóc chó khác lớn như quả núi. Bởi vậy đồng bào và báo giới mới nghi ngờ Thiện chính là điệp viên của việt cộng cài vào để phá hoại cộng đồng thì Thiện và nhóm "Tứ Nhà Thiện" hùng hổ đòi thưa kiện để làm .... sạt nghiệp những ai dám "vu oan" cho Alibaba!!!



Yêu Cầu Hội Người Việt San Fernando Valley Giải Thích Việc Hạ Cờ Vàng Trong Ðêm Gây Quỹ Cho Cô Tim Aline Rebeaud

  • Yêu Cầu Hội Người Việt San Fernando Valley Giải Thích Việc Hạ Cờ Vàng Trong Ðêm Gây Quỹ Cho Cô Tim Aline Rebeaud Ðược Tổ Chức Tại Hội
Nguyễn Phước Việt
    Kính gởi:
    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, cơ quan, tổ chức, đoàn thể và đồng hương.
    - Ban biên tập báo Thằng Mõ.
Kính thưa Quý vị,

Vào lúc 5 giờ chiều Chủ nhật, ngày 25 tháng 10 năm 2008, tại trụ sở Hội Người Việt 7245 Corbin Ave, thành phố Winnetka, có một buổi văn nghệ gây quỹ cho cô Tim Aline Rebeaud do HNV-SFV đứng ra tổ chức.

Cá nhân chúng tôi không chống đối việc gây quỹ từ thiện của cô Tim. Xin quý vị đừng cho rằng chúng tôi chống cộng quá khích nhưng chúng ta phải luôn luôn cảnh giác trước bất cứ âm mưu lũng đoạn nào của CSVN nhằm chia rẽ và khống chế cộng đồng người Việt hải ngoại, ngay cả việc dùng thủ đoạn mượn các cơ quan từ thiện với hình ảnh một cô gái ngoại quốc để dễ dàng đánh động lòng nhân từ của mọi người rồi thực hiện những mục tiêu chính trị của họ. Không nghi ngờ sao được khi:

- Cộng Sản VN ra tay đàn áp các tôn giáo trong nước, chiếm đất chùa chiền như Việt Nam Quốc Tự; hay nhờ thờ như Tòa Khâm Xứ, giáo xứ Thái Hà thì tổ chức của cô Tim được cấp 6 mẫu đất để xây làng may mắn ?

- Chùa Pháp Vân (Canada), một ngôi chùa nổi tiếng chống đối Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ lãnh đạo, đã đứng ra gây quỹ đầu tiên cho cô Tim. Họ tự nguyện đứng ra gây quỹ hay nhận chỉ thị từ Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh trong nước ?

- Phía sau cô Tim là một nhóm người có lý lịch không minh bạch, mỗi khi gây quỹ ở đâu thì nhóm người này xuất hiện để điều khiển các buổi gây quỹ theo ý họ, đặc biệt họ luôn yêu cầu dẹp bỏ bất cứ dấu hiệu gì có hình ảnh lá cờ Vàng. Vì thế quý vị sẽ không ngạc nhiên khi thấy bất cứ chỗ gây quỹ nào của cô Tim cũng có ít nhất vài chục người lạ mặt tham dự.

Tuy nhiên những nghi ngờ trên không phải là mục đích của lá thư này. Mục đích chính của lá thư này là yêu cầu Hội Người Việt-SFV cũng như ông chủ tịch Richard Mười Trương lên tiếng giải thích ba câu hỏi sau đây:

1. TẠI SAO CÔ TIM KHÔNG CHỊU CHÀO QUỐC KỲ-VNCH TỨC LÀ KHÔNG TÔN TRONG NHỮNG NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN MÀ CÔ XIN TIỀN NHƯNG HỘI NGƯỜI VIỆT-SFV VẪN TIẾP TỤC ÐÊM GÂY QUỸ CHO CÔ TA?

2. HỘI NGƯỜI VIỆT-SFV ÐỨNG RA TỔ CHỨC GÂY QUỸ NHƯNG TẠI SAO QUÝ VỊ LẠI GỠ BỎ LOGO HỘI NGƯỜI VIỆT CÓ CỜ VÀNG BA SỌC ÐỎ TRÊN NGỰC ÁO ÐỂ MANG LOGO TỔ CHỨC CỦA CÔ TIM ?

3. TẠI SAO HỘI NGƯỜI VIỆT-SFV LẠI HẠ LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ÐỎ TRONG ÐÊM GÂY QUỸ 25/10/2008 ?

Lá cờ vàng ba sọc đỏ chính là biểu tượng cho chính nghĩa, tự do, và công lý. Lá cờ Vàng cũng chính là ID của người Việt tị nạn CS trên khắp thế giới, và cũng vì bảo vệ lá cờ này mà hàng triệu người đã gục ngã, máu xương cũng như linh hồn của họ đã hòa lẫn vào lá cờ Vàng thiêng liêng này. Thế nên, từ xưa đến nay, trong tất cả các sinh hoạt về chính trị, tôn giáo, và xã hội, cộng đồng người Việt tị nạn luôn dành cho lá cờ Vàng một vị trí tôn quí nhất.

Quý vị không có quyền tự ý hạ lá cờ Vàng ba sọc đỏ xuống vì bất cứ lý do gì !

Sự kiện hạ lá cờ vàng của Hội Người Việt đã tạo nên nhiều chia rẽ, nghi kỵ, và mất tình đoàn kết giữa đồng hương với nhau mà cộng đồng người Việt-SFV vốn có tiếng đoàn kết chặt chẽ từ trước đến giờ.

Chuyện chẳng đặng đừng không nói không được. Do đó, với lá thư này chúng tôi yêu cầu một sự trả lời chính thức từ Hội Người Việt-SFV và ông chủ tịch Richard Mười Trương.

Trân trọng kính chào quý vị,
Nguyễn Phước Việt
(Van Nuys)












---o0o---

  • Sự kiện bất thuờng cuả cô Tim Aline Rebeaud tại vùng San Fernando Valley
Hoàng Nguyên

Thưa diễn đàn và vi hữu Trà Giang,

Trong một thư viết về việc làm từ thiện cho VN, cũng trong phần trả lời phỏng vấn của chị Nam Dao trên đài 2VNR của Úc châu, đệ có đưa ra một điều kiện, đó là với mỗi đồng bạc chúng ta cho ra (mỗi 10 đồng thì đúng nguyên văn hơn), phải kèm theo một thông điệp cho người nhận. Thông điệp đó hoặc để nói lên sự bất công của CSVN, hoặc cho người nhận biết đây là lòng nhân của người chống Cộng. Dĩ nhiên đưa điều kiện này chỉ là để làm khó VC chứ chắc chắn VC sẽ không cho thực hiện.

Một số người thì cho rằng ta có thể giúp kẻ khốn cùng ở VN để tranh thủ nhân tâm, nhưng muốn tranh thủ nhân tâm thì người nhận phải biết từ đâu mà họ có được sự trợ giúp. Sự kiện cô Tim không chào cờ, không cho treo cờ VNCH (chắc là cô sợ bị chụp hình dính là cờ rồi dân trong nước thấy) thật là một bài học quý giá cho những ai nghĩ rằng mình có cơ hội tranh thủ được nhân tâm qua bàn tay từ thiện của cô và một số người khác. Họ chỉ nhận tiền chứ không nhận thông điệp.

VC thừa biết những người Việt từ trong nước ra hải ngoại quyên tiền sẽ dẫn bị chống đối, dị ứng hay không được tin tưởng. Họ có thể sắp đặt cho người dội lớt này, đội lốt nọ, nhưng nhờ một cô gái mắt xanh thì sức thuyết phục cao nhất. Người ngoại quốc có lòng nhân không phải là không có, nhưng dù không có thì VC cũng có thể "mướn" một kịch sĩ làm như cô Tim. Người mình sẽ nghĩ rằng người ngoại quốc mà còn lo cho dân mình, lẽ nào là người Việt mà ta lại làm ngơ. Nhưng theo nguồn tin bên dưới, qua hành động không chào cờ và đòi dẹp cờ của cô Tim thì rõ ràng cô ta có "ý thức chính trị" rất cao, nếu không muốn nói là đã được huấn luyện.

Thấy lá cờ của mình không được tôn trọng thì buồn vô hạn và tức cành hông rồi. Nhưng buồn và tức cô Tim thì chỉ có 1%, mà buồn và tức những người Việt tị nạn CS còn ngồi lại, còn tổ chức cho cô Tim quyên tiền thì đến 99%. Song bên cạnh cái buồn ấy, đệ cũng hy vọng rằng qua vụ này người Viện tị nạn nhìn thấy rõ vấn đề hơn một chút. Vấn đề là bàn tay chính trị của VC thao túng ở mọi nơi, trong mọi lãnh vực, dù là từ thiện cũng có. Đó là chưa kể việc ta cũng không biết đồng tiền từ thiện này đi về đâu nữa.

Chắc đại đa số chúng ta ở đây đều có thân nhân ở VN, hay đều có thể đích thân về VN. Nếu muốn làm từ thiện, xin gởi về cho thân nhân hoặc đích tay trao cho kẻ kém may mắn. Như vậy chuyện thiện vẫn làm, phước vẫn tích, mà không bị VC lợi dụng. Phần của tiểu đệ thì đã nói rồi, người nào cũng là người, đệ muốn tích phước thì biết bao nhiêu người trên thế giới để đệ giúp. Riêng đối với đồng bào VN, mỗi đồng bạc đệ giúp đểu ít nhất phải đi kèm với một thông điệp. Đối với đệ, truất đi tập đoàn độc tài tham nhũng VC là cách giải quyết vấn đề sâu nhất. Không cho đệ chuyển gởi thông điệp về người nhận thì đơn giản lắm, một cắc cũng không cho.

Dân có khổ cũng không phải trách nhiệm của đệ, đệ không làm cho họ khổ. Dân có khổ mới thấy rõ sự bất công và tự đứng lên tranh đấu.

Ai muốn bảo đệ bất nhân, đệ chịu, nhất định không để VC cười đệ ngu. Còn đệ, hì hì, đệ nhìn thấy người tị nạn CS làm việc thay cho bộ xã hội CSVN mà cười buồn (không phải buồn cười à nha).

Cuối cùng, đệ đề nghị cô Tim tổ chức một buổi ăn mời tất cả các đảng viên CSVN từ cấp xã trưởng đến bí thư trung ương, đám đó giàu lắm, mà của của chúng là của phi nghĩa.

Hoàng Nguyên
hoang4eb@gmail.com


Tim Aline Rebeaud nói láo !

VietLand

Qua một bài phỏng vấn từ tờ báo Calitoday ngày hôm nay cô Tim-Aline Rebeaud cho biết: "Trong chương trình của Tôi không thể có cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Điều nầy qúy vị biết hơn ai hết, Tôi không thể đứng dưới bất kỳ một lá cờ nào cả" .

(1) Quí vị trong Cộng Đồng tị nạn CS tại Hải Ngoại đã bị Cộng Sản chơi khăm qua hình thức "nhân đạo" để rồi tự chính mình tháo lá cờ Vàng chính nghĩa xuống.

(2) Nếu Tim Aline Rebeaud qua xin tiền cộng đồng mà không tôn trọng lá cờ của Cộng Đồng thì hãy cút xéo ngay !. Chúng tôi không cần Cô !.

(3) Quí vị nào trong cộng đồng chịu "đội quần cô Tim" để tháo lá cờ Vàng xuống thì xin đừng vác mặt ngu đần ra sinh hoạt cộng đồng nữa.

Quí bạn đọc nào có hình ảnh những tên Đội Quần Cô Tim trong Cộng Đồng, xin gửi cho BBT Vietland để phổ biến cho đồng bào Quốc Gia biết mặt những tên đội quần nầy.


Tim-Aline Rebeaud đứng ngay dưới lá cờ đỏ trong ngày nhận giải prix-henry-dunant


Tim-Aline Rebeaud đang hát bài: Em không thể đứng dưới bất kỳ một lá cờ nào cả (sic!)


Chương trình của Tim-Aline Rebeaud có lá cờ gì to thế ! Sao Tim không kêu bọn nầy dẹp cờ máu vậy !


Tim-Aline Rebeaud được Lãnh đạo đảng tại Saigon tuyên dương !Không những có cờ máu mà còn cả tượng Bác nữa !


Đảng viên Phan Khắc Từ, Phó Chủ tịch UB Đoàn kết Công giáo VN đang ca ngợi thành tích của Tim


Tim-Aline Rebeaud đang dạy cho học trò về lá cờ đỏ

Việt Land
________________

Cô TIM Saigon

Năm 1992, cô gái Thụy Sĩ tên là Aline Rebeaud đi du lịch đến Saigon. Cô sinh viên mỹ thuật tốt nghiệp đại học Genève, 20 tuổi, làm một chuyến viễn du theo kiểu Tây Ba-lô.

Cô đi từ quê hương Thụy sĩ, qua Nga Sô vòng qua Mãn Châu xuống Trung quốc, rồi đến Việt Nam. Dự trù ở lại Saigon vài ngày rồi về nước. Vào buổi tối định mệnh cô nghe tiếng khóc trong hẻm, bèn tò mò ghé lại thấy một em Cam-bốt lối 10 tuổi. Cô tìm cách cho em ăn. Phải cõng em đi vì đứa nhỏ đói và yếu quá, không đi được.

Cảm thông cho số phận của trẻ em Việt-Nam, cô gái miền Bắc Âu lên thăm trại tâm thần trẻ em tại Thủ Đức. Cô gặp một em bé Việt-Nam mồ côi tên Trần Văn Thành nằm chờ chết. Cậu bé có đủ các thứ bệnh. Aline nhận giúp đứa nhỏ vào nhà thương chạy chữa suốt ba tháng.

Cô ở lại Việt-Nam cho đến khi Thành được xuất viện. Những người Việt-Nam quanh vùng biết chuyện về cô mẹ nuôi nước ngoài nên đến đón coi mẹ con ra nhà thương. Ngôn ngữ bất đồng, bà con chỉ lên tấm bảng có đề hàng chữ tại nhà thương: khoa TIM mạch.

Từ đó người ta đặt tên cô Thụy Sĩ là cô TIM. Hồng TIM, Nguyễn Thị Hồng TIM. Và cô TIM quyết định ở lại Việt-Nam.

.