Friday, October 17, 2008

"Ông Mạnh" và "Ông Dũng" của Việt Tân cùng bè lũ Nguyễn Chí Thiện, Phan Nhật Nam ... đương đầu với nhau?


Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)

Trên web viettan.org có bài bình loạn chính trị, mang tên "Khi Ông Mạnh Và Ông Dũng Đương Đầu Với Nhau?", người viết ký tên là Trung Điền. Cái đầu đề ấy buộc chúng ta phải hiểu là người viết bài VẪN CỐ TÌNH ĐẺ RA HAI PHE trong nội bộ tập đoàn việt-gian-cộng-sản. Nghĩa là, như Trung Điền viết: "Từ lâu, ông Mạnh được liệt vào hàng ngũ của khuynh hướng bảo thủ và có chủ trương "sao y bản chánh" của đàn anh Trung quốc - Tàu làm sao ta y chang làm vậy cho chắc ăn; từ đó ông được một số lãnh đạo có khuynh hướng thân Trung quốc như Nguyễn phú Trọng, Phạm quang Nghị, Trương vĩnh Trọng … phò tá và tạo thành nhóm thân Trung quốc."

Viết đến đó, chắc là Trung Điền tặc lưỡi như tắc-kè và viết tiếp: "Thật ra ông Mạnh không phải người cầm đầu nhóm thân Trung quốc mà chính là bộ ba Nguyễn phú Trọng - Phan (là Phạm mới đúng) quang Nghị - Trương vĩnh Trọng đang tìm cách ngáng cẳng những chính sách thân Mỹ và thân Nhật của ông Nguyễn tấn Dũng."

Trước hai đoạn trích dẫn nói trên, Trung Điền đã "điếc không sợ súng", cố viết lấy được rằng: "… Bộ chính trị đã có hai lần ra văn thư hướng dẫn cho ông Nguyễn tấn Dũng phải thi hành. Hướng dẫn đầu tiên là Kết luận số 22-KL/TƯ vào ngày 4-4-2008 với 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, tăng cường kiểm soát vĩ mô. Hướng dẫn thứ hai là Kết luận số 25/KL/T.Ư vào ngày 5-8-2008 với yêu cầu ông Dũng phải điều chỉnh tỷ suất tăng trưởng thấp hơn hiện nay và chú trọng đến đảm bảo an sinh xã hội, tức là không cho xảy ra những cuộc khủng hoảng xã hội, ảnh hưởng đến uy quyền lãnh đạo của đảng.

Với hai bản hướng dẫn của Bộ chính trị nói trên, người ta đã thấy có điều gì bất thường khi ông Nông đức Mạnh, nhân danh Tổng bí thư đảng nhúng tay giải quyết thay cho ông Thủ tuớng Nguyễn tấn Dũng những vấn đề mà đáng lý ra nó nằm trong phạm vi trách nhiệm của ông Dũng. Tại sao?"

Trung Điền đã giải thích như sau: "Nhóm thân Trung quốc cho rằng Mỹ không có khả năng giúp VN giải quyết những khó khăn kinh tế-xã hội mà nhiều khi còn lợi dụng việc giúp đỡ này để tạo ra cái gọi là "diễn biến hòa bình" trong nội bộ lãnh đạo Việt cộng."

Về nhân vật Nguyễn tấn Dũng, Trung Điền (chắc đã hư cấu) hạ bút: "Ông Nguyễn tấn Dũng, từ căn bản không phải là thành phần thân Mỹ, nhưng càng ngày ông càng bị đẩy vào thế phải dựa vào Nhật và Mỹ để chống lại những "biện pháp" bá quyền của Bắc Kinh mà ở vai trò Thủ tướng phải đối đầu. Từ tháng 8 năm 2006 sau khi nhậm chức, ông Nguyễn tấn Dũng đã bị rất nhiều áp lực từ Trung quốc trên các mặt kinh tế, đối ngoại, chính trị, biên giới. Tuy nhiên, ông Dũng không dám có thái độ gần Mỹ một cách lộ liễu vì sợ phe thân Trung quốc tấn công."

Hư cấu và dẫn giải như trên về tên việt-gian Nguyễn tấn Dũng, là mánh khóe của Trung Điền muốn "nhồi sọ" người đọc rằng thằng Dũng cũng có liêm sỉ chống lại thái độ bá quyền (tức cung cách mẫu quốc) của Tàu-phù-đại-hán-bành-trướng!? Và cũng muốn nhắn nhủ rằng Dũng cũng vì "yêu nước và vì quyền lợi của VN" nên tìm cách dựa vào Nhật và Mỹ để … chống … Tàu phù! Ai mà ngã vào cái trò hư cấu này của Trung Điền, nhà bình loạn của đảng Phở Bò Việt Tân, thì đầu óc cũng bị Bò Hóa để (đương nhiên) Ủng Hộ (dù là tạm thời) Dũng, qua Dũng mà loại bỏ thành phần nguy hiểm nhất hiện nay là "Phe thân Tàu". Tóm lại là có thể xem xét lại lập trường cứng rắn, để tạm chấp nhận Hòa Giải với "Phe thân Mỹ" mà đại diện là việt-gian Nguyễn tấn Dũng, con hoang của việt-gian Nguyễn chí Thanh!!!

Để cho cái trò ma giáo này hấp dẫn hơn với người đọc, có lòng yêu nước nhưng thiếu thông tin trung thực, Trung Điền đưa ra một số dẫn chứng thực cũng có mà giả cũng có và sắp xếp cho có vẻ hợp lý và khách quan, nên Trung Điền viết tiếp: "Nhưng từ đầu năm 2008, hai biến cố sau đây đã làm cho ông Nguyễn tấn Dũng và những thành phần thân cận là Thượng tướng Phùng quang Thanh (Bộ Trưởng Quốc Phòng), Thượng tướng Lê văn Dũng (Chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị) (hai thằng này được phong là đại tướng ngụy quân việt-gian-cộng-sản lâu rồi, Trung Điền thiếu cập nhật thông tin thế?) và Trung tướng Nguyễn huy Hiệu (Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng) có những thái độ dứt khoát trong việc đi gần với Mỹ. Đó là vụ Trung quốc ngang nhiên áp lực hãng dầu Exxon Mobil của Mỹ không được cộng tác với Cộng sản VN nghiên cứu dầu trên Biển Đông và Hải quân Trung quốc đã cho tàu chiến trang bị vũ khí hạt nhân chạy vào trong hải phận VN ở miền Trung. Ngoài ra, sự kiện các Tướng Quân khu Hà Nội đã bất tuân lệnh của ông Nguyễn tấn Dũng và Bộ Quốc Phòng tiếp tục các hợp đồng kinh tế với những công ty của Bắc Kinh mà ông Dũng đã ra lệnh cho Quân đội không được làm kinh tế từ năm 2007, khiến ông Dũng phải cách chức hàng loạt. Sau khi từ Hoa Thịnh Đốn trở về vào cuối tháng 6 năm 2008, ông Nguyễn tấn Dũng đã bật đèn xanh cho Bộ Ngoại giao Cộng sản VN xúc tiến mời Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John D. Negroponte đến VN vào trung tuần tháng 9 để bàn thảo về việc chuẩn bị cuộc họp đối thoại về hợp tác chiến lược, diễn ra vào đầu tháng 10. Đồng thời ông Dũng cũng bật đèn xanh cho Bộ Quốc Phòng đưa khoảng 10 ngàn sỹ quan trong các binh chủng không quân, hải quân, quân báo và người nhái sang Hoa Kỳ tu nghiệp những kỹ thuật mới về quốc phòng từ 2008 đến 2010. Ông Dũng còn cho mời một số chuyên gia kinh tế làm việc trong các viện nghiên cứu chiến lược của Hoa Kỳ tham dự hai Hội nghị tư vấn về kinh tế cho nội các Nguyễn tấn Dũng vào cuối tháng 9 năm 2008. Nhìn vào hàng loạt những hành động nói trên của ông Nguyễn tấn Dũng kể từ sau khi ông đi Mỹ về vào cuối tháng 6, không ai mà không thấy ông Nguyễn tấn Dũng đang tìm cách đi gần với Mỹ.

Rõ ràng là ông Dũng đang muốn dựa vào Mỹ để tìm lối thoát cho phe nhóm ông ta trước sức ép của Trung quốc và phe nhóm Nông đức Mạnh. Chính trong bối cảnh xung đột đó, Hội Nghị Trung ương đảng CSVN lần thứ 8 đã bị thu ngắn lại chỉ còn có ba ngày-một thời gian quá ngắn để bàn về những vấn đề dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Hệ quả hiển nhiên là lãnh đạo Hà-Nội không những đã không đưa ra được giải pháp nào hữu hiệu để tháo gỡ các bế tắc trầm trọng về kinh tế và những bất ổn về xã hội, mà còn để lộ cho người ta thấy sự khuynh loát của hai thế lực Mỹ và Trung quốc càng ngày càng sâu đậm trong nội bộ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam."

Những bạn đọc có điều kiện cập nhật thông tin thì có thể nhận thấy bài bình loạn này của Trung Điền là sự sao chép lại ý kiến của Roger Mitton và Carl Thyer, có thêm chút quan điểm "chính trị đi đêm và chủ hàng" của Công ty Phở Bò! Nghĩa là ra vẻ khách quan, lịch sự (vì kính cẩn gọi việt-gian bằng Ông và tính tự "cộng sản" thì viết hoa…), và "hàn lâm" vì trích dẫn số của hai "kết luận" của bộ chính trị việt-gian-cộng-sản, nhưng vẫn chỉ có một mục tiêu duy nhất là tô son đánh phấn cho việt-gian Nguyễn tấn Dũng thành người "cấp tiến". Thái độ của Dũng trước vụ cướp đất ở Giáo xứ Thái Hà và Tòa Khâm sứ ra sao, cũng như Dũng đã trực tiếp nói với Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt những gì, chẳng lẽ Trung Điền không biết hay sao? Còn nữa, con bull-dog Nguyễn văn Nhanh, tận tụy và trực tiếp chỉ huy đàn chó áo vàng đến cắn bậy giáo dân đang cầu nguyện, cũng như bảo vệ cho xe ủi phá Tòa Khâm sứ, chính là kẻ hai tháng trước đây đã được Dũng ký quyết định thăng cấp từ đại tá lên thiếu tướng đấy. Rồi cái việc Dũng ký quyết định thay đổi nhân sự chóp bu trong ngụy quân việt-gian-cộng-sản ở Hà-nội, mà mấy anh, chị thày bàn theo đuôi đặc công đỏ Bùi Tín, cho là Dũng thanh lọc tay chân "phe thân Tàu", bằng người của mình. Vậy mà bây giờ người của Dũng trong cả lính ngụy lẫn công an lại "ngáng chân" Dũng là thế nào?

Thêm vào đó, Trung Điền viết rằng: "Bộ ba Nguyễn phú Trọng, Phạm quang Nghị, Trương vĩnh Trọng đang tìm cách ngáng cẳng những chính sách thân Mỹ và thân Nhật của ông Nguyễn tấn Dũng." Viết khơi khơi như vậy thì thật là hàm hồ! Chứng cớ đâu? Cụ thể Dũng làm việc gì mà bị bộ ba nói trên ngáng cẳng? Trong "những chính sách thân Mỹ và thân Nhật" của Dũng, xin Trung Điền chỉ cần kể ra MỘT thí dụ và cũng dẫn chứng là cái "bộ ba nói trên" đã ngáng cẳng Dũng về cái chính sách ấy như thế nào? Nếu chỉ một thí dụ cũng không nói lên được thì nên kiếm việc khác vừa với trình độ, để kiếm cơm một cách lương thiện mà bỏ vào mồm, đừng vì tiền hoặc một áp lực nào mà viết bậy, lừa đảo bạn đọc, làm nhiễu thông tin trong lúc Cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng-sản đang cần nhận rõ diện mạo của kẻ thù dân tộc.

Việt-gian-cộng-sản như con tắc kè. Nếu chỉ nhìn sự thay đổi màu sắc của nó mà cho rằng con tắc kè có màu da sáng hơn là "cấp tiến, thân Mỹ…", còn con màu da sẫm hơn là "bảo thủ, thân Tàu-phù-đại-hán-bành-trướng" thì là một lầm lẫn, là một thiếu sót có tính khoa học về nhận thức đối với "bè lũ" tắc kè. Sự thay đổi màu sắc trên da loài tắc kè là nhằm đánh lừa con mồi, đánh lừa kẻ thù. Còn bản chất hai con dù có màu sắc khác biệt thì vẫn là một.

Con tắc kè việt-gian-cộng-sản Nguyễn tấn Dũng vì muốn Lừa Đảo và Tránh Đòn của Mỹ và phương Tây, cũng như của Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản, nên nó phải đổi màu khác với con tắc kè Nông đức Mạnh. Cũng giống những tên như Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện, phải đổi màu là "tác giả" Tập thơ Vô Đề; Chu tất Tiến, Phan nhật Nam … phải trong màu "cựu sĩ quan QLVNCH"; Bùi Tín, Vũ thư Hiên … phải trong màu "phản tỉnh cuội". Nhưng Bản Chất thực của lũ đó là việt-gian nên chúng có thể đàn đúm, giữ tình đồng loại với nhau và kêu gọi kiểu này kiểu khác "Hòa Hợp"với bè lũ việt-gian-cộng-sản Nông đức Mạnh, Nguyễn tấn Dũng …! Và tất cả bọn chúng đều có hành động, viết hoặc nói giống nhau về cùng mục tiêu, nhưng ở các hướng khác nhau, theo sự chỉ đạo chung.

Dẫn chứng cụ thể:

Thứ nhất: Tập đoàn việt-gian-cộng-sản chóp bu, kể từ thằng Phạm văn Đồng còn chưa chết, đã đổi giọng gọi Cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng-sản là "trộm cắp, đĩ điếm" thành "Việt kiều yêu nước"!!!

Vì sao? Vì Việt-kiều là "đàn gà đẻ trứng vàng", năm sau đẻ nhiều hơn năm trước. Theo dự đoán của chính việt-gian-cộng-sản thì năm 2008 này, kiều hối có thể lên tới trên 10 tỷ USD, và không bị ràng buộc một điều kiện nào!

Vì Việt kiều là chiếc cầu nối cho giao thương với các nước trong thế giới tự do và cũng là thuốc hóa trang từ bộ mặt việt gian cho bớt rõ nét, để hy vọng lừa được nhân dân yêu công lý trên toàn thế giới và các thế hệ nối tiếp của nhân dân VN cả trong và ngoài nước!

Cũng qua Việt kiều (Không yêu nước, vì chúng đã đầu hàng cách này hoặc cách khác) để thực thi Thôn Tính Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản thành "công dân" cái gọi là "cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN), cư trú và sinh sống tại nước ngoài. Đồng thời cũng qua Việt kiều(không yêu nước) để rửa những đồng tiền đầy xương máu, tủi nhục và mồ hôi của nhân dân cả trong và ngoài VN mà chúng đã ăn cướp, bóc lột kể từ ngày tổ chức việt-gian-cộng-sản của chúng nắm được quyền đô hộ bằng lừa đảo và bạo lực!!!

Thứ hai: Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện là kẻ được đảng Phở Bò cho tiền nuôi dưỡng từ khi còn ở VN. Ra đến hải ngoại cũng được Phở Bò kèm cặp đi đây đi đó diễn thuyết, kẻ tung người hứng. Bất kể tổ chức ma trơi nào cũng có mặt Thiện, cái cầu "hòa giải-hòa hợp" Hải Ngoại với "phái đoàn" trong nước ra là Hoàng minh Chính để chính thức ra mắt Tiểu Diên Hồng, cái lưới thép để Quây Cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng-sản về một mối và từ đó sẽ đi vào quỹ đạo do tập đoàn việt-gian-cộng-sản sáng tạo và điều hành. Trong hàng ngàn thí dụ mà mọi người đã vạch mặt Lừa sĩ Thiện rất rõ ràng, nhưng vẫn còn nhiều tên dùng bút làm ống đu đủ thổi hậu môn Thiện, là "chống cộng" đến … bị lột mặt LỪA vẫn chưa thôi!!!

Nam Nhân tôi kính xin quý bạn đọc hãy theo rõi bài trả lời phỏng vấn của "nhà chống cộng hết chỗ … chửi "Nguyễn chí Thiện, với đài Little Saigon Radio, ngày 4 tháng 12 năm 2004, để hiểu bộ mặt thật của Thiện và lũ lâu la cầm ống đu đủ. (Xin đọc bên dưới).

Thứ ba: Về tên Bùi Tín, chỉ xin trích chút xíu "sự phản tỉnh"của hắn để quý bạn đọc Bùi Tín "Phản Tỉnh" hay hắn làm thuyết khách CHIÊU HỒI Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản hãy "Phản Tỉnh để quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải, hòa hợp để tăng thêm số lượng Bò Sữa cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản".

Thí dụ một: Trong "Mây mù thế kỷ", trang 54, Bùi Tín viết: "Ngay một số trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy lãnh đạo của chế độ VNCH trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với tôi: "Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ ấy đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài. "Ở trong nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Saigon cũ, cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người "quốc gia"ở nước ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước …."

Thí dụ hai: Trong "Mây mù thế kỷ", trang 55, Bùi Tín nhận xét về Quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ:"Về lá cờ vàng ba sọc đỏ, nó được dựng lên dưới thời thực dân Pháp. Dưới lá cờ ấy biết bao nhiêu người chết oan uổng, mẹ tôi đã bị quân đội viễn chinh Pháp bắn chết. Hàng chục vạn người chết trong những cuộc càn quét của quân Pháp và lực lượng do thực dân Pháp xây dựng. Rồi sau này là những đợt "tố cộng", "diệt cộng", thực chất là giết những người yêu nước ở miền Nam."

Thí dụ ba: Về QLVNCH mà ở thí dụ hai, Bùi Tín viết là "Lực lượng do thực dân Pháp xây dựng", thì ở "Mây mù thế kỷ", trang 32, Bùi Tín đã BÔI NHỌ như sau: "Nó được chính quyền thực dân Pháp lập nên, được người Pháp tổ chức và huấn luyện. Các sỹ quan cấp cao nhất hầu hết là học ở các trường quân sự của thực dân Pháp. Các tướng Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn cao Kỳ, Nguyễn văn Hinh, Trần văn Đôn, Dương văn Minh, Phạm văn Phú, Đỗ cao Trí, Ngô quang Trưởng, Đỗ Mậu … đều thế cả. Trước nhân dân cả nước VN, trước dư luận quốc tế, quả thật là có nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy những chữ "yêu nước", "chính nghĩa", khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt nam."!!!???

Thí dụ bốn: Bùi Tín coi việt-gian-cộng-sản là Yêu Nước, viết trong cuốn "Mặt thật", trang 119, như sau: "Cách yêu nước khác nhau dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước." Nghĩa là nói như Bùi Tín thì việc chúng lừa QLVNCH vào các trại cải tạo cũng là biện pháp xuất phát từ "yêu nước", tại chúng ta không có "đôi mắt tỉnh táo" nên không nhìn ra. Có mỗi Phan nhật Nam và đồng bọn là nhận ra, chắc là nhờ "đôi mắt tỉnh táo" hay nhờ bản chất là loài "cẩu trệ" như Cha, Ông chúng ta đã gọi những tên liếm gót giặc?

Thí dụ năm: Trong "Hoa xuyên tuyết", trang 122, Bùi Tín liệt kê những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Nguyễn văn Linh, Võ nguyên Giáp, Lê đức Thọ … và ca ngợi rằng: "Nét chung của các ông là tận tụy cho mục tiêu va sự nghiệp cách mạng, rất tin tưởng và tự tin ờ công việc mình làm, sống giản dị, có tấm lòng cởi mở và thân tình với xung quanh. Các ông đều tiếp thu phong cách sống của chủ tịch Hồ chí Minh."!!!???



Thí dụ sáu: Trong "Mặt thật", trang 338-339, Bùi Tín vạch kế hoạch cho Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản đi vào "lộ trình trở thành cái gọi là công dân cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN, cư trú ở nước ngoài như sau: "Nên lập nên những tổ chức thiết thực hơn, mở ra các cuộc vận động quyên góp tiền của theo các hướng:

- Lập quỹ cứu trợ trẻ em bị suy dinh dưỡng nặng (ước chừng 2 triệu trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi. Trẻ em trong nước từ 15 năm nay sanh ra nhẹ hơn trước trung bình 200 gram và ngắn hơn 2 xăng-ti-mét là một nguy cơ cho nòi giống).

- Lập quỹ hỗ trợ thương binh vừa và nặng của các bên trong cuộc chiến, không phân biệt thuộc bên nào (số này ước tính lên đến 300 ngàn người). Hiện cuộc sống của bà con này vô cùng bi đát.

- Lập quỹ khuyến học, cấp học bổng cho học sinh giỏi ở trong nước và ra các trường đại học ngoài nước (mỗi năm khởi đầu 200 em, sau sẽ nâng lên 800, rồi 1 ngàn đến 2 ngàn).

- Lập quỹ bảo tồn các di tích văn hóa (ngoài khu Đại Nội và các lăng tẩm ở Hue61u được UNESCO hỗ trợ, có chừng 250 di tích văn hóa có ý nghĩa cần bảo tồn, trùng tu và duy trì gồm các đền chùa lớn như vùng Hoa Lư (Ninh Bình), khu Đại Nội Thăng Long từ đời Lý (nay ở trong khu vực Bộ quốc phòng) cho đến các mộ của các danh nhân như Nguyễn Du, Đặng trần Côn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn đình Chiểu.

Các quỹ này có thể đặt tên là Quỹ tình thương số 1 đến số 4.

Không lo rằng tiền quyên góp sẽ đi vào túi tham nhũng vì các Quỹ ấy đều có cơ quan quản trị đặt đại diện ở trong nước cùng điều phối tận cơ sở. Chắc chắn nếu thực phẩm, sinh tố, sữa, xe đẩy các loại cho thương binh được phân phát cùng với các học bổng được cấp, các di tích được bảo tồn do công sức của cộng đồng sẽ được phát huy mạnh mẽ ở trong nước. Nó sẽ có tác dụng bằng hàng trăm bài diễn văn và hô hào, bằng hàng trăm nghị quyết. Và lúc ấy những bài diễn văn và nghị quyết chắc sẽ gần hơn với cuộc sống ở trong nước, đi vào lòng người nhanh và sâu.

Tôi nghĩ hiện nay đã là hơi chậm, nhưng vẫn còn là thời cơ để làm những việc thiết thực. Đó là việc thiện, việc nghĩa, cũng là việc làm rất chính trị, hợp ý bà con ta ở ngoài nước, hợp lòng bà con ở trong nước, rất thực tế nhằm hỗ trợ cho phong trào dân chủ ở trong nước.

Khi tình thương đã thấm được trong và ngoài nước, cộng đồng sẽ có đủ sáng kiến: quyên góp, biểu diễn văn nghệ, dạ hội, vũ hội, triển lãm, bán huy hiệu, góp hàng tháng một buổi tiền lương, làm việc thiện nguyện để góp vào các Quỹ tình thương. Quỹ có thể đạt hàng chục cho đến hàng trăm triệu đô-la, theo mức độ của tình thương được khơi động."

Nam Nhân xin được trích chút xíu bên trên, nghĩ rằng như thế cũng để quý bạn đọc thấy việc làm của Bùi Tín chính là thuyết khách, dựa vào lũ nằm vùng để "Chiêu Hồi" chúng ta về với việt-gian-cộng-sản bằng 4 "Quỹ tình thương", thực chất là "Bồi thường chiến tranh" của kẻ "thua trận" như Bùi Tín đã mạt sát chúng ta mà Nam Nhân tôi đã trích bên trên. Đồng thời, nếu nghe lời Bùi Tín mà trích mỗi tháng một ngày lương góp vào "Quỹ tình thương", có nghĩa trên thực tế là Đóng Thuế Thu Nhập cho ngụy quyền việt-gian-cộng-sản, như thế là còn chấp nhận là "công dân cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN" thì mới phải đóng thuế thu nhập chứ!!!

Xin quý bạn đọc bớt chút thì giờ tham khảo tiếp những phát biểu hay viết của bè lũ Nguyễn chí Thiện, Phan nhật Nam … thì sẽ thấy chúng cùng một đồng một cột với Bùi Tín mà cũng là quan điểm của lũ Phở Bò, qua bài của Trung Điền, nêu trên, cố tuyên truyền, ngụy tạo ra một cái bẫy mà chúng đặt tên là "Phe thân Mỹ, hay cấp tiến" để tạo cơ sở "hòa giải, hòa hợp" với cái "phe thân Mỹ", mà đại diện là con tắc kè việt-gian-cộng-sản Nguyễn tấn Dũng, qua ngòi bút Trung Điền, Dũng cũng lo cho tiền đồ của đất nước. (sic!)

Trong phân tích, có thể Nam Nhân, từng là một quân nhân trong Quân-chủng Không quân của QLVNCH hào hùng, mới tập cầm bút thay cho súng, còn bỏ sót nhiều dẫn chứng, kính xin các niên trưởng trong QLVNCH, các bậc trưởng thượng cao minh và quý bạn đọc chỉ giáo thêm. Trân trọng đa tạ.

Anh-quốc, ngày 17 tháng 10 năm 2008

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Những tài liệu để quý bạn đọc tham khảo cùng bài viết nói trên:

1. Nguyễn Chí Thiện kêu gọi đừng biểu tình chống việt-gian cộng-sản.

Phương pháp yêu nước của Nguyễn Chí Thiện


Little Saigon Radio, ngày 4/12/2004
Ngỏng tai lên nghe Nguyễn Chí Thiện phát biểu :

" Tôi xin thí dụ: Khi cụ Nguyễn Trãi vây một tên tướng giặc ở Nghệ An mà muốn thuyết phục nó ra hàng để khỏi tốn xương máu của quốc dân thì cụ đã viết thư cho tướng giặc đó mà gọi hắn là "hiền huynh."

Muốn làm được những công việc đó phải trang bị cho mình, phải có những lớp huấn luyện như trong truyện để cho giới trẻ nắm được những lý luận về từng vấn đề một: về Hồ Chí Minh như thế nào, lịch sử Đảng là ra làm sao, về những việc Đảng đã làm, tất cả những điều đó đều phải nắm chắc chắn thì mới thuyết phục được, thì mới mong người khác nghe theo mình. Tôi thấy kinh nghiệm rất cần thiết cho cuộc đấu tranh của chúng tạ Nếu chúng ta không làm những việc đó thì chúng ta dần dà sẽ mai một đi mà thôi.

Công cuộc đấu tranh của chúng ta ở hải ngoại này nếu mà muốn có tổ chức, tôi muốn nói về một điểm chúng ta tranh cãi nhiều, đó là không cần phải biểu tình nữa, cứ đến gặp họ, nói chuyện làm cho họ mở mắt ra, lập tức CS không dám cử người sang nữa, chứ không nhất thiết phải đi biểu tình. Đồng bào đã mệt mỏi rồi, đi làm đi ăn nhiều, nay nó gửi sang nhóm này, mai nó gửi sang nhóm khác, làm thế nào có thể biểu tình quanh năm được. Biểu tình không phải là phương pháp hữu hiệu nhất đâu. Có phương pháp khác là cần phải có người hiểu biết, có đầy đủ lý lẽ xâm nhập vào họ, thuyết phục họ. " (Trích E-mail của tieudietcs" tieudietcs@gmail.com ngày 15-10-2008 trên Diễn đàn ThaoLuan9)

Thế thì ngày hôm qua 14-10-2008, quý vị NVQG ở Seattle kéo nhau đi biểu tình chống Đại sứ VC Lê Công Phụng là làm trái “ lời khuyên” của tên điệp viên VC Nguyễn Chí Thiện rồi đó. Tại sao quý vị không vô trong hội trường, thuyết phục “hiền huynh” VC Lê Công Phụng để hắn mở mắt ra và về với chính nghĩa Quốc Gia theo lời mách nước của tên điệp viên VC Nguyễn Chí Thiện?

Bấy lâu nay, NVQG đã tốn nhiều công sức thuyết phục “hiền huynh” điệp viên VC Nguyễn Chí Thiện nên tự thú không phải là tác giả tập thơ Vô Đề và ra chiêu hồi với NVQG nhưng điệp viên VC Nguyễn Chí Thiện vẫn ngoan cố nín thở qua sông!

"Hiền huynh" điệp viên VC Nguyễn Chí Thiện hãy "làm gương" trước thì NVQG mới có thể tin "lời khuyên" của "hiền huynh"!

Tuấn Phan

From: Aladin Nguyen
Subject: [diendanviahe] Nguyen Chi Thien khuyên đồng bào đừng đi biểu tình chống VC nữa, mà hãy nói chuyện với họ..
To: thaoluan9@yahoogroups.com, "douggie anatole" ,
Cc: quatloiphong7@yahoo.com
Date: Wednesday, October 15, 2008, 4:34 PM

Nguyễn Chí Thiện đã lòi đuôi đỏ "hòa hợp hòa giải" với giặc cờ đỏ VC rõ ràng rồi nhé. Đừng có mà chối cãi, chạy tội chữa lữa cho đồng chóe NCT chủ trương hàng giặc cộng, nghen hai đồng chóe .., chó sủa bốn mùa: xxxxx !

NCT khuyên đồng bào nên nói chuyện thẳng với VC hầu để thuyết phục họ biết phải trái, thiện ác ư ? Thưa đồng chóe NCT, việc này thì theo lịch sử Việt đã ghi lại, là chính quyền VNCH đã làm từ lâu rồi cơ, thế mà lũ đầu trâu mặt ngựa Việt gian cộng sản của đồng chí chúng có nghe đâu nào. Kìa, hãy nhìn vụ "Hiệp Ước Paris" viết chưa ráo mực, cộng sản Việt gian của đồng chí liền xé cái toẹt rồi xua quân xâm lăng miền Nam, vi phạm hiệp ước đấy, có ai nói chúng nghe đâu nào ? Cả Liên Hiệp Quốc nói với chúng (CSVG) với giấy trắng mực đen mà chúng vẫn còn không nghe, thì huống hồ là đồng bào Việt Nam, những nạn nhân của chúng, đang bị chúng đè đầu cỡi cổ, khủng bố và giết hại suốt mấy chục năm nay.. Lịch sử Việt còn nhiều lắm cái kiểu "người Việt Quốc Gia hãy ngồi nói chuyện thuyết phục VC" như thế này, lời khuyên và cung cách chống cộng ...đồng của đồng chóe Nguyễn Chí Thiện hôm nay thì chân tướng của đồng chóe NCT đã lộ diện qúa rõ ràng rồi..

Kẻ ngu thì cứ việc ôm háng, đội đít NCT lên đầu mà tôn thờ làm thần tượng đánh trâu của mình (như xxxx ..), không ai phản đối việc làm của lũ tay sai này cả. Còn những người ...l ừng khừng giữa chừng chưa nhìn ra giữa Thiện và Ác, thì nay là cơ hội để qúy vị nhận xét và đánh gía lời tuyên bố của đồng chóe chôm chỉa, đạo thơ Nguyễn Chí Thiện kia vậy..

Nào ta hãy đọc một vần thơ của thi sĩ Khuyết Danh viết trong Vô Đề, rồi tự hỏi một Người có khí khái hào hùng và cương quyết với VC như thế, thì liệu có thay đổi lập trường để đòi đi "nói chuyện hòa hợp hòa giải với VC hầu thuyết phục chúng" giống như đồng chóe Nguyễn Chí Thiện, kẻ chôm chỉa, đạo thơ của Người để làm của mình kia không nào ?

... Cuộc đời tôi có nhiều lầm lẫn
Lầm nơi, lầm lúc, lầm người
Nhưng cái lầm to uổng phí cả đời
Là đã ngốc nghe và tin cộng sản !!
Khuyết Danh, 1964, Mỗi Lầm Lỡ

2. Phan Nhật Nam chạy tội cho việt-gian cộng-sản xâm lược VNCH.

Nhà văn Phan Nhật Nam viết bậy rồi!

Cách đây độ hơn một tuần lễ, trên các diễn đàn có một bài viết của ông Phan nhật Nam, được giới thiệu là “thơ” với tên bài là: “Tổ Quốc Chúng Tôi Không là “chế độ các anh””

Ngay từ cái tên của bài được giới thiệu là “thơ” này, đã làm tôi ngạc nhiên về khả năng dùng chữ của một “nhà văn”, lại còn là “nhà thơ” nữa !!! Không hiểu ông Phan nhật Nam hiểu các khái niệm “Tổ Quốc” và “Chế Độ” (tức chế độ chính trị) ra làm sao mà lại có cách dùng giống Nguyễn gia Kiểng thế. Định lập dị chăng?

Nêu việc trên để thấy rõ hơn về trình độ “chơi chữ” của ông nhà văn họ Phan. Cái cần nói là trong bài gọi là “thơ”nói trên, Phan nhật Nam đã nhập nhằng QUẢNG CÁO cho cái gọi là LẬP TRƯỜNG HÒA GIẢI HÒA HỢP khi hạ bút:
    ……. “Giữa vùng nước phương Nam nầy chiến hạm
    Hải Quân 10 Nhật Tảo,
    Hòa máu Ngụy văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh.(1)
    Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
    Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!
    …………………………………………………………..
    …………………………………………………………..
    Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu,Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3)
    nhưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược
    Phan thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc
    Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him lam (4)
    Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Đinh Công Tráng.(5)
    Đễ Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
    Để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
    Và Độc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh
    Việt Nam
    Tên gọi đến..
    Rưng rưng nước mắt cảm xúc." ( Hết trích )
Ông Phan nhật Nam muốn hòa chung máu của riêng ông với máu của lũ ngụy binh Việt gian cộng sản chết ở Điện Biên phủ, vì âm mưu bành trướng của đế quốc đỏ Nga-xô và Tàu cộng, là việc lựa chọn của ông. Thuở đó, tướng Phạm văn Phú cùng đồng đội, thuộc lực lượng vũ trang của Chính phủ Bảo Đại, cũng có nhiều người hy sinh để chống sự bành trướng đỏ đấy. Và, cái lực lượng đó chính là tiền thân của Quân lực VNCH, mà ông từng lấy làm vinh dự đeo lon đại úy. Chẳng lẽ thực sự ông ĐÃ bị cải tạo qua những năm tháng ở nhà tù của Việt gian cộng sản, đến nỗi lú lẫn Không biết rằng: Kể từ 1947, nhiều người trong Chính phù Liên Hiệp Kháng chiến Đã nhìn ra phần nào dã tâm bán nước của tập đoàn Hồ chí Minh, nên đã tụ hội lại Quanh Quốc trưởng Bảo Đại, để chống lại sự xâm lược đỏ Nga-xô, Tàu cộng bằng ngụy quân Việt gian cộng sản. Cái lực lượng chính trị và vũ trang ấy chính là tiền thân của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa sau này cũng như của Quân lực VNCH vậy.

Ngay sau 1949, khi Tàu cộng làm chủ lục địa Tàu thì tên Đại Việt gian Hồ chí Minh đã bò sang Tàu triều kiến , xin chỉ thị của hai mẫu quốc Nga-Tàu. Và việc làm đầu tiên của Hồ khi về nước là bằng mọi cách, bằng mọi giá cướp quyền lãnh đạo và sử dụng lực lượng vũ trang. Và thế là sau cái gọi là “Rèn cán, chỉnh quân” và “đấu tố chính trị” cũng như tiếp tục mở cửa thu nhận ồ ạt người, chủ yếu trong lực lượng vũ trang, vào đảng Việt gian CS và đoàn thanh niên cứu quốc (một tổ chức cho lớp trẻ chuẩn bị bổ xung cho lực lượng của dảng Việt gian Hồ chí Minh). Sau đó, thằng Hồ chí Minh cho đổi danh xưng từ Quân đội Quốc gia của Chính phủ Liên Hiệp thành cái gọi là “quân đội nhân dân “hay tên khác là “bộ đội “cụ Hồ””. Và cái tôn chỉ lúc còn là Quân Đội Quốc Gia là “Trung với Nước, Hiếu với Dân “ bị đổi thành: “trung với đảng (tức đảng Việt gian cộng sản), hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hòan thành, khó khăn nào cũng vượt qua , kẻ thù nào cũng đánh thắng “.

Trận Điện Biên phủ xảy ra như thế nào, ai chỉ huy, ai viện trợ cả vũ khí, cả binh lính, quân nhu thì đến nay đã rõ ràng do chính cả Tàu cộng, Nga-xô và người ở các nước khác viết ra rất rõ và rất nhiều cũng như rất chi tiết. Cho nên làm gì có “Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng cúm, Him lam (4)” Đó là lũ ngụy quân Việt gian cộng sản. Phan nhật Nam đừng gỉa khùng mà nhai lại nhưng bài học trong trại cải tạo của VGCS nhé !!!

Tôi là một sỹ quan của Quân lực VNCH. Tôi không cho phép ông Phan nhật Nam đem máu của những quân nhân VNCH để hòa chung với máu của mọi loại Việt gian, đặc biệt là máu của lũ Việt gian cộng sản.

Từ khi Phan nhật Nam ra hải ngoại thì đã có nhiều tin đồn không hay lắm về Phan nhật Nam. Nhưng thời gian gần đây, Phan nhật Nam đã có những việc làm không giúp gì cho cuộc đấu tranh của người VN trong và ngoài nước nhằm loại bỏ sự thống trị của Tập đoàn VGCS. Thí dụ, qua hệ truyền hình SBTN, đã thổi ống đu đủ, tô son trát phấn cho những tên kiểu như Du tử Lê.

Mọi người không lươn lẹo như ông đâu, ông Phan nhật Nam. Ông đáng được liệt vào loại: Nhà văn Đà điểu.

Nam Nhân

Chú ý: Xin quý vị đọc toàn bộ bài “thơ” ở bên dưới:
    Tổ Quốc Chúng Tôi
    Không là “chế độ các anh”


    Gởi Kim Phượng,
    Bằng Hữu Úc Châu nơi Phương Nam

    Hãy thống hận khi Đất cha ông cướp đoạt mất
    Hãy gào uất buổi Biển, Trời tổ tiên giặc chiếm, cắt
    Hãy biết xót đau,
    Hãy biết hờn căm,
    Thấm đê nhục ..
    Dân Tộc cúi đầu, nín thinh, khinh miệt..

    Nơi quan ải phía Bắc xa một lần Nguyễn Phi Khanh bật khóc,
    nước mắt lắng sâu mạch đất.
    Giữa vùng nước phương Nam nầy chiến hạm Hải Quân 10 Nhật Tảo,
    hòa máu Ngụy Văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh.(1)
    Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
    Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!
    Xé không gian nghe âm vọng bao lần người lính giữ nước xung phong
    Tát cạn đáy bày ra vạn cốt xương
    lớp lớp dân oan di tản
    Trời Nam bàng hoàng khốc tang
    Biển Đông lềnh loang bi phẫn ...

    Hoàng Sa, Trường Sa ...
    Hãy trải rộng Nhất Thống Toàn Đồ ...
    Hẳn thấy lớn dài mênh mông biên cương Đại Việt
    Lẽ nào bộ chính trị, ban bí thư, chủ tịch đảng, đoàn không hề hay biết?
    Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu, Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3)
    nhưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược
    Phan Thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc.
    Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him Lam(4)
    Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Đinh Công Tráng.(5)
    Để Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
    Để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
    Và Độc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh
    Việt Nam,
    Tên gọi đến ...
    Rưng rưng nước mắt cảm xúc.

    Tất cả nay đã là vô ích!
    Với một chữ ký!
    Hợp thức hóa một lần dâng giặc cướp!
    Hoàn tất trọn một lần xong bán nước!
    Đồng thuận mưu sâu Quốc Vụ Viện Bắc Kinh
    Mậu Tuất, Năm “Một-ngàn chín-trăm năm-mươi-tám”.(6)
    Các Vua Hùng nơi đâu?
    Cuộc hành quân xẻ dọc Trường Sơn cuối cùng hóa ra thất bại
    Tự Vệ Thành nổ lựu đạn tan thân,
    gục đầu lên giao thông hào chống xe tăng Pháp,
    Chết giữ hùng khí Thăng Long.(7)
    Đảng khinh miệt gạch phăng, bôi bẩn!
    Trang lịch sử linh thiêng viết bởi máu vô vàn
    Vạn, triệu trái tim lẫm liệt Việt Nam yêu nước.
    Tất cả nay đã là vô ích!
    Không bớt lằn roi đau rạch nát tấm lưng..
    Đám sinh viên oằn người trên đất cũ cha ông
    Thảm nhục hứng đòn thù công an Hà Nội,
    nơi “Thủ Đô Phẩm Giá Con Người”!(8)
    Rùa thiêng ngượng mặt lặng sâu..
    Cương thổ ngập hàng lậu thuế
    Made in China.

    Made in China
    Đỗ Mười giữ ghế tổng bí thư thêm nhiệm kỳ
    Địa giới Nam Quan cắt phăng một phần cửa ải.
    Ba mươi năm hơn sau ngày “giải phóng Miền Nam”
    Đà Nẵng nhìn ra bóng Hồng Kỳ đỏ ngầy mặt nước.
    Chính danh, quốc sĩ mất lý nghĩa linh thiêng,
    “Tình Hữu Nghị”, món hàng tuỳ nghi miệng lưỡi,
    Trung Quốc mặc tình cung cấp.
    Mười năm hơn xẻ dọc Trường Sơn đánh Mỹ kiên cường
    Cuối đoạt thắng
    Quê hương dầm sâu vũng bùn hôi tanh ô nhiễm
    Phanh thây Dân bằng nanh vuốt sói lang
    Xây dựng Nước với giấy, tiền giả mạo
    Ấn chứng từ Bắc Kinh.

    Nỗi đau kinh dị làm khô sôi tròng mắt,
    Ôi giá như các anh còn chút lương tri,
    Đôi phần trí nhớ..
    Ở đâu nên “độc lập/hạnh phúc/tự do”?(9)
    Họa chăng chỉ trên báo đảng
    Cơ quan trung ương, món hàng cũ xưa, hư mòn, phế thải
    Xứng đáng vất thiêu bãi lửa
    Giải hạn oan hồn vất vưỡng cõi nghiệt Việt Nam
    Để Mát-xcơ-va nên thành “thánh đô” thiện mỹ huy hoàng
    Để Bắc Kinh kết tụ “chiếc nôi hòa bình” tuyệt vời thế kỷ
    Âm u cặn máu cờ đỏ vàng sao
    Vấy bẩn màu Bồ Đề hai ngàn năm trăm hơn Đại Phật!
    Tưởng như một chuyện đời xưa..
    Người chết hiện nguyên hình/râu/tóc/răng/mắt..
    Theo dõi em thơ bới rác, lội cống, ngập sình
    Hốt phân thối theo kế hoạch ngũ niên, quy trình tuổi nhỏ
    Hoàn thiện mô hình “hạnh phúc”,
    tiến lên thời kỳ quá độ.
    “Khăn quàng đỏ” không đủ lau khô giòng lệ ứa!
    “tự do” nào?!..
    tự do, báo được phép đưa tin từ một nguồn kiểm duyệt
    tự do, giết cướp giữa ban ngày không thể tìm ra dấu vết
    tự do, phí tiêu bạc tỷ, triệu của dân
    tự do, hủy phá đền, chùa, ruộng, rừng ... không cần nhận lệnh
    tự do, phán quyết con người không quyền được sống.
    Từ chứng tích, tội danh lý lịch quá khứ ngụy quân,
    xếp nên hạng tiện dân,
    phận ngặt lưu đày trên quê cha, đất tổ!

    Ba mươi-ba năm sau lần “Đại Thắng Mùa Xuân”(10)
    Đất nước đi lên bằng hai chân giấy, gỗ
    Với khẩu hiệu ngây ngô,
    Nghị quyết hàm hồ,
    Kết tinh trọn vinh hoa, “Tư Bản Đỏ”.
    Giai cấp (cách mạng) mới
    Tổng hợp phương trình quỷ ma: “Thực dân/Vô sản”,
    Nhìn xuống “bọn Sàigòn mất tên” ứ tràn khinh miệt!
    Với trí hiểm tiếm danh, “Người Ái Quốc”
    Với hãnh tiến tự tuyên công, “Cha Già Dân Tộc” (11)
    Thây xác nằm nơi Ba Đình luôn mở mắt,
    Sống tráo trở đổi tên,
    Chết không hề che mặt.
    Hiển hiện toàn phần chước quỷ/tính ma.
    Quái thai hậu nhiên phẩm chất, khối lượng rặt ròng.
    Quốc hội biểu quyết “chín-chín-phầm trăm” hơn nhất trí,
    Ngàn đại biểu dùng chung một miếng khẩu trang!

    Mỗi buổi sớm mai.
    Mặt trời mọc nơi phương Đông vô hồi vĩnh cửu
    Cũng muôn đời ô nhục
    Loang thấm dần từ vết máu Hoàng, Trường Sa..

    Để nhớ,
    19 tháng 1, 1974-2008
    Phan Nhật Nam
(1) Chiến Hạm; Hạm Trưởng/QLVNCH tử trận Hoàng Sa, 19/1/1974
(2) Chiến trường lớn kết thúc chiến tranh (1946-54)
(3) 19/8/ và 2/9/1945
(4) Đồi chiến thuật quanh vòng chảo Điện Biên Phủ
(5) Cổ Thành Quảng Trị
(6) Công hàm Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai
(7) Trận chiến giữ Hà Nội 19/12/46
(8) Logos của Hà Nội trong thời kỳ chiến tranh (1960-1975)
(9) Quốc Hiệu của nhà nước cộng sản Việt Nam
(10) “30/4/1975”
(11)Những bí danh, danh hiệu của Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh..

3. Phan Nhật Nam bôi nhọ QLVNCH

Phan Nhật Nam bôi nhọ QLVNCH!

TÂM THƯ GỞI ĐẾN NHÀ VĂN PHAN NHẬT NAM

Kính thưa ông Phan Nhật Nam,

Trong bài viết “Ky là Ky” (Qui est Ky?)

http://phanchautrinhdanang.com - 30thang4/Kyniem 30.4 của ông, tôi xin trích đoạn sau: “…Sáng 29 tháng 4, Thiếu Tướng Không Quân Kỳ dùng trực thăng cá nhân bay lên trời Sàigòn, nhận ra pháo cộng sản đang bắn dồn dập từng phút một. Qua tần số máy liên lạc, y bắt được tín hiệu của một phi đội khu trục Skyraider A1 từ Cần Thơ:

- Đây Nguyễn Cao Kỳ. Phải phá mấy ổ pháo dưới kia.

- Nhận rõ, nhưng chúng tôi chỉ còn mỗi quả bom. Viên phi đội trưởng (khinh mạng) trả lời.

Giờ hỗn quân, hỗn quan bắt đầu.

Thưa ông Phan Nhật Nam,

Vì những diễn tiến trong bài viết trên đây hoàn toàn không đúng với sự thật, tôi, một trong những chiến sĩ Không Quân, từng là đọc giả của ông, từng là người đã ngưỡng mộ văn chương của ông, xin tóm tắt để đóng góp sự thật về phi vụ chống pháo kích sáng sớm ngày 29/4/75:

Ngay sau khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, tôi đượcTh/Tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ 518 chỉ định đi bay. Vì thiếu “wingman” nên Th/tá Trương Phùng tình nguyện cùng tôi đi bay trong mưa pháo. Vì bình điện phi cơ của Th/tá Phùng bị hư và đạn pháo kích rơi gần đó, không quá 100 thước (bãi đậu A37) nên sau khi quay máy xong, tôi quyết định cất cánh một mình lúc 4 giờ 25 phút sáng tại phi trường TSN.

Khi lên tới Phú Lâm, tôi được PHĐ AC 119-Tinh Long 06 hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là 2 dàn pháo 122 ly cách đài Radar Phú Lâm khoảng 500 mét về hướng Tây. Sau khi thả trái bom thứ 2 xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:

- Phi Long 51, anh cứ trút hết bom đạn xuống mục tiêu và mời anh ghé nhà tôi nhậu tối nay.

Mặc dù tôi đã biết người ra lịnh cho tôi là ai nhưng tôi vẫn hỏi lại:

- Giới chức vừa ra lịnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.

- Tôi Thần Phong 01, Th/Tướng Kỳ đây!

Vừa bay lượn, vừa quan sát mục tiêu, tôi vừa trả lời:

- Thưa Cụ Phó, tôi bay lên đây một mình với 10 trái bom 250 (250 cân Anh), theo tôi nên chờ khi nào thấy rõ mục tiêu hãy thả bom. Tôi có thể ở đây thêm 3 giờ nữa, với kinh nghiệm của tôi, xin ông an tâm!

Ngoài chúng tôi ra, còn có các PHĐ của vài chiếc trực thăng đang quây quần ở phía Đông của Phú Lâm, các nhân viên của đài kiểm báo Paris (có thu âm) nghe được trên tần số. Tôi nghĩ họ là những nhân chứng hùng hồn với một sự thật, sáng như ánh mặt trời mà không có bóng đen nào có thể che khuất được hay làm lệch lạc đi đươc.

Tôi tự hào là một trong những người chiến sĩ đã bám sát lấy chiến trường cho đến giờ phút chót. Tôi, Trần Văn Phúc, chính là người đã lái chiếc A1 Skyraider mà bài viết gọi là viên phi đội trưởng với lời lẽ “KHINH MẠNG trả lời” (không biết ngôn từ kỳ lạ nầy đã được viết sai chính tả? hay có một hàm ý nào mà tôi và những người đọc không thể tìm được trong Tự Điển Việt Nam)

Khoảng 15 hay 20 phút sau, có lẽ bọn chúng (VC) nghĩ chúng tôi hết bom nên bắt đầu pháo trở lại, nhìn rõ nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên, nhờ vậy rất dễ dàng cho chúng tôi thanh toán những mục tiêu nầy. Lúc bấy giờ Th/Tá Phùng đã bay đến nơi, mặc dù vô tuyến bị hư (không nói được) nhưng Th/Tá Phùng vẫn cất cánh bay lên và cùng với tôi sát cánh chiến đấu bên nhau (hỗn quan, hỗn quân?).

Sau khi dập tắt các dàn pháo ở Phú Lâm, chúng tôi đã trở về để bảo vệ phi trường TSN và Thủ Đô Sàigòn lúc 5 giờ 30 phút và sau đó, chúng tôi cùng với PHĐ AC 119 K-Tinh Long 07 vừa mới cất cánh do Tr/uý Trang Văn Thành (Thành Cambốt) trưởng phi cơ, cùng nhau bảo vệ Thủ Đô Sàigòn.

Lúc 6 giờ 20 Tr/úy Thành nghi ngờ vòng rào phòng thủ hướng Bắc bị cắt nên hướng dẫn Th/Tá Phùng thả 2 trái bom còn lại xuống ngoài vòng đai TSN.

Trên tần số tôi được biết 1 phi tuần Phượng Hoàng - PD 514 do Th/Tá Hồ Ngọc Ấn và Đ/U Nguyễn Tiến Thụy, cất cánh từ Cần Thơ sắp đến TSN nên tôi đã đáp xuống phi trường lúc 6 giờ 50 phút sáng ngày 29/4/75, riêng Th/Tá Phùng chưa chịu đáp xuống nhưng không may, anh bị bắn rơi sau khi chiếc AC-119, Tinh Long 07 trúng hoả tiển tầm nhiệt SA7 không lâu?

Vì đây là những dữ kiện mang tính chất lịch sử có liên quan đến Tổ Quốc và nhất là danh dự cúa Quân Chủng Không Quân, nên tôi đã nhiều lần cố gắng liên lạc với ông Phan Nhật Nam (qua email: pnn943@aol.com) với thành ý đóng góp những tin tức hoàn toàn xác thật, được chứng minh bởi những chiến sĩ đồng đội đã có mặt trên chiến trường VN cho đến giờ phút cuối cùng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không nhận được hồi âm, nên tôi xin phép quý NT, các bạn KQ, độc giả CT và ADMIN cùng BĐH CT mượn diễn dàn nầy để một lần nữa, với hoàn toàn thành ý xin đóng góp cùng người viết dưới tên của ông Phan Nhật Nam.

Vì Tổ Quốc VN, vì danh dự của Quân Chủng Không Quân cũng như của toàn thể chiến sĩ VNCH, nhất là những đứa con đã ở lại với Mẹ VN cho đến giờ phút chót, sau cùng là vì đại danh và uy tín của nhà văn Phan Nhật Nam, chúng tôi mong được một sự hồi âm, và hơn nữa cùng nhau đóng góp để lưu lại những trang sử “ĐẸP và THẬT”.

Chào ông Phan Nhật Nam.

Cựu KQ Trần Văn Phúc PĐ 518 và các chiến hữu.1/7/08

Đặc biệt cám ơn sự giúp đở của ADMIN và Ban Điều Hành phanchautrinhdanang.com đã giúp đỡ và cùng tôi gởi email cho ông Phan Nhật Nam.

Trong suốt 33 năm qua, có lẽ suốt cuộc đời tôi vẫn ghi nhớ lời nói, thái độ hào hùng của Th/Tá Trương Phùng:

- Trước khi đi bay, anh đã nói với mọi người trong phi đoàn: "trâu đạp cũng chết,chó đạp cũng chết, tôi đi bay với anh".

- Trên đường ra bãi đậu phi cơ: tụi nó pháo dữ quá, chả lẽ mình nằm đây chờ chết hay sao? bất cứ giá nào chúng ta phải bay lên dù phải hy sinh , hy vọng chúng ta có thể giúp được mọi người, trong đó có gia điình mình".

- Khi ra đến bãi đậu, Th/Tá Phùng hét to với các anh cơ trưởng: "sau khi nổ máy xong, chock out ngay, các anh tìm chổ núp, đừng để chết chùm cả đám"

Tôi thầm phục sự quả cảm của Th/Tá Phùng, bất chấp mọi hiểm nguy, dù vô tuyến hư, không xin phép Đài Ground Control , Đài Kiểm soát Không Lưu và cũng không cần biết phi đạo sử dụng, bằng mọi giá cất cánh lên, cùng tôi chiến đấu bên nhau. Có lẽ trên thế giới nầy chỉ có một mình anh đã làm ?

Từ một năm nay, không ngừng truy tìm tung tích của Th/Tá Trương Phùng, ngày 01 tháng 8, 2008 anh Nguyễn T.Chí được cụ Tư Hườn kể lại, buổi sáng ngày 29/4/75 chính cụ chứng kiến 1 chiếc phi cơ Khu Trục AD-5 bị trúng phòng không, máy phun khói đen và đáp khẩn cấp xuống thửa ruộng của cụ, dọc theo Quốc Lộ 4, cách chùa Từ Quang vài trăm thước, cách cầu Bình Điền non 1 cây số về hướng Bắc, người phi công bước ra khỏi máy bay, nhưng không may anh bị VC bắt trói, bịt mắt, đánh đập và dẫn đi biệt tích .

Cho đến hôm nay, gia đình của Th/Tá Trương Phùng (ở VN) vẫn mong đợi tin anh, chúng tôi đang cố gắng dọ hỏi thêm và hy vọng tìm chút ít manh mối về anh.

Lúc 11 giờ 45 ngày 03/7/08 tôi được tiếp chuyện với nhà văn Phan Nhật Nam bằng điện thoại xin ông bổ túc, nhưng ông Phan Nhật Nam đã hằn học với tôi:

- Tôi đâu có ghi tên tuổi của anh, tại sao anh lộn xộn.

- Tôi có quyền trích dịch tất cả các sách báo, kể cả sách của Võ Nguyên Giáp mà không cần giải thích với ai cả, anh có giỏi đi tìm càc tác giả mà cải chánh, hàng triệu người trên thế giới đã đọc rồi.

Ngoài ra, nhà văn Mường Giang đã viết trong website Trangden:

http://www.trangdenonline.com/ArticleDetail.

Bài: Ngày 30-4-1975, Tổng Thống Dương Văn Minh Ðầu Hàng Hay Bị Cộng Sản Bắc Việt Bắt Buộc

Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến, để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thì Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà. Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để được tới định cư ở Hoa Kỳ.

Trần Văn Phúc

4. Phan Nhật Nam đâm sau lưng QLVNCH

Phan Nhật Nam đâm sau lưng các chiến sĩ QLVNCH còn bị việt gian cộng sản giam cầm ra sao.

(trích trong bài: "Vạch mặt bọn Cộng Sản gian manh đang núp bóng Người Quốc Gia-Tỵ Nạn." - Bài 3 - )

... Còn về Phan Nhật Nam, sau khi vượt biển chúng tôi đến Hồng Kông, thì Hội Ân Xá Quốc Tế đã muốn gặp chúng tôi để tìm hiểu về các trại tù của Việt Công. Sau đó, qua trung gian của Văn Phòng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, chúng tôi đã được gặp trực tiếp Hội Ân Xá Quốc Tế. Khi tôi nêu tên những người bạn đồng tù đang còn ở trong « Trại cải tạo » T.154, tại Tiên Phước ; thì các vị trong Hội Ân Xá Quốc Tế đã nói với chúng tôi rằng :

«Ông Phan Nhật Nam trong một lần gặp phái đoàn của chúng tôi, ông ấy đã nói là hiện nay đã không còn một người tù chính trị nào ở trong các trại cải tạo tại Việt Nam».

Nghe những lời của các vị trong Hội Ân Xá Quốc tế này đã nói, chúng tôi sững sờ, uất ức đến rơi nước mắt. Chúng tôi không ngờ Phan Nhật Nam lại có thể đối đãi với các vị tù chính trị như vậy, và đã làm chứng dối như thế. Song chúng tôi nhất định phản đối những lời chứng dối của Phan Nhật Nam. Sau khi nghe những lời trình bày của chúng tôi, Hội Ân Xá Quốc Tế đã bảo chúng tôi về phòng và lập một danh sách có đủ tên họ của những người tù chính trị vẫn còn trong trại. Và chúng tôi đã lập một danh sách nêu lên đầy đủ tên họ, cấp bậc, chức quyền trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa của các vị đồng tù vẫn còn ở trong «Trại cải tạo T.154 ». Đồng thời chúng tôi đã mô tả về cách giam cầm, và đời sống của các tù cải tạo. Sau đó, chúng tôi đã đem nộp cho Hội Ân Xá Quốc Tế. Về chuyện Phan Nhật Nam đã làm chứng trước Hội Ân Xá Quốc Tế như đã kể . Chúng tôi nhớ vào thời gian đó ở hải ngoại đã có nhiều vị đã lên tiếng phản đối và nguyền rủa Phan Nhật Nam dữ dội lắm. Bởi thế, chớ bao giờ nghe những gì Phan Nhật Nam đã nói và sẽ nói.

5. Phan Nhật Nam liên hệ với Đỗ Ngọc Yến (tập đoàn báo Người Việt) từ bao giờ?

http://teolangthang.blogspot.com/2008/10/phan-nht-nam-lin-h-vi-vit-gian-ngc-yn.html

6. Phan Nhật Nam kêu gọi quên quá khứ, xóa bỏ hận thù. Hòa Hợp – Hòa Giải


PHAN NHẬT NAM: TÊN TUỔI CŨ, ĐẦU ÓC MỚI?


Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)

Là một quân nhân của QLVNCH, Nam Nhân tôi, trước 1975, rất ngưỡng mộ nhà văn quân đội Phan nhật Nam. Nhiều lúc chuyện vãn cùng bạn bè đã đề cập đến cuốn “Mùa Hè Đỏ Lửa” để cùng nhau tâm đắc, khâm phục Binh chủng kỷ luật và hào hùng nhất của quân đội qua các chiến tích bảo quốc an dân; không quên khen ngợi ngòi bút ghi lại chính xác những chiến tích đó của nhà văn Đại-úy Dù, Phan nhật Nam.

Sau tháng 4 năm 1975, cũng như bao chiến hữu khác, Nam Nhân tôi cũng phải trải qua những năm tháng đọa đày trong lao tù của tập đoàn việt-gian-cộng-sản. Ra khỏi tù, lập gia đình, sau đó được định cư tại Anh-quốc, nhưng Nam Nhân tôi vẫn coi như mình tại ngũ, sẽ chiến đấu bằng phương thức khác phù hợp với hoàn cảnh mới: nghĩa là lấy bút thay súng. Chính những trang phóng sự chiến trường của Phan nhật Nam trước đây đã là một trong những nguyên nhân để Nam Nhân cùng vợ và một vài người bạn cho ra đời Tạp chí Hồn-Việt và web Hồn-Việt UK online, và nhiệt tình tham gia hoạt động trong Tổ chức Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở Miền Trung Anh-quốc. Rồi cũng từ đó, bao nhiêu lần biểu tình chống việt-gian-cộng-sản, thì cũng bấy nhiêu lần Nam Nhân tôi tham gia vào ban tổ chức, có cả vợ và con (từ vài ba tuổi cho đến lớn khôn) đều Quốc kỳ Vàng trong tay, ngạo nghễ phất lên trong tiếng hô đánh đổ tập đoàn việt-gian-cộng-sản bán nước giết dân.

Đánh việt-gian-cộng-sản bằng vũ khí truyền thông, điều quan trọng là phải tìm học lại để biết về KẺ ĐỊCH. Nghĩa là phải hiểu nguyên nhân ra đời của cái tổ chức gọi là "đảng cộng sản VN"; phải hiểu về công tác tổ chức của nó, trong từng giai đoạn có biến chuyển trong lịch sử của VN và một phần cần thiết nào đó của thế giới (có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến VN); phải hiểu về một số nhân sự chóp bu của nó. Nhưng cái khó nhất là "ngôn từ mà việt-gian-cộng-sản sử dụng trong các văn bản", cũng như các mánh khóe "chơi chữ" của chúng. Thí dụ: "Đóng tiền học tập 10 ngày" (không phải là tù 10 ngày; còn sau đó là tù nên không phải đóng tiền ăn và cũng không học); hoặc "duy trì 5 thành phần kinh tế" (không nói rõ thời hạn, nên có thể duy trì 5 ngày, 20 ngày hoặc nhiều hơn hay ít hơn thế). Rồi "độc lập" là không có quân lính nước ngoài, các cơ quan quyền lực đều do người VN đảm nhận (!?). Rồi "tự do" là tự do trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước XHCN, và "dân chủ" là "dân chủ tập trung" chứ không phải "dân chủ tư sản", v.v…

Trong tổ chức của việt-gian-cộng-sản, nhiều người đều nghe nói về cái gọi là "đảng (việt-gian-cộng-sản) lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", tưởng rằng mình hiểu về khái niệm đó, nhưng vẫn chứng tỏ là hiểu sai. Ngay như nhà nghiên cứu Minh Võ, cho đến nhà báo ngoại quốc kiểu Judy Stowe, cũng phải nói là đã hiểu còn "lơ mơ" lắm, nên mới coi tên Cuội Hoàng minh Chính là "cán bộ cao cấp" (không hiểu căn cứ vào đâu?). Họ lẫn lộn giữa "cao cấp" và "trung cao".

Cũng như họ không hiểu gì về hệ thống tổ chức ngành giáo dục ở VN dưới sự đô hộ của việt-gian-cộng-sản, nên mới gọi Trần Khuê là "giáo sư", rồi ngay Hoàng minh Chính cũng được gọi là " giáo sư", hay cái gọi là "dạy hộ bạn môn sử" của LỪA SĨ Nguyễn chí Thiện (!?). Không biết mà lầm rồi "sửa sai" cũng được thôi. Đáng tiếc là có số nào đó tự ái, giấu dốt, cứ bước sai tiếp. Tác hại của việc đó ra sao, nhất là đối với thế hệ trẻ và ngoại quốc, các vị đó có nghĩ đến không? (loại trừ tay sai của việt-gian-cộng-sản và các thày dùng nick ma để bàn tào lao cho đỡ buồn).

Một may mắn cho Nam Nhân là có dịp kết bạn vong niên với nhà báo lão thành Việt Thường, người sống dưới sự đô hộ của việt-gian-cộng-sản ở phía Bắc VN, phải "bị cải tạo lao động" từ đầu năm 1956 và đã phải làm đủ thứ nghề, từ cu-li bốc vác, cu-li đào đường cho đến đi dạy học và làm báo dưới chế độ việt-gian-cộng-sản cai trị, ở Bắc VN, sau tháng 4-1975 bị đi tù 10 năm, trong đó có một năm bị nhốt chung với người điên ở nhà thương Chợ Quán (Sài-gòn). Giấy ra tù ghi tội danh là "nhen nhúm tổ chức phản động". Chính nhờ nhà báo Việt Thường mà Nam Nhân tôi đã hiểu có hệ thống và căn bản về những gì liên quan đến cộng sản VN, nhìn ra được tội danh của cái gọi là "đảng cộng sản VN" là VIỆT GIAN; thấy được âm mưu của chúng, hiểu được cách lựa nhân sự cũng như cách cấy "sinh tử phù" vào tay sai để khó có thể phản lại chúng và v.v… Chính vì hiểu việt-gian-cộng sản, nên dịp tổng thống Bush dự hội nghị APEC ở VN, trong khi các tổ chức "chính trị cơ hội" ở hải ngoại, cũng như các loại Cuội dân chủ trong nước và một số các "nhà bình luận" đã hoan hỉ trên các phương tiện truyền thông, trên các diễn đàn Paltalk rằng chắc chắn kẻ này người nọ trong lũ Cuội sẽ được ông Bush gặp. Bs Nguyễn quốc Quân, của "Cao trào nhân bản" mừng rơn tin ở ông em là Bs Nguyễn đan Quế sẽ "làm nên lịch sử", thao thao trả lời phỏng vấn, thao thao giới thiệu "lộ trình 9 điểm" (chọn số 9 cho hên tột đỉnh mà) trên diễn đàn Paltalk, đến nỗi một ông "già đời trong nghề bàn tào lao bị… thuyết phục", cả ngày "cầu kinh" cho "lộ trình XIN CHO 9 điểm" ở khắp nơi, khắp chốn, hy vọng phen này "trúng độc đắc trên hoạn lộ"!!! Còn nhà báo Việt Thường, với vốn hiểu biết học hỏi từ cuộc sống chiến đấu chống việt-gian-cộng-sản đầy máu và nước mắt của nhân dân VN và của cả gia đình và chính bản thân, đã khẳng định trước ngày ông Bush đi VN rằng "Tổng thống Bush, qua vụ Cuội đeo cờ máu cạnh cờ hoa, diện đồ bộ và hơn hớn đến Tổng lãnh sự ở Sài-gòn, thì đã biết chúng là AI, chắc chắn sẽ không gặp ai cả!!!"

Đã từ nhiều năm về trước, nhà báo Việt Thường có kể cho tôi về lần gặp Phan nhật Nam ở Sài-gòn. Ông Việt Thường kể, đại ý: "Một lần được mời đến ăn giỗ ở nhà người bạn quen từ nhỏ là Nguyễn đỗ Hải, ngụ tại Lê Lợi, Sài-gòn. Bữa ăn có khá đông người (tuy nay đã già nhưng nhiều người còn sống). Thấy ông Việt Thường tới, mọi người đến trước vui vẻ gọi tên chào hỏi. Có một người lạ mặt, ngồi bên ông Hải, đứng dậy, lễ phép: "Thưa anh, anh có ở Z30D phải không ạ?".

Ông Hải trả lời giùm: "Đích thị là ông ta chứ còn ai nữa". Và, quay sang phía ông Việt Thường, ông Hải nói: "Phan nhật Nam, tác giả Mùa Hè Đỏ Lửa, mà ông khen hay đấy". Rồi ông Hải cho đổi chỗ để ông Phan nhật Nam ngồi cạnh ông Việt Thường. Tuy ngồi cạnh, nhưng vì đông bạn cũ hỏi tíu tít nên ông Việt Thường cũng chẳng nói gì được với Phan nhật Nam. Tiệc tan, Phan nhật Nam biết ông Việt Thường ở Đường Tự Do (tức đồng khởi) nên xin được đến thăm. Thấy thế ông Hải nói: "Mình cho Nam ở căn hộ của mình ở Hai Bà Trưng, cùng tiện đường thôi". Và Phan nhật Nam đã đến ngồi chơi tại nhà riêng của ông Việt Thường, tối hôm đó (đầu năm 1991). Khi chia tay, ông Phan nhật Nam ngỏ ý muốn được lại thăm ông Việt Thường thường xuyên có tiện không, vì hai bên cư ngụ rất gần nhau. Ông Việt Thường khuyên không nên, vì ông không hoàn toàn được tự do, có nhiều con mắt để ý lắm, sợ không hay cho Phan nhật Nam. Rồi ông Việt Thường nói với tôi rằng: "Tôi rất biết tay Hải này làm những việc gì, nhưng không bao giờ tôi hỏi. Sống với cộng sản phải luôn tỏ ra không có tính tò mò, chỉ ham tán dóc truyện lăng nhăng, nhậu nhẹt, không bon chen kèn cựa, đôi khi còn tỏ ra lười cả suy nghĩ lẫn "lao động chân tay", luộm thuộm … thế thì mới yên thân. Chính vì thế, tôi rất muốn biết vì sao Phan nhật Nam, đáng ra sau khi ra khỏi Z30D, là phải về quê mà trình diện, chứ đâu lại được về Sài-gòn, mà lại QUEN được cái nhà ông Hải Béo này, lại còn được nuôi ăn và ở căn hộ cực sang trọng nữa chứ. Anh thấy đấy, cụ Vũ Hồng Khanh, ra khỏi cải tạo là phải về quê ở Nam Định; Hòa thượng Quảng Độ phải về quê ở Thái Bình. Tôi CAM ĐOAN với anh là Phan nhật Nam đã BỊ MUA RỒI. Chờ đấy, khi nào thấy Phan nhật Nam xuất hiện ở hải ngoại, cứ lẳng lặng theo dõi, anh sẽ phải đau lòng thấy thần tượng của anh đã bị cháy. Nhưng nhớ phải kín miệng và nhẫn nại, chờ cho rắn ra khỏi hang đã."

Tôi thắc mắc: - Có thể nào anh Phan nhật Nam tương kế tựu kế không?

Ô. Việt Thường: - Tụi việt-gian-cộng-sản là tụi Đại Lưu Manh, đã lọt vào lưới của nó là "hết trinh" ngay, như Mã Giám Sinh với Thúy Kiều vậy.

Và, bây giờ tôi thấy Phan nhật Nam đã như "con rắn ra khỏi hang". Có thể do bị hun khói mà phải ra mặt, hoặc có khi vì tưởng đã an toàn v.v…

Tập đoàn việt-gian-cộng-sản HIỂU RẤT RÕ RẰNG, vấn đề Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản là VẤN ĐỀ SINH TỬ của chúng. Chúng dùng đủ mưu ma chước quỷ để chinh phục cái Cộng đồng này. Trong bài: "Phe thân Mỹ ở đâu?", chúng tôi đã trình bày về cái bẫy của vở kịch "Hai Phe", hy vọng qua vụ Thái Hà và Tòa Khâm Sứ ở Hà-nội vừa xong, quý bạn đọc đã nhận ra sự thật. Và, từ đó có thể thấy những bộ mặt đặc công đỏ Bùi Tín, Vũ thư Hiên … và đám lâu la đã và vẫn tiếp tục hướng dẫn việc thực thi nội dung của cái gọi là "nghị quyết 36". Trong đó Nguyễn chí Thiện sẽ đóng vai trò gì? Một số người sặc sụa Phở Bò, hoặc lâu la dùng nick ma để cố tô vẽ lại bộ mặt Thiện đang bị rơi râu, long phấn và cố lái sang chuyện mà đa số không ai đặt ra. Đó là Nguyễn chí Thiện "thật và giả". Những người có độc lập suy nghĩ chỉ muốn đặt hoài nghi rằng, qua những dữ kiện lịch sử VN, qua những trả lời bất nhất và đầy mâu thuẫn của Thiện, qua nội dung của tập thơ VÔ ĐỀ thể hiện rõ ràng LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ của tác giả, thì không thể nào có chuyện Tác Giả Thứ Thiệt của VÔ ĐỀ lại nhận làm thành viên QUAN TRỌNG CỦA TIỂU DIÊN HỒNG!!!

Trong số những kẻ ra công BẢO VỆ MỘT CÁCH MÙ QUÁNG Nguyễn chí Thiện (trước đó là bảo vệ Đỗ ngọc Yến) có PHAN NHẬT NAM, người ra khỏi trại cải tạo việt-gian-cộng-sản lại được về Sài-gòn, được nuôi ăn và được cấp một căn hộ sang trọng ở đường Hai Bà Trưng (ngay trước hãng bia BGI, gần Bến Bạch Đằng). Chính nhà báo Nga, Irina, có viết bài kể rằng có đến căn hộ nói trên để phỏng vấn Phan nhật Nam, nhưng Nam lánh mặt (chắc sợ lộ tẩy), nên bà ta đành đi gặp Trần Tiến.

Trước khi bị lộ tẩy, thì những thứ như Nguyễn cao Kỳ, Phạm Duy, Vũ ngọc Nhạ, Phạm ngọc Thảo, Phạm xuân Ẩn, Nguyễn hữu Hạnh, Nguyễn thành Trung, Vũ Hạnh, Lý quý Trung v.v… và nhiều lắm, cũng từng được coi là người "quốc gia" đấy. Cho nên phải nhìn vào việc làm của họ, và trong tình hình hiện nay thì phải phân biệt giữa NGƯỜI QUỐC GIA và việt-gian-cộng-sản với tay sai của chúng qua việc biểu hiện lập trường chính trị một cách cụ thể.

Vậy lập trường chính trị của Phan nhật Nam là gì? Chỉ xin tóm tắt mấy nét lớn để chia xẻ cùng quý bạn đọc:

Một là: Phan nhật Nam khéo léo qua SBTN, tuyên truyền cho XÓA BỎ HẬN THÙ (cái bẫy của việt-gian-cộng-sản) bằng đưa tên Du tử Lê, một đứa đã đưa thơ của hắn về VN để việt-gian-cộng-sản in cho. Và Nam bốc thơm Du tử Lê rằng: "42 tập thơ của anh chỉ nói về yêu, không hề ghét, không hề thù ai, kể cả KẺ LÀM HẠI MÌNH"(!?). Thời gian đó là lúc việt-gian-cộng-sản đang đàn áp dân oan và công nhân biểu tình. Chưa nói đến, đó chính là một trong những trọng điểm mà việt-gian-cộng-sản muốn Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản hãy QUÊN QUÁ KHỨ, XÓA BỎ HẬN THÙ. Xin quý bạn đọc tự khách quan nhận xét.

Hai là: Ngay năm 2008 này, Phan nhật Nam, đã cho quảng bá một bài, gọi là thơ, có tên "Tổ quốc chúng tôi, không là chế độ các anh", để tuyên truyền cho việc "hòa giải-hòa hợp" (cũng là cái bẫy của việt-gian-cộng-sản). Nam Nhân tôi đã viết bài lật tẩy, kính xin quý bạn đọc bớt chút thời gian tham khảo bài đó có đính kèm nơi cuối bài này.

Ba là: Bùi Tín, Vũ thư Hiên cho đến Hoàng minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn thanh Giang… đã bị hải ngoại lột mặt nạ. Giờ đây đến lượt Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện phải trả lời về những chuyện bốc phét do "ăn nhiều mất ngon, nói lắm mất khôn", như cha ông chúng ta thường căn dặn, nên đã lộ Mặt Thật như "giáo sư Trần Khuê", "viện sĩ" Nguyễn thanh Giang, "nhà dân chửi Nguyễn khắc Toàn" (xin tham khảo các audio của dân oan ở vườn hoa Mai xuân Thưởng, Hà-nội, nói về Toàn, có lưu trữ trên web VietnamExodus), thì Phan nhật Nam cùng Chu tất Tiến ra công bảo vệ, kiểu cãi chày cãi cối. Thí dụ Nguyễn chí Thiện đã thuộc hầu hết các bài thơ trong tập Vô Đề; coi đó là bằng chứng Thiện là tác giả! Quả là lý lẽ sắc bén như dao bổ củi. Nam Nhân có thể kể ra nhiều chục thí dụ về những người thuộc THƠ VĂN CỦA NGƯỜI KHÁC LÀU LÀU.

Giáo sư Ts Nguyễn chung Tú, Khoa trưởng Đại học Sài-gòn có thể đọc trơn như mỡ, và đọc ngược Truyện Kiều của …. Nguyễn Du.

Ai đã học ở trường Albert Sarraut ở Hà-nội, trước năm 1954, có thể còn nhớ Đức Cha Maillot, là người Pháp, nhưng lại dạy về tiếng Việt cho học sinh ở các trường Notre Dame du Rosaire (dòng tu các Mẹ áo trắng), trường A.Sarraut. Cha có thể đọc làu làu ngược không chỉ toàn bộ Truyện Kiều, mà cả Cung oán ngâm khúc, Trê Cóc, Lục súc tranh công ….

Bạn thân của Vũ thư Hiên, chỉ vì sự khai báo QUÁ thành khẩn của "cụ" Hoàng minh Chính của Chu tất Tiến, mà bị dzô tù, coi như là "thành viên" nhóm xét lại (?), là người được nhà văn Tưởng năng Tiến, nghe cò mồi Vũ thư Hiên rù rì thê thảm quá, nên đã chia một phần tiền ăn trợ cấp xã hội, gửi Hiên giúp hộ. Cái anh nửa khùng nửa điên đó chỉ có tội say mê văn học cổ điển Nga, đến mức thuộc lòng cả một cuốn tiểu thuyết của Dotoiepxki kia đấy. Văn xuôi đấy nhé chứ không phải thơ mà dễ học!!!

Bà Băng, vợ nhạc sĩ Văn Cao thuộc lòng TOÀN BỘ LỜI NHẠC VÀ THƠ của chồng!

Ông Vũ hoàng Địch (vẫn còn sống đấy) thuộc lòng tất cả các sáng tác của cố thi sĩ Vũ hoàng Chương, với cả ngày và nơi đã in ấn những tác phẩm đó!!!

Kể tạm vài thí dụ để quý bạn đọc thấy trình độ rất hạn hẹp của cặp song mã trên cỗ xe Vàng Vện mà Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện, Bùi Tín, Nguyễn chính Két … đang ngồi chồm hổm!

Nếu Phan nhật Nam và Chu tất Tiến muốn phản biện về những gì Nam Nhân tôi nêu ra, thì nên tỏ ra có chút hiểu biết về lề luật phản biện, chứ đừng dùng những bài học được việt-gian-cộng sản “CẢI TẠO”, từ Người biến thành Ngợm, thì Nam Nhân không dư thời giờ mà đối đáp.

Anh-quốc, ngày 28 tháng 9 năm 2008
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)





Sự thật Nguyễn Chí Thiện gặp Ông Nguyễn Hữu Luyện trong tù việt-gian cộng sản trước đây


Kim Âu: hình từ trái sang phải gồm có: Nguyễn văn Tấn, Nghĩa Sữa, Nguyễn văn Hoành, Trần văn Tiếp, Lê Ngọc Kiên, Tân Sún không có một người nào ở tù chung với Nguyễn Chí Thiện cả.
http://img411. imageshack. us/img411/ 462/nct2hf9. jpg

On Mon, 10/13/08, chinhnghia@aol.com wrote:

From: chinhnghia@aol.com
Subject: [VN-Talks] Fwd: [Nuoc_VIET] dinh kem hinh chup nhung nguoi ba.n tu` cua ong Nguyen Chi Thien
To: DANTOCVIET@yahoogroups.com
Cc:
Date: Monday, October 13, 2008, 8:20 AM

Kính gởi diễn đàn!

Chúng tôi thật tình chẳng muốn lên tiếng về chuyện tập thơ Vô Ðề và tác gỉa Khuyết Danh.

Tuy nhiên đây là lần thứ hai cô Thuấn thay mặt Nguyễn Chí Thiện đưa hình anh em BK chụp chung ra để chứng minh Nguyễn Chí Thiện có ở tù chung với họ. ÐIỀU NÀY HOÀN TOÀN SAI.

Ngoại trừ BK Lưu Nghĩa Lương có ở chung với Nguyễn Chí Thiện, những người còn lại tôi thấy trong hình từ trái sang phải g m có:

Nguyễn văn Tấn, Nghĩa Sữa , Nguyễn văn Hoành, Trần văn Tiếp, Lê Ngọc Kiên, Tân Sún không có một người nào ở tù chung với Nguyễn Chí Thiện cả.

Việc Nguyễn Chí Thiện nói dối trắng trợn là có ở tù chung với ông Nguyễn Hữu Luyện và tất cả anh em BK như thế này khiến tôi hết sức ngạc nhiên.

Cộng thêm những chuyện dối trá khác (mà nhiều người đã chỉ ra) cho tôi thấy Nguyễn Chí Thiện cố tình nhiễu loạn thông tin, ÐÁNH LẠC HƯỚNG CHÚ Ý CỦA MỌI NGƯỜI để che dấu sự thực. Lâu nay diễn đàn cãi cọ, tập chú vào tập thơ và con người Nguyễn Chí Thiện quá nhiều nên quên rằng muốn biết sự thật phải bắt đầu xem xét từ cái ngày 16 - 7 - 1976. Chúng tôi đã gặp Nguyễn Chí Thiện ba bốn lần. Lần thứ nhất thay mặt Cộng đồng Việt Nam tại Atlanta, Georgia đón Nguyễn Chí Thiện và gởi ở nhà một người bạn mấy ngày. Lần thứ hai gặp lại ở Boston trong buổi phát động WJC. Lần thứ ba gặp tại George Mason Virginia trong một buổi ra mắt sách của một nhà văn nữ từ Pháp qua. Mỗi lần gặp nhau chỉ hỏi thăm sức khoẻ theo phép xã giao (lần gặp ở Boston vì có cô bạn tặng tôi hai cây thuốc, tôi đưa cho NCT một cây, vì tôi thông cảm hoàn cảnh của NCT. Ðối với tôi, Nguyễn Chí Thiện chỉ là một người tù bình thường, trình độ, kiến thức hạn chế do hoàn cảnh. Nguyễn chí Thiện có khép cũng không kín do chúng tôi có gặp vài người tù "chính trị" miền Bắc quen biết Nguyễn chí Thiện ở Hải Phòng và cùng ở tù với NCT. Hiện nay ở Boston có Hải (Hổ) - người Hải Phòng; Ở Sydney, Úc có Bùi Ðức Tín (người Hà Nội), hai người này có thể thuật lại toàn bộ về Nguyễn Chí Thiện trong thời gian cùng ở tù. Tiện đây chúng tôi cũng nhờ cô Thuấn nhắn với ông Nguyên Thanh một cựu linh mục đã thôi tu, lấy vợ có con đã lâu nay vẫn mạo nhận là linh mục để đứng ra làm chứng dối không biết ngượng mồm. Ông Thanh chỉ mới lên Cổng Trời chưa được 5 tháng đã xuôi Thanh Cẩm, ông biết gì về trại Cổng Trời? Loại tù hình sự ở với ông Thanh toàn đám lưu manh vô học, thành phần tạp nhạp ở rải rác khắp các tỉnh miền Bắc, biết gì thơ với phú. Như đã nói, chúng tôi quá hiểu nguồn gốc và tác giả tập thơ Vô Ðề nhưng thấy diễn đàn chia phe để bênh và chống lại cảm thấy vui vui, nhưng rồi bị nghe và đọc những chuyện dối trá nên mới buộc phải xác định lại một đôi điều. Hy vọng những dòng chữ này không làm phiền quý vị.

Trân trọng

Kim Âu


Phan Nhật Nam liên hệ với việt-gian Đỗ Ngọc Yến (tập-đoàn báo Người Việt) từ bao giờ?

Hình cố chủ nhiệm nhật báo Người Việt Đỗ Ngọc Yến chủ toạ buổi họp với việt-gian cộng sản Nguyễn Tấn Dũng - khi đó Dũng là phó thủ tướng vgcs đặc trách kinh tế

Luật sư Đỗ Phủ của đài truyền hình SBTN đã có một cuộc phỏng vấn ông Phan Huy Đạt và cô Đỗ Bảo Anh (con gái của ông Đỗ Ngọc Yến) về sự kiện bức hình của ông Đỗ Ngọc Yến chủ tọa buổi họp với Nguyễn Tấn Dũng và cuộc biểu tình đang diễn ra phản đối tờ Người Việt trong những ngày qua. Chúng tôi xin mạn phép đài truyền hình SBTN để phát lại đoạn Video này.

NB Đỗ Ngọc Yến: Người bạn tới với nụ cười

Phan Nhật Nam

Trong tháng, năm biệt giam dài lâu ở những căn hầm tối nơi đất Bắc, tôi có đủ thời giờ, năng lực vật chất, tinh thần (qua một thế sống cách biệt: Không Nói-Không Nghe-Không Làm) để nhớ lại, tự tìm hiểu, giải thích về người, sự việc (tại sao) đã xẩy ra từ một thuở rất lâu, ngày còn ấu, thiếu.. Để cuối cùng (phải đến như một điều tất nhiên), giúp dần hiểu ra - Tất cả được xếp đặt, điều khiển từ một Lý và Lực siêu nhiên rất cụ thể mà cũng vô vàn kỳ diệu – Trong diễn tiến tính trạng ấy, Mỗi Người Bạn giữ một vai trò rất tích cực không thể thay thế. Đỗ Ngọc Yến - Đôi Kính - Nụ Cười là “Một Hình Tượng Thông Tin” hiện rất rõ.

Một, 1970 .. Tôi phải ở trong tình cảnh “Ngày nằm võng ngủ.. Đêm đi phục kích”, một cách tệ hại bất đắc dĩ, vì bị buộc phải rời bỏ đơn vị tác chiến nhảy dù, chuyển qua nhận công việc tại cơ quan quân sự thị xã, thành phố tỉnh lẻ, Tiểu Khu Phước Tuy; tiếp “chức vụ” Đồn Trưởng Điạ Phương Quân, Nghĩa Quân Tân Bữu, Chợ Đệm, Long An. Đêm đêm vác hai máy truyền tin, hai anh lính, nhét cây súng colt vào thắt lưng đi phục kích cộng sản để xây dựng nông thôn! Thế nên, tôi phải gắng bứt thoát ra khỏi vị thế chật chội nầy, và phải trở lại trú ẩn nơi Sàigòn với những vụn vặt bình bình, thụ động, vây quanh, chụp xuống. Quả thật chịu không nổi. Một buổi sáng, gặp nhau nơi đường Võ Tánh, không thấy tôi mở lời bông đùa như bình thường. Yến cười cười nói nhỏ, thúc dục: “Ông viết cái gì đi. Theo tôi lên trên nầy gặp Chu Tử.” Yến đưa tôi lên lầu nhà in Nguyễn Bá Tòng. Chu Tử đứng giữa những máy in đang chạy những cuộn giấy lớn. Ông Chu nói nhanh, tin cậy ngay từ bắt tay đầu tiên: “Cậu viết đi, xong đưa cho anh Yến.” Yến đang là Thư Ký Tòa Soạn của Sóng Thần – Hậu thân của Báo Sống sau lần ông Chu bị oán nghiệp báo chí thanh toán với viên đạn xuyên qua cổ họng.

Kể từ thúc dục như trên, đêm đêm, nơi căn phòng 9C Building Cửu Long, Đường Hai Bà Trưng, nhìn xuống Sài Gòn yên ngủ dậy mùi thơm từ những khối cây lá xanh thẫm nơi khu Đường Duy Tân; xa hơn, nóc Nhà Thờ Đức Bà đơn độc nhô lên trên bầu trời tĩnh mịch lấp lánh những ngôi sao xanh nhỏ. Trong không gian rì rầm âm động đều nhịp của Nhà Máy Nước trước Hồ Con Rùa, tôi có được cảnh giới bình an để trình bày ra trên trang báo Sóng Thần những Bữa Cơm Trên Lưng (1) tình cảnh, phận nghiệp tang thương của người sống trong lửa đạn mà cuốn sách đầu tay, Dấu Binh Lửa (2) dẫu đã viết thật lòng vẫn chưa đủ. Chưa nói cho hết tận cùng nỗi tân toan, khó nhọc của dân và lính trong chiến tranh. Thế nên, trong bình an có được của hôm ấy, mỗi lần đưa bài viết đến Yến, tôi luôn lập lại lời: “Được viết là một điều vui, thêm có tiền lai rai. Lại có được lúc bình an. Cám ơn bác lắm lắm.” Tôi nghĩ Yến hẳn hiểu tại sao tôi nói lên lời thâm tạ, nhưng anh thường che dấu phần cảm thông nầy dưới nụ cười thân mật với cách vui đùa: “Nầy, nhớ nhá, tôi đã là ủy viên trung ương của Hội Hướng Đạo, anh chỉ mới là thiếu sinh chưa lên tráng.” Yến luôn giữ sự chừng mực như cách xử thế “Đạm thủy chi giao” mà người xưa hằng tôn trọng để giao tình giữa những người bạn luôn được duy trì. Không nồng nhiệt quá, không quá gần gũi để có thể sinh ra đụng chạm. Bởi chung gây nên đụng.

Yến không phải là “Bạn Thân” theo nghĩa thông thường. Tôi thân với những “ông” khác hơn - Những anh chàng lính tráng, giang hồ với chai rượu, tiếng cười lớn quanh bàn nhậu sôi nổi, ồn ào. Nhưng quả thật Yến cho anh phần yên ổn như khi anh đi với Lê Chí Thảo, gã bạn thời niên thiếu từ ngày rong chơi ở Đà Nẵng, Huế, kể cả hôm nay nơi đất Mỹ ki cả hai đã qua tuổi 60. Một điều nghịch lý thường xẩy ra: Anh chỉ tìm tới những người bạn nầy trong những lúc khó khăn, phiền nhiễu. Tình cảnh bình yên vừa kể ra nhận rất rõ mỗi khi anh ngồi sau chiếc Suzuki màu đỏ của Yến cột chiếc cặp ở bình xăng.. “Bác đi cái xe vớiø cái cặp nầy cứ như là mấy ông đi thâu tiền điện.” Nó chạy từ từ ấáy thế mà được việc. Yến chậm rãi đáp lại sự châm chọc với nụ cười “không biết ông ấy đang tính toán những gì”. Và quả thật, Yến làm được nhiều chuyện với bề ngoài tỉnh lặng của anh. Yến đã làm được rất nhiều chuyện hơn người một cách bình thường.

Đỗ Ngọc Yến là khuôn mặt bình tĩnh, ôn hòa sau hàng ghế Chủ Tịch Đoàn Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn với những người năng nổ bộc lộ ra bên ngoài, lên phía trước. Nguyễn Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho. Đỗ lặng lẽ theo dõi, ghi chép đầy đủ, chính xác về những cuộc họp bốc lửa với cách trình bày sắc xảo, mạnh mẽ của Nguyễn Hữu Doãn, Tôn Thất Tuệ. Nhưng sau những biến động chính trị, xã hội với phong trào sinh viên làm hạt nhân kéo dài trong những năm 1963, 64, 65. Những khuôn mặt tranh đấu tuổi trẻ nổi bật điển hình kể trên dần vắng bóng trên diễn trường, chỉ riêng Đỗ Ngọc Yến vẫn tiếp tục hiện diện với cách bình thản, tự tin. Chỉ trừ khi nào ông ấy cất cái kính và cười tươi mới “biết”ra ông ấy như thế nào.” Ngô Vương Toại, Ban Đại Diện Văn Khoa đã một lần nói lên nhận xét. Và tôi đã đồng ý với Toại qua xác nhận: “Tóm lại, chỉ nên chơi với ông Yến khi ông ta cười mà thôi.” Tôi chưa hề thấy Yến “đặt vấn đề” với ai trong tháng năm dài tiếp xúc với rất nhiều hạng người (những người khác biệt nhau về cá tính, khả năng, môi trường sinh hoạt); cũng không ai có tiếng nói phản kích đối với Anh. Đỗ Ngọc Yến quả có một khả năng dàn xếp cao độ đáng nể phục. Nhưng Anh không hề là người thoả hiệp vô nguyên tắc. Tên Rừng Hướng Đạo “Nai Lý Luận” hiện thựïc chính xác phong cách của Đỗ Ngọc Yến - Đấy là một bản tính ôn hòa. Rất Ôn Hòa - Tuy nhiên luôn giữ nguyên vẹn Tính Lý Luận.

Rời Sóng Thần vì những dàn xếp, tranh chấp trong nội bộ tòa báo (Sự kiện có thật, nhưng Yến không bao giờ nói ra dưới bất cứ hình thức nào, với bất kỳ ai (kể cả những người thân cận, liên hệ trực tiếp với tờ báo như Chu Tử, Đằng Giao (Rễ ông Chu, Tổng Thơ Ký Sóng Thần, bạn thân của Yến) – Làng báo hải ngoại hôm nay hình như không mấy ai áp dụng biện pháp mã thượng hào hiệp nầy), Đỗ Ngọc Yến sang làm cho Báo Đại Dân Tộc nơi có một nhân vật nổi danh là người “Kỳ thị Nam-Bắc Kỳ”, Chủ Nhiệm Võ Long Triều. Nhưng chính tại toà soạn đường Gia Long, họ Võ đã nhiều lần lớn tiếng xác nhận: “Các thầy lo bài vở, chữ nghĩa với nhau. Tôi có chuyện khác.” Một trong những “thầy” được Chủ Nhiệm Võ tin cậy nhất: Ký Giả Mai Phương, Đỗ Ngọc Yến. Cũng là Công Cán Uûy Viên của Bộ Trưởng Thanh Niên Võ Long Triều. Điều nầy giúp tôi phần tin tưởng và tin đúng: Tính “kỳ thị” nếu có, cũng chỉ xẩy ra nơi những cá nhân “không mấy bản lãnh”- Kẻ Sĩ, Chiến Sĩ thuần thành đởm lược không hề vướng phải tiểu tâm vụn vặt nầy - Tư Lệnh Đỗ Cao Trí luôn cần sự trợ lực của Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu - Một vị tướng thuần chất Kẻ Sĩ Đất Bắc với nhân cách sáng ngời cao trọng. Cũng với Tướng Quân Nguyễn Văn Hiếu, Người Thầy Tiết Tháo, Cương Trực của Miền Nam Trần Văn Hương đã giao hết trọng trách của gánh nặng điều tra Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội – Hệ thống siêu tài chánh-kỹ nghệ xây dựng từ đồng tiền máu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Người Thầy Trần Văn Hương cũng chỉ truy cứu vụ án tham những Quỹ Tiết Kiệm do từ khởi đầu của hai viên sĩ quan hảo thủ “Bắc Kỳ” bắn phát pháo hiệu trên Báo Diều Hâu. Hai sĩ quan (gốc người miền Bắc) tên gọi Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn nếu không có sự bảo chứng của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khó mà thực hiện lần “Đội Đá Vá Trời” công khai tuyên chiến với hệ thống tham nhũng quân đội. Cũng cả chính quyền Miền Nam.

Năm 1972, chiến trận nổ ra khắp Miền Nam, từ Quảng Trị, lên Tây Nguyên, An Lộc, Bình Long. Biết tôi là người chuyên viết tường trình chiến trận với xác tín cao, Chủ Nhiệm Võ nhắn đến tòa báo qua Yến. Nhưng Bạn đã giải quyết trước: “Tôi đưa anh đến chơi theo lời ông ấy, nhưng anh cứ viết cho bên Sóng Thần”, Yến đã tránh được cho tôi sự khó khăn (phải chọn lựa) ngay từ đầu, nhưng lại rất khôn khéo khai triễn những điều thuận lợi để hai bên không ai phải chịu thiệt thòi, đụng chạm.. Ngày 4 tháng 3, 1973 tôi là “Người Nam Hà đầu tiên đi Hà Nội” (Cách gọi của Yến, bởi Phạm Huấn, Dương Phục là hai “ông Bắc Kỳ), bài báo và hình ảnh Hà Nội (do tôi chụp) được đăng lên trang nhất, người Sài Gòn, cả Miền Nam chờ đợi mỗi buổi chiều nơi các sạp báo. Sóng Thần và Đại Dân tộc dẫn đầu số lượng phát hành vượt rất xa so với Chính Luận, những báo đang ăn khách.. “Anh viết cho bên Sóng Thần với “Đi Bắc-Về Nam”; tôi đi ở Đại Dân Tộc loạt bài về “Người Nam Hà.” Hoá ra, Yến đã phân công rất chính xác, và tôi “cứ thế mà làm..” để ai cũng được vui. Tôi không hiểu ra điều nầy nếu sau đó không có vụ viết kịch bản cho người Pháp quay phim. Nhà ông Chu Tử, 104 Công Lý, Sài Gòn là nơi tập họp của nhiều người, nhiều giới, cũng nhiều mục đích. Gặp Đằng Giao để nói về tranh ảnh, làm bìa sách, làm báo; gặp ông Chu để bàn về cơ sở văn hóa-chính trị.. Và cũng bày ra bàn xì-phé với những ông đỏ đen chuyên nghiệp; mạt-chược với những “tay xoa” tài tử. Tôi đến đó, hôm ấy để tham dự vào một “projet”: Viết truyện phim về chiến tranh Việt Nam sẽ được một hãng phim Pháp thực hiện. Hai ông Trần Lê Nguyễn, Hoàng Anh Tuấn phụ trách kịch bản, đạo diễn. Hai ông nói nhiều và nói lớn hơn bất kỳ ai. Trần Lê Nguyễn đập bàn, nêu bật kinh nghiệm về “Bão Rớt Trong Thành Phố”(*) và giải thưởng về kịch bản mà ông đã thâu đạt. Hoàng Anh Tuấn ào ào phản công: “Đấy là viết kịch, truyện phim phải khác, như Xa Lộ Không Đèn, và Ngàn Năm Mây Bay của moa.” Đỗ Quý Toàn mặt nghiêm, tỉnh táo cho ý kiến: “Xa lộ mà không đèn thì chỉ có mà đụng xe”. Yến để xấp giấy trên bàn ngồi ghi chăm chỉû, im lặng theo dõi mỗi người qua lớp kính dày với nụ cười. “Các ông cứ nói hết đi, tôi ghi đủ.” Cuối buổi, khi tất cả đã nói hết tất cả những gì (có thể nói và muốn nói), Yến từ tốn: “Bây giờ quý vị đã nói hết. Tôi xin đọc tất cả ý kiến của quý vị, xong rồi ta chọn ý kiến hay nhất, cách làm tốt nhất. Cậu Nam theo đó mà viết với kinh nghiệm đánh đấm của cậu.” Khi xuống cầu thang để xuống tầng dưới, Chu Tử cười vui: “Không có anh Yến thì cứ cải đến bao giờ!!”

Năm 1973, nhân việc ký kết Hiệp Định Paris (27 tháng 1), Bộ Dân Vận Chiêu Hồi mở mặt trận tuyên vận lớn trong giới sinh viên hải ngoại. Đỗ Quý Toàn, Đỗ Ngọc Yến và những nhân sự trong “Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Đường” đồng nhập cuộc với “Đường Việt Nam”. Thêm một lần, tôi chứng kiến Đỗ Ngọc Yến tháo vác, tài giỏi khôn ngoan giữa vòng vây của đám sinh viên từ lâu chịu ảnh hưởng tuyên truyền đỏ ở Paris, Bruxelles, Bonn, Berlin, Tokyo. Trên nền nhà văn phòng Tổng Hội Sinh Viên Đường Kỳ Đồng, giữa những sinh viên về từ Tây Âu (vốn có thành kiến, và tâm lý chống đối nhà cầm quyền Miền Nam, dẫu đã ra đi từ Sài Gòn trong những năm 1960), Đỗ Ngọc Yến trình bày lý chiến đấu chính đáng của Miền Nam khách quan, trung trực. Anh giải thích sự độc đoán tàn nhẫn của phía cộng sản với tâm không hận thù, lời lẻ khoan hòa mẫu mực. Rõ ràng Yến đã thu phục những người tuổi trẻ một cách toàn vẹn bởi sự nhiệt thành và tính trong sáng của trái tim chân thật. Không Thật không nói được như thế. Tôi tin chắc mình đánh giá Đỗ trung thực và chính xác – Gần bốn-mươi năm sau, độ chính xác càng thêm củng cố vững chắc. Nếu Bộ Thanh Niên, Bộ Giáo Dục, Bộ Thông Tin VNCH.. có những cán bộ với tầm cỡ, năng lực nầy chắc chắn chế độ Miền Nam sẽ có một khuôn mặt khác trước dư luận, cộng đồng thế giới, trong lòng người. Bao lâu và như thế nào, những người cầm quyền (kể cả hiện nay) ở Việt Nam hiểu được “Sức mạnh tác động và hiệu quả của Giáo Dục đối với Tuổi Trẻ” – Tương lai của tất cả các dân tộc không thể xây dựng trên lực lượng quân đội với súng đạn. Người Lính không là nhân tố Xây Dựng Đất Nước – Người Lính trước sau chỉ với nhiệm vụ Bảo Quốc-An Dân – Thực hiện được đã là Kỳ Công Lịch Sử lớn lao.

Hai, 1980. Khi bóng tối hoàn toàn chụp xuống trong phòng kiên giam, những gã vệ binh đã kéo thanh sắt chận chân cùm, hỏi to tên người tù để xong kiểm soát. Tôi bắt đầu điều hành “thế giới” lý tưởng của mình: Sắp xếp một thành phần lãnh đạo Miền Nam!! (Tôi chỉ nghĩ về Miền Nam như một phản ứng tự nhiên. Vậy xin đừng trách cứ phần chủ quan, hạn chế, mà cũng chỉ là “ý niệm” đâu xúc phạm, thiệt hại gì đến ai?!). Đầu tiên là những người chỉ huy quân đội. Tôi lý luận, phân tích (rất nghiêm trang với chiính bản thân (!)). Nên để cho ông “Lô Lọ Rượu” (Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7Dù, người bạn cùng khóa) hay ông “Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc” (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2TQLC, “Trâu Điên”) coi về “Lực Lượng Xung Kích Quốc Gia”? Ông Lô thì can trường có dư nhưng nóng nảy quá; ông “Robet Lửa” nhiều cơ mưu, tính hoán hơn; phụ tá xếp cho Trần Công Hạnh (Tiểu Đoàn 2 Dù, gương chiến đấu kiên cường của Lam Sơn 719, Hạ Lào). Thế thì ông Phán “râu” của Tiểu Đoàn 8 TQLC để vào đâu? Phán nên để phụ trách “Lực Lượng Phòng Vệ” bởi tính trung hậu, luôn sống, chết hết lòng với anh em.. Sống chết với anh em thì bạn anh ai chẳng vậy, chẳng cứ gì ông Phán, sao anh bỏ người nầy, binh người kia? Anh tính sao với Phạm Như Đà Lạc, sống chết với anh từ ngày ra trường về nhảy dù kia mà?! Lại còn phải xếp chỗ cho Mê Linh (Trung Tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn Trưởng 11 Dù) và Lã Quý Trang nữa? Hai ông nầy nhiều khả năng tham mưu, chuyên về tổ chức, hành quân đặt làm tham mưu trưởng liên quân là đúng nhất. An Ninh-Tình Báo là cơ quan tối cần thiết trong mặt trận gián điệp, phản tình báo thì chỉ định cho ông Hiển (Hoàng Khởi Phong) hoặc Lưu Văn Chương (Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn trong những năm 60; bạn cùng Khóa 18 Đà Lạt), vì hai ông nầy chuyên môn coi về tù binh, quân cảnh, an ninh quân đội. Thế nhưng, ai giữ chức Tổng Tư Lệnh? À đây là một chức vụ quan trọng không thể chỉ căn cứ trên cảm tính cá nhân được. Anh phải nghiêm túc, khách quan với chính mình! Vậy thì có thể để chỗ cho Khôi Nguyên, hoặc Tố Quyên (Trung Tá Trần Đăng Khôi, Bùi Quyền, những sĩ quan niên trưởng thuộc Khóa 16 Đà Lạt. Những người tôi quen thân, kính nể từ đầu ngày lính). Thôi, chức nầy tạm để trống, biết đâu khi xét qua phía dân sự mình sẽ tìm thấy một ông văn võ toàn tài hơn. Tổng tư lệnh xưa nay đâu chỉ có giới hạn với người võ biền, Khổng Minh, Trương Lương, Tôn Tử.. đâu phải là nhân sự giỏi quyền cước, võ thuật, chuyên “giương cung bắn ó, diều”? tôi thúc dục, cân nhắc như thể có một nội các sắp sửa cầm quyền để đưa Miền Nam đến chiến thắng! Qua phía dân sự, thì “Ông Cả Doãn”” được chỉ định mau mắn đảm nhiệm chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục. Phải đặt Ông Cả làm Tổng Trưởng hoặc Quốc Vụ Khanh mới xứng, sao chỉ là bộ trưởng? Ông Cả là người tài đức, nhưng không biết giữ chức vụ hành chánh “thầy tôi” có chịu nổi không? Tôi tập trung ý nghĩ chung quanh nhà văn niên trưởng Doãn Quốc Sỹ. Thầy là người quá khiêm nhượng, đạo đức cao, sợ rằng khi giữ chức lớn thầy không thể có những quyết định mạnh mẽ được!. Trời đất, anh chưa giao gì cho Ông Cả, sao lại đặt vần đề sớm thế. Ai làm Thầy cho cả nước xứng đáng bằng Ông Cả Doãn?! (Xin nhắc lại ý niệm “cả nước” áp dụng đây chỉ đối với Miền Nam) Cũng trong lãnh vực giáo dục, hai ứng viên thân thiết Tôn Thất Hải và Lê Tự Hỷ (Hai người bạn cùng lớp ở Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng (1954-1960), rất xuất sắc trong giới giáo dục, và lãnh vực toán học, khoa học) được nhắc tên để làm thành phần “trừ bị chiến lược”. Lê Tự Hỷ còn có thể đặt làm Tổng Trưởng Kế Hoạch bởi khả năng toán học đặc biệt của anh. Lê Tự Hỷ còn có thể đặt làm Tổng Trưởng Kế Hoạch bởi khả năng toán học đặc biệt của anh. Sở dĩ Bộ Giáo Dục được nghĩ trước hết vì tôi hiểu ra rằng không còn con đường nào khác để tránh họa cộng sản và tranh chấp bạo lực bằng sách lược “Tân Dân Trí” – Do lớn lên ở Quảng Nam, học Trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng nên ảnh hưởng từ cụ Phan là một điều tất nhiên vậy (Tôi tự giải thích cho bản thân về việc đặt ưu tiên về vấn đề giáo dục với những người bạn thiết của ngôi trường nầy). Đến Bộ Thanh Niên (Vì là Hướng Đạo sinh, và tâm thức Hướng Đạo là một nguồn lực tinh thần mạnh mẽ rất dễ nhận thấy trong những hoàn cảnh khó khăn). Việc nầy giao cho ai giữa Tô Phạm Liệu, Phạm Gia Cổn, hoặc Ngô Vương Toại? Tôi lại rơi vào tình cảnh bối rối khi phải “cân nhắc, chọn lựa” giữa Liệu, Cổn, và Toại. Cậu Liệu là đội trưởng Hướng Đạo của mình, đã là đại đội trưởng quân y nhảy dù nếu xét về khả năng tổ chức, sinh hoạt thanh niên tất nhiên quen việc, thích hợp khả năng.. Nói thế thì Phạm Gia Cổn không là bác sĩ nhẩy dù, lại là võ sư thượng thặng chẳng kể đến sao? Coi chừng cứ loanh quanh mấy ông bạn lính, người ta lại bảo anh nặng tính “quân phiệt”, thôi để Toại giữ bộ thanh niên, hai ông kia cho về coi quân y hoặc bộ y tế. Và thường thường, khi gặp trường hợp phải quyết định khó khăn thì tôi lại áp dụng biện pháp “nhảy” qua với người và nhiệm vụ khác dễ xác định hơn. Tôi tiếp tục: Ngoại giao không ai hơn Lê Chí Thảo hoặc Nguyễn Hữu Doãn! (Những luật sư trẻ tuổi, chuyên viên ngoại giao trước 1975). Tôi reo lên đắc thắng như thể chức vụ đã giao cho người tương xứng chính đáng. Ấy, coi chừng dân chúng lại bảo anh “kỳ thị”, vì chẳng thấy “anh Nam Kỳ” nào giữ chức vụ lớn cả?! Nói thế là không hiểu quan điểm của người đạo diễn, xếp đặt công việc (tức là bản thân tôi).. Làm gì có “Bắc, Nam, Trung kỳ” ở đây, tất cả đều lớn lên với Miền Nam - Đã là “Nam Kỳ Hoá” toàn diện. Với độ tuổi ba-mươi mà ở Miền Nam hơn hai-mươi năm thì còn đâu là “Bắc, Trung kỳ” nữa, nói như thế chỉ lộ ý niệm chật hẹp tầm phào của sinh hoạt làng xã đầu thế kỷ do Tây bày ra mà thôi.

“Trò chơi” nghiêm chỉnh – Rất nghiêm chỉnh và thành thật kéo dài trong bóng tối thường kết thúc với những người bạn gần gũi: Vũ Ngự Chiêu, Nguyễn Bá Trạc. Tôi lý luận: Mấy ông nầy học giỏi, có tài, nhưng tính khí khác biệt nhau, vậy cho vào Ban Cố Vấn để làm công tác chỉ cho ý kiến chỉ đạo (một cách không chính thức) kiểu Như Phong đối với mấy ông cầm đầu Miền Nam (trong những năm sau 1963). Cuối cùng, chức vụ cao nhất của chính quyền quốc gia: Thủ Tướng Chính Phủ – Chức nầy phải giao cho cậu Yến! Tôi cười to đắc thắng bởi quyết định đã hoàn tất. Phải, Đỗ Ngọc Yến là “Thủ Tướng Chính Phủ Lý Tưởng” của người tù nằm trong phòng cấm cố tử hình giữa bóng tối. Tôi nói ra lời: “Tôi biết Bác (Khi nói chuyện nghiêm trọng, anh không dùng từ “cậu” để nói với bạn mình!!) là người kín đáo, khiêm nhượng. Nhưng Bác không được im lặng, từ chối. Bác từ chối là có tội. Tôi với Bác chỉ có một lần.” Tôi quơ tay trong bóng đêm. Không biết đã mấy giờ? Chỉ biết mình đang Sống Tận Cùng với mỗi Người Bạn.

“Sinh hoạt” sống động như trên không phải là hậu quả cảnh sống của một kẻ bị mê sảng dài lâu trong bóng tối đơn độc – Hiện tượng “traumatism” trầm trọng của người bị ức chế, hành hạ quá mức – Nhưng hiểu ra rằng, qua hệ thống thông tin ấy, mình đang được bảo vệ, nhắc nhở, an ủi bằng hình tượng từ, của những Người Bạn – Những người tôi thật tâm yêu quý, tin cậy. Và mỗi người (không trừ một ai) với tên họ, dáng dấp, hành vi, lời nói tất cả kết cấu thành một thông điệp rõ ràng: Tôi sẽ được Cứu Chuộc. Được Đỗ Đạt. Được Thành Tựu. Vào những thời điểm biểu hiện bằng những con số 1, 2.. 7, 8, 9.. 14, 21, 22. Ví dụ như hình tượng: “Ngô Vương Toại nằm ngủ trên núi đầu Sông Mã” cho thông tin về “biến cố quan trọng sẽ xẩy ra vào năm Con Ngựa” – Thông tin nầy cũng được lập lại nhiều lần (để nhấn mạnh) như với hoạt cảnh: “Nguyễn Lô (Tiểu Đoàøn Trưởng Thứ 7 của Tiểu Đoàn 7 Dù) ngồi ăn Hộp Bơ mở nắp sẵn đầu một chiếc Bàn Gỗ Rất Lớn với Lê Nin (Người Số 1, sinh năm Ngọ (1870) của nhà nước vô sản đầu tiên (Chỉ Số 1) khai sinh từ Cách Mạng 7/11/1917 – Nêu bật các Số 1; Số 7) ngồi ở đầu bàn đối diện.”

Trong ý nghĩa hệ thống thông tin kể trên. Đỗ Ngọc Yến với Đôi Kính nổi cộm của Bạn chuyển cho tôi thông điệp: “Sẽ được Đỗ. Sẽ được Thấy. Sẽ được Dự Tiệc Lớn”. “Yến” cũng là tên “Cô Giáo Đầu Tiên- Chỉ Số 1” dạy học vỡ lòng với cuốn tập (có thật) màu “Vàng - Chỉ sự Hoàn Trả” bìa hình “Con Voi- Con vật Lớn Nhất, Số 1)” ở năm 1949 (Năm Sửu trùng với năm Sửu, 1973 của bài báo Đỗ viết trên Đại Dân Tộc). Với hình tượng của những danh vị linh thiêng (Phật Thích Ca, Chúa Ky-tô; Mẹ Maria, Phật Bà Quán Thế Âm, Thượng Tọa Thích Quảng Đức.), hoặc sự xuất hiện (có hệ thống) hình ảnh của mỗi người thân yêu (mẹ, em, vợ, con, người chung gia tộc.), tất cả bằng hữu, hoặc những người mà tôi chỉ thấy thoáng đâu đó. Tôi được nâng đỡ dần qua từng giờ của mỗi ngày, của mỗi đêm từ 7 tháng 9, 1981 đến chiều 29 tháng 5, 1988 – Tôi ra khỏi hầm giam Trại Nam Hà (Theo đoàn tù “Người Miền Nam cuối cùng”) trở về Nam – Tái hiện thực từ ngữ “Người Nam Hà Đầu Tiên” của “Mai Phương, Đỗ Ngọc Yến” viết về tôi năm 1973.

Ba, 1990. 2005

Tôi đẩy chiếc cổng gỗ khu nhà tranh ở Lái Thiêu hân hoan mời hai người khách, Doãn Quốc Sỹ và Như Phong bước vào: “Mời Anh Cả và Ông Ba vào đây, nhà nầy em đặt tên là “Bằng Hữu Gia Trang”, đây là tài sản đầu tiên anh Út Lu (chòm xóm, trẻ con trong khu đặt tên theo ý thân của họ) có được sau ba-mươi năm lăn lóc với đời.”

Hai người bạn vong niên ngồi xuống những chiếc ghế gỗ nhỏ. Anh Sỹ cởi dép.. Như Phong bật cười vang: Khổ chưa, bác kiếm đâu “đôi dép” quý thế nầy?! Anh Sỹ đã mang một chiếc dép da và chiếc kia thuộc loại cao su mũ! Doãn Quốc Sỹ cười nhẹ tự nhiên, xong nói thong thả. Ấy thế ấy thế phan nhật nam sinh năm bao nhiêu?Lại thêm một lần anh giải thích: “Thì em sinh năm 1943, tức năm Quý Mùi, nhỏ hơn Anh Cả 20 năm. Anh Cả tuổi Quý Hợi, sinh 1923”. Thế thì Ông Ba (Như Phong) là bao nhiêu? “Ông Ba sinh năm 1922, năm Nhâm Tuất, bằng tuổi mẹ em.” Ờ nhỉ! Doãn Quốc Sỹ nhìn mông ra khu vườn, ánh mắt vui hoà dung dị. Như Phong nằm lên chiếc võng.. Tôi ngủ đây, cậu làm cái gì ăn đi, đói bỏ xừ rồi.

Khi đứng nấu nước sôi chuẩn bị làm tô mì ăn liền cho hai người bạn lớn tuổi, Tôi nhớ lại câu hỏi (nhiều lần lập lại) của Doãn Quốc Sỹ và hiểu ra rằng: Những năm, tháng của đời người kia không hề là ngẫu nhiên, chúng được kể đến, đặt nên chữ số với một giá trị riêng (đối với từng cá nhân, mỗi gia đình, một dân tộc. ) và con người (chỉ qua con người chứ không ai khác) đã hiện thực nó trong đời sống với tất cả tình tiết (tưởng như là ngẫu nhiên, rối rắm) – Nhưng thật ra Được Chỉ Huy trong Một Thể Thống Nhất – Tất cả chỉ là Một.

Ngày 17 tháng 1, 1994 lần đầu tôi xuống Miền Nam Cali, đến Báo Người Việt, Đỗ Ngọc Yến rút hết tiền có được của Ban Quản Lý do Tống Hoằng phụ trách bỏ vào một bì thư. Hoàng Khởi Phong đếm hộ vì thấy tôi lúng túng với những tờ giấy bạc (quá nhiều) lần đầu cầm giữ: Ông ấy đưa cho ông “Bảy Trăm” đấy. Những con số 1, 7, 17.. của ngày, tháng nầy; số lượng những tờ giấy bạc nầy tôi đã Thấy nhiều lần, đã được Thông Báo nhiều lần. Như cặp Mắt Kiếng long lanh và Nụ Cười của Yến.

Hẳn tất cả chúng ta hôm nay ở hải ngoại đều đồng ý: “Người Việt là Báo Số 1”. Cũng như Chu Tử của Báo Sống, Sóng Thần ở Sài Gòn ngày trước có danh hiệu, “Ông Vua Không Ngai” của báo giới vậy. Tối hôm đó, 18 tháng 1, Vùng San Fernando Valley bị Một Trận Động Đất lớn.

Mười hai năm sau, 2005, trên giường bệnh của Fountain Valley Regional Hospital, người bị cột bởi vô số giây, móc. Nhưng như một phép lạ rất bình thường: Đỗ Ngọc Yến hình như không bị tác động bởi những cơ quan hư hỏng nào đó trong cơ thể, vừa thấy tôi bước vào (sau chuyến đi đến với những bằng hữu ở DC, ở San José.) Yến cười tươi (như đang trong một buổi của ba-mươi lăm năm trước) với câu hỏi ân cần: “Tôi luôn thắc mắc làm sao mà ông sống được qua mấy năm trong những cái hầm kia.” Người Bạn hằng có mặt với tôi trong bóng tối nơi những căn hầm tử hình cấm cố. Và ngay bây giờ. Không có chi đổi khác.

“Khi nào ông ấy cất cái kính và cười.. Lúc ấy Con Người Đỗ Ngọc Yến hiện đủ toàn diện, trung hậu, trung trực, chân tình.” Nhận xét của Ngô Vương Toại nói với tôi hôm tháng Mười ở DC về Đỗ Ngọc Yến được nhớ lại rất chính xác. Bây giờ Yến đã cất đôi kính và hằng nở rộ Nụ Cười.

(1) Nhất Anh, Bữa Cơm Trên Lưng; Nhật Báo Sóng Thần, Sàigòn, VN1970.
(2) Phan Nhật Nam, Dấu Binh Lửa; NXB Đại Ngã, Sàigòn,VN1969.
(3) Trần Lê Nguyễn, Kịch Bão Thời Đại; Sàigòn, VN1958.

Ngày 11 tháng 11, 2005

Bệnh Viện Fountain Valley,
Bên cạnh Đỗ Ngọc Yến sau 12 năm ở Mỹ.

Phan Nhật Nam


Thursday, October 16, 2008

Phan Nhật Nam Bôi Nhọ QLVNCH


TÂM THƯ GỞI ĐẾN NHÀ VĂN PHAN NHẬT NAM


Kính thưa ông Phan Nhật Nam,

Trong bài viết “Ky là Ky” (Qui est Ky?)

http://phanchautrinhdanang.com - 30thang4/Kyniem 30.4 của ông, tôi xin trích đoạn sau:

“…Sáng 29 tháng 4, Thiếu Tướng Không Quân Kỳ dùng trực thăng cá nhân bay lên trời Sàigòn, nhận ra pháo cộng sản đang bắn dồn dập từng phút một. Qua tần số máy liên lạc, y bắt được tín hiệu của một phi đội khu trục Skyraider A1 từ Cần Thơ:

- Đây Nguyễn Cao Kỳ. Phải phá mấy ổ pháo dưới kia.

- Nhận rõ, nhưng chúng tôi chỉ còn mỗi quả bom. Viên phi đội trưởng (khinh mạng) trả lời.

Giờ hỗn quân, hỗn quan bắt đầu."

Thưa ông Phan Nhật Nam ,

Vì những diễn tiến trong bài viết trên đây hoàn toàn không đúng với sự thật, tôi, một trong những chiến sĩ Không Quân, từng là đọc giả của ông, từng là người đã ngưỡng mộ văn chương của ông, xin tóm tắt để đóng góp sự thật về phi vụ chống pháo kích sáng sớm ngày 29/4/75:

Ngay sau khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, tôi đượcTh/Tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PD 518 chỉ định đi bay. Vì thiếu “wingman” nên Th/tá Trương Phùng tình nguyện cùng tôi đi bay trong mưa pháo. Vì bình điện phi cơ của Th/tá Phùng bị hư và đạn pháo kích rơi gần đó, không quá 100 thước (bãi đậu A37) nên sau khi quay máy xong, tôi quyết định cất cánh một mình lúc 4 giờ 25 phút sáng tại phi trường TSN.

Khi lên tới Phú Lâm, tôi được PHĐ AC 119-Tinh Long 06 hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là 2 dàn pháo 122 ly cách đài Radar Phú Lâm khoảng 500 mét về hướng Tây. Sau khi thả trái bom thứ 2 xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:

- Phi Long 51, anh cứ trút hết bom đạn xuống mục tiêu và mời anh ghé nhà tôi nhậu tối nay.

Mặc dù tôi đã biết người ra lịnh cho tôi là ai nhưng tôi vẫn hỏi lại:

- Giới chức vừa ra lịnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.

- Tôi Thần Phong 01, Th/Tướng Kỳ đây!

Vừa bay lượn, vừa quan sát mục tiêu, tôi vừa trả lời:

- Thưa Cụ Phó, tôi bay lên đây một mình với 10 trái bom 250 (250 cân Anh), theo tôi nên chờ khi nào thấy rõ mục tiêu hãy thả bom. Tôi có thể ở đây thêm 3 giờ nữa, với kinh nghiệm của tôi, xin ông an tâm!

Ngoài chúng tôi ra, còn có các PHĐ của vài chiếc trực thăng đang quây quần ở phía Đông của Phú Lâm, các nhân viên của đài kiểm báo Paris (có thu âm) nghe được trên tần số. Tôi nghĩ họ là những nhân chứng hùng hồn với một sự thật, sáng như ánh mặt trời mà không có bóng đen nào có thể che khuất được hay làm lệch lạc đi đươc.

Tôi tự hào là một trong những người chiến sĩ đã bám sát lấy chiến trường cho đến giờ phút chót. Tôi, Trần Văn Phúc, chính là người đã lái chiếc A1 Skyraider mà bài viết gọi là viên phi đội trưởng với lời lẽ “KHINH MẠNG trả lời” (không biết ngôn từ kỳ lạ nầy đã được viết sai chính tả? hay có một hàm ý nào mà tôi và những người đọc không thể tìm được trong Tự Điển Việt Nam)

Khoảng 15 hay 20 phút sau, có lẽ bọn chúng (VC) nghĩ chúng tôi hết bom nên bắt đầu pháo trở lại, nhìn rõ nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên, nhờ vậy rất dễ dàng cho chúng tôi thanh toán những mục tiêu nầy. Lúc bấy giờ Th/Tá Phùng đã bay đến nơi, mặc dù vô tuyến bị hư (không nói được) nhưng Th/Tá Phùng vẫn cất cánh bay lên và cùng với tôi sát cánh chiến đấu bên nhau (hỗn quan, hỗn quân?).

Sau khi dập tắt các dàn pháo ở Phú Lâm, chúng tôi đã trở về để bảo vệ phi trường TSN và Thủ Đô Sàigòn lúc 5 giờ 30 phút và sau đó, chúng tôi cùng với PHĐ AC 119 K-Tinh Long 07 vừa mới cất cánh do Tr/uý Trang Văn Thành (Thành Cambốt) trưởng phi cơ, cùng nhau bảo vệ Thủ Đô Sàigòn.

Lúc 6 giờ 20 Tr/úy Thành nghi ngờ vòng rào phòng thủ hướng Bắc bị cắt nên hướng dẫn Th/Tá Phùng thả 2 trái bom còn lại xuống ngoài vòng đai TSN.

Trên tần số tôi được biết 1 phi tuần Phượng Hoàng - PD 514 do Th/Tá Hồ Ngọc Ấn và Đ/U Nguyễn Tiến Thụy, cất cánh từ Cần Thơ sắp đến TSN nên tôi đã đáp xuống phi trường lúc 6 giờ 50 phút sáng ngày 29/4/75, riêng Th/Tá Phùng chưa chịu đáp xuống nhưng không may, anh bị bắn rơi sau khi chiếc AC-119, Tinh Long 07 trúng hoả tiển tầm nhiệt SA7 không lâu?

Vì đây là những dữ kiện mang tính chất lịch sử có liên quan đến Tổ Quốc và nhất là danh dự của Quân Chủng Không Quân, nên tôi đã nhiều lần cố gắng liên lạc với ông Phan Nhật Nam (qua email: pnn943@aol.com) với thành ý đóng góp những tin tức hoàn toàn xác thật, được chứng minh bởi những chiến sĩ đồng đội đã có mặt trên chiến trường VN cho đến giờ phút cuối cùng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không nhận được hồi âm, nên tôi xin phép quý NT, các bạn KQ, độc giả CT và ADMIN cùng BĐH CT mượn diễn dàn nầy để một lần nữa, với hoàn toàn thành ý xin đóng góp cùng người viết dưới tên của ông Phan Nhật Nam.

Vì Tổ Quốc VN, vì danh dự của Quân Chủng Không Quân cũng như của toàn thể chiến sĩ VNCH, nhất là những đứa con đã ở lại với Mẹ VN cho đến giờ phút chót, sau cùng là vì đại danh và uy tín của nhà văn Phan Nhật Nam, chúng tôi mong được một sự hồi âm, và hơn nữa cùng nhau đóng góp để lưu lại những trang sử “ĐẸP và THẬT”.

Chào ông Phan Nhật Nam .

Cựu KQ Trần Văn Phúc PĐ 518 và các chiến hữu. 1/7/08

Đặc biệt cám ơn sự giúp đở của ADMIN và Ban Điều Hành phanchautrinhdanang .com đã giúp đỡ và cùng tôi gởi email cho ông Phan Nhật Nam .

Trong suốt 33 năm qua, có lẽ suốt cuộc đời tôi vẫn ghi nhớ lời nói, thái độ hào hùng của Th/Tá Trương Phùng:

- Trước khi đi bay, anh đã nói với mọi người trong phi đoàn: "trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết, tôi đi bay với anh".

- Trên đường ra bãi đậu phi cơ: "tụi nó pháo dữ quá, chả lẽ mình nằm đây chờ chết hay sao? bất cứ giá nào chúng ta phải bay lên dù phải hy sinh , hy vọng chúng ta có thể giúp được mọi người, trong đó có gia đình mình".

- Khi ra đến bãi đậu, Th/Tá Phùng hét to với các anh cơ trưởng: "sau khi nổ máy xong, chock out ngay, các anh tìm chổ núp, đừng để chết chùm cả đám"

Tôi thầm phục sự quả cảm của Th/Tá Phùng, bất chấp mọi hiểm nguy, dù vô tuyến hư, không xin phép Đài Ground Control, Đài Kiểm soát Không Lưu và cũng không cần biết phi đạo sử dụng, bằng mọi giá cất cánh lên, cùng tôi chiến đấu bên nhau. Có lẽ trên thế giới nầy chỉ có một mình anh đã làm ?

Từ một năm nay, không ngừng truy tìm tung tích của Th/Tá Trương Phùng, ngày 01 tháng 8, 2008 anh Nguyễn T. Chí được cụ Tư Hườn kể lại, buổi sáng ngày 29/4/75 chính cụ chứng kiến 1 chiếc phi cơ Khu Trục AD-5 bị trúng phòng không, máy phun khói đen và đáp khẩn cấp xuống thửa ruộng của cụ, dọc theo Quốc Lộ 4, cách chùa Từ Quang vài trăm thước, cách cầu Bình Điền non 1 cây số về hướng Bắc, người phi công bước ra khỏi máy bay, nhưng không may anh bị VC bắt trói, bịt mắt, đánh đập và dẫn đi biệt tích.

Cho đến hôm nay, gia đình của Th/Tá Trương Phùng (ở VN) vẫn mong đợi tin anh, chúng tôi đang cố gắng dọ hỏi thêm và hy vọng tìm chút ít manh mối về anh.

Lúc 11 giờ 45 ngày 03/7/08 tôi được tiếp chuyện với nhà văn Phan Nhật Nam bằng điện thoại xin ông bổ túc, nhưng ông Phan Nhật Nam đã hằn học với tôi:

- Tôi đâu có ghi tên tuổi của anh, tại sao anh lộn xộn.

- Tôi có quyền trích dịch tất cả các sách báo, kể cả sách của Võ Nguyên Giáp mà không cần giải thích với ai cả, anh có giỏi đi tìm các tác giả mà cải chánh, hàng triệu người trên thế giới đã đọc rồi.

Ngoài ra, nhà văn Mường Giang đã viết trong website Trangden: http://www.trangdenonline.com

Bài: Ngày 30-4-1975 , Tổng Thống Dương Văn Minh Ðầu Hàng Hay Bị Cộng Sản Bắc Việt Bắt Buộc

Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến, để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thì Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà. Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để đước tới định cư ở Hoa Kỳ.

Trần Văn Phúc

Phan Nật Nam: Không bao giờ thù hận chính quyền CS - cán binh CS


Nhà văn Phan Nhật Nam: “Chúng tôi đều là nạn nhân của một tai họa vô lường”
2005-04-30

From: hatien vanctnguyen@ yahoo.com
Sent: Thursday, October 16, 2008 10:53:09 PM
Subject: Phan Nhat Nam: Khong Bao Gio Thu Han Chinh quyen CS -Can Binh CS

Việt Long, phóng viên đài RFA

Download story audio
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PhanNhatNam_VietnamWar_VLong-20050430.html/vlong042905p.mp3/inline.html

Nhà văn Phan Nhật Nam: "Người lính kia và chúng tôi là nạn nhân của một tai họa vô lường gọi là chiến tranh Việt Nam". Về phía miền Nam, một nhà văn quân đội cũng từng chiến đấu rồi phải buông súng để vào các trại tập trung suốt 14 năm ròng, ông Phan Nhật Nam, liệu có cùng quan điểm về xóa bỏ hận thù như nhà văn Bảo Ninh không?

Việt-Long: Thưa ông Phan Nhật Nam, bây giờ đã là 30 năm sau khi tàn cuộc chiến Việt Nam thì ông nghĩ rằng những người cựu chiến binh của VNCH và QÐNDVN đã nên quên đi quá khứ hận thù hay chưa?

Phan Nhật Nam: Câu hỏi này đối với người lính VNCH rằng là một câu hỏi không cần thiết. Tại vì có người lính VNCH nào mà hận thù với người lính của nước VNDCCH trước năm 75, hoặc là những người lính đi từ miền Bắc đâu.

Ngay cả chữ nghĩa mà chúng tôi viết rằng các anh em toàn thể Việt Nam ngay ở trên chiến trường, chúng tôi không hề có một điều hận thù đối với cả chính thể ở miền Bắc, chứ đừng có nói là người lính ở miền Bắc.

Tại vì chúng tôi hiểu hơn ai hết rằng người lính kia và chúng tôi là nạn nhân của một tai họa vô lường gọi là chiến tranh Việt Nam.

(Xin theo dõi toàn bộ cuộc trao đổi trong phần âm thanh bên trên)
http://www.rfa. org/vietnamese/ in_depth/ PhanNhatNam_ VietnamWar_ VLong-20050430. html



Thư của nhà báo Hoàng Dược Thảo gửi nhà văn Phan Nhật Nam


Bênh Nguyễn Chí Thiện, nhà văn Phan Nhật Nam bị Đào Nương Hoàng Dược Thảo đặt vấn đề “danh dự của nhà văn miền Nam”

Lê La tổng hợp

Trong phe bênh Nguyễn Chí Thiện, người nỗ lực lên tiếng, vận động mạnh mẽ nhất là nhà văn Phan Nhật Nam. Người ta không lạ về chuyện Phan Nhật Nam bênh vực Nguyễn Chí Thiện, vì dù sao, hai ông cũng là “đồng chí” của nhau từ hồi ở tù chung (trong nước), được cùng lãnh giải thưởng Quốc Khánh do Mặt trận tặng trước đây, và bây giờ ra hải ngoại thì ở cùng nhà, làm việc cùng một môi trường chống cộng để kiếm sống. Ông Phan Nhật Nam bênh ông Nguyễn Chí Thiện một cách công khai, hùng hồn trên nhiều phương tiện truyền thông, đặc biệt là đài SBTN. Người phản ứng mạnh với Phan Nhật Nam là bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo, chủ bút/chủ nhiệm hệ thống báo Saigon Nhỏ. Mới đây, trong số báo 34 ra ngày thứ Năm, 2 tháng 10, 2008, bà Hoàng Dược Thảo đã đăng lá thư bà viết cho ông Phan Nhật Nam, đặt vấn đề “danh dự của một nhà văn miền Nam và của một sĩ quan QLVNCH”. Nội dung lá thư như sau:
    “Thư của nhà báo Hoàng Dược Thảo gửi nhà văn Phan Nhật Nam

    Anh Nam,

    Có nhận thư của anh lên tiếng giùm ông Nguyễn Chí Thiện do họ chuyển tới email cho Hoàng Dược Thảo.

    Nếu ông Nguyễn Chí Thiện đã có “bản chánh” do “bên Anh” như vậy anh nên bảo ông Nguyễn Chí Thiện nhận lời mời của Hoàng Dược Thảo làm một cuộc giảo nghiệm chữ viết trước công chúng với sự tham gia của truyền hình, báo chí và công chúng.

    Sau đó, “nghi án” này sẽ chấm dứt. Tại sao Nguyễn Chí Thiện không lên tiếng mà nhà văn Phan Nhật Nam lại phải lên tiếng nói cho ông ta. Ông ta không muốn đối thoại với nhà báo, người dân nghi ngờ sự giả, thật thì ông ta đối thoại với ai, tranh đấu cho ai?

    Ông Nguyễn Chí Thiện là gì mà khinh miệt và sai các ông nhà văn như Chu Tất Tiến, Phan Nhật Nam, Nguyễn Ngọc Bích lên tiếng cho ông ta như thế. Danh dự của một nhà văn miền Nam, một sĩ quan QLVNCH của các ông cất đi đâu rồi?

    Nhà văn Phan Nhật Nam nên lấy bài của tác giả Triệu Lan đăng trên Sàigòn Nhỏ và hỏi ông Nguyễn Chí Thiện là tại sao ông ấy lại nói dối nhiều như thế? Tại sao cùng một dữ kiện mà ông ấy lại trả lời 5, 3 thời điểm khác nhau? Sàigòn Nhỏ là một cơ quan ngôn luận nêu lên thắc mắc về một nhân vật. Đúng hay không đúng sao không dám trả lời mà những người như Phan Nhật Nam, Nguyễn Ngọc Bích phải chạy vòng vòng để cải chánh?

    Ông Giân, anh ông Nguyễn Chí Thiện hay những bạn tù của ông Nguyễn Chí Thiện không đủ tư cách để xác định ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Vô Đề. Nhà văn chống cộng Phan Nhật Nam hãy tự hỏi: một người chửi Việt cộng như tác giả tập thơ Vô Đề mà Việt cộng để cho sống sót và ra hải ngoại chửi chúng tiếp mười mấy năm qua. Tư cách gì mà ông Giân trước 1975 ra miền Bắc hai lần để thăm gia đình? Hãy hỏi ông ta điều này và bảo đó là câu hỏi của Hoàng Dược Thảo.

    Chúng ta là người cầm bút chỉ nên nhìn về khía cạnh văn học. Một người nói dối như cuội và sáng tác ra Hạt Máu Thơ không thể là tác giả của tập thơ Vô Đề. Nhà văn Phan Nhật Nam ít ra cũng nhận thấy điều này. Đào Nương viết về điều này từ năm 2003. Trừ khi ông Phan Nhật Nam không hề đọc thơ của Nguyễn Chí Thiện hay thơ Vô Đề.

    Thế kỷ 21 rồi. Đừng làm việc theo cảm tính mà hãy nhận xét theo sự kiện. The facts speak for itself.

    Cuối cùng, anh Nam nên khuyên ông Nguyễn Chí Thiện chấp nhận cuộc giảo nghiệm chữ viết trước công chúng do Sàigòn Nhỏ đề ra thay vì chạy cờ cho Nguyễn Chí Thiện vòng vòng như vậy.

    Vàng thật thì có gì mà sợ. Chỉ sợ khi là của giả thôi.

    Hoàng Dược Thảo”
Lê La tổng hợp


Wednesday, October 15, 2008

Đồng bào Úc châu biểu tình phản đối Nguyễn tấn Dũng tại Canberra


* Lấy từ hộp thư riêng

Ngọn lửa đấu tranh bừng sáng Úc châu

Vào lúc 10.30 sáng thứ hai 13/10/2008, gần 2000 đồng hương từ khắp các tiểu bang đã quy tụ trước tiền đình quốc hội Úc ở Canberra để biểu tình phản đối thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân chuyến công du hai ngày của ông tại Úc châu để xin tiền viện trợ ngoại bang. Rừng cờ vàng ba sọc đỏ phất phới bay trong gió cùng với những biểu ngữ lên án nhà cầm quyền CSVN chà đạp tự do dân chủ nhân quyền, dâng hiến đất đai của tổ tiên cho quan Thầy Trung quốc là nói lên quyết tâm của người Việt tỵ nạn CS kiên trì đấu tranh vạch mặt tội ác và sự lừa đảo của CSVN trước quốc tế. Đồng thời cũng đệ đạt lên chính phủ Úc nguyện vọng chính đáng của người dân Úc gốc Việt, yêu cầu họ phải áp lực CSVN thực thi dân chủ nhân quyền để được nhận viện trợ.

Sau phần nghi lễ chào cờ mặc niệm và chào mừng quan khách, ông Lê Công, Phó Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu tuyên bố khai mạc. Ông Công cho biết mục đích của cuộc biểu tình này không phải là để phản đối chính phủ Úc trong việc viện trợ nhân đạo" xoá đói giảm nghèo" cho Việt Nam mà là yêu cầu chính phủ Úc phải dùng sự viện trợ này để áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền và phải chấm dứt những hành động khủng bố đàn áp người dân để được nhận viện trợ.

Thượng nghị sĩ Garry Humphry cũng đồng quan điểm trên. Ông nói: "Chúng ta không chấp nhận viện trợ cho CSVN nếu những vi phạm về nhân quyền không có sự cải thiện và chấm dứt". Ông cũng cho biết, ông sẽ đưa ra tất cả những yêu cầu của cuộc biểu tình hôm nay tại cuộc họp tại quốc hội trong vài phút để buộc Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn CSVN phải thực thi trước khi quyết định viện trợ nhân đạo "xoá đói giảm nghèo" cho Việt Nam.

Tiếp theo đó, ông Nguyễn Thế Phong chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc châu cho rằng trước những sự kiện chà đạp nhân quyền ngày càng gia tăng như xuất cảng phụ nữ , trẻ em, công nhân ra nước ngoài để làm nô lệ, chà đạp tôn giáo, v.v... thì cuộc viếng thăm nước Úc cuả Nguyễn Tấn Dũng là một cuộc viếng thăm nhục nhã.

Sau đó, dân biểu Kingston cũng chia sẻ sự quan tâm về sự chà đạp tự do tín ngưỡng và nhân quyền ở Việt Nam. Ông cho biết, " Tôi sẽ cố gắng khuyến cáo chính phủ Úc tạo những áp lực để CSVN phải thực thi một sự tự do, dân chủ thực sự theo xu hướng nhân bản trong thế giới văn minh hiện nay".

Tiếp theo là lời phát biểu của Luật sư Võ trí Dũng. LS Dũng đã mạnh mẽ lên tiếng kết tội sự ươn hèn của CSVN trước sự kiện Trung Quốc xâm chiếm Trường Sa Hoàng Sa cũng như gần đây nhất Nguyễn tấn Dũng đã ra lệnh đàn áp dã man và gây thương tích cho nhiều giáo dân trong những cuộc cầu nguyện đòi công lý và hoà bình tại giáo xứ Thái Hà và Toà Khâm Sứ Hà Nội... Ls Dũng cho hay: "Hôm nay chúng ta tụ tập tại đây yêu cầu Thủ tướng và chính phủ Úc phải lưu tâm đến vấn đề nhân quyền và các giá trị nhân bản trong mối bang giao với CSVN". Ông Dũng cũng cho biết, chúng ta yêu cầu chính phủ Úc áp lực CSVN "Phải chấm dứt những hành động đàn áp dã man đối với những người đấu tranh đòi dân chủ trong nước, với những giáo dân vô tội tại Tổng Giáo Phận Hà Nội".

Kế tiếp là lời phát biểu của bác sĩ Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch Cộng Đồng NVTD Queensland. Thay vì đi đúng mục tiêu của cuộc biểu tình thì Bs Cường lại xử dụng diễn đàn để quảng cáo cho thành phần du sinh hầu binh vực cho quan điểm của ông ủng hộ du sinh trong một hội chợ được sự bảo trợ từ Toà Đại Sứ CSVN tại Úc mang tên "Taste Việt Nam " đã gây sự phẫn nộ lớn trong cộng đồng người Việt Queensland trong thời gian gần đây. Trước sự la ó phản đối của đoàn biểu tình, Ban Tổ Chức đã mời BS Cường đi xuống khán đài nên không có một hành động đáng tiếc nào xẩy ra. Sau khi mời Bs Cường xuống khỏi khán đài, ông Lê Công cũng nhắc nhở đồng hương trong cuộc đấu tranh hiện tại là :"Chúng phải dập tắt những điếu thuốc đang cháy, trước khi nó trở thành một đám cháy rừng".

Tiếp theo sau, ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc chủ tịch CDNVTD Nam Úc cũng lên án sự chà đạp nhân quyền của CSVN và yêu cầu chính phủ Úc phải đặt nặng vấn đề nhân quyền và tự do của VN trong bang giao.

Dưới lăng kính của một người tù và tỵ nạn, ông Võ Đại Tôn cho biết: "Sự tự do và dân chủ không thể tự nhiên mà có, mà phải chính bàn tay con người đấu tranh để giành lấy". Vì thế những người Tỵ nạn Việt Nam đến đây không phải để hưởng thụ sự tự do, dân chủ cho bản thân, mà phải tranh đấu đòi lại dân chủ tự do cho toàn quê hương Việt Nam".

Trong phần phát biểu của các vị đại diện các tôn giáo, Linh Mục Nguyễn Khoa Toàn, Tuyên Úy trưởng Cộng Đồng Công Giáo VN/ NSW, cũng lên tiếng phản đối CSVN chà đạp tự do tín ngưỡng và nhân quyền. LM Toàn cũng cho biết rằng Cộng đồng Công giáo VN tại Tổng Giáo Phận Sydney hôm nay, một lần nữa hiệp thông với đồng hương tại Úc Châu và tất cả đồng bào tại quê nhà cũng như tất cả những người yêu chuộng tự do, công lý, cực lực lên án và tố cáo trước dư luận thế giới và đồng thời đòi buộc CSVN phải chấm dứt lập tức những hành vi tàn ác, dã man này. Cộng đồng Công giáo cương quyết khẳng định rằng: "Sẽ không có công lý đích thực khi nhân quyền bị chà đạp, quyền tự do tín ngưỡng bị tước đoạt, khống chế. Cộng đồng Công Giáo VN sẽ luôn sát cánh với tất cả các công cuộc đấu tranh để cất lên tiếng nói cho những người không còn tiếng nói, sẽ hết lòng đấu tranh cho công lý và hoà bình cho khắp mọi người trên toàn thế giới trong đó có đồng bào chúng ta tại quê nhà".

Thượng toạ Thích Quảng Ba cũng lên tiếng kết án chế độ CSVN đã đàn áp dã man tôn giáo và Phật giáo không chấp nhận chế độ toàn trị CSVN.

Hai ông Nguyễn Văn Paul đại diện cho Phật giáo Hoà Hảo Úc Châu và Nguyễn Văn Bán, đại diện Cao Đài giáo tại NSW đều lên án những hành động buôn dân bán nước và đàn áp tôn giáo của CSVN và đều xác nhận Phật giáo Hoà Hảo cũng như Cao Đài nguyện sát cánh cùng đồng bào trong mọi cuộc đấu tranh đòi lại tự do, dân chủ cho dân tộc cho đến khi quê hương thực sự có tự do và dân chủ.

Sau cùng, đoàn biều tình di chuyển đến khách sạn Hyatt, nơi phái đoàn của Nguyễn Tấn Dũng họp báo và nghỉ ngơi, du hí. Đoàn biểu tình đã giải tán ra về vào lúc 14 giờ cùng ngày.

Ngoài ra trước khi đem báo đi in, tòa soạn cũng vừa nhận được một tin vui phấn khời liên quan đến cuộc biểu tình của cộng đồng người Việt Tự do tại Melbourne vào sáng thứ ba ngày 14/10/ 2008 trước tiền đình quốc hội Melbourne đã thành công ngoài dự tính với sự tham dự của hơn 1000 đồng hương. Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa phải đi cửa hậu để tránh né đoàn biểu tình và rừng cờ vàng ba sọc đỏ "dàn chào" phản đối ông ta. Hơn 1000 truyền đơn phát cho người qua đường đã hết nhanh trong vòng 1 giờ đồng hồ.



Đảng CSVN Thi Hành Chính Sách “Cấm Sách Vở, Giam Học Trò”

Trần Nam

Trung Tướng Trần Độ, trong cuốn nhật ký Rồng Rắn, đã viết “Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài”. Một người cả đời đi theo đảng, từng giữ những trọng trách cao cấp nhưng cuối đời đã dũng cảm quay lại phê phán đảng. Nhận xét của Tướng Trần Độ đáng cho chúng ta suy gẫm.

Nhắc đến Tần Thủy Hoàng, là nhắc đến chế độ “đốt sách vở, chôn sống học trò”. Một chế độ tàn ác trên cả tận cùng của tội ác. Tâm điểm chính sách tàn bạo đời Tần là “dùng tất cả tài nguyên trong thiên hạ để phụng sự cho sự cai trị của Hoàng Đế”. Để đạt mục tiêu này, Tần Thủy Hoàng đã gieo rắc sự khủng khiếp trong nhân dân, sử dụng luật lệ tàn bạo, tra tấn và trừng phạt nhằm trấn áp những ai dám chống lại chính sách của Tần. Chính sách đàn áp, tra tấn và trừng phạt nhà Tần không những chỉ nhắm vào người phạm tội mà luôn cả gia đình, thân nhân, dòng họ của kẻ phạm tội, nhằm gây khiếp đãm trong thiên hạ, giử chế độ Tần Thủy Hoàng được tồn tại.

Nổi bật lên trên sự dã man của nhà Tần là chủ trương triệt để kiểm soát tư tưởng, độc quyền chân lý, cấm tất cả những chính kiến ngược lại quan điểm của Hoàng Đế. Dưới nhà Tần, những ai dám phê phán triều đình đều bị giết. Để cho chắc ăn, bảo đảm không bất cứ ai có thể gieo rắc tư tưởng ngược lại quan điểm của Hoàng Đế, Tần Thủy Hoàng ra lệnh “đốt sách vở và chôn sống học trò”. Những kẻ phản kháng, những kẻ đối nghịch có hành động nguy hiểm cho triều đình, nặng thì bị giết, nhẹ thì bị tù, thân bị đày đi làm nô lệ. Thời Tần, dân số chừng 10 triệu, thì đã có hơn hai triệu người bị bắt làm nô lệ, bị đày ải, bị chết thãm bên bờ tường Vạn Lý Trường Thành. Sử sách ghi nhận, số học trò bị giết nhiều đến nỗi quan chức nhà Tần phải đẩy ra biển cho chết, thay vì đem chôn sống.

Đời Tần, tội nặng nhất là “Tự Do Tư Tưởng”. Các sách như Tứ Thư, Ngũ Kinh đều bị đem đi đốt hết. Cả nước chỉ được lưu truyền sách bói toán, sách trồng trọt .v.v…Kẻ nào dám lưu trử, truyền bá các sách bị cấm. Nếu bị bắt sẽ bị truy tố tội “phản nghịch”, chịu hình phạt bêu đầu. Một chế độ cai trị tàn độc, dã man nhất cũng không đứng vững được 100 năm. Nhà Tần xụp đổ chỉ trong vòng 15 năm (221 TCN - 206 TCN), kết thúc trang sử đẫm máu của vị Hoàng Đế tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.

Chế độ độc tài CS cai trị Việt Nam từ năm 1945-2008. Trải qua bao thăng trầm, CS đã tồn tại 63 năm. Mặc dù không lộ liểu “chôn sống học trò”, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội, vào những ngày đầu chiếm chánh quyền ở Miền Nam, đảng CSVN từng thì hành chính sách, tịch thu và “đốt sách vở Ngụy”, đối với các viên chức, trí thức của chế độ cũ thì “bị đày ải, giam cầm” cho đến chết, thân tàn ma dại nơi rừng sâu nước độc. Gần đây, ở kỷ nguyên thế kỷ 21, trước sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản, chính sách cai trị Đảng CSVN tinh vi hơn, nhưng mục tiêu vẫn là tìm mọi cách kiềm soát và độc quyền tư tưởng. Từ chính trị, kinh tế, tôn giáo đến xã hội, văn hoá, truyền thông, giáo dục, báo chí, giải trí v.v..Không lãnh vực nào không có sự hiện diện và kiểm soát chặt chẻ của đảng CSVN. Điều này, không khác gì tư tưởng chủ đạo của Tần Thuỷ Hoàng, “lấy hết của cải trong thiên hạ mà phụng sự cho ngai vàng của Hoàng Đế”.

Đối với Tần Thủy Hoàng, tội nặng nhất là "Tự do Tư tưởng" thì đối với Đảng CSVN, cũng không có khác biệt. Vụ án Nhân văn Giai phẩm, những cuộc đàn áp các nhà bất đồng chính kiến như bắt giữ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng, nhà thơ Trần Đức Thạch, sinh viên Ngô Quỳnh, chị Phạm Thanh Nghiên… v..v , những bản án tù cáo buộc vi phạm điều “88” tức “làm ra và tàng trử tài liệu chống chế độ” dành cho Linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, bác sĩ Lê Nguyên Sang, luật sư Trần Quốc Hiền, Nguyễn Bắc Truyễn, ký giả Huỳnh Nguyên Đạo v.v…. đều nằm trong phạm trù không chấp nhận quyền “Tự do Tư tưởng”. Nếu có khác đời Tần, thay vì dã man “đốt sách vở, chôn sống học trò” thì tinh khôn và tàn độc hơn, đảng CSVN đã và đang thi hành chính sách “hậu” Tần “cấm sách vở, giam học trò”.

Mục tiêu của chế toàn trị vẫn là triệt hết các tư tưởng đối nghịch, đi ngược lại quan điểm “chủ nghĩa xã hội” của đảng cầm quyền. Đảng CSVN tận dụng mọi phương tiện trong tay như công an, nhà tù, luật pháp để huỷ diệt những mầm móng phản kháng, nhằm giữ chính quyền độc tài từ đời này sang đời khác. Đảng CSVN bất kể hậu quả của độc quyền tư tưởng, bất kể tương lai đất nước đi về đâu, bất kể nhân dân phẩn uất, căm hận đến mức độ nào. Nếu ở Việt Nam không có cảnh “truyền ngôi” thô bỉ như ở Bắc Hàn, hoặc phẩn nộ “anh nhường ngôi cho em” như ở Cuba; thì sự liên tục cai trị của chế độ độc đảng, hết Tổng bí thư CS này, đến đời Tổng bí thư CS khác cũng là hình thức đánh tráo quyền lực. Từ khuôn mẫu dòng họ truyền ngôi, nhà nước hậu phong kiến CSVN đã ma mãnh, biến thái qua mô thức truyền nhau vai trò lãnh đạo suốt 63 năm qua.

Lãnh tụ CS Joseph Stalin từng nói “Tư tưởng mạnh hơn súng. Chúng ta không cho kẻ thù có súng thì tại sao lại để bọn chúng có tư tưởng chứ”. (1) Stalin, chủ trương tiêu diệt hết mọi tư tưởng độc lập, phản kháng, dám chỉ trích chế độ Sô Viết. Thời Stalin, biết bao kẻ vô tội, trong và ngoài đảng, đã chết thảm vì bị đày ải đến các nhà tù ở vùng băng tuyết Tây Bá Lợi Á. Văn hào Nga, Alexander Solzhenitsyn, người từng đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1970, là nhân chứng sống cho nhân loại trước sự tàn ác khủng khiếp của chế độ nhà tù thời Stalin.

“Ai dám cưỡng lại và tìm cách chứng tỏ rằng mình đúng, kẻ đó phải rời hàng ngũ lãnh đạo và sau đó sẽ bị tiêu diệt về tinh thần và thể xác. Ðiều này đã xảy ra sau Ðại hội thứ XVII của đảng, khi rất nhiều lãnh tụ xuất sắc của đảng và các đảng viên nòng cốt - biết bao chiến sĩ trung thực và ngay thẳng của sự nghiệp cộng sản - đã là nạn nhân của sự bạo ngược của Stalin.” Đó là bản báo cáo Mật mà chính Tổng bí thư Đảng CS Liên sô Khrushop đã báo cáo về Stalin. Dù vậy, chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Bang Sô Viết, sau nhiều năm gieo rắt tai hoạ cho nhân loại, đã kéo dài 73 năm, bằng tuổi thọ của một đời người.

Các chế độ từ phong kiến, thực dân đến phát xít, cộng sản qua độc tài toàn trị đều sợ hãi quyền “Tự do Tư tưởng”. Một quyền tự nhiên, khi sinh ra con người đã có. Nó là hơi thở của sự sống, trong đó con người đúng nghĩa phải được quyền tư duy độc lập, không bị chi phối và kiểm soát bởi bất cứ quyền lực độc đoán nào. Tự do tư tưởng không phải là thứ xa xí phẩm mà chế độ độc tài dành quyền ban phát. Tự bản thân, giá trị của “tự do tư tưởng” đã hình thành khi nhân loại hiện hữu, như cách nói “tôi tư duy tức là tôi hiện hữu”. Một sự hiện hữu trọn vẹn, độc lập không bị trói buộc bởi những quyền lực giả hình.

Trong bản Hiến chương Quốc tế Nhân Quyền, quyền tự do tư tưởng và phát biểu quan điểm, điều 19 ghi “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng và phát biểu chính kiến của ḿình, được quyền tự do giữ vững quan điểm mà không bị người khác can thiệp. Ai cũng có quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức và sư kiện về mọi vấn đề, bằng mọi phương tiện truyền thông không phân biệt biên giới quốc gia”

Tự do tư tưởng là một quyền căn bản nằm trong nhiều quyền, gọi chung là Nhân Quyền. Bao gồm quyền tự do báo chí, tự do lập hội, tư do đi lại, tự do tôn giáo v.v... Tuy nhiên, để cai trị và bảo vệ chế độ, những nhà nước toàn trị, luôn tìm mọi cách kiểm soát chặt chẽ quyền tự do tư tưởng. Việc này, Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền trong phần mở đầu đã cảnh báo các chế độ độc tài… “việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đă đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãii và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người”.

Tự do tư tưởng là quyền bẩm sinh, nó hiện hữu và hình thành trước các chế độ chính trị. Và nhiều chế độ chính trị đã nhờ rao giảng quyền “tự do tư tưởng” này để nắm được chính quyền. Ông Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà nội, khi đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, đã từng nhắc nhở "Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Trời cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ, suy rộng ra câu ấy có ý nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cải được”.

Đúng vậy, “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” kể cả Đảng CSVN. Nhưng đến khi nắm được chính quyền thì ông Hồ và Đảng CS của ông lại phản bội ngay mục tiêu đã từng chiến đấu và cổ xuý.

Một chế độ cai trị nhân dân chỉ biết dựa vào sức mạnh của bạo lực, chế độ đó, tự bản chất sẽ không ổn định và bền vững lâu dài. Khi sức mạnh của công an, mật vụ, pháp luật rừng và nhà tù không còn là nỗi sợ hãi của nhân dân, chế độ sẽ nhanh chóng sụp đổ. Khi đám đông khốn cùng dám ngẩng cao đầu đi đến lao tù, chấp nhận bị đày ải; đó cũng là lúc tiếng chuông vang báo tử của chế độ độc tài, toàn trị.

Trần Nam
----------
(1) Joseph Stalin (1879-1953) “Ideas are far more powerful than guns. We don't allow our enemies to have guns, why should we allow them to have ideas?".


Việt Báo và đầu cầu giao lưu văn Hóa hải ngoại!


Trương Minh Hòa

Cuộc chiến tranh "ý thức hệ" Quốc-Cộng giữa dân tộc Việt Nam và băng đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam không chấm dứt sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 như những người không am hiểu tình hình, bản chất của cuộc chiến hay những kẻ lười biếng suy luận, chỉ thấy không còn tiếng súng và nhất là đảng Cộng Sản nhi nhô "đại thắng mùa xuân" để rồi chính những đỉnh cao trí tệ nòi người nầy phải "chạy qua Mỹ để xin được ăn bơ thừa sữa cặn của thằng Mỹ" mà lòng: "phơi phới một niềm vui", nhưng miệng vẫn thều thào: "tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx Lenin". Cuộc chiến Việt Nam đã chuyển sang hình thái khác, qua các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây là chiến trường không đổ máu, nhưng đòi hỏi người chiến sĩ "tự do, nhân quyền" phải vận dụng tất cả trí tuệ để đương đầu với một băng đảng cướp gian manh, tàn bạo nhất trong số những đảng cướp trên thế giới.

Chiến trường Việt Nam vẫn không yên tĩnh từ trong nước với:

- Lực lượng dân oan khiếu kiện càng gia tăng quân số, chỉnh đốn hàng ngũ và quyết liệt đấu tranh đòi tài sản.

- Nhân công bất mãn vì đồng lương chết đói

- Các tôn giáo chân chính đứng lên đòi tự do tín ngưỡng, các vụ đòi lại đất đai của giáo hội Công Giáo Tòa Khâm Sứ, Thái Hà-Tuyệt đại đa số dân chúng là lực lượng "tổng trừ bị" sẵn sàng đứng lên để kéo chế độ độc tài khát máu xuống.

- Bị áp lực của các nước dân chủ, nhất là các ông chủ giàu cho vay, cấp viện; tức là đảng cướp Cộng Sản ngày nay tứ bề bị" nhân dân" vây hãm, bên ngoài bị cô lập. Ở hải ngoại, cũng áp dụng sách lược cũ là xâm nhập, đánh phá nhiều mặt từ những thành phần gián điệp nằm vùng len lõi vào hàng ngũ tỵ nạn, đón gió, tay sai ... từ lâu nằm mai phục, thỉnh thoảng tung ra những đòn tấn kích vào tập thể người Việt tỵ nạn. Từ lâu nay, đảng và nhà nước Việt Cộng tung ra những mũi tiến công:

- Kinh tài vận: qua mạng lưới rửa tiền, nhằm dùng tiền để khuynh đảo, mua chuộc và dùng tiền ăn cướp để mua các doanh nghiệp hải ngoại với giá cao. Ngày nay hàng hóa từ Việt Nam không còn được những "muốn tìm về nguồn hương vị quê hương" chiếu cố, vì sản phẩm có nhiều chất độc hại như hàng the, formal....

- Trí vận: là đội ngũ du học sinh, trong đó có những tay gián điệp chỉ đạo, giả dạng du học ... họ điều hành mạng lưới du học, xâm nhập, gây ảnh hưởng đến giới trẻ gốc tỵ nạn. Thành phần du học nầy đang có mưu đồ dùng sinh hoạt dân chủ để phát triển lực lượng qua sự "móc nối" với vài tổ chức tay sai, điển hình là mới đây ở tiểu bang Queensland, Úc Châu, bác sĩ Bùi Trọng Cường, chủ tịch cộng đồng, là người của băng đảng Việt Tân đã cấu kết với sinh viên du học con cháu đảng, bác, tổ chức cái gọi là "Taste Việt Nam" tại trường đại học.

- Tôn giáo vận: đưa tu sĩ sang móc túi qua chiêu bài từ thiện, xây chùa, nhà thờ ... và lợi dụng tự do để di dân, tăng cường hàng ngũ "cán bộ tôn giáo vận" hải ngoại. Ngày nay, chùa mọc lên như nấm, là hình thức rửa tiền, di dân rất phổ biến, đó là "hệ thống Tiệm Phật" là mối quan ngại cho giới Phật tử chân chính.

- Văn hóa vận: đặc biệt là dùng "văn công tải đảng" phát động từ nhiều năm qua. Đảng Cộng Sản đã cử nhiều đoàn văn công đủ dạng: múa rối nước, cải lương, thi áo dài, ca nhạc kịch .... đặc biệt là những đoàn văn công nầy còn có sự phối hợp của các văn nghệ sĩ hải ngoại đón gió, làm những chương trình "hòa hợp hòa giải, giao lưu văn nghệ", nổi bật đón gió như Hương Lan, Elvis Phương, Hoài Linh ..... Ngoài ra, một số văn công xâm nhập và được vài trung tâm văn nghệ hải ngoại "tiếp thu" vào, đánh bóng, giới thiệu và sau đó thì trở thành ca sĩ, thu hút nhiều người và sau cùng là chúng công khai làm công tác văn công tại ngay các cộng đồng hải ngoại.

Vì không có chỗ đứng, nên đảng Cộng Sản Việt Nam muốn tạo sự hiện diện thường trực ở hải ngoại. Sau nhiều lần muốn phổ biến lá cờ đỏ sao vàng, hoàn toàn thất bại, dù Đảng từng gởi sư quốc doanh Thích Thanh Từ, Hồng Y Phạm Minh Mẫn sang hạ cờ; vài tổ chức đón gió, lợi dụng tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để cho du học sinh mang cờ đỏ biểu tình chung với cờ vàng, tổ chức Tập Hợp Dân Chủ Điên Ngoa của Nguyễn Gia Kiểng cũng không thể "hòa hợp hòa giải" giữa cờ vàng và cờ đỏ ... Do đó, chỉ còn một lực lượng "đặc công văn hóa cuối cùng" là cho các văn công xuất hiện, nhằm tạo sự hiện diện ở đảng khắp nơi, và được "những người ái mộ" ủng hộ; rồi từ đó, nhờ những "cơ sở văn công" nầy mà đảng sẻ bom tiền, ủng hộ tối đa để chúng thành lập ra các trung tâm băng nhạc, tổ chức đại nhạc hội, đưa thêm lực lượng "văn công" từ Việt Nam sang trình diễn. Lời lỗ không quan trọng, nhưng sự hiện diện của bọn văn công nầy làm cho cộng đồng tỵ nạn thêm xáo trộn với kẻ chống, người binh và nhất là những người Việt tâm huyết phải tổ chức biểu tình. Nói đúng hơn, đám văn công ra hải ngoại, trở thành "mật khu văn hóa vận" ngay trong hậu phương của người Việt tự do.

Tại Úc Châu, đài phát thanh sắc tộc SBS ở Sydney, lúc còn Ngọc Hân làm trưởng đài, có mục "Tiếng Hát Úc Châu" do Vũ Nhuận thực hiện, thỉnh thoảng có giới thiệu nhạc của Bảo Chấn, là văn công nổi tiếng "ăn cắp nhạc" qua vụ "Tình Thôi Xót Xa" từ nhạc của Keiko Matsui. Rồi một nhạc sĩ khác (hai lần lên đài) đã có những sáng tác "động não" dựa vào thơ của đại đức Thích Nhật Từ (tên nầy thì ai cũng biết là cán bộ gộc tôn giáo vận) được giới thiệu bộ DVD để bán, mà tác giả cho là "làm từ thiện". Tại hải ngoại, trung tâm nhạc Thúy Nga, từ nhiều năm qua, có chủ trương thu dụng những "văn công" từ Việt Nam, ban đầu được mến mộ vì chúng đội lớp áo "ca sĩ", sau nầy khi đã được giới thiệu, nổi tiếng, thì công khai hoạt động văn công. Nhắc đến cái Trung tâm Thúy Nga, ai cũng đều nhớ vụ Paris by night 40, Mc kiêm nhà văn Ngã Ba Ông Tạ lếu láo: "cuộc chiến nầy chỉ là tiền kiếp", và con gái của gã Cẩu Cao Cầy, thường đứng bên cạnh nhà văn "kể chuyện ma". Đây có thể coi là trung tâm quảng bá "SỮA CON VẸM CHÚA 36" tại hải ngoại. Trong việc phân biệt sự vật, con người ... cũng không phải dễ, như con Trăn và con Nưa, giống như như đút, chỉ khác là: con trăn cắn không chết và con nưa cắn chết (nếu ai biết, nhìn con nưa có 9 lỗ mũi). Tỵ nạn chính trị (political refugee) là những người BỊ BẮT BUỘC PHẢI RA ĐI vì không thể sống dưới chế độ hiện tại; trong khi người tầm trú (Asylum seeker) thì MUỐN TÌM ĐƯỜNG RA ĐI để tìm cuộc sống sung sướng. Tiệm Phật là nơi "mượn đạo tạo tiền" và Chùa Phật là nơi tu hành, không màng danh tiền. Do đó việc phân biệt Văn Công và Văn nghệ sĩ cũng khó khăn, tuy nhiên, tất cả những người nào được đào tạo từ các trung tâm nhạc của đảng Cộng Sản, đều là "lò sản xuất văn công" và nhất là được ưu tiên xuất ngoại, di dân, nên các trung tâm nhạc hải ngoại cần lưu ý điều nầy để không bị lầm lẫn và mang tiếng "cõng rắn cắn gà nhà", rước văn công vào đầu độc thế hệ sau nầy.

Gần đây tại hải ngoại, hiện tượng "ca sĩ trong nước" và "nhạc sĩ xã hội chủ nghĩa" rần rộ xâm nhập vào các trung tâm nhạc của người Việt hải ngoại; do các trung tâm nầy vì cạnh tranh, vì thương mại mà làm chuyện "rước văn công, nhạc nô" vào nhà và được một số cơ quan truyền thông có lập trường hai hàng, đón gió đánh bóng. Đó là những "đầu cầu giao liên" văn hóa vận" đã và đang nở rộ nhiều nơi.

Một trong nhiều "nhạc công, nhạc nô" được trung tâm nhạc hải ngoại giới thiệu là TRẦN TIẾN, người có cháu ruột là ca sĩ Trần Thu Hà, cháu ruột, gọi lá bố. Nhắc đến ca sĩ nầy, thì nhớ đến "vụ đòi chôn sống người Việt hải ngoại" như Việt Cộng đã làm trong trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân ở Huế, ca sĩ nầy là dâu của Hàm Thiết Nhân "Đoàn Văn Toại", gã nầy từng đánh phá "chương trình H.O, viết báo Mỹ, yêu cầu "đừng nhận những người không có khả năng làm việc, chỉ có mỗi gia đình 5 ngàn Mỹ Kim là đủ". Khi mà "Vành Khăn Sô Cho Huế" sau năm 1975 hồ hởi phấn khởi trong ngày "ba mươi năm ta mới gặp nhau .." bắt tay với những người anh em từ rừng rú, đồng ruộng, Trường Sơn ... thời đó, hầu hết các gia đình có quan hệ đến chính quyền miền Nam bị trù dập "trù đày, kinh tế mới", thì "vành khăn sô" được sung sướng, nhiều đặc ân cho ngày "đại thắng", làm ăn khắm khá, mở quán cà phê "ở thành Hồ chờ ngày quy Mã " công tác. Nay thì họ cũng đang thi hành sách lược văn hóa vận, nghị quắc 36, để tròng "vằn khăn đỏ" lên đầu những người bỏ nước ra đi tìm tự do.

Tờ VIỆT BÁO ra ngày 10 tháng 10 năm 2008 có tựa đề: "Ra mắt CD nhạc Trần Tiến, Trần Thu Hà tâm sự về hướng đi mới" được phổ biến rông rải. Theo bài báo của một cơ quan truyền thông ủng hộ sư về nguồn, luồn trôn Pác Pó Thích Nguyên Siêu nầy thì trong các CD gồm 13 bài, theo Trần Thu Hà là nhằm kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của nhạc nô Trần Tiến. Trần Thu Hà nhờ vài trung tâm nhạc hải ngoại giới thiệu lúc là "văn nghệ sĩ" khi chưa có ai biết, nay đã công thành danh toại, thì bản chất "văn công" đã lộ, nhờ được nhiều người biết, nay lập ra cái trung tâm nhạc, theo văn công nầy thì: "Tôi không ngừng ở ca sĩ, CD Trần Tiến là sản phẩm thứ ba của TRÂN PRODUCTIONS, sẽ được Trung Tâm Thúy Nga đại diện phát hành 15/6.." Trần Tiến từng được cái trung tâm Thúy Nga giới thiệu và nay đến lượt cháu của "nhạc nô" là Trần Thu Hà đánh bóng.

Loài dán có mặt một phần là do những người trong nhà mang những thùng giấy, đồ vật có "dán và trứng dán" nên chúng vào, sinh sản. Do đó, chính một số trung tâm văn nghệ đã "mang trứng, con dán văn công" vào cộng đồng hải ngoại và nay dán phát triển, nở rộ thành trung tâm nhạc, như cái Trần productions nầy và nó lại được "đầu cầu giao liên" phổ biến, thì quả là nhịp nhàng như bản nhạc: "Như có Bác trong ngày vui đại thắng". Trong tương lai, cái trung tâm nhạc văn công nầy có quyền tự do thực hiện những CD, DVD, từ bộ Thông Tin Văn Hóa, với những công trình "sáng tác chất lượng cao" của Trần Long Ẩn, Phạm Trọng Cầu, Tôn Thất Lập, Bảo Chấn ... và được tờ Việt Báo quảng cáo, thì mặt trận "văn hóa" của người Việt hải ngoại được lập lại cái chiến lược của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong những ngày cuối là: "tái phối trí lực lượng" rồi sau đó đưa đến "di tản chiến thuật" là coi như hải ngoại bỏ ngõ, thất bại lần nữa.

Trương Minh Hòa





Trương Minh Hòa

BS Bùi Trọng Cường, một lần nữa, lại KHÔNG tôn trọng quyết định CHUNG


From: Viet Tran
Subject: BS Bui trong Cuong, mot lan nua, lai KHONG ton trong quyet dinh CHUNG
Received: Wednesday, 15 October, 2008, 10:49 AM

Trần Hưng Việt

Kính thưa quý vị,

Từ hôm thứ Hai 13/10 đến nay, tôi đã tránh, không muốn đề cập tới việc bác sĩ Bùi trọng Cường phát biểu về vấn đề du sinh trong buổi biểu tình chống Nguyễn tấn Dũng ngày hôm đó ở Canberra.

Lý do là vì tôi không muốn công sức và nỗ lực của quý vị khác trong các Ban Chấp hành Liên bang và tiểu bang bị chi phối.

Hôm nay, tôi xin trình bày một khía cạnh khác của vấn đề mà tôi nghĩ là quan trọng và chưa thấy được đề cập đến, có lẽ chỉ vì tôi đã có may mắn (và hân hạnh) được sinh hoạt trong guồng máy của cơ cấu cộng đồng liên bang khi tôi còn giữ chức vụ Chủ tịch CĐ NVTD UC/Qld.

Đó là mỗi khi có một cuộc biểu tình lớn ở Canberra hay Sydney với sự mời gọi đồng hương từ khắp nước Úc tham dự, các BCH cộng đồng Liên bang và các tiểu bang, lãnh thổ đều có một cuộc hội thoại viễn liên (teleconference) để bàn về kế hoạch biểu tình, và trong đó, bàn thảo AI SẼ NÓI VỀ VẤN ĐỀ GÌ trong buổi biểu tình đó.

Mục đích là để:

1. - Tránh sự trùng hợp, khiến đồng hương (thính giả) nhàm chán;


2. - Tội ác VC quá nhiều, phải chia ra để trình bày về càng nhiều phương diện càng tốt.

Không ngoài thông lệ, tôi được biết quý vị Chủ tịch các BCH C/Đ liên bang và các tiểu bang, lãnh thổ đã có 1 buổi teleconference vào tối thứ Hai tuần qua 6/10 để bàn về cuộc biểu tình này. Và tôi tin chắc rằng, vấn đề du sinh KHÔNG THỂ NÀO LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐỀ TÀI đã được quý vị lãnh đạo cộng đồng kia, với những sự nhận xét sắc bén và tinh tế, đồng ý, ngay cả như nếu có được ai đó đưa ra.

Như vậy, chuyện Bác sĩ BT Cường lên diễn đàn ở Canberra hôm thứ hai 13/10 để nói về vấn đề du sinh CHẲNG NHỮNG KHÔNG ĐÚNG LÚC, KHÔNG ĐÚNG NƠI, mà còn một lần nữa chứng minh cách hành xử KHÔNG TÔN TRỌNG NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CHUNG của bác sĩ Cường.

Tôi nói rõ là tôi cảm thấy rất ái ngại khi nói lên điều này vì chắc chắn sẽ bị quy chụp là có sự tranh chấp cá nhân gì đó với bác sĩ BT Cường. Thật sự là hoàn toàn không phải vậy. Tôi chỉ muốn làm sáng tỏ thêm một sự kiện quan trọng, tuy đau lòng, vừa mới xảy ra mà thôi.

Kính,


Trần hưng Việt