Thursday, July 10, 2008

Cần phải duy trì mặt trận pháp lý đối với thành phố San Jose và NV Madison




TS Lê Hũu Phú

Trong thời gian gần đây NV Madison đã vận động các vị dân cử trong Vùng Vịnh lên tiếng ủng hộ việc chống đối nỗ lực bãi nhiệm bà. Tất cả đều viện dẫn cùng một lý do duy nhất: đó là vì sự chống đối của NV Madison trong vấn đề đặt tên Little Saigon nên cộng đồng người Việt đã tiến hành thỉnh nguyện thu thập chữ ký để bãi nhiệm bà. Với tánh chất lừa đảo cố hữu chắc chắn NV Madison đã dùng thủ đoạn lừa dối họ và che dấu sự thật của vấn đề để kéo họ về phiá bà. Gần đây nhất là trường hợp ông Willie Brown, cựu thị trưởng thành phố San Francisco, một nơi cách xa và chẳng dính dáng gì đến TP San Jose. Tờ báo Anh ngữ lớn nhất của San Jose là Mercury News cũng luôn dùng cùng một luận điệu trên đây tạo ra sự hiểu lầm mà chúng tôi nghĩ cộng đồng Việt Nam và Ủy Ban Bãi Nhiệm phải cố gắng làm sáng tỏ cho các cử tri và các cộng đồng khác ngoài cộng đồng người Việt thấu rõ cốt lõi của vấn đề không phải hoàn toàn như thế. Ngay một số không ít cử tri gốc Việt ở khu vực 7 cũng chưa hiểu rõ vấn đề.

Cốt lõi của sự sai trái của NV Madison là nguyên nhân đàng sau những hành động chống đối tên Little Saigon. Tất cả các hành động của bà khởi đầu với sự giúp đỡ đặc biệt đại thương gia Tăng Lập cho ý muốn ông ta đặt tên Vietnam Town cho toàn khu vực thuơng mãi trên đường Story để quảng bá cho khu thương xá ông đang phát triển. Tiếp theo là âm mưu xếp đặt ra một danh sách gồm 15 danh tánh vừa cá nhân vừa một số hội ái hữu (mà sau đó các hội viên đã tố cáo bị lạm danh cũng như một số cá nhân đã rút tên ra khỏi danh sách) để ủng hộ một sự chọn lựa khác là tên New Saigon Business District nhằm mục đích dựa vào đó nói rằng cộng đồng chia rẽ để bà ta dùng tên Saigon Business District như là một giải pháp “dung hòa.” Sau đó NV Madison cũng bỏ thì giờ để vận động hội Story Road Business Association bầu lại cho tên Saigon Business District mà bà đã chọn mặc dù trước đó họ đã quyết định ủng hộ cho tên Little Saigon theo như đại đa số thành viên trong cộng đồng Việt cũng như các thương gia trong khu vực và các cư dân sống quanh đó 1000 ft mong muốn và phù hợp với kết quả của sự thăm dò mà chính bà ta chủ xướng. NV Madison cũng dồn mọi nỗ lực và ảnh hưởng của mình để vận động ông thị trưởng và các nghị viên khác trong hội đồng thành phố ủng hộ cho tên Saigon Business District để nhất định chống lại tên Little Saigon.

Qua sự tiết lộ của NV Forrest Williams, NV Madison đã cho cư dân có ấn tượng (perception) là bà đã vi phạm đạo luật Brown Act với sự đồng lõa của một số vị khác trong hội đồng thành phố nhưng nhân vật chủ yếu vẫn là bà NV Madison. Chính vì ấn tượng nầy mà luật sư thành phố đã khuyến cáo hội đồng thành phố phải hủy bỏ quyết định đặt tên Saigon Business District dù ông ta nói rằng ông không tìm ra bằng chứng thành phố và NV Madison vi phạm Brown Act. Tuy nhiên, điều không thể chối cãi là trong quá khứ thành phố San Jose đã nhiều lần vi phạm đạo luật Brown Act.

Vì vậy Ban Đại Diện Cộng Đồng Bắc Cali đã nhờ luật sư tìm cách điều tra đâu là sự thật. Viện dẫn đạo luật về các tài liệu công khai, luật sư của cộng đồng đòi hỏi thành phố phải cung cấp các sự liên lạc đi và đến của văn phòng NV Madison kể từ khi bà nhậm chức cho đến nay. Nỗ lực này đang bị thành phố gây trở ngại như đòi một số tiền thật lớn cho chi phí cung cấp các tài liệu này trong khi đó đúng ra các yêu cầu này không phải trả tiền. Hiện nay luật sư của cộng đồng đang tranh cãi tại Tòa án về sự việc này. Các tài liệu này rất quan trọng vì có thể giúp tìm ra bằng chứng NV Madison – cùng một số vị khác trong hội đồng thành phố - vi phạm đạo luật Brown Act hoặc từ đó phanh phui ra những hành động mờ ám vi phạm pháp luật khác của bà ấy. Một khi có thêm đủ dữ kiện luật sư đại diện cho cộng đồng có thể xin án tòa đòi hỏi NV Madison phải ra Tòa để phải trả lời hữu thệ các câu hỏi của luật sư liên quan đến nội vụ. Các lời khai hữu thệ nếu không đúng có thể dẫn đến tội trạng ngăn cản luật pháp (obstruction of justice), một tội trạng hình sự rất nặng. Chắc hẳn qúi vị còn nhớ trường hợp của ông Henry Hướng Lê thuộc Lee Sandwiches đã giả mạo văn bản của 92 thương gia trong khu vực Story Rd nhưng vì thành phố viện cớ là các lời trình bày tại hội đồng thành phố không phải hữu thệ nên đã quyết định không truy tố ông ta.

Nếu chứng tỏ NV Madison vi phạm Brown Act thì điều này sẽ gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc vận động đủ con số chữ ký để thành phố phải tổ chức cuộc bầu cử đặc biệt bãi nhiệm bà ấy. Như vậy đây là một việc làm quan trọng để hỗ tương cho tiến trình bãi nhiệm. Ngoài ra, sau khi có đủ số chữ ký mà cuộc bầu cử đặc biệt đòi hỏi, cư dân trong khu vực 7 chắc chắn tham gia đông đảo và bầu THUẬN trong lá phiếu bãi nhiệm. Nếu cho các vị dân cử đang ủng hộ chống việc bãi nhiệm NV Madison biết rằng bà đang ở trong vòng tranh chấp pháp lý với cộng đồng thì họ sẽ ngần ngại hơn trong việc ủng hộ bà ấy chống bãi nhiệm. Theo cung cách làm việc đặc biệt ưu đãi của NV Madison đối vói ông Tăng Lập, người ta không thể không nghĩ đến bà có thể đã nhận “quà cáp” gì đó của ông ta. Cá nhân tôi không dám xác quyết là bao nhiêu nhưng hành động của bà đã mang lại cái “ấn tượng” (perception) là bà có ăn hối lộ. Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh đến danh từ ấn tượng vì hiện nay không tìm ra được bằng chứng -- nếu có bằng chứng thì bà đã bị còng tay vào ngồi tù và cộng đồng chẳng phải phí công sức bãi nhiệm. Tuy nhiên không ai ngăn cản việc nhiều người đã có ấn tượng đó và chúng tôi có toàn quyền tự do nói lên điều này vì việc làm không chính đại của bà đã tạo ra ấn tượng đó. Giả sử NV Madison không nhận tiền hối lộ của ông Tăng Lập nhưng giúp ông để nhắm vào việc ông sẽ đóng góp cho qũy tái tranh cử của bà ấy trong tương lai cũng là có tội như thường.

Vì là ủy viên y tế của quận hạt Santa Clara, điều mà tôi học nằm lòng trong bài học về chính trực dạy các cá nhân phục vụ trong các ủy ban thành phố hay quận hạt (cũng như các vị dân cử) theo đạo luật AB1234 của tiểu bang bắt buộc chúng tôi hai năm phải học lại một lần là khi chúng tôi tạo cho người dân cái ấn tượng là mình làm việc vì lợi ích riêng là đã sai trái mặc dù trên thật tế chúng tôi không hành động như vậy.

Cũng trong bài học này tôi được biết rằng giới hạn quà cáp tối đa cho các cá nhân phục vụ trong các ủy ban hoặc các chức vụ dân cử là 390 cho nguyên một năm. Ngay cả khi được mời ăn tiệm các vị dân cử phải bỏ tiền túi ra để chia phần chi phí của mình cho dù trong lúc ăn có hoặc không bàn cãi đên công việc của thành phố hay quận hạt. Ông Terry Gregory chỉ vì ăn hối lộ có một két rượu trị giá 500 (tức trên giới hạn 390) mà bị bắt buộc phải từ chức và nhờ đó mà NV Madison thắng cử trong cuộc bầu cử đặc biệt sau đó để thay thế ông. Sự ưu dãi đặc biệt của NV Madison đối với ông Tăng Lập đã làm cho chúng tôi và rất nhiều người khác đang muốn bãi nhệm bà ấy có ấn tượng là số quà cáp phải hơn con số 500 rất nhiều! Vấn đề là NV Madison đã khôn ngoan hơn ông Gregory nên khó truy được dấu vết hơn. Nhưng không phải vì vậy mà cộng đồng không tìm mọi nỗ lực để tìm cho ra vết tích.

Một khi bà NV Madison đã tạo cho cư dân có ấn tượng bà làm việc vì lợi ích riêng thì họ không thể nào tiếp tục đặt tin tưởng vào bà trong vai trò nghị viên đại diện cho họ nữa.

Thành phố dưới sự lãnh đạo của thị trưởng Chuck Reed đang dùng công qũy do tiền thuế của cư dân để vùi dập nỗ lực tìm kiếm những khúc mắc mờ ám quanh vụ Little Saigon. Họ đang hết sức ngăn cản và ỷ vào sức mạnh tiền bạc của thành phố để cố đè bẹp các nỗ lực về mặt pháp lý của cộng đồng. Khi thị trưởng Chuck Reed ra tranh cử ông đã dùng các khẩu hiệu Honesty (Trong sạch), Integrity (Vẹn toàn), Open government (Cởi mở) nhưng ngay những ngày tháng đầu khi nhậm chức ông đã vi phạm các lời hứa tranh cử. Chắc rằng nhiều qúi vị đã theo dõi sát những sự việc đã xảy ra trong cuộc tranh cử của bà Hon Liên vào chức vụ nghị viên thành phố do thị trưởng Reed đạo diễn để mưu toan đưa vào hội đồng thành phố một nghị gật làm vây cánh dù cho bà ấy không biết tí gì về các vấn đề của thành phố. Vụ này đã làm xôn xao dư luận và báo SJ Mercury Mercury News cũng có đề cập tới sự việc thị trưởng Reed đã trả lương cho ông Vic Ajlouny từ ngân qũy thành phố. Trước đó ông Ajlouny từng là cố vấn tranh cử của ông Reed và sau đó thị trưởng Reed lưu ông Ajlouny lại làm cố vấn cho ông tại thành phố, một việc hiếm có vì thường khi sau khi ứng viên thắng cử thì hầu như cố vấn tranh cử không còn liên hệ gì nữa. Điều đã làm dân chúng thắc mắc hơn nữa là ông Ajlouny còn là cố vấn tranh cử toàn thời gian cho bà Hon Liên. Dạo đó báo Mercury News đã đưa ra thắc mắc là không có một ranh giới rõ rệt giưã vai trò cố vấn của ông Ajlouny cho thị trưởng Reed và cho bà Liên.

Công trình xây cất “Cổng chào Little Saigon San Francisco” vừa được hoàn tất vào chiều thứ Ba 01 tháng 07 năm 2008 vừa qua. Mặc dù thành phố San Francisco là nơi đặt trụ sở của Lãnh sự quán cộng sản Việt Nam, thành phố San Francisco đã chính thức có tên khu Little Saigon trên bản đồ thành phố. Đây là niềm hãnh diện của Cộng đồng người Việt tại San Francisco và khắp nơi ở hải ngoại. Qua sự việc này tôi không khỏi bồi hồi tự hỏi một thành phố không có vị dân cử nào trong hội đồng thành phố (vừa là quận hạt San Francisco) thì vấn đề đặt tên và thực hiện cổng chào hết sức trôi chảy với sự giúp đỡ tích cực của một giám sát viên không phải gốc Việt, còn tại San Jose có một nghị viên gốc Việt sờ sờ ra đó thì chính bà này lại ra mặt hết sức chống đối danh xưng Little Saigon. Thật là chuyện oái ăm, cười ra nước mắt. Chắc chắn sự chống đối hết sức tích cực của NV Madison phải có nguyên nhân sâu xa và công lý phải làm sáng tỏ nguyên nhân mờ ám đó.

Cộng đồng chúng ta không thể để thành phố dùng tiền thuế của cư dân đóng góp để bóp chẹt chúng ta ngưng tranh tụng trên mặt pháp lý với họ mà phải tiếp tục vụ kiện tụng cho công lý được sáng tỏ.

TS Lê Hữu Phú


Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên SàiGòn Phân Ưu GHPGTN

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN
P.O Box 17-516, Greenlane. Auckland – NEW ZEALAND
P.O Box 660935, Arcadia, CA 91066 – USA
Website: www.saigonforsaigon.org
Email: s4s@saigonforsaigon.org


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN
vô cùng thương tiếc khi nhận tin buồn:

Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang

đã viên tịch tại Tu viện Nguyên Thiều lúc 13 giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 2008 tức mùng 3 tháng 6 năm Mậu Tý, trụ thế 89 năm, pháp lạp 69

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN xin thành kính chia sẻ niềm đau buồn và sự mất mát lớn lao với:

Chư Tôn Giáo phẩm Hội Đồng Viện Tăng Thống
Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các Châu Lục
Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni
Cùng toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước

Thành tâm nguyện cầu giác linh
Đức Đệ Tứ Tăng Thống cao đăng Phật Quốc.

Tại Thành phố Auckland , New Zealand
Ngày 7 tháng 7 năm 2008

Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
Đại Diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN

Tổ chức theo dõi nhân quyền yêu cầu csVN chớ nên can thiệp vào việc tổ chức tang lễ Đức Tăng Thống


TỔ CHỨC HOA KỲ THEO DÕI NHÂN QUYỀN
yêu cầu Việt Nam chớ can thiệp vào việc tổ chức lễ tang Đức Tăng thống. Chính quyền giành quyền tổ chức Tang lễ sẽ có nguy cơ gây chống đối dữ dội

(New York, 9.7.2008) – Các thành viên GHPGVNTN cần được phép tổ chức Tang lễ cho Đức Tăng thống mà không bị chính quyền sấn quyền, Tổ chức Hoa Kỳ theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) lên tiếng hôm nay. Nhà cầm quyền Việt Nam đã tuyên bố Giáo hội Phật giáo Nhà nước sẽ tổ chức Tang lễ cho Đức Tăng thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang.

Là Tăng sĩ Phật giáo hoạt động cho hoà bình thời kháng chiến chống Pháp và trong cuộc chiến tranh Mỹ tại Việt Nam, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang là nhà đấu tranh bền bỉ và vô địch cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Ngài vừa viên tịch tại Tu viện tỉnh Bình Định miền trung Việt Nam ngày 5.7.2008 vào năm 88 tuổi. Là thành viên GHPGVNTN thập niên 1960, Giáo hội bị nhà cầm quyền Việt Nam cấm đoán vì không chịu gia nhập Giáo hội Nhà nước. Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang đã trải qua ba thập niên bị nhà nước áp đặt lưu đày, quản chế hay cấm cố.

« Đức Tăng thống Thích Huyền Quang đã mất tự do 30 năm trường hầu mang lại nhân quyền tối thượng và tự do tôn giáo cho Việt Nam », ông Brad Adams, Giám đốc Vụ Á châu của Tổ chức Hoa Kỳ Theo dõi Nhân quyền, nói. » Hãy để cho Phật giáo đồ được phép thọ tang Đức Tăng thống theo nghi lễ thích nghi mà không bị chính quyền xâm lấn. ».

GHPGVNTN dự tính tổ chức Lễ Nhập Bảo tháp cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang vào ngày 11.7 tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định. Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ vị giáo phẩm đứng hàng thứ hai của Giáo hội, người cộng sự thân tín của Đức Tăng thống, và có khả năng kế vị, sẽ chủ trì Tang lễ. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã bước những bước giành lấy quyền kiểm soát Tang lễ để tiếm quyền di sản của Đức Tăng thống khi loan báo nghi lễ sẽ do Giáo hội Phật giáo Nhà nước cử hành. Chính quyền kiểm soát các cơ quan truyền thông tung những bài đả kích cay độc chống Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, tố cáo ngài và « các thành phần cực đoan trá hình làm Tăng sĩ » âm mưu với « ý đồ đen tối » để lợi dụng cái chết của Đức Tăng thống cho mưu đồ chính trị. Ngày 6.7 đài Truyền hình VTV1 loan tải : « Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử [của Thích Huyền Quang], những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ ».

Ông Adams nói tiếp « Hành động không cần thiết của chính phủ Việt Nam có nguy cơ gây chống đối dữ dội với Phật giáo đồ của Đức Tăng thống khi kiểm soát Ngài lúc chết cũng như khi còn sống ».

Đức Tăng thống Thích Huyền Quang đã từng được hai Giải Nobel Hoà bình đề cử Ngài làm ứng viên Giải Nobel Hoà bình, được suy tôn làm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống năm 1992. Ngài xuất gia năm 12 tuổi và trải cuộc đời dài như một nhà hành hoạt Phật giáo. Thập niên 1940, Ngài tham gia Kháng chiến chống Pháp, giữ chức Phó chủ tịch Phật giáo Cứu quốc. Thập niên 1960, Ngài là bậc Cao tăng vận động cho Hoà bình trong cuộc chiến Hoa Kỳ và phản đối chính sách của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Sau thời Việt Nam thống nhất năm 1975, Ngài trở thành người đòi hỏi đắc lực cho dân chủ và nhân quyền. Mặc dù GHPGVNTN chống chiến tranh, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội chiếm dụng tài sản của giáo hội, bắt bỏ tù nhiều vị giáo phẩm, và cưỡng bức phải tham gia Giáo hội Phật giáo Nhà nước. Ngài bị bắt năm 1977 rồi năm 1982 vì lên tiếng kêu gọi chính quyền công nhận GHPGVNTN và phản đối những vi phạm tự do và nhân quyền của nhà nước. Năm 1982 Ngài bị cưỡng bách rời khỏi ngôi chùa của Ngài ở Saigon, bị cô lập và lưu đày tại một ngôi chùa tỉnh Quảng Ngãi.

Vào tháng 11 năm 1993, từ nơi ngôi chùa bị giam giữ, Ngài đưa ra 12 điểm « Đề nghị của Phật giáo cho Dân chủ và Nhân quyền », kêu gọi chính quyền cải cách dân chủ, trả tự do cho tù nhân chính trị, bãi bỏ hạn chế tự do tôn giáo, và tôn trọng nhân quyền.

Tổ chức Hoa kỳ theo dõi Nhân quyền lo lắng cho những nguồn tin từ giới Phật tử ở Việt Nam cho biết Công an đã đến các chùa trong một số vùng, như Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Định, cấm chư Tăng Ni tổ chức Lễ Thọ tang Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Sự sấn quyền của chính quyền Việt Nam trong lần trao quyền kế vị ngày Đức Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch hôm 4.5.1992 đã gây ra cuộc chống đối rộng lớn của Phật giáo đồ Việt Nam. Thời ấy Ngài Thích Đôn Hậu được tự do khi viên tịch và đã di chúc cử hành tang lễ tuyệt đối giản dị theo truyền thống Phật giáo, không có sự can dự của cơ quan công quyền. Tuy nhiên chính quyền cũng tìm cách gắn huân chương Hồ Chí Minh và giành quyền tổ chức Tang lễ mặc dù nhiều Tăng sĩ tuyệt thực phản đối hay đòi tự thiêu. Thời ấy Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang bị quản chế và chỉ được phép ra Huế thọ tang sau một ngày dài thuyệt thực. Tại Huế Ngài đã đọc điếu văn tố cáo nhà cầm quyền tìm cách giải thế GHPGVNTN qua việc thiết lập Giáo hội Phật giáo Nhà nước.

« Chính quyền phải để cho mọi người tự do đến dự tang lễ », ông Adams nói. « Thay vì thế, họ lại ngăn cản những người Việt muốn tỏ lòng tôn kính trước cuộc đời của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang tại các lễ tang địa phương ».


    Vietnam: Don’t Interfere in Buddhist Patriarch’s Funeral Government Attempt to Take Over Funeral Risks Confrontation.

(New York, July 9, 2008) – Members of the banned Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) should be allowed to organize and attend funeral services for their patriarch without government interference, Human Rights Watch said today. The Vietnamese government has announced that the state-sanctioned Buddhist church will organize the funeral for the UBCV Supreme Buddhist Patriarch, Thich Huyen Quang.

UBCV Supreme Patriarch Thich Huyen Quang
© International Buddhist Information Bureau

A Buddhist peace activist who opposed French colonial rule and the US war in Vietnam, Thich Huyen Quang was a lifelong champion of human rights and religious freedom in Vietnam. He passed away in a monastery in Binh Dinh province in central Vietnam on July 5, 2008, at the age of 88. As a member of the UBCV since the 1960s, which is banned by the Vietnamese government because of its refusal to join the state-sanctioned Vietnam Buddhist Church, Thich Huyen Quang spent much of the last three decades in government-imposed internal exile, house arrest, or prison.

“Thich Huyen Quang gave up his liberty for 30 years in a quest for greater human rights and religious freedom in Vietnam,” said Brad Adams, Asia director at Human Rights Watch. “His followers should be allowed to pay their last respects without government interference, at a ceremony of their own choosing.”

The UBCV plans to hold funeral services for Thich Huyen Quang on July 11 at Nguyen Thieu Monastery in Binh Dinh province. Thich Quang Do – the patriarch’s deputy, close associate, and likely successor – will preside over the ceremony. However, the Vietnamese government has already taken steps to wrest control over the funeral and the patriarch’s legacy by announcing that the proceedings will be organized by the state-sanctioned Vietnam Buddhist Church. Government-controlled media has run vitriolic denunciations of Thich Quang Do, accusing him and “extremist elements disguised as Buddhist monks” of plotting “devious schemes” to exploit the patriarch’s death for political purposes. On July 6 the state television station, VTV1, broadcast a statement saying: “Confronting the immoral actions of the Quang Do group, the students and disciples [of Thich Huyen Quang], as well as the genuine monks of Nguyen Thieu Monastery, have vehemently reacted and they are determined not to let the Quang Do group organize the funeral ceremonies.”

“The Vietnamese government is risking unnecessary confrontation with the patriarch’s followers by trying to control him in death as in life,” Adams said.

Thich Huyen Quang, who was nominated for the Nobel Peace Prize by two former laureates, became Supreme Patriarch of the UBCV in 1992. He joined the monkhood at the age of 12 and had a long history as a Buddhist activist. In the 1940s he participated in the resistance to French colonial rule as vice president of a regional section of the Buddhist Movement for National Salvation. In the 1960s he was a prominent Buddhist peace advocate during the Vietnam War and a critic of anti-Buddhist policies by the South Vietnamese government of President Ngo Dinh Diem.

After the reunification of Vietnam in 1975, Thich Huyen Quang became an outspoken advocate for democracy and human rights. Although the UBCV had opposed the war, the Hanoi government confiscated its property, jailed many of its leaders, and attempted to force it to merge into the state-created Vietnam Buddhist Church. Thich Huyen Quang was arrested in 1977 and again in 1982 for publicly calling on the government to recognize the UBCV and for protesting violations of religious freedom and human rights. In 1982 he was forced to leave his pagoda in Ho Chi Minh City and sent into internal exile at an isolated pagoda in Quang Ngai province.

From pagoda arrest in November 1993, Thich Huyen Quang issued a 12-point “Buddhist Proposal for Democracy and Human Rights,” calling on the government to implement democratic reforms, release political prisoners, lift restrictions on religious freedom, and respect human rights.

Human Rights Watch expressed concerns about reports from Buddhist sources in Vietnam that police have been visiting pagodas in some areas, including Vung Tau-Ba Ria and Binh Dinh provinces, and ordering monks not to hold funeral ceremonies for Thich Huyen Quang.

The Vietnamese government’s interference during the UBCV’s last transfer of leadership after the death of UBCV Patriarch Thich Don Hau on May 3, 1992, sparked widespread protests by Vietnamese Buddhists. Thich Don Hau, the most senior UBCV monk still at liberty at the time of his death, had stipulated that his funeral was to strictly follow Buddhist tradition, without any official intervention. Upon his death, however, the government swiftly bestowed upon him the Ho Chi Minh Medal and set about organizing the funeral, despite hunger strikes and threats of self-immolation on the part of many monks. Thich Huyen Quang, who was under house arrest at the time, was permitted to attend the funeral only after a day-long hunger strike. He delivered an oration condemning the government’s attempt to dissolve the UBCV with the establishment of the state-controlled Vietnam Buddhist Church.

“The government should let anyone who wants to attend Thich Huyen Quang’s funeral services to travel there freely,” Adams said. “Instead the government’s trying to discourage Vietnamese from honoring Thich Huyen Quang’s life in local ceremonies.”

http://www.hrw.org/english/docs/2008/07/08/vietna19311.htm

Wednesday, July 9, 2008

Vì sao sau một ngàn năm đô hộ, bá quyền Trung Quốc vẫn không Hán hoá được Việt Nam ?

Phong Uyên

Từ thượng cổ, người Trung Hoa đã tự tạo cho mình niềm tin rằng vua chúa của họ là “Thiên tử” (con Trời), được ban cho “thiên mệnh” trị vì bàn dân thiên hạ. Từ khi vị hoàng đế đầu tiên (Tần Thủy Hoàng đế) thống nhất các nước nằm trong lưu vực sông Hoàng, nơi này được gọi là Trung Quốc – hàm ý quốc gia ở trung tâm toàn cõi đất.

Trăm họ tộc Hoa người Trung quốc được coi là thần dân. Những dân tộc không cùng dòng giống với người Hoa sống ở những khoảng đất chung quanh đều bị coi là man di như Hung Nô phía Bắc, Bách Việt phía Nam. Sau nhà Tần, các triều đại nhà Hán vẫn lấy danh nghĩa làm theo “mệnh trời”, tiếp tục chính sách bành trướng của Tần Thủy Hoàng chiếm hữu đất đai của các dân tộc này sáp nhập vào Trung Quốc. Còn tinh vi hơn, đàn bà con gái của các dân tộc này bị ép lấy người Hán, để rồi con cái họ trở thành người Hán vì mang huyết thống cha theo chế độ phụ hệ một chiều của người Tàu; bằng cách này, chỉ sau vài trăm năm, các dân tộc này đều bị tuyệt giống. Thật ra, đó là cách duy nhất để cung cấp nhân công cho một nền kinh tế có căn bản là nông nghiệp, khi người Hán chỉ là thiểu số so với toàn thể số dân đại lục Trung Hoa thời đó (vào khoảng 50 triệu, bằng dân số đế quốc La Mã cùng thời). Trong khoảng một ngàn năm gần như toàn thể các tộc Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử đều đã bị Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ còn lại duy nhất một dân tộc thoát được nạn này là dân tộc Lạc Việt, tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt Nam sau này: không những không bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, còn giành được độc lập, giữ được một phần đất phía Bắc và tiếp tục bành trướng về phía Nam để tạo thành một quốc gia riêng, biệt lập với Trung Quốc, điều đã khiến cho cuộc Nam tiến của người Hán xuống cực Nam của vùng Đông Nam Á bị khựng lại từ hơn một ngàn năm nay.

Tôi đã thử tìm hiểu vì sao lại có được cái phép lạ đó. Theo tôi suy nghĩ, đó là nhờ ở bốn nhân tố:

Ý thức quốc gia của người Lạc Việt đã rất sớm nẩy nở, đủ sức chống lại ý thức bá quyền Đại Hán ngay từ khởi đầu.

Tinh thần dân tộc của người Lạc Việt đã vượt qua được giới hạn bộ tộc để đủ sức đương đầu với chủng tộc Đại Hán.

Truyền thống mẫu hệ của người Lạc Việt đã vô hiệu hoá phương thức đồng hoá bằng hôn nhân của người Hán theo chế độ phụ hệ, giúp cho dân Việt Nam bảo tồn được giống nòi.

Thể chế lạc tướng - lạc hầu được tồn lưu dưới hình thức cơ chế làng xã đã giúp dân Việt bảo vệ được nền tự chủ của mình.

Tôi cũng xin nói cho rõ hơn là cái nghĩa của từ “quốc gia” tôi bàn luận ở đây không cùng nghĩa với từ “quốc gia” bây giờ, và cũng không đồng nghĩa với chữ “quốc” trong “liệt quốc” thời Chiến quốc, mà có nghĩa “quốc gia Nam Việt” đối lập với “Trung Quốc” nhà Hán.

Theo tôi, chính Triệu Đà, để phục vụ tham vọng của mình, đã là người tạo cho dân Việt ý thức quốc gia và tinh thần dân tộc theo cái nghĩa đó. Trong lịch sử nhân loại có nhiều trường hợp như vậy: Alexandre Đại đế người Macédoine làm dạng danh nước Hi Lạp. Guillaume le Conquérant người Pháp lập ra nước Anh, trong quá khứ luôn luôn thù địch với Pháp. Napoléon người Corse đã đưa nước Pháp tới tột đỉnh vinh quang. Không kể những hung thần như Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ lập ra nhà Nguyên, Staline người Georgie, Hitler người Áo v.v...

Ý thức quốc gia

Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Đà chỉ là một viên lệnh úy tầm thường gốc người nước Ngụy thuộc tộc Hoa, nhưng là người có chí khí, đã biết lợi dụng thời thế hợp quần một số tộc Việt để xưng đế lập ra nước Nam Việt cùng thời với Trung Quốc của Hán Cao Tổ. Theo các nhà sử học phương Tây, sở dĩ nước Tần thắng được các nước khác, không phải vì có Tần Thủy Hoàng mà vì nước Tần là nước có thể chế, có hành chính qui củ, có quân đội mạnh, vũ khí tân tiến hơn các nước khác thời bấy giờ. Từng là một viên tiểu lại của nhà Tần, Triệu Đà đã lấy kinh nghiệm nước Tần để gây dựng nước Nam Viêt thành một quốc gia tân tiến ngang, nếu không nói là hơn Trung Quốc của nhà Hán thời sơ khai, nhất là về quân sự (đánh chiếm Trường Sa). Có thể nói trên lục điạ Trung Hoa và gần như cả Đông Nam Á thời đó, chỉ có hai quốc gia ngang sức đương đầu với nhau là Trung Quốc và Nam Việt. Cả hai đều có cơ cấu phỏng theo nước Tần. Nhờ vậy người Bách Việt trong nước Nam Việt của Triệu Đà có ý thức quốc gia rất sớm và sau một ngàn năm bị đô hộ vẫn giữ được ý thức đó để tái lập lại nước Việt sau này. Người Hán cho đó là khi quân, một thế giới không thể có hai nước, một điều phạm đến “thiên mệnh” của Trung Quốc, nên dùng đủ mọi phương kế kể cả phương kế bỉ ổi nhất là mỹ nhân kế Cù thị để xoá bỏ cho bằng được nước Nam Việt. Khi tiêu diệt được nhà Triệu, nước Nam Việt bị đổi thành Giao Chỉ bộ và bị chia nhỏ thành 9 quận cho mất tang tích một quốc gia đã dám đương đầu với Trung Quốc. Tuy vậy người Trung Hoa cho tới ngày nay vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi một quốc gia đã dám chống đối mình ngay từ sơ khởi, nên không có gì lạ khi nhà Thanh vì mặc cảm đã bắt Gia Long phải đổi quốc hiệu mà ông dự kiến “Nam Việt” thành “Việt Nam”. Trong thâm tâm, người Tàu vẫn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận hay An Nam đô hộ phủ. Chứng cớ là khi người Pháp mới đặt chân xuống miền Nam, hỏi mấy chú Chệt tên nước này là gì, mấy chú vẫn nói tên là “Giao Chỉ”. Tây nghe âm Tàu đọc trại là “Cochin”. Lại sợ lầm với tên đất Cochin bên Ấn Độ, nên đặt lại là “Cochinchine” để phân biệt (từ tố “-chine” có nghĩa là “Trung Quốc”).

Tinh thần dân tộc

Là một nhà chính trị khôn ngoan, Triệu Đà đưa ra chủ trương liên kết mọi tộc Việt trong nước Nam Việt với nhau (như trong câu “người trong một nước phải thương nhau cùng”), điều đã khiến cho mọi tộc Việt vượt qua được giới hạn bộ tộc của mình, đi đến một ý niệm cao hơn là ý niệm về dân tộc Việt. Tinh thần dân tộc lại càng thêm vững mạnh khi Triệu Đà đem lại cho dân tộc Việt vinh quang đầu tiên bằng chiến công đánh chiếm Trường Sa [1] của Trung Quốc. Hơn một ngàn năm sau Lý Thường Kiệt noi gương đem quân tràn qua Tàu đánh phá các châu Khâm, Liêm. Rồi lại gần 1000 năm sau nữa, sau trận Đống Đa làm nhà Thanh khiếp đảm, Thanh đế Càn Long sợ Quang Trung sang đánh và đòi đất, phải vội vàng hứa gả con gái cho và hứa trả lại Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây).

Chế độ mẫu hệ và truyền thống lạc tướng - lạc hầu

Khi lập Văn vương [2] , cháu đích tôn con Mị Nương và Trọng Thủy, lên kế nghiệp mình, Triệu Đà có ý muốn nương theo chế độ mẫu hệ của người Lạc Việt để Việt hoá dòng giống mình, ngõ hầu triều đại nhà Triệu trở thành triều đại quy mô đầu tiên của dân Việt và sau này có thể dựa vào dân tộc Việt chống lại được sự bành trướng của Trung quốc. Trong lịch sử nhân loại, những dân tộc yếu muốn bảo vê được sự sống còn của nòi giống mình trước những dân tộc mạnh hơn đều chỉ có cách là duy trì liên hệ gia đình theo mẫu hệ. Thí dụ điển hình nhất là dân tộc Do Thái, 2000 năm mất nước, phải di tản đến mọi nơi trên thế giới, trước đó đã bao lần bị lưu đầy qua nhiều nước khác mà vẫn bảo tồn được dân tộc (cùng truyền thống văn hoá) của mình nhờ – không cần biết cha là thuộc dòng giống nào – tự coi mình là người Do Thái nếu mẹ là người Do Thái. Người Hán cũng biết vậy nên đã mưu tính đưa Cù thị vào làm vợ lẽ Anh Tề để con của Cù thị (có với tình nhân của thị là Thiếu Quý) là thái tử Hưng máu Tàu 100% sau này lên ngôi đem đất nước dâng lại cho nhà Hán. Quả nhiên là như vậy: khi Minh vương Anh Tề mất, Hưng lên ngôi (tức Ai vương) tính cùng mẹ đem nước dâng cho nhà Hán. Khi tể tướng Lữ Gia biết, giết mẹ con Cù thị và sứ giả nhà Hán, đưa Dương vương có mẹ người Việt lên thay thì đã quá muộn. Lại gặp tướng giỏi nhà Hán là Phục Ba tướng quân nên dân Việt đành chịu thua. Một ngàn năm sau, khi phản công lại Lý Thường Kiệt ở Khâm châu và Liêm châu, nhà Tống lại đem tích “Cù thị vị quốc hi sinh” như một Chiêu quân cống Hồ ra ca tụng nhằm cổ võ quân sĩ. Đủ biết là sự hiện hữu của nước Nam Việt đối lập với Trung Quốc vẫn là một mối hận trong tâm thức người Tàu.

Cũng có lẽ nhờ giữ được truyền thống mẫu hệ trong phong tục nên đã có những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Noi gương Triệu Đà, nhiều quan lại, sĩ tử người Hán, được cử qua “Hán hoá” dân Giao Chỉ, đã lấy vợ Việt không chịu trở về Trung quốc và con cháu không những đều trở thành người Việt mà còn nổi lên chống lại người Hán như trường hợp Sĩ Nhiếp, hoặc trường hợp Vạn Xuân vương Lý Bôn... Ngoài ra, nhiều tăng thống gốc Việt hay mẹ Việt như Tăng Khương Hội còn trở về Trung Quốc thuyết giảng đạo Phật theo văn hoá và tư tưởng Việt. Có thể suy luận là trong 1000 năm bị đô hộ, sở dĩ dân Việt Nam không bị đồng hoá là vì chính sách Hán hoá “lấy vợ Việt để đẻ con Hán” lại có hậu quả ngược lại, “gậy ông đập lưng ông”, là các con cháu có “mẹ Việt” đều trở thành người Việt, giữ gìn huyết thống Giao Chỉ và truyền thống văn hoá Việt, nhờ vậy đã không những không bị Hán hoá mà ngược lại, còn “Việt hoá” người Tàu qua đô hộ. Khả năng “Việt hoá” mạnh mẽ đó không những đã giúp dân Việt bảo vệ được nòi giống của mình trước người phương Bắc mà còn có thể, trong cuộc bành trướng về phương Nam, đồng hoá những dân tộc khác từng một thời hưng thịnh như Chiêm Thành, Chân Lạp, cũng như sau này đã “Việt hoá” những người Tàu Minh Hương để mở mang miền Nam.

Truyền thống lạc tướng - lạc hầu ẩn mình dưới những cơ chế làng xã cũng đã giúp cho dân Việt bảo tồn được nền tự chủ của mình trong suốt thời kỳ bị đô hộ, vì “phép vua thua lệ làng”: phép tắc của các quan thái thú Tàu cũng không thể vượt qua được lũy tre làng. Nhờ vậy mà “ý thức quốc gia” vẫn tiếp tục trường tồn tuy bị thu hẹp trong ý thức “làng nước”: làng chỉ là nước được thu nhỏ lại, và vị Thần Hoàng được thờ ở đình làng như những anh hùng dân tộc, những bậc thánh linh thiêng sẽ phù hộ cho người dân giữ làng giữ nước; còn làng là còn nước, bảo vệ làng là bảo vệ nước.

Để kết luận

Trong lịch sử thế giới từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, sau một ngàn năm bị đô hộ bởi một nước lớn và mạnh như Trung Quốc, không những vẫn bảo tồn được nòi giống mà còn vẫn giữ được cơ cấu quốc gia, và lại tiếp tục duy trì nền tự chủ của mình trong suốt thời gian một ngàn năm nữa. Đó là nhờ ở những nhân tố mà tôi đã nêu ở trên, cũng như nhờ ở sự khôn khéo của ông cha ta đã biết lúc cương lúc nhu, lúc tiến lúc lùi, tuy giữ hình thức triều cống ba năm một lần nhưng vẫn luôn luôn cảnh giác, coi phương Bắc là giặc, là kẻ thù, không bao giờ coi là bạn cả.

Chỉ có gần đây, trong khoảng thời gian 30 năm từ 1949 đến 1979, vì ý thức hệ, vì muốn độc tôn chiếm hữu quyền hành, giới cầm quyền Việt Nam mới coi kẻ thù truyền kiếp là huynh trưởng, là ân nhân, để rồi tự nguyện trở thành tên lính tiền phong, đem xương máu của chính đồng bào mình bảo vệ “ân nhân” vốn là kẻ thù đó. Khi bị người “anh em” dạy cho một bài học biên giới mới tỉnh ngộ thì đã muộn: chủ nghĩa bành trướng Đại Hán cũng vẫn y nguyên như 2000 năm về trước, cho dù được che giấu dưới chiêu bài “chủ nghĩa quốc tế vô sản”, “môi hở răng lạnh”; kế sách “Cù thị” vẫn tái diễn mà trong đó, [các lãnh tụ] Đảng Cộng sản Việt Nam không khác nào một thứ “thái tử Hưng”. Tuy nhiên, lần này, bá quyền Trung Quốc có nhiều hi vọng thành công: họ đang sử dụng ưu thế kinh tế, chính trị, quân sự của mình để tạo ra một sợi dây xích trói chặt Việt Nam bốn bề từ biên giới phía Bắc bọc qua Hoàng Sa - Trường Sa phía Đông, dọc theo sông Mê Kông từ Tây Tạng tới những nước đã bị khống chế như Lào, Cam Bốt phía Tây. Việt Nam hiện nay đã như cá nằm trong rọ. Bành trướng Đại Hán có thể tiếp tục thực hiện âm mưu làm bá chủ Đông Nam Á và Biển Đông mà gần như không còn chướng ngại vật Việt Nam.

Làm thế nào thoát được vòng cương toả của Trung Quốc để tạ lỗi với tổ tiên, với đất nước? Dù sớm hay muộn, chính quyền cộng sản Việt Nam cũng sẽ phải trả lời câu hỏi này.

Phong Uyên

[1] Địa danh Trường Sa ở đây là thành phố cổ hiện đang là thủ phủ của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Còn “Trường Sa” với tư cách là tên gọi quần đảo trên biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam, Trung Quốc gọi là “Nam Sa”. Đời Hán, thành Trường Sa là kinh đô của “Trường Sa quốc”, một trong số chư hầu của nhà Hán. Theo sử sách, vào khoảng sau năm 195 TrCN, Nam Việt vương Triệu Đà đã từng tấn công Trường Sa quốc, chiếm đất của nước này. Đây là hành động chủ yếu mang tính tự vệ, vì nhà Hán (sau khi Hán Cao tổ Lưu Bang đã chết, Lữ hậu thâu tóm chính sự) khi đó bộc lộ tham vọng thôn tính Nam Việt, mà Trường Sa là ngả tiến quân thuận tiện nhất. (Các chú thích đều của talawas.)

[2] Để độc giả tiện theo dõi đoạn trích dẫn sử liệu này của tác giả Phong Uyên, talawas xin tóm lược dòng chính lưu của cây phả hệ nhà Triệu (gồm cả thảy 5 đời vua) đã cai trị Nam Việt quốc, như sau: Triệu Vũ vương (tức Triệu Đà, trị vì từ 207 TrCN đến 137 TrCN), Triệu Văn vương (tức Hồ, cháu đích tôn của Vũ vương và cháu ngoại của An Dương vương Thục Phán nước Âu Lạc; 137 TrCN – 125 TrCN), Triệu Minh vương (tức Anh Tề, 125 TrCN – 113 TrCN), Triệu Ai vương (tức Hưng, 113 TrCN – 112 TrCN; thực ra Hưng là con của Cù thị [vợ lẽ Minh vương] với Thiếu Quý, tình nhân của Cù thị – cả Cù thị lẫn Quý đều là người Hán), và Triệu Dương vương (con của Minh vương với quý phi người Việt; 112 TrCN – 111 TrCN). Đến đây (năm 111 TrCN), nhà Triệu mất nước Nam Việt vào tay nhà Hán.

Trách Nhiệm của Các Thế Hệ Việt Nam

Trần Trung Đạo

(Vài suy nghĩ sau khi đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ và tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu).

Tháng 2 năm 2007, trên diễn đàn talawas, tôi có viết một bài để góp ý với ông Võ Văn Kiệt về “hòa giải dân tộc và khép lại quá khứ”. Thời gian ngắn sau đó, tôi nhận một email từ Việt Nam chuyển lời của ông Võ Văn Kiệt, rằng nhiều điểm góp ý của tôi có thể tranh luận nhưng cũng rất nhiều điểm ông thừa nhận là rất có lý. Ông cũng dặn với người đưa tin nếu tôi có dịp về thì đưa tôi đến nhà chơi để trao đổi với ông. Tôi trả lời, cũng qua trung gian người đưa tin, cám ơn ông về việc mời đến nhà nhưng quan trọng hơn tôi mong ông đáp lại những điều tôi đã nêu ra trong bài viết, nhất là những điểm ông cho rằng có thể tranh luận được, và phổ biến rộng rãi cho mọi người cùng đọc. Chuyện đất nước là chuyện chung chứ không phải là chuyện giữa ông và tôi. Các thế hệ Việt Nam mai sau trưởng thành từ những bài học, những kinh nghiệm của các thế hệ đi trước để lại. Không có kinh nghiệm lịch sử nào là nên bỏ qua và không có bài học lịch sử nào mà không đáng học. Có lần tôi đọc đâu đó, ông Võ Văn Kiệt dự tính viết một cuốn sách, tôi rất mừng và âm thầm chờ đợi một tác phẩm hay một hồi ký của ông.

Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông Võ Văn Kiệt một con số đúng về bao nhiêu sĩ quan công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa bị ông và Đảng của ông đày ra các vùng rừng sâu nước độc Tiên Lãnh, Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa. Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông một con số bao nhiêu người dân Sài Gòn bị ông và Đảng của ông đuổi đi khắp các vùng kinh tế mới miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ công bố đầy đủ danh sách những người bị Ủy ban Quân quản, do ông làm bí thư Đảng ủy đặc biệt, xếp vào thành phần tư sản mại bản; của cải, nhà cửa bị tịch thu, cha mẹ phải vào tù, con cái phải sống lang thang đầu đường cuối chợ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ giải thích nguyên nhân nào khiến hàng triệu người Việt đã bất chấp sóng to gió lớn để vượt biển tìm một con đường sống trong muôn ngàn đường chết. Tôi cũng không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ chính thức xin lỗi cùng nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, những sai lầm của Đảng do ông trực tiếp lãnh đạo đã gây ra. Và như tôi đã đọc tiểu sử, quá trình đấu tranh của ông và những mất mát của riêng bản thân ông, tôi cũng không nghĩ ông Võ Văn Kiệt sẽ thành lập một đảng hay một cánh đối lập, công khai thách thức vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản để lót đường cho một cuộc vận động toàn dân, toàn diện nhằm tiến đến một xã hội mới, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng như một số người đã bàn tán trước đây.

Ông Võ Văn Kiệt từ năm 1938 cho đến cuối đời vẫn là người cộng sản. Khác chăng so với những lãnh đạo cộng sản cùng thời, ông Võ Văn Kiệt sinh ra từ miền cây trái Vĩnh Long, phần lớn quãng đời đấu tranh của ông cũng từ ruộng đồng, sông nước miền Nam, gần gũi với nhân dân miền Nam và trong những ngày cuối đời nhìn lại đã có lúc chạnh lòng buông những câu nói như những lời an ủi muộn màng, rải rác đó đây trên vài cơ quan ngôn luận, trong những buổi nhậu, dành cho những người đã chịu đựng dưới bàn tay ông.

Dù sao tôi cũng mong ông viết, bởi vì hơn ai hết, ông Võ Văn Kiệt là người có thẩm quyền để viết. Giá trị trong tác phẩm của ông Võ Văn Kiệt không hẳn ở chỗ là sự thật mà là sự kiện, dù được nêu ra để biện hộ cho những sai trái của chính ông. Những Giọt nước trong biển cả của Hoàng Văn Hoan và Hồi ký của một Việt cộng của Trương Như Tảng vẫn có giá trị sự kiện nhất định và là những tác phẩm tham khảo cần thiết cho các sử gia và thế hệ mai sau. Hôm nay, ông Võ Văn Kiệt đã qua đời. Ông ra đi mang theo nhiều chi tiết quan trọng của những năm khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc thời cận đại. Phần lớn những lời phân ưu dành cho ông đều chấm dứt bằng câu cầu mong hương linh ông được yên nghỉ, nhưng làm sao hương linh ông có thể yên nghỉ được khi vẫn còn nợ thế gian này một món nợ mà ông chưa trả hết.

Những chịu đựng của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng dưới bàn tay ông Võ Văn Kiệt và Đảng của ông trong những năm ngay sau 1975, sẽ mãi mãi sẽ là một vết thương hằn sâu trong lịch sử. Máu và nước mắt của nhân dân miền Nam đổ xuống trong các trại tù, trên các khu kinh tế mới, dọc các vỉa hè Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đã đóng thành băng trong ký ức của giống nòi. Không ai trách ông Võ Văn Kiệt tại sao bảy mươi năm trước đã tham gia Đảng Cộng sản nhưng chắc chắn các thế hệ Việt Nam mai sau sẽ trách ông đã không có những câu trả lời cho những thảm trạng mà đất nước đã trải qua trong suốt 22 năm dài (1975 - 1997), thời gian ông đã đóng vai trò quan trọng trong chính trị Việt Nam.

Ông Võ Văn Kiệt, giống như hầu hết những người cộng sản trong thế hệ Tân Trào, Pác Bó đã không làm được, đã không trả lời được những câu hỏi của phiên tòa lịch sử, nhưng tôi tin các thế hệ Viêt Nam tham gia Đảng Cộng sản sau ông, thế hệ “chống Mỹ cứu nước”, thế hệ “Tổng công kích Tết Mậu Thân” với một số khá đông vẫn còn đang sống, có thể trả lời và thậm chí phải trả lời trước khi các anh các chị xuôi tay nhắm mắt ra đi.

Điều đáng mừng là trong thời gian qua, một số hồi ký như Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao, Tôi bày tỏ của nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự mà tôi đã có dịp góp ý trước đây, tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, hay mới đây tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu đã nối tiếp nhau ra đời. Các anh viết vì bức xúc cá nhân hay từ nhận thức chính trị không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất vẫn là viết ra. Tôi tin rằng với chiều hướng Việt Nam đang cố mở rộng các mối quan hệ với nước ngoài, những tấm màn sợ hãi sẽ được vén lên cao hơn, những biên giới cách ngăn sẽ dần dần thu hẹp, trong tương lai sẽ có nhiều tác phẩm như thế nữa.

Tôi vừa đọc hết tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu. Là một người trong thế hệ trẻ hơn, tôi cảm ơn anh đã kể lại những chặng đường anh đã đi qua, ghi lại những thao thức và trăn trở của anh và thế hệ anh. Ngay cả những việc chúng ta mới làm hôm qua, hôm nay có thể đã không còn đúng nữa và những câu nói mới vừa thoát ra khỏi cửa miệng nhiều khi biết mình nói sai rồi, huống hồ những việc đã làm 40 năm trước. Ai cũng có một thuở hai mươi và ai cũng trải qua một thời tuổi trẻ. Sinh ra và lớn lên trên quê hương chiến tranh, nghèo khó, chịu đựng cái nhục của một nước nhược tiểu bị các nước lớn khinh khi, coi rẻ, câu hỏi làm gì cho đất nước luôn là mối ám ảnh hàng ngày, hàng đêm trong ý thức của những người trẻ biết đau cái đau của đất nước.

Năm 1968, năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, tôi lớn lên ở gần cửa biển Sơn Chà, quận 3, Đà Nẵng. Buổi chiều tôi thường ngồi trên cồn cát trắng ở xóm Cổ Mân nhìn những đoàn xe chở bom đạn nối đuôi nhau từ cảng Tiên Sa nhập vào các kho quân sự chung quanh thành phố để từ đó đi vào cuộc chiến. Tôi thầm nghĩ những bom đạn kia nay mai đây sẽ rơi xuống ở một nơi nào đó trên quê hương tôi. Đêm đêm trên đường Bạch Đằng dọc bờ sông Hàn những anh lính Mỹ đen, Mỹ trắng miệng sặc mùi bia rượu, tay ôm những cô gái Việt bằng tuổi chị tôi và cất tiếng cười khả ố. Niềm tự ái dân tộc trong lòng tôi dâng cao. Tôi cảm thấy bi xúc phạm. Họ xúc phạm không chỉ dân tộc Việt Nam, người con gái Việt Nam, mà dường như còn xúc phạm đến cả hàng phượng đỏ, hàng sao xanh trên con đường Bạch Đằng thơ mộng. Cách thành phố Đà Nẵng không xa là bãi rác Hòa Cầm rộng mênh mông. Nơi đó, mỗi buổi sáng, hàng trăm đứa bé mới ngoài mười tuổi như tôi bám theo những chiếc xe rác Mỹ để nhặt những miếng thịt thừa, những lon bơ bỏ dở và ngay cả từng chiếc bao nhựa dơ dáy. Ngày đó, tuy còn khá nhỏ tôi đã biết tủi thẹn cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành dây chùm gởi, đồng thời tôi cũng tự hỏi, những điêu tàn đổ nát, những bất công phi lý của xã hội Việt Nam, trong đó có sự hiện diện của những người Mỹ đen Mỹ trắng kia phải phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó.

Hoàn cảnh đất nước và nhiệt tình tuổi trẻ đã buộc các anh chị chọn lựa cho mình một hướng đi, một lý tưởng sống, một dâng hiến dành cho quê hương mà các anh chị nghĩ là đúng nhất. Sự chọn lựa nào cũng kèm theo đó sự hy sinh, cũng mang tính lịch sử và lịch sử Việt Nam trước 1975 là một lịch sử đầy nhiễu nhương, đau thương và ngộ nhận. Nhìn lại tuổi hai mươi không phải để phê phán những việc làm thời đó đúng hay sai. Sai hay đúng là thái độ của hôm nay và về sau chứ không phải của quá khứ.

Bốn mươi năm trước, nếu có người cho rằng xã hội miền Bắc tốt đẹp hơn xã hội miền Nam có thể đã không gây ra nhiều tranh cãi bởi vì các tệ nạn tham nhũng, quan chức lộng hành quá phổ biến ở miền Nam trong khi chưa ai thật sự sống một ngày dưới chủ nghĩa xã hội; thế nhưng, hơn 30 năm sau mà những người đó vẫn còn tiếp tục luận điệu giống như thế thì đó chỉ là một cách nói liều.

Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về tài liệu tham khảo, nếu có người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Duẩn về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn thông cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết lộ, Cải cách Ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, vụ án xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì thật là một niềm tin mù quáng.

Tôi cũng cám ơn nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã phổ biến tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, kết quả của đề tài nghiên cứu mà anh tham gia với William Joiner Center (WJC) thuộc Đại học Massachusetts trong hai năm 2005 đến 2007. Vài điểm trong tiểu luận của anh có thể thảo luận như tôi sẽ làm dưới đây, nhưng về tổng quát tiểu luận này đã giúp cho tôi thêm những kiến thức về sinh hoạt văn học trong nước mà tôi không biết đến nhiều.

Nhắc đến WJC, tôi nhớ lại những chuyện xảy ra mười năm trước. Tôi sống ở Boston và không xa lạ gì các khóa hội thảo mùa hè của WJC. Trong hai năm 1998 và 1999, tôi đã cùng một số anh chị trong giới cầm bút đến nói chuyện tại các khóa hội thảo mùa hè của trung tâm này. Mặc dù không phải là nhà văn, nhà thơ có những tác phẩm văn chương đủ tầm vóc để đại diện cho văn nghệ sĩ hải ngoại, tôi vẫn được mời, đơn giản chỉ vì tôi sống ngay tại Boston, quen thuộc với sinh hoạt của cộng đồng người Việt và đã có thời học ở Đại học Massachusetts.

Tôi ủng hộ quan điểm và thái độ tích cực tham gia vào các khóa hội thảo mùa hè tại Đại học Massachusetts của tổ chức cộng đồng Việt Nam. Thay vì tập trung các sinh hoạt trong nội bộ người Việt, sự có mặt trong những buổi thảo luận về văn học Việt Nam, chiến tranh và hậu quả xã hội Việt Nam tại các diễn đàn rộng hơn, liên quan đến nhiều quốc gia là những việc nên làm và ngay cả phải làm. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền tự do phát biểu của đồng bào trong nước thì không có lý do gì tự giới hạn quyền phát biểu của chính mình trong một xã hội tự do.

Trong chiến tranh, chế độ Việt Nam Cộng hòa không có nhiều cơ hội để nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình. Miền Nam không phải của ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Dương Văn Minh mà là miền Nam của hơn hai chục triệu người, trong đó có một triệu người lính đã phải chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, vừa cô đơn và cũng vừa cô thế. Những vành khăn tang trắng của những người vợ lính, những đứa bé mồ côi vì cha vừa tử trận chỉ trắng trong các khu gia binh nghèo, trong những căn nhà tranh heo hắt chứ không trắng trên các màn ảnh truyền hình quốc tế. Và từ sau 1975, các nhà văn, nhà thơ từ các quốc gia khác cũng chỉ biết Việt Nam dưới chế độ cộng cản qua vở kịch do Đảng Cộng sản Việt Nam dàn dựng, qua các khẩu hiệu tuyên truyền của phe có quyền ăn nói, nhưng không biết đến một Việt Nam khác đang bị bịt miệng, đang bị đày ải trong tù ngục và bị tước đoạt những quyền căn bản của con người. Do đó, giống như việc thắp lên que diêm trong đêm tối trời, gióng lên được một tiếng nói của lương tâm dù ở đâu cũng là điều cần thiết.

Ngoại trừ tôi, hầu hết các nhà văn miền Nam tham dự các khóa hội thảo mùa hè do WJC tổ chức đều đã nhiều năm phục vụ trong quân đội và thời gian ở tù sau 1975 cũng không ngắn hơn bao nhiêu so với quãng đời lính tráng của họ. Trong số anh em chúng tôi, nhà văn Hoàng Ngọc Liên lớn tuổi nhất. Vào tháng 9 năm 1999 ông đã ngoài 70 tuổi. Là một cựu sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bị giam 13 năm trong các nhà tù khắp miền bắc, thế nhưng, ông không dùng diễn đàn WJC để tố cáo tội ác cộng sản, để đòi Đảng Cộng sản phải đền nợ máu trước nhân dân, đòi giới lãnh đạo Đảng phải ở tù ít nhất bằng số năm ông đã từng phải ở. Không. Nhà văn Hoàng Ngọc Liên xem buổi hội thảo chỉ là cơ hội để kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong năm tháng ông ở tù và quan trọng hơn, nhắn gởi những lời đầy hy vọng đến những người cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ trẻ trong nước cũng như đang tham gia trong khóa hội thảo mùa hè năm đó. Trong bài viết “Những câu chuyện chưa kể” ông đọc ở hội thảo vào buổi chiều ngày 1 tháng 9 năm 1999 tại Đại học Massachusetts, Boston, nhà văn Hoàng Ngọc Liên kết luận: “Tôi nghĩ rằng lâu nay, nhất là từ năm 2000, tuổi trẻ Việt Nam là kỳ vọng của dân tộc Việt Nam, trong chiều hướng góp phần xây dựng đất nước chúng tôi, một đất nước bị chiến tranh tàn phá, sau 24 năm hòa bình, thống nhất, vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu mà dân chúng hầu như xa lạ với những quyền Tự do căn bản của con người. Tôi, và những người như tôi, tin tưởng vào thế hệ trẻ, ủng hộ các bạn trẻ cầm bút, với văn phong mới mẻ hơn, súc tích hơn.”

Nếu câu nói trên do tôi nói ra thì chẳng có gì đáng để ý. Tôi trẻ hơn nhà văn Hoàng Ngọc Liên nhiều, chưa từng bị đánh đập, bị đày ải một ngày nào trong các trại tập trung Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Vĩnh Phú, phát biểu hay ca ngợi lòng nhân ái là chuyện thường tình, nhưng nhà văn Hoàng Ngọc Liên thì khác, ông vừa mới thoát ra khỏi địa ngục trần gian cộng sản, sức khỏe chưa kịp phục hồi, thân thể còn đau nhức nhưng vẫn dựa lên các giá trị thiêng liêng của tình dân tộc và mục đích Tự do, Nhân bản cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau để nói lên những lời tâm huyết của mình. Thật quý hóa và may mắn biết bao nhiêu. Không ai hòa giải với ông và ông cũng chẳng cần ai hòa giải. Ông đã tự hóa giải các xung đột bằng nhận thức và qua đó đã hòa giải được với chính mình. Dù bị tù 13 năm ông đã bước ra khỏi cổng trại như một người chiến thắng chứ không phải người thua trận. Ông trở về như sau một cuộc hành quân dài chứ không phải một người vừa được trao trả tự do, bởi vì lý tưởng Tự do Nhân bản vẫn còn là nguồn thôi thúc trong lòng nhà văn 70 tuổi và ông vững tin mục đích tốt đẹp đó một ngày sẽ đến với đất nước Việt Nam.

Đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, tôi cũng tìm thấy trong nhà văn Tô Nhuận Vỹ một ước vọng ngày mai tươi sáng như nhà văn Hoàng Ngọc Liên. Đất nước phải vượt qua những bế tắc, văn học phải vượt qua những bế tắc, mỗi nhà văn nhà thơ cũng phải tìm mọi cách vượt qua những bế tắc của chính mình để đi lên và đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, khác với nhà văn Hoàng Ngọc Liên ở điều kiện tự do, nhà văn Tô Nhuận Vỹ cho rằng bước đầu tiên và cần thiết nhất để hội nhập văn học Việt Nam trong cũng như ngoài nước là hòa hợp hòa giải trong giới văn nghệ sĩ: “đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh.”

Tôi không nghi ngờ thiện chí của nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhưng thành thật mà nói, hòa giải hòa hợp chỉ là một chiếc bóng do Đảng vẽ ra mà những người Việt có lòng đang đuổi bắt như đã từng đuổi bắt con bồ câu hòa bình trước 1975.

Hình ảnh con bồ câu trắng hiền hòa trên bầu trời quê hương thân yêu đã đẩy bao nhiêu tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện lao vào chỗ chết, đơn giản bởi vì “nếu là chim tôi sẽ làm một bồ câu trắng và nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Các thành phố lớn miền Nam như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đâu đâu cũng xuất hiện các phong trào đòi quyền sống, đòi hòa bình, đòi tự quyết. Các cuộc xuống đường diễn hành gần như mỗi ngày, mỗi tuần, nhiều đến nỗi làm cho dư luận quốc tế và cả những người hiểu biết giới hạn về chính trị có nhận xét trong các phe đang đánh nhau chỉ có chính quyền miền Nam mới là những kẻ hiếu chiến và đi ngược lại khát vọng hòa bình dân tộc.

Kỹ thuật tuyên truyền tinh vi của Đảng đã biến những người lính miền Nam đang ngày đêm đổ máu trong cuộc chiến mà không có quyền chọn lựa thành những kẻ sát nhân, trong lúc những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng Mỹ Cảnh, pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, chôn sống đồng bào trên Bãi Dâu Huế, đặt mìn trên quốc lộ số một… lại trở thành những anh hùng dân tộc. Và sau 1975, mọi người đều biết tất cả các phong trào hòa bình giả tạo đó đều do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những con chim bồ câu trắng xinh xinh kia là do bàn tay Đảng vẽ ra, và những kẻ ném bom ngày nào cũng không ai khác hơn chính là những đảng viên biệt động thành trung kiên của Đảng.

Tôi cũng không nghĩ cần thiết phải có một nhu cầu hòa giải trong giới văn nghệ sĩ dù một thời đã phải đứng hai bên chuyến tuyến khác nhau. Tôi chưa gặp anh Tô Nhuận Vỹ chỉ vì chúng ta chưa có điều kiện gặp nhau chứ không phải tôi hận thù, oán trách gì anh mà không gặp. Tôi đi rất nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều anh chị chú bác trong giới cầm bút nhưng rất hiếm khi gặp một nhà văn nhà thơ mang lòng thù hận các nhà văn nhà thơ trong nước. Một số khá đông không thích tham gia vào các tác phẩm viết chung giữa các nhà văn trong nước và hải ngoại bởi vì họ không muốn làm cái loa tuyền truyền giùm cho Đảng, vả lại những tác phẩm viết chung chẳng đem lại một lợi lạc gì cụ thể khi phần lớn chỉ phát hành tại hải ngoại chứ không phải trong nước, một nơi có 80 triệu người cần phải đọc. Sau 33 năm, hàng trăm tác phẩm được viết trước 1975 tại miền Nam vẫn chưa được tái bản, chưa được công nhận, nhà văn nhà thơ gốc Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị đối xử như một thứ công dân hạng hai, nói chi là các nhà văn nhà thơ vượt biên sau 1975 và tác phẩm của họ được viết ra tại hải ngoại. Nếu văn học là đời sống tinh thần của con người trong một thời đại nhất định thì văn học hải ngoại hẳn phải mang đậm nét của hành trình tìm tự do đầy gian khổ, đương nhiên những tác phẩm như thế sẽ không bao giờ có mặt trong một nhà sách nào ở Việt Nam khi chế độ cộng sản còn tồn tại.

Tình cảm giữa những người cầm bút dù bên này hay bên kia không xa cách nhiều như anh Tô Nhuận Vỹ lo lắng. Tôi còn nhớ mười năm trước, vài ngày trước khi đến WJC tham gia hội thảo, có người hỏi tôi, nếu gặp nhau trong buổi hội thảo, tôi sẽ làm gì, sẽ đối xử ra sao với những người được gọi là “văn nô cộng sản” từ Việt Nam sang. Tôi trả lời người đó rằng sau buổi hội thảo, tôi sẽ rủ các anh chị từ trong nước sang đi uống cà-phê. Mọi người ngồi chung quanh tôi hôm đó đều bật cười vì nghĩ rằng tôi nói chơi. Không, tôi nói thật. Tôi đã đi uống cà-phê với nhiều anh chị văn nghệ sĩ từ trong nước sang. Không giống như những năm đầu, thời anh Lê Lựu sang tham gia WJC trở về, viết những bài ký sự rẻ tiền được in trong hai tập ký Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các anh chị đến những năm sau dễ thông cảm hơn nhiều. Gặp ai tôi cũng chỉ yêu cầu một điều, hãy viết về cuộc đời và đất nước như các anh các chị đã từng sống. Thời kỳ viết theo chỉ thị đã qua rồi, xin để lại cho các thế hệ mai sau những lời chân thật. Hơn bao giờ hết đất nước đang cần những người nói thật và sống thật.

Đối với các em sinh viên du học cũng thế. Tôi gặp họ rất sớm. Nhiều em mới sang còn đọc thơ Tố Hữu cho tôi nghe và còn nói về “Bác Hồ là vị cha chung, là sao Bắc Đẩu là vầng Thái Dương” của các em bằng một ánh mắt hồn nhiên và hãnh diện. Tôi kiên nhẫn nghe mà không phản đối bởi vì tôi hiểu đó là tất cả những gì em có. Thế giới tri thức của em từ lớp vỡ lòng đã được đóng khung trong những bài giảng đầy tính giáo điều cuồng tín. Một tuần lễ trước khi bị xử tử hình về tội diệt chủng, Nicolae Ceausescu vẫn còn được học sinh Rumani, giống như các em học sinh Việt Nam ngày nay, ca tụng là tinh hoa kết tụ từ dòng trường giang Danube. Tôi biết sau 4 năm đại học, các em sẽ thay đổi. Các em còn trẻ nên những thói hư tật xấu, mê tín dị đoan dễ đến nhưng rồi cũng sẽ dễ đi. Bệnh sùng bái cá nhân sẽ bớt dần, nhường chỗ cho ánh sáng khoa học thâm nhập vào tâm hồn trẻ trung của các em. Quá trình đổi mới nhận thức không diễn ra trong một sớm một chiều mà là một quá trình dài, từng bước và liên tục. Các em sẽ lớn lên và trưởng thành không phải chỉ ở tuổi tác mà cả về trí thức. Mỗi thế hệ có trách nhiệm riêng trong từng giai đoạn lịch sử. Các bậc cha chú dù đúng hay sai rồi cũng sẽ lần lượt xuống đất hay lên giàn hỏa và các em sẽ phải nghiêng vai gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ mình. Các em có quyền trách móc, đổ thừa nhưng không có quyền từ chối.

Cửa nhà tôi ngày đó giống như cửa chùa, ai đến cũng được, tôi chưa bao giờ hỏi lý lịch hay căn cước người nào. Cách nói và cách trả lời với từng người có thể khác, nhưng đều chuyên chở một quan điểm chính trị và niềm tin về tương lai đất nước giống nhau. Quan điểm chính trị của tôi rất rõ ràng và đơn giản. Với tôi, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ nhà văn nhà thơ cho đến người chưa hề viết nổi một lá thư, từ các nhà trí thức học nhiều hiểu rộng cho đến các bác nông dân tay lấm chân bùn, từ các cha cho đến các thầy, từ những người đã chết sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 hay còn sống hôm nay, nói chung hơn 80 triệu người, đều là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản.

Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên.

Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:"Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”

Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v..., nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán.

Có người đến nay vẫn nghĩ rằng việc họ hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản để đứng lên “Chống Mỹ cứu nước” là một lý tưởng cao đẹp của cuộc đời họ, nhưng không biết rằng câu đó chỉ là một trong hàng chục khẩu hiệu có tính giai đoạn mà Đảng đã dùng. Nếu Mỹ không qua Việt Nam thì Đảng có để yên cho nhân dân miền Nam xây dựng một xã hội tự do dân chủ không? Chắc chắn là không. Dĩ nhiên, Mỹ không qua sẽ không có khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước”, nhưng Đảng có thừa chuyên viên truyên truyền chuyên nghiệp để nghĩ ra những khẩu hiệu khác không kém phần khích động.

Tôi đồng ý với nhà văn Tô Nhuận Vỹ rằng giữa các nhà văn nhà thơ trong và ngoài nước hay đã từng đứng trên chuyến tuyến khác nhau vẫn còn “một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót”, nhưng nghĩ cho đúng, cái hố sâu đó chẳng phải do nhà văn nhà thơ nào đào ra. Đó không phải là hố sâu tình cảm mà là hố sâu ý thức hệ. Theo lẽ tự nhiên, ai đào ra thì người đó phải lấp lại. Trách nhiệm hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ các cách ngăn về ý thức hệ là trách nhiệm của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt 33 năm qua với bao nhiêu cơ hội nhưng các lãnh đạo Đảng chẳng những không thể hiện một hành động nào cụ thể để chứng tỏ tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc mà càng đào sâu hơn những hố sâu ngăn cách, làm lở loét thêm những vết thương vẫn còn đang mưng mủ trên da thịt của nhiều triệu người Việt Nam. Việc yêu cầu chính quyền Nam Dương đập bỏ tấm bia tưởng niệm đồng bào chết trên Biển Đông hay việc tổ chức rầm rộ kỷ niệm 40 năm Mậu Thân trên nỗi đau câm nín của hàng ngàn đồng bào Huế là vài ví dụ điển hình.

Với đồng bào hải ngoại, những hành động xúc phạm hương linh của những em bé chết trôi, những bào thai ngột nước ngay lúc còn trong bụng mẹ, những oan hồn đang vất vưởng khắp Biển Đông như thế, làm sao lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể vận động được đoàn kết trong ngoài, nhất là đối hơn hai triệu người Việt hải ngoại, để cùng đưa đất nước đi lên?

Với đồng bào trong nước, những chương trình ca nhạc rầm rộ mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân, trong lúc cùng thời điểm đó trên khắp ba miền đất nước, nhất là tại Huế, hàng trăm ngàn đồng bào đang khóc trong âm thần, trong tủi nhục, trong hờn căm u uất, thì làm sao lãnh đạo Đảng có thể phát huy được nội lực dân tộc?

Bất cứ một người Việt Nam nào với một trình độ nhận thức trung bình cũng biết những hành động vừa nêu của giới lãnh đạo Đảng là không cần thiết và quá đáng. Tôi tin ngay cả trong Bộ Chính trị và Trung ương Đảng cũng có người biết việc đó là phi nhân, lạc hậu, vụng về và quá đáng, nhưng họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải làm, đơn giản bởi vì che đậy tội ác là phản ứng tự nhiên của những kẻ đã gây ra tội ác.

Chim bay cần đôi cánh nhưng không phải giống chim nào có cánh cũng có thể bay cao. Chim se sẻ chỉ biết bay quanh vườn, nhảy nhót trên những cành xoài, cành ổi, nhưng để có một hạm đội Việt Nam, một phi đoàn Việt Nam, một vệ tinh Việt Nam, một phi thuyền Việt Nam, đất nước phải cần có đôi cánh phượng hoàng, nói đúng hơn là đôi cánh dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, với những mâu thuẫn đối kháng và bế tắc ngay từ bên trong cơ cấu độc tài đảng trị sẽ không có khả năng đưa đất nước lên ngang tầm với thời đại, và do đó, việc chọn lựa một con đường thay thế là trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước hôm nay.

Trần Trung Đạo

© 2008 talawas

Cộng đồng người Việt T. B. WA phản đối hiệu quả: Hồng Y Phạm Minh Mẫn vội rời Seattle đi Washington DC


SEATTLE (NVTB).- Buổi lễ kỷ niệm 50 năm chịu chức Linh Mục của TGM Brunett, từ một ngày trước đã gửi email đến báo chí sẽ không có người khách mời như dự liệu đó là: Hồng Y Phạm Mẫn.

Tuy vậy sau những thư phản đối và tuyên cáo, một nhóm giáo dân và đồng hương đã có mặt trước Nhà Thờ Chính Tòa Tổng Giáo Phận Seattle số 710, đường số 9th Ave., lúc 2 giờ chiều thứ Ba 8-7-08 để phản đối, và chỉ nhằm thêm một lần giải thích với quý vị lãnh đạo Công Giáo: Họ bất bình với lời phát biểu của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, và ước mong ông nhìn ra được chuyến công du này thất bại vì đâu?

Nhiều hàng giáo phẩm đã thăm hỏi đoàn biểu tình lịch sự, ôn hòa, và cho biết Hồng Y Phạm Minh Mẫn có âm thầm tới Seattle, và cũng lặng lẽ lên máy bay đi Washington DC trong ngày.

Trong hai ngày cuối tuần vừa qua, những bản văn, tuyên cáo của Cộng Đồng NVQG/WA và của Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng VNCH Tiểu Bang WA cùng một số giáo dân, từ Ủy Ban Chống Cờ Việt Cộng và Giáo dân Seattle đã lên tiếng phản đối Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng như chuẩn bị một cuộc biểu tình ôn hòa để bày tỏ thái độ, tìm cách "mở rộng nhận thức" cho một nhà lãnh đạo tôn giáo vốn đã nhận định vừa lòng nhà cầm quyền hiện nay nhưng phật lòng đồng bào hải ngoại, như lời ông Tăng Phước Trọng CĐNgười Việt Quốc Gia Washington, BS Nguyễn Xuân Dũng, chủ tịch Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng, ông Vũ Tuấn, Ủy Ban Chống Cờ Việt Cộng....

Chương trình của Hồng Y Phạm Minh Mẫn được thông báo hạn chế sẽ: thăm viếng cộng đồng Công Giáo Việt Nam dự trù qua một thánh lễ lúc 6 giờ chiều thứ Tư 9-7-2008, và một buổi "tiếp tân hạn chế" tiếp sau lễ cầu nguyện ở nhà thờ theo thư mời - nội bộ - của Ban Thường Vụ nhưng chương trình đến nay sẽ hủy bỏ vì chương trình đã hoàn toàn thay đổi, tiếp theo Úc, San José, Spokane WA... đều bãi bỏ

Được biết, cuối tuần qua, như chương trình dự định, Hồng Y Mẫn đến làm lễ tại nhà thờ Maria Goretti và St Patrick tại San José vào chiều thứ Bảy 5-7 vừa qua với sự tham dự của giáo dân Việt Nam tại đây, nhưng cuối cùng cả hai buổi lễ nói trên đã bị hủy bỏ vì Hồng Y Mẫn "cáo bệnh" không đến. Tuy đã được thông báo, giáo dân San Josécũng mang theo cờ Vàng đến dự lễ, sẵn sàng giương cao nếu có Hồng Y đến.

Ông Denny O'Leary từ tòa Tổng Giám Mục phổ biến tới báo chí chiều thou Hai 7 tháng 7 , 2008 cho biết: Tòa TGM Seattle xác nhận cho dù Hồng Y Phạm Minh Mẫn có mặt kín đáo tại Seattle nhưng bảo đảm sẽ không xuất hiện trước thánh lễ, và buổi tiếp tân chúc mừng Tổng Giám Mục Alexander Brunett 50 năm theo dự trù, tránh những rắc rối và sự phản đối từ cộng đồng, mà Tòa Tổng Giám Mục đã ghi nhận được liên tục qua điện thoại, điện thư...

Dù vậy một số người vẫn cho rằng các giới lãnh đạo tinh thần cũng cần lắng nghe và nhìn thấy "sự phản đối mạnh" hướng về Hồng Y Phạm Minh Mẫn, vì những lời phát biểu "thiếu thận trọng, minh mẫn".


Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) phân ưu về sự viên tịch của vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN)



Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) phân ưu về sự viên tịch của vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN); và thúc giục huỷ bỏ tất cả các hạn chế hoạt động hợp pháp áp đặt lên tổ chức Phật giáo bị cấm đoán này.

Khánh Ðăng lược dịch

HOA THỊNH ÐỐN — Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) xin thành kính phân ưu cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) về sự viên tịch của Hoà thượng Thích Huyền Quang. Vị Tăng thống của GHPGVNTN đã viên tịch vào ngày Thứ Bảy tại Tu viện Ngưyên Thiều ở tỉnh Bình Ðịnh, là nơi ngài đang bị quản thúc vì sự vận động ôn hòa của ngài kéo dài hàng thập niên cho tự do tôn giáo và các vấn đề liên quan đến nhân quyền ở Việt Nam.

“Hòa thượng Thích Huyền Quang là một tiếng nói mạnh mẽ cho tự do tôn giáo và nhân quyền ở đất nước của ngài. Các chính quyền tiếp nối nhau ở Việt Nam đã cố gắng một cách vô hiệu qủa để bịt miệng ngài, và ngài đã phải chịu đựng nhiều nỗi thống khổ to lớn vì tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo”, theo bà chủ tịch USCIRF Felice D. Gaer cho biết.

GHPGVNTN là tổ chức Phật giáo lớn nhất ở Việt Nam, trên thực tế là đã bị cấm hoạt động từ năm 1981 khi nhà nước cộng sản thiết lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đòi hỏi tất cả các tổ chức Phật giáo phải gia nhập vào. Kể từ năm 2003, hầu hết các vị lãnh đạo lão thành của GHPGVNTN đã bị giam giữ dưới các hình thức như “quản thúc tại chùa”, và các nỗ lực mới đây để tổ chức việc sinh hoạt các ban đại diện Phật giáo và gia đình Phật tử các tỉnh đã bị sách nhiễu, đe doạ, và có vài vụ bắt giữ.

Nhà cầm quyền Việt Nam đã cảnh cáo vị lãnh đạo tạm thời của GHPGVNTN là Hoà thượng Thích Quảng Ðộ và các chư tăng khác không được biến tang lễ của Hòa thượng Thích Huyền Quang trong tuần này thành một “cuộc biểu dương chống nhà nước” và vẫn tiếp tục chiến dịch bôi lọ Hoà thượng Thích Quảng Ðộ. Một phái đoàn của Uỷ ban đã gặp gỡ Hoà thượng Quảng Ðộ và các vị lãnh đạo lão thành khác của GHPGVNTN trong chuyến viếng thăm Việt Nam vào năm 2007.

Bà Gaer nói, “Thật là bất hạnh khi nhà nước Việt Nam lợi dụng sự viên tịch của Hòa thượng Thích Huyền Quang để gia tăng đe doạ các vị lãnh đạo của GHPGVNTN và cương quyết dành quyền kiểm soát việc hành đạo độc lập của Phật giáo ở Việt Nam. Thay vì đưa ra những lời cảnh cáo, nhà nước nên giảm bớt các biện pháp hạn chế vô lý đối với GHPGVNTN ”

Nhà nước cộng sản Việt Nam cho phép vài nhóm tôn giáo được chính thức công nhận được hoạt động, nhưng đặt ra ngoài vòng luật pháp các nhóm khác muốn sinh hoạt và tổ chức độc lập không qua sự chấp thuận của nhà nước. Trong những tổ chức tôn giáo độc lập này là GHPGVNTN, các giáo phái Hòa Hảo và Cao Ðài, và vài giáo hội Tin Lành cũng như của người dân tộc thiểu số. Ðặc biệt là tín đồ của các tổ chức này đã bị sách nhiễu, bắt bớ, giam giữ và bỏ tù trong nhiều năm qua.

Hoa Kỳ đã chỉ định Việt Nam là một quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC) vào năm 2004 vì liên tục vi phạm trầm trọng, và vô cùng ác liệt đến tự do tôn giáo, nhưng lại được hấp tấp tháo bỏ sự chỉ định đó vào năm 2006 vì lý do nêu ra là “có tiến bộ”. Nhưng mặc dù có vài cải thiện, tình trạng nhân quyền tại Việt Nam nói chung là đang đi xuống, và có vài lo ngại nghiêm trọng có thể đưa đến việc chỉ định Việt Nam trở lại danh sách CPC. Nhiều cộng đồng tôn giáo tại Việt Nam tiếp tục gặp các khó khăn nghiêm trọng, nhịp độ cải thiện thì không đồng đều, và nhiều người tiếp tục bị bắt bớ và bỏ tù vì các lý do liên quan đến việc họ xử dụng hoặc ủng hộ cho quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Năm nay, Uỷ ban lại đề nghị cho Việt Nam bị tái chỉ định là một quốc gia cần quan tâm đặc biệt.

Sự sách nhiễu giam giữ các vị lãnh đạo và chư tăng thuộc GHPGVNTN, và việc cấm đoán GHPGVNTN đã trực tiếp thánh thức đến các luận điệu cho rằng tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam đã được cải thiện rất đáng kể. Phật giáo là một tôn giáo lớn vào bậc nhất trong dân số 86 triệu người ở Việt Nam và việc tiếp tục đàn áp GHPGVNTN là một trong những lý do chủ yếu mà Uỷ ban tin chắc rằng chính phủ Hoa Kỳ đã sai lầm khi tháo gỡ sự chỉ định Việt Nam khỏi danh sách CPC vào năm 2006.

“Sự viên tịch của Hòa thượng Thích Huyền Quang tạo ra một cơ hội hiếm có cho nhà nước Việt Nam để vinh danh một chiến sĩ tranh đấu cho tự do được tôn trọng khắp nơi, bằng cách cho phép GHPGVNTN được tự do chọn lựa vị lãnh đạo của riêng họ, được tiến hành các công việc từ thiện và sinh hoạt gia đình Phật tử mà không bị quấy rầy, và các ban đại diện Phật giáo các tỉnh được hoạt động mà không bị sách nhiễu. Chúng tôi thúc giục chính phủ Hoa Kỳ hãy nêu lên các vấn đề này với nhà nước Việt Nam ở cấp cao nhất và kêu gọi Ðại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam nên thân hành tham dự tang lễ vào Thứ Sáu này. Thêm nữa, chúng tôi cũng thúc giục chính phủ Hoa Kỳ nên đặt việc hoạt động hợp pháp của GHPGVNTN là một ưu tiên trong việc đối thoại ngoại giao Mỹ - Việt được tiếp tục mới đây về nhân quyền”.

Khánh Ðăng lược dịch.

http://www.uscirf.gov/index.php?option=com_content&task=view&id=2220&Itemid=1

Chính phủ Việt Nam muốn giành tổ chức tăng lễ cho Đức Tăng thống

Lê Minh lược dịch

(New York - 9/07/2008) - Hôm nay Tổ chức Giám sát Nhân quyền quốc tế (HRW) đã tuyên bố rằng, chính phủ Việt Nam không nên can thiệp mà phải để cho các giáo đồ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tự lo liệu việc tổ chức và tham dự tang lễ của Đức Tăng thống. Chính phủ Việt Nam cũng đã loan báo rằng Giáo hội Phật giáo quốc doanh được nhà nước thừa nhận sẽ đứng ra lo liệu tang lễ cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Là một người tích cực hoạt động cho hòa bình trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và trong suốt cuộc nội chiến Nam Bắc, Hòa thượng Thích Huyền Quang đích thực là một nhà đấu tranh cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Ngài đã qua đời tại một tu viện tại tỉnh Bình Định ở miền Trung Việt Nam hôm 5 tháng 7 năm 2008, hưởng thọ 88 tuổi. Hòa thượng là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ thập niên 60s, một giáo hội bị nhà nước Việt Nam đặt ra ngoài vòng pháp luật vì không chịu gia nhập vào giáo hội quốc doanh, khiến trong hơn 30 năm qua Ngài đã phải sống trong cảnh bị trù dập, khi thì trong tù, khi phải nay đây mai đó, khi thì bị quản thúc tại gia.

Ông Brad Adams, Giám đốc của HRW-Á Châu nói: “Trong hơn 30 năm qua Hòa Thượng đã xả thân vì nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Chính phủ không nên can thiệp và các giáo đồ phải được phép tổ chức và tham dự tang lễ theo nguyện ý của mình”.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dự trù tổ chức tang lễ cho Đức Tăng thống vào ngày 11 tháng 7 tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Hòa Thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo thứ hai trong hàng giáo phẩm, rất có thể là người kế thừa - sẽ chủ tọa tang lễ. Tuy nhiên nhà nước Việt Nam muốn giành quyền kiểm soát và tổ chức tang lễ bằng cách tuyên bố là tang lễ sẽ do Giáo hội Phật giáo nhà nước đứng ra tổ chức.

Các phương tiện truyền thông báo chí nhà nước đã tung ra chiến dịch lăng mạ Hòa Thượng Thích Quảng Độ và tố ngài là “thành phần cực đoan khoác áo nhà tu”, lợi dụng cái chết của Đức Tăng thống để mưu đồ chính trị. Hôm 6 tháng 7, hệ thống truyền hình nhà nước VTV1 phát đi bản tin nói rằng “Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ”.

Ông Adam nói “Chính phủ Việt Nam đang mạo hiểm khi đương đầu với giáo đồ của Đức Tăng thống bằng cách kiểm soát Ngài lúc còn sống và ngay cả khi qua đời”.

HT. Thích Huyền Quang, nguời từng được hai nhân vật nổi tiếng đề cử lãnh giải Nobel Hòa bình, đã trở thành Đức Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhẩt kể từ năm 1992.

Ngài xuất gia từ lúc 12 tuổi và có một quá trình lâu dài của một nhà hoạt động Phật giáo. Vào cuối thập niên 40s, Ngài có tham dự vào cuộc kháng chiến chống Pháp trong tư cách là Phó chủ tịch Phật giáo Cứu quốc (Liên khu 5). Vào thập niên 60s, trong cuộc chiến Việt Nam, Ngài là nhà hoạt động tích cực vì hòa bình và thường chỉ trích chính sách bài bác Phật giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Sau 1975, HT. Thích Huyền Quang đã trở thành nhà đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền. Mặc dầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phản đối cuộc chiến, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội vẫn trưng thu tài sản của giáo hội, bỏ tù nhiều nhà lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và ép buộc gia nhập vào giáo hội quốc doanh. HT. Thích Huyền Quang bị bắt vào năm 1977 và lần sau vào năm 1982 vì đã kêu gọi nhà nước công nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và phản đối việc vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền. Năm 1982 Ngài bị bị trục xuất khỏi thành phố Saigon, đưa ra quản chế tại một ngôi chùa nhỏ tại một vùng hẻo lánh ở Quảng Ngãi.

Năm 1993, trong lúc còn bị quản thúc tại chùa, Ngài đã đưa ra “Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, nêu ra 12 điểm yêu cầu nhà nước thực thi cải cách dân chủ, thả tù nhân chính trị, nới lỏng tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền.

Tổ chức Giám sát Nhân quyền quốc tế bày tỏ mối quan ngại về một số báo cáo từ trong nước cho rằng công an đã đến một số chùa ở các nơi, bao gồm Vũng Tàu, Bà Rịa và Bình Định, và ra lệnh cho các chư tăng không được tổ chức tang lễ cho HT. Thích Huyền Quang.

Khi nhà nước Việt Nam can thiệp vào việc chuyển tiếp quyền lãnh đạo giáo hội vào ngày 3 tháng 5 năm 1992 sau sự ra đi của Ðức Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu, đã làm bùng lên làn sóng chống đối của Phật tử. HT. Thích Đôn Hậu, vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội trước lúc lâm chung đã nói rằng, lễ tang của Ngài sẽ được thực hiện theo nghi lễ Phật giáo thuần túy mà không có sự can dự của nhà nước. Thế nhưng, ngay sau khi Ngài vừa viên tịch thì nhà nước đã bất ngờ ban cho Ngài huân chương Hồ Chí Minh và giành lấy quyền tổ chức tang lễ, mặc dầu nhiều sư tăng đã tuyệt thực để phản đối và sẵn sàng cúng dường bản thân. HT.Thích Huyền Quang khi đó đang bị quản chế tại chùa, chỉ được phép đến dự tang lễ sau một ngày tuyệt thực. Trong lời tác bạch tại tang lễ, Ngài đã lên án nhà nước đã tìm cách xóa bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để sát nhập vào Giáo hội Phật giáo nhà nước

Ông Adams cũng nói rằng: “Nhà nước Việt Nam phải để cho bất cứ ai muốn tham dự tang lễ của HT. Thích Huyền Quang được tự do đến đó, thay vì gây khó khăn cản trở người ta đến dâng hương cho Ngài”.

Lê Minh lược dịch

http://hrw.org/english/docs/2008/07/08/vietna19311.htm

Những Tiếng Rú của Bản Tình Ca Vùi Dập


Ðặng thiên Sơn

Càng ngày việc làm của thị trưởng Chuck Reed và nghị viên Madison đối với cộng đồng Việt Nam càng tệ, càng coi không được. Hình như hai người họ đã mất hết khả năng kiểm soát của lý trí khi phải đối diện với lương tâm con người. Lương tâm ở đây, là một người ăn ở có đạo nghĩa thì phải biết: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Uống nước phải nhớ nguồn”. Phải biết giữ chừng mực cái đạo lý làm người.

Chuck Reed hôm nay, không còn là Chuck Reed mặc áo dài, khăn đống hay áo sơ mi với cà vạt cờ vàng ba sọc đỏ để kiếm phiếu thị trưởng. Và Madison hôm nay, không còn là Madison ngày nào đi gõ cửa từng nhà đồng hương để cầu khẫn, van xin sự ủng hộ. Hình ảnh một Chuck Reed hay một Madison gần gũi với cộng đồng Việt Nam ngày nào nay đã không còn nữa, đã nhạt nhòa trong tâm trí họ. Thế vào đó, là hình ảnh mới toanh của một Chuck Reed hùng hùng, hổ hổ, gân cổ nổi cộm và hùng hụt đi từ lầu 18 City Hall xuống quán cà phê uống rượu nho để tính chuyện - No recall - Anti recall - Support Madison. Và hình ảnh một Madison trâng tráo với những lời kể công không đúng sự thật, mặt mày dáo dác khi ra đường. Hai hình ảnh này, tạo thành chân dung một Mỹ, một Việt - một nam, một nữ - một rỗ, một rá. Một cao lêu khuê, một thấp lè tè, khắn khít dưới ánh đèn vàng để cùng “rú” bài “Tình ca vùi dập”, đã làm nỗi bật tinh thần “ôm nhau mà sống” của đôi nam, nữ này.

Với nỗ lực sáng tác nhịp điệu vùi dập, bà Madison lên hệ thống truyền thông Quê Hương cho biết - những cử tri đã ký tên bãi nhiệm, nay có thể thay đổi ý định. Bà kêu gọi người nào nghĩ lại thấy thương bà muốn rút lại chữ ký, thì có hai cách:

- Cách thứ nhứt, tự động viết thư xin rút tên gởi về văn phòng Thư ký thành phố.

- Cách thứ hai, vào mạng lưới toàn cầu No recall của bà lấy mẫu thư đã được soạn sẳn, điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa, rồi bỏ vào bao thư, dán tem, gởi cho bà Lee Price Thư ký thành phố thì mọi chuyện sẽ đẹp như mơ.

Tuy nhiên, như đã nói rất nhiều lần là bà Madison - người nữ nghị viên “cưng” của ông thị trưởng Chuck Reed và của các ông Sam Licarrdo, Pete Constant, Forrest William, bà Judy Chirco… là giống nữ nhi trong máu đã có sẳn vi trùng dối trá, nên những gì bà nói ra đều thiếu trong sáng, không rõ ràng. Dưới đây là bằng chứng.

Dựa vào điều lệ bầu cử (election code) 103 và 11303 trong Tiến Trình Bãi Nhiệm Các Viên Chức Tiểu Bang và Khu Vực ( Procedure for Recalling State And Local Officials) đăng nơi trang 20, bà Madison đã viết trên mạng lưới toàn cầu No Recall của bà như sau:

“Withdrawal of Signatures

Under California state law, any voter may withdraw his or her signature from the recall petition upon filing a written request with the appropriate elections official (103, 11303”).Tạm dịch là: “Dưới luật của tiểu bang California, bất cứ cử tri nào cũng có thể rút lại chữ ký trong thỉnh nguyện bãi nhiệm bằng cách viết thư yêu cầu nhân viên phụ trách bầu cử (103, 11303).

Tuy nhiên, theo nguyên văn điều 103, 11303 không phải như trên, mà như sau:

“Withdrawal of Signatures

Any voter may withdraw his or her signature from the recall petition upon filing a written request with the appropriate elections official prior to the day the petition section on which the signature appears is files (103, 11303)” Tạm địch là: “Bất cứ cữ tri nào cũng có thể rút lại chữ ký trong thỉnh nguyện bãi nhiệm bằng cách viết thư yêu cầu nhân viên phụ trách bầu cử trước ngày thỉnh nguyện với chữ ký đó được đệ trình .(103, 11303).”

Qua hai đoạn văn vừa trình bày, người đọc chắc hẳn đã thấy rõ được sự thiếu thẳng thắn của bà Madison. Bà Madison đã “tự ý đục bỏ” hàng chữ “prior to the day the petition section on which the signature appears is files” .

Mấy chữ “prior to the day the petition section on which the signature appears is files” (trước ngày thỉnh nguyện với chữ ký đó được đệ trình) là 14 chữ nói về thời gian hạn định cho việc rút chữ ký. Tại sao bà Madison lại “đục bỏ” như vậy? Trả lời ngay, là nếu để nguyên con như chính phủ ấn định thì cho tới giờ phút này việc bà Madison lên đài Quê Hương hô hào, khuyến khích rút chữ ký là chuyện tào lao, chẳng đi đến đâu vì không phải lúc.

Theo luật định, tiến trình ký tên trong Thỉnh Nguyện Bãi Nhiệm trải qua hai giai đoạn. Giai đạn I, là giai đoạn phải có những chữ ký tiên khởi đính kèm với Thỉnh Nguyện nêu lý do xin bãi nhiệm. Giai đoạn II, là giai đoạn sau khi Thỉnh Nguyện và chữ ký tiên khởi đã hợp lệ, Thư ký thành phố phụ trách hồ sơ cho phép UBBN đi lấy số chữ ký bãi nhiệm theo luật định.

Đối với giai đoạn I: Ủy Ban Bãi Nhiệm đã hoàn tất thủ tục. Nên không có vấn đề rút tên hay thêm tên trong Thỉnh Nguyện Bãi Nhiệm. Như vậy, trong giai đoạn này thời hạn rút chữ ký (Withdrawal of Signatures) đã khóa sổ. Vậy thử hỏi, bà Madison còn kêu gọi, khuyến khích cử trư rút chữ ký bãi nhiệm thì làm sao mà rút đây. Chuyện này, y như trường hợp tòa phán quyết xong rồi. Nhân chứng bất ngờ muốn phản cung và đòi hồi tố khi thời gian hạn định đã hết thì việc xét lại bản án chắc chắn sẽ chẳng bao giờ xảy ra.

Đối với giai đoạn II: Ủy Ban Bãi Nhiệm chưa hết hạn 120 ngày nộp danh sách 3,200 chữ ký (đây là con số thí dụ), thì nhân viên phục trách dựa vào đâu mà rút tên theo ý người viết thư yêu cầu?. Bà Lee Price, Thư ký thành phố - người phụ trách việc tiếp nhận những thủ tục trong tiến trình bãi nhiệm. Dù là người làm dưới quyền ông Chuck Reed, nhưng bà cũng không biết làm sao mà rút chữ ký của cữ tri khi chưa có danh sách do Ủy Ban Bãi Nhiệm đệ nạp trong tay. Thành ra, khi bà Madison không đề cập tới hạn định rút tên là một trò đánh lận con đen. Biết là không đúng, không có kết quả, nhưng bà Madison cứ hô hào ầm ỉ. Nên đây chỉ là một cách chữa cháy vụng về.

Đối với thủ tục hành chánh, chắc hẳn những người muốn rút tên cũng cần phải làm “appointment” để được tuần tự gọi đến văn phòng bà Lee Price trình ID hay Driver licenseso để xác nhận thực, hư. Vì thủ tục xin chữ ký của UBBN đòi hỏi sự chính xác, những người đã cho chữ ký biết rõ điều này, thì đương nhiên việc rút tên của họ cũng phải như vậy, để tránh trường hợp 92 chữ ký mà ông bánh mì thịt nguội Lê văn Hướng đã làm. Cho nên, ngay lúc này nếu bà Lee Price có nhận được thư xin rút tên thì cũng để đó mà chơi, ngồi mà ngó và người xin rút tên ngóng cỗ đợi làm hẹn .

Tóm lại, việc kêu mọi người viết thư để rút tên bãi nhiệm mà không nêu rõ thời gian hạn định, là một sự thiếu trong sáng của bà Madison. Điều này hiễn nhiên, thêm một lần nữa, làm nổi bật hạnh kiểm không tốt của bà Madison. Chính cái bản chất xấu xa này và thêm vào sự vi phạm luật Brown Act của bà, đã dẫn đến việc ông Chuck Reed phải ngậm đắng nuốt cay nhìn bà nghị viên mà ông ta ca tụng, tâng bốc tới trời xanh đang bị “Recall”. Đây mới chính là nguyên do, chớ không phải vì cái tên “Little Sàigòn” như các cơ quan truyền thông của bà Madison ra rả ngày này sang ngày nọ bóp méo sự thật.

Ngoài việc bà Madison “tự ý đục bỏ” thời hạn rút chữ ký theo luật định. Thiên hạ còn cho biết có người đến các khu nhà Mobile Home và nhà dân trong khu vực 7, chìa cái Nghị quyết ký ngày 25 tháng 3 năm 2008 của HĐTP tạm thời cộng nhận tên “Lillte Sàigòn” trên lá phướn, khoe đó là thành tích của bà Madison, rồi xin đồng bào thương dùm Madison, đừng ký tên bãi nhiệm.

Khi nhắc đến cái “nghị quyết lá phướn”. Mọi người nhớ đến phiên họp điều trần giữa Sở Kế Hoạch Thành Phố và Ban Thành Lập Little Saigòn (Little Saigon San Jose Foundation) ngày 26/6/08 tại Leninger, Kelley Park. Trong ngày này, không ai thấy sự hiện diên của bà Madison như người của bà đã kể công.

Mọi người ngạc nhiên, đã kể công như vậy. Tại sao bà Madision không có mặt để làm việc cho tới nơi, tới chốn, là nói với đại diện Sở Kế Hoạch Thành Phố là Debra Figone và Joe Horwedel rằng, số banner mà LSSF xin thực hiện là 20 cái như trong thư của ông Dave Cortese đã đề cập, chớ không phải chỉ có 7 cái hay 11 cái. Và tại sao bà không có mặt, để “chỉnh” Sở Kế Hoạch khi cơ quan này cho biết chỉ cho phép treo các baner từ ngã tư đường McLaughin/Story đến đường Roberts mà thôi. Điều này, trái với tinh thần nghị quyết TP có bà Madison ký tên ngày 25/3/08, mà người của bà cầm đi lấy điểm tùm lum. Vì theo nghị quyết này, các baner được phép treo trên các trụ đèn từ cầu freeway 101 đến đường Senter. Do đó, sự vắng mặt của bà Madison, một lần nữa đã tố cáo:

- Thứ nhứt, bà không quan tâm, ngó ngàng gì đến quyền lợi, nguyện vọng cử tri khu vực 7.

- Thứ hai, bà dị ứng với cái tên chống cộng “Little sàigòn” dù nó có treo… ở cột đèn.

Bên cạnh những lời kêu gọi rút chữ ký của bà Madison. Sự thể hiện sức mạnh quyền lực của một ông thị trưởng cũng bắt đầu ló dạng. Tin mới nhất cho biết chính quyền thành phố sẽ tịch thu và phạt UBBN về vi phạm cắm và dán những bản “Recall Madison Nguyễn” tại những nơi công cộng. Như vậy là đèn xanh đã bật, tập đoàn vùi dập bắt đầu tiến lên.

Có lẽ mọi người chưa quên, cách nay hơn một tháng trên chương trình phát thanh Việt Nam Radio AM do ông Huỳnh Hớn phụ trách. Ông Thomas Nguyễn, thành viên UBBN, đã lên tiếng báo động trước chính quyền và công luận về vấn đề nhiều bảng “Recall Madision Nguyễn” cắm trong sân nhà cử tri đã bị kẻ gian lấy đi. Đồng thời UBBN đã kêu gọi đồng bào cố gắng ghi nhận lại hình ảnh thủ phạm như chụp hình, lấy số xe vân vân, gởi đến UB sẽ được trọng thưởng 500 đồng.

Với những việc làm có nghiên cứu, có phương pháp, nắm vững luật lệ. Chắc chắn UBBN sẽ không cho người đi cắm hay dán những bảng hiệu Recall Madison Nguyễn bừa bãi trên đất công do ông Chuck Reed “tạm thời quản lý” trong nhiệm kỳ của ông. Cho nên, hôm nay, những bảng “Recall Madison Nguyễn” nếu có xuất hiện bừa bãi trên đất công cộng của thành phố, sẽ không tránh khỏi người ta nghi ngờ đã đến lúc những tấm bảng bị mất cắp được đem ra xử dụng để vu oan, giá họa, làm mất uy tín và hao tốn ngân quỷ eo hẹp của UBBN khi bị phạt từ 100 - 250 đồng một cái.

Nếu UBBN bị chính quyền Chuck Reed phạt vì những bãng hiệu “Recall Madison Nguyễn” thì đây là điều bất thường. Đây là những trò áp dụng quyền bính vặt vãnh, hạ cấp, rẽ tiền, không xứng đáng là một thủ đoạn chánh trị của người lãnh đạo thành phố khi đứng về phía chống bãi nhiệm. Vì từ nhiều năm qua trong mùa tranh cử, các bảng hiệu quảng cáo tên tuổi ứng viên cắm đầy đường, từ đất tư cho đến ngoài công cộng. Nhưng chưa có báo nào đăng là các chủ nhân các bảng hiệu đó nhận được giấy cảnh cáo hay giấy phạt của chính quyền.

Có người thì thầm, có lẽ vì “quá cưng” cục cưng Madison, nên ông thị trưởng đã tuyên bố rất hùng hồn và rất “cứng cựa” đến nỗi quên cả quyền Bãi Nhiệm là một quyền hiến định.

Trò vùi dập của thế lực Chống Bãi Nhiệm đã bắt đầu nổi lên qua sự kêu gọi rút chữ ký quờ quạng của bà Madison, qua sự ông thị trưởng quờ quạng sẳn sàng cho người đi biên phạt các bảng “Recall Madison Nguyễn”. Đã cho thấy bản “Tình ca vùi dập bãi nhiệm” đã bắt đầu cất lên với những nốt nhạc khủng bố tinh thần. Những nốt nhạc này là những âm thanh kêu rú thảm thiết, quái đản trong nền dân chủ của một Hội Đồng Thành Phố đang trên đà phá sản.

Khi bài viết còn đang dở dang, thì một người bạn gọi điện thoại cho tôi, nói anh có người quen ở bên Thụy sĩ sang chơi. Và cho biết nhiều đồng hương bên đó cũng biết chuyện bãi nhiệm bà Mdision qua mạng lưới toàn cầu. Mọi người đều cho đây là việc làm chính đáng, hợp tình, hợp lý của cộng đồng người Việt tại San Jose. Rồi ông bạn tôi kết luận: “ Như vậy thì bà nghị Madison Nguyễn - một chuyên viên nói dối- sẽ không còn chỗ đứng trên quả địa cầu này”.

* Đặng thiên Sơn (8 tháng 7/2008)

Tuesday, July 8, 2008

Vinh Danh 60 Năm Cờ Vàng tại Paris



Bích Xuân

Sau Nam Cali (Mỹ) 21-6 và Liège (Bỉ) 27-6, chiều chủ nhật, lúc 16 giờ ngày 6 Juillet 2008 tại Paris là ngày vinh danh 60 năm Cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hoà ( lá cờ trước năm 1975). Người Việt tự do và những đồng hương đến từ các nước như : Đức, Bỉ, Hoà Lan… Mọi người tập trung tại nơi sinh hoạt chính của người Á châu ở khu 13 Paris để chuẩn bị diễn hành. Địa điểm để bắt đầu tại số 44 Avenue D’Ivry, lúc 16giờ 30, đồng hương vừa đi vừa hô to khẫu hiệu theo chị Dung Nghi một khuôn mặt tranh đấu quen thuộc của cộng đồng người Việt tự do ở Pháp. Đoàn người đến ngã tư Tolbiac, thì được sự hướng dẫn của cảnh sát đi rẽ sang một con đường lớn khác là Avenue D’Italie để tụ hôp trước tòa thị sảnh của quận 13.

Hôm qua, trời mưa to, gió lớn Ban tổ chức rất lo ngại, nhưng không ngờ hôm nay, trời bỗng có nắng, nhìn trên nét mặt ai cũng vui tươi, nhưng trời lại có gió. Cờ tung bay rực vàng theo gió đầy trên con đường huyết mạch của ngưới Á châu. Ban tổ chức cho biết 450 lá cờ đã hết sạch.

Trong đoàn người tham dự diễn hành, già có nhiều mà người trẻ cũng phải là không ít, trong đó người ta nhận thấy có những người ngoại quốc tay cầm cờ đi theo đoàn người từ lúc khởi hành cho đến tụ ở điểm cuối. Hai bên đường khách ngoại quốc đứng xem chật cả lối đi.

Cờ vàng được đưa đến trước cửa thị sảnh đúng 18 giờ, trên cao, lá cờ của Pháp đang tung bay trước cửa thị sảnh của Paris 13. Đồng hương trang trọng cùng nhau hát bài quốc ca Việt Nam Cộng Hoà. Giây phút mặc niệm để tưởng nhớ những anh hùng vì nước đã bỏ mình, và những nạn nhân mất ngoài biển khi đi tìm tự do. Chương trình diễn hành từ 16 giờ đến 18 giờ 30 thì chấm dứt. Mọi người ra về với niềm vui trong một chiều có nắng đẹp có nhiều ý nghĩa.

Bích Xuân