Friday, May 30, 2014

Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát! - Huỳnh Ngọc Tuấn

 Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát!

Huỳnh Ngọc Tuấn

Cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ quốc gia ngày hôm nay phải đồng hành với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền và dân chủ. Không có thực quyền làm chủ đất nước chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bị hy sinh và bị sỉ nhục và đất nước sẽ diệt vong. Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát, vì nhà cầm quyền CSVN không hề có ý chí và thực tâm bảo vệ quyền lợi của tổ quốc và dân tộc...

Việc Trung Cộng đưa giàn khoan dầu nước sâu vào biển của Việt Nam là một điều hoàn toàn có thể tiên liệu trước và trong tương lai Trung Cộng cũng sẽ cho thiết lập vùng nhận dạng phòng không tại biển Đông như đã làm tại biển Hoa Đông cũng là điều có thể tiên liệu. Vì đây là nước cờ tất yếu trong ván cờ chiến lược của Trung Cộng để thực hiện giấc mộng bá quyền.

Dư luận đang đặt ra câu hỏi tại sao Trung Cộng lại đưa giàn khoan dầu nước sâu vào biển VN và lại trong thời điểm này.

Vì biển Đông chiếm một vị trí chiến lược cả về kinh tế lẫn quân sự.

Về kinh tế Trung Cộng đang khát dầu và khí đốt cùng nguồn tài nguyên to lớn hàm chứa trong lòng biển Đông, và biển Đông là một hải lộ quan trọng vào bậc nhất thế giới với lượng hàng hóa lưu thông khổng lồ, là huyết mạch của hai nền kinh tế lớn trong khu vực và cũng là đồng minh chiến lược của Hoa kỳ là Nhật bản và Hàn quốc.

Xác lập được chủ quyền tại biển Đông (cho dù bằng phương tiện bá đạo và bất hợp pháp) Trung Cộng sẽ từng bước lấn sân và đuổi Mỹ ra khỏi khu vực, vô hiệu hóa một phần lớn sức mạnh hải quân Mỹ đang thống trị tại châu Á Thái bình dương. Chính vì vậy mà Trung Cộng bất chấp sự bất bình của quốc tế sự phản đối của nhân dân VN.

Mấy năm trước đây khi cảm thấy bất an vì Trung Cộng đang trỗi dậy một cách “không hòa bình” như họ rêu rao, người Mỹ quyết định “chuyển trục”, tức là chuyển trọng tâm chiến lược từ Châu Âu - Đại tây dương sang châu Á – Thái bình dương để đối phó với những diễn biến bất ổn, điều này tạo ra một cơ hội cho Putin “phục thù” đối với sự mở rộng ảnh hưởng của Phương Tây và NATO tại châu Âu.

Putin xâm lược Ukraina bất chấp những cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina mà Nước Nga và Phương Tây đã ký, thách thức an ninh khu vực và cả quyền lực của Nato. Việc Putin xâm chiếm Ukraina làm Mỹ phân tâm và phân lực. Đây là một thời điểm không thể nào tốt hơn để Trung Cộng bành trướng ra biển Đông.

Chưa bao giờ kể từ sau sự kiện Liên xô và khối quân sự Varsava sụp đổ mà an ninh thế giới bị thánh thức như bây giờ. Sự liên kết Nga - Trung làm cho nhiều người liên tưởng đến một “trục” chống Mỹ mới đang hình thành!?...

Sự phối hợp hành động Nga - Trung ở phía Đông và phía Tây đẩy Mỹ vào thế “lưỡng đầu thọ địch” khiến tình hình biển Đông và Ukaina trở nên khó giải quyết và nguy hiểm vì có hai “mặt trận” mở ra cùng một lúc.

Vai trò cảnh sát quốc tế của Mỹ thời gian gần đây đã suy yếu khiến cho các quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á như VN khó bề đối phó với một cường quốc khổng lồ đầy tham vọng và bất chấp đạo lý như Trung Cộng. Còn CSVN thì đã hoàn toàn bất lực.

Câu hỏi nhức nhối đặt ra cho những người yêu nước là làm sao tìm được kế sách hữu hiệu để đối phó với tình hình. Thú thật người viết bài này xin thúc thủ!?

Không thúc thủ làm sao được khi hơn nửa thế kỷ qua đảng CSVN đã độc chiếm quyền lãnh đạo đất nước với những chính sách sai lầm nghiêm trọng từ chính trị, kinh tế và ngoại giao như chúng ta đã thấy!?

Cho mãi đến ngày hôm nay VC vẫn gọi Trung Cộng là đồng chí anh em, với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt làm kim chỉ nam cho mối quan hệ “môi hở răng lạnh”!

Đảng CSVN là một tập đoàn tham nhũng và thối nát, coi đất nước này như của riêng họ để họ tùy nghi sử dụng. Họ lộng hành và đứng trên luật pháp (một thứ luật pháp độc tài và chuyên chế).

Hơn nữa thế kỷ qua CSVN đàn áp, bỏ tù và không từ một thủ đoạn nào đối với những người yêu nước và đấu tranh đòi dân chủ. Họ coi những người yêu nước và những nhà dân chủ là thù địch, coi các hội đoàn xã hội dân sự là “phản động”.

Họ coi dân chỉ là bù nhìn hay đỡ hơn một chút là công dân hạng hai. Họ gạt bỏ người dân ra khỏi vị trí quyền lực quốc gia, không cho bất cứ một ai ngoài đảng CS chia xẻ quyền lực với họ. Họ tự tung tự tác, vơ vét tài sản quốc gia chia chác cho nhau, khai thác tài nguyên quốc gia nuôi sống guồng máy đàn áp khủng bố để tiếp tục thống trị. Họ kỳ thị và trù dập những người trí thức chân chính có thực tài và tâm huyết làm băng hoại tinh thần dân tộc và nguyên khí quốc gia.

Thực thi một đường lối ngoại giao cực đoan ấu trĩ, coi những giá trị tự do dân chủ của loài người là thù địch, đóng cửa với những trào lưu tư tưởng canh tân và khai phóng, du nhập học thuyết Mác- Lê nin- Mao phản khoa học và phản dân tộc để trùm lên đầu lên cổ nhân dân, đẩy đất nước vào thế cô lập trong một thời gian quá dài. Sao chép Trung Cộng một cách mê muội cả về chủ thuyết chính trị đến mô hình xã hội và văn hóa khiến quốc gia lạc hậu chậm tiến.

Kết quả của hơn nửa thế kỷ cai trị sai lầm đó là một VN nghèo nàn lạc hậu nhất, trong một khu vực bị đánh giá là lạc hậu nhất hành tinh chúng ta!

Nguồn lực và sức mạnh quốc gia trống rỗng vì tham nhũng và quản lý sai lầm, dân trí kém mở mang vì chế độ độc tài hà khắc ngu dân, quốc phòng nhu nhược vì khí tài quân sự lạc hậu và nghèo nàn.

Nhưng nghiêm trọng nhất là hai sai lầm của CSVN về quốc phòng là:

1. Biến quân đội thành gia nô chỉ biết cúc cung phục vụ cho đảng CSVN, sẵn sàng đàn áp dân chúng và những người yêu nước chứ không lo bảo vệ tổ quốc. Một quốc gia mà quân đội bị hạ nhục thì lấy đâu ra sức mạnh để chiến đấu vệ quốc?

2. CSVN “nhận giặc làm cha”: VN chúng ta ở bên cạnh một anh khổng lồ đầy tham vọng và hung bạo nên cha ông chúng ta luôn có kế sách đối phó, không chủ quan mơ hồ tự đầu độc mình và đầu độc cả dân tộc bằng phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt.

Để tồn tại bên cạnh một anh khổng lồ tham tàn như vậy dân tộc chúng ta chỉ có một chọn lựa duy nhất là phải mạnh về kinh tế và quốc phòng, mạnh về sự đoàn kết toàn dân trong một ý chí phục vụ đất nước, nếu không chúng ta sẽ bị diệt vong.

Trong lịch sử loài người có không ít các quốc gia và dân tộc đã bị xóa sổ vì suy yếu và sai lầm của người lãnh đạo, Chiêm Thành không phải là một bài học hay sao?

Sự cạnh tranh và va chạm giữa các quốc gia và dân tộc là điều tất yếu của sự phát triển nhân loại, cho nên để được tồn tại chúng ta phải mạnh... Tuyệt đối không được mơ hồ về chuyện này!..

Ngày hôm nay đất nước và dân tộc chúng ta bị đe dọa và sỉ nhục vì chúng ta suy yếu, trách nhiệm này thuộc về đảng CSVN..

LẬP TRƯỜNG CỦA CHÚNG TA

Ngày hôm nay tổ quốc lâm nguy mà đảng CSVN lại hoàn toàn bất lực nhưng vẫn khăng khăng ôm giữ độc quyền lãnh đạo. Họ tiếp tục đàn áp, khủng bố và bỏ tù những người yêu nước và những nhà dân chủ, họ gạt bỏ nhân dân qua bên lề quốc gia đại sự thì chúng ta sẽ không thể đóng góp gì được.

Muốn đóng góp cho đất nước trong cuộc đấu tranh chống xâm lược không còn cách nào khác là chúng ta phải đấu tranh để lấy lại quyền làm chủ đất nước của mình, quyền quyết định vận mệnh của mình và dân tộc mình từ tay đảng CS.

Cho nên cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ quốc gia ngày hôm nay phải đồng hành với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền và dân chủ. Không có thực quyền làm chủ đất nước chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bị hy sinh và bị sỉ nhục và đất nước sẽ diệt vong.

Hiện nay nhà cầm quyền CSVN trực tiếp hoặc thông qua một số “nhân vật trung gian” kêu gọi người dân không nên biểu tình chống Trung Cộng vì biểu tình chống Trung Cộng là cổ vũ chiến tranh!?.., hay nếu có biểu tình thì nên ủng hộ lập trường của nhà nước!

Chúng ta bác bỏ luận điệu ngụy biện và nguy hiểm đó.

Trước hết biểu tình để thể hiện quyết tâm và ý chí bảo vệ tổ quốc của dân tộc VN, biểu tình để tạo thế liên kết dân tộc, để vận động sự ủng hộ quốc tế và biểu tình là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình đấu tranh giành lại quyền làm chủ đất nước.

Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát, vì nhà cầm quyền CSVN không hề có ý chí và thực tâm bảo vệ quyền lợi của tổ quốc và dân tộc.

Người dân VN phải tự quyết vận mệnh của mình và tổ quốc.

Huỳnh Ngọc Tuấn



DÙNG CÁI CỚ VIỆT TÂN, VIỆT CỘNG ĐÀN ÁP DÂN TRONG NƯỚC - Phan Đông Anh

DÙNG CÁI CỚ VIỆT TÂN , VIỆT CỘNG ĐÀN ÁP DÂN TRONG NƯỚC
Phan Đông Anh

Biến cố dàn khoan DH 981 gây chú ý dư luận thế giới và người Việt trong cũng như ngoài nước, như thùng thuốc nổ được lắp ngòi và kích hỏa, dân chúng Việt Nam bùng phát tình yêu nước sau hàng nhiều thập niêm bị nhận chìm trong khủng bố của đảng CS, miếng cơm manh áo, và chính sách xì hơi theo bài bản cao trào cách mạng thì thẳng tay đàn áp, khi thoái trào cách mạng thì lùi một bước để chuẩn bị ba bước tiến. Người dân Việt Nam đứng dậy trong nổi uất ức đè nén từ lâu, do bạo quyền CS cam tâm phục tòng Bắc Kinh, làm thái thú cho kẻ thù truyền kiếp Hán Tộc và rước giặc vào xâm lăng dần mòn đất nước từ nội địa đến hải đảo, lãnh hải.

Dân chúng đã biến căm thù thành hành động qua việc tấn công vào quyền lợi của người Trung Cộng sang khống chế nền kinh tế, sách nhiễu nhân công nghèo, hống hách như dân mẫu quốc, dưới sự bảo vệ của hệ thống đảng quyền qua công cụ công an, bộ đội, tổng cục chính trị 2, nhà tù…. Dàn khoan DH 981 không mang mục đích khai thác dầu, nhưng đây là cuộc thăm dò phản ứng của người dân Việt Nam, để trong tương lai, Trung Cộng sẽ đặt thêm một số dàn khoan khác sâu trong lãnh hải Việt Nam. Trận hải chiến bằng vòi rồng là bằng chứng dàn dựng giữa hai bên là thái thú và thiên triều, đã không thể lừa bịp được nhân dân trong thời đại văn minh, k thuật thông tin tân tiến, âm mưu lái tinh thần yêu nước của dân tộc sang mục tiêu và lợi ích của tập đoàn tay sai Trung Cộng đã bị lộ và phản ứng ngược lại. Đảng CSVN dùng biến cố dàn khoan DH 981 để kích động lòng yêu nước, bài học cũ soạn lại từ nam 1946, Hồ Chí Minh thành công trong chiêu bài bịp bợm ”kháng chiến đánh Pháp giành độc lập” nhưng chính Hồ cũng là kẻ mời Pháp sang cai trị lần thứ hai với hiệp ước sơ bộ Sainteny.

Cả hai quan thầy Trung Cộng và Thái Thú CSVN đã không lường trước phản ứng ngược lại như ”gậy ông đập lưng ông” làm thiệt hại rất nhiều tài sản của thiên triều Bắc Kinh, đã dầy công xây dựng từ khi tình hữu nghị nối lại và sau đó được khai triển, thắt chặt hơn với ”16 chữ vàng và 4 tốt”.

Sự kiện dân chúng đứng dậy với con số hàng chục nghìn tại Bình Dương (vùng có nhiều công ty Trung Cộng và các nước Á Châu khác như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan..) Hà Tĩnh, Thái Bình, ngay cả Cần Thơ là thủ phủ các tỉnh miền Tây cũng có biểu tình. Có thể nói là dân Việt Nam đã bừng tỉnh sau nhiều thập niên đắm chìm trong trầm lặng, mà đảng cộng sản thái thú đã tin là phương pháp tẩy não của Pavlov, kèm theo khủng bố thành công; nhưng nay, tình hình ngoài dự đoán đã khiến bạo quyền thái thú và Tàu cộng phản ứng đối phó chống đỡ: ở biên thùy Việt-Trung, quân Trung Cộng áp sát biên giới, nhưng đây chỉ là đòn răn đe, để yểm trợ thái thú Việt Nam ổn định tình hình, thanh trừng nội bộ là thành phần thân Nga đang lợi dụng biến cố dàn khoan HD 981 để khôi phục quyền bính và đồng thời đàn áp nhân dân, là lề thói quen thuộc của đảng CS, áp dụng từ thời Hồ Chí Minh đến ngày nay. Trung Cộng cho hồi cư ào ạt người của họ để tránh thiệt hại do tình hình bất ổn, chờ khi thái thú hoàn thành nhiệm vụ dẹp tan nội loạn, sẽ sang, tiếp tục cấy người và khuynh đảo kinh tế, chính trị. Phía bạo quyền thái thú, đảng giả vờ điều động một số đơn vị bộ đội, làm ra vẻ như là Trung Cộng sắp đánh Việt Nam như năm 1979, theo giáo sư Carl Thayer, học viện quốc phòng Úc, thì Trung Cộng không đánh Việt Nam và tình hình hiện nay hoàn toàn khác với thời kỳ xung đột quyền lợi giữa hai đàn anh cộng sản sau năm 1975. Nhưng CSVN khai thác lòng yêu nước bằng những hình thức điều động quân giữa hai phe cùng một ý thức hệ để đánh lừa dân chúng lần nữa, là chiêu bài đoàn kết với thái thú để chống thiên triều Bắc Kinh, một điều mà trong suốt quá trình hàng ngàn năm lịch sử chống xâm lược phương Bắc, chưa hề xảy ra, tuy nhiên chỉ có vài trường hợp rước voi về dầy mả tổ với vua Lê Chiêu Thống, đầu hàng giặc như Trần Ích Tắc, Trần Kiện…

Để lấy cớ đàn áp dân chúng, đầu tiên là đảng thái thú CSVN quy cho những thành phần bất hảo, côn đồ mà đảng thường dùng câu ”thành phần xấu” để bắt bớ, truy lùng những vụ tấn công và quyền lợi kinh tế của thiên triều và cũng gây thiệt hại kinh tế CS trong lúc đang cần tiền, đầu tư nước ngoài. Chiêu bài ”thành phần xấu” không có lý do chính đáng và thuyết phục, nên nay đảng CSVN dùng bình phong tay sai băng đảng Việt Tân để lấy cớ bắt bớ, khủng bố dân trong nước.

Băng đảng Việt Tân cũng có cùng một gốc với đảng CSVN, cùng vinh danh Hồ Chí Minh là có công với đất nước, thì làm gì băng đảng Việt Tân là thù nghịch? Trái lại chính tổ chức Việt Tân là nơi thi hành nghị quyết 36 một cách tích cực, hô hào cổ động hòa hợp hòa giải với CS như chủ tịch Đổ Hoàng Điềm tuyên bố tại tòa Bạch Cung thời tổng thống George W Bush: ”từ năm 1994, CSVN không còn phân biệt đối xử với người quốc gia nữa..”. Tuy nhiên, băng đảng Việt Tân ngụy trang dưới vỏ bọc: ”đấu tranh dân chủ đa nguyên” để che dấu làm tổ chức trá hình của CSVN ở nước ngoài. Hiện tượng cờ đỏ CS xuất hiện tại các nơi công cộng các nước Tây Phương là thành quả của Việt Tân, do đó, không ai tin băng Việt Tân là tổ chức chống cộng, trái lại đây là thế lực nội thù nguy hiểm hơn cả cộng sản ở nước ngoài, núp bóng quốc gia, phục vụ ma cộng sản.

Trong quá khứ, những dàn dựng chống cộng rất là tồi tệ của băng đảng Việt Tân đã càng để lộ bộ mặt cộng sản trá hình: một đảng viên Việt Tân dấu súng lục trong hành lý, vượt qua hết các trạm kiểm soát tối tân và người, chó tại phi trường Hoa Kỳ và bị khám phá tại phi trường Việt Nam, sau đó bị giữ lại điều tra và trục xuất. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, 2 lần trở về hoạt động, bị bắt và còn ca tụng đảng đối xử rất tốt là tù nhân đòi hỏi có sửa, thịt cá, báo, cell phone… đều được thỏa mãn.

Vụ bắt bớ cô gái trong nước là Lô Thanh Thảo do một đảng viên Việt Tân Chim Quốc Quốc, đã càng làm cho bộ mặt thật của Việt Tân lộ rõ nét là tổ chức ngoại vi của CS. Đảng CSVN lên án băng đảng Việt Tân là tổ chức cực kỳ phản động, khủng bố để nâng cấp tổ chức ngoại vi của đảng, làm cái cớ để bắt bớ, tù đày những người yêu nước. Muốn bắt ai, đảng CSVN chỉ cần chụp mũ là có quan hệ đến bọn phản động nước ngoài là đảng Việt Tân, là coi như phù hợp với chủ trương.

Để hỗ trợ cho đảng CS trong nước, ở nước ngoài, băng đảng Việt Tân thường tổ chức những cuộc quyên góp tiền, với danh nghĩa yểm trợ cho những nhà đấu tranh trong nước; không ai biết là những số tiền thu vào, được yểm trợ như thế nào, nhưng trong quá khứ, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là tổ chức tiên khởi của Việt Tân, đã thu hơn 22 triệu Mỹ Kim, anh em Hoàng Cơ Minh trở thành triệu phú. Khi muốn chụp mũ, bắt bớ, đảng CSVN chỉ cần cho là đảng Việt Tân, là hợp với luật rừng, dính dáng hay bị Việt Tân nhận bừa, trở thành nạn nhân của cộng sản. Khi một người chống đảng bị bắt, chỉ cần đài phát thanh Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới, Đáp Lời Sông Núi lên tiếng ca tụng, hay Việt Tân tổ chức đốt nến cầu nguyện, tổ chức quyên góp tiền để ủng hộ… là cũng đủ lý do để đảng cộng sản VN quy tội, kết án là: ”quan hệ đến tổ chức cực kỳ phản động ở nước ngoài”.

Nếu đảng Việt Tân thực sự đe dọa đến sự an nguy của đảng, thì chúng đã dẹp từ lâu như các tổ chức phục quốc sau năm 1975 và gần đây là sự đàn áp dã man tổ chức mang tên là Hội Đồng Bia Sơn ở Phú Yên. Tuy nhiên, đảng CSVN và băng đảng Việt Tân, gian nhưng không ngoan, một đảng viên nổi tiếng hiện sống và hoạt động công khai tại Việt Nam là Nguyễn Thanh Giang, người từng giới thiệu cho Trần Khải Thanh Thủy gia nhập đảng Việt Tân, nhưng Nguyễn Thanh Giang vẫn sống an toàn và lại còn được đảng cấp chiếu kháng xuất ngoại để hội thảo với các đồng chí Việt Tân…

Cũng là bài bản cũ, nay đảng CSVN soạn lại để lấy cớ đàn áp phong trào quần chúng đứng dậy vì lòng yêu nước và đồng thời từ chối lá cờ máu, bằng chứng là những cuộc biểu tình trong nước đã chứng minh thế nhân dân của đảng thái thú đã mất trong lòng người dân. Công hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng và những thái độ khiếp nhược của đảng CSVN trước những hành động lấn lướt của Trung Cộng, đã phơi bày bộ mặt mãi quốc cầu vinh của tập đoàn Lê Chiêu Thống thời đại. Đảng CSVN không thể bảo là nhân dân VN bất bình, nổi lên chống thái thú và thiên triều Bắc Kinh, mà đổ thừa do đảng Việt Tân giựt dây, kích động.

Ở nước ngoài, hầu hết những cuộc biểu tình với danh nghĩa chống Trung Cộng bành trướng thường là do băng đảng Việt Tân tổ chức, hay có bàn tay của Việt Tân nhúng vào, nhưng dân Việt Nam không hề mời Trung Cộng vào, mà chỉ có một nhóm thiểu số đảng cộng sản rước giặc Tàu vào nhà, thì người Việt cần phải biểu tình sứ quán, lãnh sự CSVN là trúng vào mục tiêu và kẻ nội thù chính.

Một điều dễ nhận ra là hầu như các cuộc biểu tình do băng đảng Việt Tân tổ chức, thường chống Trung Cộng bành trướng qua xung đột dàn khoan DH 981 mà chống CSVN chỉ là mục tiêu phụ, tức là những cuộc biểu tình bày tỏ lòng yêu nước đã bị Việt Tân và cộng sản lái sang hướng khác, làm mất đi ý nghĩa chống xâm lược, thay vì chống thái thú, thì chống thiên triều.

Tai hại là thành phần du sinh CS, sứ quán, nằm vùng, đón gió, có quan hệ quyền lợi… đã mang lá cờ đỏ sao vàng, xuất hiện nơi vùng đất của nạn nhân cộng sản, là thế lực thù nghịch, nương theo chiêu bài chống Trung Cộng để công khai bánh trướng lá cờ máu tại hải ngoại. Trong nước, đảng CSVN dùng cớ các cuộc biểu tình chống Trung Cộng là do đảng Việt Tân tổ chức, hay giựt dây, để có lý do mạnh đàn áp dân trong nước. Do đó mới đây, nhiều cuộc bắt bớ xảy ra và nạn nhân bị qui chụp là thành phần phản động, quan hệ đến Việt Tân, tức là Việt Tân đã và đang giúp cho các đồng chí cộng sản của họ đàn áp, khủng bố dân chúng, dập tắt phong trào đứng lên chống thái thú và ngoại xâm. Chống ngoại xâm là tấm lòng chung của tất cả người dân nước Việt, nhưng đoàn kết với thái thú để chống thiên triều là đồng lõa với tội phản quốc, nên người Việt Nam cần sang suốt để không bị lọt vào bẩy sập của nội thù ma mảnh, gian ác là tập đoàn thái thú CSVN.

Biểu tình trước sứ quán, lãnh sự Trung Cộng, là không bao giờ lấy lại chủ quyền, dân chủ, tự do, nhưng chống thái thú CSVN từ trong và ngoài nước, là đi đúng đường của tiền nhân, cơ may lấy lại chủ quyền từ tay thái thú và từ đó dân tộc Việt nam mới có thể đòi lại chủ quyền tại những lãnh hải mà thái thú CSVN dâng hiến tự ý, không phải là ý muốn toàn dân. Trong nước diệt thái thú, hải ngoại trừ Việt Tân, là hai mặt trận và kẻ thù chính, để mở đường cho một quốc gia dân chủ, độc lập trong tương lai.

Phan Đông Anh


Wednesday, May 28, 2014

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ? - Sỹ Liên

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ?

Sỹ Liên

Cộng sản Việt Nam chẳng khác gì đang ngậm phải một cục xương với thịt bầy nhầy, nuốt vô thì khó, nhả ra thì uổng. “Thà đành mất nước còn hơn mất đảng” (lời của TBT Nguyễn văn Linh). Để làm sáng tỏ vấn đề tại sao cộng sản Việt Nam không dám kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân, xin trở lại Hiệp định Genève năm 1954 là một hiệp định phân chia đất nước Việt nam ra thành 
hai miền Nam, Bắc. Từ vĩ tuyến 17 chạy về phía Bắc thuộc về chánh phủ cộng sản. Phía nam vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, Phú Quốc thuộc về chánh phủ quốc gia. Do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở về phía nam vĩ tuyến 17 là thuộc về lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà, được quốc tế công nhận điều đó quá dĩ nhiên mà ai cũng biết. Ngay thủ tướng của Trung cộng là Chu Ân Lai cũng phó thự vào hiệp định 1954, có nghĩa là đã hàm ý thừa nhận. Lấy vĩ tuyến 17 để chia đôi đất nước ra làm hai miền Nam, Bắc cũng do chính Chu Ân Lai đề nghị. Nhưng ngặt một nỗi bọn u mê Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bắc bộ phủ của chúng lại quá khiếp nhược, hèn hạ, muốn lập công đền ơn, đáp nghĩa với bọn quan thầy của chúng lại quá vội vã khi bọn tàu khựa đưa ra thông báo thiềm lục địa của chúng bao gồm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào ngày 1 tháng 9 năm 1958. Thì chỉ có 13 ngày sau. Tức là vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bộ chánh tri trung ương đảng, “hồ hỡi, phấn khởi” mà đại diện là Phạm văn Đồng ký quyết định (Công hàm gọi theo cộng sản) bán nước cho Tàu cộng vào ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Bây giờ Cộng Sản Việt Nam hả miệng thí mắc quai. Giấy tờ sờ đó thì làm sao mà chối cải được, trưng ra bằng chứng lịch sử thì có từ đời vua Gia Long và Minh Mạng, nhà vua có thành lập đội Hoàng Sa từ lâu rồi, . Chọn những người tình nguyện ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi để làm lính đi giữ đảo. Nên dân Quảng Ngãi và Lý Sơn có câu hò:
Hoàng Sa đi dễ, khó về
Ra đi thì có người về thì không.
Nhưng bọn Tàu cộng cũng không kém gì, Sau khi chiếm được Hoàng Sa năm 1974. Vì chánh phủ VNCH mắc bận giữ gìn an ninh cho dân chúng trong đất liền, chống lại bọn đầu khấu Việt cộng xâm lăng, răng đen mã tấu nên hủy bỏ lịnh hành quân tái chiếm lại đảo Hoàng sa. Nên Tàu cộng có cơ hội, di chuyển một số hài cốt có từ mấy trăm năm về trước trong đất liền của họ ra chôn trên đảo Hoàng Sa để chúng nó nói đảo Hoàng Sa là của chúng, dân của chúng đã có mặt ở đó lâu đời rồi. Bây giờ muốn kiện Cộng sản Tàu ra toà án quốc tế thì Việt Nam phải làm sao?

A. Dùng Luật Biển 1982

Nếu căn cứ vào luật biển năm 1982 ký tại xứ Chùa tháp (Phnom Penh) năm 1982 chưa chắc đã thành công? Vì luật nầy không có tính cách bắt bưộc hay cưỡng chế. Trên thực tế chỉ áp dụng cho những quốc gia nhỏ hoặc ngang hàng với nhau mới có hiệu lực mà thôi. Hay bị một quốc gia lớn kiện một gia nhỏ mà quốc gia nhỏ thua kiện thì chắc chắn có hiệu lực. Trái lại quốc gia lớn thua kiện thì coi như không, nếu họ không muốn thi hành. Vì luật 1982 chỉ là để tượng trưng mà thôi. Đòi hỏi ở lòng tự giác của mỗi quốc gia hơn là tính chất pháp lý cưỡng chế bắt buộc. Nếu một quốc nhỏ đi kiện một quốc gia lớn, dù toà án xử như thế nào mà họ không thi hành thì cũng đành phải chịu. Không thể nào chế tài họ được, như con kiến đi kiện củ khoai vậy. Luật biển 1982 không có tính chất quyền hồi tối. Còn công hàm của Phạm văn Đồng ký công nhận chủ quyền của Tàu cộng ký vào năm 1958 đã trở thành quá khứ rồi. Nghĩa là trước khi luật biến 1982 ra đời đến 24 năm. Hiện nay Hoa Kỳ cũng chưa phó thự vào luật nầy. Vì Hoa kỳ rất khôn, Hoa Kỳ không ký vào luật nầy. Vì luật nầy giới hạn lãnh hải của mỗi quốc từ đất liền ra biển là 200 hải lý. Còn các đảo thì từ bờ biển ra chỉ có 12 hải lý mà thôi.

Tại sao Hoa Kỳ không chịu ký vào luật biển 1982, vì Hoa kỳ có rất nhiều đảo trong Thái Bình Dương, có nhiều đảo cách xa đất liền hơn 5,7 trăm dặm. Như Hawaii, Hoholulu ... và nhiều đảo khác nữa. Nếu Hoa Kỳ ký vào luật biển 1982 Vô tình Hoa kỳ cho phép các tàu chiến của các quốc gia khác hay thù địch lân la gần các hòn đảo của Hoa Kỳ, chỉ cách 13, 14 hải lý thì Hoa Kỳ không có quyền đuổi họ đi vì họ nại ra luật biển 1982 thì Hoa Kỳ lấy đâu mà tranh luận với họ. Hoa Kỳ không ký vào luật biển 1982 là một sự khôn ngoan có tính toán.

B. Muốn Kiện Trung Cộng Phải Trở Lại Hiệp Định Genève 1954

Muốn trở lại hiệp định Genève thì Việt cộng phải công nhận Việt Nam Cộng Hoà là một thực thể, một chánh phủ hợp pháp, không còn là Ngụy quân, Ngụy quyền nữa. Hơn nữa VNCH là một quốc gia thật sự có lãnh thổ, có dân tộc, có chánh quyền đó là ba yếu tố căn bản để cấu thành một quốc gia. Trước năn 1975 VNCH đã được các nước tự do, dân chủ trên khắp thế giới cộng nhận, có toà dại sứ nhiều nơi trong khối các quốc gia tự do. Ngoại trừ các nước cộng sản.

Hiệp định Genève mới thể hiện được Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của VNCH vì nằm về phía nam vĩ tuyến 17. Không ai có quyền chối cãi hay tự tiện lấy đất của nước VNCH đem cho nước khác là Trung cộng. Đó là một hành vi bất hợp pháp. Mang tội trộm cắp, đồng lõa cho cả người nhận và lẫn người cho. Tại sao Việt Nam không dùng lý lẽ nầy để giành phần thắng cuộc về mình trước toà án quốc tế? Việt cộng còn sợ sệt ngại ngùng và cũng dư biết. Làm như vậy là phải công nhận VNCH là quốc gia độc lập có chủ quyền về đất đai, lãnh thổ trên đất liền và ngoài biển cả trên thềm lục địa của Việt Nam. Vì vậy Việt cộng còn sợ bị kẹt vào hiệp định Paris năm 1973. Đối với Việt cộng hiệp định Paris là con dao hai lưỡi. Nếu công khai nhận VNCH là một quốc gia thực thể trước quốc tế như trên đã nói. Họ sợ, họ có thể bị nhân dân VNCH kiện họ ra toà án quốc tế vì họ vi phạm hiệp định nầy bởi họ dùng vũ lực để xâm chiếm miền Nam vào ngày 30/4/75. Trong hiệp định nầy qui định ngưng bắn tại chỗ trong thế da beo. Ai chiếm được chỗ nào sẽ ở yên chỗ đó. Không được phép dùng vũ lực để xâm chiếm lẫn nhau. Giai đoạn đầu các phe sẽ hiệp thương với nhau. Sau đó sẽ đi đến thống nhất đất nước qua một cuộc trưng cầu dân ý, phổ thông đầu phiếu. Không được quyền dùng vũ lực. Hoa Kỳ sẽ viện trợ 2 tỷ Mỹ kim để xây dựng lại đất nước. Sau khi đất nước thống nhứt qua một cuộc bầu cử dân chủ. Nhưng Cộng sản không tuân hành hiệp định, dùng vũ lực để chiếm miền Nam. Nên Mỹ không đồng ý viện trợ 2 tỷ Mỹ kim cho Việt Nam là như vậy. Mặc tình cho Việt cộng cứ nài nỉ van xin.

Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế thì đúng trên lý thuyết. Nhưng về phía nhân dân của nước VNCH có thể kiện chánh phủ cộng sản ra toà án quốc tế để đòi lại sự công bằng và bắt họ thi hành hiệp định Paris, năm 1973. Cộng sản phải rút vế miền bắc vĩ tuyến 17, giao lại miền Nam cho nhân đân miền Nam quản trị. Cộng sản đã thừa biết điều đó. Họ có muốn làm điều đó hay không là do lòng yêu nước của họ. Họ có dám hy sinh quyền lợi đảng phái, phe nhóm của họ để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ của tô tiên ngàn đời truyền lại cho cháu con hay không? Hay họ chỉ biết “thà mất nước còn hơn mất đảng.” Nếu họ không sớm thức tỉnh xoá bỏ chế độ đảng trị. Thành lập chế độ đa đảng, từ bỏ 4 tốt, 16 chữ vàng, tình hữu nghị với Trung cộng như Miến điện. Ban giao với Hoa Kỳ mật thiết thì những đoàn thể quốc gia ở hải ngoại chắc chắn sẽ bỏ qua quá khứ mà giúp họ cả tấm lòng để giải trừ tai hoạ do bọn bành trướng Bắc kinh gây ra cho dân tộc Việt Nam được trường tồn mãi mãi và lãnh thổ được vẹn toàn. Lịch sử sẽ ca ngợi họ. Còn nếu không thì họ sẽ trở thành tội đồ của lịch sử..

C. Có Nên kiện Trung Cộng Ra Toà Án Hay Không?

Có nên kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế hay không? Nên lắm chớ, kiện để giành chánh nghĩa về mình. Để cho các nước văn minh, tiến bộ tự do trên thế giới chú ý về hành động gây hấn, phi pháp của Trung công mà tiếp tay lên án và chận bớt sự hung hăng của họ đối các nước nhỏ ơ Đông Nam Á. Nhưng kiện họ thì nên kiện ở toà nào? Hiện nay trên thế giới có hai toà án. Đó là toà án La Hay và toà án quốc tế. Vậy ta nên kiện ở toà nào hay cả hai?

1. Toà Án La Hay. Nếu kiện Trung cộng ở toà nầy thì hơi khó khăn chưa chắc họ chấp nhận đơn kiện cáo của Việt Nam. Vì họ đòi hỏi những giấy tờ thủ tục khó khăn, Chưa chắc họ nhận đơn của Việt Nam.

2. Toà Án Quốc Tế. Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân thì tiện hơn. Vì toà án nầy thủ tục dễ dàng. Nhưng ngày họ nhận đơn cho đến ngày ra phiên xử đầu tiên thời gian kéo dài tối thiểu cũng một vài năm.

D. Cái Lợi Và Cái Hại Khi Kiện Trung Quốc Ra Toà

1. Nếu Trung cộng thua. Việt Nam thắng kiện. Việt Nam sẽ giành được phần chánh nghĩa về mình. Trên thực tế Trung cộng không thi hành và chấp nhận bản án do toà án phán quyết thì sao? Ai làm gì được họ, có cách nào chế tài họ được hay không? Nên nhà cầm quyền Việt Nam phải suy xét cho tường tận.

2. Nếu chẳng may Trung Cộng thắng kiện thì sao? Việt Nam sẽ mất Hoàng Sa, Trường Sa cùng vùng lãnh hải của Việt Nam nằm trong vòng lưỡi bò của họ vĩnh viễn không còn lý cớ nào đòi lại được nữa. Một chính sách ngu dân, độc tài đưa đến một tai hại vô cùng cho dân tộc Việt Nam phải gánh chịu. Vậy mà họ cứ cái gì cũng để cho đảng lo. Đảng lo là như vậy hả?

E. CHỈ CÓ MỘT PHƯƠNG PHÁP DUY NHẤT ĐỂ ĐƯA VIỆT NAM RA KHỎI SỰ XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

Cái hay nhất mà chánh quyền Việt Nam phải áp dụng để cứu nguy cho đất nước thoát khỏi hoạ xâm lăng của Trung cộng là giải thể chế độ độc đảng. Thành lập chế độ đa đảng, đa nguyên giải tán đảng cộng sản. Sửa lại hiến pháp,bỏ điều 4. Theo chế độ tự do. Cho toàn dân, các đảng phái chánh tri hoạt động tự do, công khai, có đủ quyền ra ứng cử, bầu cử để cùng nhau gánh vác việc nước. Báo chí phải được tự do bày tỏ lập trường trong vai trò ngôn luận, truyền thông của mình. Thiết lập bang giao mật thiết với các nước tự do và Hoa Kỳ. Mở cửa hải cảng Cam Ranh, cho tàu chiến của đồng minh và Mỹ ra vào thăm viếng. Cho phép hải quân Hoa Kỳ lập căn cứ tại đó. Đồng thời vận động với chánh phủ Hoa Kỳ ký hiệp ước quân sự hỗ tương lẫn nhau khi bị nước ngoài xâm chiếm lãnh hải và đất liền của Việt Nam. Chỉ có cường quốc số 1 trên thế giới là Hoa Kỳ mới có đủ sức về quân sự, chánh tri, kinh tế để cứu Việt Nam thoát hoạ xâm lăng của Trung cộng ngay bây giờ mà thôi. Mong bộ chánh trị, trung ương đảng cộng sản thức tỉnh sớm, đã muộn rồi.

Quý vị đừng lo hoặc sợ sệt. Tài sản của quý vị được bảo đảm, không bị mất. Con cái, gia đình được bảo vệ an ninh hạnh phúc, mọi việc sẽ bỏ qua. Hứa với quý vị một cách chân thành không ai trả oán, trả thù. Nếu chính quý vị và con cái quý có tài, có lòng yêu nước thật sự sẽ được ưu tiên đãi ngộ, bổ nhiệm vào các vụ công quyền hợp với khả năng con cái của quý vị và ngay cả quý vị nữa. Quý vị hãy sớm thức tỉnh, chớ ngại ngùng, chần chờ nữa, nên làm theo lòng dân, các vị sẽ không bị thiệt thòi chi cả. Đừng để đến khi toàn dân nổi dậy, tức nước vỡ bờ như kiểu Đông Âu, các vị có ăn năn thì cũng đã quá muộn. Đây tất cả là lời thành thật mong quý vị sớm thức tỉnh.

Sỹ Liên



Tuesday, May 27, 2014

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam
Giống như bao nhiêu lần trước, cứ mỗi khi Hà Nội có đủ bạo dạn để phản đối mạnh bước chân xâm lấn của Trung Quốc thì Bắc Kinh lại lôi ra cái túi gấm cố hữu.

Vào ngày 20/5/2014, để đáp lại các phản đối ồ ạt quanh việc Trung Cộng kéo giàn khoan 981 vào thềm lục địa Việt Nam, ông Lưu Hồng Dương, đại sứ Trung Quốc ở Indonesia đã tuyên bố trên báo Indonesia Jakarta Post rằng:

“Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai. Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”

Thật vậy, trong hiện tình Biển Đông và trong suốt bao năm qua, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản để Trung Cộng khẳng định cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ tại Biển Đông. Công hàm này còn làm khựng lại các ý định trong vùng Đông Nam Á muốn hợp tác với Việt Nam đem Trung Cộng ra tòa án quốc tế. Vì ngày nào chính nước chủ nhà còn thừa nhận Biển Đông thuộc Trung Cộng, thì việc kéo Việt Nam nhập bọn chỉ làm cho các lý cớ kiện tụng của họ yếu đi mà thôi.

Bắc Kinh biết rõ công hàm Phạm Văn Đồng là khúc xương khó nuốt của Hà Nội. Và càng nhìn Hà Nội loay hoay tránh né khúc xương đó, Bắc Kinh càng khai dụng để lấn tới. Cho đến nay, giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn loay hoay tránh né bằng 2 cách rất vô ích sau đây:

Cách thứ nhất là cãi chày cãi cối qua miệng các quan chức như cựu trưởng ban biên giới Lê Công Phụng, cựu trưởng ban biên giới Trần Công Trục, và gần đây nhất là Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, vào ngày 23/5/2014. Lập luận của Ban Tuyên Giáo Trung Ương là: vì các chữ Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc tới trong bức công hàm nên không hề có chuyện thừa nhận 2 quần đảo đó là của Tàu. Hoặc bức công hàm chỉ thừa nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc tính từ bờ thôi chứ không nói tính từ bờ nào.

Đây là kiểu lý luận coi tất cả dân Việt Nam là người mù chữ. Nếu lý luận này đem ra trước quốc tế thì lại càng là trò diễu dở và làm lùn thêm mức uy tín vốn đã thấp của Hà Nội. Vì công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 tệ hơn thế nhiều. Nó thừa nhận nguyên cả vùng biển mà Trung Cộng tuyên bố chỉ 10 ngày trước là hải phận Tàu và còn ghi rõ Việt Nam "ghi nhận", "tán thành", và hứa sẽ "tôn trọng". Đó chính là đường lưỡi bò 9 vạch. Vùng biển này không chỉ bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn bao luôn từ 70% đến 90% toàn vùng Biển Đông, tùy theo cách tính. Nguyên văn cốt lõi của bức công hàm Phạm Văn Đồng là:

"Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển."

Công luận quốc tế biết đọc và đã đọc trọn vẹn cả tuyên bố ngày 4/9/1958 của Bắc Kinh và công hàm ngày 14/9/1958 của Hà Nội. Vì vậy, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN phải bỏ hẳn những cố gắng vặn vẹo ý nghĩa văn bản này một cách vô ích. Chỉ có con đường duy nhất là phủ nhận giá trị của toàn bộ bản công hàm Phạm Văn Đồng.

Tuyên bố của Chu Ân Lai ngày 4/9/1958
(1958年9月4日全国人民代表大会常务委员会第100次会议通过 )
一九五八年九月四日全国人民代表大会常务委员会第一00次会议决定批准中华人民共和国政府关于领海的声明。
附:中华人民共和国政府关于领海的声明中华人民共和国政府宣布:
(一)中华人民共和国的领海宽度为十二海里(▲)。这项规定适用于中华人民共和国的一切领土,包括中国大陆及其沿海岛屿,和同大陆及其沿海岛屿隔有 公海的台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。(二)中国大陆及其沿海岛屿的领海以连接大陆岸上和 沿海岸外缘岛屿上各基点之间的各直线为基线,从基线向外延伸十二海里(▲)的水域是中国的领海。在基线以内的水域,包括渤海湾、琼州海峡在内,都是中国的 内海。在基线以内的岛屿,包括东引岛、高登岛、马祖列岛、白犬列岛、鸟丘岛、大小金门岛、大担岛、二担岛、东▲岛在内,都是中国的内海岛屿。
(三)一切外国飞机和军用船舶,未经中华人民共和国政府的许可,不得进入中国的领海和领海上空。任何外国船舶在中国领海航行,必须遵守中华人民共和国政府的有关法令。
(四)以上(二)(三)两项规定的原则同样适用于台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。台 湾和澎湖地区现在仍然被美国武力侵占,这是侵犯中华人民共和国领土完整和主权的非法行为。台湾和澎湖等地尚待收复,中华人民共和国政府有权采取一切适当的 方法,在适当的时候,收复这些地区,这是中国的内政,不容外国干涉。一九五八年九月四日于北京全国人民代表大会常务委员会
 Google translate:
 (Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Hội nghị lần thứ 100)

    
Tháng 4 , cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 1958 Nhân dân quyết định phê duyệt 00 báo cáo đầu tiên về lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân của chính phủ Trung Quốc .

    
Phụ lục: Tuyên bố về Cộng hòa Nhân dân Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc của Trung Quốc công bố lãnh hải của chính phủ :

    
(A) Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là chiều rộng của lãnh hải của mười hai hải lý (▲). Yêu cầu này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục và hải đảo và đất liền và các hải đảo trên vùng biển của Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa trong cát, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. (B) vào đất liền và ngoài khơi hòn đảo của Trung Quốc kết nối với các vùng lãnh hải đất liền ra bờ biển và dọc theo mỗi thẳng điểm cơ bản dòng mỗi trên bờ biển bên ngoài của hòn đảo giữa đường cơ sở, mở rộng ra bên ngoài từ đường cơ sở mười hai dặm biển (▲) vùng biển là vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trong vùng nước trong đường cơ sở, bao gồm vịnh Bột Hải, eo biển Qiongzhou, là biển nội địa của Trung Quốc. Ở các đảo trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, hạ cánh cao, quần đảo Mã Tổ, quần đảo chó trắng, chim Okajima, kích thước Jinmen Đảo, Tam Đảo, đảo Erdan, Đông ▲ Island, là đảo thuộc nội hải của Trung Quốc .

    
(C) tất cả các tàu và máy bay quân sự nước ngoài, mà không có sự cho phép của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sẽ có vùng lãnh hải của Trung Quốc và trên biển lãnh thổ. Bất cứ tàu bè nước ngoài trong vùng lãnh hải của Trung Quốc phải tuân thủ các luật và quy định có liên quan của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.

    
(D) ở trên (b) (c) của hai quy định của cùng một nguyên tắc áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. Đài Loan và Penghu hiện còn đang bận rộn với quân đội Hoa Kỳ, đó là vi phạm bất hợp pháp của toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Penghu đang chờ hồi phục, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích hợp, khi thích hợp, để phục hồi các khu vực này, đó là công việc nội bộ của Trung Quốc, không can thiệp nước ngoài. 04 Tháng Chín 1958 tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc của Hội nghị Bắc Kinh.
Cách thứ nhì là chỉ nói riêng với người Việt Nam. Nhà cầm quyền nay đã đưa ra đủ loại biện minh, như lý do gởi bản công hàm là vì thời điểm đó "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc”; như bản công hàm đó "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao"; như bản công hàm đó không có giá trị pháp lý vì 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa; như công hàm đó không có giá trị vì "chưa được Quốc hội thông qua" cũng như “Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”; v.v....

Tất cả các luận điểm đó là một bước tiến dài nếu nhìn lại các tuyên bố của thời trước và ngay sau 1975 của các lãnh đạo cao nhất đảng CSVN, như "Trung Quốc chỉ giữ các đảo giùm ta", hoặc "chẳng thà để Trung Quốc giữ còn hơn để các đảo nằm trong tay chính quyền ngụy",.... Nhưng các bước tiến đó vẫn hoàn toàn vô ích đối với chủ quyền đất nước ngày nào mà nhà cầm quyền Việt Nam chưa dám nói công khai những luận điểm đó trước thế giới.

Nói cách khác, đã đến lúc giới lãnh đạo CSVN đừng làm việc vừa thừa thãi vừa kỳ cục là cứ cố gắng thuyết phục người Việt Nam rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trên mọi bình diện lịch sử, pháp lý, v.v... Tại sao cứ đòi tranh luận và thuyết phục những người ĐÃ đồng ý rồi. Có người Việt Nam nào còn ngờ vực điều đó đâu! Trong khi khối người cần nghe những điều đó một cách chính thức từ miệng nhà nước Việt Nam là thế giới bên ngoài, đặc biệt là các đầu lãnh tại Bắc Kinh, chứ không phải người Việt Nam!

Hiển nhiên ai cũng biết Hà Nội tránh né là vì đang lo sợ phản ứng của Bắc kinh một khi họ công khai phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng. Nhưng ngược lại, việc phủ nhận đó sẽ mở rộng con đường đưa Bắc kinh ra trước các tòa án quốc tế; mở rộng cửa cho các chính sách khác của Việt Nam để đối phó với đại họa Bắc Thuộc; chấm dứt cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ngay trong nội bộ giới lãnh đạo đảng CSVN; và đặc biệt là ngưng vĩnh viễn cảnh trói tay các chiến sĩ Việt Nam làm bia bắn cho hải quân Tàu như thời Trường Sa 1988.

Không ai có thể làm công việc phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng thay cho các lãnh tụ đảng và nhà nước CSVN được, vì họ thừa nhậnchủ thể tiếp nối chính phủ VNDCCH từ thời ông Phạm Văn Đồngcũng tự nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất tại Việt Nam hiện nay.

Cửa sổ cơ hội cho lãnh đạo đảng CSVN chuyển hướng cũng không còn nhiều. Với vận tốc xâm lấn từ ngoài khơi đến sâu trong đất liền và tràn lan trên cả nước hiện nay, lằn mức "không cưỡng bánh xe xâm lược được nữa" đang đến rất gần.

Vấn đề còn lại là lãnh đạo đảng CSVN đã đủ can đảm để loại bỏ những kẻ thề thốt "không ăn ở hai lòng với Trung Quốc" ra khỏi hàng ngũ chưa? Đã nhận ra sự dại dột và từ giã chính sách "thà mất nước chứ không mất đảng" chưa? Vì một khi nước vừa mất thì kẻ mà Bắc Kinh truy diệt đầu tiên chắc chắn là đảng.

source: net



Sunday, May 25, 2014

Kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn cộng sản áp dụng mặt trận kinh tế để làm suy yếu ngụy quyền việt gian cộng sản Việt Nam


Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn,
Cố Vấn của CĐ/NVQG/HK
Thưa quý vị,
Vài ngày trước đây, tôi có dịp trình bày suy tư của tôi về một phương cách khả thi để chúng ta có thể đánh bại Cộng sản Việt Nam.

Hôm nay, tôi xin khai triển ý nghĩ của tôi nhằm mục đích góp ý với quý vị trong việc đi tìm phương cách để đánh bại Công Sản Việt Nam.

Chúng tôi nhận định rằng chỉ có người dân trong nước mới có thể đánh đổ chính quyền csVN.

Tập thể những người Hoa Kỳ gốc Việt Nam và tập thể những người Úc, Pháp gốc ViệtNam thì chỉ

có thể yểm trợ cho những nỗ lực của người dân trong nước mà thôi.

Đặc biệt thì chúng ta cần phát triển nỗ lực đánh bại Cộng Sản bằng phương thức kinh tế là mặt trận

mà chúng ta có khả năng và có thực lực.

Theo thống kê của những nguồn đáng tin cậy thì hiện nay Tập thể người Hoa kỳ gốc Việt Nam và tập thể người Úc, người Pháp v.v. gốc Việt Nam đã tiếp tế trên mười tỷ bạc (10 billion US Dollars) cho csVN dưới nhiều hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt phải kể là:

Đem tiền về đầu tư ở Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Đi du lịch Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Gửi tiền cho thân nhên, bè bạn tại Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Mua sản phẩm “Made in ViệtNam” là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN
Nếu chúng ta cắt được đường tiệp tế đó thì chúng ta sẽ gây được ảnh hưởng dây chuyền.

csVN sẽ bị túng quẫn, csVN phải tìm cách moi móc tài sản của người dân trong nước.

Vật giá sẽ leo thang. Tiện ích sẽ bị giảm thiểu. Cuộc sống sẽ bị khó khăn. Dân chúng sẽ phẫn nộ.

Từ đó người dân sẽ oán thù đảng csVN.

Người dân sẽ đứng lên đòi hỏi để thay đổi và lật đổ chính quyền.

Trước đây Tiến Sĩ Nguyễn Văn Lương đã có trình bày những ý kiến nầy.

Một vị sĩ quan cấp tướng cũng có lời kêu gọi bà con để cắt nguồn tiếp tế ngoại tệ nầy.

Nhưng, những lời kêu gọi đó không được bà con đáp ứng.

Con số ngọai tệ chui vào túi của đảng csVN tăng lên dần theo năm tháng.

Lần nầy chúng tôi muốn khai triển những lời kêu gọi trước đây, chúng tôi chỉ muốn kêu gọi đến lương tâm của mỗi người trong quý vị mà thôi.

Bí quyết là mỗi người trong Tập thể của chúng ta chỉ cần hứa với lương tâm của mình bốn điều:
a. Không đem tiền về đầu tư tại ViệtNam.
b. Không đi du lịch ViệtNam.
c. Không gửi tiền về ViệtNam.
d. Không mua sản phẩm sản xuất từ ViệtNam.
Khi đã tự hứa với lương tâm mình rồi tức là quý vị đã góp phần đắc lực để cắt giảm nguồn tiếp tế ngoại tệ cho Đảng CSVN. Sau đó, mỗi khi quý vị có nảy ra một ý định đầu tư hoặc du lịch ViệtNam, v.v... thì lương tâm của quý vị sẽ bị cắn rứt và lương tâm của quý vị sẽ là động lực ngăn cản để quý vị từ bỏ những ý định cung cấp ngoại tệ cho csVN đó đi.

Tôi tin rằng quý vị còn có lương tâm.
Hãy hứa với lương tâm mình đi nào.

Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn




Saturday, May 24, 2014

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu Biểu Tình Chống Việt cộng Bán Nước, Chống Tàu cộng Xâm Lược

 
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu
Biểu Tình Chống Việt cộng Bán Nước, Chống Tàu cộng Xâm Lược
trước sứ quán Việt cộng tại
6 Timbarra Crescent, O'Malley, ACT, 2606
Thủ Đô Canberra Úc Châu
Ngày 24-5-2014


Trước sứ quán Tàu cộng tại Canberra,
15 Coronation Dr Yarralumla ACT.