Thursday, August 28, 2008

Chuyện phiếm. Thiền sư Thích-Ngất-Vẹm, giáo chủ giáo phái "Tu Ôm"


Trương Minh Hòa

"NGU TỒI, tâm động, giả NGỒI TU.
NGÁO BỊP chân tu, NGHIỆP BÁO từ.
TIỀN THU, thuyết pháp, TU THIỀN dạy.
CỘNG NGHIỆP dẫy đầy, KỊP NGỌNG ư?
NHÂN LÀNH, chân lý, NHANH LẦN đến.
CẢ QUÁI ma kia, CÁI QUẢ bù.
BAO DUNG phòng kẻ BUNG DAO giết.
BỊP NGHIỆT tạo đà, BIỆT NGHIỆP như"

Người Việt Nam hai phía Quốc gia, Cộng Sản và ngay cả một số người ngoại quốc, nhất là thành phần: "phản chiến khuynh tả" trong cuộc chiến tranh chống lại đại họa "khủng bố" Cộng Sản toàn cầu, mà điểm nóng khủng bố là tại miền nam Việt Nam, không lạ gì nhân vật mang tên THÍCH NHẤT VẸM.

Một người có nhiều huyền thoại từ ngày mới đi tu đến nay, nghe đâu đang được một số người, không loại trừ Việt Cộng, hay chính trong cơ sở tu học LÀNG-MÔN, không nên nói lái là: "LỒN-MANG", làm mất hay giảm đi ý nghĩa "đứng-đái" (hay còn gọi là đứng đắn) của một tông phái tu "hiện đại", được nâng cấp từ thiền sư đến Phật Sống một cách "không người lái", đang được Việt Cộng dùng làm con bài "ba lá Phật Giáo" lần nữa sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì cái "danh hiệu Phật Sống" là Bồ Tát tại thế như Đức Đa Lai Đa Ma, vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng, dành cho thiền sư Thích Nhất Vẹm, được coi là "quân hàm Phật Sống", sự tấn phong "quân hàm" nầy được nhìn thấy qua nhân vật lừng danh Việt Nam là Dũng Lò Vôi, một trong những đứa con nuôi có tầm vóc "chiến lược" của Sáu Dân (Võ Văn Kẹt), đứa con nuôi rất là "trung với bác, hiếu với đảng" nầy, chính người có công xây dựng một "cơ sở KINH DOANH PHẬT GIÁO" với ngôi chùa Đại Nam Quốc Tự "hoành tráng" chiếm một diện tích hơn 500 mẫu tây ở tỉnh Bình Dương, có tấm vóc quốc tế không xa, như các tụ điểm du hý, du lịch ở nước "kẻ thù số một" như Disney land vậy; sau nầy Đai Nam Quốc Tự cũng dám dây dựng thêm khách sạn 5 sao, sân đánh golf, nhà hàng bán đủ thứ thứ ăn "đại đồng" là không phân biệt chay-mặn (tức là lằn ranh CHAY-MẶN bị xóa bỏ) và nếu muốn hướng dẫn "Đạo Phật Ngày nay" đi theo con đường "hòa hợp hòa giải" giữa Phật và Ma quái, thì cũng nên thành lập thêm "đội ngũ gái gọi" để phục vụ khách thập phương, nhất là các du khách nước ngoài, muốn tới nước Việt tìm hiểu đạo, có cái nhìn "cởi mở" với lối thực hành, qua ngôi chùa Phật được "định hướng và gắn liền theo xã hội chủ nghĩa".

Dũng Lò Vôi là người thay mặt đảng để thực hiện "chính sách tấn phong quân hàm Phật" cho tên "Đại Ác Quỷ Vương" Hồ Chí Minh, nên cái chánh điện ngôi chùa lắm bạc nhiều tiền với tượng Phật, Hùng Vương và Hồ Chí Minh, nơi nầy luôn túc trực đội ngũ công an trong lớp áo "nâu sòng" canh coi "như mắt khóm tai bèo", sẵn sàng báo cáo với các cơ sở công an khi "phát hiện" ra những Phật tử thuần thành nào có ý đồ chống đảng và nhà nước, có âm mưu lật đổ chế độ mà ra tay triệt hạ để "bảo vệ đạo pháp theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; công an mặc áo sư, chính là "giai cấp tu hành ưu việt, đỉnh cao trí tệ tu học, tu hành, tu đạo lẫn đạo tu", đang dắt tay những Phật Tử thuần thành, tu theo Tam Tạng lúc chưa thỉnh được kinh, cùng "dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường của đảng".

Ngài Thiền sư, sau nầy thu tiền trường kỳ, thu tiền không ngừng nghỉ và trở thành nhà triệu phú Mỹ Kim đáng được lên chức TIỀN-SƯ, nghe đâu sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Từ năm 1942 đi tu ở chùa Bảo Quốc (Huế). Sự nghiệp tu hành trong "quá trình đạo tu" của Thích Nhất Vẹm cũng có nhiều huyền thoại, bí mật, chưa ai "bật mí", không ai biết Ngài đi tu, thọ giáo với sư nào? Cũng giống như huyền thoại nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký, vị thầy bí mật đã truyền dạy cho 72 phép thần thông, để sau nầy làm loạn thiên đình, khiến Phật Bà Quan Âm phải dùng mẹo để nhốt dưới Ngũ Hành Sơn suốt mấy trăm năm. Ảnh hưởng của thiên sư, trước đây là đại đức Thích Nhất Vẹm khá lớn tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đặc biệt là trong giới Phật Tử trẻ thời ấy, say mê những quyển sách do Ngài viết ra như quyển "TÃ HỒNG CÀI HÁNG" nghe nói là viết trong rừng, mật khu ở Tây Ninh vào năm 1961, cũng là cảm hứng của các nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ" động não ra âm" và sau nầy nghe nói đến quyển "Đường Xưa Mây Trắng"....

Đại đức Thích Nhất Vẹm là phát ngôn viên hải ngoại của khối Phật Giáo Ấn Quang, do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, Ngài nầy có "quá trình tu hành chất lượng cao" lắm, tục danh là Phạm Văn Bồng, tự là Kiều Tuấn Cương, gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1957 tại Sơn Tịnh, Quảng Ngãi ..... Thích Nhất Vẹm được Khối Phật Giáo Ấn Quang gởi ra hải ngoại hoạt động khuynh tả và đồng thời cũng tránh vụ Ngài Nhất Vẹm, một sư trẻ, có dạy vài giờ ở viện đại học Vạn Hạnh, đã có mối quan hệ HỮU CƠ khi mà nhiều phen HỞ-CU với một tín nữ trẻ đẹp có cái tên Tây là "Fleurette" tức là "Đóa Hoa Nhỏ". Chắc cái "CƠ DUYÊN" mà hai người đã cùng "dắt tay nhau tìm động hoa vàng" để cùng nhau tìm vào "õi non bồng nước nhược" tại thế, trở thành nguồn "triết lý" để sau nầy Thích Nhất Vẹm lấy làm "cơ sở tu đạo, đạo tu" (đừng nói lái mà sai ý nghĩa đạo tu) mà sáng tạo lẫn tối tạo ra một thiền tông hiện đại, sau nầy ai cũng biết là THIỀN TIẾP HIỆN, một trong những tông phái tu học HIỆN ĐẠI, vì tu theo lối nầy, khi mà hai người khác phái cùng nhau ngồi thiền trong bóng tối là mau đạt "chất lượng" và "công quả", nên khi tu là phải "tắt hết đèn" thế là không HẠI ĐIỆN, rất phù hợp với cao trào bảo vệ môi sinh toàn cầu mà thế giới đang quan ngại cái "tình huống" trái đất nóng dần cho lượng khí thải nhà kính "quá tải".

Tại hải ngoại, với chính sách do các sư khối Ấn Quang thời đó chỉ đạo, nhằm liên kết chặc chẽ với Phong Trào Phản Chiến khuynh tả, gây ồn ào, công tác "khẩn trương thời thượng" là nhằm ủng hộ cho phái đoàn Việt Cộng ở hội đàm Paris từ năm 1968 đến khi đại tướng ngố Văn Tiến Dũng giựt mình tưởng như nằm mơ về cái gọi là "đại thắng mùa xuân 1975" mà bản nhạc mang tên "Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh" diễn tả đúng tâm trạng chiến thắng bất ngờ, chó ngáp phải ruồi qua câu: "tuổi lớn rồi mà như ngây thơ, ba mươi năm ta mới gặp nhau, vui sao nước mắt lại trào?", Ngài Nhất Vẹm có cùng chí hướng với nữ tà tử Jane Fonda (người có huy chương Hồ Chí Minh, có biệt danh là Hà Nội Jane), với mục tiêu hàng đầu "chống Mỹ cứu nước" và "đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào", rất hồ hởi nghe theo lời dạy Hồ Chủ Địt "tiến lên chiến sĩ đồng bào" ....

Ngài được coi là "trí thức Phật Giáo" nặng ký như ngày nay các thứ trí thức Phật Giáo thuộc "Tứ Quái Già Lam, Về nguồn, về hang PÁC PÓ" vậy, được những người đồng hành "yêu chuộng hòa bình một chiều, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" biết đến; năm 1967, quyển sách mang tựa đề là "Lotus in the sea of fire" (Hoa Sen trong biển lửa) nhằm xuyên tạc chính quyền miền Nam đàn áp tôn giáo, nhất là thời đệ nhất Cộng Hòa, chụp mũ tổng thống Ngô Đình Diệm và cả "Buddha child" Cẩu Cao Cầy sau vụ bạo loạn năm 1966; với cái chết do sự tự thiêu của huề thượng Thích Quảng Đức, cho Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc .... theo tổ chức ACRP (Asia Conference on Religion and peace) thì quyển nầy được dịch ra nhiều ngôn ngữ, chắc chắn là tài liệu "cực kỳ quí giá và chất lượng cao" của phong trào phản chiến và Cộng Sản sử dụng trong công tác tuyên truyền xuyên tạc, cô lập chính phủ miền Nam tự do, gây áp lực đến các nước có mang quân sang giúp Việt Nam chống lại làn sóng đỏ, chủ nghĩa vô thần Cộng Sản đang đe dọa sự an bình trong khu vực ... một điểm cần lưu ý là: nếu miền Nam không có tự do tôn giáo, thì làm gì các sư, sải, ni ... Phật Tử biểu tình thoải mái từ đệ nhất sang đệ nhị Cộng Hòa?

Những hoạt động của Thích Nhất Vẹm thật ồn ào, được coi là "núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ" hay là "mượn áo cà sa, thờ ma Cộng Sản" từ lâu nhưng vì cái bình phong đạo giáo làm mờ mắt một số người có tập quán "trọng Phật Kính Tăng" một cách máy móc nên Thích Nhất Vẹm mới có môi trường, đám đông ủng hộ, núp bóng để tiếp tục làm lợi cho bọn quỷ đỏ vô thần Việt Cộng, nổi bật là tháng 10 năm 1972, tại Hội Nghị Phật Giáo ở Tokyo (Nhật Bản), Thích Nhất Vẹm lợi dụng diễn đàn để đòi Mỹ rút quân, thôi giúp miền Nam chống Cộng hầu miền Bắc dễ thôn tín.

Sau ngày 30-4-1975, lửa cháy nhà lòi ra mặt chuột, Khối Phật Giáo Ấn Quang huy động hơn 500 Phật Tử để nghinh đón "những đoàn quân rừng rú" về thành phố "nối vòng tay lớn ... có lông lá và móng nhọn" tay cầm súng A.K, mã tấu và một số chức sắc các tôn giáo đã xuất đầu lộ diện là tay chân của quỷ, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu cũng lộ diện hẳn từ đầu đến chân, họ rất ư "hồ hởi phấn khởi" nhập bọn; nên từ năm 1981, những chức sắc nầy hợp cùng Mặt Trận Tổ Quốc lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ (Hà Nội). Thích Nhất Vẹm cũng thôi không làm phát ngôn viên hải ngoại của Phật Giáo, vì "nhiệm vụ đã hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng", nên khối Phật Giáo chân chính do hòa thượng Quảng Độ, Huyền Quang giao cho ông Võ Văn Ái làm phát ngôn viên, mãi đến nay. Thích Nhất Vẹm trở thành "tịnh khẩu" trước sự đàn áp tôn giáo dã man của đảng Cộng Sản trong nước với các đồng đạo và Phật Tử của mình. Ngài đã từ bỏ chức sắc đại đức, thượng tọa, xưng Thiền Sư, và dạy Thiền, thu phục đệ tử, phát triển Business cho đến ngày nay, cơ nghiệp có phần vững chắc, thu nhập cao, là nghề không vốn và có thể khỏi đóng thuế qua những số tiền cúng dường của các đệ tử Việt, Tây hậu hỷ:

"Nhất Vẹm thật thật, lúc hư hư.
Khi thì thượng tọa, lúc thiền sư.
Áo giấy cà sa đi với quỷ.
Xa rời chánh đạo, lẫn Chân Như"

Trong thời gian bị giam cầm, trù dập, hòa thượng Quảng Độ đã gởi tất cả 300 bài thơ cho đồng đạo "thân thương" là Thích Nhất Vẹm ở Pháp để hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ đạo pháp, thế mà Nhất Vẹm nỡ lòng nào ém nhẹm, sau nầy mới biết, đúng là "giao trứng cho ác". Sự im lặng "có ý nghĩa" của Nhất Vẹm thật có lợi cho đảng, vì nếu Nhất Vẹm nêu lên sự đàn áp tôn giáo tại Việt Nam, thì chắc chắn có nhiều người ngoại quốc, Phật Tử gốc Việt thức tỉnh ủng hộ, gây khó khăn cho đảng. Ngài tạm "lùi một bước để chuẩn bị ba bước tiến" trong tương lai, là điều có thể nhìn thấy sau nầy. Cũng giống như tất cả các THẦY, ai cũng muốn có nơi tu hành ổn định là CHÙA, nên mới có tên gọi "THẦY CHÙA" tức là thầy là có chùa để ở và tu, thờ ... ngạn ngữ có câu: "đi tu mà lựa ngôi chùa lớn cho đỡ tấm thân" ai đi tu mà lựa chùa Bà Đanh là buồn lắm, khó đạt tới giác ngộ lắm! Nên Làng-Môn ra đời. Vì muốn phát huy đạo pháp lẫn cơ sở tôn giáo cho lớn, có nhiều người tới lui "còn đời, còn đạo, còn tăng, ta phát triển cơ sở gấp mười lần qua", trong tinh thần THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI:

"Tiền thu như nước sông Đà.
Tiền chi như thể giọt cà phê phin"


Nên sư nào cũng thành lập Chùa ở hải ngoại là điều dễ hiểu, ở Úc Châu (tiểu bang N.S.W) có hòa thượng Thích Phước Huệ là vị chức sắc cao cấp, nhưng không nằm trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước do hòa thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo; Ngài Phước Huệ được hòa thượng thượng thủ Thích Tâm Châu ghi trong quyển Bạch Thư, phát hành từ chùa Phật Quang năm, Victoria, Australia 1994, trang 41 có đoạn ghi sau đây:

"Chùa Phước Huệ của Giáo Hội, nhưng sau Hòa Thượng Tắc Phước (Phước Huệ) ngầm sang tên riêng cá nhân mình. Theo bản tường trình của thầy Thích Quảng Ba, viện chủ Tu Viện Vạn Hạnh tại thủ đô Úc, đề ngày 5-6-1993, gửi về Hòa Thượng Huyền Quang tại Việt Nam như sau: đế nghiệp Thích Tắc Phước đã vững chắc, vì chùa Phước Huệ xây xong, giá 3 triệu, đã lén-vì cả Giáo Hội không ai biết gì cả-đổi xong tên chủ quyền chùa từ của Giáo Hội qua cá nhân Thích Tắc Phước và đệ tử ruột đứng tên".

Được biết chùa Phước Huệ là nơi xuất phát từ thiện nhộn nhịp ở Úc Châu, có đài SBS dành nhiều thời giờ để quảng bá khắp nước Úc với qũy cứu tế Phật Giáo VABAT, có thể nói là phái đoàn bác sĩ Mắt Cườm là do nơi nầy chủ xướng, nên người cầm đầu phái đoàn thường là các Thầy, chứ không phải là bác sĩ. Từ nhiều năm qua, phái đoàn mổ mắt cườm về nước thoải mái, hợp cùng các viên chức nhà nước đi làm công tác từ thiện, đi đứng tự do nhiều nơi để đem ánh sáng cho những người bất hạnh với công thức: "tiền do dân tỵ nạn đóng góp, bác sĩ thực hiện, dưới sự hướng dẫn và phối hợp của viên chức nhà nước". Hy vọng phái đoàn nầy nên ra tận Hà Nội, mổ mắt CƯỜM ĐỎ cho mấy chục tên cán bộ trung ương đảng, để chúng sáng mắt, trả tất cả quyền sống cho người dân Việt Nam, thì đồng bào Việt Nam rất mang ơn phái đoàn.

Làng Môn qui tụ một số Phật Tử Việt, nhưng đa số là người Tây Phương, tỏ ra giác ngộ với lối Tu THIỀN TIẾP HIỆP, được Nhất Vẹm "sáng tạo lẫn tối tạo", coi là "cuộc cách mạng Phật Giáo thời thượng" mà Làng Môn cũng giống như các Cult (giáo phái) ở Mỹ, Nhật ... với giáo chủ là thần thánh, có quyền ép môn đệ làm theo bất cứ những gì mà mình muốn. Thiền Tiếp Hiện theo lối tu của Cult Làng Môn không phải mới lạ gì trong nhân loại, nhưng Phật Thích Ca đã bỏ hết tất cả để tìm con đường giải thoát, tuy nhiên những người ở các thế hệ sau nầy dù có người đã "chọn con đường của đức Phật" mà tâm vẫn còn vướng nợ phàm trần, họ tìm ra con đường khác để "tu đạo", làm cho những vị tu hành chân chính chán ngán. Đó là những vị CHÂN TU, nhưng sau nầy lại CHÁN TU mà đi theo con đường "đạo tu" để thường xuyên "tu đạo".

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở đàng trong do chúa Nguyễn Phước Chu thống lãnh, có một vị sư ở Trung Hoa tên là Thích Đai Sán, mang một thuyền lớn sang, không phải để hoằng hóa đạo pháp, nhưng Ngài Đại Sán dâng cho chúa Nguyễn một tập "Đồ hình Tố Nữ" với những hình vẽ sống động như hình 36 kiểu, đây là đề tài được các hãng phim ở Holliwood "động não" làm ra những cuốn phim R, để hướng dẫn con người "tìm đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu". Chúa Nguyễn rất tâm đắc, nên cúng dường cho Ngài 5 ngàn lạng vàng và kêu gọi dân đóng góp những sản phẩm địa phương để cho sư mang về Tàu; có thể nói Thích Đại Sán là người đi trước, mở đường cho thiền Tiếp Hiện đấy!.

Ở Úc Châu, vài năm trước đây, có vài ngôi chùa, dường như bị ảnh hưởng thiền Tiếp Hiện nên trong hội chợ Tết có tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Áo Dài ngay trong khuôn viên chùa, để cho các vị chân tu nhìn mà cảm thấy "thanh tâm trường an lạc" hầu dễ tiến tới "bến giác". Như chuyện bên Nhật, có vị thiền sư nọ tu mấy mươi năm, ngồi bên khung cửa sổ với cành đào như năm nào, một hôm ông nhìn thấy "cành hoa đào nở, bỗng nghe lòng giác ngộ". Cũng ở Úc Châu, tiểu bang NSW mấy năm trước có một vị sư ngoài tứ tuần, hình như cũng có "điều nghiên" môn thiền Tiếp Hiện rất kỹ và đã đạt tới "giác ngộ" cao, nên hôm nọ ông giả dạng "người phàm" đón một nàng tiên áo trắng đang mời khách ở bên đường để mời về để "tu đạo" có trả tiền thù lao "bán trôn", nào ngờ nàng tiên áo trắng ấy chính là một nữ cảnh sát Úc giả dạng, thế là vị sư nọ đành ra hầu tòa, báo đăng; nghe đâu vị sư nầy cũng được các thiện nam tín nữ góp tiền xây cho một ngôi chùa, tiếp tục "tu đạo" cho mau "đắc quả"...

Thiền Tiếp Hiện của Làng Môn do thiền sư Thích Nhất Vẹm sáng tạo, cũng không ngoài mục đích cho tâm, thân "trường an lạc lẫn khoái lạc" để mau đắc quả đấy! Ngày nay thiền Tiếp Hiện trở thành một "tông phái thời mạt pháp thời thượng" được phổ biến rất là rộng rãi, lan như "dịch cúm gia cầm", nên giới xem cõi đời là cõi tạm cũng biết thế nào là "đường vào thiền môn có trăm lần vui có vạn lần sầu", thế là phải tìm cách thoát khỏi vòng "khổ ải". Theo quan niệm của đức Phật với tứ diệu đế thì ai cũng thầm nhuần "ĐỜI LÀ BỀ KHỔ" nhưng tông phái Tiếp Hiện của giáo chủ Thích Nhất Vẹm khai sáng lẫn khai tối, nhằm hướng dẫn và biến "ĐỜI LÀ BỂ SƯỚNG", mới là tài. Thế nên các sư gốc công an trong nước cũng đã tạo ra "cái bề sướng" ngay trong chùa để mau đạt đạo; ở hải ngoại cũng có nhiều vị cao tăng đã âm thầm gia nhập và thực hành thiền Tiếp Hiện, như hòa thượng Thích Giác Nhôm, biệt danh ẤT CÁI VỒN, là người từng thực hành theo Tiếp Hiện ở Mỹ và cũng bị sư đệ là Thích Giác Ngỡi "phát hiện" lúc đang cùng với một người khác phái "thực hành thiền tiếp hiện" trong tịnh thất riêng ở chùa; được biết Ất Cái Vồn, là người cùng tỉnh với Sáu Dân (Võ Văn Kẹt), nổi tiếng là người biết quí trọng Trời, Phật, nên cái gì có dính tới tờ giấy in câu "THE GOD WE TRUST" là ngài quí lắm; năm nọ, trong cuốn lịch phát hành, Ngài có đề hai câu thật "chất lượng" như sau:

"Thiện nam tín nữ nơi nơi.
TIỀN mà nhận được, thầy MEO tới liền".

Hòa Thượng Thích Giác Nhôm (hiện đang chờ về chầu Diêm Vương vì bệnh nặng, bác sĩ chê , hao tổn quá sức khi đi dự Lể VESAK ở Việt Nam mới đây) bôn ba để "thu tiền" trong ta bà thế giái đại đồng, Ngài bôn ba từ nhiều nơi trên đất Mỹ, sang tận Úc Châu để thành lập những cơ sở, thay mượn thiền môn làm thương mại. Nghe đâu Ngài đang phối hợp với cánh Phật Giáo Việt Nam THỨC NHỐNG Phước Huệ Công Đức Tùm Lum, Tà La ... với sư Minh Hiếu (từ Việt Nam sang tu, vào năm 1997, có lần đi chu du cùng với ca sĩ Minh Hiếu, là phu nhân trung tướng Vĩnh Lộc, có qua Úc Châu, mở đường sang thế giới Tây Phương Cực Lạc), huy động Phật Tử "cúng dường theo lối đóng hụi chết" mà không bao giờ hốt hụi, là hình thức "CÔNG ĐỨC HIỆN ĐẠI"; theo đó, Phật tử nào đi chùa, ghi tên và được mời đóng tiền hàng tháng để cho ngôi chùa "mãi mãi xinh tươi, đời đời bền vững".

Thiền Tiếp Hiện là tông phái dễ tu, dễ học, dễ "giác ngộ", là môn tu "ĐẠI CHÚNG" khi gặp phải người khác phái, lúc mà cái "coup de foudre" tác động mạnh là giác ngộ "con đường tình ta đi", thì đưa đến "ĐỤNG CHÁY", và CHÚNG SANH khi thành đạt cái quả trở thành "CHÚNG ĐẺ" là cái quả đạt tới đỉnh cao, do thiền ông cùng với thiền bà, cùng nhau "tu đạo" ra thiền con".

"Tu đạo, đạo tu, tông phái dòng.
Tiếp Hiện Cao Tu nhập đít mông.
Đá bèo Nhất Vẹm, tu tu đạo.
Mù mù đợi đợi thích chân không".

Với lối tu "nhập thiền Tiếp Hiện" nầy, nên Làng Môn thu hút nhiều môn đệ Tây Phương gia nhập, do họ có tinh thần thực tiển hơn người Á Châu, rất phù hợp với môn tu nầy. Tu có đôi có cặp, cùng nhau "ngồi thiền" cũng dễ đắc đạo lắm, nên Thiền sư Tiếp Hiện cũng phải biết "động viên" người tương đắc để ngồi thiền. Do đó người viết có bài thơ nầy nhằm "ca tụng công đức" của Ngài Nhất Vẹm, bài nầy chỉ dành riêng cho Làng Môn và môn thiền Tiếp Hiện mà thôi, thành thật xin lỗi những vị chân tu, có cái tâm đạo quyết lòng đi theo bổn sư Mâu Ni Thích Ca Mâu Ni, nên không dám "ĐÙA CHI" đạo pháp giới "ĐI CHÙA". (bài thơ nầy đã đăng trên tuần báo Thời Báo trước đây trong mục thơ Cà Chua)

Thiền sư bảo vợ ngồi thiền.
Cho tâm khoái lạc, an miền Bồng Lai.
Nhập Thiền Tiếp Hiện ngồi dai.
Đêm ba, ngày bảy, lai rai ngồi hoài.
Ngồi Thiền bất kể đêm ngày.
Cùng nhau tu học miệt mài đạo tu.
Thiền nầy tạm bỏ phiền ưu.
Cho tâm xuất-nhập chu du non Bồng.
Đã là thân phận má hồng.
Ngồi thiền cho nhuyễn, thì chồng mến yêu.

Thời đại văn minh, điện tử, phi thuyền không gian, bom nguyên tử sinh hoạt xã hội cũng biến đổi, tốt xấu lẫn lộn, sắc sắc, không không, nên tu cũng biến đổi theo thời gian cho phù hợp. Thời trước 1975 ở miền Nam, nghề bán Bar, gọi là Bia Ôm bị người đời chê trách, nhất là bán bar cho quân đội đồng Minh; ngay cả Việt Cộng, khi vào tiếp thu sau ngày 30-4-1975, cũng dành nhiều từ ngữ mạt sát "lối sống đồi trụy" là "tàn dư chế độ Mỹ Ngụy để lại". Sau hơn 30 năm đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc theo lời Bác dạy, nên con đường BÁC ĐI thành BI ĐÁT, cuối cùng, họ phải gắn thêm cái đầu tàu của ĐẾ QUỐC TƯ BẢN CỰC KỲ PHẢN ĐỘNG, để kéo cái đuôi "tàn dư của thây ma Marx Lenin", nhưng cứu đảng chậm sụp đổ theo quan thầy Nga Sô "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Ngày nay, xã hội Việt Nam phát triển kinh tế là nhờ cái đầu tàu kinh tế thị trường, kéo theo cái đuôi xã hội chủ nghĩa nặng nề là tập đoàn đảng ăn bám, ngồi mát ăn bát vàng, họ không còn "BÓC LỘT" như thời địa chủ, phong kiến, thực dân phản động nữa, nhưng đảng ra tay ĐẬP LỘT dân, mới nguy to. Đảng và nhà nước có nhiều cơ sở khách sạn, giải trí khắp nơi, họ rất chuộng khách Mỹ chiếu cố, nên ngày nay có câu "lạy Mỹ cứu đảng"; do đó mà tình trạng buôn bán phụ nữ, mại dâm lan tràn hơn cả bịnh dịch cúm gà, do vậy mà năm 2005, tổng thống Hoa Kỳ George.W.Bush "đăng ký" tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào danh sách các nước cần giúp đỡ chống bịnh Aids, được coi là nước Á Châu đầu tiên được cái "chế độ" nầy, qua mặt luôn Trung Cộng. Từ "sự cố thời thượng" ấy, trong nước đang phát triển nhiều ngành nghề nào có chữ ÔM gắn liền, như: bia ôm, cà phê ôm, tắm ôm, nhậu ôm, internet ôm .... ngay cả con cháu của đảng viên, cán bộ, thuộc cậu ấm thời đại cũng mướn gái về nhà Ôm trong lúc đang trao dồi kinh sử, hầu thi đỗ cao và du học nước ngoài. Theo một bài viết của thượng tọa Thích H. Tôn, ở Melbourne, trả lời thư mời của Nhất Vẹm về nước trai đàng giải oan vào tháng 3 năm 2007, đăng trên tờ Nam Úc Tuần Báo, thì mới biết thiền Tiếp Hiện quả "cao siêu" lắm! phù hợp với thời đại và xã hội Tây Phương, có tập quán "Nịnh đầm" hay Anh có lối "Lady First".

" L.... MANG tu học LÀNG MÔN như
CU TIẾP tung hoàng, phỉ KIẾP TU
TU ĐẬM dục tình, bà TÂM- Đ....
CÁI GIẢ sư Ông, CẢ-D.... lù.
TU MÔN Tiếp Hiện, TÔN MU chắc!
NHƯ SẮC, không là .... khéo NHẮC SƯ.
NIẾT NÀN hỏa ngục, sao NÀNG BIẾT?
GIÁC ĐẠO kiểu nầy, GIÁO ĐẠT ư?

Thiền tông là một trong những pháp môn của Phật Giáo, là phương pháp hướng dẫn người tu tập tìm về "bến giác" để sau nầy khi viên tịch, hy vọng được nhập "Niết Bàn". Thiền không phải là phép thần thông, là chìa khóa mở cửa "thượng giới" hay thiền sư là người cầm trong tay tấm bản đồ lên thiên thai đương nhiên không giúp người ta thoát khỏi cảnh "lão, bịnh, tử". Người học thiền, kể cả thiền sư cũng khó thoát khỏi cảnh "trở về với cát bụi". Thiền thường được người dạy thiền quan trọng hóa, thành huyền thoại. Cộng Sản lợi dụng Thiền để làm công tác tôn giáo vận, vì họ biết cái tâm lý của những người Việt tỵ nạn, nay đã thành "tư bản" ở các nước tiên tiến, hùng mạnh nhất hoàn vũ. Người ta no đủ về mặt vật chất, thì muốn sống lâu để hưởng, trẻ mãi không già, ít bịnh tật và lỡ sau nầy có giã từ gác trọ, cũng hy vọng được gần gũi tòa sen.

Từ nhiều năm qua, Việt Cộng gởi một số tu sĩ quốc doanh, lợi dụng tình đồng đạo của các sư ở hải ngoại mà mượn chùa, huy động Phật tử để thuyết pháp, dạy thiền, ru ngủ, từ thiện, giám điệp, cài người điển hình là Việt Cộng cử hòa thượng, kiêm thiền sư Thích Thanh Từ sang hạ cờ vàng ba sọc đỏ, kinh tài (thu tiền qui y, như ở Western australia, ai muốn qui y với thầy, phải nộp 300 Úc Kim), gây phân hóa, giải độc cho đảng ... Thanh Từ mang theo cả băng Video dạy Thiền, được một số Phật Tử sao chép làm phước, nên bang thiền được phổ biến rộng rãi. Theo một số người tin tưởng Thiền, họ chỉ cần bỏ ra một số thời gian, ngồi hít thở cho nhuyễn theo đúng phương pháp, đến khi khi làm cho Nắp Nhạo ở đỉnh đầu mỏng dần, cuối cùng nổ nghe cái "Bóc" là hồn về Niết Bàn, thành Phật, dễ dàng như đi siêu thị mua đồ, chết là di chuyển từ cõi thế sang thượng giới dễ như chuyện đổi vùng từ Post Code nầy sang Post code khác trong hệ thống Bưu điện. Như vậy thì những tên giết người, cướp của như Hồ Chí Minh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh ... khỏi cần tu, hàng ngày chỉ cần ngồi thiền do các sư quốc doanh hết lòng chỉ dạy, thì cũng thành chánh quả hết cả hay sao?

Hòa Thượng H. Tôn còn cho biết là sư "Đóa Hoa Nhỏ" đã chửi một bà lão trên 70 tuổi vì bà nầy quá kính tăng mà niệm Phật, do Làng Môn không chủ trương gọi Phật như truyền thống Phật Giáo ngàn năm nay, dù họ vẫn mặc áo cà sa, dùng bình phong của Phật để hành nghề "bán Phật". Họ không chấp tay niệm Phật chào nhau như thói quen, nhưng các tín đồ có tác phong "đạo hạnh" khác là ÔM NHAU lúc gặp nhau, đây là lối sáng tạo, rập khuôn theo kiểu Liên Sô thời Cộng Sản, khi các "đồng chí thân thương, bầu bạn năm châu" gặp nhau, họ không bắt tay như lối cư xử cực kỳ lạc hậu, lỗi thời của "bọn đế quốc phản động" mà ôm nhau cho chắc, thì lúc nghịch cũng đâm cho mạnh tay hơn. Hình ảnh các tu sĩ Làng Môn ôm nhau lúc chào hỏi, không khác gì cảnh chủ ĐỊT Hồ Chí Minh ôm hôn đồng chí Stalin hay Mao Chủ Chí khi hai bên gặp nhau để ký kết tình hữu nghị đời đời bền vững, môi hở răng lạnh;

"HAY ÔN tu tập, mãi HÔN AI?
ĐỂ TU đủ cặp, ĐỦ TÊ hoài.
CÁI TU Nhất Vẹm, nên C... TÁI ....
LÀ BỔN chân không L... BẢ bày!
RỒNG LỘN không không L... RỘNG đấy.
BẮT CỌP sắc sắc BÓP C... ngay.
TU THIỀN Tiếp Hiện TIÊN THÙ Phật.
TỰ TẠI tà tâm tại TẠI TỤ ... Mai."

Sau cuộc khủng bố 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ lãnh đạo các nước đồng minh mở cuộc tấn công vào sào huyệt của tổ chức Al Qaeda, dưới sự che chở của tập đoàn Taliban ở Afghanistan. Được biết, Việt Cộng là một trong số nước hiếm hoi ủng hộ Taliban, chống đối Hoa Kỳ. Lúc đó Nhất Vẹm hành động nhịp nhàng, ăn khớp như thời chiến tranh Việt Nam: từ Làng Môn bay sang Hoa Kỳ, chọn thành phố New York, nơi vừa xảy ra cuộc khủng bố để "thuyết pháp" Thiền Sư cho đăng trên báo chí, dám chi ra số tiền lớn đến 45.000 Dollars trên tờ New York Times, viết nhiều kỳ, với nguyên trang A 5 và A 22, trong đó Ngài tấn công Mỹ một cách có chiến lược qua việc: liên đới lúc Mỹ dội bom ở tỉnh Bến Tre, dội bom trên đầu 300 ngàn căn nhà, mà bên dưới có 7 du kích. Trên trang web của Ngài Thích Nhất Vẹm có bài phỏng vấn của Anne A Simpkinson, có tựa đề là: "what I would say to Osama Bin Laden?", được sư ông trả lời như sau: "When we learned of the bombing of the Ben Tre village in Vietnam. Where 300.000 homes were destroy, and the pilots told Journalists that they had destroyed the village in order ta save it. I was shoked, and (racked) with anger and grief".

(Người viết bài nầy tình cờ gặp một nhà báo thâm niên người Anh chánh hiệu, là ông Norman, hơn 40 năm là ký giả, phó chủ bút tờ The Western Australia, có số đọc giả hàng ngày lên đến 1 triệu; ông là người có đọc qua nhiều tác phẩm bằng tiếng Anh của tác giả "Tã Hồng Cài Háng" về thiền, sau khi đưa bản văn nầy, trích từ tờ Dân Văn, số 113, Quốc Dân Đảng Âu Châu, thì ông giựt mình, khi so sánh với lối hành văn trong các quyển sách trước và đoạn văn nêu trên, ông cho biết là: LỐI VIẾT NẦY SAI VÀ KHÔNG ĐÚNG THEO LỐI HÀNH VĂN CỦA NGƯỜI ANH. Được biết thiền sư nầy là "trí thức Phật Giáo" đấy, từng học đại học Mỹ, từ năm 1967 đến nay, viết nhiều sách bằng tiếng Anh, rất là đúng điệu, nên không ai thắc mắc. Năm 2001, với đoạn văn ngắn nêu trên, hình như đây là cái "chân như của Ngài" như cây kim để trong bọc lâu ngày bị lòi ra. Nên có nghi ngờ là những quyển sách từ trước đến nay của Ngài thiền sư LÀNG MÔN do ai đó sửa chữa, hay viết dùm gì đó ... cũng như quyển "Đóa Hồng Gai" cũng do ai đó viết dùm thôi")

Ai cũng biết tập đoàn Taliban là thủ phạm phá hủy tượng Phật ngàn năm, thế mà Nhất Vẹm lại ủng hộ bọn nầy. Vì bị dư luận phản đối nên Ngài đành chạy sang Cali, mở cuộc hợp ngày 14-10-2001, cũng luận điệu nầy. Hành vi của Nhất Vẹm bị tuyệt đại đa số dân phản tỵ nạn phản ứng, nhưng một số người Mỹ lại bị Ngài cho uống thuốc mê, nên trúc căm giận trong vụ khủng bố trên đầu người Việt, vì họ lầm tưởng Nhất Vẹm cũng là người Việt tỵ nạn; áp dụng câu "con sâu làm sầu nồi canh" nhằm đánh tan những thế lực chống Cộng hải ngoại một cách êm thấm, mượn tay người ngoại quốc để triệt hạ, như Ngài đã từng dùng phong trào phản chiến khuynh tả để tấn kích chính phủ miền Nam trước 1975. Ý đồ của Nhất Vẹm quá lớn, xuýt làm tan hết uy tín, cảm tình của dân Mỹ là kẻ "thừa nước đụt thả câu", luôn tìm đủ mọi cách để đâm sau lưng những nạn nhân Cộng Sản và cũng là nạn nhân của hắn, sống tha hương, thế mà vẫn bị theo đuổi để làm hại mãi; Thích Nhất Vẹm thù dai như Việt Cộng vậy. Nhất Vẹm đi tới đâu là làm lợi cho Việt Cộng đến đó, ngay cả xuất hiện trên băng nhạc Paris By Night 40 do trung tâm THÚI NGHE với Mc Nguyễn Nọc Nạn (nhà văn Ngã Ba Ông Tạ) và đám chủ nhân "văn nghệ quốc gia, thờ ma Cộng Sản" thực hiện, hình ảnh Nhất Vẹm giống cái chuông kiểu Nhật Bản, mở đầu cho những bản kinh cầu ru ngủ thân Cộng, sau đó là cảnh bôi nhọ quân lực VNCH trong pha dội bom, rồi bà mẹ chiến sĩ, bông lúa đỏ ... một thời gây chấn động dư luận.

Do đó sau thời gian "khổ nhục kế" với lý do đảng không cho về nước, năm 2005, Nhất Vẹm cùng với hơn 200 tăng ni Làng Môn, đa số là Tây về nước nhằm giải độc cho đảng qua những cuộc đàn áp tôn giáo dã man, chuẩn bị du luận quốc tế để đảng gia nhập WTO ... và tháng 3 năm 2007, được đảng bố trí để làm trai đàng, cầu siêu rần rội, nhằm đánh bóng đảng, cổ động chiêu bài "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Cho nên người ta không lạ gì thiền sư Nhất Vẹm, là cơ sở tôn giáo hải ngoại, có tầm vóc, ảnh hưởng một số người Tây Phương, nên người ta có thể cho là:

"Đảng cần, Nhất Vẹm có.
Đảng khó, có Nhất Vẹm".

Cũng giống như Hồ Chí Minh, dù đã từng là tay "dân chơi đại đồng" thưởng thức gái Pháp, Nga, Tàu,Việt, thiểu số ... mà vẫn được nhiều cán ngố tin là "bác vẫn còn Trinh", thế mới đúng như Nguyễn Du nói về nàng Kiều: "chữ trinh còn ở chỗ nầy". Đảng Cộng Sản tuyên truyền là: "một đời bác lo cho dân, cho nước, không nghĩ đến gia đình". Nhưng nếu Bác làm hôn thú như người dân bình thường, thì phải tốn rất nhiều "thủ tục hành chánh" để hoàn thành và văn phòng của Bác cũng không đủ chỗ để treo các "giấy hôn thú" (Marriage Certifcate). Thiền sư, tức là sư ông Thích Nhất Vẹm cũng thế, Ngài hết lòng lo cho tu đạo, lẫn đạo tu với sư bà "Đóa Hoa Nhỏ" nên cũng không có thời giờ để đi đến tòa án làm giấy hôn thú.

Bây giờ thì có một chuyện nữa là tác giả của hồi ký "ĐÓA HỒNG GAI" đang là một "chuyện giả nhưng viết y như thật", được các cơ sở đảng chống Cộng Dỏm Vịt Tiềm quảng bá, ra mắt sách nhiều nơi, sang tận Úc Châu ... tác giả nghe đâu có ăn học, đậu bằng "tú tài hưa", thật là "chi lọa rứa, chu choa nó ơi!", nhưng giọng văn là Bắc, mới LỌA; tác giả được cả trung tâm THÚI NGHE mời "phỏng giái thu hình" và nghe qua thì tội nghiệp cho "nhà văn", kiêm chiến sĩ phục quốc trong mặt trợn Hoàng Cơ Manh, hoạt động ngay tại Việt Nam trước khi xuất ngoại, cũng là nhân viên cao cấp trong kế hoạch Phượng Hoàng, tức là "Điệp viên KHÔNG, KHÔNG CÓ" là người hết lòng lo cho đất nước mà: "không có cơ hội lập gia đình".

Chắc là nhà văn nầy dù có học cao, nhưng chưa theo kịp đà văn minh nhân loại, ngày nay, người ta lên cung trăng lâu rồi (1963) và năm 2005, Trung Cộng mới bay vài vòng quỹ đạo, chưa gặp Hằng Nga, thua Đường Minh Hoàng thời nhà Đường ... Mỹ lên tới Hỏa Tinh, nên cái chuyện "vá, ghép, thay" cơ phận cơ thể là chuyện nhỏ; nếu tác giả "đóa hoa hồng gai" muốn tìm tu đạo theo "thiền Tiếp Hiện" thì trước tiên là đi tìm các bác sĩ giải phẫu thẫm mỹ, họ sẽ tân trang mặt mày, bom vú, độn mông, hút mỡ bụng, chẻ cằm .... và bên trong là "hiện đại CỬA MÌNH", nếu cần cũng "vá màng trinh như con gái "mười tém", thì các ông lé cả mắt, dám bỏ vợ lớn để cưới lắm chớ bộ (chuyện gái đẻ 5 con mà vẫn còn màng trinh, không cò là chuyện LỌA nữa). Đóa Hồng Gai nầy không phải là hồng có gai, mà là THÀI-LÀI được cắm bãi CỨT CHÓ là thứ Vịt Tiềm, nên sau thời gian "nở gai" như kế "thiết trụ khai hoa" trong tam thập lục kế, thì THÀI-LÀI cũng trổ mã, như là thứ cây tạp nhạp trong cái: "Một Vườn Hoa có nhiều hương sắc" của tác giả Nông Quốc Chấn (có thời là bộ trưởng Văn Hóa trong nước).

Đảng Cộng Sản có sách lược dùng tôn giáo để giữ đảng, tuyên truyền vì ngày nay không ai nghe đảng cướp Việt Cộng nói, nên họ cần những vị lãnh đạo tinh thần để nói dùm đảng, tiếp tục tuyên truyền láo khoét. Do đó vai trò của các tu sĩ quốc doanh, nhất là các sư, linh mục thân Cộng hải ngoại là công cụ đắc lực, có khả năng đắc dụng lắm. Vì thế mà Làng Môn và Thích Nhất Vẹm là mũi nhọn xung kích trong mặt trận tôn giáo, kinh tài, ngoại vận. Từ trước, ở trong nước đảng từng "phong quân hàm Phật Sống" cho Thích Thanh Từ. Ngày nay nghe đâu Thích Nhất Vẹm cũng trở thành "Phật sống" như đức Đai Lai Đa Ma Tây Tạng. Đây là vấn đề nguy hiểm, khi kẻ phá đạo được thành Phật qua thủ đoạn chứ không phải do tu hành, gian khổ, công phu, làm hoen ố đạo Pháp, ảnh hưởng không nhỏ cho uy tín Đức Phật.

Cho nên sự kiện trùng hợp về việc một nhà tỷ phú Ấn Độ đã "tâm đắc" trước quyển sách của thiền sư Nhất Vẹm, nghe đâu mới viết cách đây không lâu, tựa là "Đường Xưa Mây Tắng", theo đài phát thanh ẾCH BỊ ẾCH, do chính trưởng đài, dành khá nhiều phút để ca vấn đề nầy, đại ý đây là tin "cực kỳ hồ hởi phấn khởi" có tác dụng làm "rẻ rang rân Riệt" lắm! Vì một thiền sư Việt Nam mà được như vậy, quả là hiếm hoi, xứng đáng là "Phật Sống" lắm, đây là hợp đồng kỳ lạ, khi vị tỷ phú mang phim qua Holliwood đóng, các tài tử qua Làng Môn học một khóa thiền "Tiếp Hiện" để nhập vai cho linh hoạt. Thích Nhất Vẹm không lấy thù lao bản quyền cả bạc triệu. Tin nầy thật hấp dẫn, không biết cuốn phim đi tới đâu (tin nầy diễn ra trong thời gian Ngài chuẩn bị những đợt về Việt Nam).

Theo lịch sử, thì cuộc đời của Đức Phật hơn 2700 năm, tại Ấn Độ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo như Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Nam Hàn, Nhật con số tín đồ hàng tỷ, có biết bao vị cao tăng, học giả Phật Giáo từ hàng ngàn năm, chả lẽ không ai viết về cuộc đời của đức Phật hay bằng Thích Nhất Vẹm? Nhất là vị tỷ phú Ấn Độ nầy chỉ đọc qua bản dịch từ tiếng Việt mà đã "giác ngộ" đến thế? Tuy nhiên cái quyển sách mang tựa đề "đường xưa mây tắng" của Nhất Vẹm ít thấy xuất hiện trong "các tàng kinh các" tại các tự viện hải ngoại, cũng không ai biết, chỉ trừ khi nghe vài cơ quan truyền thông như đài phát thanh quảng bá.

Qua những sự kiện nêu trên, thiền sư Nhất Vẹm đã làm gì cho đạo pháp, dân tộc? Nhưng dù sao thì Ngài là người khai "tiên phong" lập ra môn phái Thiền Tiếp Hiện, không niệm Phật mà vẫn dùng bình phong của Phật để phát huy môn phái, quả xứng đáng là GIÁO CHỦ GIÁO PHÁI TU ÔM; cũng như Việt Cộng đàn áp nhân dân, nhưng nhiều thứ được gắng liền với nhân dân như: quân đội nhân dân (không phục vụ quyền lợi nhân dân, chỉ làm công cụ ngoại bang và bảo vệ đảng cướp Cộng Sản), Công An Nhân Dân (công cụ đàn áp nhân dân), Ủy Ban Nhân Dân (cơ quan áp bức nhân dân) .... Do đó, những người đã biết mình lầm "kính tăng" mà tin tưởng Nhất Vẹm thì đã sáng mắt sau năm 1975, còn những ai chưa qua khỏi giấc ngủ Tam Tạng, tiếp tục quỳ lạy ma quái giả thành Phật thì nên tỉnh giấc càng sớm càng tốt, bằng không là có ngày bị ma quái xơi tái, hay lạc lối tìm về chánh đạo.

Trương Minh Hòa


Vạch mặt DÂM TĂNG là xây dựng hay đánh phá Phật Giáo?


Tuấn Phan

Nhân ý kiến của ông Sac Le về chuyện tình tội lỗi của ông sư Phước Huệ ở Úc và bà Dược sĩ có chồng ở Mỹ, tôi bèn nghĩ ra một số vấn đề sau đây:

1. Không ai đại diện cho tôn giáo.

Ông Sac Le suy diễn 6 mẫu tự ddpghh là “đại diện phật giáo hòa hảo” cũng còn êm dịu hơn một bà nọ trên net giải thích đó là “đánh đấm phật giáo hòa hảo“ (!). Đây là địa chỉ email của Diễn đàn Phật Giáo Hòa Hảo – một newsletter do tôi chủ trương suốt 8 năm (1998-2006). Xin ông Sac Le xem lại cuối bài viết để thấy cho rõ Tuấn Phan (một tín đồ PGHH), tự hậu đừng viết bậy nghe ông! Thêm nữa, theo tôi gọi ai đó là “đại diện” tôn giáo là sai nếu đồng ý rằng một tôn giáo cần hội đủ 3 yếu tố căn bản: Giáo Chủ (người sáng lập ra tôn giáo, Giáo Lý (kể luôn Giáo điều, Giới Luật), Tập thể tín đồ (đoàn ngũ hóa thành Giáo Hội hay một tổ chức tương đương).

Một tín đồ dù có phẩm trật cao cấp như Giáo Hòang, hay Tăng thống chỉ đại diện cho Giáo Hội (tức tập thể tín đồ được đoàn ngũ hóa) chứ không bao giờ đại diện cho Tôn Giáo (Công Giáo hay Phật Giáo), trừ phi có sự ủy nhiệm của ... vị Giáo Chủ! Sở dĩ chúng ta thấy trong các sinh hoạt cộng đồng có ông Linh Mục A, Thượng Tọa B, Hiền Tài C. Muc Sư D … đại diện Công Giáo, Phật Giáo Cao Đài, Tin Lành … là do chúng ta gọi tắt, chứ thực chất họ chỉ đại diện cho các tổ chức tín đồ có danh xưng khác nhau tùy thuộc mỗi tôn giáo.

2. Thế nào là đánh phá tôn giáo?
T
ừ quan điểm trên, tôi cho rằng một người hoặc nhóm người mang tội đánh phá một tôn giáo khi nào họ đụng chạm đến Giáo Chủ, Giáo Lý của tôn giáo đó. Thí dụ:

- Báo chí Đan Mạch vẽ hí họa châm biếm Giáo chủ Mohamed của Hồi Giáo.
- Công ty Mỹ chế tạo quần lót in hình Đức Phật Thích Ca.
- Tiến sĩ Lê Hiếu Liêm tức Lý Khôi Việt (vừa chết) đã bài bác nặng nề các tín điều Công Giáo ở trang 149 trong quyển Bồ Tát Hùynh Phú Sổ và Phật Giáo Thời Đại, và xúc phạm Đức Hùynh Giáo Chủ ở trang 10. Nhưng lạ thay quyển này lại được một số tín đồ PGHH tai to mặt lớn ở Nam California “phát tâm ấn tống” năm 2001!

Người đời thường nói “Nhân hư đạo bất hư”; các chức sắc tôn giáo dù cao cấp như Giáo Hoàng, Tăng Thống … cũng vẫn là người trần mắt thịt, không sao tránh khỏi lỗi lầm thường tình, thậm chí có người còn phạm những tội ác tày trời nhưng khéo che đậy. Do vậy khi báo chí Mỹ tố giác những scandal tình dục của các Linh Mục khiến Giáo Hội phải bồi thường hàng trăm triệu đô la cho nạn nhân nhưng họ không hề bị mang tiếng là đánh phá Công Giáo.

Khi giáo dân Nguyễn An Quý (Seattle), giáo dân Nguyễn Xuân Tùng (Diễn đàn Kitô Hữu , California ), LM Nguyễn Hữu Lễ ( New Zealand ) v.v… phê bình, lên án HY Phạm Minh Mẫn về vụ Cờ Vàng vừa qua chẳng lẽ họ bị tội đánh phá chính đạo Công Giáo của họ hay sao? Những kẻ không xứng đáng mang họ Thích như Nhất Hạnh, Giác Nhiên, Pháp Châu, Minh Tuyên và nhất là HT Phước Huệ ở Úc mới đây bị phanh phui tội lỗi gian dâm với một tín nữ trên Tuần báo Saigon Nhỏ nhưng bà Đào Nương đâu có bị mang tiếng là đánh phá Phật Giáo?

Bằng những chứng cứ không chối cãi để vạch mặt chỉ tên những kẻ tu hành giả dối, lừa tình, gạt tiền tín đồ là góp phần bảo vệ tôn giáo, chứ không phải “đánh phá tôn giáo” như ông Sac Le và một số người cố tình xuyên tạc. Kẻ “đánh phá tôn giáo” chính là đám “giặc thầy chùa” hay “quỷ nhà thờ” mà quý vị lại đi đổ tội cho người khác. Đúng là không lên án thằng đốt nhà mà than phiền cứu hỏa hú còi in ỏi trong đêm khuya!

Bà Đào Nương đã giúp Giáo Hội Phật Giáo thanh lọc hàng ngũ một dâm tăng Phước Huệ, - là một thứ sâu mọt đục ruỗng, phá hoại ngôi nhà Phật Giáo. Đồng thời bà Đào Nương cũng cảnh báo trước dư luận về chân tướng của một vị lãnh đạo tinh thần kiêm luôn lãnh đạo vật chất tín đồ bằng hành vi phạm giới tà dâm kéo dài tới 15 năm. Nếu bà dược sĩ lăng loàn (mà bà Đào Nương gọi là Phật tử thuần thành?!) không vì phẫn uất sự bội bạc của tình lang sư ông thì mọi người cứ mãi kính trọng một tên sư hổ mang dội lớp tu hành!

3. Tại sao công bố chuyện tình tội lỗi của ông sư và tín nữ?

Chuyện tình tội lỗi của HT Phước Huệ ở Úc và một nữ dược sĩ có chồng ở Mỹ đã công khai hóa trên hệ thống Tuần báo Saigon Nhỏ, phát hành rộng rãi ở Mỹ như là một tấm gương XẤU. Đây là mối quan hệ bất chánh, phi luân thường đạo đức không thể chấp nhận ngoài đời huống chi trong chốn thiền môn nên cần được nêu ra để mọi người không phân biệt tôn giáo biết mà tránh đi vào con đường tội lỗi nầy. Phật Giáo và PGHH là hai tôn giáo nhưng cùng một gốc nên tín đồ PGHH vẫn có mối ràng buộc tự nhiên với với chùa chiền, tăng ni. Do đó, Đức Huỳnh Giáo Chủ không quên dặn dò:

Đối đãi các tăng sư. – Tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chân chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều gì chánh lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chính của Đạo Phật. Nếu các ông ấy vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.” (Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, trang 169, - Những điều được tránh hẳn hoặc được châm chế hoặc nên làm).

Tín đồ PGHH may mắn được Đức Hùynh Giáo Chủ truyền dạy tu hành trực tiếp giáo lý học Phật Tu Nhân, không qua trung gian giới tăng ni. Nhờ thế, tín đồ PGHH không mất nhiều tiền bạc, công sức xây chùa, đắp tượng, đúc chuông và cúng dường giới tăng ni mà ở thời mạt pháp, các vị chân tu thì hiếm, còn kẻ dối tu thì lềnh khênh đúng theo nhận xét của Đức Hùynh Giáo Chủ:

Thầy chùa như thể cây sơn,
Ngoài da coi chắc, trong thời mối ăn.
Buồn thay cho lũ ác tăng,
Làm điều dối thế cho hư đạo mầu.
Di Đà Phật Tổ thêm rầu,
Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Tu như lối cũ mau gần Diêm Vương.

(Sđd, trang 31)

Những ai cho rằng nêu lên những việc xấu xa của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo là đánh phá tôn giáo nên bình tâm suy nghĩ, nếu các nhà tu hành nầy làm đúng giáo lý, giới luật của tôn giáo đó thì lấy đâu mà “đánh” họ? Chúa, Phật ngăn cấm giáo sĩ, tăng sĩ quan hệ tình dục bất chánh với con chiên, Phật tử nhưng họ làm ngược lại lời dạy của các Ngài mà ai cũng làm thinh có phải là đồng lõa với họ phá hoại nhà thờ, nhà chùa không?

4. Cố tật chụp nón.

Nhiều người Việt ở hải ngoại có cái cố tật là, về chính trị hễ ai đụng đến phe mình (tự nhận là Quốc Gia) thì chụp ngay người đó cái nón … Cộng Sản. Về tôn giáo, hễ ai đụng đến Quý Thầy, Quý Cha của mình thì bị họ chụp bừa cái nón … đánh phá Phật Giáo, Công Giáo, bất kể tình lý ra sao! Ngưỡng mong các vị thức giả khi gặp phải vấn đề chính trị, tôn giáo mà mình không ưng ý xin quý vị hãy bình tĩnh đừng vội vàng lên án nầy nọ cho người khác một cách vô cớ và vô lý.

Nếu thức giả là tín đồ PGHH thì đề nghị nhớ kỹ lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ: Điều thứ 7. Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.” (Lời Khuyên Bổn Đạo, hay gọi là Tám Điều Răn Cấm, Sđd, trang 176). Và:

Dầu việc người hay việc của ta,
Nên phán đoán cho tường cho tận.
(Sđd, trang 107)

Không rõ tôi có được minh lý soi sáng để phán đóan tường tận khi trình bày các vấn đề nêu trên như lời giáo huấn của Đức Hùynh Giáo Chủ không, xin nhờ ý kiến quý độc giả.

Tuấn Phan

Wednesday, August 27, 2008

Thông bạch của HT Quảng Độ gởi Tân văn phòng VHĐ 2

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 26.9.2007

Thi hành Giáo chí số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất


PARIS, ngày 26.9.2007 (PTTPGQT) - Từ Saigon, Văn phòng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang nhằm chấn chỉnh toàn bộ cơ cấu Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan.

Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 25.9. Đây là kết thúc sáng suốt chấm dứt tình trạng gây rối nội bộ Phật giáo nhằm tiếp tay với nhà cầm quyền Cộng sản trong âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN. Một tình trạng kéo dài gây hoang mang dư luận quần chúng Phật tử trong và ngoài nước suốt nhiều năm qua.

Thông bạch cho biết ba năm qua nhà cầm quyền Cộng sản đã thực hiện ba phương án nhằm tiêu diệt GHPGVNTN:

"một là chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ cá nhân Đức Đệ tứ Tăng thống và Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thay thế thành phần mới chịu quy phục thế quyền phục vụ chính trị ; hai là bó buộc GHPGVNTN thay đổi danh xưng ; và ba là sáp nhập thực thể GHPGVNTN vào một hình thái thống nhất Phật giáo mới do Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chủ trương. Phương án thứ ba tái hồi âm mưu thành lập một Tổng hội Phật giáo làm công cụ chính trị theo mô thức năm 1981, cốt đáp ứng tình thế mới do sức ép quốc tế yêu sách Nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các điều kiện hội nhập Cộng đồng thế giới".


Nhằm tạo dư luận quốc tế thuận lợi cho việc tiêu diệt này, nhà cầm quyền cộng sản khẩn trương vận động rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC (danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo, một khi bị liệt kê vào danh sách này Hoa Kỳ sẽ sử dụng biện pháp chế tài trên phương diện tài chánh và kinh tế theo Đạo luật Bảo vệ tự do tôn giáo do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua năm 1998). Không thay đổi chính sách đàn áp tôn giáo nói chung và GHPGVNTN nói riêng, nhưng mở mặt trận tuyên truyền dối gạt, Hà Nội hai lần mời Sư Ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam (2005 và 2007) cho phép tự do thuyết giảng giáo lý Làng Mai từ Bắc chí Nam để chứng tỏ "có tự do tôn giáo". Tháng 7.2006 cho phép Giáo sư Lê Mạnh Thát mở Hội luận Phật giáo quốc tế tại Saigon, mời một số học giả quốc tế tham dự, một lần nữa chứng tỏ trước dư luận là "không có chuyện đàn áp Phật giáo tại Việt Nam". Đàn áp sao lại cho 200 Tăng thân Làng Mai và Sư Ông Nhất Hạnh tự do đi lại thuyết giảng ? Sao lại có chuyện tự do mở Hội thảo Phật giáo quốc tế tại Saigon ? Nhưng trong thực tế thì trái lại, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, vẫn bị quản chế khắc khe tại Tu viện Nguyên Thiều và Thanh Minh Thiền viện ; 20 Ban Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh miền Trung và miền Nam vẫn tiếp tục bị khủng bố, không cho sinh hoạt tôn giáo.

Hai sự kiện Phật giáo màu mè nói trên cộng với sự tiếp tay của một số "phong trào dân chủ cuội" rộ nở trước Thượng đỉnh APEC tháng 11.2006 ở Hà nội, đã làm cho Hoa Kỳ thấy đỏ tưởng chín, tưởng rằng Hà Nội thay đổi chính sách tôn giáo và mở cửa chính trị nên rút tên Việt Nam Cộng sản ra khỏi danh sách CPC, giúp Hà Nội gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hưởng quy chế PNTR của Hoa Kỳ.

Tại hải ngoại, người ta chứng kiến một số Tăng Ni, Phật tử huyên truyền cho việc hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản theo chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước. Luận điểm của họ là : "Tranh đấu 30 năm qua được gì ? Chỉ như húc đầu vào tường mà thôi ! Nay phải thỏa hiệp với Nhà nước để có thể xây dựng chùa chiền "như bên Công giáo xây dựng Nhà thờ", để có thể "đào tạo nhân sự, Tăng Ni"". Tuy nhiên không bao giờ họ nghĩ rằng tiền nhân, trong có Tăng Ni, Phật tử, có lý luận theo kiểu đó suốt 10 thế kỷ đầu lệ thuộc Tàu hay không ? Nghĩa là đừng kháng chiến giành độc lập mà thỏa hiệp, đầu hàng Bắc phương, thì còn chi là đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam ? Lý luận như kiểu họ suốt 100 năm thuộc Pháp, nghĩa là chịu thỏa hiệp và làm nô lệ cho thực dân Pháp, thì còn chi là đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam với cái Dụ số 10 ?

Luận điểm tuyên truyền của họ là: "Nên làm văn hóa thuần túy, nên lo giáo dục thuần túy, nên tu học thuần túy". Đây là thứ lý luận đuổi chim để thủ tiêu tranh đấu. Trí tuệ họ để đâu mà không nghĩ ra rằng: Văn hóa Phật giáo là nền Văn hóa Cứu khổ, chứ không phải loại văn hóa "tao đàn mày hát", văn hóa ra báo tâng bốc thần tượng, miệt thị người đồng đạo nhưng lại đề cao kẻ thù. Còn Giáo dục ư ? Có chùa viện nào không là trung tâm giáo dục tăng tài và quần chúng Phật tử suốt hai nghìn năm qua ? Còn tu học thuần túy ư ? Có chư Tăng Ni, Phật tử nào mà không tinh tấn tu học hằng ngày đâu. Đạo Phật gọi là tu hành, tức là học Phật, tu Phật và thực hành đạo Phật trong đời sống xã hội. Làm gì có chuyện tu học trong tháp ngà, lánh xa quần chúng đau khổ ?

Cho nên luận điểm của một thiểu số Tăng Ni, Phật tử nói trên "nói vậy nhưng không phải vậy". Họ gọi kêu tu học, văn hoá, giáo dục ... thuần túy, nhưng kỳ thực là đang trá hàng và trá hình bằng thứ tư tưởng cà lăm của những kẻ xin làm tôi đòi cho chế độ phi dân tộc, phi đạo lý, là chế độ Cộng sản.

Hai nhà học Phật Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ, vốn có công trong việc trước tác, dịch kinh Phật giáo. Nhưng trên lĩnh vực chính trị thì hai ngài mắc phải sai lầm trầm trọng. Năm 1981, hai ngài cố vấn cho Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia Giáo hội Phật giáo Nhà nước, theo luận điểm thỏa hiệp với nhà cầm quyền cộng sản để có thể làm văn hóa thuần túy, làm giáo dục thuần túy và đào tạo Tăng Ni thuần túy. Nhưng 26 năm qua cái Giáo hội mà Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia làm được gì cho Phật giáo Việt Nam, ngoài vai trò làm công cụ chính trị cho Nhà nước và Đảng ? Cái Giáo hội Phật giáo Nhà nước với bao nhiêu là học viện cao cấp, trung cấp, sơ cấp Phật giáo được Ban Tôn giáo cho phép thành lập, đào tạo được bao nhiêu cao tăng ? đưa Phật giáo Việt Nam đi về đâu năm 2007 này ? Phật tử trong và ngoài nước tự hỏi vì sao hai ngài với nhóm Thân hữu Già Lam giẫm lại vết xe cũ đã đẩy Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ và Phật giáo Việt Nam vào nơi tử lộ ? Đáng buồn và khó hiểu, vì sao hai ngài có thể điềm nhiên tọa thị để cho nhóm đệ tử của hai ngài, còn mặc áo tu hay đã ra đời, mở chiến dịch đánh phá GHPGVNTN, đánh phá chư huynh đệ pháp lữ hay người đồng đạo một cách sỗ sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa ? Nhất là tỏ lời bất kính và hỗn láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước ?

Ý thức hệ ngoại lai Cộng sản làm đảo điên xã hội truyền thống và văn hóa Việt Nam, khiến cho sự suy thoái đạo đức tràn ngập vào lời ăn, tiếng nói, viết lách của một số Tăng sĩ, một số Trang nhà gọi là Phật giáo, hay một số địa chỉ điện thư gọi là Tăng Ni Hải ngoại làm đau lòng người biết suy nghĩ. Truyền thống tranh luận để mở mang kiến thức hay tìm xem hư thực, nhường bước cho sự chửi bới khiếm nhã và chợ búa !

May thay, trong không khí ô nhiễm văn hóa và đạo đức làm hoang mang dư luận Phật giáo đồ và đồng bào các giới trong cũng như ngoài nước, Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 gióng lên tiếng đại hồng chung cảnh tỉnh. Và hôm nay, Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ công bố phân rõ chính tà trong nội bộ Phật giáo hải ngoại.

Sự chờ đợi quá lâu trong lòng người Phật tử hải ngoại đã đến : Cuộc cải tổ, chấn chỉnh sâu rộng và cơ bản toàn bộ cơ cấu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các châu lục bắt đầu. Không còn những con sâu làm rầu nồi canh nữa, mà là chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử trung kiên với lập trường dân tộc và Phật giáo sẽ đứng ra xây dựng lại Giáo hội tại hải ngoại để tiếp nối con đường của Phật giáo Việt Nam do tiền nhân giao phó, đồng thời đóng góp hữu hiệu vào công trình của Giáo hội nơi quê nhà trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn.

Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 ra lệnh giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây lan ra đời từ năm 1992 theo Quyết định số 27 nay đã hủy bỏ và thay thế bằng Giáo chỉ số 9, đồng thời giao phó cho Văn phòng II Viện Hóa Đạo thành lập các GHPGVNTN-HN mới tại các châu với thành phần trung kiên không chịu thỏa hiệp với thế quyền Cộng sản để bán đứng Gíao hội và phản bội dân tộc.

Thông bạch dẫn thượng chiếu theo điều 12 "có hiệu lực kể từ ngày Viện trưởng Viện Hóa Đạo ấn ký và cho phổ biến thông qua cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở đặt tại Paris, Pháp quốc".

* Sau đây là toàn văn Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN HÓA ÐẠO

Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2551 Số : 09/VHÐ/TB/VT

THÔNG BẠCH
Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống

    Kính gửi: Hòa thượng Chủ tịch cùng chư vị Thành viên Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
    Kính bạch chư Tôn Đức,
    Kính thưa Liệt quí vị,
Tình hình Pháp nạn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) trở nên nguy kịch hơn bao giờ theo diễn biến gần đây, mà Đức Đệ tứ Tăng thống đã nêu rõ trong Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT ban hành ngày 8.9.2007 qua ba nhận định về hiện trạng Giáo hội từ năm 1981 cho đến 2007 :

- Nhận định rằng vì nhiều lý do nội tại hay khách quan, vô tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao rộng của Chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng Bát chánh đạo và làm nghiêng ngửa Giáo hội;

- (...) Nhận định rằng chiến dịch đàn áp, vu cáo và khủng bố tinh thần hiện nay đối với GHPGVNTN báo hiệu một cuộc bắt bớ, đàn áp nước lũ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, bó buộc Giáo hội phải có biện pháp tự vệ cùng tiên liệu đối phó với tình hình;

- Nhận định rằng đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế.

Trên đây là thực tế hiểm nghèo mà Giáo hội đang phải đương đầu suốt ba năm qua trước chủ trương mới của Nhà cầm quyền Cộng sản nhằm thanh toán GHPGVNTN theo ba phương án một là chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ cá nhân Đức Đệ tứ Tăng thống và Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thành phần mới chịu quy phục thế quyền phục vụ chính trị ; hai là GHPGVNTN thay đổi danh xưng khác; và ba là sáp nhập thực thể GHPGVNTN vào một hình thái thống nhất Phật giáo mới do Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chủ trương. Phương án thứ ba tái hồi âm mưu thành lập một Tổng hội Phật giáo làm công cụ chính trị theo mô thức năm 1981, cốt đáp ứng tình thế mới do sức ép quốc tế yêu sách Nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các điếu kiện hội nhập Cộng đồng thế giới.

Do vậy, mà nhân danh Hội đồng Lưỡng viện và Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tôi đã hồi đáp câu hỏi làm sao thống nhất Phật giáo Việt Nam của Đại sứ Na Uy Kjell Storløkken đặt ra khi Đại sứ đến Thanh Minh Thiền viện thăm tôi hôm 2.7.2007, qua bốn điều kiện cơ bản và bất khả phân:

"Thứ nhất, CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ;

"Thứ hai, hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo;

"Thứ ba, đưa Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc ; và

"Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978".

Hiển nhiên khi bốn điều kiện nói trên được thực hiện thì chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử toàn quốc mới có thể ngồi lại với nhau, mà không bị chính trị chi phối, để chấn chỉnh Phật sự và thống nhất Phật giáo Việt Nam sau 60 năm chinh chiến làm cho đất nước và Giáo hội phân hóa và ly tan.

Tuy nhiên, việc khó thành khi Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chưa chịu chấm dứt can thiệp chính trị vào sinh hoạt nội bộ Phật giáo, nhất là tiếp tục sử dụng một số chư Tăng và Phật tử nhẹ dạ, mất lập trường để gây rối và phân hóa nội bộ Giáo hội.

Thực tế này được Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống ghi trong Bản Phúc trình Phật sự viết từ Huế ngày 8.9.2007 gửi Hòa thượng Viện trưởng và Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo.

Ngoài việc thông báo bản thân Hòa thượng tại chùa Báo Quốc cùng tất cả chư Tăng thuộc GHPGVNTN Thừa thiên - Huế bị một lực lượng Công an hùng hậu bao vây, cản trở tín đồ đi chùa dự Lễ Vu Lan, không cho chư Tăng đi bái kiến đảnh lễ Đức Tăng thống ở Bình Định, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh cho biết các sự vụ trầm trọng đang xẩy ra cho Giáo hội trong và ngoài nước như sau:

"Một số Phật tử ở Úc và Hoa Kỳ gọi điện về thăm và bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất đang là thành viên các Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc và Hoa Kỳ lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là vì sao ?".

"Điều mà Phật tử thắc mắc, chúng tôi thấy, đã được cụ thể qua quan điểm của anh Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường. Hai anh hồi cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2007 ; anh Trần Quang Thuận chê trách Hòa thượng Thích Quảng Độ. Bùi Ngọc Đường ngoài những lời lẽ như anh Thuận, còn chê bai Giáo hội. Sau hết Bùi Ngọc Đường khuyên chúng tôi từ chức Chánh Thư ký Viện Tăng thống để nghỉ ngơi, giống hệt như lời Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh có vẻ như muốn thỏa hiệp (với Nhà nước) để được sinh hoạt, ý tưởng nầy còn được thấy rõ qua nhóm Thân hữu Già Lam.

"Chúng tôi được biết, ở Tu viện Quảng Hương Già Lam (Gò Vấp, Saigon) cách đây một năm đã hình thành một nhóm có tên gọi "Thân hữu Già Lam". Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất, có mặt trong nước, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981 (tức Giáo hội Phật giáo Nhà nước). Các vị quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại học, Thư viện, Hội trường, làm Văn hóa, Giáo dục Phật giáo. Đứng đầu nhóm có Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát và học giả Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ.

"Nhóm Thân hữu Già Lam phần đông đang là thành viên chủ chốt của GHPGVNTN trong nước và hải ngoại. Nay vì một vài ý kiến bất đồng nào đó mà xây lưng lại với Giáo hội và vận động người khác chống lại Giáo hội, cô lập nhị vị Hòa thượng lãnh đạo Giáo hội thì chẳng hay ho gì ! Mà ai lại làm vậy bao giờ.

"Chúng tôi có đọc nội dung biên bản cuộc họp của các vị Thân hữu Già Lam qua hệ thống điện thoại có nhiều người tham dự từ Việt Nam, Úc, Canada, Mỹ. Phật Đản Phật lịch 2551 vừa qua, vùng Nam California, những vị thuộc nhóm Thân hữu Già Lam đã không tuyên đọc Thông điệp của Đức Tăng thống Đệ tứ GHPGVNTN khi cử hành Đại lễ Phật Đản.

"Chúng tôi nghĩ và hết sức ngạc nhiên, nếu các vị thấy sự nghiệp vận động để GHPGVNTN được phục hoạt, còn nhiều khó khăn nguy nan, không muốn hợp tác nữa thì các vị cứ tự nhiên rút lui khỏi Giáo hội. Có ai ngăn cản gì đâu. Nhưng đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ Giáo hội, cùng chung lý tưởng phục vụ Đạo pháp và Dân tộc, mà nay trở lại chống phá Giáo hội, rủ rê xui khiến người khác cùng nghỉ để cô lập hai vị Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo hội; đó là việc làm mà tự vấn lương tâm, kẻ đạo người đời, không ai chấp nhận.

"Thử hỏi giữa thập niên 90, nếu không có hai vị Hòa thượng mạnh dạn cất cao tiếng nói minh oan cho GHPGVNTN, đòi lại pháp lí sinh hoạt tôn giáo, để rồi phải chịu một nửa đời người tù đày, lao lý; thì có lẽ Phật giáo Việt Nam chỉ còn lại như một cái xác không hồn, vất vưởng lang thang, còn đâu nữa mà lập Đại học, xây Thư viện, hay tổ chức Phật Đản Tam hợp (theo lệnh Nhà cầm quyền Cộng sản trong năm tới 2008 để phục vụ tuyên truyền chính trị) ?!".

Sau các sự kiện trầm trọng của nội ma đang phụ tay với ngoại chướng nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống, đề ra 5 biện pháp chấn chỉnh mong Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo thực hiện:
    "1. Chấn chỉnh các Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại các châu lục, lập lại kỷ cưong sinh hoạt tổ chức Giáo hội, lấy lại niềm tin cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước đang vọng hướng về Giáo hội.

    "2. Những thành viên trung kiên với Giáo hội lâu nay, hãy bảo vệ các vị với bất cứ giá nào trước những mưu mô, xuyên tạc hạ uy tín, mà Cộng sản Việt Nam đang cài người vào nội bộ chúng ta để quấy phá. Tạo điều kiện tốt để các vị tiếp tục phục vụ Giáo hội và Dân tộc.

    "3. Những cá nhân, hoặc nhân danh tập thể, không còn giữ được lòng trung kiên với Giáo hội, thì tạo điều kiện để các vị được rút lui, không nên cầm giữ làm gì. Ít cũng được, ít mà lòng trung thành, chí kiên hậu còn hơn nhiều mà bất trung, bất nghĩa. Thập niên 90 chỉ có hai vị Hòa thượng đơn độc. Ai bảo là nhiều ? Một thập niên sau, chung quanh hai vị Hòa thượng có thêm Hội đồng Lưỡng Viện, có thêm 22 Ban Đại diện các quận, huyện, tỉnh, thành. Ai bảo là ít ?

    "4. Đối với các vị Hòa thượng có tuổi cao, sức yếu, có ý định nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, thì xin cung thỉnh chư vị lưu lại cùng Giáo hội, trong lúc Giáo hội đang lâm nguy bởi nội ma, ngoại chướng.

    "5. Ở trường hợp bất khả kháng, không thể hội họp, không được đi lại, gặp nhau, bàn bạc, thảo luận như Hiến chương qui định, thì phải tính tới dùng Giáo chỉ, Quyết định, Thông tư... để điều hành Phật sự lúc nguy biến".

  • Do đó, nay

Chiếu tinh thần, nội dung, các qui định tại Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007; và các đề xuất trong Bản Phúc trình Phật sự của Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống, viết từ Huế ngày 8.9.2007 gửi Hòa thượng Viện trưởng và Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo;

Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo GHPGVNTN thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống theo 12 điều sau đây:

1. Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đại diện duy nhất của Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, tại hải ngoại trong nhiệm vụ liên hệ, xây dựng và chỉ đạo các Giáo hội Hải ngoại tại các châu lục.

2. Do đa số thành viên Văn Phòng II VHĐ cư ngụ tại Hoa Kỳ, trụ sở Văn phòng II Viện Hóa Đạo đặt tại Hoa Kỳ.

3. Giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ và GHPGVNTN-HN tại các châu được hình thành theo Quyết Định số 27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày 10.12.1992. Quyết định này đã hủy bỏ và thay thế bằng Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007.

4. Chủ tịch và các thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo cấp tốc triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ theo tinh thần Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 và theo nội dung Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống mang số 09/VHÐ/TB/VT do Viện trưởng Viện Hóa Đạo ký ngày 25.9.2007.

5. Chủ tịch và các thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo kết hợp với các Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada theo tinh thần Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 và theo nội dung Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống mang số 09/VHÐ/TB/VT do Viện trưởng Viện Hóa Đạo ký ngày 25.9.2007.

6. Sau khi thành lập GHPGVNTN-HN tại các châu lục quy định tại điều 4 và 5, thành phần nhân sự các Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành phải được trình lên Viện Hóa Đạo để duyệt xét và chuẩn nhận trước khi có hiệu lực hoạt động.

7. Chủ tịch Văn Phòng II VHĐ đồng thời là Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ.

8. Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada thuộc Văn phòng II Viện Hóa Đạo đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada.

9. Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN có nhiệm vụ thỉnh cử, bổ sung hay hoán chuyển nhân sự cho đầy đủ theo quy định của Hiến Chương Giáo Hội và trình về Viện Hóa Đạo duyệt xét và chuẩn nhận. Nếu Pháp nạn còn kéo dài, thì cứ 2 năm một lần cần xem xét lại toàn bộ nhân sự để bổ sung, hoán chuyển hoặc thay đổi theo đúng điều 3 Giáo Chỉ qui định.

10. Chủ tịch và các thành viên được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN không được tham gia hay giữ chức vụ gì trong các tổ chức, hội đoàn, đảng phái ngoài Phật giáo.

11. Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 để đối phó tình hình khẩn cấp, Giáo hội bị đàn áp khốc liệt, có hiệu lực cho đến khi hết Pháp nạn.

12. Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang có hiệu lực kể từ ngày Viện trưởng Viện Hóa Đạo ấn ký và cho phổ biến thông qua cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở đặt tại Paris, Pháp quốc.

Trong hoàn cảnh Giáo hội lâm tình thế bức bách, nguy nan, mong Chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức, Tăng, Ni và quí Phật tử hải ngoại hãy gạt bỏ mọi ý kiến dị biệt, riêng tư, cùng chung lòng với Giáo hội đem hết thân tâm và trí tuệ phụng sự Đạo pháp và Dân tộc kỳ cho đến ngày thành công, như ý.

Thanh Minh Thiền Viện
Saigon, ngày 25 tháng 9 năm 2007
Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Tuesday, August 26, 2008

Trần Trường - Nguyễn Cao Kỳ


L.s. Nguyễn Văn Chức

Năm 1999, tôi gặp đại tá Matsuoko. Trong lúc mạn đàm, ông cho biết cha mẹ ông đã từ Nhật Bản sang Mỹ từ trước 1940.

Tôi tình cờ nhắc lại vụ Pearl Harbour năm 1941. Sau khi tuyên chiến với Nhật Bản, Tổng Thống Mỹ Roosevelt ký sắc lệnh di chuyển tất cả những Nissei, tức nguời Mỹ gốc Nhật, già trẻ lớn bé, từ bờ biển Đông Hoa Kỳ sang bờ biển Tây Hoa Kỳ, và nhốt họ trong những trại tập trung. Tôi hỏi ông Matsuoko: lúc đó có Nissei nào lên tiếng phản đối không? Ông Matsuko suy nghĩ rồi nói: theo ông biết, không có Nissei nào lên tiếng phản đối. Nhiều sách vở Mỹ cũng viết như vậy.

Tôi mong lời ông Matsuoko không phản ảnh sự thật. Tôi mong sách vở Mỹ không phản ảnh sự thật.

Nhưng, nếu đó là sự thật?

Chúng ta, Người Việt Tỵ Nạn khác với Nissei. Chúng ta không phải là di dân, mà là Ngưòi Tỵ Nạn cộng sản. Chúng ta bỏ nước ra đi không vì cơm áo, mà vì chính trị. Cho nên, chúng ta phải xử sự cho xứng với danh nghĩa Tỵ Nạn. Nếu không, Việt Cộng hôm nay và những thế hệ con cháu chúng ta sau này, có lý do để kết tội chúng ta đã ra đi vì miếng cơm manh áo.

Tôi gặp đại tá Matsuoko tại "nhà" Nguyễn Cao Kỳ, một villa ờ đường Belle Vue, tiểu bang Seattle. Chúng tôi uống trà, nói truyện Ông khoe: chính ông đã đưa từ Việt Nam sang Mỹ một "nhà thơ kiệt xuất" và một "nhà chính trị kiệt xuất", những tên - đây là xác tín của tôi - cán bộ Việt Cộng Dốt nát, đói ăn, và chuyện đi lừa.

Nguyễn cao Kỳ học khóa 1 Trường Sỹ Quan Trừ Bị Nam Định với tôi. Khoá này bắt đầu 30 tháng 9/ 1951 đến 31/ 5/ 1952.

Trong một quyển sách Việt Cộng, cán bộ HTD đã viết (nguyên văn): Nguyễn Cao Kỳ "sinh ra trong một gia đình chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp", và: Nguyễn Cao Kỳ "được bố mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn".

Theo hồ sơ trường Nam Định, cũng như theo nhiều người biết Nguyễn cao Kỳ, thì Nguyễn Cao Kỳ chưa có bằng tú tài Việt Nam.

Nguyễn Cao Kỳ đã được Mỹ đưa lên tột đỉnh danh vọng, nhất là trong vụ hội nghị Honolulu tại Hawai . Tôi còn giữ hầu như tất cả hình ảnh.

Tôi mến Nguyễn Cao Kỳ khi anh ta và Nguyễn ngọc Loan mang quân ra Huế (tháng 5/ 1966) dẹp loạn Ấn Quang, bắt Thích Trí Quang mang vê nhốt trong bệnh viện đỡ đẻ của bác sĩ Nguyên Duy Tài, đường Duy Tân, Sàigòn. Tôi có nói điều đó với Dường Văn Minh, một tay sai Việt Cộng và một thằng hèn. Tôi cũng có nói điều đó với Vũ văn Mẫu của Liên Danh Hoa Sen, trong một chuyến đi họp Liên Hiêp Nghị Sĩ Quốc Tế tại Paris.

Tỵ nạn sang Mỹ, tôi vẫn mến Nguyễn Cao Kỳ.

Nhưng sau khi y về VN khúm núm truớc một tên Phạm Thế Duyệt và biểu diễn đánh golf với mấy tên Việt Cộng cu ly cu leo, tôi bắt đầu khinh y. Sau vụ y ngồi ăn tiệc cùng bàn với Nguyễn Minh Triết (năm 2006) và giữa bữa tiệc đứng lên đọc điễn văn nịnh bợ tên Nguyễn Minh Triết - chủ tịch nhà nước chó đẻ cờ đỏ sao vàng - tôi lại càng khinh y.

Năm 1999 tại Cali, Trần Trường quỳ lạy ảnh Hồ Chí Minh và cờ đỏ sao vàng. Y bị đồng bào tỵ nạn rượt đánh. Y đã đưa gia đình về sinh sống tại Việt Nam. Ít nhất, y cũng còn chút liêm sỉ.

Còn Nguyễn Cao Kỳ? Cựu Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, cựu Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Việt Nam Cộng Hòa, cựu Phó Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, và mang tham vọng là đối thủ với Nguyễn Văn Thiệu, khi mưu toan ra tranh cử Tổng Thống VNCH nhiệm kỳ 2, với cụ Trương Vĩnh Lễ là phó tổng thống.

Ôi, Nguyễn Cao Kỳ!

Vẫn ở Mỹ ăn nhậu phét lác, thỉnh thoảng mở mồm ca tụng nhà nước cờ đỏ sao vàng, và đi đón rước mấy tên Việt Cộng.

Tôi đã đọc ở đâu đó, hình như trong Darkness At Noon của Arthur Koestler: "Inalienable right to be ignorant "

Dốt nát, ngu đần, là quyền không thể nhượng lại hoặc đổi chác cho người khác. Tôi xin thêm: chúng ta nên thương hại những kẻ có cái quyền đó. Chúng nó vô học, vô iêm sỉ, và không thể cải hóa được ... Nguyễn Cao Kỳ là điển hình.

Quyển "Dấu Tuyết Năm Xưa" - tức quyển sách thứ 3 của tôi, sau cuốn "Việt Nam Chính Sử" (tái bản năm 1992), và quyển "Thế Kỷ" (tái bản năm 1999) - sẽ ra mắt độc giả một ngày gần đây.

Bốn chữ Dấu Tuyết Năm Xưa lấy ở câu Où Sont Les Neiges d'Antan" của Francois Villon.

Việt Cộng cho người móc nối tôi. Chúng nó muốn in cuốn sách. Chúng nó muốn cho tôi tiền. Chúng nó muốn tôi xóa đi những đoạn văn nói về đảng CSVN và bác Hồ chó đẻ của chúng nó.

Houston, Thứ Sáu 22/08/2008
Nguyễn Văn Chức

Người đi, người ở, người về


teolangthang dạo Net đọc một lá thư của một người lính VNCH bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam.

Bức thư có nhiều đoạn xin gởi đến những người lính, những sĩ quan QLVNCH đọc để suy nghĩ:
    "Các anh ạ! Bây giờ thì buồn quá!

    Các anh - những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Ðại Bàng, những Bắc Ðẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường các anh đã có một thời quang vinh và một thời nhục nhã, giờ đây sau 33 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nhòa đi hình ảnh của ngày xưa?

    Các anh đã quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương trình giúp đỡ thương phế binh QLVNCH.

    Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần
    nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhã mất nước!

    Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không?

    Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đã từng tuân lệnh những Ðại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đã từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa tình chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đã từng uống với các anh chung rượu ân tình ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH.
    Nhưng chính các anh đã làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giữa nhà hàng khách sạn 5 sao tung tiền ra để tỏ rõ một Việt Kiều yêu nước.

    Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nhìn các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội!

    Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hãy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rõ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đã biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đã phản bội lại Tổ Quốc và rõ ràng nhất các anh đã phản bội lại chúng tôi

Ma Lai Rút Ruột


Trương Minh Hòa

Theo tác giả Hoàng Phong, qua bài viết "có ma hay không?" với phần định nghĩa: "Chữ MA do chữ Phạn MÂRA mà ra, Tiếng Tây Tạng là Bdud, tiếng Nhật là Hajun, tiếng Hán là MO, nhưng người Trung Hoa thường âm tứ tiếng Phạn và gọi là MA-LA, vần "r" không có trong tiếng Trung Hoa, nên người Trung Hoa thường gọi là MA-LA, thay vì MA-RA ... theo sách định nghĩa, chữ MA (MÂRA) là "quỷ sứ cám dỗ", một thứ "quỷ tinh ranh" tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.

Người Việt Nam cũng gọi tiếng MA, theo tiếng Phạn, hình như xuất phát từ Phật Giáo, do các tín đồ Phật Giáo người Ấn Độ, là các thương buôn, truyền vào đất Việt, trước tiên là lưu vực sông Hồng ở miền Bắc từ thế kỷ thứ nhất, sau Tây Lịch, lan rộng hàng ngàn năm, ngày nay trở thành nước có đông Phật Tử ở Á Châu. Ma là cái gì ghê gớm, có người tự cho là thấy ma và bị ma nhát, nhưng cũng có người không tin; vì ma mơ hồ, huyền bí, sự xuất hiện của mà thì không kiểm chứng, tùy theo sự tin tưởng và người ta cho là "bóng vía" của từng người, mà ma có thể nhập, hiện ra cho người nào yếu bóng vía thấy, nên tục ngữ có câu: "ma bắt theo mặt người ta"; ai coi như hết thời, trở thành "hồn ma bóng uế" như đám Việt Cộng khủng bố trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ sau 1975, bị đá văng ra khỏi các cơ quan quyền lực, phục viên. Người ta có câu "đi đêm có ngày gặp ma" để hù những người không tin và sợ ma; người được thế giới tặng danh hiệu: "vua đi đêm" là tiến sĩ Henry Kissinger, sau nhiều lần đi đêm ngang dọc từ Âu, Á, Phi ... để tính chuyện trục lợi cho nước Mỹ, thì năm 1972, trong một chuyến đi đêm lịch sử đã gặp phải "ma Trung Cộng" nên bị đưa vào mê hồn trận, tự ý gở tấm bùa "cấm vận" cho con ma Tàu, từ đó nó mọc thêm nanh, tác yêu tác quái thế giới. Những người "nặng bóng vía" hay là không tin ma, tự tin, thì thường là hổng thấy ma nhát, được giới sợ ma cho là:

"Cao tài long hổ phục.
Đức Trọng quỷ thần kinh".


Cao cấp hơn ma là quỷ, yêu, tinh, quái ... là những "đỉnh cao trí tuệ loài ma", nên nhiều khi lộng hành, hiện hình cả ban ngày, khiến giới sợ ma càng "hoảng vía, kinh hồn", nếu là yếu tim cũng dám bị "stroke" khi thấy quỷ, yêu, tinh hiện nguyên hình nhát, dù có niệm Phật, đọc kinh, đưa cây thánh giá, thì "tình hình không thể đảo ngược được". Tây cũng tin có ma, nổi tiếng là ác quỷ Dracular, hiện hình, hút máu, bay như dơi vào đêm tối nhưng ngoài đời thì có mấy ai được "đoàn tụ" với ác quỷ Dracular, chỉ thấy nó xuất hiện trên màng ảnh do Hollywood thực hiện mà thôi. Nhiều người Việt tin có ma, nhất là theo các tôn giáo, con nít vì không nhận xét, ngây thơ nên dễ sợ ma khi được cha mẹ, người lớn "nhát ma" để nín khóc, không dám đòi bánh kẹo; dần dần biến con nít trở thành "giai cấp sợ ma không người lái". Người ta đồn ma phá phách, tác hại, nhưng có ai thấy ma quỷ phá đâu, chỉ thấy học trò lý lắc, tinh nghịch: "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò".

Nhờ nhiều người tin có ma, quỷ nên một thời "hưng thịnh" nghề thầy Pháp, kiếm ăn được lắm. Tuy nhiên, thầy pháp bị "thoái trào" trước những tiến bộ khoa học, thuốc men, phương pháp trị liệu, khám phá bịnh lý, vi trùng nên giới bác sĩ đã "lấy hết job" của thầy Pháp từ lâu. Tuy nhiên thầy Pháp lại "quá độ" sang thầy bùa, ngải vẫn hoạt động âm thầm, tích cực, song hành với giới thầy bói; thầy bùa, nhất là bùa Lỗ Ban có "nghiệp chuyên" dùng âm binh thần tướng, với lối cúng kiến, đọc vẽ các "mật nhiệm, mật từ, mật âm" để giúp cho các thân chủ đang lâm vào "tình huống cực kỳ khó khăn" về làm ăn, tình duyên, gia đạo có nơi để "giải tỏa tâm tình người Hà Tĩnh", là chỗ dựa cuối cùng sau những vấn đề nan giải trong cuộc sống nhất là ngày nay, sau khi Việt Cộng ban hành "tà sách" đổi mới để cứu đảng và đồng thời cũng là "tương kế tựu kế" thu tiền, nhận cấp viện, cũng "quá độ" từ Cộng Sản sang tư bản đỏ .... ở hải ngoại, có một số ông chồng già, bỗng sinh tật "hồi xuân" bỏ vợ già, vợ cũ, về Việt Nam cưới vợ nhí, vợ tơ mơn mởn như bản nhạc "tình già trên đồi cỏ non" của lão già nhạc sỡi PHẠM DUI, "yêu nhau đi, màn đêm xuống rồi", nay là công dân "chân dép râu" của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, khi mà "bên cầu Biên giới giữa Quốc-Cộng vẫn còn ngăn cách" do chủ nghĩa vô thần, bọn bán nước vẫn còn đây, mà nhạc sĩ Phạm Dui lại vượt cầu biên giới để làm "tà lọt" tuyên vận cho kẻ ác, tiêu tan: "kiếp cầm ca" và trở thành: "kiếp cầm CU cho chó đái".

Một số bà bị thất bại sau khi dùng son phấn, mỹ phẫm thượng hạng để trang trí cho bộ mặt được "mãi mãi xinh tươi", thì cố gắng "dậy mà đi", dùng tiền để "khắc phục" những "mặt yếu cơ bản" về tuổi tác, nhan sắc úa tàn theo thời gian, bằng cách đi tìm những "đốc tờ" danh tiếng nhờ giải phẫu thẩm mỹ: cắt mí mắt, độn mũi, xâm chân mày, đốt tàn nhang, nhuộm tóc, bơm mặt, căng da, chẻ môi, hút mỡ bụng .... và hình như có bà còn "cụ thể" hơn là đi "vá cửa mình" để cho ông chồng già, có được một thời: "trở lại chuyện hai chúng mình, khi em với anh vừa biết đam mê", nhớ lại cái thuở chàng ngồi rách cả đáy quần, mơ mộng lẫn MƠ MÔNG ... đít: "ai biết ai vì đời, cùng ngược xuôi lối mòn, ngày tôi hai mươi tuổi, em đôi tám trăng tròn, ta cùng dìu nhau trên lối nhỏ, xuân nầy thôi bỏ lúc hẹn hò ..." và một thuở HỌA DƯỚI MÔNG khi mà người si tình mơ màn trong giấc MỘNG DƯỚI HOA.

Nhưng rồi "có tiền nào mua được hạnh phúc", những ông chồng già sau khi "ăn cỏ non" và từng: "đi qua vùng cỏ non" thì trong lòng động não: "ngỡ mùa xuân đang tới, bâng khuâng thời thanh niên ...", thế là các bà từng "bị chồng bỏ, chồng chê" bèn nghĩ đến cái phao cuối cùng là "các thầy bùa". Chính nhờ thời cuộc mà giới thầy bùa không còn "lạc hậu, lỗi thời", cứ ngồi nhà, lập bàn thờ tổ, đèn nhang nghi ngút, thân chủ ùn ùn kéo tới như "ba dòng thác cách mạng dổm" mà lượm tiền thoải mái, không cần lao động mà lại vinh quang, nhất là các bà ở nước ngoài về, thì coi như trúng mánh, phước chủ may bùa. Những thứ bùa yêu, bùa lá, bùa mê ... đôi khi có kèm theo thuốc LÚ, được cái thầy bùa tận tình hướng dẫn và có "chỉ đạo" cho giới âm binh Đại Càn, âm thầm trong bóng tối, phò trợ cho các thân chủ, rình mò như các tên "du kích Việt Cộng" làm công tác khủng bố dân lành trước 1975, thừa cơ bắn sẻ, giật mìn, đặt chất nổ, pháo kích vào nhà thương, trường học ... mà được coi là "cách mạng vùng lên để GIẾT NGƯỜI", chớ không phải "ĐỔI ĐỜI".

Thuốc Lú có nhiều loại, nếu các bà muốn cho chồng bị U Mê "không ngừng nghỉ" thì cứ tìm cách mua cho bằng được lá cờ đỏ, treo ở Lăng Hồ Chủ địt, lá cờ nầy còn linh hơn là thứ mà người phụ nữ hay "động viên hàng tháng", mang về nhúng trong ly cocacola, cho ông chồng uống là hy vọng u mê, nói gì nghe nấy, là đạt "chất lượng", hiệu nghiệp lắm mấy bà có thấy không, trẻ con ở Việt Nam chỉ: "quàng khăn đỏ" ở cổ thôi, cũng trở thành u mê cả đời, hãy thử "lá bùa tiết canh" xem sao!. Tuy nhiên nếu các thầy bùa giỏi thì sao không dùng phép thuật, âm binh để ếm, giết hết khoảng chừng vài trăm tên ác ôn, quỷ vương trong Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, ếm sập cái Lăng Hồ Chí Minh .... thì toàn dân Việt Nam tôn vinh là "anh hùng dân tộc", khỏi phải làm nghề vẽ bùa, ếm, giải bùa ... lúc đó nhân dân nuôi mãn đời, danh thơm cả con cháu.

Ma, quỷ, yêu, tinh ... ai hoảng kinh là hay bị nhát, lâu dần trở thành "truyền thống sợ ma" thế là ma càng lộng hành. Những thứ nầy chỉ có người yếu bóng vía, tin có ma thì mới thấy ma, quỷ hiện hình. Nên người ta tin có nhiều loại ma như: ma cà ròng, ma xó, ma da (ở dưới sông, là bà con với Hà Bá), quỷ nhập tràng .... nhưng MA LAI thì cũng có nhiều "nguồn tin", từng là "bạt vía kinh hồn" giới sợ ma. Ma lai là thứ ma giống như người, tức là cũng bình thường, Tam Cùng với người, như đám Hồ Chí Minh thời suy yếu phải ăn bám nhân dân và sau nầy hại chủ: "cùng ăn, cùng ở, cùng làm". Ma Lai sống bình thường, cũng lập gia đình và ba đêm là rút đầu ra đi ăn, món ăn "khoái khẩu chất lượng cao" của Ma Lai là "Cứt", người sợ ma tin là khi bị ma lai "xơi" cái "tàn dư tư bản quí báu của chủ tịch Hồ Chí Minh" là coi như trước sau gì cũng bị "rút ruột" và ngày giã từ gác trọ không xa.

Thời xưa, người ta hay dùng tre gai rào chung quanh các nhà cầu để ma lai ngán mà không dám "tiến quân trên đường dài". Ngày nay ở Việt Nam, thì cầu ỉa cũng phải rào, được dân cảnh báo qua câu tục ngữ: "xã hội chủ nghĩa, cầu ỉa cũng rào", vì sợ người khác ăn cắp "cứt" mang về bón rẫy cá thể, ruộng ... gia tăng sản xuất, đóng góp công sức "xây rựng xã hội chủ nghèo", đóng góp chỉ tiêu sản xuất tới 9% chớ bộ giỡn hay sao. Ma lai ngày nay hổng còn lén lút, dấu dím và sợ bị "phát hiện", tại Việt Nam, ma lai lộng hành, nhan nhản khắp nơi, ma lai đi xe du lịch hạng sang, ở nhà lầu, uống rượu Tây, nhà cửa có công an bảo vệ. Ma Lai bây giờ "hiện đại" lắm, cũng là "cùng sống, cùng bóc lột, cùng đè đầu cỡi cổ" dân chúng. Ma lai nầy thuộc loại cao cấp, biến thành "quỷ lai" với các "chính quỷ" thi đua hút máu nhân dân; ma lai gởi ma lai "hậu duệ" sang du học, ma lai, quỷ lai hút máu và rút ruột, ăn chận, róc xương, xẻ thịt, không chừa bất cứ ai, kể cả người nước ngoài.

Mới đây con "quỷ lai" Huỳnh Ngọc Sĩ, phó giám đốc sở công chánh, giao thông thành Hồ bị các báo chí Nhật đưa tên là người nhận hối lội từ 4 tay doanh nhân nước Nhật, lãnh đạo công ty PCI (Pacific Consultants International), gồm các tay "quan hệ với quỷ lai" là: cựu chủ tịch Massayoshi, cựu tổng giám đốc Hunio Takasu, Thành Viên trong ban quản trị Haruo Sakashita và cựu giám đốc văn phòng đại diện ở Hà Nội Tsuneo Sakano .... đưa tiền nhét lên đến hơn 800 ngàn Mỹ Kim để được "quỷ ma" cho trúng thầu xây dựng xa lộ Tây-Nam và đường hầm qua sông Thủ Thiêm.

Dù kẻ đưa hối lộ bị bắt, phỏng vấn theo luật pháp của môt quốc gia dân chủ, nhưng người nhận hối lộ tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vẫn bình an, trái lại còn được cả hệ thống "đảng, nhà nước" binh vực, bao che, cho là những tin tức đó "thiếu trung thực", nên chúng đề nghị báo chí Nhật nên biết điều mà ngưng đăng những "nguồn tin tiêu cực" đó, có khả năng là "sứt mẻ tình hữu nghị Nhật-Việt" cũng là thứ "túi hở, tiền chui mất" thôi. Vụ nầy đang gây nhiều "sự cố" đang gây xôn xao trong dân chúng và nước Nhật, thì thêm cá i vết nứt của các đường cống dùng làm đường hầm ngầm đặt qua sông Saigon" làm cho vấn đề càng gây chú ý hơn. Đường hầm dài 370 thướt, sẽ được lắp ráp với 4 đốt hầm, nhưng theo sự đánh giá của viên Cục Trưởng Cục Giám Định Nhà Nước là Lê Quang Hùng, thì từ tháng 3 năm 2008, "Cục" đã "phát hiện" ra các vết nứt có bề rộng mà 1 mm, dài từ 2 đến 3 thước, cục trưởng trấn an bằng những "thuật ngữ nghiệp chuyên", nghe qua thì dân chúng cảm thấy yên tâm, nhưng cũng phập phòng vì chuyện nhà nước nói là điều "đừng nên tin", bây giờ thì "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà thấy như vụ sập cầu Cần Thơ năm 2007, là coi như quá trễ, rồi các thứ cục như thanh tra, cục quản lý, cục giám sát .... cùng nhau "tranh cãi" bằng mồm, viết ra tràng giang đại hải những "tham luận", cuối cùng thì "bị chìm xuống" và các con ma lai tiếp tục "dậy mà đi" rút ruột, hút máu.

Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước cai trị, tuyệt đại đa số là "lũ khỉ ngồi trên bàn", tất cả những chức vụ lãnh đạo từ: tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nhà nước, quốc hội, bộ trưởng, thứ trưởng ... đều do đảng đề cử, nên thuộc dạng chức dổm "không người lái" (tức là không phải do dân bầu). Bây giờ lại xuất hiện thêm nhiều CỤC, trước đây khi mới "phỏng dái" sau 1975, thì có cục đường sắt làm nhiều người dân miền Nam bỡ ngỡ như câu: "bâng khuâng chiều ba mươi tháng tư ...", tuy nhiên dân chúng thiếu các Cục đường cát, đường phèn, đường chảy, cục đường mống trâu, cục đường thốt nốt ... để ăn độn với bo bo, khoai mì, còn "cục đường đi" thì không ai chăm sóc nên thường gây ra tai nạn giao thông, rồi cũng bị đổ vào đầu "tàn sư chế độ Mỹ-Ngụy để lại", đúng là "trăm dâu đổ đầu tằm". Các Cục cứ phát huy, như cục thể dục thể thao, cục giám định, cục con nuôi quốc tế (do cục trưởng Vũ Đức Long lãnh đạo), cục nước thải, cục môi trường có thể có thêm nhiều Cục, như Cục Du đảng (do Nam Cam làm cục trưởng trước đây), Cục ma túy (được một số người Việt ở Úc gia nhập, có số tù khá cao) ... nhưng chắc chắn là các chủ Ao Cá Bác Hồ cũng luôn cần "CỤC-CỨT" để cho các đồng chí cá vồ lớn nhanh, lớn mạnh, lớn như thổi để bắt lên bán cho các công ty chế biến thành cá Basa xuất khẩu sang các nước "tư bản phản động".

Trung Cộng cũng như Việt Nam, là nơi sinh ra thế hệ MA LAI, được nâng cấp thành "đỉnh cao trí tuệ loài người". Ma Lai rút ruột các công trình xây dựng, nên cái gì của xã hội chủ nghĩa xây dựng là không "đảm bảo chất lượng" dù họ luôn dùng hai chữ "chất lượng" để nói về những thứ "không chất lượng" mà trấn an nhân dân, lừa đảo thế giới về "chất lượng" sản xuất; nhưng các sản phẩm có hàng chữ "Made in China" được coi là "kém chất lượng" đối với toàn thế giới. Trận động đất ở Tứ Xuyên vừa qua ở Trung Cộng là thành quả "chất lượng" của các công trình xây dựng: nhà cửa, cơ sở của bọn ma lai Trung Cộng thì vẫn bền vững; nhưng trường học, nhà thương, các cơ sở dành cho nhân dân thì SẬP LÁNG, gây chết chóc cho học trò, bịnh nhân ... thế mới biết trình độ rút ruột của đám ma lai Trung Cộng cao cấp lắm, là "đỉnh cao rút ruột loài người".

Ma Lai Việt Nam rút nhiều đoạn ruột trong thân thể Việt Nam, chúng muốn rút cả "những núm ruột nghìn dậm nối liền" từ "nghìn trùng xa cách, người vẫn quay về ... nộp tiền" qua du lịch, du hý, du dâm ... đám sư, linh mọp quốc doanh là thứ "ma lai" ngụy trang mặc áo tu sĩ, từ lâu nay cũng hăm hở sang "rút ruột" tín đồ, tín hữu mà vẫn còn nhiều kẻ u mê, đưa túi ra cho đám "ma lai đội lớp tôn giáo" hút thoải mái. Những con ma lai nằm trong các cộng đồng, cũng là thứ ma tam cùng: "cùng tỵ nạn, cùng sống trong nước, cùng sinh hoạt trong cộng đồng", đã và đang phối hợp với lũ ma, quỷ lai trong nước, hút máu người Việt hải ngoại qua chiêu bài "từ thiện", máu đã bị hút nhiều mà vẫn cứ cho chúng hút.

Do nhiều công trình bị ma, quỷ lai rút ruột từ "cơ sở, cơ bản" rút từ lúc mới có DỰ ÁN đến cả DẠNG Ứ được "qui hoạch" trên giấy, đến thực hiện, gói thầu ... nên các công trình xây dựng cầu đường, vận động trường, khu cư xá ... đều bị rút ruột nhiều lần, thì nào an toàn. Những ai về Việt Nam du lịch, thăm quê hương nên "đề cao cảnh giác trước những công trình bị rút ruột, do những âm mưu diễn biến tham nhũng" khi đi ngang qua cầu, đường hầm (nếu dự án đường hầm cầu Thủ Thiêm hoàn tất). Khi thành quả rút ruột xảy ra, thì hậu quả cũng nào tốt và hồ hởi phấn khởi cho dân chúng, và chắc chắn là đảng "MA LAI" không có cái "chế độ" bồi thường nạn nhân do các công trình nhà nước xây dựng, như các "nước tư bản phản động" có bảo đảm và bồi thường cho nạn nhân.

Trương Minh Hòa


Trương Minh Hòa

Monday, August 25, 2008

Tôi Vượt Biển Cùng Với Tác Giả «Đóa Hồng Gai»


Ngô Đông Cường

Vừa qua, tôi đã đọc thật kỹ về bài viết: Huyền Thoại «Hoạt Động Tình Báo Phượng Hoàng» của Nguyễn Thanh Nga tác giả «Đóa Hồng Gai» của Nhà bình luận Mai Vĩnh Thăng.

Tôi cũng như ông Mai Vĩnh Thăng, đã từ lâu tôi không muốn viết lên sự thật; bởi nghĩ rằng: Dưới ánh sáng mặt trời thì mọi sự không sớm thì chầy nó cũng sẽ được phơi bày một cách rõ ràng, nên không muốn nhắc lại chuyện xưa.

  • Nhưng, đến nay thì tôi tự thấy rằng mình cần phải nói tất cả sự thật, để ông Mai Vĩnh Thăng và đồng bào hiểu thêm về tác giả «Đóa Hồng Gai» là bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên và bây giờ là Nguyễn Thanh Nga.

  • Sau khi đọc cuốn «Hồi Ký Đóa Hồng Gai» ; tôi bỗng giật mình, bởi tôi nhớ lại những chương và những điều đã có ghi trong tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» của Việt Tân (bản photocopie) gồm 19 trang, đủ cả hai bản, một bản thảo viết tay và một bản đánh máy. Tôi vội vàng đem ra đọc lại; và bất ngờ tôi đã tìm ra đâu là sự thật.

    Trước khi nói đến tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» ấy. Trước hết, tôi xin tường thuật thật rõ ràng về chuyến vượt biển của tôi cùng bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» như sau:

    Chúng tôi bước lên tàu và rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm 07/09/1977, tại bãi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên- Huế.

    Chủ chiếc tàu này là ông Mai Văn Trúc, nhưng ông không đi vượt biển trong chuyến này, mà đã bán cho một người thân của gia đình ông, và là một người bạn thân của tôi. Chúng tôi đã đóng góp vàng để mua chiếc tàu này, đồng thời chúng tôi cũng đã mời ông Mai Văn Tre là em ruột của ông Mai Văn Trúc làm tài công và cùng đi với chúng tôi. Hiện nay ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ.

    Trở lại với chuyến vượt biển trên. Sau khi rời bãi Khánh Dương, tàu bị lạc hướng và tấp vào đảo Trường Sa lúc 01 giờ sáng ngày 10/09/1977. Sau khi tát nước chúng tôi liền rời khỏi Trường Sa, định chạy về hướng HongKong; nhưng một lần nữa lại bị lạc vào đảo Hoàng Sa vào lúc 03 giờ sáng ngày 11/09/1977. Chúng tôi đã bị quân đội Trung Quốc bắt giữ cho đến ngày 15/09/1977, lúc 16 giờ chiều, chúng tôi mới được cho đi. Chúng tôi liền rời Hoàng Sa để đi đến Hải Nam. Nhưng vì gặp bão quá lớn nên tàu đã bị trôi dạt và tấp vào bãi Thừa Lưu, Lang Cô, Thừa Thiên-Huế; và đã bị Công an Biên phòng Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tất cả những người đi trên tàu đều bị đưa về giam tại đồn công an biên phòng Thừa Lưu.

    Đêm 22/09/1977, lúc 20 giờ, tất cả bị đưa về giam tại Lao Thừa Phủ, Huế. Ngày 30/09/1977, tất cả bị giải giao về Đà Nẵng. Trong số này bị chia ra và bị giam hai nơi, một số giam ở «Đồn Công An Thành Phố Đà Nẵng» ở số 47, đường Trần Quốc Toản Đà Nẵng. Một số giam ở nhà giam Kho đạn, chợ Cồn ở số 15, đường Đào Duy Từ Đà Nẵng.

    Sau khi kết cung, tất cả lần lượt bị đưa vào các nhà giam: Hội An-Tam Kỳ và cuối cùng là Trại cải tạo Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng Nam.

    Trên chuyến tàu vượt biển này gồm có tất cả là 26 (hai mươi sáu người). Trong đó có:

    Ông Nguyễn Văn Nhứt: Thuyền trưởng.
    Ông Mai Văn Tre: Tài công (Hiện gia đình ông Mai Văn Tre đang có mặt cùng gia đình người anh ruột là Mai Văn Trúc tại Cali, Hoa Kỳ, như đã nói ở trên).
    Ông Nguyễn Văn Bé: Thợ máy
    Và các vị : Nguyễn Quang Mỹ cùng con trai là Nguyễn Quang Vui (Sinh viên)
    Ngô Đông Cường - Giáo sư Trần Công Ngạn - Giáo sư Đào Nguyên Dương là Giáo sư Trường Trung Học Sao Mai, Đà Nẵng.

    Hồ Minh Trung và con trai tên Hồ Minh Trực 11 (mười một tuổi) Nguyễn Văn Tùng (Hiện đã định cư tại Cali, Hoa Kỳ - Nguyễn Văn Cẩm, Hạ sĩ quan Hải Quân ...

    Trong số này, phía người Hoa có hai thiếu nữ và bốn người nam, ông Lưu Khánh Trường làm thông ngôn Hoa-Việt. Phía nữ người Việt, có hai người là cô Quỳnh Nga (tức Café Nga) và người anh tên Dũng (sinh viên) và một thiếu phụ, đó là bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên, bà này là vợ bé của bạn tôi là ông thuyền trưởng; và bây giờ bỗng dưng trở thành Nguyễn Thanh Nga tác giả «Đóa Hồng Gai». Nên biết, trong gia đình của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, trừ hai người con đầu đã chết, chúng tôi không biết tên; còn tất cả đều mang tên theo thứ tự như: Nguyễn Thị Ba - Nguyễn Thị Bốn - Nguyễn Văn Năm và Nguyễn Thị Sáu.

    Phía gia đình của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga gồm có năm người cùng đi trên chiếc tàu vượt biển này...

    Có một điều nữa, nhân đây, tôi cũng xin minh xác để ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre hiện đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ, hiểu được về số vàng 10 (mười) lượng đã không được trọn vẹn trước khi vượt biển. Số vàng ấy do chúng tôi đóng góp và chính tôi đã trao mười lượng vàng này cho bà Nguyễn Thị Sáu - Liên -Thanh Nga, và hai ngày sau cũng chính tôi đã cùng đi với bà Sáu -Liên -Thanh Nga đến gặp bà Mai Văn Trúc và người em chồng là ông ông Mai vănTre tại điểm hẹn. Và chính bà Nguyễn Thị Sáu -Liên - Thanh Nga đã cầm trên tay số vàng mười lượng này để trao tận tay của bà Mai Văn Trúc. Tôi tin tưởng bà Sáu -Liên -Thanh Nga, bà là vợ bé của bạn tôi. Tôi cũng hiểu bà Mai Văn Trúc cũng đã tin tưởng bà Sáu -Liên -Thanh nga, vì bà này là vợ bé của người thân của gia đình họ Mai, nên bà đã không cần kiểm tra trước. Còn một ân tình nữa mà chúng tôi không bao giờ quên được; là ông bà Mai Văn Trúc chỉ lấy tượng trưng có mười lượng vàng, rồi giao tàu cho chúng tôi vượt biển; chứ thực ra chiếc tàu ấy nếu bán cho đúng giá thì ít nhất cũng phải gấp đôi hay gấp ba. Tuy nhiên, vì biết chúng tôi không làm sao có đủ số vàng đó, nhưng lại muốn thoát thân, nên ông bà Mai Văn Trúc cảm thông mà giúp đỡ cho chúng tôi có được phương tiện để vượt biển, mà không tính toán gì cả. Nhưng chẳng may, chúng tôi cùng ông Mai Văn Tre và bà Sáu -Liên - Thanh Nga và tất cả đều bị bắt và ở tù.

    Sau khi ra tù, tôi được biết bà Mai Văn Trúc có gặp vợ chồng bạn tôi. Theo bà Mai Văn Trúc kể, thì sau khi chúng tôi vượt biển, bà đã đến một người bạn là thợ kim hoàn để kiểm tra số vàng mà do chính tay của bà Sáu - Liên -Thanh Nga đã trao tận tay cho bà Mai Văn Trúc. Nhưng sau khi kiểm tra, thì người bạn của bà Mai Văn Trúc cho biết là trong số mười lượng vàng đó, có hai lượng là vàng giả. Chúng tôi cũng biết mục đích của bà Mai Văn Trúc đến gặp bạn tôi, không phải để đòi chúng tôi phải trả thêm hai lượng vàng nữa, để cho đủ mười lượng; mà ý của bà Mai Văn Trúc là chỉ muốn cho chúng tôi biết là bà chỉ nhận có tám lượng vàng mà thôi.

    Nhân đây, chúng tôi những người đã gom góp số vàng trên. Trước hết, chúng tôi chân thành xin gửi đến ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre với tất cả lòng biết ơn sâu xa nhất. Chúng tôi cũng hiểu rằng, hiện nay hai gia đình họ Mai đã định cư tại Hoa Kỳ rồi, thì cả hai gia đình ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre cũng không cần đòi chúng tôi phải trả tiếp hai lượng vàng đó. Song ngoài sự biết ơn, chúng tôi cũng muốn nói với bà Mai Văn Trúc là chúng tôi đều là những người chân thật, chúng tôi không bao giờ đem vàng giả để trao cho bà; bởi như thế là bất lương, là lường gạt. Nhưng chúng tôi có lỗi, vì trong thời gian ấy, chúng tôi là những người đang sống trong lo sợ nên không dám giữ vàng trong người; song chúng tôi vì thiếu suy xét, nên đem lòng tin cậy mà đã dại dột đem trao mười lượng vàng ấy cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cất giữ cho đến ba ngày. Bởi vậy, chúng tôi không hiểu bà Sáu - Liên -Thanh Nga đã làm những điều gì, mà từ mười lượng vàng thật sau đó nó chỉ còn tám lượng với hai lượng vàng giả.

    Và vì thế, chúng tôi những kẻ đã thọ ân của hai gia đình họ Mai. Chúng tôi xin thành thật xin lỗi ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre. Mong hai gia đình cảm thông những điều thiếu sót đã qua.

    Khi nhắc lại những điều này. Chúng tôi muốn nhắc nhở cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga rằng bà đã từng đã gây nên những sóng gió. Trong đó có chuyện trước khi vượt biển, giữa lúc mưa bão mà bà đã dựng chuyện rằng:

    «Thằng Nguyễn VănTrường nó bị công an bắt rồi, nó đã khai hết tên họ của những người cùng đi với nó».

    Nên biết, suốt trong thời gian trước khi vượt biển, chúng tôi lúc nào cũng lo sợ sẽ bị công an đến bắt đi vào tù, nên không dám đi lại như những người bình thường. Chỉ có bà Sáu-Liên-Thanh Nga ở trong khách sạn Tao Nhã và khách sạn Đông Kinh tại Đà Nẵng. Chủ của hai khách sạn này là bạn của bạn tôi. Bà là đàn bà con gái nên chúng tôi đã tin cậy mà giao hết mọi việc cho bà. Đến khi nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như thế, chúng tôi hoảng hốt ai cũng đòi xuống tàu đi ngay. Ông Nguyễn Quang Mỹ còn nói:

    «Thà chết dưới biển còn hơn là bị công an bắt bỏ tù».

    Sau đó, đa số đã đồng tình đòi xuống tàu vì sợ công an đến bắt. Khi chiếc tàu rời bãi Khánh Dương thì gặp bão, và khi thấy mạng sống của mọi người vô cùng mong manh, lúc ấy, bà Sáu-Liên-Thanh Nga mới nói thật với bạn tôi rằng:

    «Em xin lỗi anh, vì nôn nóng muốn rời Việt Nam, nên em đã nói dối là thằng Trường nó đã bị công an bắt và đã khai hết những người cùng đi; chứ sự thật thì thằng Trường nó không có bị bắt. Bây giờ, chắc chúng ta sẽ chết dưới đáy biển, nên em muốn nói thật với anh để xin lỗi anh và mong anh tha thứ ».

    Sau khi nghe những lời này, bạn tôi và chúng tôi nữa đã vô cùng hối hận vì đã dại dột đặt lòng tin cậy vào bà Sáu-Liên-Thanh Nga, để xảy ra nông nỗi ấy. Để rồi tất cả phải vào tù của cộng sản.

    1. Những ngày lênh đênh trên biển:

    Chúng tôi không bao giờ quên được những ngày lênh đênh với sóng bão; khi tàu bị ngập nước bà Nguyễn Thị Sáu tức Liên-Thanh Nga đã ỷ lại là vợ bé của bạn tôi, là người mà nhiều người trên tàu rất quý mến, bà đã nói mọi người phải tát nước, riêng mấy đứa cháu của bà là không tát nước. Nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như vậy, Giáo sư Trần Công Ngạn đã lên tiếng phân giải rằng:

    «Nước đã tràn vào tàu nhiều quá, ai cũng phải góp một bàn tay tát nước, thì nước mới cạn, chứ không thì nếu chết thì phải chết tất cả».

    Giáo sư Trần Công Ngạn chỉ nói chừng đó thôi, như thế mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nổi Tam bành - Lục tặc lên bà la hét mọi người, bà còn mắng nhiếc cả Giáo sư Trần Công Ngạn; nhưng ông vốn là người tu hành nên ông chỉ chép miệng thở dài chứ không hề nói một lời nào cả. Giờ này, chúng tôi biết Giáo sư Trần Công Ngạn Ông đang ở đâu đó nơi hải ngoại, chắc một lần nữa ông cũng chỉ biết thở dài mà thôi.

    Ấy vậy mà trên sân khấu Thúy Nga ông Nguyễn Ngọc Ngạn đã ca «CÔ Nguyễn Thị Thanh Nga» tức bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga như là một nữ thánh. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga còn nói là bà «... không có cơ hội để lập gia đình ... » ( bà còn con gái). Mà kể cũng lạ, Bởi trước đây cũng trên sân khấu Thúy Nga, ông Nguyễn Ngọc ngạn trong trái phá B.40, ông từng tuyên bố:

    «Cuộc chiến cũ đã đi vào tiền kiếp».

    Trong chúng ta, có ai là người nhớ đến «Tiền kiếp» của mình. Như thế, tại sao ông Ngạn còn nhớ và nhắc đến cái «Tiền kiếp» vọng ngữ của bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Hay quả đúng như lời của cụ Gàn Bát Sách trước đây đã viết trên Văn Nghệ Tiền Phong:

    «Cái Tiền kiếp của Nguyễn Ngọc Ngạn, Tiền kiếp nghĩa là Kiếp làm tiền».

    Nếu chằng phải như thế, thì hà cớ ông Ngạn phải cải danh, từ cái Ruột Làng Hồng đỏ loét, trở thành cái vỏ Làng Mai ?

    Nên biết, trong những cuốn «Niên giám» và tài liệu cũ mà nhiều người còn lưu giữ, thì cái vỏ Làng Mai bây giờ nó đều ghi rõ ràng là Làng Hồng. Song cho dù có thay đổi cách gì chăng nữa, thì cái ruột của nó đời đời nó vẫn Đỏ loét. Hay Nguyễn Ngọc Ngạn cũng như Trịnh Công Sơn: «Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẽ loi …»

    Trên đây, là những chuyện ông Nguyễn Ngọc Ngạn đã từng gắn bó với những người trong «Tiền kiếp». Còn ở kiếp này, thì ngoài công việc đứng trên sân khấu Nguyễn Ngọc Ngạn cũng là người đứng trên đài «Tiếng Nước Tôi» mà nếu ai muốn biết thì xin hãy vào Diễn Đàn Mẫu Tâm (http://www.mautam.net/). Mục «Tin Tức Văn Nghệ Sĩ Hải Ngoại»; sẽ thấy có người đưa lên diễn đàn cho biết «Nguyễn Ngọc Ngạn trên đài Tiếng Nước Tôi». Nhiều người bạn của tôi, khi thấy hình ảnh Nguyễn Ngọc Ngạn trên cái «đài» này họ đã nói: Tưởng là ai chứ Nguyễn Ngọc Ngạn, thì bất kể thứ nước nào cha Ngạn này cũng chơi hết, chứ chẳng riêng gì cái nước tôi.

    Mà ai muốn nói đến Nguyễn Ngọc Ngạn thì «Đánh chó cũng phải ngó chủ nhà»; Nghĩa là phải xem chừng đến «ông» Thầy của Nguyễn Ngọc Ngạn là Nhất Hạnh. Trong trái phá B.40, Nguyễn Ngọc Ngạn đã cung kính gọi Nhất Hạnh là Thầy, và xưng Con; Nhất Hạnh là Thầy cũng là Sư Phụ của Nguyễn Ngọc Ngạn. Vì vậy, Nguyễn Ngọc Ngạn cũng có bà Sư Mẫu là Cao Ngọc Phượng, nên ai muốn «Đánh» … Nguyễn Ngọc Ngạn, thì «cũng phải ngó chủ nhà» là sư phụ và sư mẫu Nhất Hạnh-Cao Ngọc Phượng.

    Còn một điều nữa là bà Nguyễn Thị Sáu – Liên - Thanh Nga đã viết trong cuốn tạp nhạp «Đóa Hồng Gai» cũng như từng nói trên sân khấu Thúy Nga và nhà báo Vi Anh trên đài SBTN rằng «Công an Đà Nẵng đã vào Hố Nai bắt tôi vào năm 1976». Trong khi sự thực thì bà và chúng tôi đã bị Công an Biên Phòng Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20-9-1977, như đã nói ở trên. Điều này, chỉ đúng độc nhất là việc liên quan đến đứa con trai tên Dương của bà Sáu-Liên-Thanh Nga tại Hố Nai mà thôi. Chuyện liên quan này rất dài dòng nên khó kể hết; chúng tôi có thể kể ở những bài sau.

    Chúng tôi không biết những kẻ nào đã đạo diễn và viết cho bà những điều bịa đặt ngu xuẩn ấy. Vì một khi đã bị công an Việt Nam bắt giam thì bất kể là ai, cũng đều phải tự tay viết và ký «Bản Tường Thuật – Bản Sơ Yếu Lý Lịch - Bản Kiểm Điểm …; và đều phải chụp hình với hai tay nâng cái tấm bảng màu đen, có số tù màu trắng trước ngực. Bà Nguyễn Thị Sáu – Liên -Thanh Nga cũng không ngoại lệ. Hiện nay, tất cả các tư liệu do chính tay bà Sáu-Liên-Thanh Nga viết và ký, cũng như những tấm hình chụp có mang số tù, chắc chắn đều còn lưu giữ trong «Hồ sơ phạm nhân» tại các cơ quan công an Thừa Lưu - Lang Cô, Thừa Thiên - Lao Thừa Phủ, Huế, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Hội An - Ty công an Quảng Nam-Đà Nẵng và trại cải tạo Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng Nam, cũng như tất cả những tù nhân khác.

    Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» đã cùng đi với người chồng mà bà là vợ bé và cùng chúng tôi trên chuyến tàu vượt biển, trong đó có các vị mà tôi đã nói ở trên, đã rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại bãi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên-Huế. Đã bị Công an Biên phòng Thừa Lưu bắt giam. Sau đó bị giam tại lao Thừa Phủ, Huế, rồi bị giải giao về Đà Nẵng. Cưối cùng là Trại Cải Tạo Tiên Lãnh như đã kể ở trên. Chứ không hề có chuyện công an Đà Nẵng đã đi vào tận Hố Nai để bắt bà như những lời bịa đặt, dối trá của bà Sáu-Liên-Thanh Nga.

    Ngoài những chuyện đối trá đó, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không bao giờ dám nhắc đến chuyến vượt biển cùng chúng tôi ngày nào. Bà cố tìm cách để giấu kỹ, vì bà sợ mọi người sẽ biết là bà đã từng làm vợ bé. Nhưng tai hại thay, là chúng tôi những người cùng vượt biển, cùng bị công an biên phòng Thừa Lưu bắt, tất cả hiện vẫn còn sống. Chúng tôi là những người bạn của người mà đã lấy bà làm vợ bé; đa số đang có mặt tại hải ngoại; đông nhất là tại Hoa Kỳ. Chúng tôi có dự tính sẽ tổ chức một ngày họp mặt thân hữu, để cùng chia xẻ những buồn vui vượt biển. Lúc ấy, trên mạng lưới toàn cầu, chúng tôi sẽ mời tất cả những người cùng đi trên chuyến tàu vượt biên ngày ấy, chúng tôi còn nhớ tên, còn liên lạc với nhau. Bây giờ biết được tin tức của bà Sáu-Liên-Thanh Nga; chúng tôi cũng sẽ mời bà để cùng nhau ôn lại những ngày lênh đênh trên biển cả, cũng như những năm tháng bị đưa vào các nhà giam và tù cải tạo. Và chúng tôi cũng sẽ mời nhiều người đã cùng đi trên chuyến tàu vượt biển, đã rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại bãi Khánh Dương. Họ sẽ viết lại những gì đã xảy ra trên chuyến đi đầy sóng gió này. Sau đó sẽ cùng chọn tên để in thành Tuyển Tập Vượt Biển. Tôi biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga suốt đời sẽ không bao giờ quên được những gì đã xảy ra trên chiếc tàu vượt biển năm xưa, cũng như vẫn khó quên được cái tên Ngô Đông Cường này.

    Trở lại với cuốn «Hồi Ký Đóa Hồng Gai». Sở dĩ tôi quả quyết là có những kẻ đạo diễn và đã viết theo lời kể dối trá của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, vì tôi biết một cách chắc chắn là bà này không hề bước vào cái thềm của bậc Trung Học, chứ đừng nói đến Đệ Nhất Cấp hay Tú Tài. Tôi cam đoan, nếu bất ngờ, không có đạo diễn trước, mà có ai chỉ cần đọc cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga một đoản văn nào đó và bảo bà chép lại, thì chắc chắn bà sẽ viết sai chính tả ít nhất cũng quá năm lỗi. Hoặc có ai bất ngờ hỏi bà về một môn nào đó của chương trình Trung học, thì tôi biết chắc bà sẽ kêu nhức đầu rồi xỉu cho qua ải.

    Còn một điều khác là trong cuốn «Đóa Hồng Gai» tác giả là người Quảng Nam, nói tiếng Quảng Nam đặc như mọi người đã nghe thấy. Như vậy mà những từ ngữ trong cuốn «Hồi Ký» thì lại viết những từ rất Bắc như dùng từ «buồng giam», trong khi người Quảng Nam đều gọi là phòng giam ; về chế độ ăn uống của tù nhân bà đã viết: "…gồm một ít khoai, sắn, hay ngô …". Nên nhớ, là người Quảng Nam không bao giờ gọi là ngô mà gọi là bắp. Từ ngô là của người Bắc. Và trong cuốn «Hồi ký» này cũng đã viết từ Bố của người Bắc nhiều lần, trong khi người Quảng Nam ai cũng đều gọi đấng sinh thành của mình là Cha hoặc Ba chứ không bao giờ gọi bằng Bố.

    Chúng tôi vẫn nhớ rõ ràng lúc đi thẩm cung ở lao Thừa Phủ, Huế. Bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Thanh Nga khi một «Cán bộ Chấp pháp» hỏi đến phần trình độ học vấn bà đã nói nguyên văn là: «Dạ tui đã đậu Tú Từa Hưa». (Tôi đã đậu Tú Tài hai). Nhưng đến khi nộp «Bản tường thuật» thì «Cán Bộ Chấp Pháp» tay cầm «Bản tường thuật» miệng la lớn tiếng với bà mà ai cũng nghe cả, nguyên văn như sau:

    «Chị tưởng cộng sản là ai cũng dốt hết phải không ? Chị có biết tôi là ai không ? Chị khai là đã đậu Tú tài 2, mà chị viết một bản tường thuật chỉ ba trang giấy mà đã sai chính tả hết hơn hai chục lỗi à. Chị nói đã đậu Tú tài 2, thì tôi yêu cầu chị cho tôi biết là chị đã học ở Trường Trung Học nào, ban nào và các niên khóa, tên những ông Giáo sư chị đã học ? Chị cũng phải khai rõ chị thi Tú tài ngày tháng nào và ở đâu ?

    Tôi cho chị biết tôi đã từng sống và đã dạy ở nhiều trường Trung Học tại Đà Nẵng, Chị không biết tôi, nhưng nhiều học sinh Trung Học ở Đà Nẵng biết tôi đấy. Tôi cho chị biết, chị sẽ ở tù vì cái tội phét lác của chị, chị hãy ghi nhớ lấy lời của tôi nói hôm nay đấy nhé».


    Mà quả đúng như vậy. Không phải chỉ với «Công an Chấp pháp» mà ngay cả bây giờ bà Sáu-Liên-Thanh Nga cũng không trả lời được những câu hỏi ấy.

    Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã kể rằng, nhờ bà có tiền đưa cho công an Đà Nẵng, nên bà đã sao lục lại được các giấy tờ, thì bà cũng phải biết, người khác, nếu họ có tiền, thì họ cũng sao lục được những tư liệu của bà ở các cơ quan công an vậy. Song theo tôi nghĩ không cần phải có tiền, nhưng nếu có ai đó họ muốn làm sáng tỏ mọi việc, họ nêu ra những điều hợp lý, thì công an Việt Nam cũng sẽ cho họ những bản photocopie của những gì mà họ cần.

    Tất cả những điều tôi đã viết ra đây, không phải chỉ những người trên chuyến tàu vượt biển ngày nào, mà cả trại cải tạo Tiên Lãnh ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã từng làm vợ bé.

    … Bà Sáu-Liên-Thanh Nga có muốn chúng tôi viết lên những gì đã xảy ra tại Hố Nai và đứa con trai tên Dương của bà hay không ?


    Tôi vẫn nhớ, có một lần trong trại cải tạo, khi đội nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dõng làm đội trưởng khi đi lao động ngang qua trại nữ, lúc đó bà Sáu-Liên-Thanh Nga đang nhóm rác ở tổ vệ sinh trước trại; và Thiếu tá Trương Quang Dõng đã bị bà Sáu-Liên-Thanh Nga chửi mắng và đòi tát vào mặt vì cái «tội» nói bà là vợ bé của bạn tôi đến nỗi «cán bộ dẫn giải» phải đứng ra can thiệp. Anh Trương Quang Dõng và vợ là chị Tuyết cùng các con hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ.

    Tôi hiểu được tâm trạng đau khổ, hối hận của bạn tôi vì đã trót lầm lỡ lấy bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đến có con. Bây giờ bạn tôi đã sống ấm êm bên vợ và một đàn con cháu. Vì thế, nên bạn tôi không muốn các con của ông biết đến chuyện sai lầm của cha mình. Nhưng tôi nghĩ rằng các con của bạn tôi nay đã trưởng thành, có trình độ Đại Học, thì các cháu ấy sẽ không có sự trách móc gì đến chuyện sai lầm của cha mình trong quá khứ. Về phần người vợ của bạn tôi là một người rất rộng lượng, cảm thông. Nên tôi nghĩ rằng, đến một ngày nào đó, bạn tôi sẽ lên tiếng để nói lên mọi sự thật. Tôi đang chờ ngày ấy.

    Trong trại cải tạo ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga có biệt danh là «Con Liên Bẹc» «Bẹc» là một tiếng lóng trong trại có nghĩa là láo-phét, để chỉ người hay nói phét. Chính trong cuốn «Đóa Hồng Gai» bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã viết: «Liên là tên thường gọi của tôi». Và ông Phạm Hồng khi ngồi bên cạnh bà Sáu-Liên-Thanh Nga trên đài SBTN để trả lời phỏng vấn của nhà báo Vi Anh, ông Phạm Hồng cũng xác nhận là: «Đã nghe những lời của công an trại nữ nói về cái con Liên - Liên, cái con Liên-Liên đó».

    Bà Sáu-Liên-Thanh Nga chắc không bao giờ quên được cái tên Nguyễn Thị Liên từ đâu mà có chứ ???

    Cũng trong cuộc phỏng vấn này bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nói với nhà báo Vi Anh:

    "Tôi làm cả Tham Mưu và cả Hành Chánh. Tôi có quyền quyết định tất cả mọi việc …"

    Nghe những lời nói trên đây của bà Sáu-Liên-Thanh Nga, có nhiều người bạn của tôi đã nói là chắc bà này hoặc là điên, hay là «Điếc không sợ súng». Bởi bà không biết một điều sơ đẳng nào cả, không biết Tham Mưu và Hành Chánh là như thế nào nên mới nói càn, nói ẩu, hoặc phát cơn điên, nổi cơn hứng mới dám phát biểu một cách đại ngôn như vậy.

    Chẳng những Đại ngôn đâu, mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga còn lòi đến tận cùng của cái dốt khi lập đi, lâp lại với nhà báo Vi Anh rằng:

    «Tôi muốn cuốn hồi ký (Đóa Hồng Gai) được quay thành PHIN …».

    Tôi nhớ hôm đó, có mấy người bạn tôi ngồi xem, đến khi bà cứ nói PHIN …PHIN … PHIN thì ai cũng cười hết.

    2. Những hành vi của Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga trong trại "cải tạo":

    Lúc còn ở trong trại cải tạo, có lần tôi bị bệnh được đưa về nằm tại bệnh xá Trại 1. Tôi có quen biết nhiều nữ tù; trong đó có cô Hoàng Thị Ký An, là Ái nữ của Trung Tá Hoàng Nguyên Chỉ huy trưởng Quân lao Quân Khu 1, ông cũng ở cùng trại tù với con gái ruột là cô Ký An ; và tôi cũng thường gặp cô Ký An và nhiều nữ tù khác, mỗi lần họ vào bệnh xá trại nam để nhổ răng hay khám bệnh, vì trại nữ không có Bác sĩ. Vì vậy, nên tôi đã biết nhiều về những việc làm bất nhân của bà Sáu-Liên-Thanh Nga, kể ra thì nhiều lắm nhưng tôi chỉ nói qua một số ít như sau:

    Phải nói cho đúng là trong thời gian đầu kể từ ngày bị bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tại đồn công an biên phòng Thừa Lưu cho đến tháng 05 năm 1981, ở trong trại cải tạo bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn được nhiều người trong trại thương mến.

    Tại trại cải tạo hàng năm «Ban Giám Thị» đã nói có ba đợt tha tù đó là: «Sinh nhật Bác Hồ - Lễ Độc Lập 2-9 và tết Nguyên Đán, nếu ai học tập cải tạo tốt thì sẽ được tha».

    Bà Sáu-Liên-Thanh Nga, đã được tha vào dịp 19/05/1981. Bà đã vào hội trường trại nam cùng một số người khác học tập nội quy lần cuối, đã làm «Tờ kiểm điểm» để xuất trại. Nhưng bất ngờ đến buổi sáng ngày ra trại khi bà cùng một số nữ tù ra cổng để báo cáo xuất trại thì đã bị nghe đọc «Lệnh Câu Lưu Của Ban Giám Thị ».

    Thực ra bà không có tội gì lớn mà phải bị câu lưu, mà đã vì cái tội nói phét. Bà Sáu đã bị bà Nguyễn Thị Ngân một cán bộ can tội «Tham ô» hại bà. Bởi trong thời gian ở trại giam Tam Kỳ lúc đó Bà Sáu-Liên-Thanh Nga còn được gia đình thăm nuôi, còn bà Ngân thì không có ai thăm nuôi cả. Vì thế, bà Ngân vì thiếu thốn nên hàng ngày phải múc nước cầu thay cho bà Sáu mỗi phiên vệ sinh, ngoài ra phải rửa chén, giặt áo quần cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Bà Sáu-Liên-Thanh nga cũng cần một người như vậy, nên đồng ý cho bà Ngân ăn chung. Tại các trại tạm giam như Đà Nẵng-Hội An- Tam Kỳ thì các «Phạm nhân» đều bị giam chung một phòng. Nhưng khi bị giải giao lên trại cải tạo Tiên Lãnh, thì các tù nhân đều bị chia ra. Vì thế, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không ở chung phòng với bà Ngân. Tại trại cải tạo ai cũng phải biết một trong «35 điều nội quy» của trại là:

    « Điều 27: Nghiêm cấm mọi trại viên không được bắt người khác phục vụ cho mình ».

    Biết «Nội quy» là như vậy, mặc dù hai người ở riêng hai nhà, nhưng hàng ngày bà Ngân cứ đến xin thức ăn của bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Lúc bấy giờ, thấy không thể bắt bà Ngân phục vụ cho mình như trước nữa, vì sợ «Vi phạm Nội quy» nên bà Sáu không chịu giúp đỡ bà Ngân. Chính vì thế, bà Ngân đã làm một «Tờ trình» nghĩa là tố cáo bà Sáu-Liên-Thanh Nga lúc ở dưới trại tạm giam ở chung với nhau bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nói với bà rằng:

    «Ngày xưa tui làm lớn lắm, mỗi lần chính quyền ở quê tui mà bắt được Việt Cộng thì họ phải trói lại để dưới gốc cây đa, rồi cho người mời tui về nhìn mặt rồi mới đem ra xử bắn».

    Những lời bà Ngân tố cáo này tôi nghĩ cho đến nay cũng còn lưu giữ tại trại cải tạo Tiên Lãnh. Theo tôi, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga chỉ nói phét, chứ không bao giờ có cái chuyện chính quyền nào mà có những việc làm như vậy. Vả lại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga là cái thá gì mà quyền hành ghê gớm như thế ? .

    Chính vì vậy, mà bà bị «câu lưu» để điều tra. Cái miệng nó hại cái thân, bà bị đi thẩm cung nhiều lần. Nhưng không hề bị cùm giờ nào cả. Nên biết, nhà cùm biệt giam ở bên trại nam, trại nữ không có nhà cùm, nhà cùm này nằm ngay cạnh nhà 12, góc Hội trường của trại, gần cổng trại nam nhìn xuống nhà cấp dưỡng (nhà bếp). Trừ những người cựu tù trong trại cải tạo này đã và đang là đồng Đảng với bà Sáu-Liên-Thanh Nga, còn tất cả các vị khác đều công nhận những điều tôi nói là hoàn toàn đúng với sự thật. Cũng nên biết, mỗi lần đi thẩm cung, mọi người đều thấy bà Sáu-Liên-Thanh Nga, luôn luôn ngồi giữa thanh thiên bạch nhật trên chiếc ghế cạnh chiếc bàn được «Trật tự» trại đem kê sẵn ở ngay Hội trường, để bà Sáu-Liên-Thanh Nga ngối viết «Tường thuật». Nên biết là Hội trường trống trơn không có vách, nên ai cũng nhìn thấy cả. Mà chính vì nói phét nên bà viết «Tường Thuật» hoài mà «Cán bộ An ninh» chẳng hiểu một điều gì ; bởi vậy, nên bà cứ phải viết nhiều lần, chứ không có bị công an tra tấn, đánh đập gì cả. Nên biết, những «Cán bộ An ninh» này đều có «Trình độ nghiệp vụ» hẳn hoi, nên không dễ gì khai gian, nói dối. Khi tôi viết những điều trung thực này tôi biết rằng sẽ có người chụp mũ tôi là cộng sản hoặc bênh vực công an trại. Nhưng tôi không sợ, vì cộng sản mà biết nói những lời trung thực hay sao ? Và tại trại cải tạo này, tôi thấy chỉ có «Cán bộ dẫn giải» tức công an vũ trang là có quyền đánh tù nhân, có khi đánh đến trọng thương, nếu «Vi phạm Nội quy» như: Trốn trại, không chịu lao động ... còn «Cán bộ Quản giáo» và «Cán bộ Trực trại»thì không bao giờ đánh tù; nhưng lại có quyền lập biên bản mỗi lần tù nhân có những lời nói khinh thường «Các cán bộ» hay «Nói xấu chế độ» ... những «Tội» này một khi bị lập biên bản và đưa lên «Ban Giám Thị» thì chắc chắn sẽ bị vào nhà cùm hoặc bị «Câu lưu». Thời gian «câu lưu» tùy theo mức độ «Vi phạm».

    Sau một thời gian bị thẩm cung, có một lần bà Sáu-Liên-Thanh Nga bị cúp thăm nuôi. Và từ đó, suốt thời gian bị câu lưu từ tháng 5 năm 1981, cho đến ngày bà rời trại cải tạo, không có ai đi thăm nuôi bà một lần nào nữa cả. Trong thời gian này, phải nói là bà sống trong cảnh rất thiếu thốn. Hàng ngày với phần ăn của tất cả tù cải tạo đều chỉ được chia cho một chén sắn độn cơm (loại chén nhôm mà ngày xưa bộ đội miền Bắc thường dùng, nó lớn bằng cái bát uống nước loại nhỏ) và một tô canh rau muống hoặc đậu, bí, bầu … do tù sản xuất. Chỉ đến các ngày lễ như: Lễ Độc Lập 2-9, hay Tết Nguyên Đán … thì tù cải tạo mới được ăn «Bồi dưỡng» bằng cơm trắng và mấy lát thịt heo.
    Và cũng chính vì những sự thiếu thốn, gia đình không thăm nuôi vì bà chị đi buôn Sài Gòn bị tai nạn gãy tay. Cộng thêm với tánh tình và lời nói khiếm nhã, nên đã khiến các bạn tù mà từ lúc đầu mới nhập trại họ từng thương mến, nhưng sau đó họ bắt đầu xa lánh. Nên biết, có nhiều người trong trại không bao giờ có thăm nuôi, vì gia đình nghèo hoặc vợ đã bỏ đi lấy người khác, song họ vẫn được các bạn tù chia xẻ nên không quá thiếu thốn.

    Riêng bà Sáu-Liên-Thanh Nga, từ lúc bị câu lưu có thể vì quá sợ nên quẩn trí, tinh thần của bà mỗi ngày càng khác lạ. Rồi đến một ngày bà nổi điên, bà không làm ăng-ten lén lút, mà bà công khai trước mắt mọi người, hễ thấy trong trại có chuyện gì được cho là «Vi phạm Nội quy» là bà công khai gọi «cán bộ trực trại» đến để trình ; dù là chuyện nhỏ nhặt như đổi áo quần lấy quà thăm nuôi … bà trình tuốt luốt. Trình đến nỗi có những lần «Cán bộ trực trại» chán quá nên khi bà gọi: «Thưa cán bộ … Thưa cán bộ ...» là «Cán bộ trực trại» đã giả vờ không thèm nghe và bỏ đi không quay nhìn lại. Bởi thế, nên suốt ngày, đêm; suốt những tháng năm cuối trong trại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị các tù nhân đồng lòng cô lập; không một ai nói chuyên với bà, dù chỉ một lời thôi. Tôi còn được các bạn trong trại đã kể nhiều chuyện lắm, như chuyện bà đã đem lòng yêu say mê các Sĩ quan như anh Mai Chiến Hạ, Giáo sư Nguyễn Văn Phùng, anh Đỗ Phạm Hiển … trong khi họ chỉ xem bà như là bạn tù, chuyện đó dễ hiểu, bởi họ đều biết bà là vợ bé của bạn tôi và cũng là bạn tù của họ. Có lẽ sau khi đọc bài viết của tác giả Mai Vĩnh Thăng, tôi nghĩ rồi sẽ có nhiều bài viết của nhiều người cùng trại nữa, để mọi việc sẽ được rõ ràng hơn.

    Nhưng tôi biết chắc có một nạn nhân của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị «Kỷ luật» nặng nhất đó là bà Nguyễn Thị Cương, bà là vợ của ông Đặng Chua; nhà ở Phường Thanh Bồ, Đà Nẵng. Bà can tội đưa người vượt biển, vì bà đã đưa người em gái ruột cùng ba đứa con nhỏ đi vượt biển, để đoàn tụ với người chồng là một thông dịch viên ở trong quân đội Hoa Kỳ; ông đã di tản trước khi đất nước rơi vào tay của cộng sản. Vì vậy, mà bà đã bị kết án ba năm tù ở, khi vào trại bà Nguyễn Thị Cương cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung một thời gian. Nhưng không hiểu tại sao sau đó bà Cương không cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung nữa. Có người nói: Lý do là vì bà Sáu-Liên-Thanh Nga không có thăm nuôi, cũng có người cho rằng cái tánh tình của bà Sáu «Ưa làm bà nội người ta» nên bà Cương không chịu nổi, nên không cho ăn chung.

    Song, dù vì lý do nào đi nữa, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga cũng đã làm bà Cương phải bị câu lưu ba tháng. Đó là nhân ngày lễ giảm án hàng năm tại hội trường trại nam, vào tháng 5/1984. Bà Nguyễn Thị Cương đã được đọc tên là trại viên được giảm án sáu tháng. Nhưng đến ngày mãn án, bà Cương chuẩn bị để ra trại, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã làm «Tờ trình» với «Ban Giám Thị» nội dung nói bà Cương đã kể với bà Sáu-Liên-Thanh Nga là do chồng bà Cương chạy vàng cho tòa án nên bà được giảm án sáu tháng. Chuyện này hư thực ra sao, chồng bà Cương là ông Đặng Chua có chạy vàng hay không thì chẳng ai biết. Nhưng «Ban giám thị» đã gọi cả hai người, cả bà Cương lẫn bà Sáu-Liên-Thanh Nga đều phải vào Hội trường trại nam để viết «Bản Tường Thuật». Phần bà Cương đã viết là không hề nói chuyện đó với bà Sáu-Liên-Thanh nga; còn phía bà Sáu-Liên-Thanh Nga thì lại khai là chính bà Cương đã kể chuyện đó. Nhưng ai cũng hiểu, cho dù ông Đặng Chua có chạy vàng cho vợ được giảm sáu tháng tù thì cũng vì lòng thương vợ. Riêng về phía «Ban Giám Thị» cho dù có biết chuyện chạy vàng có thật, thì cũng ở dưới Tòa Án Thành Phố Đà nẵng, chứ công an tại trại cải tạo chắc chẳng có xơ múi gì. Nhưng «Ban Giám Thị» trại đã tuyên bố:

    «Trại viên Nguyễn Thị Cương đã bôi bác chế độ, chứ nhà nước XHCN luôn luôn trong sạch không bao giờ nhận tiền, vàng hối lộ. Vì vậy, chúng tôi quyết định câu lưu trại viên Nguyễn Thị Cương ba tháng và chịu phạt lao động công ích một tháng».

    «Lao động công ích » , nghĩa là phải lao đông 12 giờ một ngày, không được nghỉ trưa; và bà Nguyễn Thị Cương đã phải chịu đủ hình phạt ấy trước khi rời trại.

    Sau khi ra tù vì quen biết với ông Đặng Chua, tôi đã đến thăm viếng gia đình ông bà; đến lúc tôi định chào ông bà xin cáo từ, thì bỗng đâu có hai cháu, là con gái của ông bà xuất hiện trước mặt tôi, đó là cháu Đặng Thị Vinh và cháu Đặng Thị Hiển. Hai cháu đều nói với tôi:

    «Tụi con nghe nói bác cùng đi vượt biển với bà Liên, vậy tụi cháu xin bác chỉ cho tụi con biết cái mặt của bà Liên (tức Sáu-Thanh Nga) để tụi con coi thử cái mặt bả ra làm sao mà bả ác quá vậy ?».

    Tôi chưa kịp trả lời hai cháu Vinh- Hiển, thì bà Nguyễn Thị Cương liền kéo tay tôi ra hiên nhà nói nhỏ:

    «Tui xin ông, ông đừng có chỉ cho hai đứa nó biết mặt con Liên, vì tui sợ hai đứa nó tức giận, lỡ tụi nó đánh hay nó thuê người đánh con Liên là tui khổ lắm đó».

    Tôi hỏi: Sao chị lại khổ ?

    Bà Cương trả lời: «Vì nếu như vậy, công an mà bắt ra họ khai thác, họ sẽ biết hai đứa này là con gái của tui, thì họ sẽ bắt tui, họ sẽ nói tui thù con Liên, nên tui trả thù, mà tui sợ ở tù lắm ông ơi ! Một lần tui tởn tới chết. Vậy, tui xin ông đừng bao giờ chỉ cho tụi nó biết mặt con Liên nghe ông».

    Nghe những lời bà Cương nói như vậy, tôi đã hứa là không cho hai cháu Vinh-Hiển biết mặt bà Sáu-Liên-Thanh Nga; mặc dù lúc đó tôi cũng như nhiều người từng ở trong trại cải tạo Tiên Lãnh, đang sống tại Đà Nẵng, đều biết hàng ngày bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn đạp xe đạp đi đến ngồi bán thuốc lá lẽ ở ngã tư Chợ Cồn, Đà Nẵng.

    Sau một thời gian, tôi lại nghe những người cựu tù nói lại là bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị mấy người phụ nữ lạ mặt đánh cho một trận đòn chí tử, đi không nổi, phải bò, đến nỗi phải bỏ đất Đà Nẵng ra đi. Không ai biết người nào đã đứng đàng sau mấy người phụ nữ lạ mặt đã đánh bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Bởi lúc ở trong tù, bà đã gây thù chuốc oán quá nhiều.

    Trong lần thăm viếng này tôi có hỏi lại chuyện chạy vàng cho tòa án; thì ông Đặng Chua trả lời:

    «Tôi chẳng có chạy vàng, tiền gì cả. Chỉ vì bà vợ tôi, vì thương em ruột của bả nên đã đưa mẹ con nó đi vượt biển, để cho vợ chồng con cái đoàn tụ, còn vợ tôi không có vượt biển mà phải ở tù, trong khi các con tôi gồm năm đứa, chỉ có cháu Vinh và Hiển là lớn, còn ba đứa sau còn nhỏ, từ bốn tuổi, năm tuổi và bảy tuổi, mà thiếu mẹ; nên tôi đã làm đơn xin cứu xét gửi đến Tòa Phúc Thẩm Đà Nẵng. Vì thế, họ đã cứu xét và giảm án sáu tháng».

    Đó là chuyện thiên hạ sự. Hư thực như thế nào tôi cũng không cần biết. Chỉ thấy tội bà Cương phải bị câu lưu ba tháng tù, mà còn bị phạt «Lao đông công ích» nữa.

    Về những «Bản Tường Thuật» và những lời tố qua, tố lại do chính tay của hai người là bà Nguyễn Thị Cương và Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã viết và đã ký, tôi chắc hiện vẫn còn lưu giữ tại trại cải tạo Tiên Lãnh.

    3. Những Hoạt động trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh của tác giả «Đóa Hồng Gai»:

    Từ trang số 216, bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, đã kể rất nhiều về những hoạt động của bà và đã nhận tiền của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (tức Đảng Việt Tân) khi còn ở trong nước vào tháng 4 năm 1991; nhưng vì quá dài dòng nên tôi không thể trích hết vào đây. Tuy nhiên, tôi cũng phải trích vài đoạn ngắn như sau:

    «Về Sài Gòn được ít lâu, anh Nuôi đến tận Bàu Nai gặp tôi và hẹn tôi tới một tiệm ăn ở gần chợ Hòa Hưng, để gặp một đại diện của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mới ở Mỹ về.

    Trước đây, tôi đã nghe tên Mặt Trận Hoàng Cơ Minh khi đài BBC và báo chí trong nước tường thuật về cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh … Tôi nghĩ rằng đây là một tổ chức dám làm nên rất phấn khởi (từ phấn khởi này sao nghe giống Việt Cộng quá vậy ?) khi được gặp đại diện của Mặt Trận …. Anh Nuôi giới thiệu với tôi người lạ mặt đó là ông Phạm Trung Bửu, (Bí danh) Tổng Vụ Phó Quốc Nội của Mặt Trận…

    Trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai này, ngoài tôi, anh Nuôi và ông Bửu, còn có thêm anh Trung tá Tấn (hiện cũng đang ở Mỹ). Trong buổi cơm chiều hôm đó, ông Bửu đã trình bày cho tôi biết sơ qua về tổ chức của Mặt Trận và mục tiêu mà Mặt Trận muốn đạt tới. Ông nói ông có nhiệm vụ thiết lập thêm nhiều cơ sở hoạt động ở trong nước và hướng dẫn tôi về các phương thức xây dựng các cơ sở hạ tầng tại địa phương. Sau đó ông trình bày về các công tác mà Mặt Trận muốn giao cho tôi thực hiện. Ông hỏi tôi có thể đảm nhận những công tác đó không. Tôi bảo đảm với ông tôi thừa can đảm và kinh nghiệm để làm những chuyện đó. Ông liền giao cho tôi một số công tác để thử. Tôi đã hoàn thành không có gì khó khăn.

    Một thời gian sau, Mặt Trận có giao cho tôi những công tác khác và gởi cho tôi một số tiền để thực hiện các công tác đó. Tôi cũng đã hoàn thành một cách tốt đẹp ….

    Đến trang 232, chương Chân Trời Mới- Ra Hải Ngoại.

    «Khi tôi báo tin cho đại diện của Mặt Trận biết tôi được phái đoàn phỏng vấn … ông Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội đã yêu cầu tôi ở lại Việt Nam và hứa sẽ giúp tôi đầy đủ phương tiện để sinh sống và hoạt động, nhưng tôi từ chối, vì muốn đến Hoa Kỳ để chữa bệnh … Tôi có hứa tôi sẽ hoạt động trở lại sau khi chữa bệnh xong.

    … Mặt Trận cũng quan tâm đến tôi. Tôi mới đến Detroit mấy ngày đã nhận được thiệp chúc mừng của Vụ Tổ Chức và Huấn Luyện. Đại diện của các cơ sở Mặt Trận ở Canda và Chicago cũng đến thăm tôi. Cơ sở Chicago mua vé máy bay cho tôi đi Chicago ăn Tết. Tại đây, tôi được đón tiếp rất niềm nở. Cơ sở đã tổ chức một buổi tiệc tân niên lớn, có đông đủ đoàn viên đến tham dự. Trong buổi tiệc này, tôi được giới thiệu đứng lên kể lại cuộc sống trong trại tù cộng sản …Sau đó, Bác sĩ Trần Xuân Ninh, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân mời tôi dùng cơm riêng tại tư thất của ông bà … Sau đó, Giáo sư Vũ Quý Kỳ, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân đã mời tôi ăn cơm thân mật tại tư thất của ông bà…

    Tôi rời Michigan để về Cali vào ngày 10.3.1993, khi đang có những trận bão tuyết dữ dội. Trên đường đi, máy bay phải đổi giờ bay hai ba lần. Mãi đến hai giờ sáng, tôi mới tới phi trường Los Angeles. Người đón tôi tại phi trường là anh Đỗ Hoàng Điềm, Xứ Bộ Trưởng Nam Cali. Anh đưa tôi về nhà anh nghĩ qua đêm. Sáng hôm sau, anh Bùi Huy, Chi Bộ Trưởng, đến đưa tôi tới một căn phòng ở trên đường Kedge mà họ đã thuê sẵn của một gia đình người Việt Nam cho tôi ở, đồng thời hướng dẫn tôi về cách sinh sống và di chuyển trong vùng. Tôi rất mừng vì được sống trong một gia đình Việt Nam …

    Sau khi nơi cư trú của tôi tạm ổn định, những anh em trong Mặt Trận đưa tôi đến sinh hoạt với Tổ Chức Liên Minh Tự Do. Hàng tháng Mặt Trận có trợ cấp cho tôi một số tiền để mua sắm những vật dụng cần thiết …»

    Như tôi đã nói ở trên, bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đã kể lê thê về những hoạt đông của bà với Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, (Việt Tân) nếu phải trích, phải đọc cho hết, thì chắc các con cháu tôi phải kêu xe cấp cứu của bệnh viện, vì tưởng tôi bị bệnh thổ tả.

    Vì vậy, tôi xin dừng lại nơi đây; để trích qua đôi điều trong cái tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» gồm 19 trang ấy. Trong đó, có đầy đủ các phương thức trong toàn bộ sách lược hoạt động. Để mọi người thấy được phần nào về cái mặt thật của Tổ chức này và cũng từ đó cứ «Lấy trong ý tứ mà suy … » để hiểu thêm tại sao trong tổ chức này lại có vô số cái giả .

    Tài liệu này cũng đã có ghi nhiều tên đảng viên cộng sản thuộc hàng cao cấp nhưng tôi chỉ nêu lên một số ít như sau:

    Nguyễn Hộ - Hồ Hiếu - Dương Thu Hương …….

    Đến đây, chúng tôi lại xin phép được ngưng trích, và xin nói thêm là cái tên của một người, mà tôi đành phải để ba chấm ở trên mà không thể nêu đích danh; mặc dù trong tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» đã có ghi rõ họ tên. Chúng ta hãy chờ xem. Hỡi những kẻ bất nhân trong môt băng đảng gian manh, tàn ác, chắc các ngươi không thể nào ngờ được «19 trang của cái gọi là Tài Liệu Tuyệt Mật» cùng toàn bộ sách lược đã nằm gọn trong tay của một người xa lạ ???.

    Chúng tôi cũng thừa hiểu, khi biết chúng tôi đã có trong tay những tài liệu này, thì những tên đầu đảng phải tìm hướng đi cho khác với những gì đã ghi trong cái «Tài Liệu Tuyệt Mật».

    Nhưng cho dù có thay đổi bằng cách nào đi nữa, thì những nhân sự đã ghi đầy đủ ấy, không sao thay đổi được. Chúng tôi cũng tiên liệu được mọi điều. Vì thế, chúng tôi không công bố sớm, vì làm như vậy, chúng tôi xét thấy không có lợi. Nên cho đến bây giờ mới đem ra công bố một phần rất nhỏ để cho đồng bào được biết .

    Và bây giờ, tôi xin trở lại với tác giả «Đóa Hồng Gai». Trong thời gian qua bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đã được băng đảng này đưa đi diễn lắm trò, từ Mỹ, đến Úc, rồi sẽ đến Pháp và còn nhiều nơi nữa … Trước đây, tại Nam Cali bà ta đã lập ra cái gọi là «Hội Của Những Người Vợ Của Cựu Tù Trại Cải Tạo Tiên Lãnh». Bây giờ lại lòi thêm ra một màn «Đoàn ngũ hóa nhân dân». Mà có điều thật khôi hài, lố bịch là khi kéo nhau đi sinh hoạt, cho đến lúc đứng chụp hình chung với các bà trong cái hội này lại có «ông Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh. Và suốt trong buổi sinh hoạt đó Hồ Văn Sinh luôn có mặt bên cạnh bà Sáu-Liên-Thanh Nga tác giả «Đoá Hồng Gai». Sao lạ vậy ? Hội của các bà mà lại có «ông» Hồ văn Sinh ? Sao không dám nói Hồ Văn Sinh là cố vấn hay đạo diễn.

    Tôi biết đa số các bạn cựu tù của trại cải tạo Tiên Lãnh đang có mặt ở hải ngoại. Tôi nghĩ dù không nhớ hết, nhưng ít ra cũng biết và nhớ đôi câu trong một bản nhạc do "Nhạc sĩ" Hồ Văn Sinh sáng tác. Tôi còn nhớ khi mới nhập trại, tôi gặp Hồ Văn Sinh làm «Kỹ thuật».

    Nên biết, Hồ Văn Sinh làm kỹ thuật tại trại cải tạo; nhưng không phải là làm kỹ thuật máy móc, điện tử … mà làm kỹ thuật lao động. Nghĩa là ngày đêm phải «nghiên cứu» tức là phải nghĩ ra những cách nào để bắt tù cải tạo phải «lao động cho đúng kỹ thuật».

    Thí dụ, khi nam tù nhân thay trâu cày, cuốc cho nữ cấy thì phải đúng «kỹ thuật» là cày sâu, cuốc bẩm; còn nữ cấy thì phải thẳng hàng, với kỹ thuật là 4x4. Nghĩa là cây mạ nầy cách cây mạ kia phải đều nhau 4 cm và phải «đạt chỉ tiêu ba người 500 m2 (năm trăm mét vuông) một ngày. Khi nam đốn củi cho nữ tù vác xuống chất thành mét khối, thì phải «đạt chỉ tiêu chung bốn người 6m3 (sáu mét khối) trong ngày …. Còn nhiều thứ «kỹ thuật lao động» lắm mà chẳng làm sao kể cho hết được. Ngoài ra, Hồ Văn Sinh còn kiêm chức «Thường Trực Thi Đua» của Trại 1.

    «Thường Trực Thi Đua». Nghĩa là phải «khuyến khích» đội này «Thi đua» với đội khác. Đội nào kém hơn thì khi họp đội phải bị ghi trong biên bản là «Lao động chây lười» ; Mà trong những lần họp toàn trại «Ban giám thị» của trại luôn nói với tù cải tạo rằng: « Lao động là thước đo của thời gian cải tạo », thì mọi người đã hiểu «Lao động chây lười» thì cái thước đo ấy nó sẽ dài đến bao nhiêu ? Sau đó, Hồ Vãn Sinh được chuyển lên phân trại Thôn 5 để phụ trách đội văn nghệ; thì tôi cũng được chuyển lên phân trại Thôn 5 cùng trại với Hồ Văn Sinh.

    Ngay thời gian đầu mới phụ trách phần văn nghệ của trại; Hồ Văn Sinh đã sáng tác ra liền được một bản nhạc để ca tụng Đảng - Bác - Ca tụng trại cải tạo và để khuyên tù cải tạo đừng trốn trại. Bản nhạc này đã được lệnh của «Ban Giám Thị Trại» bắt buộc tù cải tạo mỗi lần sinh hoạt đội, hoặc sinh hoạt toàn trại, tất cả tù nhân nam, nữ đều phải vừa vỗ tay vừa hát. Nếu ai không vỗ tay, không hát sẽ bị vào nhà cùm kỷ luật. Dù thay đổi bao nhiêu lần «Giám Thị Trưởng» cũng như cả «Ban Giám Thị» Nhưng lệnh này vẫn không thay đổi. Nhân đây, tôi xin chép lại để mọi người thấy «ông nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh này còn vô liêm sỉ hơn cả Trịnh Công Sơn.

    Trong cuốn «Hồi ký Đóa Hồng Gai» ở trang số 131, tác giả có kể:

    «Sau những giờ lao động, tù nhân còn bị bắt buộc phải học tập chính trị, nghe đọc báo, tập hát … »

    Vậy, tôi xin chép lại nguyên văn bản nhạc mà tất cả các tù nhân ở trại 1 cũng như các phân trại khác thuộc trại tù Tiên Lãnh ai cũng bị bắt buộc «chấp hành mệnh lệnh của Ban Giám Thị» phải vừa vỗ tay, vừa hát, lời nhạc như sau đây:

    «Tiên Lãnh hôm nay sao mà đẹp thay, từng đồng lúa chín thơm ngát vầng trời mây … Ai tham gia lao động trên đất nầy … Ôi vinh quang thay … người lao động hôm nay… Ai … đến nơi đây mà lòng không thấy ngất ngây… Những cánh đồng thẳng cánh cò bay … những hương thơm cỏ cây ngan ngát … Nghe như chừng có Bác về đây … Ai biết chăng ai … ta hãy cùng nắm lấy bàn tay … quyết một lòng thi đua xây đắp … trên vùng đất này … để ta cùng dâng lên Đảng - Bác … những tấm lòng son sắt hôm nay.
    …………………………………………………………………………………………………. Tiên Lãnh mê say Thiên Đường là đây, từng đàn bướm trắng bay khắp từng ngàn cây ... Ôi như mơ như mộng bao tháng ngày ... Ta không ra đi ... ta ở lại nơi đây… Ta … ngắm mây bay mà lòng mê đắm ngất say … Những sớm chiều mây lững lờ bay … những nương khoai vườn rau xanh mát … Ôi bao đời mới có hôm nay … Mây biết chăng mây … ta đã tìm đến chốn nào đây… biết một lần muôn sau ôm ấp … trong lòng rất đầy … để ta về đêm đêm tỉnh giấc … vẫn nhớ hoài năm tháng hôm nay».

    Đó là những lời nhạc của «Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh người đã ở trong trại cải tạo vì tội Vượt Biển và là người phụ trách «Kỹ Thuật kiêm Thường Trực Thi Đua» và là «Trưởng Ban Văn Nghệ» của trại tù Tiên Lãnh.

    Ngoài những điều đã nói ở trên, Hồ Văn Sinh còn là một đệ tử thân cận của ông Võ Đại Tôn; mà trước đây từng tham gia trong cái gọi là «Hội Nghị Liên Kết Trong Ngoài». Tôi vẫn thuộc lòng bốn câu thơ của cụ Gàn Bát Sách đã viết tặng cái «Hội Nghị» này, và một lần nữa tôi xin phép Cụ để trích lại bốn câu thơ đó để mọi người đọc cho vui lời thơ như sau:

    «Chẳng thà nó nhỏ nó thong,
    Còn hơn nó lớn, nửa trong nửa ngoài.
    Chẳng thà nó nhỏ nó dài,
    Còn hơn nó lớn, nửa ngoài nửa trong».


    Rồi cụ viết tiếp: «… Đã vào thì phải vào tuốt ở trong, thì mới đã. Bằng không thì ở hẳn bên ngoài chứ cứ ở nữa trong nữa ngoài thì đâu có sướng ». Đó là những lời của cụ Gàn Bát Sách, cụ còn viết nhiều lắm, mỗi khi có thì giờ tôi lại lục tủ báo Văn Nghệ Tiền Phong, để đọc lại những bài viết vô cùng giá trị, của những cây bút đã từng nỗi tiếng mấy chục năm qua.

    Cuối cùng, để thấy được mọi việc một cách rõ ràng hơn nữa. Chúng tôi xin gửi đến quý vị đồng hương một đoạn ở trong tập «Nội San Việt Tân» nơi trang 9, số 38, tháng 7-8/1999, nguyên văn như sau:

    «Việt Tân xác nhận tính toàn dân của cuộc cách mạng tháng 8-1945 và tính tự chủ của chính quyền được hình thành vào tháng 9-1945; - Hai đặc tính Cách Mạng và Dân Chủ của Đảng Việt Tân».

    Đến đây, tôi thấy không cần phải viết thêm một điều gì nữa. Bởi, chừng ấy thôi. Ngoại trừ những kẻ đang theo đuổi bả Lợi-Danh. Còn đối với những người dân lương thiện, cho dù chỉ là một người dân quê ít học, với bộ óc bình thường nhất, họ cũng thấy rõ ràng cái bộ mặt thật của băng đảng này rồi. Chẳng có cách nào để biện minh cho những việc làm của đảng Việt Tân.

    Cuối cùng, với bài viết này, chúng tôi xin đề nghị quý vị cựu tù tại Trại cải tạo Tiên Lãnh; cả hai trại Nam và Nữ, ai còn nhớ về những bản nhạc của «ông Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh; cũng như những hành vi của hai Nhân-Vật nầy; nếu hiện nay không là Đồng Đảng với Hồ Văn Sinh và bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» thì xin hãy vui lòng liên lạc với Tin Paris để bổ sung thêm những gì còn thiếu sót mà chúng tôi chưa ghi chép đầy đủ.

    Ngô Đông Cường

    Lấy từ: http://tinparis.net/vn_index.html



    Trở Về