Wednesday, May 28, 2008

Tội Phạm Liên Thế Kỷ

Đỗ Thái Nhiên

Về phương diện thời gian, tội phạm được chia ra làm hai loại. Tội phạm tức thời và tội phạm liên tục. Một thanh niên vào quán rượu, sau khi quá chén, đương sự đã to tiếng với bạn nhậu và lỡ tay đánh chết nạn nhân. Hoạt cảnh vừa mô tả cho thấy tội phạm diễn ra trong nháy mắt. Đó là tội phạm tức thờị Ở vào hoàn cảnh khác, một nhóm băng đảng quyết định “kinh tài” bằng cách trồng, chuyển vận và giao bán cần sa. Công việc phạm pháp trôi chảy được một năm, sau đó tội phạm bị cơ quan an ninh khám phá. Đây là loại tội phạm liên tục, liên tục trong một năm. Thông thường tội phạm liên tục có thời lượng vài tháng, nhiều lắm là vài năm. Đặc biệt nhất, trên Quê Hương Việt Nam thời đương đại, có một tội phạm diễn ra trong nhiều thập niên, diễn ra từ thế kỷ 20 kéo dài qua thế kỷ 21 và hiện vẫn tiếp tục. Tội phạm kiểu này xứng đáng được gọi là “tội phạm liên thế kỷ”. Vụ án tội phạm liên thế kỷ có diễn tiến như sau:

    I. Vụ án cướp đất vô tiền khoáng hậu

Trên quan hệ giữa tài sản của người dân với đảng CSVN, từ rất nhiều thập niên qua, đảng này thường xuyên khẳng định: đảng quyết tâm không bao giờ chạm tới cây kim và sợi chỉ của nhân dân. Thế nhưng đối với nhà cửa, ruộng đất của người dân đảng lại long trọng tuyên bố “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tập thể”. Trong thực tế, đảng và nhà nước là một. Trong thực tế, ông chủ có tên gọi là “làm chủ tập thể ” chỉ là một loại hư chủ, một loại chủ chỉ có ở các biểu ngữ viết trên vách tường. Trong thực tế, đảng CSVN thâu tóm toàn bộ đất đai của nhân dân vào trong tay đảng. Đảng tùy nghi lấy đất đai kia chia chác cho đảng viên và gia đình.

Năm 1955, nhằm “dạy” cho nhân dân hiểu rõ thế nào là làm chủ tập thể, CSVN đã mở trận đánh cải cách ruộng đất. Sau đó đảng CSVN thâu tóm toàn bộ đất đai miền Bắc, biến khối đất đai kia thành tài sản riêng của đảng.

Sau 30 tháng 04/1975, thông qua nhiều tác vụ khác nhau: tù học tập cải tạo, đánh tư sản, đánh tiểu thương, đánh văn nghệ sĩ…CSVN đã nắm giữ trọn vẹn các loại đất trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Nói rõ hơn, sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, CSVN trở thành chủ nhân ông duy nhất và đầy quyền lực của toàn bộ bất động sản trong Nam cũng như ngoài Bắc. Cái gọi là “đầy quyền lực” kia được che đậy dưới danh nghĩa “đất đai là của toàn dân, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo”. Danh nghĩa này sản sinh ra hậu quả pháp lý rằng: ngoại trừ quyền sử dụng đất, không người nào dưới chế độ CS được quyền làm chủ đất thông qua sự nhìn nhận của qui chế bằng khoán điền thổ.

    II. Những khó khăn của giới cướp đất
Giữa thập niên 1980, kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa đi vào ngõ cụt. CSVN bị buộc phải đầu hàng và chạy theo kinh tế thị trường. Thế rồi CS cho phép đảng viên làm giàu. Thế rồi đảng viên CS trở thành tư bản đỏ, đại gia đỏ. Thế rồi đảng viên CS mở rộng tầm vóc kinh doanh trên địa bàn quốc gia cũng như quốc tế. Sau nhiều cái "thế rồi” vừa kể, CSVN hiện phải đối mặt với ba nan đề sau đây:

Một là: Nếu chẳng may, một ngày nào đó, chế độ Hà Nội bị nhân dân lật đổ, giới tư bản đỏ, đại gia đỏ lấy hồ sơ pháp lý nào để chứng minh họ là chân chính sở hữu chủ của những bất động sản mà họ chiếm giữ?

Hai là: Trong trường hợp họ chết đi, bằng cách nào di sản của họ có thể chuyển giao lại cho thừa kế của họ một cách hợp pháp?

Ba là: Tư bản đỏ, đại gia đỏ làm chủ nhiều bất động sản rất quan trọng. Thế nhưng trên thực tế pháp lý, họ chỉ là những người sử dụng chứ không là sở hữu chủ của bất động sản. Họ không có bằng khoán điền thổ. Từ đó khi cần, họ không thể để đương bất động sản, chuyển nhượng bất động sản. Đây là các kỹ thuật pháp lý tài chánh rất phổ quát trong hoạt động kinh doanh của kinh tế thị trường tự dọ Thiếu kỹ thuật pháp lý tài chánh kia, hoạt động kinh doanh bị bó hẹp rõ rệt. Sức bó hẹp này sẽ trở nên vô cũng trầm trọng khi công việc kinh doanh diễn ra trong khung cảnh kinh tế toàn cầu hóa.

    III. Gian mưu giải quyết khó khăn

Làm thế nào giải trừ được ba khó khăn nêu trên? Sau đây là câu trả lời:

Ngày 5 tháng 5 năm 2008, CSVN triệu tập tại Saigon một hội nghị lấy tên là Hội Nghị Góp Ý Sửa Đổi Luật Đất Đaị Hội nghị này đề cập tới rất nhiều vấn đề về đất đai. Tuy nhiên muốn hiểu chính xác một việc làm của CS, người dân cần nhận định đâu là diện, đâu là điểm.

Tại hội nghị sửa đổi luật đất đai, ông Phạm Khôi Nguyên, bộ trưởng bộ Tài Nguyên-Môi Trường tuyên bố: “Sửa đổi luật đất đai lần này sẽ chú trọng đến vấn đề đất trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực quốc giạ Phải tính toán được làm sao đến năm 2030, khi dân số tăng lên 150 triệu người cũng phải đảm bảo cung ứng đủ lương thực.” Khó khăn hàng đầu của nông nghiệp Việt Nam hiện nay không là thiếu diện tích trồng lúa mà là tệ nạn nông dân bị bóc lột đến độ họ phải từ bỏ đồng ruộng (Bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 23/5/08). Như vậy, vấn đề diện tích trồng lúa chỉ là diện, chỉ là tấm bình phong để che dấu hậu ý trọng tâm của việc sửa đổi luật đất đaị Hậu ý kia là gì? Điểm của hội nghị sửa đổi luật đấy đai nằm ở đâu?

Điều 63 khoản 1, luật đất đai số 13/2003/QH11, ngày 26/11/2003 của CSVN chỉ cho phép việc giao dịch trong thị trường bất động sản Việt Nam chỉ diễn ra trên căn bản quyền sử dụng đất chứ không là quyền chủ đất. Qua đến ngày 5/5/2008 tại Saigon, điều 63 khoản 1 được đề nghị sữa đổi như sau: “Chính phủ qui định điều kiện để các đô thị, khu vực qui hoạch phát triển đô thị được phép thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở theo hình thức phân lô bán nền. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định khu vực được thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà để ở, để bán, cho thuê; khu vực được thực hiện dự án xây dựng nhà ở theo hình thức phân lô bán nền”. Nói ngắn và gọn, điều 63 khoản 1 sửa đổi luật đất đai cho phép chính phủ đứng ra bán đất(phân lô bán nền) và người mua đất được cấp chứng khoán điền thổ theo đúng luật sở hữu bất động sản của guồng máy kinh tế thị trường. Người mua ở đây hiển nhiên tuyệt đa số là giới tư bản đỏ, đại gia đỏ và những tùy tùng quyến thuộc của họ. Dân oan vẫn là dân oan. Nông dân vẫn triền miên đói khổ. Khủng hoảng lương thực trên toàn thế giới làm giá lúa gạo tăng cao vùn vụt. Giới nhận được lợi nhuận khổng lồ do sự lên giá kia không là nông dân mà lại chính là gian thương nông phẩm liên kết với nhà cầm quyền CSVN. Ngày xưa chủ ruộng là phú nông, là đại địa chủ. Ngày nay chủ ruộng hiển nhiên là đảng CSVN. Nông dân không là gì khác hơn là đội ngũ cày mướn, đội ngũ bần cố nông.

Không còn nghi ngờ gì nữa, hội nghị sửa đổi luật đất đai 5/5/08 chỉ là cơ hội để CSVN biến giới cướp đất trở thành những sở hữu chủ lành mạnh được luật pháp của CSVN nhìn nhận và bảo vệ thông qua thủ tục cấp bằng khoán điền thổ. Những thiệt hại của vô số nạn nhân của vụ án cướp đất, đặc biệt là dân oan và nông dân không là chủ đề thảo luận của hội nghị 5/5/08.

    IV. Các lý lẽ luận tội
Tư cách pháp lý của những phạm nhân.

Trong mọi hành động cưởng chiếm đất đai của người dân, của quốc gia, CSVN bao giờ cũng tự nhận là họ đã hành động nhân danh chính quyền nhân dân, chính quyền cách mạng. Thế nhưng quyền lãnh đạo đất nước do CSVN nắm giữ chỉ là lãnh đạo tự phong, quyền lãnh đạo xuất phát từ họng súng. Ngoại trừ những lần bầu cử dối trá do CSVN tổ chức, nhân dân Việt Nam không hề, dầu chỉ một lần, bầu chọn CSVN vào vị trí lãnh đạo quốc giạ CSVN hiển nhiên là một loại cầm quyền phi chính thống, một loại ngụy quyền đích thực. Như vậy khi luận tội cướp tài sản của nhân dân và của quốc gia, luật pháp sẽ xét xử CSVN như một nhóm tư nhân phạm pháp. Thủ tục tố tụng hình sự đối với tư nhân phạm pháp đơn giản hơn đối với một nhà cầm quyền chính thống.

    Nội dung tội phạm

    Nhiều thập niên qua mà cải cách ruộng đất 1955 và tù “học tập cải tạo” 1975 là hai mốc thời gian quan trọng, CSVN dùng công an và gông cùm để cưởng chiếm đất đai, ruộng vườn của quần chúng nhân dân. Khối bất động sản mênh mông bị mất vào tay Cộng Sản rõ ràng là của gian. Hội nghị 5/5/08 tại Saigon có chủ ý biến của gian thành của ngay bằng cách cung cấp cho mỗi của gian kia một bằng khoán điền thổ. Nói cách khác, CSVN đã thực hiện tội ác cướp đất theo hai bước. Bước một(từ cải cách ruộng đất 1955 đến 2008)cướp đất bằng súng đạn và nhà tù. Bước hai(bắt đầu từ hội nghị 5/5/2008) dùng luật pháp ngụy trá để “hợp pháp hóa” đất đai đã cướp được. Như vậy tội phạm này đã kéo dài từ giữa thế kỷ 20 qua đầu thế kỷ 21 vẫn chưa kết thúc. Đây quả là một tội phạm liên thế kỷ. Tội phạm liên thế kỷ này nên được nhận diện qua hai lãnh vực luật pháp khác nhau.

    Hình luật quốc gia: Vụ cướp đất liên thế kỷ là một vụ trộm tài sản của người khác với sự hổ trợ của bạo lực. Hình luật tổng quát xếp loại tội phạm này là tội trộm với trường hợp gia trọng. Tính gia trọng còn bộc lộ do vụ cướp đã diễn ra ở tầm vóc đại qui mô, có hệ thống, được dàn trải trong không gian và thời gian rộng lớn.

    Luật Nhân Quyền Quốc Tế: Điều 17 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền qui định: “Ai cũng có quyền sở hữu hoặc riêng tư, hoặc hùn hạp với người khác.Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán”. Trong vụ án tội phạm liên thế kỷ, hành động tước đoạt tài sản của người khác đã diễn ra theo trình tự: tư sản thành cộng sản, sau đó cộng sản thành tài sản riêng của đảng viên đảng CS, tư bản đỏ, đại gia đỏ. Đi kèm với trình tự kia bao giờ cũng có thảm cảnh máu đổ, thịt rơị Nạn nhân của tội phạm này không là vài cá nhân mà là toàn dân Việt Nam. Nói ngắn và gọn tội phạm liên thế kỷ là tội ác chống lại nhân loại.

    Mỗi quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng, nhưng không quốc gia nào không có điều luật qui định rằng: khi nhận biết một tội phạm đang diễn ra, tất cả công dân, không loại trứ bất kỳ người nào, đều có nghĩa vụ phải tìm đủ mọi phương cách chấm dứt hành động phạm pháp kia trong một thời hạn ngắn nhất. Muốn chấm dứt hành động phạm pháp trong hồ sơ tội phạm liên thế kỷ, toàn thể người Việt Nam trong cũng như ngoài nước hãy cùng nhau nổ lực hạ bệ nhà cầm quyền CSVN. Sau đó mang nhóm tư nhân tự nhận là nhà cầm quyền này ra trước ra trước tòa án hữu thẩm quyền để bị phán xử về tội phạm liên thế kỷ của họ. Đó là chân ý nghĩa của nghĩa vụ đấu tranh cho công lý vậy.

    Đỗ Thái Nhiên

    Chuyện dài "Thằng Cộng Sản (TCS)"

    Về Bài Viết "Trịnh Công Sơn Vượt Trên Chính Trị"

    Thụy Ái
    Tâm Thức Việt Nam

    Bài viết “Trịnh Công Sơn vượt trên chính trị” của tác giả Như Hà ngày 15 tháng 5 năm 2008 đăng trên báo Tổ Quốc trong nước, thoáng đọc thì thấy tác giả ca tụng Trịnh Công Sơn dựa trên những lý lẽ có vẻ khách quan. Tuy nhiên, đọc kỹ, người đọc sẽ thấy bài viết chỉ là một thể văn có tính cách huê dạng loanh quanh quỷ biện. Tức là tác giả chỉ đưa ra những luận cứ mâu thuẫn hay không bằng cớ để bào chữa, biện hộ và giải thích một cách trật lất, thoáng nghe thì có vẻ xuôi tai, có thể lừa được những người không quan tâm hay thiếu dữ kiện.

    Trước hết, qua các phản luận mà tác giả Như Hà cho là cáo buộc Trịnh Công Sơn “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” của người quốc gia, dựa theo lời tường thuật trên mạng của Bùi Văn Phú, người đã kể lại những nhận định về TCS của một nhân vật tình báo cao cấp VNCH, để đưa đến kết luận rằng lời cáo buộc cho Trịnh Cộng Sơn “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” là sai. Tuy nhiên Như Hà cũng công nhận, những lời chạy tội cho TCS thật ra chỉ “dựa vào những nhân chứng không có tính thuyết phục cho lắm” [?!] Và cũng từ nhân vật mà tác giả cho là “nhìn đâu cũng thấy đặc tình” này, Như Hà đã đưa ra hình ảnh một Trịnh Công Sơn “rất nhân văn,” Như Hà viết: “Không như bao người khác ra đi vì mục đích cá nhân, ông [TCS] ở lại cũng không phải vì ông. Tất cả những trăn trở đó, ý nguyện đó và mục đích đó đã được ông thể hiện qua ca phẩm "Một cõi đi về" đến độ nao lòng đầy thổn thức. Qua những lời ca thắm thiết đến độ tàn nhẫn, ông muốn nhắn gửi tới cho đời, cho người về một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn lao[?1] Tự trong tâm khảm tự trong đáy lòng tình yêu tổ quốc, tình yêu quê hương của ông được thể hiện nồng nàn và da diết trong ông! Sự hiện diện của chế độ này hay chế độ kia không phải là điều ông quan tâm. ” [!?]. Qua đoạn văn trên, tác giả Như Hà cố suy diễn để biến TCS thành một con người phi chính trị mà yêu nước và cao thượng vì người.

      Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
      Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
      Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
      Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

      "Một cõi đi về"

    Sự việc Như Hà viện dẫn Michael Jackson và người Nhật ra để ca tụng nhạc TCS cho thấy một điều không được bình thường cho lắm, sự ca tụng này nếu không là biểu hiện đầu óc vọng ngoại cần phải lấy tiêu chuẩn ngoại quốc để lượng giá, thì cũng là một cách khai thác tâm lý tự ti mặc cảm của một quần chúng VN sau nhiều năm chiến tranh vì những can thiệp ngoại quốc. Nếu Như Hà cho rằng TCS ở lại vì tổ quốc thế thì trong sự ở lại này TCS đã đóng góp được gì cho tổ quốc ngoài sự chìm đắm trong men rượu sau khi nhận thức được sự mê muội sai lạc của mình về chế độ cộng sản? Xin trích dẫn một đoạn Như Hà viết về TCS: “Quan điểm của ông [TCS] và sự ngộ nhận của ông về một chế độ chính trị khi chưa từng sống trong lòng con "quái vật" đã làm ông câm nín, nghẹn tắc khi đã nhận diện rõ nét chân dung và bản chất con "quái thú" khi ông đã chiêm nghiệm và chứng kiến.” Hay, “Chính trị đối với ông nó như một thứ ngôn ngữ xa lạ và khó hiểụ Ông công nhận sự hiện diện của thể chế chính trị nhưng chấp nhận nó lại là điều khác.” Qua các đoạn trích dẫn trên người đọc có thể thấy tất cả những điều mà tác già đưa ra chỉ là sự suy diễn một cách tùy tiện tâm trạng của TCS, không có gì chứng tỏ là đúng.

    Tác giả Như Hà ngoài ra cũng đưa ra sự cáo buộc “Có một số người cực đoan quá khích cho rằng một trong những chỉ dấu để lên án Trịnh là bởi ông không chịu di tản, rời bỏ chế độ cộng sản phi nhân, họ cho rằng việc đón nhận và chấp nhận chung sống với chế độ độc tài của ông là sự đầu hàng không thể tha thứ, là sự sỉ nhục không thể chấp nhận.” Qua sự cáo buộc ở trên không biết là có nhiều người ghét TCS vì TCS không di tản hay không, nhưng có một điều chắc chắn là TCS đã bị người sống ở miền Nam khinh rẻ bởi vì thái độ “30 tháng 4” của TCS, khi TCS a dua lên đài phát thanh ca tụng cộng sản, và tiếp tục làm nhạc, tuy ít thôi, để ca tụng chế độ mới trong khi toàn thể miền Nam đang đắm chìm trong đau khổ, hàng trăm ngàn người dân miền Nam chết tức tưởi trên đường chạy trốn chế độ, hàng trăm ngàn quân nhân viên chức VNCH đã bị tập trung vào trại cải tạo, chịu những cuộc sống nhọc nhằn đầy đọa, cùng lúc gia đình của họ phải bị đầy lên các vùng kinh tế mới đất khô cằn, rừng sâu nước độc, lam sơn chướng khí. Như Hà cho TCS là “một người sâu thẳm mà đằm thắm, cao thượng và nhân văn, mà chỉ có một nhân cách lớn mớí đánh giá hết được con người Trịnh. Chỉ có người nhân cách mới đánh giá được con người nhân cách lớn.” Thực chất qua các tài liệu nghiên cứu sau này, trong đó có bài của tác giả John C. Schafer, và các nhân chứng biết TCS, người ta được biết rõ rằng TCS và KL là hai người từng nghiện ngập ma túỵ TCS đã sống nép dưới sự bảo trợ của một số nhân vật quyền thế miền Nam thích nhạc của TCS để trốn lính và để viết lên những bài ca phản chiến ru ngủ tinh thần đấu tranh bảo vệ đất nước của người dân miền Nam, trong đó bài “Đại bác ru đêm” là một điển hình.

      Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
      Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
      Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.
      Hàng vạn chuyến xe, claymore lựu đạn
      Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
      Từng vùng thịt xương có mẹ có em
      “Đại bác ru đêm”

    Trong suốt thời gian của Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn ở Huế và đã thấy những xác người nằm chết la liệt trên khắp những con đường, trên khắp những dòng sông. Những người này đã bị giết bởi bộ đội của Mặt trận Giải phóng miền Nam và bộ đội Bắc Việt. TSC sau đó đã viết lại hình ảnh những xác người và những con người hoá điên trong Tết Mậu Thân qua các nhạc phẩm: “Hát trên những xác người” và “Bài ca dành cho những xác người,” để diễn tả nỗi đau khổ của con người trong cuộc chiến, nhưng lại coi thái độ bảo vệ đất nước của chính quyền miền Nam và người dân miền Nam trước hành vi xâm lăng của cộng sản miền Bắc là nguyên nhân đưa đến nỗi đau khổ của dân tộc, chứ không hề nhắc nhở gì đến sự tàn bạo của bộ đội Mặt trận Giải phóng miền Nam và cộng sản miền Bắc.

      Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người
      Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
      Trên con đường người ta bồng bế nhau chạy trốn
      Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người
      Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
      Bên khu vườn, một người mẹ ôm xác đứa con
      Mẹ vỗ tay reo mừng xác con
      Mẹ vỗ tay hoan hô hoà bình
      Người vỗ tay cho thêm nhịp nhàng
      Người vỗ tay cho đều gian nan
      "Hát trên những xác người"

    Sau ngày 30 tháng 4 1975, TCS đã lại tiếp tục sống nép dưới quyền lực của chế độ CS và viết những bài nhạc theo thời để yên thân, trong đó có bài “Em còn nhớ hay em đã quên” với câu “Có con đường nằm nghe nắng mưạ Em ra đi nơi này vẫn thế. Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ,” với hàm ý đất nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản vẫn phát triển, vẫn hạnh phúc, vẫn thơ mộng bất kể những sự liều mạng chạy trốn chế độ cộng sản của người dân miền Nam. Có lời đồn rằng bài hát này TCS viết cho Khánh Ly, sau khi Khánh Ly rời Việt Nam đến Hoa Kỳ vào năm 1975.

    Trong cái thế giới ảo do ma túy tạo nên, TCS đã sáng tác được những bài ca nhiều người thích. Đây là một hiện tượng chung nơi nhiều ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ thế giớị Nhưng Như Hà lại suy diễn một số những lời nhạc mông lung trong cơn say ma túy hay say rượu thành những ý tưởng cao cả vì tổ quốc của TCS, và nhận định rằng, “đó là sự trăn trở, lời thiết tha, kêu gọi lòng vị tha nhân ái ... là sự kết nối cảm thông, là sự chan hoà thương yêu, là những trăn trở, những hụt hẫng về một thế giới bạo lực dối trá và thấp hèn. Nhạc Trịnh đưa ta trở về cõi hoang sơ vô thường và tĩnh tại, nhân bản mà kiêu sa, san sẽ cảm thông và giàu lòng nhân ái.” Đoạn trích dẫn trên cho thấy nhận định của Như Hà về TCS quả là quá đáng và đầy ... ảo tưởng.

    Tóm tắt, trước 1975, cuộc đời TCS là một cuộc đời bị trói vào trong cảm quan được phóng đại lên bởi rượu và ma túy, và cũng như không thoát ra khỏi sự sai khiến của ma túy để mà đi theo CS. Sau 1975, những lúc tỉnh hiếm hoi, TCS có lúc cũng thấy có điều không ổn, mà đã viết ra một số nhạc phẩm như: “Đường Xa Vạn Dặm Mẹ Bỏ Con Đi, Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng, Con Mắt Còn Lại, Tiến Thoái Lưỡng Nan, vân vân,” diễn đạt sự hoang mang chán nản của mình trước thực tại thối nát của chế độ cộng sản mà TCS đã tôn thờ, nhưng Trịnh Công Sơn do bản tính yếu đuối cuối cùng vẫn không thoát được khỏi hấp lực của những chai rượu trao tay từ Võ Văn Kiệt và các tay quyền thế khác của hệ thống quyền lực CS ở miền Nam sau 1975 để lại tiếp tục chìm đắm cuộc đời chè chén say sưa trong cõi tạm.

      Con chim ở đậu cành tre
      Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
      Cành tre ... í ... a
      Dòng sông ... í ... a
      Tôi nay ở trọ trần gian
      Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
      í ... a ... í ... à ... í ... à ... a ...

      “Ở trọ”

    Kết luận, TCS có thể là một nhân tài trong âm nhạc, một hiện tượng đặc biệt trong thế giới âm thanh, có khả năng xử dụng ngôn ngữ văn chương, chuyển hóa chúng thành những đặc thù khắc khoải, để lại sự rung động dài lâu nơi hồn người nghe. Tuy nhiên trong thời chiến, trước tình hình đất nước phải đối đầu với một cuộc chiến tranh tự vệ, trước sự xâm lăng tàn bạo của chế độ cộng sản miền Bắc, thì việc TCS qua âm nhạc và các bài ca phản chiến đã góp tay hủy diệt tinh thần chống cộng, tiếp sức cho cộng sản sớm chiếm được miền Nam tạo nên những nỗi đoạn trường, thảm khốc, đau khổ trên khắp miền đất nước cho đến ngày hôm nay, do đó TCS trước lương tâm và lịch sử dân tộc không thể chạy thoát khỏi trách nhiệm của mình.

    Như Hà có toàn quyền tự do để tin ở một TCS cao cả, nhân bản để mà viết ra những lời ca tụng TCS như trong bài viết. Tuy nhiên trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay đang trong giai đoạn chót của CS biến thái đầy phức tạp, cũng rất có thể là Như Hà đang cố tình bóp méo thực tế về TCS để tạo ra tâm lý thuận lợi cho việc đề cao nhạc Trịnh Công Sơn, giúp cho các thương nhân tài phiệt tổ chức những buổi trình diễn nhạc TCS để làm tiền, hay là giúp cho việc xóa mờ ranh giới giữa chính nghĩa và tội ác, chuẩn bị cho việc bình thường hoá các nhân vật cộng sản đang biến thái và tay chân của họ đang xuất hiện tại hải ngoại dưới các vỏ bọc giao lưu văn hóa.

    Thụy Ái
    Ngày 27 tháng 5 năm 2008

    Tuesday, May 27, 2008

    Mất Biển Đông Là Mất Nước !

    Vũ Hữu San

    (Cựu Hải Quân Trung Tá Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4, người đã trực tiếp chỉ huy các chiến hạm Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến với hải quân Trung Cộng tại Hoàng Sa ngày 19.1.1974 để bảo vệ lãnh hải Việt Nam. Trận Hải Chiến mà những người lính Việt Nam Cộng Hòa xứng danh là những người con yêu của tổ quốc, sẵn sàng hy sinh tính mạng, lấy máu, lấy xương để giữ từng tấc đất, tấc biển của tổ tiên để lại).

    Mất Biển Đông Là Mất Nước Đó !

    Kính chào tất cả Quý Vị và xin có được ít phút nói chuyện với các Bạn Trẻ hôm nay may mắn được gặp gỡ. Trước hết chúng tôi xin nói một vài điều đặc biệt: Nếu ta mất Biển Đông là ta mất Nước đó !
    • Trong thời gian gần đây, Khối 8406 ngoài mục đích tranh đấu cho dân chủ, họ cũng tranh đấu cho chủ quyền. Cha Lợi, Cha Lý thường nhắc đến những chuyện như là chúng ta phải thực sự lưu tâm trước nguy cơ mất Nước cho Trung Cộng.

    • Hoà Thượng Quảng Độ đã kêu gọi, và ông đã phải nói rằng chúng ta phải đoàn kết lại. Phải làm thế nào biểu tỏ sức mạnh của toàn dân, chứ không chỉ là năm ba trăm anh em sinh viên đi biểu tình. Tất cả mọi người hiểu biết, có kiến thức, người Việt Nam chúng ta đều yêu nước cả.

    • Chúng tôi ở nước ngoài nên nhìn thật rõ vấn đề, cái viễn ảnh đen tối mà thế giới bên ngoài đặc biệt là giới học giả về chiến lược cho rằng Đại Chiến Thế Giới Thứ 3 sẽ xảy ra ở Biển Đông. Và trước sau gì Trung Cộng cũng sẽ đánh Việt Nam.
    Có thể một vài nhận xét hơi quá đáng, nhưng mà đối với chúng tôi thì chúng tôi xin tóm lược lại một vài điều, mà đối với người Việt Nam chúng ta thấy có tính cách hết sức chính xác như sau:
    • Biển Đông là nơi khai sinh nuôi dưỡng nền văn hoá nhuốm màu hàng hải của giống nòi Việt Tộc. Có thể nói Hoàng Sa Trường Sa là vùng mà người Việt mình ở đó sinh sống mấy chục ngàn năm trước. Rồi nước nó lên thì Tổ Tiên chúng ta mới đi vào đất liền sinh sôi nẩy nở ở đó cũng là mấy chục ngàn năm.

    • Chúng ta biết là Biển Đông là nguồn năng lượng khổng lồ. Tài nguyên dưới biển lớn lắm! Người Tàu rất ham muốn! Vì vậy, chúng ta hiểu là họ cứ lần lần lấn. Họ lấn dần dần từ ở phía đông của Hoàng Sa rồi họ chiếm hết quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. Rồi họ tiếp tục họ Nam xâm, chiếm luôn Trường Sa.

    • Chúng tôi thấy rằng Trung Cộng họ không tôn trọng luật lệ quốc tế, mặc dù họ có ký. Những lần mà chúng ta nhìn thấy đó, là những ai bị tấn công, thì thấy rõ rằng người Tàu tấn công Việt Nam 2 lần. 2 lần này lớn, không kể những lần nhỏ hơn. Họ vô họ chiếm vùng đông của Hoàng Sa. Máu đổ năm 1974, máu đổ năm 1988. Và rất nhiều lần họ xâm nhập bằng những toán nhỏ, xong rồi ăn lần ăn lần xuống.

    • Hiện bây giờ, tình trạng Biển Đông rất là nguy ngập. Mỗi lần họ ra tay là họ tàn sát người Việt trên Biển Đông. Mỗi lần thấy tàu bè của họ xuống Việt Nam là có mưu mô xâm lược. Hải quân Trung Cộng giết dân vô tội của ta nhiều lần. Người Trung Hoa chưa bao giờ quá tay trên biển như vậy với một nước lân bang. Mà chỉ với người Việt của chúng ta !

    • Trong tương lai, chúng tôi thấy cần phải cảnh báo với mọi người là Kinh đào Kra là eo biển phía nam của Thái Lan sẽ được đào, và chắc chắn là Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng để kiểm soát Eo Kra. Và khi eo Kra đã xong rồi, thì đường đi sẽ đi ngang qua Cà Mau, đi qua Vũng Tầu. Với tình trạng hiện thời, thì nhiều học giả cũng rất là sợ cái việc đó. Không phải biên giới người Tàu tới Móng Cái mà sẽ tới tận Cà Mau.

    • Chúng tôi nhận xét: nếu mà Trung Quốc dị ứng với Tòa án luật Biển, vậy thì Việt Nam phải đưa họ ra trước Tòa án, để xem họ sẽ cải lý ra làm sao. Chúng tôi kêu gọi mọi người trau dồi kiến thức, nếu biết nhiều về Biển Đông, sẽ yêu Biển Đông hơn, biết rằng chúng ta phải bảo vệ Biển Đông !

    • Chúng tôi đặc biệt đề nghị một bản đồ. Bản đồ đó giản dị, chúng ta vẽ làm sao cho mọi người hiểu bao ngoài Hoàng Sa, bao ngoài Trường Sa. Và khác với mọi người, khi chúng ta nghiên cứu luật Biển, phương Bắc sẽ thấy hải phận của chúng ta nó lớn lắm. Có nhiều người nói 200 hải lý, tưởng 200 hải lý là lớn, 250 rồi đến 350 hải lý. Nhưng Việt Nam mình có Hoàng Sa Trường Sa nên chúng ta sẽ kéo dài ra ngoài tới 400, 450 hải lý. Tôi đã có vẽ một cái bản đồ. Mong rằng tất cả mọi người tham dự.

    • Và để có thể cảnh báo cho mọi người, tôi xin đọc một câu của Hòa Thượng Quảng Độ đã nói trong thời gian qua: Không thể nào chúng ta để như thế này, nhục nhã quá, im lặng mãi! Mà nếu cứ để bị đàn áp, cứ cúi đầu mà chịu, thì rồi sẽ mất Nước đấy ! Mất hoàn toàn rồi ! Sẽ mất không phải là năm ba chục năm. Có thể là chúng ta sẽ bị kéo dài cái gương 1000 năm bị đô hộ ngày xưa đấy!
    Tôi xin chấm dứt tại đây, những lời thành thật của một người đã đứng tuổi. Tôi đã 70 tuổi và cũng đã nghiên cứu việc này từ hồi còn là một sĩ quan trẻ. Với 40 năm nghiên cứu, tôi thấy cần phải nói rõ cho mọi người, cho giới trẻ biết, để chúng ta đoàn kết lại mà giữ vững quê hương.

    Nếu mất Biển Đông là chúng ta mất Nước đó !

    Xin kính chào quý vị

    Vũ Hữu San

    Saturday, May 24, 2008

    Hồi chánh viên Bùi Tín

    Nguyễn Đạt Thịnh
    May 2, 2008

    Ông đại tá Việt Cộng tự xưng là “nhà báo tự do Bùi Tín” vừa phổ biến bài “phát biểu nhân ngày 30 tháng Tư” của ông như sau:

    “33 năm đã qua, theo tôi, với khoảng cách thời gian dài để có thể suy ngẫm sâu sắc và nhận ra sự thật lịch sử, mọi người Việt nam, kể cả những người Cộng sản, cần đính chính một nhận thức sai lầm nguy hiểm đã bị những người lãnh đạo cộng sản áp đặt theo kiểu cưỡng hiếp mọi người dân phải thừa nhận. Họ buộc mọi người công nhận rằng việc họ chủ trương đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu từ 1960 đến 1975 là chính nghĩa nhằm giải phóng và thống nhất đất nước, và ngày 30-4 là ngày Toàn thắng Vĩ đại”.

    Giống như xưa kia Giáo hội La mã cưỡng bức mọi người phải thừa nhận trái đất là một mặt phẳng, ai nói khác là phạm trọng tội, là nói sai chân lý. Có người đã chịu hỏa thiêu để khẳng định rằng: "không! trái đất không phẳng! nó hình bầu vay!". Nay ai cũng nhận ra Chân lý ấy. Có điên mới nói khác.

    Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ: đất nước Việt nam ta sau ngày 30-4-1975 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30-4, đảng cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bới độc quyền đảng trị.

    Đảng cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận dân tộc giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư ?

    Sau 30-4-1975, chỉ riêng đảng cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không có tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư ? là tự do ư ?

    C̣òn nay thì đảng giàu, giàu sụ, dân nghèo, nghèo rớt. Thống nhất kiểu gì vậy? phát triển kiểu gì vậy?

    Một nước "độc lập" mà buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, để bị mất đất, mất biển hàng trăm, hàng nghìn kilômét vuông, mất đảo, mất vô vàn tài nguyên hải sản; rồi người nước ngoài muốn đuốc của họ đến nước ta, vào lúc nào, ở đâu là do họ quyết định; bộ trưởng ngoại giao của họ lại còn sang thủ đô ta để giao nhiệm vụ cho bộ trưởng ngoại giao, cho thủ tướng và cho chủ tịch quốc hội phải bảo vệ đuốc của họ cho triệt để, và c̣òn cho an ninh vũ trang của họ vào tham gia đàn áp nhân dân nếu có biểu tình ôn ḥoà ...thì thử hỏi nước ấy độc lập ở chỗ nào? có chủ quyền ở chỗ nào ? những người lãnh đạo của ta có còn chút thực quyền, có còn chút tự hào dân tộc gì nữa đâu ! Người Việt chân chính tự trọng không xử sự như thế.

    Đây là điều mỗi người Việt ta ở trong hay ngoài nước hãy suy nghĩ cho kỹ nhân ngày 30-4 năm nay.

    Tôi mong tuổi trẻ trong nước trau dồi tư duy độc lập, tập suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình và đọc bài luận văn ngắn của nhà triết học Pháp trứ danh Jean - François REVEL: "Hồ Chí Minh: sự tước đoạt ḷòng yêu nước". Bài luận văn sắc sảo chỉ thẳng ra sự thật phũ phàng, là ông Hồ và đảng CS đã lợi dụng ḷòng yêu nước của nhân dân Việt nam để phục vụ cho mưu đồ phe đảng của ông ta, để thỏa mãn mục tiêu thống trí thế giới của Quốc tế Cộng Sản III. Chữ "détournement" theo tiếng Pháp có ý nghĩa khá rộng là "tước đoạt", "lấy trộm, lấy cắp", "của người khác xoáy làm của ḿình", "chuyển thành, biến thành của ḿình".

    Đọc xong, tôi ngấm sâu suy nghĩa của từ "tước đoạt", và cảm thấy mình như bị mất cắp, mà mất cắp cái gì quý lắm, vô giá. Cả tuổi trẻ đầy lư tưởng và nghị lực, cả mấy chục năm bị đánh lừa, bị móc túi, bị gạ gẫm, để đến gần cuối đời mới tỉnh ra, mà thương hại, mà tiếc thay cho bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh! Giả thử trong cuộc đời thường, một người bị mất cắp chiếc xe máy, chiếc đồng hồ đắt tiền, chiếc nhẫn vàng kỷ niệm ngày cưới ... hẳn là tiếc, tiếc nuối vô cùng, xót xa hàng tháng. Thế mà biết bao người bị lừa cả cuộc đời, có khi mất cả mạng sống, và hàng triệu triệu anh chị em, ḍng họ, đồng bào ḿnh cùng bị lừa hàng nửa thế kỷ ! một cuộc ăn cướp, lường gạt khổng lồ. Hãy chỉ cho nhau kịp thấy đi, để mà tiếc, mà xót xa, mà đòi lại quyền sống tự do cho mỗi người, mở ra cuộc đấu tranh mới giành lại độc lập thật sự và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.

    30-4- năm nay, tôi vui vẻ nhẹ nhàng lắm. Tôi có thêm biết bao bạn quý, từ khi là nhà báo tự do 18 năm nay. Bạn trong nước, ngoài nước, bạn già, bạn trẻ, bạn rất trẻ. Tôi viết không theo lệnh ai, không phải đưa ai duyệt, chỉ có theo lương tâm và trí tuệ, không sùng bái ai, chỉ sùng bái sự thật. Tuổi già tự do thế này thật đáng sống. Khó khăn vật chất mà sướng vô kể.

    Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa 30-4, vớ vẩn, lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.

    Để làm gì cơ chứ? để đất nước ra nông nỗi này ư? độc lập, không! tự do, không! chủ quyền, không! về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!

    30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bè bạn và đông chí cũ của tôi: hãy quý trọng ḷòng yêu nước thương dân của chính mình, nếu bạn thấy ḷòng yêu nước ấy đã bị ai đó "xoáy" mất để dùng vào mục đích đáng nghi ngờ và đen tối, thi hãy lên tiếng tố cáo và tự tách mình khỏi trò lừa bịp và đánh cắp trắng trợn ấy!

    Bạn hãy tự phục hồi ḷòng yêu nước thương dân trọn vẹn của minh để cùng mọi người Việt nam tỉnh táo và tử tế đấu tranh cho một Tổ quốc Việt nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời Đại.”

    Hai tháng trước, nhân dịp Tết Nguyên Đán, Bùi Tín còn viết báo bênh vực Hà Nội không có trách nhiệm gì cả trong vụ thảm sát Mậu Thân; ông đại tá Việt Cộng nói sở dĩ lính Việt Cộng phải giết 6,000 lương dân Huế, và chôn sống họ là tại quân đội VNCH phản công đánh Việt Cộng bật ra khỏi cố đô.

    Hôm 28 tháng Tư này, Bùi Tín phản tỉnh không phải với bài học núi xương biển máu của đồng bào làm ông thức tỉnh mà vì một ông Tây già, ông hàn Jean-François Revel, 84 tuổi, được vào Hàn Lâm Viện Pháp từ 10 năm nay.

    Thật ra Bùi Tín học của Revel có một chữ một mà thôi, chữ "détournement".

    Thảm thay sở học của ông Bùi Tín: quyển chiến sử Việt Nam dầy 30 năm, viết bằng máu của hàng triệu đồng bào, ông không đọc được chữ nào; ṃà sang Tây ông chỉ học có một chữ mà mắt đã mở sáng choang, lớn tiếng xỉ vả đồng chí ngày xưa, và lên giọng dạy Việt Cộng mở mắt.

    Chê ông vọng ngoại, nhưng tôi vẫn khen ông giỏi hơn bác Hồ của ông; ông này cũng chỉ uống có một chữ “communism” mà say máu, về nước giết không biết bao nhiêu người để chống chủ nghĩa tư bản trong một nước Việt Nam không có một nhà tư bản nào cả; rồi cuối cùng lại đang cắm đầu làm tay sai cho tư bản, kể cả tư bản Pháp, tư bản Mỹ, và đang tạo ra vô số tư bản đỏ lô can, thẳng tay bóc lột thợ thuyền Việt Nam.

    Tôi không nói hồi chánh viên Bùi Tín không có quyền nói về chiến tranh Việt Nam, tôi chỉ xin ông khoan nói trong lúc ông c̣òn lội trong biển máu người Việt. Leo lên bờ, tắm rửa cho sạch màu máu đỏ đi rồi hẵng đại ngôn.

    Nguyễn Đạt Thịnh

    Lằn Ranh Quốc Cộng Còn Hay Mất ?


    Hoàng Ðạo Thế Kiệt

    Trong phần kết của bài “Mặt trận Việt kiều”, phổ biến trên Lưới điện tử ngày 11-2-2005, ký giả Tú Gàn có viết một đoạn nguyên văn như sau:

    “Thứ ba, tôn giáo ðã trở thành một “mật khu an toàn” của bọn cộng sản nằm vùng ở trong nýớc trýớc nãm 1975, nay cũng ðýợc biến thành “mật khu an toàn” ở hải ngoại: Tuy vợ chồng Thiền sý Nhất Hạnh ðã tuyên truyền cho Cộng Sản một cách trắng trợn, các ðoàn thể to mồm chống cộng ở hải ngoại nhý Ðảng Việt Tân, Tập Thể Quân Lực VNCH, Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị ... ðều im hõi lặng tiếng, vì sợ dụng ðến tôn giáo! “Lằn rãn Quốc – Cộng” mà một số ngýời muốn lập ra tại hải ngoại, nay mặc nhiên bị xóa bỏ”.

    Tôi không thuộc đảng Việt tân, Tập thể Chiến sĩ, hay Tổng hội cựu Tù nhân Chính trị ... nhưng thuộc số người chủ trương Lằn Ranh Quốc - cộng mà ký giả Tú Gàn bảo là ... “nay mặc nhiên bị xóa bỏ”, nên xin có vài ý kiến về điểm này.

    • I. Trước hết là về cái liên hệ nhân quả của sự “mặc nhiên bị xóa bỏ”.
    1. Theo đoạn trích dẫn nêu trên thì sự "mặc nhiên bị xóa bỏ" là kết quả của chiến thuật Việt cộng, dùng vợ chồng Thích-nhất-hạnh để đánh phá Giáo hội Phật Gíáo Việt Nam Thống nhất, khiến các đoàn thể chống cộng ở hải ngoại phải im lặng, vì sợ đụng chạm đến tôn giáo.

    Nhưng nếu chỉ vì sự im lặng của các đoàn thể chống cộng khác mà “Lằn ranh quốc - cộng” (LRQ/C) "mặc nhiên bị xóa" bỏ thì quả là oan! Bởi vì LRQ/C chỉ chống Cộng minh bạch, dứt khoát, chứ không thuộc loại mà ông Tú gàn gọi là to mồm chống cộng, và nhất là đã không im lặng trước hành động tuyên truyền trắng trợn cho Việt cộng của vợ chồng Thích nhất hạnh! Khối Lập Trường Chung (LRQ/c) đã ra Tuyên bố tố cáo hành động đó của họ. Có thể là bản Tuyên bố ra sau ngày ký giả Tú Gàn viết bài “Mặt trận Việt kiều” nên ông không biết. Nhưng sự thật vẫn là bản Tuyên bố đó đã được soạn thảo từ mấy tuần trước, và đã được phổ biến ngày 15-02-2005. (vì phải đợi mất hơn 2 tuần để lấy sự chấp thuận của mấy trăm người trong LTC).

    2. Nhưng theo thiển ý thì nguyên nhân của sự gọi là "mặc nhiên bị xóa bỏ" nằm ở cả 3 chiến thuật của “Mặt trận Việt kiều” của Việt cộng mà ký giả Tú Gàn đã nêu ra. Ðó là: Chiêu dụ “Việt kiều” bằng chiêu bài “tình tự dân tộc” nhân dịp xuân Ất dậu, để lôi cuốn nhiều người về ăn Tết; Dùng vợ chồng Thích nhất hạnh để đánh phá giáo hội Phật giáo Việt-Nam Thống nhất; Dùng Nguyễn cao Kỳ và Phạm Duy để vô hiệu hóa các hoạt động chống đối ở cả trong lẫn ngoài nước. Và kết quả của “Mặt trận” đó, cũng theo ông Tú gàn, tuy chưa đem lại kết quả mong muốn, nhưng cũng đã gây khó khăn cho những người chống cộng, bởi:

      - Trước hết, trong năm 2004 đã có khoảng 402,000 người về Việt-Nam, và đa số đã mặc nhiên từ bỏ thái độ công khai chống cộng;

      - Thứ đến chiến thuật dùng dao Nhất Hạnh giết Ấn Quang tuy không thành công nhưng cũng đã gây ra những mâu thuẫn nghiêm trọng trong nội bộ Phật giáo;

      - Thứ ba, làm cho các đoàn thể chống cộng phải im tiếng và Lằn Ranh Quốc/cộng bị mặc nhiên xóa bỏ.

    Tuy nhiên đó chỉ là nhận định của ông Tú gàn, sự thực có đúng là lằn ranh Quốc/cộng đã mặc nhiên bị xóa bỏ như ông viết không?
    • II. Lằn ranh Quốc/cộng đã mặc nhiên bị xóa bỏ chưa hay thực sự đang đậm nét hơn?
    1. Sự khẳng định của ký giả Tú Gàn căn cứ vào nhận định của ông về sự thành công của “Mặt trận Việt kiều” của Việt cộng. Nhưng nhận định đó đúng đến đâu? Có phải là LRQ/C đã bị xóa bỏ rồi không? Có phải là người Việt hải ngoại không còn chống cộng nữa không? Tôi nghĩ là không.
      Sau đây là vài dẫn chứng cụ thể, vừa mới hoặc đang xẩy ra:

      - Dẫn chứng thứ nhất: xin rút ra ngay từ chính bài viết của ký giả Tú Gàn.
      Trong bài viết này (Mặt trận Việt kiều) rõ ràng ông Tú Gàn, tuy đã nói nhiều đến sự thành công của Việt cộng, song cũng đã có những lời lẽ rất khinh miệt đối với “vợ chồng thiền sỹ Nhất Hạnh” như:

      “Với Thiền sý Nhất Hạnh, ngýời ðang làm công cụ cho Hà Nội thực hiện chiến dịch tôn giáo vận, chúng tôi chỉ xin lưu ý: Cứ nhìn hình ảnh của các Hòa Thýợng Thích Trí Ðộ, Thích Ðôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Trí Quang ... thì sẽ nhận ra được số phận của ngýời làm công cụ sẽ như thế nào”, và:

      “Sau khi thổi ống đu đủ cho vợ chồng Thiền sý Nhất Hạnh phá sập Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang bị thất bại, nhà cầm quyền CSVN quay qua phát ðộng chiến dịch chiêu dụ Việt kiều bằng chiêu bài “tình tự dân tộc ...”

      (trong một bài khác viết riêng về Thích nhất hạnh Tú gàn còn đả kích Nhất hạnh nặng nề hơn nhiều).

      Ðối với Nguyễn cao Kỳ, ký giả Tú gàn cũng viết một cách khinh miệt không kém: “Ngoài Nguyễn Cao Kỳ và vợ chống Thiền sý Nhất Hạnh, chúng ta thấy có nhiều Việt kiều khác cũng ðã hay ðang cắn câu chiến dịch chiêu dụ Việt kiều của nhà cầm quyền CSVN”.

      Viết như thế rõ ràng là Tú gàn đã miệt thị Nhất hạnh, Cao Kỳ, vì cả hai tuyên truyền cho Vc, tức là 3 người đứng ở 2 vị thế khác nhau: Nhất hạnh/Cao Kỳ theo Vc còn Tú gàn chống lại.

      Vậy thì, ít nhất là trên mặt chữ nghĩa, và riêng trong vụ này, cá nhân Tú gàn đang đứng ở bên kia lằn ranh của Nhất hạnh/Cao Kỳ + Vc. Một cách khác, lằn ranh mà chúng tôi gọi là Quốc/cộng, mà ông Tú gàn bảo là mặc nhiên bị xóa bỏ rồi, thì chính ông lại gián tiếp xác nhận là chưa bị xóa bỏ! (Trừ khi ông gọi đó là lằn ranh gì khác, hoặc cho đến khi ông minh định rõ là, trực tiếp hay gián tiếp, giữa ông và Vc cùng tay sai không còn có lằn ranh nữa, và sự miệt thị nói trên có một ý nghĩa khác).

      - Dẫn chứng thứ hai: xin đơn cử các vụ họp báo chống đảng Dân tộc, vụ WJC, vụ Nguyễn cao Kỳ v.v...

      Ai từng quan tâm đến những vấn đề trong các cộng đồng người Việt hải ngoại mà không nghe nói đến cuộc họp báo sôi nổi đông đến gần 2000 người ở quận Cam để tố cáo và chống đối đảng Dân tộc, vì Tổng bí thư Nguyễn hữu Chánh của đảng này đã lập đảng với các cán bộ cao cấp Việt cộng trong nước?

      Ai từng quan tâm đến những vấn đề trong các cộng đồng người Việt hải ngoại mà không nghe nói đến vụ kiện WJC, nhằm chống lại âm mưu của Việt cộng, qua tay một số trí thức Mỹ, một mặt cố xóa bỏ căn cước của người Việt tỵ nạn cộng sản, một mặt vận động cho giải pháp hòa giả hòa hợp một chiều của chúng?

      Ai từng quan tâm đến những vấn đề trong các cộng đồng người Việt hải ngoại mà không nghe nói đến vụ Nguyễn cao Kỳ về Việt-Nam nhục mạ chính nghĩa Quốc-gia và QLVNCH, tung hô bợ đỡ bọn tội đồ cộng sản, và đã bị chống đối rầm rộ, kịch liệt?

      Ðó là chưa kể bao nhiêu vụ lẻ tẻ khác như chống văn công Vc, chống Ðoàn viết Hoạt chủ trương treo cả cờ Quốc gia lẫn cờ cộng sản, chống Lê xuân Khoa tổ chức ra mắt sách mà không chào cờ Quốc gia…

      - Dẫn chứng thứ ba: cuộc đấu tranh dựng cờ chính nghĩa, lá cờ Quốc gia, tại khắp mọi nơi.

      Ðây là một cuộc tranh hùng không thể chối cãi được giữa một bên là cộng sản và tay sai, một bên là người Việt Quốc gia hải ngoại. Cuộc đấu tranh đã kéo dài liên tục nhiều năm nhiều tháng và hiện vẫn còn tiếp tục.

      Ở đâu có cờ cộng sản là ở đó người Việt Quốc gia tìm cách hạ xuống, và ngược lại, ở đâu có người Việt Quốc gia là ở đó lá cờ Quốc gia được vận động để kéo lên vinh danh. Kết quả là dù Việt cộng đã cướp được chính quyền trong nước và được Mỹ công nhận nhưng lá cờ của chúng chẳng được một cộng đồng người Việt hải ngoại nào đếm xỉa tới, ngay cả người Mỹ. Ðây quả thật là một thất bại nhục nhã nhất của bọn cộng sản trước người Quốc gia. Lằn ranh Quốc/cộng ở đây thật là hiển hiện.

      - Dẫn chứng thứ tư: xin đề cập đến vụ Ngày quốc Hận, 30-04 năm nay.

      Ðây là tỉ dụ điển hình nhất về sự còn/mất của lằn ranh Quốc/cộng. Một bên là các ngoại vi của Mặt-trận của đảng Việt-tân mới, định tổ chức ngày Quốc Hận năm nay như một ngày Tự do cho Việt Nam. Một bên là những người, những đoàn thể cực lực chống lại vì coi đây là một mưu toan xóa bỏ ngày Quốc hận của các thành phần bị coi là chủ trương hòa hợp hòa giải, làm lợi cho cộng sản, hoặc nặng hơn nữa, là tay sai của cộng sản, bàn tay nối dài của chúng.

      Chắc chắn là rất đông đồng hương, kể cả ký giả Tú gàn, đã trông thấy rõ sự kiện này trong suốt mấy tháng nay. Ðây có thể nói là vụ nóng bỏng nhất, trực tiếp nhất, và cũng rõ ràng nhất giữa hai bên về vấn đề Quốc /cộng, hay nói cách khác là về lằn ranh phân định giữa hai bên Quốc/cộng.

      • III. Tương lai nào cho lằn ranh Quốc/cộng?
      Sự còn mất của Lằn Ranh Quốc/cộng tùy thuộc ở tất cả mọi người. Người cộng sản và tay sai thì vận động cho nó mất đi theo chiều hướng của chúng. Người Quốc gia cũng mong cho lằn ranh đó không còn nữa, khi cộng sản đã bị giải trừ.

      Nhưng trong hiện tại thì nó vẫn còn đó, khi mạnh khi yếu. Trước những sự kiện cụ thể mà người viết vừa dẫn chứng ở trên, thiết tưởng ai cũng thấy rằng lằn ranh Quốc/cộng quả thực chưa hề mặc nhiên bị hủy bỏ, nếu không muốn nói là lằn ranh đó hiện đang ngày càng đậm nét hơn. Nếu nghị quyết 36 của Việt cộng có làm cho chúng ta gặp nhiều khó khăn hơn thì những âm mưu khuynh đảo của chúng nhằm vào các cộng đồng của ta cũng đã gặp những trở ngại không nhỏ.

      Ai cũng phải công nhận, nếu mấy năm trước không có sự chống đối kịch liệt và thành công rực rỡ của người Quốc gia trong vụ chống ảnh Hồ cờ Cộng ở Bolsa thì giờ này cờ đỏ sao vàng và ảnh Hồ tặc đã tràn đầy trên khắp mọi nơi. Chính vì Lằn Ranh Quốc/cộng hãy còn, và phía Quốc gia còn mạnh hơn nhiều nên cho đến nay mọi hành động của bọn cộng sản và tay sai vẫn chỉ ở dạng âm thầm lén lút. Mọi phái đoàn Việt cộng dù chính thức đi công tác, đến đâu cũng vẫn phải đi cổng sau hoặc cửa bên. Nguyễn đình Bin sang Mỹ chiêu dụ, cũng chỉ bí mật mời gặp một dúm người đã được chọn lọc kỹ, họp xong rồi mới dám phổ biến.

      Còn nói về phía người Việt hải ngoại thì Lê xuân Khoa tổ chức ra mắt sách không chào cờ Quốc gia, xong vẫn phải tìm cách biện minh rằng đó là lỗi của ban tổ chức, còn mình vẫn trân quý lá cờ Quốc gia! Nguyễn cao Kỳ thì lần nào nói bậy bạ xong cũng phải vội vàng cải chính, rồi khi trở về lại Mỹ thì trốn chui trốn lủi ...

      Các ví dụ như thế có đầy dẫy. Thử hỏi nếu lằn ranh không còn thì tại sao lại như thế? Tại sao một đoàn thể vẫn nói là chống cộng, như Việt tân, mà lại phải đổi ‘Ngày Tự do’ thành "Ngày Tranh đấu cho Tự do", rồi phải dài dòng giải thích này nọ? Ðây là xứ dân chủ, ai cũng có quyền tự do của mình, tại sao lại phải thay đổi, phải giải thích…?

      Cho nên theo thiển ý thì Lằn Ranh Quốc/cộng không những chưa bị xóa bỏ như ông Tú gàn nói, mà còn đang càng rất rõ, rất đậm. Trước nghị quyết 36 của Việt cộng, ra lệnh cho các thành phần nằm vùng và tay sai nổi lên xóa bỏ lằn ranh Quốc/cộng, người Việt Quốc gia đã phản ứng khá mạnh mẽ, và trên thực tế đã phần nào chặn đứng được mưu đồ khống chế hải ngoại của chúng.

      Giấc mơ của bạo quyền Hànội muốn thấy Lằn Ranh không còn, ảnh Hồ cờ Cộng treo đỏ khắp nơi, chúng có thể ung dung đi lại giữa các cộng đồng tỵ nạn, tay sai của chúng tha hồ múa may bợ đỡ cộng sản và xông xáo thúc đẩy áp lực mọi người đem tiền đem sức về xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa đa nguyên đa đảng… vì thế vẫn chỉ là một giấc mơ. Nó chỉ có thể trở thành hiện thực nếu chính người Quốc gia cho phép chúng!

      Nhưng hiện tại thì ai cũng thấy người Quốc gia, nhất là ở trong nước, lại đang làm một cuộc vận động lịch sử để xóa bỏ Lằn Ranh Quốc/cộng theo một chiều hướng ngược lại, chiều hướng trong đó mọi người dân Việt trở lại thành người Quốc gia Dân tộc như xưa, còn bọn cộng sản ngoại lai độc hại biến mất, như ở Nga, ở đông Ðức, Ba lan, Hung, Tiệp, Ukraine v.v...

      15-03-2005
    • Bài này, sau khi phổ biến trên các Diễn đàn, sẽ được lưu giữ ở Trang Nhà: www.geocities.com/ttnvqghn
    • Xin mời quý Chiến hữu vô Trang Nhà ghi trên để thấy rõ hơn tại sao Khối Lập Trường Chung chủ trương phải có và phải bảo vệ Lằn Ranh quốc/cộng.

      Hoàng Đạo Thế Kiệt
      • Thiên Cổ Tội Nhân Hay Anh Hùng ??




        Nguyễn Triều với “chính sách bế quan tỏa cảng” thiển cận đã dẫn tới việc Thực Dân Pháp xâm chiếm và biến Việt Nam thành thuộc địa hơn 100 năm.

        Trong khoảng thời gian Pháp thuộc đó nhiều cuộc kháng chiến chống thực dân đã nổ ra nhưng tinh thần ái quốc không mạnh hơn sức mạnh của vũ khí - sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ở Châu Âu - nên hầu như không thành công mà chỉ để lại trong lịch sử thêm một số vị anh hùng, liệt sĩ “thành nhân”.

        Ðến thời kỳ đệ nhị thế chiến Pháp bị Ðức đánh bại và cũng trở thành một dân tộc bị trị nên hệ thống thuộc địa cũng suy yếu phải để cho quân đội của Nhật vào Việt Nam chia xẻ quyền lợi rồi sau đó làm một cuộc đảo chánh chỉ trong 24 tiếng lật đổ toàn bộ hệ thống cai trị của Pháp ở Ðông Dương giành lấy thế chủ động.

        Nhưng không lâu sau đó, hai quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki đã kết thúc Ðệ Nhị Thế Chiến. Toàn thể Ðông Dương lúc đó cùng một lúc hai thứ xiềng xích nô lệ tự đứt. Cuộc Cách Mạng Mùa Thu vào ngày 19-08-1945 thật ra chỉ là việc nhặt lại một chính quyền được thả nổi và việc Hồ Chí Minh được đề cử đọc Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập vào ngày 02-09-1945 cũng chỉ là kết quả của một sự thỏa hiệp bất đắc dĩ giữa những kẻ đầu cơ thời cuộc mà lực lượng của các bên đều nhỏ bé và yếu kém chưa thanh toán được nhau.

        Sự do dự của các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Ðảng - sai lầm lớn nhất của các đảng phái và lực lượng quốc gia thời đó - đã gây ra đại họa kinh hoàng cho dân tộc Việt Nam dài hơn nửa thế kỷ, đến nay còn chưa chấm dứt.

        Ba mươi năm đấu tranh Quốc Cộng cũng là ba mươi năm đọ sức của Thế Giới Tự Do và Quốc Tế Cộng Sản dẫn tới chung cuộc bất hạnh 30-04-1975 của dân tộc Việt Nam là nguyên cớ chính đưa một khối lớn người Việt Nam yêu Tự Do không đội chung trời với Cộng Sản tỏa ra sinh sống khắp nơi trên thế giới.

        Trong lịch sử của nhân loại, có lẽ đây là cuộc di thực lớn nhất, đau thương nhất và bi thảm nhất. Nước mất, nhà tan. Gần như chẳng có gia đình nào toàn vẹn. Cả nước gông cùm. Kẻ đào thoát được, ngoài một thiểu số ăn trên, ngồi trốc, hút máu dân lành, chiến hữu mới có được tài sản giúp họ khả dĩ sống an nhiên tự tại.

        Số còn lại mặc nhiên trở thành loại người ăn nhờ, ở đậu. Tất cả đều làm thân nô lệ xứ người.

        Mấy năm đầu tiên từ 1975 cho đến cuối 1978. Chưa hoàn hồn vì cuộc đào tẩu, không mấy ai nghĩ đến chuyện nước non mãi cho tới 1979, Cuộc Chiến Tranh Biên Giới giữa Trung Cộng với Việt Cộng nổ ra, kèm theo đó việc ly khai của Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng bộc lộ những mâu thuẫn trong tập đoàn Cộng Sản lúc đó hải ngoại mới dấy lên phong trào tập hợp lực lượng nhằm phục quốc.

        Nhiệt vọng phục hận lúc này thức tỉnh bởi thấm thía nỗi nhục nhằn qua mấy năm bươn chải để thích nghi với cuộc sống lưu vong đã gây ra lắm chuyện đau lòng.

          Chết vì nước ắt thành thần
          Chết vì bịp bợm đội quần thiên thu

        xác Hoàng Cơ Minh
        Có tiếng vang nhất trong giai đoạn đó là MTQGTNGPVN nhưng trên thực tế không có hoạt động gì đáng kể ngoài vấn đề tai tiếng về những trò bịp bợm trước và sau khi Hoàng Cơ Minh thảm tử.

        Tìm hiểu kỹ sự việc chúng tôi thấy trong khi những anh em Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa đang bị đày đọa trong những nhà tù Cộng Sản thì tại hải ngoại có một nhóm người lợi dụng Tinh Thần Ái Quốc của đồng bào và chiến hữu - đang còn nhiệt vọng phục hận - bày ra trò Kháng Chiến Bịp để quyên góp, thậm chí cưỡng ép đồng bào nộp tiền cho họ làm giàu tắt.

        Ðầu trò của tổ chức này là cựu Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh và hầu như tất cả mọi phần vụ quan trọng khác của tổ chức này đều do gia đình, dòng họ Hoàng Cơ nắm giữ.

        Ðặc biệt Vụ Tài Chánh do Hoàng Cơ Ðịnh - một người mà cả Ban Ðại Diện Sinh Viên và Giáo Chức tại trường Cao Ðẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ đứng lên tố cáo về tội tham nhũng, bị đưa ra Giám Sát Viện cách chức từ năm 1970,- giành phần quản lý.

        Khởi đầu, Mặt trận Kháng Chiến Bịp này vốn thoát thai từ một tổ chức có tên là Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam ở Miền Ðông và Miền Tây hình thành từ năm 1978 sau cải danh thành Lực Lượng Quân Dân Việt Nam và nhờ vào quyết định sai lầm của cựu tướng Nguyễn Chánh Thi (cũng do xảo kế của Hoàng Cơ Minh lừa cả Nguyễn Chánh Thi và Phạm Văn Liễu nhằm khuynh loát tổ chức để loại bỏ Lục Phương Ninh, Ðinh Thạch Bích.v.v) trong vai trò Chủ Tịch Hội Ðồng Trung Ương Ủy Viên đã ký quyết định giải tán tổ chức này để sát nhập với Tổ Chức Phục Hưng, Tổ Chức Người Việt Tự Do thành Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam vào ngày 01-08-1981.

        Lúc đó, Nguyễn Chánh Thi đương nhiên trở thành Chủ Tịch của tổ chức mới. Ông Phạm Văn Liễu làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại và Hoàng Cơ Minh là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội.
        Sự xếp đặt này cũng hợp lý theo đẳng cấp từ chế độ cũ vì khi Hoàng Cơ Minh vào học trường sĩ quan Hải Quân 1955, ông Liễu đã đeo lon thiếu tá được 3 năm đang là Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến. Ông Nguyễn Chánh Thi thì đang là Tư lệnh phó Liên đoàn Nhảy Dù.

        Sau cuộc khuynh loát tổ chức nói trên, ngày 18-08-1981 Hoàng Cơ Minh đi Bangkok. (Nhóm 9 người- Hoàng Cơ Minh (tự Chính), Lê Hồng (tự Hiếu) Nguyễn Trọng Hùng (tự Huy), Trương Tấn Lạc (tự Lộc), Nguyễn Văn Thành (tự Thông), Phan Văn Phúc (tự Phút). Trần Thiện Khải (tự Khanh), Nguyễn Ðức (tự Ðài), Nguyễn Thành Tiễn (tự Tín) sau bỏ về Hawaii đã từng bị mưu sát hụt. - có cựu Ðại tá Nguyễn Hữu Duệ tháp tùng đã không vào được Thái Lan. Duy nhất chỉ một mình ông Duệ có quốc tịch Hoa Kỳ là được chấp thuận. Mãi đến tháng 10-1981 qua Richard Armitage được Tướng Sutsai giới thiệu nhóm HCM mới được nhận vào Thái làm công tác phỏng vấn, dò la tin tức về POW - MIA và cho ở tại Ubon từ tháng 11-1981.


        Tại tỉnh Ubon thuộc vùng Ðông Bắc cách Bangkok khoảng 500km, Minh được cho mướn một mảnh đất làm “Chiến Khu Quốc Nội “ tại làng Bultharit còn khoảng 15 cây số tới biên giới Miên Thái (báo VNTP số 233).

        Ðến lúc này âm mưu lừa bịp của Hoàng Cơ Minh càng lộ rõ. Nhóm Người Việt Tự Do như đã viết phần trên sau khi hòa nhập vào với MT đã giới thiệu cho tờ báo Nhật Seikai -Nippo đăng bản văn kêu gọi của Lực Lượng Kháng Chiến Việt Nam ngày 27 tháng 12 năm 1981 trong khi Hoàng Cơ Minh và nhóm tiên phong chỉ vừa mới vào được Thái có hai tháng.

        Sau đó, Hoàng Cơ Minh tiếp tục tiến hành bịp bợm một cách có hệ thống, bài bản.

        Hắn nhờ ký giả Hoàng Xuân Yên bút danh Hoàng Xuyên viết bài tường thuật về thăm chiến khu trong nước (về tận Ðà Lạt) tham dự Ngày MT Công Bố Cương Lĩnh 08-03-1982, đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong tới 6 kỳ [từ số 151 (ngày 01/05/1982 đến số 156 (ngày 16/7/1982)] tạo thành một cơn sốt Kháng Chiến trong tất cả mọi nơi có Người Việt Quốc Gia cư ngụ (gần đây Hoàng Xuyên sau nhiều năm im lặng đã lên tiếng vạch trần bộ mặt xảo quyệt, đểu cáng của Hoàng Cơ Minh qua trả lời phỏng vấn của Ký giả Tân Dân đăng trên Hải Ngoại Nhân Văn từ số 18 - 19 tháng 10/1999). Ngay cả “cameraman” Nguyễn Ngọc Ấn (lúc đó đang làm cho CBS) cũng được chi tiền để làm cuốn phim “Hoàng Cơ Minh Trail” và lừa cả cấp trên trong CBS để đưa lên phần tin. Sau đó, cuốn phim Vidéo Kháng Chiến “Dĩa Giấy, Lính Lào, Rừng Thái Lan” được lưu hành như một bằng chứng Kháng Chiến để đoàn viên MT mặc sức lừa bịp đồng bào.


        Tiếp thêm xảo kế, tờ báo Kháng Chiến (Bịp) (ra số thứ nhất ngày 01-04-1982) đã loan tải những bản tin thất thiệt đến độ hoang tưởng về những trận đánh ở trong nước. Những trò bịp bợm, xảo quyệt có hệ thống, lớp lang đó tất nhiên làm nức lòng đồng bào dẫn tới việc thành lập Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến ngày 03-04-1982 do ông Phạm Ngọc Lũy làm Chủ Tịch để quyên góp tài chánh cho kháng chiến?!!? (Nguyễn Ngọc Bích hiện nay phụ trách phần Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do là người viết diễn văn và soạn thảo cương lĩnh phần chuyển ngữ sang Anh Văn do Nguyễn Hữu Vinh).

        Thời đó, hầu như tất cả đồng bào Việt Nam tại hải ngoại đã bị rơi vào mưu mô quỷ quyệt của dòng họ Hoàng Cơ và trở thành nạn nhân của việc buôn bán, bịp bợm Tinh Thần Ái Quốc nhân danh Kháng Chiến.

        Lúc này Phạm Văn Liễu ở Hoa Kỳ gần như đồng tình với những thủ đoạn xảo quyệt của Minh nên khi Hoàng Cơ Minh lẳng lặng cho Nguyễn Chánh Thi về vườn tiếm chức Chủ Tịch, Liễu cũng im lặng hùa theo.

        Cuối năm 1982, chính Phạm Văn Liễu mới phát giác ra Hoàng Cơ Ðịnh không hề gởi tiền sang Thái. Cựu đại tá Phạm Văn Liễu khai trước tòa ngày 19-12-1994: “Tôi thấy buồn vì tiền bạc thu được nhiều như thế, tôi tưởng Hoàng Cơ Ðịnh đã gởi về nhưng chẳng có chi nhiều ở căn cứ”.


        Sau mới biết được rằng Ðịnh có gởi về khoảng 160.000USD nhưng Hoàng Cơ Minh gởi trả lại, bảo em giữ lại số tiền ấy ở Mỹ.

        Lẽ dễ hiểu Richard Armitage tức Trần Văn Phú đã trả lương cho công tác dò la tin tức POW - MIA rất sòng phẳng, đậm đà bằng mật phí. Như vậy tất cả tiền bạc của Mặt Trận xiết máu trực tiếp kiếm chác được của đồng bào hay do Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến quyên góp đều ở lại Mỹ và nằm trong “hầu bao “ của gia đình Hoàng Cơ Minh và phe đảng.

        Tính sơ sơ ... khoảng chừng từ 18 đến 22 triệu USD (tài liệu của Nguyên Vũ)

        Ðiều đó có nghĩa là ngay từ phút đầu tiên cho đến khi thảm tử, Hoàng Cơ Minh đã có manh tâm, chủ tâm và chuyên tâm làm một cú bịp lớn.

        Trong cuốn Hồi Ký Một Ðời Người, ông Phạm Ngọc Lũy đã ghi lại những lời nói của Hoàng Cơ Minh trong lúc thuyết phục Dược Sĩ Huỳnh Ngọc Anh cho vợ là nữ Luật Sư Nguyễn Thị Truyện tham gia MT như sau: "Một khi chúng ta về được trong nước rồi, những người ngoài này không còn cần thiết nữa sẽ bỏ đi hết” (tập I, trang 400 - dòng thứ 10 - 11 sđd HKMÐN).

        Hoàng Cơ Minh có trở lại Hoa Kỳ vào ngày 16-04-1983 để tham gia Ðại Hội Chính Nghĩa từ ngày 28-29/30-04-1983.

        Tại đây, Minh trơ tráo tuyên bố thống hợp được 36 tổ chức qui tụ được hơn 10.000 Kháng Chiến Quân??!?!?

        Cựu Ðại Tá Trần Minh Công đã vô cùng lúng túng phải trả lời là: “Tôi không có ý kiến ...” khi nữ ký giả báo The Register hỏi: “ Ông là phát ngôn viên, ÔNG NGHĨ SAO VỀ LỜI TUYÊN BỐ CỦA Chủ Tịch MT?” Phần ông Nguyễn Bích Mạc, đảm trách ngoại vận của MT nhìn rõ sự giả dối nên cương quyết không chịu phổ biến những con số trên. Tất nhiên sau đó Nguyễn Bích Mạc bị ghép tội phản bội?!!! (tr 122 HKMÐN. Phạm Ngọc Lũy).

        Thật là Ðại Bịp, ngồi không trong rừng Ubon mà dám tuyên bố như vậy để xây dựng cho mình một hào quang giả dối chỉ nhằm vào mục đích dơ bẩn cuối cùng như ta đã thấy : Tiền!.

        Hỡi ơi! Thật mỉa mai! Thật đáng thương cho Dân Tộc Việt Nam chúng ta!

        Cả một khối hơn 5.000 người đầy nhiệt vọng, thành tâm với quê hương từ năm châu, bốn bể, đến tham dự Ðại Hội Chính Nghĩa đã trở thành những đào thương, kép hát, quân hầu của vở tuồng Kháng Chiến Ma.

        Ðúng là chuyện “Nghìn Năm Bia Miệng”. Ðại cuộc của cả một dân tộc đã bị hủy diệt bởi một kẻ vong thân trong vòng lửa của địa ngục dối trá.

        Ðọc những dòng hồi ký của ông Phạm Ngọc Lũy thật đau lòng cho Tổ Quốc và Dân Tộc. Quả thật những năm cuối cùng của Thế Kỷ 20 nằm trong thời Suy Mạt của Dân Tộc Việt Nam nên mới nẩy sinh ra tên đại bịp Hoàng Cơ Minh - người đã hủy diệt lòng khả tín vào những tổ chức cứu quốc của toàn thể đồng bào và chiến hữu tại hải ngoại- người coi Hồ Chí Minh là thần tượng cả về hình thức lẫn nội dung và tự hoang tưởng cho mình là hậu thân của Hồ Chí Minh qua cách phục sức quần áo bà ba đen, khăn rằn, để râu chòm.

        Công Thức ba mẫu tự HCM = HCM cũng được Nguyễn Tường Bá xử dụng làm vũ khí tuyên truyền.

        Nếu thật sự HCM 1 = HCM 2 thì chúng ta đâu có cần gì phải chống Cộng mà nên khăn gói trở về để xây dựng đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa cho xong. Có điều chúng ta còn hận chưa dẹp bỏ được hậu quả của tên chó chết HCM gây ra thì lại nảy sanh thêm một tên đại bịp khả ố HCM nữa.

        Ðiều này cũng chỉ rõ một vấn đề là đám chính khứa “tea room” lường thưng, tráo đấu trong lãnh vực chính trị đã một thời nắm giữ vận mệnh quốc gia chỉ là một đám người “úy tử tham sinh”, “ái quốc tại khẩu “ chứ chẳng bao giờ chịu dấn thân thật sự để phụng sự đại cuộc của đất nước.

        Chính quyền VNCH bại vong. Lỗi ở họ. Chuỗi ngày lưu vong thất thổ kéo dài lỗi cũng ở họ do thói cả nể dung dưỡng những hành vi lừa gạt, xảo trá. Kèm theo đó bản chất “chính khách salon” vốn ngại gian nguy nên dẫu chỉ một vé máy bay khứ hồi sang một đất nước thanh bình không tiếng súng, cũng chẳng chịu lên đường kiểm tra cho rõ thực hư.

        Một số người khi thấy Hoàng Cơ Minh bị thảm tử do chính những hành động tự diệt của ông ta, cho đó là người có lòng ái quốc và đã hy sinh vì đại cuộc nhưng như chúng tôi đã phân tích làm gì có đại cuộc trong đầu Hoàng Cơ Minh bởi mấy từ ngữ xa xỉ dùng để bịp bợm như : Chiến Khu Quốc Nội, Biên Thùy Ðông Dương, Hội Ðồng Kháng Chiến Quốc Nội, Ủy Ban Kháng Quản, Ðông Tiến v..v... tất cả chỉ là sản phẩm của những bộ óc lừa đảo, xảo quyệt.

        Ðại Cuộc và Chính Nghĩa ở đâu khi ngay bước khởi đầu đã là những trò dối trá, bịp bợm?

        HÀO KHÍ VÀ HÙNG KHÍ Ở CHỖ NÀO KHI CHIẾN KHU QUỐC NỘI CHỈ LÀ MẤY CĂN NHÀ Ở TRÊN ÐẤT THÁI? Chẳng lẽ hàng đêm CHỐNG MUỖI ÐỐT ÐỂ KHỎI SỐT RÉT LÀ KHÁNG CHIẾN Ư?

        Kiểm chứng lại cho kỹ những bài phỏng vấn ông Trần Văn Sơn, Ðỗ Thông Minh, Huỳnh Lương Thiện, Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công - những nhân vật chính trong vở tuồng Kháng Chiến - chúng tôi thấy những nhân vật này vẫn chưa dám nói hết Sự Thật.

        Bởi chính họ đã tiếp tay thần tượng hóa một con người bằng những trò lừa bịp, dối trá nên không đủ can đảm để nhận lãnh một phần trách nhiệm về mình. Diễn biến từ buổi khởi đầu cho chúng ta thấy rõ Hoàng Cơ Minh chỉ thực sự nổi lên nhờ vào những trò dối trá. Hắn chưa từng đặt chân lên đất Mẹ, ngay cả khi vong mạng vì hậu quả của vở tuồng Kháng Chiến Bịp .

        Không ai có quyền nhân danh “Phục Vụ Ðại Cuộc” để biện minh cho những hành vi lừa đảo, dối gạt quần chúng.

        Trải mấy nghìn năm lịch sử quá nhiều thăng trầm, biến động nhưng cho dù mất hàng nghìn năm nô lệ giặc Tàu và hàng trăm năm nô lệ giặc Tây, cuối cùng dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn và phát triển do biết dùng “Chí Nhân để thay Cường Bạo, biết lấy Ðại Nghĩa để thắng Hung Tàn.”

        Vận nước gặp thời Suy Mạt nên mới nẩy sinh ra chuyện lẫn lộn giữa Chính Trị với Tà Trị, Anh Hùng với Ðại Gian Hùng.

        Mười ba năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng Cơ Minh thảm tử nhục nhã tại Tây Bắc Lào do bị trục xuất khỏi đất Thái. Bọn Kháng Chiến Ma vẫn trơ tráo xem như hắn còn sống, vẫn nuôi dưỡng âm mưu tiếp tục lừa bịp và làm phân hóa Cộng Ðồng Việt Nam hải ngoại bằng những trò “ma nớp” chính trị.

        Nếu Người Việt Quốc Gia chúng ta không đủ dũng khí lên tiếng vạch trần Sự Thật thì chắc chắn giới trẻ Việt Nam sẽ tiếp tục bị những tổ chức bịp bợm dẫn dắt vào con đường sai trái không còn biết đâu là đại cuộc của dân tộc.

        Một phần tư thế kỷ đã qua, nhiều tổ chức yêu nước vẫn tiếp tục trên đường tranh đấu. Có những người đã nêu tấm gương sáng, đã anh dũng hy sinh như Liệt Sĩ Trần Văn Bá (từ hải ngoại về), Nguyễn Thành Sĩ, Hà Xuân Hùng, Thái Thanh Hùng, Phan Ngọc Nhất Linh, Nguyễn Công Ích (tại quốc nội)v.. v.v.

        Tổ Quốc và Dân Tộc tri ơn những anh hùng.

        Nhưng riêng với sự việc nổi đình, nổi đám, nặng phần trình diễn nhất của MTHCM, xét về thực chất lại chính là vụ việc bẩn thỉu và ô nhục nhất trong lịch sử chống Cộng của người Việt lưu vong.

        Người ta có thể lừa dối được một người mãi mãi. Có thể lừa dối một số người một ít lâu nhưng không ai có thể lừa dối được tất cả mọi người.

        Trong bối cảnh lịch sử vừa qua và hiện nay hành vi nhục nhã Lừa Dối Tinh Thần Ái Quốc của khối người lưu vong là một Ðại Tội Không Thể Tha Thứ. Như vậy tên Ðại Bịp Hoàng Cơ Minh chẳng phải là Anh Hùng mà chính là Thiên Cổ Tội Nhân?

          Râu chòm dép lốp khăn rằn
          Nhìn cho rõ chỉ là thằng bịp thôi
        Kim Âu

        Friday, May 23, 2008

        Ba mươi ba năm … nhìn lại nền giáo dục XHCN!

        This summary is not available. Please click here to view the post.

        Ở đâu có Băng Đảng Việt Tân thì ở đó có chia rẽ


        Sòng Bài "Ba Lá" Lá Đăng Quan Lên Đài Truyền Hình
        Trương Minh Hòa

        Thông thường, những tay chơi bài ba lá được mọi người cảnh báo là "cờ gian, bạc lận", có người nặng miệng hơn cho là bọn "điếm thúi". Môn chơi bài ba lá nầy không mới lạ gì với nhân dân Việt Nam; tức là những tay điếm cờ bạc, nhờ bao năm "học tập chính trị" và thông làu "chủ nghĩa gian lận" như Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam thông suốt chủ nghĩa vừa ăn cướp, vừa lên lớp dạy đời, mạo xưng "kách mệnh", tự cho là đạo đức cách mạng qua cái gọi là: "chủ nghĩa Marx Lenin vô địt, ra địt, địt hoài, sống mãi trong sự nghiệp địt bậy của chủ địt Hồ Chí Mém dạy đĩ". Những tay chơi bài ba lá có "trình độ gian lận cao" thuộc loại: "đỉnh cao trí tuệ cờ bạc" nên từng làm bạt vía kinh hồn, cháy túi những người khù khờ, mới nhìn qua chỉ có 3 lá bài thật là "giản đơn" thế nầy, cứ mang tiền đặt, chắc ăn là vừa móc túi vừa vịn là bài; thế mà sau khi lật tẩy, thì than ôi! "Tình hình Campuchea là có thể đảo ngược được" (câu nầy dựa theo lúc đảng Cộng Sản Việt Nam xâm lăng xứ Miên, chiếm 10 năm, từ 1980 đến 1990).

        Môn chơi bài ba lá rất là "bình dân học vụ", những tay chơi không cần "tình huống khẩn trương cực kỳ nghiêm túc" với bàn chơi, có người canh gác cẩn thận như các sòng Casino đảng cấp xuyên quốc gia; các tay chơi chỉ cần bày ra ba lá bài ngay trên một tấn CARTON lúc đi trên xe đò lục tỉnh, ngồi ở vỉa hè, bất cứ cứ nơi nào, là có thể dụ được những người ngây thơ; mà đa số là từ miền nông thông, thấm nhuần nền "văn minh miệt vườn" hay "văn hóa mương đìa" mà bị nền "văn minh thành đô" trấn lột một cách tài tình, không cần kinh qua thời kỳ quá độ, mà vẫn "sạch túi" như thường. Môn chơi bài ba lá như thế, nên chưa thấy mang lên đài truyền hình để biểu diễn vài màn "tráo bài lả lướt" cho vui và dĩ nhiên là đâu có con ma nào đặt mà hốt bạc. Tuy nhiên, tại xứ Văn Minh văn hóa Âu Châu, tại Paris, Thủ Đô Ánh Sáng, cái nôi của cuộc cách mạng dân chủ đầu tiên trên thế giới 1789 lại có "sòng bài ba lá" được hân hạnh lên "đài tàng hình" lớn nhất của người Việt tỵ nạn, thật là "vinh quang thay mấy tay chơi bài ba lá" tài tình, lỗi lạc "hậu" nầy.

        Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn tại Paris từ trước đến nay có nhiệm vụ liên lạc các hội đoàn để tổ chức ngày quốc hận 30 tháng 4 (chớ không phải để "Diễn hành cho tự do"), ngày Nhân quyền và đôi khi có Việt Cộng sang, là cùng nhau "điều hợp" để biểu tình chống lại những kẻ "xâm lược: giặc từ miền Bắc Bộ Phủ sang đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào".

        Được biết, từ hơn 6 năm nay, do sáng kiến của Bs Nguyễn duy Tài, một số đông thân hào nhân sĩ cũng như hội đoàn họp nhau làm lễ "Thượng kỳ Việt Nam Cộng Hòa" mỗi thứ Bảy đầu tháng "tại AlfortVille. Được biết vào năm 1966 bác sĩ Nguyễn Duy Tài là người từng cho thượng tọa Thích Trí Quang tá túc, cung cấp thuốc BỔ CẦM HƠI để vị thượng tọa lãnh đạo" vĩ đại và cảm động "của khối Phật Giáo Ấn Quang có điều kiện khỏe mạnh trong lần" tuyệt thực "phản đối sau khi bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan dẫn độ từ miền Trung về Saigòn, vì vụ đem bàn thờ xuống đường, mang tượng Phật làm "phòng tuyến" chống" chính phủ miền nam "bị thất bại, suýt bị đại tá Loan" đạp "xuống phi cơ trực thăng trên đường áp tải, lần nầy thì thượng tọa bèn quỳ lạy vị anh hùng nầy, nên thoát chết và trở thành nhà "cách mạng" sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

        Tuy nhiên kể từ khi ông cụ đại tá không quân Nguyễn Phúc Từng nhào vô "chủ trì" với chức vụ "tổng thư ký" VPLL và bên cạnh có Mông-Xừ Nguyễn Mạnh Hà làm "phó bí hơi", lại thêm Trần Dung Nghi ... vốn là thành phần, nay "thành PHÂN bón Hữu Cơ" thuộc đảng Vịt Tiềm trà trộn, nhào vô như Hồ Chí Minh xâm nhập vào tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, biến thành công cụ cho Cộng Sản đệ tam vậy. Như thế thì cái sòng bài ba lá do cụ Nguyễn Phúc Tùng "chủ trì" lại được tăng cường thêm hai tay chơi bài ba lá "điếm thúi hạng bét" được đảng Vịt Tiềm "biên chế" sang để làm công tác "biến của người thành của mình", tức là biến "tổ chức người thành công cụ của mình" là lối "chim tu hú đẻ con trong ổ của con Sáo Sậu", để sau nầy, con sáo nuôi dùm con của tu hú mà lòng ..." phơi phới, hồ hởi phấn khởi "trong" đấu tranh ôn hòa, dân chủ cuội, bất bạo động dỏm". Cụ đại tá Nguyễn Phúc Từng trước đây từng "tung bay lướt gió", mà người dân ái mộ cho là: "phi công lái máy bay"; nhưng cũng có nhiều anh chàng phi công hào hoa, phong nhã, từng lái máy bay dội bom trên đầu bọn Việt Cộng te tua, chẳng sợ ai, thế mà lại bị "các cô lái phi công" đi theo "tấm bản chỉ đường" mà lòng "phơi phới một tương lai ... hạnh phúc". Lần nầy, thì cụ đại tá phi công Nguyễn Phúc Từng lại bị "VỊT TIỀM LÁI" để ngoan ngoãn "dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường ... về qui hàng, hòa hợp hòa giải với Bắc Bộ Phủ".... đúng là "cá ăn kiến mà kiến cũng xơi cá như chơi".

        Sòng bài ba lá kỳ nầy dường như làm ăn khắm khá thì phải? Số là theo lời mời hay "móc ngoặc" bên trong mà sòng bài ba lá được tổ chức tại "văn phòng liên lạc", bị "lái phi công" theo tấm bản chỉ đường của đàn" Vịt Tiềm" nên mới dời ngày chào cờ theo truyền thống vào ngày 7 tháng 6 năm 2008 lại vào ngày 31 tháng 5 năm 2008. Tức là cái sòng bài ba lá được phóng VIÊN, phóng Cục, hay Phóng Hòn, phóng Bi, phóng ĐẠN ... của đài tàng hình" không người lái SBTN "sang tận thủ đô văn minh ánh sáng để làm cái màng" tối tạo "lẫn" sáng tạo" hình, đưa cả những tay điếm thúi với "nghiệp chuyên" tráo bài bai lá từ "kháng chiến sang đấu tranh bất bạo động, dân chủ đa nguyên, đa miệng ...", vinh danh 60 năm lá cờ vàng là việc làm đáng hoan nghinh, nhưng lợi dụng chuyện nầy để mở sòng bài ba lá, là không thể chấp nhận, một điều khôi hài là: những tay chơi, tráo bào ba lá nầy đã quá "bể" ai cũng biết người thì nhận là "hội viên Công Đoàn Cộng xẻng Pháp", có kẻ là người của Vịt Tiềm đưa vào khuynh đảo ... nên cái đài tàng hình SBTN vốn nổi tiếng là “chống Cộng”, có uy tín, mà lại "lăng xê" một đám ham danh, điếm thúi với nghiệp chuyên "tráo bài ba lá" thì e rằng có khả năng làm tổn hại đến lòng tin của khách hàng, xin hãy cẩn thận, kẻo làm công việc đưa lũ chơi bài ba lá, và muốn "Sưởi Ấm" cho người trong nước bằng tiền quyên góp "từ thiện" theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vô tình giúp cho đảng mạnh, cán giàu ... thì biết bao giờ lấy lại quê hương, khi mà lòng người vẫn còn: "vì ấu trĩ thờ ơ u tối".

        Trương Minh Hòa