Monday, June 28, 2010

Texas woman 'unable to gain weight'




Texas woman Lizzie Velasquez is unable to put on any weight
A woman who weighs just 25 kilograms and has almost zero per cent body fat must eat every 15 minutes to stay healthy.

Lizzie Velasquez, 21, has a rare condition that prevents her from gaining weight and eats 60 small meals a day, The Sun reports.

The student from Texas in the US consumes up to 8000 calories daily and despite standing at 157 centimetres has never weighed more than 27.3 kilograms in her entire life.

She was born four weeks prematurely weighing just over one kilogram.

Her survival amazed doctors who say she was born with little amniotic fluid protecting her in the womb.

At the time, it was predicted Miss Velasquez would never be able to walk or have a normal life but her bones, brains and internal organs developed normally.

She told The Sun she is upset by people who accuse her of being anorexic.

"When I meet new people I have to say: 'Hi, I'm Lizzie and I have this rare syndrome, I am not anorexic'," she was quoted as saying.

"I eat every 15-20 minutes to keep my energy levels up.

"I eat small portions of crisps, sweets, chocolate, pizza, chicken, cake, doughnuts, ice cream, noodles and pop tarts all day long, so I get pretty upset when people accuse me of being anorexic."

"I weigh myself regularly and if I gain even one pound I get really excited."

Miss Velasquez came close to death at the age of 16 from a ruptured appendix and at 19 was the recipient of a blood transfusion after suffering extreme anaemia.

Her case has been studied worldwide and she is currently part of a genetic study at the University of Texas Southwestern Medical Center in Dallas.
It's believed she may be suffering a form of Neonatal Progeroid Syndrome, a condition that causes accelerated ageing, fat loss and tissue degeneration.

Miss Velasquez has two younger siblings who are both of average weight and height.

Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/world/7480873/woman-eats-15-minutes-stay-healthy



Source: http://news.ninemsn.com.au/world/1077994/texas-woman-lizzie-velasquez-unable-to-gain-weight



Sunday, June 27, 2010

Võ Sĩ Lê Cung phục thù Scott Smith trong giải Strikeforce/M-1 Global 26/6/2010

    Cung Le (7-1) hạ đo ván Scott Smith (17-7) chưa đầy hai hiệp
Hiệp nhất: Smith tấn công tới tấp và đẩy Cung Le sát hàng rào. Trận đấu tại San Jose nên thành phần ủng hộ Cung Le rất đông đảo. Nhiều người mang theo cờ vàng ba sọc đỏ để phất lên nhằm cổ vỏ tinh thần Cung Le. Trong hiệp này Cung Le lui vào thế thủ và chờ đợi trả đòn. Đúng với chiến thuật đã chuẩn bị, Smith tìm cách tấn công với ý định hạ gục Cung Le ngay trong hiệp đầu.

Hiệp nhì: Ngay khi bắt đầu, hai bên đã tấn công nhau ngay. Cung Le tung những cú đá liên tục vào võ sĩ Smith. Ngọn cước cuối cùng trúng vào bụng Smith và anh ta chứng tỏ rất đau. Cung Le tiến gần và giáng hàng loạt cú đấm dứt điểm. Và ở phút 1:46 của hiệp hai, Smith bị đo ván.

Trước đây, Scott Smith luôn bày tỏ sự bực dọc khi phải đấu với Cung Le lần thứ hai trong hai trận đấu nhưng sau khi thua Cung Le trong trận đấu hồi hộp tối thứ Bảy tại HP Pavilion, Scott Smith có vẻ muốn tái đấu lần thứ ba. Theo Scott Smith sau trận bị đánh gục trong hiệp hai, “Đấu với Cung Le, tôi rất hân hạnh được bước vào võ đài với võ sĩ này. Dù thắng, huề hay thua, đấu với Cung Le cũng xứng đáng tham gia.” Mặc dù thời gian ngắn hơn trận trước giữa Cung Le (7-1) và Smith (17-7) chứng tỏ đây là đậu thư hùng hấp dẫn của tổ chức The Strikeforce.

Mặc dù Smith đã vận dụng chiều cao đẩy Cung Le lùi trong hiệp đầu nhưng hiệp sau Cung Le đã phản công dần bằng ngọn cước độc đáo của anh. Và với cú đá ruột của mình, Cung Le đã dứt điểm luôn trận đấu võ đài lần thứ hai giữa hai võ sĩ nỗi tiếng. Đây là một chiến thắng đáng ghi của võ sĩ Cung Le vì trong những ngày trước Cung Le phải tập trung lo lắng chuyện gia đình. Như Cung Le mô tả “đây là một tuần nhiều chuyện xảy ra cho tôi. Vợ tôi chuyễn bụng 14 giờ và phải sanh con chúng tôi trong điều kiện khó. Tối thứ Sáu chỉ ngủ được 4 hay 5 giờ.”

Dù sao, Cung Le cũng đã vượt qua và chiến thắng một trận oanh liệt.

Source: http://nguoivietboston.com/?p=26222


http://www.youtube. com/watch? v=DgBBNnyyItI
http://www.youtube. com/watch? v=rnLb67EbzWE
http://www.youtube. com/watch? v=crXSYLOL7JM
http://www.youtube. com/watch? v=4Y-id5Kfpno
http://www.youtube. com/watch? v=IBcP6SLgXoU
http://www.youtube. com/watch? v=kcrY0RAWbfc
http://www.youtube. com/watch? v=0jp8uNpOaaE

Phiếm: Nếu Việt Nam Cộng Hòa thắng … - Trần Văn Giang

    “Điều mà tôi biết chắc chắn đó là: Tôi không phải là Mác-xít”
    (F. Engels – cha đẻ của thuyết cộng sản, bạn thân của Karl Marx - viết trong một lá thư gởi cho bạn là Eduard Bernstein ngày 2 tháng 11 năm 1882).

    “As Karl Marx used to say about the French "Marxists" in the 1870s, What is certain is that I myself am not a Marxist”
    (in Friedrich Engels’ letter to Eduard Bernstein of 2 November 1882)
Trần Văn Giang

Đã có nhiều lời kêu gọi, nhắn nhủ, mồi chài ... thành thật cũng có, lừa phỉnh cũng có của cả phe ta lẫn phe cs thứ thiệt, cs cò mồi, cs điếu đóm, cs phản tỉnh, cs giờ thứ 25 (30/4)… về vấn đề gọi là “hãy quên quá khứ”, “nhìn về tương lai”, “hòa hợp hòa giải …” làm cho một số lớn phe ta (tỵ nạn cs) ở hải ngoại đang có sẵn lượng mỡ hơi cao trong máu hoang mang rồi nhào dzô “hồ hởi” tham gia tổ chức này, hội đoàn nọ với các chủ trương / cương lĩnh “cương điệu” loạn xà bần, cùng với ban chấp hành gồm các thành viên “tả pín lù” liệt kê thành tích lại tùy hỷ với hoạt động nồi chõ; rồi chửi bới lẫn nhau nghe như hát hay … Bài này rất tiếc lại không bàn về cái hũ “tương chao” “hãy quên quá khứ , nhìn về tương lai …” mà lại thử “hoang tưởng” vẽ lại một quang cảnh “không thực” (unreal) và góp bừa vài ý kiến may ra làm sáng tỏ những hoang mang không cần thiết vô bổ đang lưu hành qua các “tuyến” truyền thông Việt ngữ (loại truyền thông chỉ làm cho áp huyết người đọc lên cao một cách “vô tư” lãng xẹc). Đó là vấn đề:

Nếu (“what if”) trong cuộc chiến tranh Nam Bắc – Quốc cộng vừa qua, chính quyền miền Nam (VNCH) thắng cộng sản bắc việt thì điều gì sẽ xảy ra? và điều gì đã không xảy ra?

Trước hết, tạm dùng như tiền đề, người viết mạo muội trình bày vài ý kiến chủ quan cá nhân về các vấn đề chính trị đang sôi nổi; rồi sau đó xin kính mời quý vị đọc giả cùng tha hồ tham gia, trao đổi nhận định, quan điểm, nhận xét, bàn loạn, chụp mũ (nếu cần!)…

Hồ chí minh

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, chăm phần chăm, HCM sẽ được coi như là hồ chính mi gian dâm, một tên vô lại thất học, nhân vật chính trị gian ác, lường gạt quốc tế, nhưng lại ngu xuẩn nhắm mắt nhắm mũi tuân theo mệnh lệnh phản dân tộc của quan thầy cs quôc tế “cắt mạng” biết bao nhiêu sinh linh Việt vô tội, đưa dân tộc và đất nước Việt Nam vào con đường oan nghiệt tàn hại đến xuống hàng chó ngựa qua con đường chủ nghĩa xã hội vô duyên thối hoắc. Huyền thoại thần thánh, tư tưởng và đạo đức của HCM sẽ chỉ thấy có trong các trang mục vui cười, chuyện cấm đàn bà, chuyện cấm trẻ em dưới 18 tuổi. Tất nhiên sẽ không bao giờ có cái gọi là “lăng bác Hồ” tốn kém công quỹ và lãng phí địa ốc (real estate) … Nếu “lăng” loại này đã lỡ xây cất xong rồi thì sẽ có 3 trường hợp xẩy ra cho kiến trúc sai lầm lớn lao này:
    - Một là sẽ bị san bằng thành bình địa, biến thành trại nuôi súc vật (animal farm) hay bãi đậu xe (parking lot);

    -Hai là sẽ được dùng làm viện bảo tàng để triển lãm các tội ác diệt chủng, hại dân, bán nước của HCM và tập đoàn csvn;

    - Ba là sẽ được sửa chữa lại thành nhà xí công cộng với giá “khuyến mãi” phải chăng để giải tỏa bớt phần nào quốc nạn đái đường, ỉa bụi của dân Hà nội …
Việt Nam

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, đầu tiên, hiển nhiên sẽ không có hàng trăm, hàng ngàn quân cán chính miền Nam bị ngang nhiên xử tử, tù đầy, hành hạ, tra tấn trong các trại “tù cải tạo” của cs. Lịch sử cho thấy Hoa kỳ và đồng minh sau khi thắng trận ở Âu châu cũng như tại Thái bình dương không hề bao giờ lập ra tại tập trung để “cải tạo” hàng trăm ngàn người thuộc phe thua trận (phe trục Nhật - Đức). Hoa kỳ và đồng minh chỉ đem ra xử ở “Tòa án tội ác chiến tranh” tổng cộng 112 nhân vật dân sự và tư lệnh quân đội quan trọng của Đức quốc xã (trong đó 11 người lãnh án từ hình) và 43 nhân vật dân sự và tư lệnh quân đội quan trọng thuộc quân phiệt Nhật (chỉ 7 người lãnh án tử hình). Những người Đức và Nhật bị tử hình (xử bắn hoặc treo cổ) đều có thành tích nổi tiếng đã giết hàng ngàn, hàng trăm ngàn dân vô tội và tù binh đồng minh. VNCH cũng theo cái tiền lệ này, dưới sự giám sát của quốc tế và đồng minh, sẽ đem xử các tội phạm chiến tranh cs qua các “Tòa án tội ác chiến tranh”. Dĩ nhiên, một số nhỏ gồm nhân vật lãnh đạo chóp bu cs sẽ được cho đi chầu lê-nin vì đã có thành tích khát máu giết hại dân Việt như Hồ chí minh (nếu còn sống), Trường chinh (qua vụ “Cải cách ruộng đất 1953-1956” phát động bởi chủ tịch nhà nước cs Hồ chí minh dựa theo mô hình “thổ địa cải cách” của Trung cộng 1946–1949; Trường chinh chỉ đạo trực tiếp qua chức vụ tổng bí thư đảng csvn, đã giết và bức tử trên 100 ngàn dân vô tội). VNCH sẽ xóa sổ, cho lên bảng phong thần ngồi ngắm gà khỏa thân cái đám điếu đóm Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân, Lê văn Hảo, Trần quan Long, Phan chánh Dinh …. đã nhúng tay vào máu đồng bào Huế trong vụ thản sát tết Mậu thân 1968 (Theo tổng kết của Douglas Pike, và từ các quan sát viên độc lập không thân Mỹ và VNCH, năm 1970 thì trong vụ thảm sát tết Mậu thân 1968 tại Huế của cs tổng số dân sự tử vong ở Huế và vùng phụ cận là 7.600 - chết lẫn mất tích, có trên 2000 người vẫn còn mất tích).

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sẽ không có ai hưỡn di tản di tiếc, chạy trốn bỏ quê hương làm khỉ gì?. Rồi ngày hôm nay sẽ còn có hàng trăm ngàn người vô tội vẫn còn đang sống sót, không phải bỏ xác ngoài biển cả, không bị hải tặc Thái lan hãm hiếp, cướp bóc … trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sự thống nhất nước Việt Nam mới thật sự có ý nghĩa bời vì dân miền Nam tự do đã có cơ hội sống tiếp cận, thấm nhuần văn minh giòng chính (main stream) của thế giới tự do (chứ không phải loại văn minh “đỉnh cao” đểu giả bánh vẽ qua tuyên truyền khoác lác, thông tin một chiều bưng bít của cs) dễ dàng chấp nhận và bao bọc dân miền Bắc (bằng chứng như đã thấy dân Tây Đức của khối tự do gánh vác gánh nặng của cs Đông Đức sau khi bức tường Bá linh bị đập bỏ).

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sự sung túc, trù phú của miền Nam dễ cảm hóa, dễ khai hóa dân miền Bắc một cách êm thắm.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, người miền Nam (VNCH) sẽ không thể làm cho người miền Nam có cái mặc cảm ngây ngô “cà rem ở miền bắc nhiều quá ăn không hết phải đem phơi” hay là “ôi thôi cái gì chứ ở ngoài Bắc ti-vi và tủ lạnh chạy đầy đường…” quái đản…

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sử sách nước Việt sẽ được ghi chép đúng sự thật. Sài gòn vẫn mang cái tên là thân yêu hiền hòa “Sài gòn Hòn ngọc viễn đông” với các con đường và công viên mang tên các anh hùng dân tộc chống tầu chống Pháp chứ không mang tên những tên cha căng chú kiết cs quốc tế hay các thứ thổ phỉ, giả tưởng bố láo, trợ lý rẻ tiền, “hài” nhảm nhí ba xu của cs như loại Lê-nin, Xít-ta-lin, HCM, Lê duẫn, Lê văn tám, Võ thị sáu, Nguyễn văn trỗi, Nguyễn thị minh khai, Nguyễn văn cừ, Hồ tùng mậu,

Nếu miền nam (VNCH) thắng, thể chế chính trị của Việt Nam sẽ tiếp tục tiến triển theo khuôn khổ thể chế dân chủ thực sự dân chủ Tây phương với 3 ngành Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp độc lập và kiểm soát lẫn nhau (“check and balance”) chứ không theo có cái thể chế cs man rợ độc đảng hoành hành áp bức dân theo luật rừng như đảng cướp mafia ở Việt Nam: “đảng là nhà nước”, “đảng và nhà nước là một”, “quốc hội (lập pháp) nhà nước (hành pháp) và tòa án nhân dân (tư pháp) là một”, “đại biểu quốc hội là do đảng cử dân bầu!”. Cái gì cũng có “đảng” nhúng tay vào; cái gì cũng “văn hóa đảng …”. Tất cả là vì “đảng” “do đảng” thì dân chủ và dân tộc đâu có nghĩa gì đâu?!

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, người Việt Nam ở mọi nơi sẽ không có “nỗi buồn” đến nỗi phải dùng những từ ngữ nghèo nàn, ngược ngạo tréo lưỡi, ngớ ngẩn … như hiện nay. Anh ngữ vẫn tiếp tục là một ngoại ngữ phổ thông. Nga và Hoa ngữ chỉ có trong sách tự điển bán tại tiệm sách chứ sẽ không có lớp học, không có ai điên khùng đi học hai ngoại ngữ bần tiện này làm cái quái gì.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, không có người miền Bắc tràn vào miền Nam cướp nhà cướp đất, cư xử với dân miền Nam ngày nay tệ còn hơn cách cư xử của những tên thực dân ngoại chủng đã đến cai trị Việt Nam ngày trước.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, bản chất người miền Nam hiền hòa, nhân hậu, bao dung, với sự xung túc no ấm sẽ không có các cuộc dàn xếp trả thù tiểu nhân hèn hạ và những vụ vơ vét của cải chở về Bắc như đã thấy từ người miền Bắc sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, nước Việt Nam sẽ có một nền kinh tế phồn thịnh nhất nhì Đông nam Á. Việt Nam sẽ là một nước sản xuất và xuất cảng hàng tiêu thụ mạnh mẽ như Đại hàn (cùng hoàn cảnh với Việt Nam - nhưng cs Bắc hàn không thắng Nam hàn), Đài loan, Tân gia ba … chứ không là một quốc gia nghèo rách rưới như ăn mày, bị khinh rẻ, chịu nhục nhã, đi làm điếm, làm lao động giá rẻ mạt ở nước láng giềng không hơn gì Việt Nam, xếp hàng xin lấy chồng Đại hàn, Đài loan, Trung quốc ...

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, người dân Việt Nam phó thường dân, dân ngu khu đen mỗi ngày ra ngõ không gặp phải anh hùng, kiệt xuất, liệt sĩ, tiến sĩ…

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, Trịnh công sơn có lẽ còn sống và có vợ con đàng hoàng yên ổn; và thay vì TSC hát:
    “Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay
    Ta đi từ đồng hoang vu vượt hết núi đồi…”
thì TCS sẽ hát:
    “Bao nhiêu năm rồi còn mãi u mê
    Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt …”
Nếu miền Nam (VNCH) thắng, Phạm duy không cần thiết phải lộ chân tướng phản thùng “chống gậy”; đỡ phải thất công sáng tác loại nhạc “tình người (?)” loại “nhổ rồi liếm” như loại bài “54, 75”
    “Một ngày bảy lăm, con bỏ hết giang sơn
    Hai mươi năm tình, yêu người yêu cuộc sống!
    Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui
    Sàigòn đã chết rồi, phải mang tên xác người
    Một ngày dĩ vãng, ôi gần hay xa!
    Ðất nước hai phen chứng kiến bao chia lìa
    Ðời của cha con: hai lần vẫy chào
    Chào từ giã quê hương trong hận đau …”
Hoa kỳ

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, uy tín của Hoa kỳ trên vai trò đồng minh và khả năng yểm trợ kinh tế quân sự sẽ gia tăng mạnh mẽ hơn. Ảnh hưởng của Hoa kỳ trong vấn đề đối tác thương mại và đầu tư ở Việt Nam cũng vậy. Riêng sự đầu tư mạnh mẽ của Hoa kỳ vào Việt Nam sẽ làm đời sống dân Việt khá hơn về mọi mặt - mức sống (standard of living), y tế an sinh (health & welfare), giáo dục và đào tạo (education & training).

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, có một số người Việt cứ thong thả nộp đơn xin di dân (immigrant) sang sinh sống ở Hoa kỳ chứ không phải đi chui, như hoàn cảnh dân Việt vượt biên tỵ nạn cs khố rách áo ôm hay FOB, ODP, HO đến Mỹ!!! tương tự như dân Nhật và dân Đại hàn đã di dân sang Mỹ từ nhiều thế kỷ qua; rồi lập các phố Nhật “Little Tokyo” hay phố Đại hàn “Korean town” trên các thành phố lớn ở Hoa kỳ.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, cựu chiến binh Hoa kỳ tham chiến ở Việt Nam (Vietnam veterans) sẽ có mức độ trầm cảm (depression) rất thấp. Những tên trước đây từng ồn ào biểu tình phản chiến chống đối chính sách tham chiến ở Việt Nam của chính quyền Hoa kỳ sẽ được xem như như những tên phản bội, hèn nhát thay vì những người yêu chuộng hòa bình.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, Hoa kỳ có thể sẽ công nhận là “chất độc da cam” (Agent Orange) đã gây độc hại gây ung thư và khuyết tật (birth defects); và sẽ tận tình tài trợ, giúp đỡ các nạn nhân người Việt.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, Hoa kỳ sẽ xây đài tưởng niệm chiến sĩ Hoa kỳ tham gia chiến tranh Việt Nam tai Việt Nam thay vì ở Washington DC.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, phim “Killing Fields” sẽ chỉ thuần túy là một phim thuộc loại giả phim tưởng (fiction) của Hollywod; và sẽ không đọat được giải gì cả ..

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, Hoa kỳ sẽ xây Disneyland tại Hà nội, Huế và Sài gòn; sẽ mở quán hamburger Mac Donald và cà phê Starbucks tại mỗi góc đường của các thanh phố lớn; sẽ mở hàng loạt các sòng bài (casinos) tại biên giới Việt-Trung hoa và Việt-Cam bốt để dân tầu và dân Miên tha hồ vui vẻ xếp hàng đến chung tiền cho Việt Nam thay vì cứ lăm le chiếm đất, lấn dân, lấn biển …

Trung cộng

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sự hiện diện của Hoa kỳ ở Việt Nam làm Trung cộng không dám ngang nhiên “chấn áp” Việt nam và các nước lân cận như chúng ta đang thấy. Kể từ năm 1971, người Mỹ đã có ý định bỏ rơi Việt Nam, TT Nixon bắt đầu cho thi hành việc rút quân đội Mỹ có hệ thống ra khỏi Việt Nam trong chương trình gọi là “Việt nam hóa chiến tranh Việt Nam” (Vietnamization of the VietNam war / Peace in Honor ? – “rút lui ? trong danh dự”). Đánh hơi được sự kiện then chốt này (và sự thỏa thuận ngầm giữa Nixon và Chu ân lai) Trung cộng đã cưỡng chiếm của Việt Nam các đảo Hoàng sa năm 1974; rồi Trường sa năm 1988,

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, thì với ảnh hưởng chính trị cũng như sức mạnh quân sự của Hoa kỳ ở Việt Nam, Trung cộng không thể và không có đủ khả năng xâm lăng Việt Nam và “dậy cho Việt nam một bài học” năm 1979 … Ngoại trừ Trung cộng muốn có thế chiến thứ III. Theo Luật sư Lê Chí Quang, chính phủ “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã “nhượng bộ” cho Trung cộng chiếm đóng, kiểm sóat vùng lãnh địa biên giới (khoảng 720 kí-lô-mét vuông) và lãnh hải (3200 hải lý vuông – vào khoảng 11,000 ki-lô-mét vuông) của Việt Nam.

Nếu miền nam (VNCH) thắng, sức mạnh kinh tế của Việt Nam ở Á châu sẽ không cho phép hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất, nguy hại của Trung cộng thao túng thị trường và đầu độc dân Việt Nam như ngày hôm nay.

Đông nam Á

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, không có sự triệt thoái quân sự của Hoa kỳ ở Việt Nam thì sẽ không có thuyết “Domino” ;Có nghĩa là, Cam bốt vẫn tiếp tục nhận sự viện trợ của Hoa kỳ, sẽ đứng vững không mất vào tay thổ phỉ Khmer đỏ; và sẽ không có chuyện “Killing Field” làm cho một phần ba dân Cam bốt (trên 2 triêu nhân mạng) bị giết bởi Khmer đỏ man rợ.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sẽ không có cuộc chiến tranh biên giới Việt - Cam bốt năm 1977-1978 (kéo dài mãi đến năm 1989 mới ngưng hẳn) làm hàng ngàn thanh niên Việt và Cam bốt hy sinh. Dân Việt sẽ tiếp tục sang buôn bán giao thương với dân Cam bốt thay vì trẻ con Việt Nam chạy sang Cam bốt làm điếm để sống, để nuôi gia đình nghèo ở Việt nam.

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, sự hiện hiện của người Mỹ ở Việt Nam cùng với các kỹ thuật khoa học tân tiến nhất hoàn cầu sẽ thiết lập các cơ sở tiên đoán và dự phòng thiên tai (chẳnh hạn như động đất, sóng thần..) cho vùng Đông nam Á … Có lẽ sẽ làm giảm thiểu rất nhiều những tổn thất về tài sản và nhân mạng trong trận sóng thần Tsunami vào tháng 12 năm 2004 (làm thiệt mảng trên 230 ngàn người!)

Toàn cầu (Global)

Nếu miền Nam (VNCH) thắng, hàng hóa “Made inVietnam” sẽ tràn ngập thị trường thế giới; sẽ hiên ngang đối chọi với hàng hóa “Made in China”. Việt Nam sẽ làm cho hàng hóa “Made in China” thực sự là biểu hiệu của sự khinh bỉ made in china …

Lời cuối

Câu chuyện “Nếu miền Nam (VNCH) thắng…” chưa thể chấm dứt ở đây. Người viết chỉ chỉ xin tạm ngừng để nghỉ xả hơi và chờ đợi …

Ngoài ra, cũng nên biết, cộng sản luôn luôn tuyên truyền láo khoét là:

“Chủ nghĩa tư bản đang đứng bên bờ vực thẳm!”

Nhưng mà hiện nay cs lại cho là chủ nghĩa cộng sản vinh quang, vô địch tiến xa hơn tư bản một bước!. Thử tính lại, “chủ nghĩa cộng sản đang (đứng / nằm / ngồi) ở đâu vậy?” (mà hình như chỉ còn có “4” nước cs “vinh quang” trên mặt đất thì phải?)

Chờ xem! “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?”

Trần Văn Giang



Thursday, June 24, 2010

Thánh Tích Đạo Phật Giáo Hòa Hảo - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Kính thưa các Bậc Trưởng thượng,

Thưa quý quan khách,

Tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi phát biểu hôm nay, nhân dịp Lễ Khai Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) lần thứ 71. Tôi đã thưa chuyện tại diễn đàn nầy nhiều lần. Nay thêm một lần nữa cũng là dịp tôi xin ôn lại chuyện lịch sử. Ôn lại những kinh nghiện lịch sử trong quá khứ rất thiết thực và ích lợi để chúng ta nhìn về tương lai.

Kính thưa quý vị,

Lần nầy, chúng tôi xin trình bày về những thánh tích của đạo PGHH. Tôi xin giới thiệu sơ lược các thánh tích chính của PGHH: Thánh địa PGHH là làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Làng Hòa Hảo là nơi Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) khai sáng đạo PGHH ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão tức ngày 4-7-1939. Tổ đình PGHH là ngôi nhà của ông bà Huỳnh Công Bộ, nơi sinh trưởng của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ. An Hòa Tự là ngôi chùa do Đức Phật Thầy Tây An (1807-1856) đặt tên và do đệ tử của ngài xây dựng. Đức Phật Thầy Tây An là người sáng lập môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương hay Phật giáo Tứ ân, tiền thân của PGHH. Trải qua nhiều đời trụ trì và nhiều lần trùng tu, An Hòa Tự được xây thành mái ngói tường vôi từ năm 1936. Sau khi Huỳnh Giáo chủ khai sáng đạo PGHH, nhiều vị trong ban Trị sự chùa quy y với Đức Thầy và làm văn tự hiến chùa. Khi trở về thăm viếng chùa, ngày 8-7-1945, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cung thỉnh lư hương từ tổ đình và an vị lư hương nơi chánh điện An Hòa Tự.

Kính thưa quý vị,

Phật giáo Hòa Hảo là tông phái Phật giáo do Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) khai sáng ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão (4-7-1939), tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang). Sau khi thành lập, đạo PGHH càng ngày càng phát triển, khiến người Pháp lo ngại. Từ tháng 5-1940 đến tháng 10-1942, Pháp liên tục giam giữ Đức Huỳnh Phú Sổ ở nhiều nơi khác nhau. Cuối cùng, do sự can thiệp của quân đội Nhật, Huỳnh giáo chủ được thả và được đưa về sống ở Sài Gòn từ tháng 10-1942.

Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, Đức Huỳnh Phú Sổ đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đòi độc lập dân tộc. Ngày 21- 9-1946, Đức Thầy chính thức thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, gọi tắt là Dân Xã Đảng, được đồng bào miền Tây hưởng ứng mạnh mẽ. Tuyên ngôn của Dân Xã Đảng do Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ công bố, nhấn mạnh: "Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảng dân chủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: "chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân". Đảng Dân Xã chủ trương "toàn dân chánh trị, thế tất đảng chống độc tài bất cứ hình thức nào." (Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo Hải ngọai ấn hành, Sấm giảng thi văn toàn bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Houston: 2004, tr 533.)

Chủ trương của Đức Thầy và Dân Xã Đảng hoàn toàn đi ngược với chủ trương của Việt Minh cộng sản. Đức Thầy bị Việt Minh cộng sản hãm hại nhiều lần. Nhân một cuộc xô xát giữa Dân Xã Đảng và VM, VM mời Đức Thầy đến họp ngày 16-4-1947, để giải quyết các cuộc xung đột giữa lực lượng hai bên tại Sa Đéc. Trên đường tham dự cuộc họp, đoàn của Đức Thầy bị tấn công tại kênh Đốc Vàng Hạ (thôn Tân Phú, Kiến Phong). Đức Thầy biệt tích từ đó. (Theo: http://hoahao.org). Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tin rằng Đức Thầy vẫn còn sống.

Những lý do chính khiến VM cộng sản trước sau quyết tâm hãm hại Đức Huỳnh Phú Sổ và PGHH vì lúc đó tín đồ PGHH là một khối quần chúng có tổ chức khá chặt chẽ, nên Việt Minh CS rất lo sợ và đề phòng PGHH. Khối tín đồ của PGHH lại là nông dân. Cộng sản Việt Nam theo chủ trương của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, và xem nông dân là thành phần nòng cốt của cuộc cách mạng. Thế mà nông dân miền Tây nam tin tưởng vào PGHH hơn là tin tưởng CSVN. Đối với CSVN, đó là một "tội" nặng mà CSVN không thể dung thứ được.

Cộng sản chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp, thâu tóm ruộng vườn, đất đai của nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp do CS quản lý, trong khi PGHH chủ trương khẩn hoang, lập trại do nông dân làm chủ, vừa sản xuất, vừa tu học. Nói cách khác chủ trương nông nghiệp giữa hai bên hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu chủ trương của Đức Thầy được truyền bá, thì cộng sản không thể tuyên truyền và phát triển trong quần chúng nông thôn. Vì vậy, Cộng sản liên tục đánh phá Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và PGHH.

Chủ trương đánh phá đạo PGHH của CSVN tiếp tục sau ngày 30-4-1975, khi đảng CSVN cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam. Chính sách đàn áp tôn giáo của CSVN rất khôn ngoan. Các tôn giáo có nhiều liên hệ quốc tế như Phật giáo, Ky-Tô giáo La-Mã, các tông phái Tin Lành, thì CSVN có phần dè dặt khi đụng chạm, vì có thể bị dân chúng các nước trên thế giới phản đối, ảnh hưởng xấu đến ngoại giao hay ngoại thương. Trái lại, các tôn giáo địa phương như PGHH là một tôn giáo thuần túy Việt Nam, không có liên hệ quốc tế, nên CSVN công khai thẳng tay đàn áp.

Ngay khi vừa chiếm miền Nam, chẳng những CSVN bắt giam, hành hạ, ngược đãi những tín đồ PGHH muốn hành đạo theo truyền thống tín lý của PGHH, mà CSVN còn tịch thu Trụ sở Văn phòng Giáo hội PGHH Trung ương (Hội đồng Trị sự Trung ương) tại Ấp 1, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, dùng trụ sở nầy làm văn phòng huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Ngoài ra, CSVN tịch thu luôn Viện Đại học Hòa Hảo được thành lập ở Long Xuyên năm 1972, sáu trường Trung học, hai bệnh viện ở tỉnh An Giang do PGHH điều hành và vài trăm độc giảng đường ở các tỉnh, quận có nhiều tín đồ PGHH.

Trong thời gian gần đây, CSVN kiếm cách xóa bỏ tiếp những di tích lịch sử của PGHH, như ngày 10-11-2005, CSVN phá bỏ Thư viện Thánh địa PGHH, tháng 04-2008 đập phá hai ngôi chợ tên là Chợ Đình và chợ Mỹ Lương, do Đức ông Huỳnh Công Bộ thiết lập gần Tổ đình PGHH. Vào tháng 3 năm nay (2010), lại có tin CSVN lấy lý do trùng tu An Hòa Tự để đập phá An Hòa Tự trong khi An Hòa Tự vẫn đang ở tình trạng hoàn hảo, nhờ tín đồ chăm sóc hàng ngày.

Ở đây, tôi xin mở ngoặc một chút. Tại các nước trên thế giới, những di tích cổ xưa, dầu cổ lỗ lỗi thời, dầu hư hao vì thời tiết qua thời gian, người ta vẫn giữ gìn nguyên bản để bảo tồn di tích lịch sử chứ không đập phá để xây dựng lại. Đặc biệt, người ta rất hãnh diện về tuổi tác của những di tích lịch sử nầy

Kính thưa quý vị,

Chính sách văn hóa của CSVN là cắt đứt quá khứ với hiện tại, xóa bỏ tất cả những truyền thống văn hóa đi ngược với chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, CSVN tiêu hủy những tài liệu lịch sử, di tích văn hóa, tượng đài, miếu mạo của người xưa nhằm chôn vùi quá khứ. Đó là lý do CSVN đổi tên trường và đập phá tượng Phan Thanh Giản ở Cẩn Thơ, nhằm cắt đứt truyền thống hào hùng của trí thức miền Nam xuất thân từ ngôi trường mang tên anh hùng dân tộc Phan Thanh Giản.

Di tích lịch sử tôn giáo là những thánh tích ràng buộc đời sống tâm linh của tín đồ với quá khứ tôn giáo. Cộng sản VN đập phá các thánh tích PGHH nhằm xóa bỏ những kỷ niệm thiên liêng của PGHH thời khai đạo, ngõ hầu cắt đứt đời sống tâm linh của tín đồ PGHH với giáo sử PGHH.

Tín đồ PGHH ở trong nước đang bị đàn áp dữ dội, mà vẫn can đảm đứng lên đòi hỏi bảo vệ thánh tích của mình. Chúng ta hiện nay đang định cư ở những nước tự do dân chủ, chúng ta có bổn phận lên tiếng tố cáo âm mưu đen tối của nhà cầm quyền CSVN, nhằm bảo vệ những thánh tích của PGHH, bởi vì đây cũng là những di tích lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử luôn luôn biến chuyển. Không có chế độ nào bền vững lâu dài. Chỉ có dân tộc là trường tồn. Vậy chúng ta phải lên tiếng bảo vệ những di tích lịch sử qua khỏi cơn hoạn nạn hiện nay dưới chế độ CSVN. Chắc chắn, một lúc nào đó, chế độ CSVN sẽ bị giải thể, nhưng PGHH luôn luôn trường tồn với dân tộc. Qua khỏi cơn hoạn nạn, Giáo hội PGHH trong nước sẽ phát triển bình thường trở lại và những thánh tích của PGHH sẽ tồn tại cùng đất nước và dân tộc.

Trân trọng cảm tạ quý vị đã lắng nghe và kính chào quý vị.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 20-6-2010)

Wednesday, June 23, 2010

TÌM RA SỰ THẬT “THỰC”? - Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

Bối cảnh của một chuyến đi

Nhằm đánh dấu 350 năm thành lập hai giáo phận đầu tiên và 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, Năm Thánh 2010 đã khai mạc trọng thể tại Sở Kiện, Hà Nội dịp lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam 24-11-2009. Chỉ hơn một tháng sau thì xảy ra vụ thánh giá Đồng Chiêm bị đập nát. Người tín hữu Công Giáo vừa bàng hoàng và phẫn nộ trước hành vi báng bổ của chính quyền cộng sản, vừa ngạc nhiên và đau đớn khi thấy tuyệt đại đa số các giám mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn hoàn toàn thinh lặng. Không một lời nói, không một cử chỉ hiệp thông với anh chị em giáo tỉnh Hà Nội. Tình trạng phân hoá trong nội bộ Công Giáo càng thêm trầm trọng và phơi bày công khai khi đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục (TGM) Phó Hà Nội với quyền kế vị, và chỉ mấy hôm sau là Đức TGM Giu-se Ngô Quang Kiệt rời khỏi Việt Nam giữa đêm hôm khuya khoắt, chẳng khác chi một kẻ tội đồ bị trục xuất khỏi quê hương.

Chính trong bối cảnh đó mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn (ĐHY), Tổng Giám Mục Sài Gòn, đã lên đường đi Rô-ma gặp các quan chức cấp cao của Toà Thánh, và sau khi trở về, đã có bài trả lời phỏng vấn liên quan đến chuyến đi; bài trả lời đó được đăng tài trên tuần báo Công Giáo & Dân Tộc, số 1762, tuần lễ từ 18-06 đến 24-06-2010. Xin được chia sẻ một vài suy nghĩ sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn đó.

Tại sao đi? Đi để làm gì?

Hồng Y nói: Trong tình hình một số ý kiến trên mạng hay qua truyền tai nhau, tạo nên dư luận gây ít nhiều hoang mang và bất ổn trong cộng đoàn Giáo hội và xã hội, ví dụ như một vài dư luận cho rằng có sự tắc trách của Bộ Truyền giáo, sự thoả hiệp của Bộ Ngoại giao, sự cấu kết của một ít nhân vật trong Giáo hội vì tư lợi, sự ngây ngô của Vatican…, một số giám mục đề nghị tôi đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ. Qua những lời trên đây, HY vừa cho ta thấy nguyên nhân nào khiến ngài rời Việt Nam để có mặt tại Vatican từ ngày 30-05 đến 03-06-2010, vừa cho thấy mục tiêu của chuyến đi, đó là để tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ. Chuyến đi này không phải là một chuyện hoàn toàn cá nhân, nhưng còn theo lời đề nghị của “một số giám mục”. Các vị này là những ai, gồm bao nhiêu người, nắm chức vụ gì trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGM/VN), ngài không nói.

Những hoạt động trong chuyến đi

Tại Rô-ma, những người đầu tiên được HY gặp gỡ và thăm hỏi là những linh mục, tu sĩ, giáo dân Việt Nam được ngài gửi tới học. Đây là chuyện bình thường, nhưng chắc không ở trong mục tiêu quan trọng của chuyến đi. Ngay cả việc đi thăm đức hồng y Etchegaray cũng vậy, cũng chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao.

Nhưng hai cuộc gặp quan trọng hơn cả trong chuyến đi này, trước hết là cuộc gặp tại Bộ Ngoại Giao Toà Thánh sáng ngày 01-06, với vị Ngoại trưởng là Đức TGM Dom. Mamberti, và với Thứ trưởng, đức ông Ern. Ballestrero; kế đến là cuộc gặp tại Bộ Truyền Giáo với Tổng Trưởng là ĐHY Ivan Dias. Tại mỗi nơi, HY Phạm Minh Mẫn đã “giải bày tình hình do dư luận tạo ra”. Ngài đã nói những gì, giải bày thế nào thì không ai biết. Nhưng phần trả lời, thì tại cả hai nơi, ngài đã nhận được một nội dung hoàn toàn giống nhau. Phía Bộ Ngoại Giao thì Bộ đã “lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của đương sự” (tức là Đức TGM Hà Nội Giu-se Ngô Quang Kiệt). Tại Bộ Truyền Giáo cũng vậy, Bộ “luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của người liên hệ” (vẫn là Đức Tổng Kiệt). Và dựa vào cách làm của cả hai bộ là “lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của người liên hệ”, cuối cùng “Đức Thánh Cha chấp thuận lời Đức Cha Ngô Quang Kiệt xin từ nhiệm Tổng Giám Mục Hà Nội vì lý do sức khoẻ”. Và đây là sự thật “thực” ĐHY đã phải vượt bao nhiêu ngàn cây số đến tận Rô-ma để cất công đi tìm.

Nói nôm na là như thế này: Sở dĩ có “dư luận gây ít nhiều hoang mang và bất ổn trong cộng đồng Giáo Hội và xã hội” là do việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm đức cha Nguyễn Văn Nhơn thay thế đức cha Ngô Quang Kiệt trong cương vị Tổng Giám Mục Hà Nội. Việc thay thế đó bắt nguồn từ việc đức cha Kiệt xin từ chức vì lý do sức khoẻ. Và trong việc này, cả hai bộ Ngoại Giao cũng như Truyền Giáo đều tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của đương sự.

Tóm lại: mấu chốt của vấn đề, hay là sự thật “thực”, chính là việc đức cha Ngô Quang Kiệt xin từ chức mà thôi. Có gì đâu mà phải ầm ĩ!

Những điều gây thắc mắc

Thế nhưng đối với công luận, mọi chuyện không đơn giản như thế. Giả sử đức cha Kiệt lâm trọng bệnh, không còn khả năng lãnh đạo, hay đến tuổi về hưu, thì bất cứ vị nào được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm thay thế, cộng đồng tín hữu cũng hoan hỷ đón nhận. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Nhưng việc đức cha Kiệt rời khỏi chức vụ TGM Hà Nội, lại chính là đòi hỏi của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, qua văn thư đề ngày 23-09-2008 của ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội, gửi HĐGM/VN do đức cha Nguyễn Văn Nhơn làm Chủ tịch. Vậy thì điều người tín hữu Việt Nam muốn biết, đó là mối tương quan giữa hai sự việc: giữa đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội và việc Đức Giáo Hoàng chấp thuận cho đức cha Kiệt từ chức. Điều người tín hữu Việt Nam nóng lòng muốn được soi sáng là HĐGM/VN đóng vai trò nào trong việc thay thế TGM Hà Nội, Đức Cha Ngô Quang Kiệt. Cũng liên quan đến vụ việc này, một nhân vật quan trọng khác mà tín hữu Công Giáo Việt Nam muốn có thông tin, đó là vị đại diện Toà Thánh đến thăm Việt Nam lần chót, vào đầu năm 2009: Đức ông Cao Minh Dung. Đâu là vai trò của đức ông trong việc liên quan đến Đức Tổng Kiệt? Trong bài trả lời phỏng vấn, HY Phạm Minh Mẫn có cho biết là chiều ngày 02-06 ngài đã “gặp gỡ linh mục, tu sĩ Việt Nam đang làm việc tại Vatican”, nhưng nhân vật mà mọi người chờ đợi là đức ông Cao Minh Dung thì ĐHY không hề nhắc tới. Như thế cũng có nghĩa là thắc mắc của người tín hữu Việt Nam liên quan đến đức ông Cao Minh Dung, vẫn chưa có câu trả lời.

Liệu có tìm ra sự thật “thực”?

HY Phạm Minh Mẫn có một kiểu nói khá độc đáo khi thêm tính từ “thực” vào danh từ “sự thật” (sự thật “thực”). Điều này chẳng phải không có lý do. Là vì trong chế độ hiện thời tại Việt Nam, mọi phương tiện truyền thông đều nằm trong tay Nhà Nước. Có nhiều đài truyền hình và truyền thanh trên khắp nước, từ trung ương tới địa phương, với trên dưới 700 tờ báo, nhưng tất cả chỉ nói những điều được phép nói. Khi đề cập đến chuyện nói dối, nói láo … trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, nhà văn Nguyễn Khải đã viết trong tập Tuỳ Bút của ông: “… các cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy… Nói dối lem lẻm, nói dối lỳ lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết; nói để mà nói …”. Chính vì vậy mà khi nổ ra vụ Toà Khâm Sứ – Thái Hà chẳng hạn, nếu chỉ dựa vào báo đài của Nhà Nước, hay cả khi đọc báo Công Giáo & Dân Tộc, không ai biết được: thực sự chuyện gì đã xảy ra.

Và điều ta phải đặc biệt quan tâm, là tình trạng này chẳng phải không ảnh hưởng đến truyền thông Công Giáo. Hôm xảy ra vụ Đồng Chiêm chẳng hạn, đố ai vào trang mạng của HĐGM mà tìm được thông tin! Còn trang mạng của Toà TGM Tp. HCM, trong bài “Tự do báo chí là nhựa sống của nền dân chủ”, lấy nguồn từ Vietvatican, thì chuyện trớ trêu là đã cắt xén đoạn nói đến Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam … cũng như đoạn sau đây: “Tất cả các chính quyền và các tổ chức nói trên đều theo đường lối cai trị độc tài, sợ hãi sự thật, chủ trương ngu dân, nên tìm mọi cách và đưa ra mọi luật lệ để kèm kẹp con người và đất nước trong tình trạng nô lệ, chậm tiến, dốt nát …”.

Một ví dụ khác, đó là nếu có ai nghe đoạn ghi âm lời đức cha Nguyễn Văn Khảm, Giám mục Phụ tá Sài Gòn, nói về chuyến đi Hoa Kỳ của ĐHY Phạm Minh Mẫn đến Long Beach chủ toạ Đại lễ Lòng Thương Xót Chúa, rồi đem đối chiếu với vô số thông tin liên quan trên mạng, đố ai biết được sự thật “thực” ở chỗ nào. Và ví dụ cuối cùng là dịp lễ nhậm chức của Đức Tân TGM Hà Nội ngày 07-05-2010: nếu có ai vào trang mạng của Uỷ Ban Kinh Thánh mà đọc bài của Peter Nguyễn Minh Trung, thì 15.000 chữ ký của thỉnh nguyện thư gửi Đức Giáo Hoàng đã bị hô biến thành panô với những chữ “Nguyễn Văn Nhơn, Bùi Văn Đọc, Võ Đức Minh: biến khỏi trái đất này !” Vậy thì câu hỏi dai dẵng vẫn cứ đeo đuổi chúng ta là: sự thật “thực” ở đâu?

Sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam?

HY Phạm Minh Mẫn vượt núi băng ngàn đến tận Rô-ma để tìm sự thật “thực”, nhưng liệu ngài có giúp được Đức Giáo Hoàng tìm ra sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam? Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng biết những thay đổi diễn ra tại Việt Nam trong mọi lãnh vực kể cả tôn giáo. Ngày nay cuộc sống khá hơn, người dân được tương đối tự do hơn. Các tôn giáo được phép xây cất, tổ chức lễ lạt, huấn luyện chức sắc, đi ra nước ngoài, v.v… Du khách đến Việt Nam lác mắt khi thấy các nhà thờ ngày Chúa nhật động nghẹt người, ơn gọi linh mục, tu sĩ rất đông, số đi ra nước ngoài truyền giáo đến cả ngàn. Đó là mặt tích cực, và cũng là mặt nổi. Trong khi đó, các lãnh vực như y tế, giáo dục, xã hội … đều là độc quyền của Nhà Nước. Đi xin tiền giúp người nghèo thì được, nhưng tranh đấu cho quyền lợi của người nghèo, đòi hỏi sự công bằng cho người nghèo thì không. Tôn giáo không được tự do phục vụ con người. Trong một chế độ độc tài toàn trị, thì “đối thoại”“hợp tác” chỉ là những mỹ từ của người chấp nhận ngửa tay xin. Xin cái gì ? Thưa xin lại những quyền chính đáng của mình đã bị nhà cầm quyền tước đoạt. Sự thật “thực” phũ phàng là như thế. Liệu Đức Giáo Hoàng có biết rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay, chỉ vì muốn thoả hiệp với nhà cầm quyền để được yên thân, mà đánh mất khả năng ngôn sứ: quay lưng lại người nghèo, hững hờ với các tôn giáo bạn, thờ ơ với vận mạng dân tộc, với tương lai đất nước? Liệu Đức Giáo Hoàng có biết rằng khi thánh giá tại Đồng Chiêm bị đập nát, tuyệt đại đa số các giám mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn đã ngậm miệng làm thinh? Thế thì trước câu hỏi: liệu Đức Giáo Hoàng có biết được sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam hôm nay, xem ra chưa có câu trả lời!

Kết luận

Đạt tới chân thiện mỹ là khát vọng tự nhiên của con người. Khát vọng tìm cho ra sự thật càng mãnh liệt khi con người sống trong môi trường đầy dẫy những lừa lọc, gian dối. Tìm cho ra sự thật, đó là mối quan tâm của ĐHY Phạm Minh Mẫn khi ngài nói đến sự thật “thực” và đã cất công đi tìm. Nhưng khi sự thật mình đi tìm lại chính là sự thật mình muốn có bằng bất cứ giá nào, thì liệu sự thật mình khám phá ra, đã là sự thật “thực” hay chưa? Người đọc bài của ĐHY vẫn cứ phải tự tìm lấy câu trả lời. Không biết đến bao giờ Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới tìm lại được sự bình an đã mất, mới tìm lại được sự đồng tâm nhất trí đã tan rã, mới tìm lại được lòng tin tưởng kính mến đã nhạt phai đối với hàng giáo phẩm kể từ khi Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt rời khỏi chức vụ TGM Hà Nội trong một hoàn cảnh còn nhiều ẩn số chưa được giải mã?

Sài-gòn, ngày 24 tháng 06 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
pascaltinh@gmail.com

Julia Gillard Australia's first female Prime Minister



Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/newshome/7452526/gillard-australias-first-female-pm

Julia Gillard has taken her place at the House of Representatives despatch box as the nation's first woman prime minister.

Ms Gillard, sworn in 90 minutes earlier by the governor-general, was welcomed to the chamber by Opposition Leader Tony Abbott, who shook her hand.

She was sworn in as Australia's 27th prime minister.

Watch Julia Gillard's press conference

Labor is now on election footing after Julia Gillard was elected unopposed in the party room to become Australia's first female prime minister.

Treasurer Wayne Swan was also elected unopposed as deputy prime minister.

The country's first female Governor-General, Quentin Bryce, performed the ceremony at Government House in Canberra on Thursday afternoon.

Ms Gillard was greeted with a kiss by her partner Tim Mathieson as she entered the room for the swearing in.

After 24 hours of drama for the government, Ms Gillard took over the top job without a ballot when Kevin Rudd stepped aside from the leadership.

The writing was on the wall for Mr Rudd after the leadership spill began in earnest on Wednesday evening - just after midnight there were reports that Ms Gillard and Mr Swan already had the numbers sewn up.

The Labor caucus met just after 9am and about half an hour later the result was announced.

A large gathering of media packed the hallway just outside the caucus room as MPs gathered for the leadership vote.

Emerging from the caucus room with Mr Swan by her side, Ms Gillard said she felt honoured.

"Can I say Australians one and all, it's with the greatest, humility, resolve and enthusiasm that I sought the endorsement of my colleagues to be the Labor leader and to be the prime minister for this country," she said.

"I have accepted that endorsement."

Labor is now expected to quickly get itself on an election footing to take advantage of the fresh start offered by a new leader.

While Labor had remained a nose ahead on a two-party preferred vote in the opinion polls, Mr Rudd's personal support was sliding.

Ms Gillard appears to have stronger voter appeal against Tony Abbott and Labor will want to capitalise on that before she gets bogged down in the difficulties of leading.

Việt Cộng tổng tấn công Giáo Hội Công Giáo Việt Nam - Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

    Việt Cộng tổng tấn công Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trên ba Tổng, kể từ ngày biến cố đau thương dân tộc 30/04/1975.
    Đứng trước vấn nạn thuyên chuyển Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đức Chúa Giêsu than với Simon, người đứng đầu môn đệ:

„Simon, Simon! kìa Satan đã xin được sàng lọc anh em như người ta sàng gạo“
(Luca 22, 31)

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh


Từ khi Việt cộng xâm chiếm niềm Nam tới nay là ba muơi ba năm (35), Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dưới chế độ cai trị độc đoán gian manh của Việt Cộng bị „sàng“ như thế nào? Qua biến cố thuyên chuyển đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thật sự đã bị Satan quấy rối. Có lẽ Satan chống phá và làm xáo trộn chạm đến tận gốc Giáo hội rồi chăng? Thế là „bức màn tre“ đã tạm thời hạ xuống?!

Tổng kết sau 35 năm Việt Cộng thống trị niềm Nam, Việt Cộng đã tấn công Giáo Hội Công Giáo trên ba Tổng. Ba mươi ba năm gồm lại, giống như một cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. „Cuộc tổng tấn công“ lần này nhắm vào Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra sao? Chúng ta cùng nhau suy luận, phân tích và nhận định từng giai đoạn!

1. Lần thứ nhất: Việt Cộng tấn công Tổng giáo Phận Sài-gòn

Khi Việt Cộng xâm chiếm niềm Nam, thì nhóm Linh Mục cấp tiến tại Sài-gòn đã ra mặt công khai ngăn chận không cho đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, phó giám mục TGM Sài gòn, với chức vụ phó tông tòa kiêm TGM Sài gòn, thực hành nhiệm vụ.

Trong vụ này, kẻ đối đầu chống những vị Giám Mục do tòa Thánh bổ nhiệm, lộ diện công khai. Họ là những Linh Mục cấp tiến theo thời. Họ là Linh Mục quốc doanh làm tay sai cho Việt Cộng phá rối sự đoàn kết Giáo hội.

Nhóm này ngăn chận không cho Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nhận nhiệm sở mới. Họ còn xua đuổi đức Khâm Xứ tòa thánh Heinri Lemaitre. Cánh tay nối dài của nhóm „Linh Mục Cấp tiến“ hiện nay là Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo yêu Việt Cộng.

Nhận định chung: Những người anh em này sẵn sàng tiếp tay với Việt Cộng để phản bội và bán đứng anh em để lập thành tích với Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ là tay sai hay Chính ủy? Có lẽ cả hai. Họ chính trị hóa Giáo hội cho sự gian ác. Một số „Linh Mục cấp tiến“ này có thành tích với Việt Cộng đều được thăng chức sau đó. Họ giữ những chức vụ then chốt trong tòa TGM Sàigòn.

Kết quả đợt công kích lần thứ nhất: cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đi tù 13 năm. Sau đó, Ngài bị đầy ra hải ngoại.

Đức Hồng Y Thuận, tuy chưa một lần có thái độ lên tiếng phản kháng đối đầu với Cộng sản hoặc chống nhóm Linh mục cấp tiến, nhưng cũng đi tù 13 năm. Lý do chính duy nhất: Ngài là cháu cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nổi tiếng chống cộng.

(Trong giai đoạn này, có lẽ chưa ai biết những Linh Mục cấp tiến này thuộc về thành phần nào. Dần dần nhóm này hiện rõ là thành phần yêu Việt Cộng gian ác phản Hội Thánh).

Xong vụ trường hợp Hồng Y Thuận, đến Giám Mục Nikolas Huỳnh Văn Nghi, Giám Mục Phan Thiết. Trong thời gian đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình bệnh và bị mất, Ngài cũng không được thực thi nhiệm vụ giám quản tại TGM Sài gòn, mặc dù đức Giám Mục Nghi „chưa“ được coi là Giám Mục „nguy hiểm“ cho chế độ. Nhưng Ngài nổi tiếng là nghiêm nghị, trung trực và trung thành với Tòa Thánh.

Tòa TGM Sài-gòn bị trống ngôi sáu năm. Ai cai quản trong thời gian tòa T ổng giám mục Sàigòn trống ngôi? Dĩ nhiên, là nhóm Linh mục quốc doanh cấp tiến.
2. Lần thứ hai: Việt Cộng tấn công Tổng giáo Phận Huế

Trường hợp thứ hai, Việt Cộng tấn công tòa tổng giám mục Huế, đứng đầu là Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền. Tại đây, đức Tổng Điền công khai chống lại Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo yêu Xã Hội Chủ Nghĩa, đứng đầu là Linh Mục chủ tịch Nguyễn Hữu Vịnh. Ủy ban này, chiếu theo Thế quyền của Việt Cộng, cao hơn Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Vì, Ủy ban này là dụng cụ tay sai trung thành của Việt Cộng, nhằm phá hoại sự đoàn kết của Giáo hội.

Kết qủa cuộc đối đầu chống lại nhóm Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, đức TGM Nguyễn Kim Điền đã bị đầu độc tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sàigòn, ngày 8/6/1987.

Sau khi TGM Điền mất, thì hầu hết những Linh Mục ủng hộ Ngài đều bị thất sủng. Ngoài ra, Linh Mục thư ký của tòa TGM Huế là Lm Nguyễn Văn Lý bị giam tù và quản chế trên dưới 20 năm. Linh Mục Phan Văn Lợi và Linh Mục Nguyễn Hữu Giải bị tù đày và quản chế nhiều năm.

3. Lần thứ ba: Việt Cộng tấn công TGM Hà-Nội (từ 12/2007 – tháng 05/2010)

Có thể nói, khởi xướng công cuộc đối đầu với nhà nước Việt Cộng của TGM Hà Nội bắt đầu từ tháng 12 năm 2007. Nổi bật trong những cao trào đấu tranh cho Công Lý và sự thật là tại Tòa Khâm sứ, giáo xứ Thái Hà, sau đó đến Tam Tòa và Đồng chiêm. Cao điểm tinh thần hiệp thông của giáo dân của giáo phận Vinh cho giáo xứ Tam Tòa, với năm trăm ngàn (500.000) Cao Đình Thuyên.

Lần này có thể nói được rằng, Tòa TGM Hà-Nội được cả thế giới biết đến nhiều nhất nhờ phương tiện Internet và tinh thần đấu tranh quyết liệt của giáo dân. „Trận chiến“ lần này, đã được sự ủng hộ của toàn dân tộc văn minh trên thế giới. Phong trào Hiệp thông cầu nguyện đòi hỏi Công lý và hòa bình lớn mạnh. Xem ra, chế độ Việt Cộng gần như đã bị sụp, mà chưa đổ! Giống như Hồ Chí Minh đã chết mà chưa chôn!

Trong vụ này, Tòa Tổng Giám Mục chỉ trực diện đối đầu với bạo quyền Việt Cộng, không có sự đối kháng với nhóm „cấp tiến“. Đứng đầu nhóm là bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Thanh Nghị và Chủ tịch của cái gọi là UBND Thành phố, Nguyễn Thế Thảo. Họ là những „đại ca“ liên kết với bọn du côn đánh đập và hành hung quý tu sĩ và giáo dân.

Trong cao trào đấu tranh này, khách quan nhìn nhận, phe yêu chuộng công Lý và lẽ phải thắng tập đoàn Việt Cộng, trên từng địa phương. Thấy tình thế có nguy cơ sụp đổ, Nguyễn Thế Thảo bàn kế hoạch xin „lực lượng nhóm cấp tiến trừ bị“ ra tay giúp đỡ. Cũng như hai lần trước, nhóm „Cấp tiến“ ra tay, phối hợp với đại ca phường du côn Việt Cộng, chống phong trào Hiệp thông đòi hỏi Công Lý và Hòa bình. Đợt phản công này đều có sự „tiếp tay“ của nhóm „cấp tiến“ đứng trong hậu trường, với những lập luận phản giá trị Phúc âm và gây rối loạn Đức tin.

Nói chung: Mọi đợt „phản công“ của Việt Cộng, đều gây ra cảnh nồi da xáo thịt. Anh em đồng giáo đồng đạo phản bội nhau và bán đứng nhau làm tay sai cho kẻ gian ác Việt Cộng.

Trong vụ tranh chấp tại tổng giáo phận Hà Nội, Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã bị phải từ chức, để công khai hợp thức hóa ra đi. Nói rõ ra: Ngài bị bứng đi chỗ khác! Có thể nói, Ngài bị phản bội và bị lường gạt. Ngài là „chiên tế thần“ của đồng đội.

Song song đó, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, địa phận Vinh, cũng đúng ngày 13/05, xin từ nhiệm bày tỏ tình Hiệp thông và liên đới với Đức tổng Kiệt.

Kết qủa tại TGM Hà-Nội: Hai vị chủ chăn can đảm anh dũng của Tổng Giáo Phận Hà Nội đã phải từ chức. Cả hai vị đều có một lịch sử phản kháng và chống đối kiên cường trong bất kỳ nỗ lực nào nhằm giúp Giáo hội sống thật sự trong lòng dân tộc và cộng tác lành mạnh.

Trong vụ này thì qúa rõ: Đạo diễn „bi kịch TGM Ngô Quang Kiệt“ chính là do Việt Cộng chỉ đạo ra mặt gồm có bí thư tỉnh ủy Phạm Thanh Nghi và chủ tịch cái gọi là UBND thành phố Hà Nội là Nguyễn Thế Thảo. Lần này, hầu như, không có sự ra mặt công khai của nhóm cấp tiến thân Cộng. Thỉnh thoảng có bài lên tiếng, ví dụ như lời lên tiếng của Linh mục quốc doanh Phan Khắc Từ, giáo xứ Vườn soài, qua vụ Đồng chiêm.

Mặc dù, tất cả qúi Giám Mục của Tổng Giáo Phận Hà Nội đều lên tiếng Hiệp Thông với đức TGM Ngô Quang Kiệt, nhưng vẫn không thắng được qủy Satan Việt Cộng và tay sai.

Ai là người chỉ đồng cảm, nhưng không đồng thuận, đồng nhất với tòa Tổng giám Mục Hà Nội? Có lẽ chính những nhân vật với những chủ mưu này, và thành phần „cấp tiến“ đứng sau đã tiếp tay cho Việt Cộng, để „bứng“ chức vụ TGM của đức tổng Kiệt?
4. Nhân định chung qua những biến cố trên

Chúng ta không nên bình thường hóa vấn đề thuyên chuyển của đức TGM Ngô Quang Kiệt! Không nên bình thường hóa sự dữ! Sự kiện, các tòa Tổng giám Mục, từ Sài-gòn, rồi đến Huế, và ngày hôm nay là Hà-Nội bị „tấn công“, là kết qủa sự bưng bô kìm kẹp thông tin và chính sách đàn áp của chế độ Việt Gian Cộng sản. Không phải sự việc xẩy ra không có cơ sở! Chúng ta không nên „vô tư“ cho rằng, sự kiện TGM Ngô Quang Kiệt là một sự vô tình tự nhiên không có sự xếp đặt nào. Hiện tượng TGM Kiệt chỉ là ngọn. Vấn đề chính vẫn là guồng máy cai trị độc tài bất nhân Việt Cộng. Chính họ là đạo diễn! Và nhóm Cấp tiến quốc doanh tay sai là diễn viên!

Làm sao bạch hóa được đường giây tình báo trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam?! Chính Giám Mục Giáo Phận Thanh Hóa Nguyễn Chí Linh, Phó chủ tịch HĐGMVN còn phải than trách: „Điều đáng sợ nhất là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam không biết mình là cái gì đối với những người đứng ở hậu trường tìm cách phá hoại Giáo hội.“

Nguyên nhân từ đâu? Bởi đâu mà ra? Vì, những vị TGM hay đương nhiệm kế vị TGM, đều là „mối nguy hại“ cho chế độ. Nên, quý Ngài phải đi tù, đầu độc và bị „bứng“ cho lưu đày!

Nếu chúng ta hiểu ra vấn đề, thì dù là người công giáo, nói riêng, hay tất cả những ai yêu chuộng công lý và hòa bình nói chung, chống độc tài gian manh đàn áp của Cộng Sản, thì phải đi tìm sự thật và chống lại những thế lực đen trong lòng Giáo Hội Việt Nam, nếu có.

Nếu chúng ta nhắm mắt cho những kẻ a dua tòng phạm cho sự gian ác, thì chính chúng ta cũng tự trọng trách là kẻ vô ơn thờ ơ, đứng bờ đại dương nhìn nhà giáo hội cháy, để rồi bình chân như vại. Đừng vô trách nhiệm hùa theo chủ thuyết „phó mặc cho kẻ gian manh rảnh tay tung hoành“!

Hai vụ chống phá Giáo hội tại Tổng Giáo Phân Sài gòn và Huế, là bởi vì người thiện chí không lên tiếng, không có phương tiện truyền thông. Ngày nay, với kỹ thuật điện toán mà chúng ta im hơi lặng tiếng, thì chúng ta thật vô trách nhiệm với đồng bào và đồng giáo. Và chúng ta có thật lòng đồng hành, đồng cảm, đồng nghiệm và đồng tình với giáo hội mẹ không?

Cũng chính vì người công chính im lặng, mà nay mới có thể xẩy ra lần nữa tại Tổng Giáo Phận Hà Nội. Lần thứ ba rồi! Lần này là lần cuối hay lịch sự vẫn tái diễn? Giáo hội Công Giáo Việt Nam có ba Tổng, thì đã bị Việt Cộng tấn công trên ba Tổng, có nghĩa, cả toàn bộ Giáo hội bị tấn công!

Quyết định ngăn chận sự gian Ác ma qủy lan tràn trong lòng giáo hội, cũng một phần do thái độ của chúng ta. Thái độ của chúng ta là gì trước vấn nạn? dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ sống chết mặc bay, trốn tránh trách nhiệm v.v…? Chúng ta góp phần nào xây dựng đoàn kết cho Giáo hội cho quê hương, trong tình hiệp thông bác ái cho mưu ích chung và trong tinh thần hỗ tương lương tựa nhau? Chúng ta chọn thái độ nào trước vấn nạn?

5. Kết luận

Muốn tránh khỏi cảnh „con đấu tố cha, cha đấu tố con“, cảnh người cha Abraham dùng người con I-sak làm của „lễ vật hy sinh toàn thiêu“ dâng cho đảng Cộng Sản Việt Nam thì phải làm gì?

Điều đáng nên nghi nhớ: im lặng thì sự gian ác lan tràn! Quay mặt đi thì sự ác sẽ ngước lại. Thà mổ đau một lần, nhưng chữa được bệnh, còn hơn là để cơn bệnh thành bệnh ung thư truyền nhiễm hết thuốc chữa.

Tất cả những cuộc „tấn công“ kể trên của Việt Cộng tấn công vào Giáo hội công giáo Việt Nam đều có bàn tay giúp sức của nhóm Cấp tiến quốc doanh. Họ là những thành phần „đấu tố phụ“ kết án cha anh mình! Nhóm „cấp tiến“ chủ trương phản bội hãm hại anh em để bảo vệ đảng Cộng Sản Việt Nam. Những hành động của họ chính trị hóa Giáo hội cho sự ác của Việt Cộng. Họ chỉ làm lợi cho một nhóm. Đó là tập đoàn Việt Cộng bán nước hại dân.

Có thể nói, con cái trong cùng một đại gia đình đấu tố nhau! Muốn triệt tận gốc căn bệnh này, phải thiết lập một nền thể chế chính trị Dân Chủ Tự Do đa nguyên pháp trị, phi cộng sản.

Đức tin người giáo hữu nay đã trưởng thành trong đau khổ. Họ tự quyết định lấy vận mạng trong tay. Chính họ khởi xướng những cuộc đối đầu công khai với Việt Cộng.

Thường thì những con ong tìm đến những bông hoa tươi đẹp đầy nhựa sống hút mật. Việt Cộng là ong. Giáo Hội Việt Nam là những bông hoa đẹp tươi mát đầy mật sữa. Biết được điều này, nên chúng thả những con ong thiêu thân hút hết „mật“ của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Chính những „con ong“ này, sẵn sàng nòi kim chích nọc độc thay cho chủ.

Qua ba biến cố Việt Cộng tổng tấn công trên ba Tổng, người ta có cảm giác, cơ quan tình báo của Việt Cộng đã cắm rễ xâu vào lòng giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Và cánh tay dài- đường giây tình báo Việt Cộng- có lẽ đã vươn tới tận Vatican.

Chủ trương của Giáo hội sau 35 năm sống trong „triều đại gian manh phản bội của Hồ Chí Minh“, đến nay đã chứng minh cụ thể rõ ràng: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bị Việt Cộng tấn công với sự tiếp tay của phe nhóm cấp tiến nằm vùng, giống như xưa Việt Cộng tấn công cố đô Huế, với sự tiếp tay nội tuyến trong thành.

Kết qủa của cuộc tổng tấn công này đưa ra hai nhận định:

a. - Thứ nhất, giáo dân hiền lành chân chính đều bị Việt Cộng „hành quyết“. Thứ hai, những vị lãnh đạo tinh thần có khuynh hướng „chạnh lòng thương“, nguy hiểm cho chế độ, những vị công khai đối đầu v.v. đều bị „tiêu diệt“, cho đi tù, cho về hưu non hoặc bị „bứng khỏi chức vụ“!

Có thể nói: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang bị „sàng“„lọc“! „Lọc“ những ai đi „chệch hướng“ của Việt Cộng. Vì vậy đã tạo ra cảnh Giáo hội „bị sàng“. „Simon, Simon! kìa Satan đã xin được sàng lọc anh em như người ta sàng gạo“ (Luca 22, 31).

Satan là Việt Cộng. Thành phần „nhóm Cấp tiến“ là nhóm tay sai Satan trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Chính những thành phần này vẫn còn hăng say „lập thành tích“. Họ sẵn sàng phản bội tình huynh đệ để hưởng lợi!

Trong những ngày qua, có nhiều nhân chứng cho rằng, vòi bạch tuộc mạng lưới tình báo Việt Cộng đã „cắm vòi“ sang tới Vatican?! Nếu đúng vậy thì: Lạy Chúa tôi! Đúng là thời đại qủy vương ra đời!

„Em nghe gì không hỡi em???..... Ôi! Thương quá trái tim Việt Nam!!!!!!!!! !!“

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Đức Quốc, thứ ba, Lễ kính thánh John Fisher và Thomas Morus, ngày 22/06/2010


Thánh nhạc mới của TGPSG: “Cùng nhau đi Hồng Binh”




Như Nữ Vương Công Lý đã đưa tin, tại Thánh lễ kết thúc Năm Linh mục và phong chức linh mục cho 33 Tân linh mục TGP Sài Gòn do ĐHY Phạm Minh Mẫn và Đức GM Phụ tá Nguyễn Văn Khảm chủ tế, dàn kèn đồng đã cử bản Thánh nhạc mới lần đầu tiên được đưa vào Thánh đường, đó là bài ca của Cộng sản: “Cùng nhau đi Hồng Binh”.

Mời quý vị thưởng thức bản Thánh nhạc mới từ phút thứ 7:03 đến 7:36

Lời của bản “Thánh nhạc” mới như sau:

Cùng nhau đi Hồng binh
Đồng tâm ta đều bước
Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh

Nào anh em nghèo đâu
Liều thân cho đời sống
Mong thế giới đại đồng
Tiến lên quân Hồng

Đời ta không cần lo
Nhà ta không cần tiếc
Làm sao cho toàn thắng
Ta mới sống yên vui

(Sáng tác: Đinh Nhu)

Bản “Thánh nhạc” này được báo chí nhà nước giới thiệu như sau:

Cùng nhau đi Hồng binh là một bài hát được sáng tác năm 1930 của nhạc sĩ Đinh Nhu, được coi là bài hát đầu tiên của tân nhạc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam.

Cùng nhau đi Hồng binh được ông sáng tác khi đang bị giam trong tù, lấy cảm hứng từ cao trào đấu tranh cách mạng sôi nổi những năm 1930, đặc biệt là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Kính mời quý vị xem đoạn video có bài “Thánh nhạc” nói trên từ phút thứ 7:03 đến 7:36:


    Bản nhạc và bài hát gốc “Cùng nhau đi Hồng Binh” như sau:
    Chúng tôi kính đề nghị:

    HĐGMVN, Ủy Ban Thánh nhạc, Ủy ban Phụng tự, Hồng Phạm Minh Mẫn, GM Phụ tá Nguyễn Văn Khảm, linh mục Tổng Đại diện Huỳnh Công Minh … có trách nhiệm giải thích rõ ràng vấn đề đưa Thánh nhạc mới là bài hát của Cộng sản vào nhà thờ cách công khai trước Thánh lễ quan trọng này.
Nữ Vương Công Lý
Source: http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/binh-luan/thanh-nh%E1%BA%A1c-m%E1%BB%9Bi-c%E1%BB%A7a-tgpsg-cung-nhau-di-h%E1%BB%93ng-binh/


Tuesday, June 22, 2010

Trách Nhiệm Giữ Nước, Cứu Nước Và Giành Lại Đất Nước - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Nhiệm vụ duy nhất của quân đội trong thời bình là bảo vệ đất nước, lúc chiến tranh thì cứu nước và sau khi mất nước, tất nhiên phải giành lại nước. Vậy, những ai cầm súng dưới màu cờ quốc gia thì thật xứng đáng là những người con thân yêu của tổ quốc. Đối với Việt Nam, thanh niên là nòng cốt với truyền thống bất khuất sẵn có trong người cộng thêm tấm lòng thiết tha quê hương, vì thế, họ đã quyết định chọn con đường cầm súng làm lý tưởng (hiện dịch), hoặc hiên ngang lên đường tòng quân theo lệnh tổng động viên (trừ bị) thì thành phần trẻ chính là thành phần ưu tú của xã hội. Trong quân ngũ, dù mang màu áo nào và thuộc quân binh chủng gì thì nhiệm vụ của người lính bao giờ cũng được xác định minh bạch là lấy lý tưởng quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như an cư lạc nghiệp của người dân làm mục đích dấn thân để phục vụ quê hương và tổ quốc. Do đó quân đội trong thời bình và chiến tranh không bao giờ được phép tham gia bất cứ một hoạt động gì ngoài trọng trách cầm súng chống kẻ thù, dù kẻ thù đó là ai và từ đâu đến. Như vậy có thể nói rằng, đây chính là mục tiêu chính trị duy nhất của những người lính của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Đối với thời bình, nhiệm vụ của quân đội là thuần túy giữ nước. Nhưng lúc chiến tranh thì người lính phải chấp nhận hy sinh tất cả, từ bản thân cho đến gia đình để đối mặt kẻ thù ngoài chiến trường nhằm bảo vệ từng tất đất, từng gang biển của tổ tiên để lại cũng như phối hợp với các cơ quan cảnh sát và dân sự nhằm ổn định an ninh tại hậu phương. Nhưng nếu nước mất nhà tan, như trường hợp Việt Nam, thì những người lính còn sống sót sau cuộc chiến phải làm gì ? Đây chính là một vấn đề đặc biệt cần đặt ra cho bất cứ những ai đã một thời cầm súng phục vụ dưới cờ Quốc Gia. Mặc dù tập thể chiến sĩ lưu vong tại hải ngoại ngày nay không còn hàng ngũ chặt chẽ theo tổ chức quân đội, không còn vũ khí trong tay, không có địa bàn hoạt động nhưng trong trường hợp đặc biệt nầy, tình thế không cho phép bất cứ ai hoặc tổ chức nào tuyên bố rằng ‘quân đội không làm chính trị’ như dưới thời bình. Nếu nói vậy, chẳng khác gì tập thể chiến sĩ hải ngoại đã trở thành những hội ái hữu như những tổ chức dân sự không ngoài mục đích trình diễn hay họp mặt hằng năm với bộ quân phục trên người. Thật vậy, người lính hải ngoại hôm nay tuy tay không súng nhưng vẫn còn trách nhiệm, vẫn còn danh dự, vẫn tâm hồn, vẫn còn chí khí, vẫn còn khả năng cũng như nhân lực thì phải tập hợp thành một khối để ‘giành lại nước’, phải đi tiên phong trong các hoạt động tranh đấu của cộng đồng và phải nhận trách nhiệm vai trò đầu tàu cho công cuộc giải thể chế độ cộng sản hiện nay tại quê nhà. Có như vậy truyền thống hào hùng anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ không mai một khi những bộ quân phục diễn hành sẽ hai dần màu áo theo thời gian !

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với một quá khứ oai hùng từ hàng chục năm qua, những người cầm súng đã anh dũng chiến đấu chống việt gian cộng sản. Nhưng tiếc thay, vận nước đã đến đường cùng vì nội thù đánh phá cũng như trở mặt của người bạn đồng minh. Dân Miền Nam làm sao quên được, trong thời chiến, người lính ngày đêm hành quân giết giặc ở chiến trường thì tại hậu phương, nhóm thất sủng, chủ bại và cò mồi tuân lệnh cộng sản miền Bắc cũng như người bạn đồng minh xúi giục những tên nằm vùng trong Nam xúi giục và lùa con nít bà già xuống đường ăn vạ quấy phá, nhóm trí thức đòi buông súng bắt tay hòa giải, đám văn nghệ sĩ vác bị gậy ăn mày ! Đây chính là những lát dao đâm ngay vào lưng những người cầm súng bảo vệ quê hương và đồng bào ruột thịt vô tội. Như vậy, Việt Nam với một vị trí quan trọng chiến lược về quân sự, kinh tế, thương mãi thì quốc gia nhỏ bé nầy không thể nào thoát khỏi ảnh hưởng của những tên trùm quốc tế tư bản cũng như bọn cộng sản gian manh. Nếu không thể dùng vũ lực để xâu xé thì chúng chọn giải pháp bắt tay cùng nhau hưởng lợi và một khi xem Việt Nam là món hàng trao đổi, thì chúng bất chấp cả cam kết lẫn danh dự; một mặt, cột tay trói chân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Mỹ và nhóm chủ bại) và mặt khác, hợp lực đánh phá từ ngoài tiền tuyến vào đến hậu phương (cộng sản Hà Nội, Tàu cộng và nhóm cò mồi ở miền Nam). Việt Nam đã bị cắt hẳn phương tiện như súng ống đạn dược trong lúc phải đương đầu với việc đánh phá từ hậu phương đến tiền tuyến, nhưng những người cầm súng vẫn luôn luôn anh dũng chiến đấu cho đến giờ thứ 25. Và cuối cùng, khốn nạn thay ! Những người con thân yêu của đất nước phải tức tưởi buông súng giữa đường theo lệnh đầu hàng vô điều kiện, và gần nửa triệu anh hùng hôm qua, nay trở thành những người tù trong nháy mắt để rồi tủi nhục xếp hàng vào tù. Một nhà tù dã man mọi rợ của lớp người đã không có thông minh lại còn thiếu văn minh nên chúng đã trả thù và giết hại gần cả trăm ngàn người con thân yêu của Miền Nam.

Vai trò người lính của QLVNCH sau ngày mất nước còn quan trọng hơn cả thời bình lẫn thời chiến, vì bổn phận của những ai đã một thời cầm súng, tại hải ngoại hôm nay, phải kết hợp thành một lực lượng nòng cốt để giành lại tổ quốc thân yêu của chúng ta trong bàn tay cộng sản. Không thể đơn thuần hoài niệm và nuối tiếc những gì đã mất qua bộ quân phục bên ngoài, mà phải có những hành động cụ thể để xứng đáng làm đầu tàu cho công cuộc tranh đấu của toàn dân. QLVNCH lúc nầy chưa đến cơ hội cầm lại súng nhưng người lính VNCH đừng quên:

1. Giữ lấy Trách Nhiệm bằng cách tập hợp dưới màu cờ tổ quốc để trở thành một đội quân có truyền thống hào hùng của những người cầm súng trước đây. Hãy mặc lên người những bộ quân phục của chúng ta ngày trước để làm sống lại thời oanh liệt, nhưng xin đừng chắp vá khoác lên người những bộ quân phục của nước bạn đồng minh mà trên đó lại gắn thêm huy hiệu của Quân binh chủng cũng như cấp bậc của QLVNCH trước kia ! Đành rằng đây là quyền của mỗi người ở tại các xứ tự do, không ai có quyền bàn đến, nhưng xét cho cùng thì cũng là một điều đau lòng cho tập thể chiến sĩ chúng ta, vì một số (vài ba người) quân nhân cũ thích chạy theo hình thức cầu danh vô tội vạ nhưng có phương hại ít nhiều đến màu cờ sắc áo của QLVNCH. Cũng giống như trường hợp xử dụng quân phục ngày trước vài ba lần trong các cuộc lễ hằng năm rồi sau đó cất vào tủ áo, thì chúng ta chưa vinh danh trọn vẹn màu áo của quân đội. Hình thức bên ngoài nầy, trước tiên sẽ đưa đến những ý nghĩ không mấy đẹp cho người ngoại quốc đồng thời làm mất niềm tin đối với toàn dân Việt Nam đang trông chờ hành động cụ thể của những người cầm súng trước kia. Bộ áo bên ngoài không thể tạo nên sức mạnh cũng không đem lại sự đoàn kết tập thể chiến sĩ chúng ta, mà điều quan trọng là, khi cởi bộ áo ra, những người lính ngày trước vẫn là những chiến sĩ tiên phong trong việc ‘giành lại nước’ đang nằm trong kềm kẹp của tập đoàn cộng sản.

2. Giữ lấy Danh Dự là phải biết quý trọng cấp bậc và huy chương đã được ban thưởng trước kia. Dù khiêm nhượng và nhỏ bé như cấp ‘binh nhất’ hay những ngôi sao của ‘tướng lãnh’, hoặc từ những ‘huy chương bậc nhỏ’ cho đến ‘bảo quốc huân chương’ cao quý cũng đều do quyết định của thượng cấp ban thưởng tùy theo thâm niên công vụ hay công trạng chiến trường thì đó cũng là những phần thưởng danh dự vô giá mà kết quả đều do công sức, mồ hôi, xương máu của chính mình, hay phải nói thật chính xác, là của các đồng đội và thuộc cấp đã ‘xanh cỏ’ để cho người may mắn sống sót ‘đỏ ngực’. Vậy có thể nói rằng, dù cấp bậc ‘binh nhất’ hay huy chương ‘công vụ bội tinh’ cũng đều có những giá trị tuyệt vời vì đó là kết của chiến công thật sự thì chắc chắn có giá trị hơn những cấp ‘úy-tá-tướng’ tự phong, dù đã tan hàng và giáng đoạn công vụ trên 35 năm qua mà một số tổ chức hoặc cá nhân ở hải ngoại vẫn tự gắn cấp bậc thêm cho mình đôi khi còn nhảy vọt vài ba cấp ! Điều buồn mà người Việt Quốc Gia hải ngoại thuờng nói đến là một số (xin nhấn mạnh một số rất ít) từ bỏ cấp bậc của mình ngày trước để mang cấp bậc của nước ngoài, rồi tự động tổ chức gắn lon sĩ quan cấp úy hoặc cấp tá cho nhau, trong đó gồm số người chưa một ngày cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ QLVHCN trước kia. Xuyên qua vấn đề nầy, người Việt hải ngoại đều thấy rằng quân đội ngoại quốc muốn nhờ những ‘người lính Việt Nam không súng’ làm những công việc không công thay cho họ. Mới nhìn qua, đây là một sự tình nguyện tốt, có thiện chí, chứng tỏ sự hợp tác giữa hai giới quân nhân hưu trí của chủ nhà và người định cư. Nhưng xét cho cùng thì mọi người đều thấy đau lòng đối với những vị sĩ quan cũ của QLVNCH, họ hân hoan trong bộ quân phục tự bỏ tiền ra may để được mang lên cổ lên vai cấp bậc của quân đội nước ngoài !

3. Bảo vệ lấy Tổ Quốc là nhiệm vụ của các cấp chỉ huy lớn nhỏ trong QLVNCH bằng những hành động chính đáng và hữu ích chứ không phải những việc nhỏ nhặt như tranh giành các chức vụ trong các các tổ chức hội đoàn cựu quân nhân ở hải ngoại. Phải đặt quyền lợi tổ quốc lên trên tất cả mọi tranh chấp cá nhân, đoàn thể có như vậy mới xác định được mục tiêu và hành động chính đáng của những người đã một thời cầm súng. Có đặt tinh thần tổ quốc lên trên thì mới thấy được con đường chính nghĩa và biết được vai trò và bổn phận của một đạo quân lưu vong. Và nếu còn giữ được tinh thần tổ quốc thì người lính năm xưa mới chấp nhận khép mình dưới màu cờ quốc gia, dưới một tập thể quân đội oai hùng đã anh dũng chiến đấu chống cộng sản từ hằng chục năm qua, đồng thời nếu vì tổ quốc thì hãy nhận lấy trách nhiệm của một người cầm súng đóng góp công sức cho việc tranh đấu chung của toàn dân nhằm giải thể nhanh chóng chế độ cộng sản. Vì tương lai tổ quốc người lính năm xưa hãy dành thời giờ tranh cãi đối chất vô ích trên các diễn đàn cũng như trong những cuộc bầu cữ và hội họp để hướng dẫn con cháu nối tiếp con đường đã đi.

Được như vậy, một khi chúng ta nằm xuống thì vẫn còn lớp hậu duệ của những người lính ngày trước sẽ lấy lại danh dự cho ông cha mình và sẵn sàng dấn thân đi theo con đường chính nghĩa, thì mai đây, một tập thể quân đội của nền Đệ Tam Cộng Hòa sẽ lớn mạnh nhất của vùng Đông Nam Á. Chính thành phần trẻ nầy sẽ chứng minh một cách hùng hồn rằng Việt Nam tuy mất, quân đội bị bứt tử tan hàng, nhưng cha ông của họ là những người lính Việt Nam Cộng Hòa ngày trước vẫn giữ được tinh thần Tổ Quốc, biết bảo vệ Danh Dự và thi hành đứng đắn Trách Nhiệm của mình.

Đinh Lâm Thanh

Sunday, June 20, 2010

Trò Chuyện Với Một Quân Nhân Mỹ Gốc Việt: Thiếu Tá Bùi Minh Triết



Việt Báo
Thứ Bảy, 6/5/2010, 12:00:00 AM


QUẬN CAM (Việt Báo) -- Gần đây trong nhiều sinh hoạt cộng đồng có tính lịch sử, văn hoá, xã hội của người Mỹ gốc Việt, tại Nam Bắc Cali, Texas, Virginia, người ta thường thấy xuất hiện một số quân nhân Mỹ gốc Việt, trong tổ chức Hội Quân nhân người Mỹ gốc Việt Trong Quân Lực Hoa kỳ (VAAFA). Một số đông người Mỹ gốc Việt rất thích thú khi nhìn thấy đàn hậu duệ của mình cũng ngang hàng -- quân trang, cấp bực, huy chương oai vệ không thua vì quân nhân Mỹ đến giúp nước nhà VN thời Chiến tranh VN.

Việt Báo tạo một cuộc gặp gỡ để trò chuyện nhân khi được thơ của gia đình một quân nhân Mỹ gốc Việt mời Việt Báo với tư cách thân bằng quyến thuộc tham dự ngày chung vui của một quân nhân Mỹ gốc Việt là Bùi minh Triết vinh thăng Thiếu Tá (Th/t). Th/t Bùi Minh Triết là một trong vài quân nhân Mỹ gốc Việt có sáng kiến và thiện ý sáng lập Hội Quân Nhân Mỹ gốc Việt để nhớ nguồn gốc và gắn bó với cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Trong đó có Trung tá (Quân Nhu) Thọ Nguyen đang phục vụ tai Afghanistan, Thiếu tá Hải Quân (Quân pháp) Phan vĩnh Chinh, Đại úy Hải Quân Tin Tran, Đại úy Lục Quân (Quân Y), Lành Dương, Thiếu Tá Lục Quân ( Quân y) Viet Tran, và Thiếu Tá Lục Quân (Quân y) Bùi minh Triết mới hoàn thành chuyến công tác ở Kozovo về và vinh thăng Thiếu tá.

Dù là một quân nhân, là những quân nhân hội viên của VAAFA, trên nguyên tắc không làm chánh trị. Nhưng đại đa số quân nhân Mỹ gốc Việt có lý lịch tỵ nạn CS, không trực tiếp của cá nhân thì cũng qua gia đình quân, dân, cán, chính của VNCH, có thái độ của Th/t Triết – là chống CS.
Th/ Triết tâm tình, “Em thi tuyển đậu vào Đại học Bách Khoa Phú Thọ ở Saigon, đậu cao nữa là khác. Nhưng họ liệt em vào cái gọi là “ưu tiên 13”, có cha mẹ cải tạo tập trung, nên chờ hoài chằng thấy kêu đi học. Nên như những người bạn học của em lúc bấy giờ thường nói, em nói với Má em, “thôi Má à cho con đi vượt biên, được thì con nuôi má, không được thì nuôi cá. Chớ con không thể nằm ở nhà mà chờ chết như thế này”.

Hai anh em Triết vượt biên thành công dù ghe bị cướp biển. Từ đó “má em ăn chay trường luôn theo lời nguyện Trời Phật, đất nước Ông bà VN phù hộ cho em”. Triết là một Phật Tử chí thành, đi dâu xa là thắp nhang niệm Phật. Vào kỳ đơn vị của Bùi Minh Triết tập trung đi Iraq, nhà văn Nhã Ca của Việt Báo tặng cho một Triết cái khăn do chính Đức Đạt Lai Lat Ma tặng cho Bà. Hai con còn nhỏ của Th/T Triết mỗi cuối tuần cùng Bà Nội vào chùa. Bà Nội trực tiếp dạy tiếng Việt, để cháu học tiếng Việt và ngồi thiền.

Sau khi cưới vợ, có người bảo hai vợ chồng đi VN thăm bà con, Triết dứt khoát như lịnh hành quân, “không về VN khi còn Việt Cộng”. Theo một nguồn tin thân cận gia đình Th/ t Triết, khi đi học chuyên môn về ngôn ngữ và phong tục trước khi đi công tác ngoại quốc, cấp trên có gợi ý hỏi Th/ T Triết muốn về công tác y tế dân sự vụ ở VN không, Th/ T Triết khước từ.

Được biết gia đình và thân bằng quyến thuộc có một cuộc gặp gỡ trong bữa cơm thân mật tại Diamond Seafood Palace 8058 Lampson Ave Garden Grove CA 92841, Phone 714 891 5347, từ 7 giờ đến 10 pm, ngày Thứ Sáu 11 tháng Sáu, năm 2010. Trong số quan khách đến tham dự, có Brigadier General Keith D. Jones, US Army, và Command Sergeant Major Michael Crespo, hai đồng đội mà Th/t Triết đã phục vụ chung với nhau tai Kosovo. Và một số lớn đồng đội Mỹ trong đơn vị của Th/ T Triết và trong Hội VAAFA có mặt để làm nghi lễ gắn cấp bực cho Th/ T Bùi minh Triết tại quê nhà của Th/T Triết Bui là Little Saigon.

Thượng Toạ Thích Viên Lý sẽ làm nghi lễ Đức Phật chúc lành. Gs Nguyễn thành Long, Hội Trưởng Trung Ương PGHH đến chia vui cùng gia đình người bạn đồng đạo, đồng học Cần Thơ, và sự có mặt của nhiều cô bác của Th/ Tá Triết như Cựu Thứ Trưởng Giáo dục Nguyễn thanh Liêm, DB Trần ngọc Châu, Nguyễn lý Tưởng, Võ long Triều, Tiến sĩ Phạm kim Long Hội Đồng Quản Trị Giáo dục Quân Cam.

Còn đồng nghiệp truyền thông báo chí và truyền hình sẽ có nhiều thân hữu đến dư, kể cả nhạc sĩ Trúc Giang, thân phụ của nhạc sĩ Trúc Hồ. Nhạc sĩ Trúc Giang, tuy đã cáo lão quy điền, cũng đã điện thoại cho biết sẽ đến vói gia dình người bạn vong niên. Riêng hai người trẻ thành công sớm với Truyền Hình VHN và VAN là hai Ông Bà Bruce Trần sẽ đích thân tham dự. Nhiều cơ quan truyền thông cho biết sẽ làm phóng sự dịp này.