Saturday, April 3, 2010

Việt Cộng Hợp Pháp Hóa Việc Hiến Hoàng Sa Trương Sa Cho Tàu Cộng Qua Liên Hiệp Quốc - Nguyễn Thành




Nguyễn Thành

* Phát hiện kinh hồn: Hội thảo HS-TS chỉ là quả mù, trong hồ sơ nộp LHQ, VC đã vứt Hoàng Sa ngoài đường ranh 200 hải lý của VN; nghĩa là cắt Hoàng Sa cho Tàu từ lâu và vài đảo của Trường Sa ! Lê Công Phụng - Đỗ Mười - Lê Khả Phiêu là những tên lừa gạt !

Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ.

Sau Hội Thảo Hoàng Sa Trường Sa ở Sàigòn ngày 25.7.2009 với tình trạng diễn giả “bị ngăn chặn” không đến được và Hội Thảo Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009 với những lời tuyên bố lung tung, dối trá của Hà Nội [xin đọc trong bài viết dưới đây], Hà Nội lại vừa bày ra vụ Hội Thảo Biển Đông ở Paris ngày 27-28.2.2010 rồi hủy bỏ vào phút chót mà nếu có hội thảo thì trưởng đoàn Hà Nội cỡ Phó Chủ Tịch nước Nguyễn Thị Bình [Ngoại-trưởng, Trưởng đoàn MTDTGPMN “cò mồi” ở Hoà Đàm Paris 1973] thì kết quả thế nào mọi người đều thấy trước! Nói rõ hơn: Hội thảo cái gì nữa -Hoàng Sa Trường Sa của VN ai cũng biết; vấn đề lúc này là từ lâu đảng CSVN đã dâng cho đảng CSTH và nay thì Hà Nội đang hoàn tất việc bàn giao cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ và tung đủ thứ tin tức hỏa mù trong đó có hội thảo chẳng qua để mọi người không chú ý tới 2 cái hồ sơ xúc tiến việc bàn giao có nhiều khả năng sẽ được Ủy Ban Thềm Lục Địa LHQ chấp thuận nay mai.

Học giả Vũ Hữu San, chuyên gia về Biển Đông, tác giả “Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa”, nhận xét về hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 6 và 7.5.2009 để giải quyết vấn đề Biển Đông như sau: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Dân chúng VN đừng bao giờ nghe chúng nói, hãy nhìn những gì chúng làm. Nếu xem hải đồ do Hà Nội nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải-phận Tàu; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải-phận VN ... Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được ... Trung Cộng sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

Cả 2 hồ sơ của Hà Nội đều được Ủy Ban Thềm Lục Địa thông qua bước đầu ở khóa họp 24 cuối năm 2009, sẽ được giải quyết tiếp ở khóa họp 25 khai mạc vào ngày 15.3.2010 sắp tới và nếu chúng ta không tìm được cách ngăn chặn thì Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt sẽ vĩnh viễn rơi vào tay bành trướng Bắc Kinh qua chính Luật Biển LHQ. Sau khi đọc Thông Cáo của Ủy Ban Thềm Lục Địa kết thúc khóa họp 24 vào ngày 11.12.2009 thông báo việc hồ sơ Hà Nội đã được chấp thuận bước đầu, người viết thực hiện ngay bài cảnh báo dưới đây và dự tính phổ biến vào dịp Tưởng Niệm Chiến Sĩ Hoàng Sa 19.1 năm nay do Gia Đình Hải Quân Hàng Hải VNCH tổ chức long trọng ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng một trận cúm kéo dài khiến người viết không thực hiện được mong muốn và bài viết chỉ vừa tạm hoàn tất để kịp gửi cho Đặc San Luật Khoa phát hành vào dịp Hội Ngộ Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, 2-4.4.2010 và trước tin tức loại hỏa mù [kiểu Hội Thảo Biển Đông ở Paris] người viết xin được phổ biến bài viết để cảnh báo: Hà Nội đang hoàn tất việc giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ; tất cả những tin tức này nọ hay hội họp ồn ào về vấn đề Biển Đông của Hà Nội chỉ là hỏa mù mà thôi!

Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn ở hải ngoại cảnh báo: Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ

Tường trình - Nhận định: CSVLK Nguyễn Thành.

I. Tin Liên Hợp Quốc

Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [từ đây viết là Ủy Ban=Commission] kết thúc khoá họp 24 về thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở trụ sở LHQ, New York, vào ngày 11.12.2009. Thông Cáo rất dài của Ủy Ban đã được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS” và người viết bài này xin tóm lược một số điều cần biết và liên quan tới VN dưới đâỵ [1]

1. Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới cho khóa họp 24, từ 10.8.2009 đến 11.9.2009; trong số này có 2 hồ sơ của Hà Nộị Tuy là khóa họp 24 nhưng là khóa họp đầu tiên dài nhất của Uỷ Ban về thềm lục địa mở rộng sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm, ngày chót là 13.5.2009. Vì số lượng hồ sơ quá nhiều nên Ủy Ban đã phải họp thêm 2 lần, mỗi lần 1 tuần lễ vào đầu tháng 11 và 12.2009. Tuy vậy, Ủy Ban vẫn chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới nàỵ

Ủy Ban đã dành gần hết khóa họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh và North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp cũ. Dù cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập bởi các khóa họp cũ xem xét và đề nghị khuyến cáo, Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được 1 hồ sơ của Pháp, nộp từ 2 năm trước. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng cuối năm 2010 hay 2011. Ủy Ban đã nghe đại diện 18 nước trình bầy về hồ sơ mở rộng thềm lục địa và VN là nước duy nhất trong số 18 nước này đã nhờ chính chuyên viên của Ủy Ban Thềm Lục Địa giúp soạn thảo hồ sơ Ngày 27.8.2009, đại diện Hà Nội trình bầy trước Uỷ Ban về hồ sơ nộp ngày 6.5.2009 liên quan tới Nam Biển Đông, trong đó có Trường Sa và ngày 28.8.2009 trình bầy về hồ sơ ngày 7.5.2009 liên quan tới Bắc Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt.

2. Về Thủ Tục Cứu Xét, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban. Hồ sơ gồm bản đồ với tọa độ rõ ràng và cách tính để quy định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo quy định của Luật Biển LHQ. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận hồ sơ và phổ biến văn bản này trên trang nhà LHQ.

Để giải quyết hồ sơ, Ủy Ban phải chỉ định Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xét hồ sơ, có thể yêu cầu nước liên hệ cung cấp thêm tài liệu hay thay đổi hồ sơ, phải thông báo cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ và đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban. Nước liên hệ được quyền tham dự buổi họp của Uỷ Ban để trình bầy quan điểm về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho hợp với Luật Biển. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Uỷ Ban. Quyết định của Ủy Ban có giá trị chung quyết và ràng buộc các nước liên hê..

3. Uỷ Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển [họp năm 2007] bầu ra, gồm 21 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm [2007 – 2012]. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thiết lập tối đa 3 Tiểu Ban nên việc giải quyết hồ sơ rất chậm và thường mất vài năm. [Hồ sơ Brazil nộp ngày 17.5.2004, Ủy Ban giải quyết 9.4.2008, mất 4 năm; hồ sơ của Cuba nộp 1.6.2009 -tức sau 13.5.2009 có 17 ngày, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa].

Điều cần lưu ý ở đây là trong số 21 ủy viên của Ủy Ban đương nhiệm có 3 đại diện của 3 nước CS: Trung Cộng, Bắc Hàn và Ngạ Điều cần lưu ý nữa là trước khi Uỷ Ban họp để cứu xét hồ sơ thì các nước hội viên Luật Biển họp trước để thông qua chương trình nghị sự của Uỷ Ban. [2] Hơn nữa, theo Luật Biển, Uỷ Ban chỉ có 2 nhiệm vụ: a] Cứu xét và chấp thuận hồ sơ thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý và b] Cố vấn về khoa học và kỹ thuật biển cho các nước ven biển, nếu được yêu cầu. [3]

Tóm lại, Hà Nội đang ở tư thế cầm quyền và hội viên Luật Biển để độc quyền nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng VN và quyền “nhào nặn” hồ sơ sau khi nộp. Trong số 21 ủy viên của Ủy Ban có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn là một lợi thế khác của Hà Nộị Hà Nội đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và nhận ra lợi thế và “kẽ hở” của Luật Biển. Hà Nội bất ngờ nộp hồ sơ cho LHQ vào phút chót là do Bắc Kinh hối thúc và Nguyễn Tấn Dũng là kẻ hoàn tất tiến trình bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh.

II. Về 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ

A. Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN, chỉ xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế. [4] [5] Học giả Vũ Hữu San, chuyên gia hàng đầu về Hoàng Sa Trường Sa, sau khi đọc hồ sơ Hà Nội đã lên án: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; 4.5 Trường Sa không còn trong hải phận VN ... Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không đượ c... Tàu sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

1. Theo Luật Biển, ngày 13.5.2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Điạ mở rộng, không phải để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Hà Nội đã bỏ lơ suốt 10 năm [từ 13.5.1999 đến 13.5.2009], vào những ngày chót mới nộp hồ sơ nhưng thay vì xin mở rộng Thềm Lục Địa VN lại xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Chủ quyền của nước ven biển đối với 2 Vùng này khác hẳn nhau.

Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là để đánh cá và thuộc chủ quyền tuyệt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký. Hà Nội đã đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế này từ ngày 12.11.1982 rồi.

Thềm Lục Địa rộng 200 hải lý theo Luật Biển là vành đai mở rộng của lãnh thổ và có thể kéo dài ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa [continental margin] nhưng không được quá 350 hải lý. Nước ven biển có độc quyền khai thác khoáng sản và nguyên liệu không phải sinh vật sống ở vùng ngoài 200 hải lý xin mở rộng này.

2. Hà Nội ký Luật Biển ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 25.7.1994, tức rất sớm, tất phải biết rõ những điều trên đây. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, bắn giết bừa bãi ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và dùng võ lực xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải nhờ các cơ quan thẩm quyền phân xử nhưng Hà Nội chỉ phản đối xuông cho có phản đối.

Điều 8 Luật Biển LHQ quy định:

Đường căn-bản [Baseline] là lằn nước thuỷ triều xuống thấp nhất. –Nội-hải [Internal water] là vùng biển bên trong đường căn-bản. -Lãnh-hải [Territorial water] rộng 12 hải lý ngoài đường căn-bản. -Hải-phận [Contiguous Zone] là vùng biển ngoài lãnh-hảị -Vùng đặc quyền kinh tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý, tính từ đường căn bản ra khơi.

[Xin đọc bản đồ LHQ quy định chiều rộng các Vùng biển trên đây để thấy Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN và chỉ xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý]

- Thềm Lục Địa [Continental Shelf] cũng rộng 200 hải lý tức trùng điệp với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý.

- Thềm Lục Địa mở rộng [Extended Continental Shelf]: Từ 13.5.1999, Luật Biển cho phép các nước ven biển thời hạn 10 năm để xin mở rộng thềm lục địa đến tối đa 350 hải lý [còn gọi là nền lục địa=continental margin] nếu đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên từ đất liền ra biển [như trường hợp đáy biển của VN chạy thoai thoải từ đất liền ra khơi]

- Cần phân biệt: Lãnh hải rộng 12 hải lý; Hải phận là vùng biển từ lãnh hải ra khơi nên có thể rộng tối đa 350 hải lý.

3. Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1.3 diện tích Biển Đông và bờ biển VN dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.

Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng tới 350 hải lý thì hải phận VN rộng gấp 4 lần đất liền và gồm Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai quần đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý của VN.

Cũng cần biết là 2 nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần rất nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên khi xác nhận Thềm Lục Địa VN chỉ 200 hải lý là có ý đồ gạt Trường Sa Hoàng Sa ra ngoài hải phận VN.

B. Hà Nội gạt Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN

1. Hà Nội không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện để được hưởng và xác nhận hải phận VN có 200 hải lý và bản đồ kèm theo hồ sơ 6.5.2009 thì gạt hầu như toàn bộ Trường Sa ra ngoài hải phận VN. [Bản đồ hồ sơ 6.5.2009 của Hà Nội, đường ranh 200 hải lý của VN mầu đỏ bên trái]

Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 7.6.1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển. Trung Cộng còn tự ban hành luật biển riêng vào năm 1992 và công bố bản đồ hình lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp các quy định của Luật Biển LHQ.

Bản đồ lưỡi bò Trung Cộng lấn sát bờ biển VN ở nhiều nơi, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, vi phạm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, chạy xuống tận đảo Natuma của Nam Dương, tức cách lục địa Trung Hoa gần 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định thềm lục địa mở rộng cũng không được vượt quá 350 hải lý.

2. Trung Cộng không nộp hồ sơ mà chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8.5.2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Laị Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò mà Trung Cộng biết chắc Uỷ Ban sẽ không thể nào chấp thuận được vì nó trái ngược với các quy tắc của Luật Biển LHQ.

Uỷ Ban Thềm Lục Địa không có quyền chia ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước thì Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước.

3. Tuy thế, vấn đề chưa hẳn phải kết thúc ở đây. Các nước liên hệ còn quyền đưa vấn đề ra trước Tòa Án Quốc Tế chuyên về biển ở Hamburg, Đức-quốc hay Tòa Án Quốc Tế ở La Hague, Hòa Lan.

Đưa ra Tòa Án Quốc Tế La Hague thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Tòa này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Tòa cho dù chính họ nhờ Tòa phân xử.

Trái lại, phán quyết của Tòa Án Quốc Tế Hamburg thì có giá trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Nhưng vấn đề là Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH và Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy.

C. Hà Nội gạt Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý VN

1. Ngày 7.5.2009, Hà Nội nộp hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức Vịnh Bắc Việt và Hoàng Sạ Tuy lời mở đầu hồ sơ này tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của VN và cũng nói tới việc mở rộng thềm lục điạ ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi và rõ rật nhất đường ranh 200 hải lý khi gặp nhóm đảo Hoàng Sa thì dừng lại vì 2 bên đã giải quyết qua hiệp ước lén lút ngày 25.12.2000 rồi.

Bản đồ trong hồ sơ 7.5.09 của Hà Nội [dưới] vẽ vùng mở rộng hình tam giác ngược, đỉnh nhọn ở dưới, cạnh đáy nằm nghiêng ở trên gạt Hoàng Sa ra ngoài, tức đã giải quyết rồi.

2. Đường ranh giới 200 hải lý VN màu đỏ chạy từ vĩ độ 10 N lên phía Bắc, khi vừa gặp quần đảo Hoàng Sa ở vĩ độ 15 N thì đột ngột dừng lại. Đường vẽ ở bản đồ của Hà Nội không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên tận vĩ tuyến 16 N, trong lúc hồ sơ ghi đường này dừng lại ở 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi 15 N một chút, không thể tới vĩ tuyến 16 N được.

3. Vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7.5.2009 có hình tam giác ngược, đỉnh rất nhọn phía dưới cách xa nhóm Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên vừa đụng nhóm Hoàng Sa thì dừng lại vì nhóm đảo Hoàng sa nằm trọn từ vĩ độ 15 N đến 17 N, tức Hoàng Sa Trường Sa đều ở ngoài hình tam giác mở rộng của Hà Nội.

Nói cách khác, vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý hình tam giác ngược chỉ là một vùng nước biển, dưới cố tránh đụng Trường Sa, trên cố né chạm Hoàng Sa, tức chẳng ảnhhưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này hay đụng chạm đôi chút đến nhóm Trường Sa thì cũng chỉ là một vài đụn hay đá mà thôi.

Hay theo chuyên gia về Hoàng Sa Trường Sa Vũ Hữu San thì: “VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa,” “VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số trên 100 đảo nổi và chìm của nhóm Trường Sa”.

D. Hiệp ước 25.12.2000 phân định lại Vịnh Bắc Việt

1. Ngày 25.12.2000, Hà Nội và Bắc Kinh ký hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt, nhưng dấu kín nội dung trong nhiều năm tuy dư luận đã ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là đảng CSVN đã dân đảng CSTH 11 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước lén lút này. Khi bản đồ [dưới đây] trong 1 hồ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì giới nghiên cứu cho rằng Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, chứ không chỉ 11 ngàn km2.

[Bản đồ trong hồ sơ mật của Hà Nội về hiệp-ước Vịnh Bắc Việt 25.12.2000 bị phát hiện]

Trong số 21 điểm quy định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25.12.2000, ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân [ranh giới tỉnh Móng Cái VN và tỉnh Quảng Đông TH], các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN. Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách đảo Hải Nam tới 73 hải lý; tức TH vượt trội VN 29 hải lý; sự phân chia không đều và cũng không giữa bờ biển với bờ biển hay đảo với đảo như Luật Biển quy định.

2. Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28.1.2002 Lê Công Phụng [Thứ-trưởng Ngoại Giao - Trưởng đoàn đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt] lên tiếng thanh minh thì lại càng lộ ra việc đảng CSVN đã bán nước cho đảng CSTH từ lâu và Phụng thì dối gạt về Luật Biển LHQ và trách nhiệm chính trong vụ hiệp ước 25.12.2000.

Theo Lê Công Phụng, chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang tận Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phần Phụng thì dối gạt trắng trợn rằng y đã “căn cứ vào các quy định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh.

Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng nói với báo chí và sau đây là vài dẫn chứng:

- Theo Luật Biển, nếu 2 bên không thể thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải “đường trung tuyến” [median line].Đường trung tuyến ở đây phải là đường giữa đảo Bạch Long Vĩ của VN và đảo Hải Nam của TH và khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo này. Nhưng Phụng bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam tới 55 hải lý, tức không đều nhau và TH vượt trội VN tới 40 hải lý.

Bộ trưởng ngoại-giao Hà Nội Nguyễn Duy Niên còn “ngon” hơn khi tuyên bố: “Đường trung tuyến cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, tức đảo được hưởng lãnh hải 12 hải lý, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa được hưởng 3 hải lý.”

- Luật Biển quy định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa đảo với đảo. Phụng cũng bất chấp quy định này và chấp thuận đường trung tuyến giữa đảo Hải Nam TH với bờ biển VN, hy sinh đảo Bạch Long Vĩ của VN vì theo luật thì đường trung tuyến phải giữa đảo Bạch Long Vĩ VN với đảo Hải Nam TH.

- Tòa Án Quốc Tế, Án lệ Lybia kiện Malta [1985], đã phán quyết:

Đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với Lục địa được và không cho đảo Malta được có hải phận rộng bằng lục địa nước Lybiạ. Phụng đảo ngược Án lệ này khi cho đảo Hải Nam của TH có hải phận rộng hơn cả lục địa nước VN.



3. Theo giới hiểu biết thì Hà Nội và Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16.6.1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn nguyên hiệu lực và hoàn toàn phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết. Ngày 12.11.1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16.6.1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN. Nhưng Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN do Lê Công Phụng đại diện đã ngoan ngoãn cúi đầu khuất phục và ký hiệp ước 25.12.2000.

Hậu quả của hiệp ước 25.12.2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Theo nhà nghiên cứu Vũ Hữu San thì thực tế còn bi đát hơn nữa: TQ chiếm 55%, VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa cũng về tay TrungCộng qua hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều Hà Nội đã phải dấu kín hiệp ước 25.12.2000 và nay Nguyễn Tấn Dũng mưu toan “công khai hóa” qua hồ sơ nộp LHQ.

III. Một vài nhận xét

1. Công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa

Trước hết, công hàm 14.9.1958 là một bằng cớ không thể chối cãi trong số biết bao hành vi bán nước của đảng CSVN từ khi đảng này du nhập vào VN. Sau khi Phạm Văn Đồng gửỉ Chu Ân Lai để nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý Tàu, bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa của VN, Hà Nội dù có “cãi chầy cãi cối” đến đâu cũng không xoá đi được tội ác bán nước của đảng CSVN. Bút sa gà chết, gà ở đây là đảng CSVN, vì công hàm 14.9.1958 không thể làm mất chủ quyền VN đối với Hoàng Sa Trường Sa trước pháp luật.

Vì thế, tuy thường dùng công hàm 14.9.1958 để tuyên bố lung tung về Hoàng Sa Trường Sa nhưng Trung Cộng thừa biết nó vô giá trị trước luật pháp. Nguyên tắc của hình luật phổ thông là: Không ai được quyền cho một vật mà mình không có. Huống hồ là Hoàng Sa Trường Sa, biển đảo của một nước, không những không phải “của” Đồng và Đồng còn biết chắc “chúng” thuộc về VNCH qua nhiều văn kiện có giá trị quốc tế còn lưu trữ.

Chính vì biết rõ văn kiện 14.9.1958 vô hiệu trước luật pháp nên Trung Cộng chưa bao giờ dám nộp vào hồ sơ để tranh chấp Hoàng Sa Trường Sa trong khi đó Trung Cộng đã lập một hồ sơ với đầy đủ văn kiện, bản đồ nộp cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để tranh chấp chủ quyền với Nhật về bãi đá ngầm Okinotori, phía Đông Biển Đông [East China Sea], một bãi đá nhỏ mà gía trị không thể nào so sánh với Hoàng Sa Trường Sa.

Giới học giả Trung-quốc cũng biết rõ như thế và Tiến Sĩ Lo Chi-Kin Trung-quốc từng thú nhận: “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [6]

Hà Nội cũng biết thế nên mới bày ra việc phân chia lại Vịnh Bắc Việt, ký hiệp ước 25.12.2000 để Trung Cộng lấn sâu vào hải phận VN [có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý] và nay, nhânviệc nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Hà Nội đã không ngần ngại gạt Hoàng Sa Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN và giải thích quanh co.

LS Nguyễn Hữu Thống, tác giả “Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế”, đã nhận xét chính xác về công hàm 14.9.1958 như sau: “Trên phương diện luật pháp và hiến pháp, vấn đề lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền của quốc dân do Quốc Hội đại diện. Chính phủ là một cơ quan hành pháp có nhiệm vụ chấp hành các đạo luật, hiệp ước và công ước do Quốc Hội phê chuẩn và ban hành. Do đó thủ tướng chính phủ không có tư cách và thẩm quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ.” [7]

2. Nguyễn Tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Cộng

Công hàm 14.9.1958 thì vô hiệu và hiệp ước 25.12.2000 thi vẫn phải lén lút nên Luật Biển LHQ là cơ hội “ngàn năm một thưở” để Nguyễn tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa TrườngSa cho đảng CSTH của đảng CSVN, khởi đi từ công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và rất có thể trước nữa, giữa HCM và Mao Trạch Đông.

Như trên đã nói, học giả Vũ Hữu San cho rằng: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ ... Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa”. Nhưng một phó thủ-tướng Hà Nội vẫn trắng trợn tuyên bố: “Tại vùng Trường Sa, ta được thêm 23 đảo ngầm dưới mặt biển, như vậy coi như một thắng lợi!”

Vẫn theo Vũ Hữu San: “Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Tàu sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

Sự thật thì Hà Nội đang mưu toan dâng trọn Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, không chỉ 3.4 Hoàng Sa, 4.5 Trường Sa.

Thật vậy, đường hải phận 200 hải lý ở bản đồ Hà Nội nộp LHQ không đúng với vĩ độ thực của nó. Hà Nội đã cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên quá vĩ độ 16 N, trong lúc toạ độ thực của nó trong hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ghi rõ ràng là nó dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức nhô quá vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể vượt quá cả vĩ độ 16 N như Hà Nội vẽ được. Nhóm đảo Hoàng Sa nằm trọn trong 3 vĩ độ, 15 N đến 17 N; đường ranh 200 hải lý VN dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức Hà Nội gạt toàn bộ nhóm đảo Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN.

Theo Luật Biển, Uỷ Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ bị phản đốị Hồ sơ của Hà Nội bị Bắc Kinh phản đối ngay sau khi nộp nhưng vẫn được Uỷ Ban cứu xét. Điều này chỉ có thể giải thích: Hoặc công hàm phản đối của Bắc Kinh đã không được Ủy Ban lý cứu xét vì cái bản đồ lưỡi bò bất hợp pháp của Trung Cộng hoặc Hà Nội và Bắc Kinh đã thay đổi hồ sơ sau khi nộp như Thủ Tục Cứu Xét cho phép. Vì lý do nào thì cũng chứng tỏ một điều là Hà Nội và Bắc Kinh đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và Thủ Tục Cứu Xét và đang lợi dụng Luật Biển để dâng biển đảo cho Bắc Kinh.

Bắc Kinh biết Uỷ Ban sẽ không lý tới phản đối của mình vì cái bản đồ hình lưỡi bò được vẽ bất chấp qui định của Luật Biển nhưng vẫn gửi công hàm phản đối để tung hoả mù và đánh lạc hướng dư luận. Hà Nội, trước sự đòi hỏi chính đáng từ trong nước đến hải ngoại nên không thể không nộp hồ sợ Hà Nội và Bắc Kinh đều biết rõ có quyền sửa đổi hay thậm chí thay đổi hồ sơ sau khi nộp và kết quả cuối cùng thì vẫn do 2 bên liên hệ quyết định vì, theo Luật Biển, Uỷ Ban hầu như chỉ đóng vai trọng tài điều đình hay hoà giải và nhất nhất đều phải tham khảo với đôi bên.

3. Việc mở rộng thềm lục địa và vấn đề chủ quyền Hoàng SaTrường Sa

a] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009, Vu.trưởng Ban Biên-giới Nguyễn Duy Chiến phát biểu: “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý”“việc Ủy Ban này xem xét báo cáo không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo”. Qua lời Chiến, Hà Nội một lần nữa lại dối gạt và bóp méo Luật Biển, y hệt Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25.12.2000 và Vũ Dũng, một thứ trưởng của Hà Nội, nói với báo chí về biên giới năm 2008. [8] [9]

Thật thế, hồ sơ Hà Nội nộp LHQ sẽ gây thiệt hại vô tiền khoáng hậu cho VN vì chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu quả tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng và khi đó thì Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế thì liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để vào khai thác ở vùng biển được LHQ xác định là của VN nữa hay không?

Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cô.ng. Về mặt luật pháp thuần túy, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp và có dự mưu cho ngoại bang; Nguyễn Tấn Dũng và đồng bọn có thể bị truy tố về tội danh phản quốc và chí ít cũng thêm tội lạm quyền; khuynh hướng luật pháp quốc tế hiện nay liệt tội lạm quyền vào loại tội ác nghiêm trọng. [10]

b] Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển”. Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25.12.2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh.

10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán: “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và học giả Vũ Hữu San nhận xét: “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông ... Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau này. Phía Trung Cộng vẫn chưa chính thức bước vào cuộc thương thảo lớn về Biển Đông thế mà họ đã thực sự thắng hiệp quyết định. Sỉ nhục Quốc Thể! Sĩ khí ở chỗ nào thế? Hỡi các “đồng chí” CSVN ơi!”

Nói cụ thể hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý. Nay thì tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu thiệt trước khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa ngoài hải phận VN!

Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng gía trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của Tòa Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp.

c] Nguyễn Duy Chiến còn cho rằng “việc mở rộng thềm lục địa không liên hệ gì đến chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa” hay “việc Uỷ Ban cứu xét hồ sơ thềm lục địa mở rộng không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo”

Sự thật cũng trái ngược với lời Chiến: Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.

Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triềụ Nhóm Hoàng Sa Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển].

Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng tới 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46, 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1.9 vùng biển [như Nam Dương chẳng hạn].

d] Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sạ Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 đảng CS này mà thôi.

Về mặt luật pháp, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khoản quy định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay quy tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation], nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” [11] thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý -tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải-phận VN- do Hà Nội chính thức đề nghị.

*****
- Coordinator of Justice & Peace Group for Paracel & Spratly Islands of Vietnam -Florida, viết cho Quê Hương Tôi, cho Ngày 19.1 Tưởng Niệm Chiến Sĩ “Quyết Chiến” bảo vệ Hoàng Sa và cho Hội Ngộ Cựu SV Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu, 2 & 3.4.2010, Houston, Texas, Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo:

- Submission by VN in respect of North Area, VNM-N [7 May 2009]

- Joint Submission by Malaysia & VN in respect of the South part of the South China Sea [6 May 2009]

- UN Convention on the Law of the Sea

- Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 2007; vuhưsan.com

- Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008

- Nguyễn Thành, Đưa VC ra trước Toà Án Hình Sự Quốc Tế và Toà Án các Quốc Gia về những Tội Ác Nghiêm Trọng, bài nghiên cứu, các báo Tiếng Vang, CaliToday, Chánh Đạo, Gọi Đàn,... California, Hoa Kỳ, tháng 5 và 6 năm 2002; Hà Nội âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, bài thuyết trình, Nam California, Hoa Kỳ, ngày 25 và 26.7.2009.

Chú thích:

[1] Statement by the Chairman of the Commission 24th Sessions [8 Aug 2009 to 11 Dec 2009], UNCLOS.com

[2] Theo Luật Biển, chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa do Đại Hội các nước hội viên Luật Biển duyệt xét và quyết định trước. Do đó, trước khi Ủy Ban Thềm Lục Địa khóa họp 24 khai mạc ngày 8.8.2009 ở trụ sở LHQ, các nước hội viên Luật Biển [trong đó có VN và TQ] đã họp trước, từ 22 đến 26.6.2009 ở cùng địa điểm, để duyệt xét và thông qua chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban. Vì thế mà hồ sơ Thềm Lục Địa VNCH do nhóm cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn soạn thảo kèm 2 thùng tài liệu và gửi cho Tổng thư ký LHQ ngày 27.4.2009 đã không tới được Ủy Ban Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền về mở rộng thềm lục địa. Quý vị quan tâm tới vần đề Hoàng Sa Trường Sa cần lưu ý điều này, nếu không thì hầu như Tuyên Cáo, Bạch Thư, Kháng Thư,... có gửi cho TTK LHQ thì cũng không được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền là Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa và có tới thì Ủy Ban cũng không thể vượt ra ngoài 2 nhiệm vụ hay thẩm quyền nói ở chú thính
[3] dưới đâỵ

[3] The functions of the Commission shall be: 1] to consider the data and other material submitted by coastal States concerning the outer limits of the continental shelf in area where those limits extend beyond 200 nautical miles, and to make recommendations in accordance with article 76 and 2] to provide scientific and technical advice, if requested by coastal States. [Điều 3 Phụ Bản II Luật Biển LHQ]

[4] The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath. [Điều 77 Luật Biển LHQ]

[5] An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zonẹ A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. Hpwever, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial seạ [Điều 76 Luật Biển LHQ]

[6] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration: The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”.

[7] [11] LS Nguyễn Hữu Thống, sđd, tr. 38 và 16.

[8] Vietnamnet, Hội nghị Biển Đông Hà Nội, 10..11.2009.

[9] Vũ Dũng, một thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội khác, sau Lê Công Phụng, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau: “Do nắm chắc tình hình .. mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn ... Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chị Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quố c... Hai bên đã thỏa thuận tháng 6.2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bộ .... Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữạ Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm ... Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao!” [Vietbao.com, 4.9.2008]

[10] Tòa Án Quốc Tế ad hoc Bosnia thiết lập bởi nghị quyết của HĐBA ngày 25.5.1993 đã truy tố Slobodan Milosovic, Tổng thống đương quyền Liên Bang Nam Tư, và thẩm phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon đã thành công khi ký trát nã bắt quốc tế bắt Augusto Pinochet, cựu tổng thống Chile, ở London ngày 16.10.1998 khi ông này đến đây chữa bịnh, nhưng ông Gapzon không thành công khi đòi thẩm vấn Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002 vì Kiss kịp trốn về nước khi được mật báo; Milosovic, Pinochet và Kiss đều bị truy tố về tội lạm quyền cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, Vụ án Pinochet làm rung chuyển luật Pháp quốc tế, VN Nhật Báo, 5.8.2000]


HY Mẫn sẽ tham dự và chủ sự Thánh Lễ "Lòng Chúa Thương Xót" tại Long Beach !!

    ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm trả lời phỏng vấn về chuyến đi mục vụ tại Hoa Kỳ vào tháng 3.2010
VietCatholic News (02 Apr 2010 08:46)

WGPSG (2.4.2010) – Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận Los Angeles (LA Religious Education Congress) được tổ chức hằng năm, quy tụ tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo tôn giáo. Năm nay, Đại hội đã diễn ra từ ngày 19 đến 21-3-2010 với hơn 40.000 người tham dự. Đức Hồng Y Mahoney của Tổng giáo phận LA đã nhân danh mối liên kết chị em giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn để mời ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm sang thuyết trình tại đại hội. Đức cha Phêrô đã nhận lời, lên đường cùng với cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, và nhân dịp này, Đức cha cũng thăm viếng mục vụ những nơi cần thiết.

Sau khi Đức cha Phêrô trở về Việt Nam, cha Hiền, đại diện BBT Website TGP.TPHCM, đã xin gặp và phỏng vấn Đức cha Phêrô về chuyến đi đặc biệt này.

Cha Hiền: Thưa Đức cha, chúng con được biết Đức cha vừa có chuyến công tác tại Hoa Kỳ?

ĐC Khảm: Đúng vậy. Tôi và cha Luy Nguyễn Anh Tuấn đã rời Việt Nam ngày 11.3 và về nhà vào đêm Thứ Tư Tuần Thánh, 31.3, để kịp dự lễ Truyền Dầu tại Nhà thờ Chính toà vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh.

Cha Hiền: Đức cha có thể cho biết mục đích của chuyến đi này?

ĐC Khảm: Tôi sang Mỹ lần này để dự Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận Los Angeles (viết tắt: LA). Thực ra, trước đây Ban Tổ chức cũng đã ngỏ ý mời nhưng tôi chưa nhận lời. Lần này, trong thư mời, Đức Hồng Y Mahoney của Tổng giáo phận LA đã nhắc đến mối liên kết chị em giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn, và nhân danh mối liên kết đó, ngài mời tôi sang thuyết trình tại đại hội. Tôi thấy không thể nào từ chối được.

Cha Hiền: Con có nghe nói khá nhiều về Đại hội này, nếu có thể, xin Đức cha cho biết vài thông tin?

ĐC Khảm: Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận LA (LA Religious Education Congress) được tổ chức hằng năm, quy tụ tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo tôn giáo. Thành ra, tuy tổ chức ở LA nhưng các tham dự viên đến từ khắp các tiểu bang trên đất Mỹ, và hơn nữa, từ nhiều quốc gia trên thế giới. Gặp gỡ, trò chuyện với các tham dự viên trong những ngày đại hội cho tôi thấy rõ điều đó. Theo đúc kết của Ban Tổ chức, hơn 40.000 người đã đến tham dự đại hội lần này.

Cũng như những lần trước, Đại hội lần này được tổ chức tại Trung tâm hội nghị Anaheim (Anaheim Convention Center), gần với khu vực giải trí nổi tiếng Disneyland. Toàn bộ khu vực đó có rất nhiều khách sạn, thuận tiện việc ăn ở của các tham dự viên trong những ngày đại hội.

Trong đại hội, ngoài nghi thức khai mạc và Thánh Lễ kết thúc được tổ chức trong hội trường lớn với sức chứa cả chục ngàn người, chương trình đại hội được chia ra thành rất nhiều buổi thuyết trình của nhiều diễn giả về rất nhiều đề tài. Đúng là Incredible Abundance (Phong phú tuyệt vời – tên gọi của Đại hội lần này)! Các đề tài này đã được lên danh sách từ trước và các tham dự viên có thể tham dự buổi thuyết trình nào mình thích. Cha cứ tưởng tượng cứ mỗi buổi sáng chiều, có 50 diễn giả thuyết trình về 50 đề tài khác nhau tại 50 phòng họp khác nhau, mỗi phòng họp chứa được 300 người …

Cha Hiền: Đức cha thuyết trình về đề tài gì ạ?

ĐC Khảm: Theo đề nghị của Đức Hồng Y Mahoney, tôi có hai bài thuyết trình, một bằng tiếng Việt, một bằng tiếng Anh.

Trong bài thuyết trình tiếng Việt cho cộng đồng người Việt hải ngoại, tôi chia sẻ về Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam và nhấn mạnh đến chủ đề hiệp thông. Tôi mời gọi các tham dự viên trở về với nguồn Thánh Kinh để tìm lại ý nghĩa đích thực và nền tảng của từ hiệp thông là hiệp thông với Chúa, với Mình Máu Chúa Kitô, với ân huệ Thánh Thần. Chính nhờ sự hiệp thông nền tảng đó, chúng ta mới có sự hiệp thông đích thực trong Hội Thánh. Như thế, Năm Thánh phải là thời gian đặc biệt cho mỗi người – giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân – củng cố mối hiệp thông của mình với Chúa. Đồng thời, khi có những khác biệt, kể cả những xung đột, chúng ta cần phải tìm lại xem đâu là sứ mạng của Hội Thánh và đâu là đường lối của Chúa mà Hội Thánh phải đi; nhờ đó mới có thể vượt lên trên những khác biệt mà sống sự hiệp thông đúng nghĩa như Chúa muốn.

Trong bài thuyết trình tiếng Anh, với phần lớn cử toạ cũng là người Việt! (nhưng tôi hiểu ra rằng đối với các bạn trẻ Việt kiều từ 30 tuổi trở xuống, nghe tiếng Việt là điều rất khó khăn), tôi nói đến những điều tôi mong học hỏi từ Giáo Hội Hoa Kỳ, ví dụ như làm sao có thể sống và làm chứng cho Tin Mừng trong một đất nước giầu có về vật chất và khoa học kỹ thuật cao như nước Mỹ, làm sao để phát triển vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội như tôi quan sát thấy trong Giáo Hội Hoa Kỳ. Đồng thời, tôi chia sẻ với các bạn kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội Việt Nam, nhấn mạnh đặc biệt đến gia đình như môi trường căn bản và cần thiết nhất trong việc nuôi dưỡng, vun xới và chuyển giao sự sống đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Cha Hiền: Đại hội này có để lại cho Đức cha ấn tượng đặc biệt nào không, thưa Đức cha?

ĐC Khảm: Khá nhiều ấn tượng. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến một điều là sức sống của Giáo Hội. Hình như các phương tiện truyền thông thích nói đến những chuyện tiêu cực trong Giáo Hội Hoa Kỳ như vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em … và hình như phải làm rùm beng những chuyện đó thì mới thu hút người xem và người nghe. Nhưng có biết bao điều tích cực khác mà chúng ta không để ý đến. Chẳng hạn, khi tham dự đại hội này, tôi tự hỏi các mục tử trong Giáo Hội Hoa Kỳ đã nỗ lực như thế nào để có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng trong thời đại tục hoá như ngày nay? Các ngài và những cộng sự viên đã phải làm việc cật lực ra sao để có được một đại hội phong phú về số lượng và chất lượng như thế? Anh chị em giáo dân nói chung, cách riêng các giáo lý viên, đã tha thiết thế nào với sứ mạng của Hội Thánh để có được sự tham gia tích cực như thế? Tất cả đều nói lên sức sống mãnh liệt của Hội Thánh, sự phong phú tuyệt vời của ân huệ Thiên Chúa.

Cha Hiền: Ngoài việc tham dự Đại hội Giáo lý, Đức cha còn có công việc nào khác tại LA?

ĐC Khảm: Tôi và cha Luy Tuấn đã đến thăm Đại chủng viện Saint John và Nhà Đào Tạo Chủng sinh dự bị của giáo phận LA. Chúng tôi đã có những buổi gặp gỡ và trò chuyện thân tình với cha Giám đốc và một vài cha giáo sư ở đó, tìm hiểu về chương trình đào tạo và trao đổi những vấn đề liên hệ đến hai bên.

Cha Hiền: Con nghe nói Đức cha có cuộc gặp gỡ với cộng đồng công giáo Việt Nam tại Quận Cam (Orange County)?

ĐC Khảm: Theo lời mời của Đức cha Tod Brown và Đức cha Mai Thanh Lương của giáo phận Orange County, tôi đã đến thăm các ngài và sau đó, dâng Thánh Lễ với cộng đồng giáo dân Việt Nam tại Trung Tâm Công Giáo của Orange County. Sau Thánh Lễ, còn có buổi trò chuyện thân mật về đề tài Thánh Kinh trong Đời Sống Kitô hữu. Anh chị em giáo dân Việt Nam tại đây rất đạo đức tốt lành. Chỉ là buổi tối Thứ Hai trong tuần nhưng anh chị em đã đến rất đông để cùng cầu nguyện, gặp gỡ và trao đổi về Lời Chúa.

Cha Hiền: Trong chuyến đi lần này, ngoài tiểu bang California, Đức cha có đi đến tiểu bang nào khác nữa không?

ĐC Khảm: Sau thời gian ở Cali, tôi và cha Luy Tuấn đã đi Washington, DC. Ở đây, theo lời mời của cha chính xứ giáo xứ Mẹ Việt Nam tại Maryland, tôi đã có một buổi tối tĩnh tâm Mùa Chay với cộng đoàn và hôm sau cử hành Lễ Lá với cộng đoàn. Nhân cơ hội này, tôi cũng đến thăm trường cũ và tìm hiểu một vài việc liên quan.

Cha Hiền: Như vậy, Đức cha đã có chuyến đi thật tốt đẹp, xin chúc mừng Đức cha. Chúng con cũng nghe nói Đức Hồng Y của chúng ta cũng sẽ đi Mỹ vào thời gian gần đây?

ĐC Khảm: Đúng thế. Cha biết là cách đây gần hai năm, Đức Hồng Y Mahoney của LA và Đức Hồng Y của chúng ta đã ký kết bản liên kết giữa hai tổng giáo phận, nhìn nhận nhau như chị em và nâng đỡ nhau trong việc thi hành sứ mạng. Cũng vì mối liên kết đó, Đức Hồng Y Mahoney đã gửi thư mời Đức Hồng Y của chúng ta sang chủ sự Thánh Lễ tôn vinh Lòng Chúa thương xót, cử hành vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm. Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc của giáo phận, Đức Hồng Y của chúng ta đã nhận lời mời, nhằm mục đích củng cố tình hiệp thông giữa hai tổng giáo phận. Ngược lại, có thể vào cuối năm nay, Đức Hồng Y Mahoney sẽ đến thăm giáo phận chúng ta, tất cả đều nằm trong mối liên kết giữa hai tổng giáo phận chứ không có mục đích nào khác.

Cha Hiền: Dù vậy, có một câu hỏi khá tế nhị xin được nêu lên với Đức cha. Người ta nói rằng có dư luận chống đối chuyến đi sắp tới của Đức Hồng Y tại Hoa Kỳ, điều này có thật không, thưa Đức cha?

ĐC Khảm: Qua các phương tiện truyền thông, tôi cũng biết đến điều đó và phải nói là rất buồn. Những phản ứng đó có thể do thiện ý nhưng có lẽ phát xuất từ cách nhìn nhận vấn đề khác với chúng ta, nghĩa là nhìn từ góc độ chính trị. Hôm nay là Thứ Sáu Tuần Thánh và tôi không thể không nghĩ đến vụ án Chúa Giêsu. Người Do Thái lúc đó đã tố cáo Chúa Giêsu trước toà tổng trấn Philatô rằng: Ông này xưng mình là Vua, mà kẻ nào dám xưng mình là vua thì người đó là kẻ thù của hoàng đế Rôma! Rõ ràng là lời tố cáo mang tính chính trị, và chính lời tố cáo đó đã đẩy Philatô đến chỗ phải ra lệnh đóng đinh Chúa Giêsu dù trong lòng vẫn tự nhủ: “Ông này không có tội lỗi gì cả”. Thế nhưng Chúa Giêsu có đến trần gian này để làm chính trị đâu! “Nước của Tôi không thuộc thế gian này”, Người đã tuyên bố như thế trước mặt Philatô và người công giáo nào cũng thuộc lòng lời tuyên bố đó.

Cũng vậy, Đức Hồng Y của chúng ta có mặt ở LA không vì mục đích chính trị. Dù tôn trọng chính kiến của mỗi người, nhưng tôi thấy cần khẳng định điều này: Ngài đến đó để chủ sự một nghi lễ tôn giáo, để bày tỏ và củng cố sự hiệp thông giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn cũng như mối hiệp thông giữa cộng đồng công giáo Việt Nam hải ngoại và Giáo Hội tại quê nhà. Đơn giản chỉ là thế và tôi dám tin rằng đại đa số anh chị em tín hữu công giáo Việt Nam hải ngoại cũng thấy rõ điều đó. Ngài sẽ chủ sự Thánh Lễ tôn vinh lòng Chúa thương xót. Vì thế, chúng ta cùng cầu xin cho sứ điệp và sức mạnh của lòng thương xót chạm đến cõi lòng mỗi người và biến đổi chúng ta nên chứng nhân của lòng thương xót: “Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.

Đặng Văn Kiểm


Khen và chê - Mai Vĩnh Thăng

Mai Vĩnh Thăng

Từ khi Luật sư Lê Thị Công Nhân và Linh mục Nguyễn Văn Lý được ra khỏi tù có rất nhiều dư luận khen chê ngược xuôi. Kẻ khen thì ca tụng, tôn vinh Ls Lê Thị Công Nhân lên hàng “Anh thư nước Việt” và Lm Nguyễn Văn Lý là “Người tù lương tâm” một cách thái quá.

Thực ra vị này chưa từng lập một thành tích nào cho đất nước ngoại trừ những lời tuyên bố lăng nhăng lố bịch, làm nhiệm vụ trả bài cho Cộng sản Việt Nam và ba năm khổ nhục kế ăn no ngủ kỹ. Trong khi người dân trong nước hầu như ít ai biết đến Khối 8406 và Lê Thị Công Nhân hoặc Nguyễn Văn Lý là ai ngoại trừ hội viên của nhóm này vì bọn CSVN chỉ nhắm vào người Việt hải ngoại qua các phương tiện internet.

Người chê cũng không ít và với bằng chứng chính xác như hình ảnh, tin tức hợp lý làm cho hai chiếc bong bóng kia vừa chớm bay lên chưa khỏi tầm mắt đã bị nổ tung. Những hình ảnh do Vietnam Exodus cung cấp và tin tức có dẫn chứng cụ thể cũng đã đủ cho thấy cả hai chỉ là những nhà đấu tranh dân chủ cuội.

Đảng CSVN theo đường lối Marxist Leninist, được Hồ Chí Minh thành lập trong thập niên 1930 và là đãng độc quyền cai trị đất nước. Những tổ chức hoặc đảng phái chính trị khác đều là ngoại vi, nói cách khác, nhóm Việt gian 8406 mà Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý là thành viên, do bọn CSVN đẻ ra lót đường cho chúng bước vào WTO ( World Trade Organization- Tổ chức Thương Mại Thế Giới ).

Thực ra không có bọn Việt gian này CSVN cũng vẫn được vào WTO vì đã hội đủ điều kiện của một hội viên. Theo thứ tự thời gian, Khối 8406 được thành lập ngày 8/4/06 với 118 thành viên lúc đầu. Ngày 7/11/06 CSVN được Hội đồng tối cao WTO chấp thuận, và trở thành hội viên thứ 150 của WTO ngày 11/1/07.

Điều lo ngại lớn nhất của CSVN là họ đã bị liệt kê vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo CPC (Countries of Particular Concern) vào năm 2004. Nhưng từ khi bình thường hóa ngoại giao với Mỹ trong thập niên 1990, dẫn đến việc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ xóa tên CSVN khỏi danh sách CPC trong tháng 11 năm 2006, là điều kiện sau cùng để vào WTO mà họ đã đạt được.

Nhiều người tự hỏi, khi CSVN đã hội đủ điều kiện vào WTO thì vì lý do gì Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý lại đứng mũi chịu sào cho 118 tên cuội trong nhóm 8406? Có lẽ mỗi người đều có lý do riêng; có người vì tham vọng chính trị tiền bạc, người khác lại thích làm anh hùng để được khen và cũng có người tình nguyện làm thân lừa chuyên chở những đống phân thối của CSVN ra hải ngoại.

Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý đang dùng dư luận để đánh bóng phong trào đấu tranh dân chủ cuội trong nước. Hơn ai hết CSVN biết rõ trong bất cứ môi trường nào số người thiếu suy nghĩ cũng chiếm phần đa số và cái bã thối đó chắc chắn sẽ có người chuộng.

Con lừa biết ăn cỏ ngon và cần được chủ chăm sóc, Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý cũng không ngoại lệ; cũng có quyền lợi vật chất (tự tìm trong tài liệu cũ sẽ thú vị hơn) và được bọn Việt gian hải ngoại phong thánh. Thật ra khen cũng tốt nếu biết giới hạn vì đó là kết quả của thành công. Nhưng bất cứ lời khen nào cũng lấy làm thỏa mãn sẽ đi đến quá độ và tự mãn, và sẽ tự làm bia cho công luận phê bình.

Hầu hết mọi người đều thích được khen. Nhưng khi có người phê bình chỉ trích, phản ứng tự nhiên của chúng ta là tự vệ chống đỡ. Thật ra cái lẽ đúng nhất là ta không mong được khen, nhưng nếu có cũng chấp nhận. Cùng một nguyên tắc, cũng không ai muốn bị chỉ trích, nhưng nếu có cũng là điều tốt vì phê bình có một nhiệm vụ quan trọng; nhận biết phản ứng và thái độ của công luận để từ đó ta nhìn lại chính mình và sửa đổi cho hoàn hảo hơn.

Chút suy nghĩ về “người xấu và việc xấu” thay cho kết luận. “Kẻ khôn nên quan tâm đến cá tính của mình hơn là danh tiếng, vì lẽ, cá tính chính là con người thật của chúng ta, trong khi danh tiếng, đơn thuần chỉ là những gì người khác nghĩ về chúng ta.”

Kẻ khôn và hiểu biết không thể là Việt gian cộng sản, ngược lại nếu đã là Việt gian cộng sản thì không thể nào có sự khôn ngoan. Đáng tiếc cho những con lừa không biết suy nghĩ.

Mai Vĩnh Thăng


Về Đất - Kim Âu



Kim Âu

Nếu bảo họ đấu tranh CUỘI, ở tù CUỘI, thì sao các vị ở hải ngoại, không ai dám về trong nước để “đóng phim” đấu tranh CUỘI và ở tù CUỘI như Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến, v.v… ???”.

Thật ra khi ông Võ văn Sáu viết ra câu văn này ông không hề thấy sự vô lý của ông khi viết ra như vậy. Bởi vì một người đã kết luận về trò “đấu tranh cuội” có nghĩa là họ không bao giờ tin vào chuyện đấu tranh chống lại chế độ cộng sản độc tài, toàn trị mà được hưởng đầy đủ những đặc quyền, đặc lợi, ưu đãi như mọi người đã thấy.

Tất nhiên khi không tin, họ sẽ không bao giờ tự đâm đầu vào cạm bẫy. Ngược lại những kẻ nào tin rằng những gì mà các “nhà đấu tranh cuội” đang làm trò là đấu tranh thật, mới là những người nên khăn gói “laptop”, “điện thoại viễn liên”, ít tiền dắt túi lên đường trở về quốc nội gia nhập hàng ngũ “đấu tranh cuội” để được hưởng những đặc quyền, đặc lợi như “ngôn sứ” và “thánh nữ “ của họ đang thượng hưởng.

Người không tin có nghĩa là họ thừa kinh nghiệm để biết rõ “hễ ai có tư tưởng chống cộng thật sự mà lộ ra sẽ bị đàn áp thê thảm, hứng chịu mọi đòn thù nham hiểm nhất”. Ông Võ văn Sáu cũng viết khá rõ: ”Bọn man di Việt gian CS có cả ngàn cách để diệt những nhà tranh đấu: Như bắt bớ, giam cầm, cho du đảng hành hung, cho du đãng ném phân vào nhà, cắt điện thoại, cắt internet, đuổi việc, đuổi cả con cái không cho đi học, làm khó dễ đủ thứ, v..v…” chúng tôi thêm vào vài dẫn chứng “xe đụng” như Đinh Bá Thi, viết “lách” giỏi như vợ chồng kịch tác gia Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh thì “xe cán” nát thây.

Đã biết như thế, tất nhiên chẳng ai ngu dại tự mình đút đầu vào rọ. Vì thế, việc ưu tiên về nước đấu tranh phải dành cho người tin vào những trò “đấu tranh dân chủ cuội”, tin vào sự thay đổi của bạo quyền cộng sản như Chu Tất Tiến, Nguyễn Đạt Thịnh, Lê văn Ấn, Võ văn Sáu, Đinh Thạch Bích, Trần Phong Vũ, Trần đình Phục, Trần văn Thưởng, (Nguyễn văn Tánh, Nguyễn văn Tần. Nguyễn Bác Ái, Nguyễn Ngọc Tiên mấy vị này vừa thể hiện niềm tin qua việc nhân danh các cộng đồng ra tuyên bố, tuyên mẹ để chuẩn bị trao giải Oscar cho thánh nữ và ngôn sứ)..v..v…

Theo như quý vị này đã xác tín thì bảo đảm các vị này về ở vài năm tù cũng chẳng sao vì quý vị vẫn hàng tuần được thăm nuôi, “xã hội nuôi”, được xem TV, báo Nhân Dân, Pháp Luật, Kinh Thánh, Kinh Phật, vẫn có quyền ngồi rung đùi dịch kinh sách, vuốt râu làm vài trăm bài thơ, viết vài nghìn trang “Nhật Ký Trong Tù” chuyển ra hải ngoại để in ấn, xuất bản, tổ chức ra mắt sách “khiếm diện”, từng chi tiết hoạt động trong tù của quý vị vẫn được thông báo cập nhật. Vợ con, thân nhân của quý vị vẫn được mời đến các diễn đàn nhân quyền để biểu dương tinh thần tranh đấu “oanh liệt, kiên cường” của quý vị, gia đình của quý vị vẫn thay mặt quý vị nhận giải này, giải nọ, kể cả “giải rút”. Thậm chí, quý vị có bị táo bón hay bị “phù” vì “thiếu xương thừa mỡ”, bị “stroke” bại liệt nửa người thì đạo diễn vẫn cứ cho tay chân quý vị hoạt động bình thường, băng đảng của quý vị vẫn nhận được thông tin có cớ để quyên góp, vận động yểm trợ cho quý vị vững tâm để làm “tù nhân lương tháng”.

Còn chờ gì nữa? Những kẻ thấy và TIN mà không noi gương “thánh nữ và ngôn sứ”, không đi theo con đường của “thần tượng” chẳng phải quá hèn lắm ru?

Chúng tôi chắc chắn không hèn vì chúng tôi là những người đã từng tiên phong tận hiến, có điều chúng tôi KHÔNG NGU. Chúng tôi đã trải nghiệm xà lim khám tối, cùm kẹp nhục hình thê thảm nhiều năm đến thừa sống, thiếu chết, thân mang di chứng bệnh tật. Chúng tôi không thể về công khai chống đối vì chúng tôi không phải là những diễn viên được “order” để “đóng phim đấu tranh”. Chúng tôi dứt khoát không tin, chúng tôi cũng không mơ ghế nên chúng tôi không khờ khạo về để nộp mình cho dã thú.

Chúng tôi phải ở lại đây để làm chức năng kẻ sĩ vạch trần những trò buôn xương, bán máu dân tộc Việt Nam của bọn tư bản cá mập và cộng sản như trước đây chúng đã làm vào thời kỳ “Chiến Tranh Uỷ Nhiệm hay Chiến Tranh Ý Thức Hệ”.

Chúng tôi phải ở lại đây để cảnh tỉnh những người yêu nước không nên rơi vào cạm bẫy. Chúng tôi phải ở lại đây để ngăn chặn bọn lưu manh chính trị chuyên nghề buôn bán chiêu bài để xiết máu, hô hào quyên tiền bỏ túi làm giàu một cách bất lương. Chúng tôi phải ở lại đây để bôi vôi vào những con đỉa đang hút máu đồng bào tỵ nạn của chúng tôi suốt ba mươi lăm năm qua.

Tất nhiên lũ đỉa phải vôi chúng sẽ dẫy lên đành đạch, chúng sẽ phỉ báng chúng tôi bằng những ngôn từ hạ tiện mà không cần biết tới sự thật, nhưng cuối cùng thì những kẻ gỉa hình sẽ tự bộc lộ “bản lai diện mục” của chính họ. Chúng tôi là những người đã trải nghiệm đấu tranh và tù tội từ lâu nên không cần tự đặt mình vào vai trò của người trong nước. Bởi chính chúng tôi là những người đã bị đánh bật rễ khỏi đất nước để trở thành người lưu vong.

Chúng tôi không kêu gọi hay vạch ra đường lối đấu tranh cho bất kỳ ai. Tinh thần chống áp bức và thời thế sẽ thúc đẩy những người bị áp bức tự đứng lên bằng sức mạnh của chính họ. Biểu tình bạo động hay đấu tranh vũ trang không phải là khùng điên hay ngu ngốc khi thời thế cho phép những người bị áp bức không có tự do, nhân quyền cương quyết đứng lên, vì “Freedom isn’t free”.

Chứng kiến những hiện tượng nghịch lý, chúng tôi phải lên tiếng nhận xét, luận giải, chứng minh đâu là sự thật để ngăn ngừa họa hại xảy ra cho những người yêu nước chân chính ngây thơ. Tất nhiên sự thật không làm cho những kẻ mưu đồ hài lòng.

Trại 5 Lam Sơn, chúng tôi đã qua đó ngắm những tàn phượng rủ từ năm 1979. Căn phòng biệt giam ở chếch cổng trại Ba Sao, nhìn xuống kho chứa rượu Mơ, chúng tôi đã bị cô lập ở đó bên cạnh nữ sĩ Thuỵ An từ khi Hiệp định Paris được ký kết 27-1-1973 cho tới 19-5-1973 bị đày lên cùm tại trại Cổng Trời cho tới sau 30 – 4 - 1975. Con đường khổ nạn đó chúng tôi đã đi trước, đã tường tận.

Hơn ai hết, chúng tôi thừa trải nghiệm để có cái nhìn sáng tỏ nhất về “bản chất kẻ thù của dân tộc là bè lũ Việt Cộng tay sai cho Quốc Tế Cộng Sản không bao giờ khoan nhượng với bất kỳ một người nào “còn một tế bào não nuôi ý thức chống lại chúng”.

Những vị nào cho rằng cộng sản ngày nay đã đổi thay vì những áp lực quốc tế, lời thách thức của ông Võ văn Sáu chính là điều kiện để quý vị lên đường hưởng dụng, xác tín những đổi thay “long trời lở đất” ấy.

Tin Chúa thì giáo dân đi nhà thờ rước lễ. Tin Phật thì Phật tử đến chùa tu tập.

Quý vị tin là cộng sản đã thay đổi cách đối xử từ tiêu diệt đến hòa hoãn, nhượng bộ, nuông chiều với những người đấu tranh chống lại chế độ của chúng thì còn ngần ngại gì không về nước để đấu tranh đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền mà phải ở lại Hoa Kỳ kéo dài kiếp lưu vong tỵ nạn làm gì?

Chúng tôi không dư thời gian để “bới bèo ra bọ” như ông bạn Võ văn Sáu nói. Nghe LTCN kể chuyện đọc “kinh thánh” chúng tôi chỉ tội nghiệp khi thấy LTCN ngôn bừa bãi “đến một lúc nào đó xã hội cực kỳ phát triển và đạt đến tự do đỉnh cao thì không cần nhà nước” rồi cười khành khạch như đười ươi.

Chế độ xài luật rừng thì luật sư chỉ được đào tạo theo chuẩn mực “RỪNG”, khoa trương một cách khiên cưỡng, gỉa dối đến khi diễn viên nhập vai thì sự thật phơi ra quá sức phũ phàng.

Mấy ngài chính khứa bát nháo ở hải ngoại thì rất trí tuệ trong những trò lừa bịp, nhưng hay bị cận thị. Quý vị cứ sa sả chửi bới bọn cộng sản chuyên xài “luật rừng”, là bọn ngu dốt thiến heo, mổ lợn nhưng quý vị quên bẵng hễ bọn thiến heo, mổ lợn, chăn trâu, cắt cỏ làm lãnh tụ thì nền giáo dục của chúng chỉ là nền giáo dục của bọn thiến heo, mổ lợn, chăn trâu, cắt cỏ sanh ra “bọ lắm hơn bèo”.

Bài viết này đến đây cũng đã khá dài, chúng tôi không thể không nhắc đến tên những người đã thể hiện NIỀM TIN VỮNG CHẮC như Chu Tất Tiến, Nguyễn Đạt Thịnh, Lê văn Ấn, Võ văn Sáu, Đinh Thạch Bích, Trần Phong Vũ, Trần đình Phục, Trần văn Thưởng, (Nguyễn văn Tánh, Nguyễn văn Tần. Nguyễn Bác Ái, Nguyễn Ngọc Tiên).

Chúng tôi thì hoàn toàn không tin, tuy nhiên nếu những vị đại diện văn phòng của khối 8406 và đảng Thăng Tiến ở hải ngoại dám thể hiện NIỀM TIN VỮNG CHẮC bằng cách ra tuyên bố trở về quốc nội đấu tranh công khai thì mong quý vị cho biết ngày lên đường để chúng tôi được tri ơn đồng thời tiễn đưa quý vị VỀ ĐẤT.

Trân trọng
Kim Âu


Friday, April 2, 2010

Happy Easter - teolangthang



"Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em”

(Ga 15,12)

Chúa Thương Con
Linh mục Thành Tâm
Trình bày: Ngọc Lan






Tổ quốc trước nạn bành trướng Đại Hán - TT Thích Viên Định

TT Thích Viên Định

Trách nhiệm của chính quyền là phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và bảo đảm an ninh cho người dân. Đó là một trách nhiệm rất nặng nề nên người lãnh đạo chính quyền phải luôn thận trọng, lưu tâm và đặt lên hàng đầu. Một nhận định sai lầm của vua, của người lãnh đạo, nhẹ thì mất chức, mất quyền, nặng thì mất cả giang sơn, dân tộc. Người xưa thường nói, “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Bệnh do miệng ăn nhiều mà vào, họa cũng do lời nói không cẩn thận nơi miệng mà ra. Đó là lời răn cho người bình thường. Còn, “Quân bất hư ngôn” là lời răn cho vua, cho người lãnh đạo. Làm vua, làm lãnh đạo một nước, không được nói đùa, không được hứa dối để lấy lòng. Người nắm giữ vận mệnh quốc gia cần phải cẩn thận đề phòng từng lời nói, từng việc làm trong sự hứa hẹn, kết giao. Nếu không, rất dễ mắc sai lầm, lâm vào thế kẹt, làm cho đất nước và dân tộc gặp nhiều tai họa không lường.

Hãy xem, toàn bộ khối Cộng sản Đông Âu và Liên Xô đồng loạt tan rã, điều đó chứng minh rằng, chủ thuyết Mác-Lê, vô sản, vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc là một chủ thuyết sai lầm và không tưởng. Chủ thuyết Mác-Lênin đã gây tai họa và làm chết cả trăm triệu người trên thế giới. Chủ thuyết này chỉ còn được sử dụng như một công cụ để xâm lăng của các nước Cộng sản đàn anh và các Nhà cầm quyền độc tài toàn trị.

Năm 2006, Hội đồng châu Âu đă ra Nghị Quyết 1481, tuyęn bố rằng, Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hiện thực do các đảng CS ở Đông âu và Liên Xô chủ trương từ 1945 đến 1991 là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc và tội ác chống nhân loại.

Với theo chủ thuyết sai lầm nên các nước Liên Xô và Đông Âu tự tan rã. Các nước Cộng sản còn sót lại, tuy vẫn còn hình thức Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng không còn theo đường lối vô sản nữa mà quay lưng lại, gây chiến tranh để tranh giành lãnh thổ và quyền lợi của nhau. Biên giới các nước XHCN “anh em”, nay đã trở thành chiến trường. Năm 1979 ở biên giới Bắc Việt và năm 1988 ở quần đảo Trường sa của Việt Nam … đã xảy ra những cuộc giao tranh đẫm máu giữa Trung cộng và Việt Nam. Gần 100 ngàn binh lính của cả hai bên đã bị giết hại trong những trận chiến ác liệt này.

Đối xử với nhau tàn tệ, hận thù như vậy, nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản, vẫn tiếp tục cam kết, hứa hẹn, dựa vào đàn anh Trung Cộng, tôn thờ chủ thuyết Mác-Lênin “vô tổ quốc” để bảo vệ Đảng mà cũng là bảo vệ quyền lợi phe nhóm riêng tư. Vì vậy, khi Trung cộng lấn chiếm biên giới, biển đảo của nước ta, Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã không dám lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ. Năm 1974, khi Trung cộng đánh chiếm Hoàng sa, Cộng sản Bắc Việt đã cho rằng, “Việt Nam hay Trung quốc, đều là Xã Hội Chủ Nghĩa anh em, nên ai kiểm soát Hoàng sa cũng được” như hai câu thơ của Tố Hữu: “Bên đây biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là anh em”

Năm 1979, Trung cộng lại đánh chiếm biên giới Bắc Việt, rồi năm 1988, tiếp tục đánh chiếm quần đảo Trường sa tận phía Nam tổ quốc, vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hình như đã quên, hàng năm không thấy nhắc nhở hay tổ chức kỷ niệm, tuyên dương những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong những trận chiến vệ quốc vĩ đại này.

Đã cãi nhau, đánh nhau, cướp đất, cướp biển của nhau như vậy thì cũng là “đồng chí”, chẳng lẽ là “anh em”. Vì vậy, theo nhận định của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì, mối lięn hệ 16 chữ Vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 Tốt: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” giữa 2 đảng Cộng sản Việt-Trung chỉ là những gông cùm, xiềng xích đối với toàn thể dân tộc Việt Nam”. (trích Thông Bạch Tổng kết Phật sự năm 2009 của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN)

Thế nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, theo chủ thuyết Mác-Lê, “vô tổ quốc”, đã hứa hẹn, cam kết, những điều bí mật với đàn anh Cộng sản Trung quốc, nên nay lâm vào thế kẹt, không thể còn làm găng được nữa. Vì vậy, Nhà cầm quyền Cộng sản chỉ còn cách nói qua loa, làm lấy lệ, để giảm áp lực việc chống xâm lăng, bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam mà thôi.

Gần đây đã xảy ra những chuyện khó tin, nhưng lại có thật. Công an Việt Nam đã làm chuyện trái ngược, đã ra mặt ngăn cấm, đe doạ sinh viên, học sinh và nhân dân Việt Nam đi biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng. Nhiều người còn bị bỏ tù vì cái tội biểu tình chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Hơn 4 ngàn năm mới có chuyện ngược đời khó tin này.

Thực trạng đất nước Việt Nam đang bị xâm lăng đã rất rõ ràng: “Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam toàn diện và khắp nơi, từ lãnh thổ phía Bắc, sang Tây nguyên, xuống các hải đảo Hoàng sa, Trường sa ở biển Đông; từ tư tưởng, văn hoá, chính trị, đến kinh tế. Hoạ mất nước đang đến từng ngày, từng giờ” (Trích lời Thông Bạch của GHPGVNTN kêu gọi ủng hộ việc “không dùng hàng Trung Quốc” của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ) Cứ xem biên giới Việt Nam thì rõ. Dân Tàu tự do ra vào, coi Việt Nam như một tỉnh của Tàu. Các nhà kinh doanh Trung cộng, nay trúng thầu nơi này, mai trúng thầu nơi khác. Các khu công nghiệp, Hãng xưởng của Trung Cộng tiếp tục mọc lên như nấm trên khắp toàn quốc. Nguy nhất là Trung cộng âm mưu khai thác Bau-xit ở Tây nguyên, nơi địa thế huyết mạch, là xương sống của Việt Nam và nóc nhà của Đông Dương. Mới đây lại nghe tin đã có hơn mười (10) tỉnh cho Tàu thuê đất đầu nguồn lâu đến 50 năm!. Sau 50 năm nữa, các công nhân Tàu đã có cháu nội cháu ngoại đầy nhà, không biết làm cách nào để giải quyết vấn đề nan giải, tế nhị, dây mơ rễ má này được ? Vậy là sẽ có thêm những khu vực, lãnh thổ dành riêng cho người Tàu, giống như khu Chợ Lớn !

Đảo Hoàng sa đã mất hoàn toàn, Trường sa cũng mất gần hết. Tàu “lạ” của Trung Cộng ra vào hải phận Việt Nam như cơm bữa, lại còn ngang nhiên ra lệnh cấm đánh cá, bắt ép, cướp bóc tài sản, ghe thuyền, bắt giam cả ngư dân Việt Nam để đi tiền chuộc, ngay cả khi ngư dân vào đảo Hoàng sa của Việt Nam để tránh bão. Những hành động đàn áp, đoạ đày người dân như thời 1000 năm Bắc thuộc đang xảy ra trên tổ quốc Việt Nam. Những lúc như vậy, lại không có bất cứ bóng dáng nào của Hải quân Việt Nam, để bảo vệ ngư dân mình, hoặc ngăn chặn tàu thuyền Trung Cộng. Nhà cầm quyền Việt Nam lại còn bảo ngư dân phải tự trang bị vũ khí để tự vệ ? Quân đội không bảo vệ tổ quốc, không bảo vệ người dân, thì nuôi quân đội để làm gì ?

Nguy hơn nữa, kẻ xâm lăng lại ở ngay sát cạnh mình và theo chủ nghĩa “vô tổ quốc” của Mác Lênin. Trong khi trong nước cũng có một đảng “Vô Tổ quốc” Mác-Lênin, đã và đang bắt tay, liên kết “đảng với đảng, đồng chí với đồng chí” với kẻ xâm lăng. Họa mất nước đã rất rõ ràng.

Tổ quốc Việt Nam ta, với hơn 4 ngàn năm lập quốc, chưa bao giờ mất một tấc đất, tại sao bây giờ, chỉ có vài chục năm, lại mất đất, mất đảo, mất biển nhanh đến như vậy ?

Trung Cộng đã không đưa ra được lý do nào để chứng minh các hải đảo Hoàng Sa, Trường sa là của Trung quốc. Cũng không có trận chiến nào, quân Việt Nam đã xâm chiếm các hải đảo của Trung hoa. Nhưng Trung Cộng lại chỉ vin vào cái Công Hàm bán nước của Thủ tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng, ký năm 1958, để chứng minh chủ quyền của họ trên các hải đảo của Việt Nam mà thôi. Nên có lần phát ngôn viên Việt Nam nói rằng, Hoàng sa, Trường sa là của Việt Nam, thì phát ngôn viên Trung Cộng, ông Tần Cương, đă trả lời rằng: “Chúng tôi nhận thấy các tuyên bố khác nhau của Việt Nam trong các thời điểm lịch sử khác nhau”. Không thấy phát ngôn nhân Việt Nam bác bỏ câu nói ấy như thế nào?.

Công hàm bán nước của tập đoàn việt gian cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng
Nhưng Công Hàm của Phạm Văn Đồng ký, năm 1958, thì không có giá trị trên mặt pháp lý, về phần đất phía Nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền sở hữu của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nên Nhà cầm quyền Miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không đại diện cho toàn dân Việt Nam. Nhưng hiện nay Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại bị kẹt bởi, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam theo tín điều của chủ thuyết Mác, “vô tổ quốc”, nên không dám mạnh dạn đặt vấn đề “biên giới, tổ quốc” với Trung Cộng trên bàn tranh luận. Và cái Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, đã bán hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung cộng rồi, nên Nhà cầm quyền Việt Nam thất lý, không dám dùng sức mạnh hải quân để bảo vệ các hải đảo và ngư dân Việt Nam. Trong khi đó, thế lực bành trướng Đại Hán thì hàng ngàn năm nay, vẫn giữ mộng xâm lăng tổ quốc Việt Nam ta. Người Dân quyết chống ngoại xâm, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản lại e dè. gây ra tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Cứ dùng dằng như vậy, tổ quốc sẽ lâm nguy !

Muốn giải quyết vấn đề cấp bách của đất nước hiện nay, chỉ còn một cách, Đảng Cộng sản Việt Nam hãy thức tỉnh, sám hối, quay đầu, trao quyền tự quyết cho nhân dân để thoát khỏi thế kẹt, tiến đến đoàn kết toàn dân, bảo vệ tổ quốc. Không thể giao phó vận mạng tổ quốc và 86 triệu sinh mạng người dân Việt Nam cho đảng Cộng sản được. Phải thay đổi chế độ độc tài, độc đảng sang thể chế đa nguyên, đa đảng. Khi đã có tự do, dân chủ, nhân quyền thì toàn dân Việt Nam sẽ đoàn kết cùng nhau đứng ra giải quyết vấn đề sống còn của tổ quốc hiện nay.

Thích Viên Định




35 năm sau Hành trình tìm TỰ DO



Đất nước có một thời như thế.

Một thời, hàng triệu người Việt Nam đã phải bỏ lại sau lưng những gì mình trân quý nhất để ra đi. Đi về đâu? Đi về phía biển. Tìm gì? Tìm tự do. Một thời, những bài ca không còn được phép hát lên thay cho lời tỏ tình của những kẻ mới yêu nhau. Một thời, những bài thơ không còn được khắc lên hàng phượng đỏ trong sân trường làm chứng tích cho mối tình học trò đầy kỷ niệm. Một thời những căn nhà thân yêu đã bị thay đổi chủ và những trường học, những con đường thân quen đã bị đổi thay tên.

Trong những cuộc hải hành tìm tự do đầy nước mắt của những năm sau 1975, bao nhiêu người đã ở lại trong lòng biển, đã chết trong các trại tỵ nạn, đã chết trong bàn tay hải tặc? Một trăm ngàn, hai trăm ngàn hay năm trăm ngàn như Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc công bố?

Không. Những con số đó chỉ là những phỏng đoán để điền vào khoảng trống cần thiết của một bản thống kê.

Làm sao ai biết được số phận của những em bé chết ngộp khi còn trong bụng mẹ?

Làm sao ai đếm được những xác người bất hạnh đang cố thoi thóp những hơi thở cuối cùng trong bụng kình ngư?

Không, sẽ không bao giờ ai biết. Con số thật đã vĩnh viễn nằm im trong lòng biển cả như nỗi đau câm nín của đồng bào và dân tộc Việt Nam.

Ba mươi lăm năm sau, trên quê hương Việt Nam, có những bà mẹ già nua trong chuỗi ngày tàn vẫn còn nuôi chút hy vọng rằng người phát thư buổi sáng sẽ trao cho mẹ lá thư đầu của đứa con ra đi.

Ba mươi lăm năm sau, có những người vợ nằm nghe tiếng lá rơi mà ngỡ như tiếng chân chồng mình trở về bên căn nhà cũ.

Nhưng từ vực sâu nước mắt đó, từ hố thẳm gian nan đó, những người may mắn sống sót đã tiếp tục hành trình. Khát vọng tự do cao hơn ngọn thủy triều cuồng nộ, ý chí vươn lên mạnh hơn giông bão Thái Bình Dương. Họ đã tranh đấu và thành công trong nhiều lãnh vực. Ba mươi lăm năm, những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã trưởng thành. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Em bé ngồi chờ mẹ, người sẽ không bao giờ trở về bên bờ biển Palawan, chắc ngày nay đã lớn. Em bé được chấp thuận định cư trong đợt thanh lọc cuối cùng ở trại tỵ nạn Panat Nikhom, sau khi chị mình tự tử để phản đối cưỡng bách hồi hương, giờ đã nên người.

Ba mươi lăm năm. Thời gian trôi trên giòng sông đời bất tận. Những mái tóc xanh nay đã bạc, những khổ đau chồng chất đã vơi đi, những thương nhớ đợi chờ cũng đã nguôi ngoai. Nhưng ký ức thì không. Những giọt nước mắt của mẹ giữa biển khơi ngày nào đã hóa thành ngọc bích. Những lời dặn dò của cha trong giờ hấp hối là những lời vàng.

Hành trình tìm tự do của hàng triệu người Việt Nam với tất cả đau thương và chịu đựng là báu vật tinh thần của các thế hệ Việt Nam hôm nay, và là di sản văn hóa Việt Nam cho mãi mãi về sau.

(Trích trong thư kêu gọi tham gia chương trình Hành Trình Tìm Tự Do của Hội Quảng Đà Dallas,Texas, Hoa Kỳ)

—————————————————————————————–




Chuyện Buồn Tháng Tư - Ngô Minh Hằng



Giọng ngâm: Hoàng Oanh

NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA


    NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA

    Năm xưa chồng tôi là người lính,
    Nơi vùng lửa đạn,
    Mồ hôi anh đã đổ,
    Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
    Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.
    Rồi một ngày anh gục ngã,
    Tại chiến trường Tây Ninh.

    Tôi góa phụ xuân xanh,

    Con thơ chưa tròn tuổi,
    Tiễn đưa anh lần cuối,
    Về nghĩa trang quân đội Biên Hòa

    Đã bao nhiêu năm qua, ....

    Bây giờ,
    Tôi ở nơi xa,
    Đã có cuộc đời khác.
    Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,
    Thương tiếc xa xăm.

    Tôi về tìm mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,

    Để thắp một nén nhang,
    Nhớ người lính của một thời chinh chiến,
    Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Một lần hành quân,
    Anh đã bị thương,
    Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.
    Ôi, mảnh đất không tên,
    Đã giữ chút máu xương người lính trẻ.

    Đã bao nhiêu năm qua,

    Bây giờ,
    Anh thương binh tàn tạ.
    Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ,
    Bạn bè anh,
    Kẻ mất người còn,
    Kẻ quên người nhớ,
    Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả.

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,
    Lần đầu tiên ra chiến trường,
    Anh mất tích không tìm thấy xác.
    Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt,
    Lòng tôi nát tan.

    Đã bao nhiêu năm,

    Vẫn không có tin anh,
    Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh,
    Tàn cơn khói lửa,
    Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.
    Anh đã biết chưa?
    Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Sống sót trở về sau cuộc đao binh,
    Sau những tháng năm tù tội,
    Bây giờ anh không còn trẻ nữa.
    Lìa xa quê hương,
    Sống ở xứ người.
    Những năm thánh chinh chiến đã đi qua,
    Nhưng vết thương đời còn ở lại,
    Trong lòng anh,
    Trong lòng những người lính năm xưa.

    Nguyễn Thị Thanh Dương