Monday, August 18, 2008

Chúc Thư Và Giáo Chỉ Của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: http://www.blogger.com/ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net/


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI HOUSTON NGÀY 17.08.2008

Chúc Thư và Giáo chỉ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống được tuyên đọc
tại Lễ Chung thất ở chùa Pháp Luân, thành phố Houston, bang Texas, Hoa Kỳ

HOUSTON, ngày 17.8.2008 (PTTPGQT) - Đại lễ Vu Lan Báo hiếu kết hợp với Lễ Chung thất đã được tổ chức trọng thể tại chùa Pháp Luân ở thành phố Houston, bang texas, Hoa Kỳ, ngày chủ nhật 17.8.2008. Nhân dịp này Chúc thư và Giáo chỉ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống để lại đã được trang trọng tuyên đọc và làm lễ suy tôn Đại lão Hoà thượng Thích Hộ Giác lên ngôi vị Phó Tăng thống.

Thay mặt Hội đồng Lưỡng Viện, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ký Quyết định số 31 ngày 16.8. uỷ quyền cho Văn phòng II Viện Hoá Đạo tuyên đọc, phổ biến Chúc Thư và Giáo chỉ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang tại Lễ Chung Thất.

Quyết định gửi đến Hòa thượng Thích Hộ Giác, Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo
kiêm Chủ tịch Văn phòng II Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN cho biết :

« Do những áp lực ngoại tại ngăn cấm không cho Phái đoàn Giáo hội về Tu viện Nguyên Thiều tổ chức lễ Chung Thất Đức cố Đệ tứ Tăng thống như đã dự trù. Nên Hội đồng Lưỡng Viện lấy quyết định sẽ tổ chức tại Saigon và cùng thời gian với Văn phòng II Viện Hoá Đạo tại Chùa Pháp Luân, thành phố Houston, bang Texas, ngày chủ nhật 17.8.2008, để công bố Chúc thư và Giáo chỉ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống về việc thỉnh cử nhân sự trọng yếu vào Hội đồng Lưỡng Viện.

« Thế nhưng mấy ngày qua, nhà cầm quyền địa phương đã đến hạch hỏi về việc tổ chức Lễ Chung Thất này. Đồng thời công an tăng cường và phong toả các ngôi chùa của Giáo hội. Trong hoàn cảnh như thế Hội đồng Lưỡng viện khó bề thực hiện lễ Chung Thất như dự kiến. Do vậy Hội đồng Lưỡng Viện quyết định trong cuộc hop lúc 16 giờ ngày 16.8.2008:

« 1. Chính thức công bố 2 văn bản: Chúc thư của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Giáo Chỉ suy cử Đức Phó Tăng Thống.

2. Uỷ quyền Hoà thượng Thích Hộ Giác Phó Viện trưởng VHD kiêm Chủ tịch Văn Phòng II VHD, thay mặt Hội đồng Lưỡng Viện cho tuyên đọc hai văn bản nêu trên tại cuộc lễ Chung Thất Đức Đệ Tứ Tăng Thống ở chùa Pháp Luân ngày 17.8.2008.

3. Tại chùa Giác Hoa sẽ tổ chức đơn giản Lễ Chung Thất Đức Đệ Tứ Tăng Thống vào ngày 17.8.2008 »

Gần hai nghìn Phật tử đã tề tựu từ sáng chủ nhật 17.8 tham dự cuộc lễ. Vì Chánh điện chùa Pháp Luân không chứa đủ số lượng đông đảo đồng bào Phật tử, nên Ban tổ chức đã mở rộng hội trường và cắm thêm hai căn lều lớn trong sân chùa để chứa khách.

Sau Đại lễ Vu Lan, lễ Chung Thất bắt đầu với hai nghi thức Bắc tông và Nam tông.

Nghi thức vừa chấm dứt, băng ghi Đạo từ nhân dịp Chung Thất Đức Cố Đệ tứ Tăng thống của Đại lão Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo được phát qua máy vi âm. Toàn thể chư Tăng Ni và Phật tử cùng đứng lên chắp tay cung kính lắng nghe. Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nói :

« Nam Mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật

« Ngưỡng bạch Giác linh Đức Cố Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chứng giám,

« Kính bạch chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa Hội đồng Lưỡng Viện,

« Kính thưa quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni Đại diện các cấp Giáo hội tại các Miền, các Tỉnh thành, các Châu lục hải ngoại cùng chư vị Cư sĩ thiện trí thức,

« Kính thưa liệt vị Tứ chúng Môn đệ, Hiếu đồ Đức Cố Đệ tứ Tăng thống,

« Qua lời tác bạch hôm lễ nhập Bảo tháp, chúng ta đã kính cẩn dâng lên Giác linh Đức cố Tăng thống mối đồng tâm phát nguyện sẽ tiếp tục đi theo con đường Ngài đã vạch, mặc dù còn rất nhiều chông gai chờ đón phía trước. Chúng ta quyết tâm điều hành Phật sự Giáo hội theo phương hướng của Hội đồng Lưỡng Viện đã hoạch định cho đến khi GHPGVNTN được tự do hoạt động thực sự như thời kỳ trước năm 1975, để hoàn thành chí nguyện của Ngài !

« Hôm nay ngày Chung Thất, chúng ta hãy cùng nhau lắng lòng nhớ tưởng cuộc đời phụng hiến của Ngài cho đạo pháp và đất nước để làm tấm gương soi cho mỗi chúng ta. Chúng ta hãy nghe lại lời cuối cùng Ngài căn dặn trong Thông điệp Phật Đản năm nay để chí thành thực hiện. Ngài đã nói :

« Phật giáo là sự đối diện chứ không quay lưng với xã hội, Phật giáo dấn thân vào nơi tham tàn, loạn tưởng của xã hội để tịnh độ hoá nhân gian.

« Người Phật tử bồi đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do thoát ly nô lệ.

« Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ, chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo. Bản hoài xuất thế của chư Phật là xuất hiện nơi trần thế để cứu độ muôn loài.

« Xin chư liệt vị hãy hóa thân vào nền văn minh của trí tuệ Bát Nhã, làm bản tâm cho bậc nhân đức cứu nguy đất nước và loài người. Chẳng ai thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử đang ngày đêm làm rối loạn thể chất thế nhân. Nhưng với người thực hành Bồ tát đạo, thì sinh, lão, bệnh, tử lại là phương tiện tỉnh giác tiến hành cho sự lợi ích và giác ngộ muôn loài ».

« Nghe và thực hiện lời Ngài trong đời sống hằng ngày, bằng cách đó chúng ta tán dương công đức Ngài đã thị hiện mở ra con đường Phật trên đất nước này, bằng cách đó chúng ta đền đáp ơn Ngài và cúng dường ngày Chung Thất.

« Hội đồng Lưỡng Viện nguyện đem hết sức mình trong cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN để giữ gìn bảo vệ Giáo hội truyền thống đã do lịch đại tổ sư, chư Thánh tử đạo và toàn thể Phật tử xây dựng nên. Hội đồng Lưỡng Viện nguyện thực hiện lời Ngài căn dặn để đem lại nhân quyền cho người sống, linh quyền cho người chết, dân chủ cho xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển con người và đất nước, cũng như hợp quần với mọi nhân sĩ, trí thức, đoàn thể, tổ chức nhằm hậu thuẫn những công trình bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ, lẽ phải và tự do, hạnh phúc và giác ngộ cho mọi người.

« Kính xin Đức Tăng thống tác đại chứng minh.

Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 17.8.2008
TM. Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN,
Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)

Sa môn Thích Quảng Độ
*
* *

Tiếp theo, Hoà thượng Thích Chánh Lạc tuyên đọc Giáo chỉ của Đức cố Tăng thống suy cử Đại lão Hoà thượng Thích Hộ Giác lên ngôi vị Phó Tăng thống. Giáo chỉ mang số 01/VTT/GC/TT ký ngày 20.2.2008. Đọc xong, ban nghi lễ cất lời xưng tán và thỉnh Đức phó Tăng thống ngồi vào chiếc ghế trước điện Phật trong sự vỗ tay của đồng bào.

Trong chức vụ mới, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác tuyên đọc Chúc thư của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang trao quyền lãnh đạo Giáo hội cho Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ.

Nguyên văn bức Chúc thư gồm 936 chữ như sau:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG


CHÚC THƯ

GỞI CHƯ TÔN HÒA THƯỢNG, CHƯ THƯỢNG TỌA TRONG HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính thưa Chư Liệt vị,

Do mấy chục năm dài sống trong cảnh tù đày rồi quản chế, tuy hiu quạnh, đơn chiếc, nhưng tôi vẫn tự tại vô ngại, lấy kinh sách và bộ Đại Tạng làm bạn và thầy. Tuy nhiên do thiếu thuốc men và chăm sóc, thời gian qua tôi mắc nhiều chứng bệnh. Đây cũng là lẽ vô thường, mà người tu hành chẳng bận tâm. Như chư Liệt vị đã biết tin, gần đây tôi phải nhập viện trong cơn thập tử nhất sinh. Nhưng nhờ lương y chăm sóc và chư Phật hộ trì nên thân tứ đại vẫn còn. Nay đã xuất viện về tịnh dưỡng ở Tu viện Nguyên Thiều. Sức khỏe yếu hơn trước rất nhiều, thỉnh thoảng hay quên các chuyện vặt, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, minh mẫn, tuy lòng riêng khôn nguôi các Phật sự của Giáo hội chưa hoàn tất như ý nguyện.

Vào tuổi này như ngọn đèn trước gió, ngày mai ra sao khó mà biết trước. Phòng chuyện bất ngờ xẩy tới, nhân danh Đệ Tứ Tăng thống, tôi viết mấy lời tâm huyết, thâm tình gửi đến chư Liệt vị Hòa thượng, Thượng tọa giáo phẩm trong Hội đồng Lưỡng viện. Mai đây dù phải xả báo thân, nhưng chí nguyện tôi vẫn cạnh kề chư Liệt vị trong công cuộc phục vụ và phát huy mạng mạch Chánh Pháp nơi trú xứ quê hương này. Nay tôi trân trọng ủy thác chư Liệt vị giáo phẩm các điều sau đây, mong mỏi chư Liệt vị hoan hỉ gia tâm tiến hành cho đến khi thành tựu sau khi tôi về cõi Phật :

1. Bằng mọi cung cách và phương tiện, phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội dân lập và truyền thống là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và hoàn thành sứ mệnh hiệp nhất với tất cả các hệ phái trên mọi miền đất nước như chư Lịch đại Tổ sư đã thực hiện từ thời Đinh đến nay. Việc thống nhất nội bộ Phật giáo phải do chư Tôn đức Tăng Ni của Giáo hội giải quyết, không ai khác làm thay được.

2. Ủy thác Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm nhiệm chức Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống để điều hành Phật sự của Giáo hội cũng như kiện toàn, chấn chỉnh, bổ sung hay hoán chuyển nhân sự sao cho Giáo hội được nhất quán, tùy duyên mà bất biến để đối ứng với mọi tình thế.

3. Trong hoàn cảnh đầy chướng duyên và pháp nạn như hiện nay, Hội đồng Lưỡng viện tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các Phật sự của Giáo hội trong bất cứ hoàn cảnh nào ; lấy bản Hiến chương do Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ V tu chính ngày 12.2.1973 làm kim chỉ nam, chủ yếu giữ vững mục đích và lý tưởng đề ra qua Hiến chương. Các việc khác có thể tùy duyên, linh động cho đến khi hoàn cảnh cho phép tu chính thông qua Đại hội.

4. Văn phòng II Viện Hóa Đạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại các Châu đã hình thành và hoạt động kỷ cương, nền nếp từ 12 năm qua. Xin chư Liệt vị đặc biệt lưu tâm để trong ngoài hòa hiệp gây trợ duyên cho đạo Phật Việt Nam góp mặt cùng thế giới trong công cuộc tịnh hóa nhân gian, xây dựng hòa bình trước bao khuynh hướng bạo động. Riêng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế hoạt động hiệu quả từ bao năm qua, nay cố duy trì và phát huy hơn nữa trong công cuộc truyền thông, vận động quốc tế và giới thiệu Đạo Phật Việt Nam.

Nguyện cầu Tam Bảo độ trì cho toàn thể Chư Tôn Hòa thượng, Chư Thượng tọa trong Hội đồng Lưỡng viện phước trí nhị nghiêm, thương yêu, hiệp nhất trước mối mâu thuẫn và ly gián của thế nhân để hiển lộ Pháp tánh giác ngộ và cứu khổ. Tôi cũng nhắn nhủ đến toàn thể Chư Tăng, Ni, cùng quý vị thiện tri thức, nam nữ Phật tử trong và ngoài nước hãy cùng nhau nâng đỡ, tương trợ, giữ tâm bồ đề kiên cố làm cho giáo hội trang nghiêm và hoàn thiện một Tứ chúng biết phục vụ dân tộc và nhân loại. Ở vào thời đại nhiễu nhương, nhân tâm ly tán, đạo đức suy đồi, bè phái phân chia, tranh chấp, vị kỷ lan tràn... thì quý vị phải biết sớm khuya lo sợ, tinh tấn tu hành, để tâm lo việc cho dân chúng. Đặc biệt giới Cư sĩ, noi gương tiền nhân đảm trách các vấn đề xã hội trong tinh thần từ bi và đức tính vô úy của Phật giáo.>

Được như vậy, vô thường không phân rẽ chúng ta trên bước đường hoằng hóa chúng sanh nơi cõi này và nghìn muôn cõi khác.

Nam Mô Thường Tinh tấn Bồ Tát Ma Ha Tát

P.l. 2548 – Mồng 8 tháng 12 Giáp Thân,
Tu viện Nguyên Thiều ngày 17.1.2005
Nay Chúc thư
(ấn ký)
Thích Huyền Quang

Thượng toạ Thích Giác Đẳng lên máy vi âm giới thiệu tiểu sử Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, và Hoà thượng Thích Thiện Tâm trình bày tiểu sử Đại lão Hoà thượng Thích Hộ Giác. Chúng tôi xin đăng tải cuối Thông cáo báo chí này hai bản tiểu sử ấy.

Trước khi trao lời cảm niệm cho Linh mục Vũ Thanh và Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ Al Green, ban tổ chức đã mời Cư sĩ Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo kiêm Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, cảnh báo sự lưu hành mấy ngày qua trên mạng Internet một Chúc thư giả. Ông Ái cho biết sau tang lễ Đức cố Đệ tứ Tăng thống, người ta đã cho loan truyền một Chúc Thư giả đề ngày 10.5.2008, nói rằng do Đại đức Thích Đồng Thọ, thị giả của Đức Tăng thống công bố với sự xác nhận của Thượng toạ Thích Minh Tuấn. Nhưng liền tức khắc Đại đức Đồng Thọ cũng như Thượng toạ Minh Tuấn liền cải chính sự giả mạo và tiếm danh hai vị.

Ba ngày vừa qua, một văn bản Chúc Thư giả thứ hai lại tung ra trên mạng Internet. Lần này, bọn người làm giả như có trong tay văn bản chính, nhưng cố ý viết thêm thành 6 điều thay vì chỉ có 4 điều trong Chúc Thư thật. Sự thống nhất trong hai văn bản Chúc Thư giả tung ra là công cử « Thượng toạ Thích Tuệ Sỹ làm Viện trưởng Viện Hoá Đạo ». Ông Ái kêu gọi đồng bào Phật tử, đặc biệt là các cơ quan truyền thông, báo chí có mặt đông đảo tại chánh điện chùa Pháp Luân hãy cảnh giác âm mưu ly gián và gieo rắc hoang mang qua những Chúc Thư giả và những bài viết nặc danh tung lên mạng Internet thời gian qua.

Linh mục Vũ Thanh thuộc Hội đồng Mục vụ Giáo hội Công giáo thành phố Houston ngỏ lời chia buồn trước sự ra đi của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang. Đồng thời kính lời vấn an Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ trong chức vụ lãnh đạo mới và chào mừng Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác.

Những lời phát biểu của Dân biểu Al Green, Quốc hội Hoa Kỳ, được đồng bào tán thưởng qua những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Ông Al Green cảnh báo :

« Nhà cầm quyền Việt Nam cần hiểu rằng nhân dân yêu chuộng tự do trong thế giới đứng bên cạnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Tôi đến đây hôm nay tham dự lễ Chung Thất Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang, Người đã sống suốt đời như tấm gương minh chứng khổ đau có thể thắng vượt. (…) Là đại biểu Quốc hội, tôi xin hứa với quý vị rằng tôi đấu tranh cho sự tự do của GHPGVNTN đến hơi thở cuối cùng. Nếu trong cuộc đời tôi chí nguyện đem lại hoà bình và tự do cho GHPGVNTN không thành, tôi sẽ đội mồ sống dậy đeo đuổi chính quyền Việt Nam bắt họ phải để cho dân Việt tự do ».

Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Hộ Giác

Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, thế danh Ngô Bửu Đạt, sanh ngày 14-1-1928. Mẹ mất sớm, thân phụ Ngài xuất gia nên Ngài vào chùa lúc 5 tuổi. Thân phụ Ngài, Hòa Thượng Thiện Luật là một trong những danh tăng đưa Phật Giáo Nguyên Thủy vào Việt Nam và sau nầy trở thành Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Hòa Thượng Thích Hộ Giác trong thời niên thiếu là một học tăng xuất sắc của Trường Cao Đẳng Phạn Ngữ Pnom Penh. Sau khi tốt nghiệp ưu hạng tại trường nầy Ngài sang Miến Điện và Tích Lan nghiên cứu Phật học. Với sự lỗi lạc hai văn hệ Phạn ngữ và Pali, Ngài được tuyển thỉnh làm một trong 2500 thành viên của lần Kết Tập Tam Tạng Kinh Điển thứ VI tổ chức tại Ngưỡng Quang, Miến Điện năm 1957.

Sau nhiều năm du học ở xứ người, Hòa thượng trở về Việt Nam nhận chức vụ Tổng Thư Ký đầu tiên của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam và thành lập Phật Học Viện Pháp Quang nơi đào tăng hơn phân nửa số lượng tăng tài của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam.

Pháp nạn 1963 là biến cố chấn động toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam. Ngài tham gia Ủy Ban Liên Phái và bị bắt cầm tù. Khi bản hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời Ngài trở thành một trong những thành viên sáng lập cơ cấu Giáo hội và giữ nhiều trách vụ quan trọng như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Xã hội, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp.

Năm 1981 trước sự thúc ép của Ban Tôn Giáo, nhà cầm quyền buộc Ngài tham gia Giáo Hội do Hà Nội thành lập nên Ngài quyết định rời Việt Nam qua ngã đường bộ Kampuchia. Năm 1982 Ngài định cư tại Hoa Kỳ.

Một năm sau đó, cùng với tám vị nguyên thành viên của Hội Đồng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN thành lập Hội Đồng Lãnh Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại mà bản thân Ngài được hội đồng thỉnh cử vai trò Tổng Thư Ký.

Năm 1992, khâm tuân lời kêu gọi Đức Đệ Tam Tăng Thống, Ngài cùng đông đảo chư tôn đức và quí cư sĩ thành lập Uỷ ban Vận động và hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. Không lâu sau đó, cơ cấu nầy được Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang ủy nhiệm vai trò Văn Phòng II Viện Hóa Đạo mà Ngài là chủ tịch Hội Đồng Điều Hành cho tới nay.

Năm 2008, với sự thỉnh cầu của Hội Đồng Lưỡng Viện, Đức Đệ Tứ Tăng Thống ban hành Giáo chỉ suy cử Đại lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác lên tôn vị Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thế danh Đặng Phúc Tuệ, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1928, nhằm 16 tháng 10 Mậu Thìn, tại xã Thanh Châu, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, trong gia đình làm nghề nông, theo Nho học và đời đời thờ Phật. Thân sinh ngài là cụ Đặng Phúc Thiều, tự Minh Viễn. Thân mẫu ngài là cụ Đào Thị Huân, Pháp danh Diệu Hương, hiệu Đàm Tĩnh. Ngài có ba anh em trai, người anh cả là Đặng Phúc Trinh, anh thứ là Đặng Phúc Quang và ngài là con út.

Năm 1934, ngài theo học trường làng, đến năm 1942 xuất gia theo Hoà thượng Thích Đức Hải, Trụ trì chùa Linh Quang, xã Thanh Sam, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông, được cho pháp danh Quảng Độ, tu học tại Phật học viện Quán Sứ ở Hà Nội.

Năm 1944 Ngài thụ giới Sa di, năm 1947, thụ giới Cụ túc. Năm 1951, Tổng Hội Phật Giáo Bắc Việt do cố Hoà Thượng Thích Tố Liên lãnh đạo cử Ngài đi Tích Lan theo học tại Phật học viện Kelaniya Pirivena.

Năm 1953 Ngài qua Ấn Độ, theo học tại Đại học Vishva Bharati University, Santiniketan ở Tây Bengal. Trong thời gian du học Ấn Độ, ngài có dịp đi chiêm bái các Phật tích và di tích Phật giáo tại Nepal, Bhutan, Tây tạng…

Năm 1958, Ngài trở về Sài Gòn, chuyên dạy học và dịch Kinh sách. Biến cố 1963, Ngài tham gia Uỷ Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo trong ban Thông tin Báo chí. Trong chiến dịch Nước lũ đêm 20 tháng 8 năm 1963 Ngài bị bắt cùng chư Tăng Ni, Phật tử trên toàn quốc, đông nhất tại hai thành phố Saigon và Huế.

Sau cuộc đảo chính của giới quân nhân ngày 01.11.1963 ngài được tha về cùng toàn bộ chư Tăng Ni, Phật tử. Trong thời gian bị giam cầm, vì không chịu khai báo nên bị tra tấn dữ dội. Ngài và cư sĩ Cao Hữu Đính là hai người bị tra tấn dã man nhất, di chuyển phải bò vì không thể đứng trên hai chân. Vì vậy mà sau khi được phóng thích, ngài nghỉ trị bệnh ba năm mà vẫn không dứt. Năm 1966 phải sang Nhật giải phẫu phổi. Một năm sau, 1967, ngài mới bình phục về nước. Trên đường về ngài ghé các nước Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Miến Điện để khảo sát tình hình Phật giáo Á châu. Về nước ngài tiếp tục dịch Kinh sách và giảng dạy tại các trường :

- Phật học viện Huệ Nghiêm.

- Phật học viện Từ Nghiêm.

- Phật học viện Dược Sư.

- Viện đại học Vạn Hạnh (Saigon).

- Viện đại học Hoà Hảo (An Giang).

- Giáo Hoàng Học viện Piô X (Dalat).

Năm 1972, ngài tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong chức vụ Phát ngôn nhân kiêm Thanh tra của Viện Hoá Đạo.

Năm 1974, Đại hội kỳ 6 bầu Ngài làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Kể từ sau ngày 30.4.1975, khi bộ đội Cộng sản miền Bắc chiếm toàn cõi miền Nam, thì cùng với toàn dân, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị phân biệt đối xử theo chính sách trả thù nhân dân miền Nam của kẻ chiến thắng. Pháp nạn thứ ba chụp lên toàn bộ hàng giáo phẩm GHPGVNTN. Mặt khác, nhà cầm quyền Cộng sản chiếm dụng tất cả cơ sở của Giáo hội từ Viện Đại học Vạn Hạnh, các trường Trung và tiểu học thuộc hệ thống Trường Bồ Đề, cho đến chùa viện, cơ sở văn hóa và xã hội từ thiện. Cuộc phản kháng chính sách đàn áp Phật giáo khởi đầu bằng những kiến nghị. Nhưng ngày càng trở nên trầm trọng và quyết liệt khiến xẩy ra cuộc tự thiêu tập thể của 12 Tăng Ni hôm 2.11.1075 tại Thiền viện Dược Sư, ấp Tân Long, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.

Với tư cách Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Ngài dẫn đầu phái đoàn về Cần Thơ lập hồ sơ. Nhưng toàn bộ hồ sơ gồm các chứng liệu, băng từ ghi 7 lời thỉnh nguyện của Đại đức Thích Huệ Hiền trước khi tự thiêu, hình chụp và phim quay tại hiện trường đều bị công an tịch thu. Ngày 3.3.1977, nhà nước tiến thêm một bước chiếm dụng Cô Nhi viện Quách Thị Trang ở Saigon, Ngài cùng với Hòa thượng Thích Huyền Quang và chư tôn đức Tăng, Ni, Phật tử phát động cao trào đòi hỏi Nhà nước cộng sản hoàn trả tài sản của Giáo hội. Cuộc đấu tranh gay go và bị Nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp.

Ngày 6.4.1977, Ngài bị bắt và bị biệt giam tại Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh ở Sàigòn do Bộ Nội vụ quản lý, cùng với cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Huyền Quang, v.v... Do áp lực quốc tế và sự phản đối của đồng bào Phật tử trong và ngoài nước, nên sau 18 tháng tù giam, ngày 10.12.1978 Nhà cầm quyền cộng sản đưa ngài ra Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử, kêu án 2 năm tù treo và quản chế tại chỗ.

Năm 1978, hai Giải Nobel Hòa bình người Ái Nhĩ Lan là bà Mairead Corrigan và bà Betty Williams đề cử Ngài và Hòa thượng Thích Huyền Quang làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình.

Cùng với Hòa thượng Thích Huyền Quang, Ngài phản đối việc Cộng sản chính trị hóa và công cụ hóa Phật giáo, nên Ngài và Hòa thượng Thích Huyền Quang bị Nhà cầm quyền bắt ngày 25.2.1982, trục xuất khỏi thành phố Saigon, dùng xe công quyền chở về lưu đày nơi nguyên quán miền Bắc tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Quyết định số 71/QĐ-UB của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lưu đày Ngài khỏi Saigon không thông qua một tòa án nào cả, chỉ căn cứ vào Quyết định số 123/CP ngày 8.7.1968 của Hội đồng Chính phủ "về việc cấm những phần tử có thể gây nguy hại cho trật tự an ninh cư trú ở những khu vực quan trọng". Một tội khác mà chấp pháp cộng sản không ngừng lên án trong những ngày thẩm cung là : “Làm tôn giáo tức là làm chính trị”.

Kể từ cuộc lưu đày năm 1982 này, Ngài và Hòa thượng Thích Huyền Quang là hai nhà lãnh đạo duy nhất của GHPGVNTN, tay không tấc sắt, sau lưng không có binh đoàn nào. Nhưng bằng ý chí bất khuất với con tim vô úy, hai Ngài đã tái lập vị trí và danh nghĩa Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong lòng dân tộc cũng như trên trường quốc tế, không để cho Giáo hội tiêu trầm như người Cộng sản mong ước, và trước sự thờ ơ hay sợ hãi của đám đông.

Năm 1992, Ngài gửi thư chất vấn nhà cầm quyền Cộng sản lý do quản chế ngài không thông qua xét xử hay án lệnh toà án. Ngài hẹn trong vòng một tháng nếu không được nhà cầm quyền hồi âm, ngài sẽ tự giải chế. Không được phản hồi, Ngài tự động lấy tàu trở về Saigon nơi trụ xứ Thanh Minh Thiền viện.

Năm 1994, theo lời giao phó của Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Ngài đứng ra tổ chức lại cơ cấu hoạt động của GHPGVNTN, mà việc đầu tiên là Ngài ra lệnh cho tất cả cơ sở của Giáo hội dựng bảng hiệu GHPGVNTN trên các chùa viện của mình. Bắt đầu Ngài dựng bảng Văn phòng Tổng Thư ký GHPGVNTN tại Thanh Minh Thiền viện. Nhà cầm quyền Cộng sản phản ứng và chống đối mạnh mẽ chiến dịch dựng bảng GHPGVNTN ấy.

Cuối năm 1994, nạn bão lụt trầm trọng xẩy ra tại đồng bằng sông Cửu Long gây chết chóc và nửa triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ngài tổ chức phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ với những đoàn xe mang thuốc men, mền chiếu, thực phẩm. Nhưng đến chuyến cứu trợ thứ ba thì bị nhà cầm quyền khủng bố. Ngài bị bắt ngày 4.1.1995 cùng với chư Tăng trong đoàn cứu trợ là các Thượng toạ Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực và hai Cư sĩ Đồng Ngọc, Nhật Thường. Toà án Nhân dân Saigon đem ra xử hôm 15.8.1995, Ngài lảnh án 5 năm tù giam và 5 năm quản chế vì tội đi cứu trợ đồng bào nạn nhân lũ lụt và đưa về giam ở trại tù Ba Sao, tỉnh Nam Hà, miền Bắc.

Thời gian bị lưu đày 10 năm ở tỉnh Thái Bình, Ngài khởi công dịch bộ Phật Quang Đại từ điển gần tám nghìn trang. Công việc chưa hoàn tất thì bị bắt. Ngài mang theo ra nhà tù Ba Sao làm tiếp. Nhưng quản giáo nhà tù ngăn cấm. Ngài phải tranh luận quyết liệt mới được ban quản trại chấp thuận. Nhưng ngày ân xá vào cuối năm 1998, ban giám trại không cho ngài mang công trình dịch thuật theo về, bảo rằng Ngài phải làm đơn xin để họ xét. Ngài bảo rằng công trình của tôi dịch thuật, mà nay phải đi xin các ông ư ? Ngài bỏ lại công trình này ở Ba Sao, và phải mất 2 năm sau mới hoàn tất lại việc đã làm trong tù. Bộ Phật Quang Đại Từ điển xuất bản 6 tập (7374 trang, khổ 18x25) năm 2000.

Vì tình hình đàn áp trong nước tiếp diễn không ngưng, nên Giáo hội không thể tổ chức Đại hội VIII GHPGVNTN theo Di chúc của Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu. Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện ban hành Giáo chỉ giao phó cho Văn Phòng II Viện Hoá Đạo – GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức Đại hội VIII tại Hoa Kỳ ngày 14 – 16.5.1999 nhằm chấn chỉnh Phật sự theo tình hình mới. Tại Đại hội này Ngài được thỉnh cử vào ngôi vị Viện trưởng Viện Hoà Đạo.

Ngày 21.2.2001, Ngài ban bố Lời Kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam với một chương trình 8 điểm thực hiện tiến trình dân chủ hoá Việt Nam. Đồng bào các giới trong và ngoài nước tỏ lời tán thán ủng hộ. Hàng trăm nhân vật quốc tế ký tên hậu thuẫn khi Lời Kêu gọi được công bố tại LHQ tháng 4.2001, và lần đầu tiên trên ba trăm nghìn (308.027) người Việt hải ngoại ký tên hậu thuẫn. Vì lời kêu gọi này mà Ngài bị nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh quản thúc 2 năm.

Tết Ất Dậu, 2005, Ngài gửi Thư Chúc Xuân đến quí vị Nhân sĩ, Trí thức, Văn Nghệ sĩ, và Đồng bào trong và ngoài nước kêu gọi kết liên thực hiện tiến trình dân chủ hoá Việt Nam. Bức thư gây phấn chấn đồng bào trong và ngoài nước. Sự hưởng ứng Bắc Nam trong giới hoạt động nhân quyền và dân chủ lần đầu tiên được thiết lập, mở ra giai kỳ mới cho sự kết đoàn có tính dân tộc và toàn quốc.

Ngày 4.11.2006, Sáng hội Rafto, nước Na Uy, trao Ngài Giải Nhân quyền Quốc tế. Sáng hội tuyên dương: “Hòa thượng Thích Quảng Độ, một sĩ phu lãnh đạo và là thế lực kết hợp [cao trào dân chủ và nhân quyền] nơi quê hương ngài. Là một Tăng sĩ Phật giáo, học giả và nhà văn, Hòa thượng đem suốt đời mình phục vụ tận tụy cho công lý thăng tiến, cũng như tiếp nối truyền thống Phật giáo bất bạo động, khoan dung và từ bi”.

Nhiều giải quốc tế khác cũng đã vinh danh Ngài như Giải Nhân quyền Hellman-Hamet năm 2001, Giải “Người với Người” năm 2003 của Tiệp mà Tổng thống Vaclav Havel là thành viên trong ban chấm giải, và Giải “Dũng cảm Dân chủ” do 600 nhà dân chủ thuộc 125 quốc gia họp tại thủ đô Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ, vinh danh ngày 5.4.2006.

Ngày 27.12.2007, nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Ngài ra Tuyên cáo về việc Trung quốc xâm lấn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, kêu gọi Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trao quyền lãnh đạo đất nước cho toàn dân như kế sách dân tộc mỗi khi có ngoại xâm trong truyền thống văn minh nước Việt. Vì lẽ “ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, mà cần tới sự tham gia toàn diện của 85 triệu dân và khối lượng Người Việt hải ngoại”. Để đạt tới sự tham gia toàn quốc, Nhà cầm quyền Hà Nội phải “loại bỏ ngay điều 4 trên Hiến pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn giáo và chính trị”, hầu tiến tới việc “cấp tốc triệu tập Hội nghị Diên Hồng cho thế kỷ XXI”.

Không riêng vấn đề Việt Nam, mà các biến động xẩy ra cho các nước Châu Á cũng là mối quan tâm của Ngài. Tháng 9.2007 Ngài viết thư cho ông Tổng Thư ký LHQ yêu cầu can thiệp cho phong trào dân chủ Miến Điện ngay vào lúc chính quyền quân phiệt đàn áp đổ máu chư Tăng và nhân dân Miến. Tháng 3.2008 Ngài viết thư cho Đức Dalai Lama chia sẻ và hậu thuẫn chư Tăng và nhân dân Tây Tạng đang bị Trung quốc nổ súng giết tại thủ đô Lasha và các tỉnh, đồng thời kêu gọi Trung quốc mở cuộc nghị hoà để giải quyết vấn đề Tây Tạng tồn đọng quá lâu.

Từ chốn lưu đày, hay trở về nơi trụ xứ quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện ở Saigon, trong cương vị Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Ngài là người phụ tá đắc lực cho Đức cố Đệ tứ Tăng thống đưa con thuyền Giáo hội qua bao cơn phong ba, bão táp.

Có những lúc Giáo hội nghiêng ngửa vì nội ma ngoại chướng, Ngài không muốn người đời hiểu lầm Ngài tham quyền cố vị, nên Ngài nhường việc Phật sự Giáo hội cho lớp Tăng nhiều tham vọng. Nhưng đơn xin từ chức của Ngài không được Đức Tăng thống chấp thuận. Hồi đáp qua bức thư tay, Đức Tăng thống viết tại Tu viện Nguyên Thiều hôm 11.11.2005 cho thấy sự gắn bó, tin tưởng, tương thân tương ái và chí tình giữa hai ngài như hình với bóng. Có đoạn Đức Tăng thống viết rằng :

“Tôi nghĩ lại trong thời gian quá khứ cũng như hiện tại, tôi và ngài đều bị tù đày cho Giáo hội, mọi sự khó khăn và phiền não chúng ta đã vượt qua. Nay vì những lời xuyên tạc của một số vị lãnh đạo Giáo hội chúng ta và bên ngoài đã làm xáo trộn hàng ngũ của Giáo hội. (...) Chúng ta trong quá khứ cũng thường bị trong ngoài nói thế này thế khác. Nhưng những việc ấy rồi cũng qua đi, nếu chúng ta không sáng suốt để bên ngoài hay bên trong thao túng gây khó khăn ngộ nhận thì chúng ta và cả Giáo hội chúng ta làm sao tồn tại đến ngày hôm nay”.

Năm 1988, cô đơn nơi đất trích Thái Bình, Ngài làm bài thơ “Gửi Thượng tọa Huyền Quang” tặng Đức cố Tăng thống :
    Tôi với Người thực là may mắn
    được cùng nhau chia xẻ “ngọt bùi”
    đất Quang Trung
    người nằm ngắm bầu trời
    quê Quế Đường
    tôi ngồi nhìn vũ trụ
    cứ đêm đêm tôi thả hồn theo cánh gió
    về thăm Người
    Người có biết hay chăng !
    Qui Nhân, Thái Bình chung một vầng trăng
    như tâm ta không hai mà một
    vòi vọi núi dao hừng hừng lửa đốt
    ta nhảy vào
    tất cả đau thương và sầu khổ
    bừng tâm ta
    hết thảy đều không !
    Đêm nay
    như vừng trăng trên vạn dòng sông
    Người là tất cả
    tôi cũng là tất cả
    tất cả chảy vào biển Quả
    quả yên vui giải thoát giữa dòng đời.

Điều cảm động, là những lúc nhớ nhau, mãi cho đến những ngày gần đây, Đức Tăng thống thường gọi thị giả bảo đọc lại bài thơ này cho Đức Tăng thống nghe. Và như thế, đã không biết bao nhiêu lần.

Trên phương diện trước tác, thì các Kinh sách Ngài đã phiên dịch hoặc viết ra từ năm 1958 cho đến năm 1975 của thế kỷ trước gồm có:

- Kinh Mục Liên, 3 quyển.

- Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, 7 quyển.

- Truyện Cổ Phật Giáo

- Thoát Vòng Tục Luỵ (lịch sử tiểu thuyết), nguyên tác của Thích Tinh Vân.

- Nguyên Thuỷ Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken.

- Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken.

- Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken.

- Chiến Tranh và bất Bạo Động, nguyên tác của S.Radhakrishnan.

- Dưới Mái Chùa Hoang (tập truyện phóng tác).

Sau năm 1975 gồm có:

- Nhận Định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Dân tộc và Phật giáo. Sách này Ngài gửi cho Ông Đỗ Mười, Tổng bí thư đảng CS Việt nam, ngày 19.8.1994, được Nhà xuất bản Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành tại Paris năm 1995, tái bản lần 3.

- Thơ Tù, gồm các bài thơ làm trong thời gian bị tù giam và quản chế lưu đày. Nhà xất bản Quê Mẹ ấn hành năm 2007, tái bản lần 3.

- Bộ Phật Quang Đại Từ Điển gồm 6 tập, 7374 trang, khổ 18x25 dịch trong thời gian ở tù giam và quản chế lưu đày. Ấn hành năm 2000.

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế

Từ một giọng hát trẻ thơ


Mai Ly
Vẫn một sự dối trá của bất cứ một nước cộng sản nào.

Mới tối thứ Sáu 8/8/2008, cả thế giới trầm trồ thán phục em bé áo đỏ Lin Miaoke, 9 tuổi, hát bài "Ca Ngợi Tổ Quốc" tại buổi Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội Olympics Bắc Kinh. Tiết mục này là "cây đinh" của toàn bộ 3 tiếng đồng hồ suốt buổi lễ, làm chấn động 91 ngàn người tham dự tại chỗ và hàng tỉ người trên thế giới theo dõi qua màn ảnh truyền hình.

Rồi chỉ vài ngày sau, thứ Ba 12/8, trên mọi phương tiện truyền thông, cả thế giới lại sững sờ: Em bé Lin Miaoke chỉ nhép miệng, và giọng hát tuyệt vời đó là của em Yang Peiyi 7 tuổi đã không được trình diễn chỉ vì chiếc răng cửa khập khễnh.

Sự kiện đã phơi bầy cái dối trá, vô tâm và tàn nhẫn của người cộng sản.

Điểm đáng chú ý là chính ông Chen Qigang, Giám Đốc đặc trách Âm Nhạc cho buổi Lễ Khai Mạc đã tiết lộ với đài phát thanh nhà nước Beijing Radio vào ngày Thứ Ba 12/8 chứ không phải nhà báo tây phương nào "khui ra". Và ông đã tiết lộ một cách rất là... ngây thơ "vô số tội", nếu không muốn nói là hãnh diện, vì ông cho rằng ông đã sử dụng được một lúc cả hai em bé, đã trình làng được cả hai cái nhất để làm "rạng rỡ" nước Trung Quốc vĩ đại, một đằng là đẹp nhất và một đằng là hát hay nhất. Và như vậy là vì "lợi ích quốc gia" !!!. Ông cho biết rằng, quyết định đưa em Lin Miaoke ra nhép miệng là lệnh vào giờ chót của một đảng viên cao cấp (được dấu tên). Sun Weide, phát ngôn viên của Ủy Ban Tổ Chức Thế Vận Hội Bắc Kinh đã xác nhận quyết định trên.

Trên thực tế, ông cán bộ cộng sản nào đó, người đã nhẫn tâm ra cái lệnh quái gở trên, đã trắng trợn tước đoạt vinh dự của em Yang Peiyi với giọng ca tuyệt vời.

Hẳn ông đã không biết rằng, nếu ông đã sử dụng em Yang Peiyi với giọng hát thật và khuôn mặt thật, với cái răng khập khễnh vì còn đang trong tuổi mọc răng, thì thế giới còn bái phục Trung Quốc biết bao nhiêu. Thật vậy, chỉ mới 7 tuổi, với khuôn mặt mũm mĩm, ngây thơ, em Yang Peiyi sẽ chinh phục được toàn thế giới với tài năng bẩm sinh của em, bởi vì trên thế giới này, ở tuổi em, hát như em, vững chãi, rõ ràng và truyền cảm thì không dễ gì kiếm được.

Làm sao ông hiểu được rằng thế giới trân trọng sự thật? Bởi vì người cộng sản là dối trá.

Làm sao ông hiểu được cái đau đớn của em Yang Peiyi bây giờ và sau này khi em lớn lên và ý thức được sự dối trá này? Bởi vì người cộng sản là tước đoạt, là vô tâm.

Cộng sản đàn anh (tức CS Trung Quốc) hay đàn em (tức CS Việt Nam) đều giống nhau trên phương diện dối trá và tước đoạt công sức của người dân. Trong trường hợp này là công sức tập luyện và tài năng bẩm sinh của em Yang Peiyi.

Ở Việt Nam có biết bao nhiêu người bỏ công sức ra để làm ăn cần cù từ đời này sang đời kia, để rồi nhà nước CSVN tước đoạt từng tấc đất, từng miếng cơm manh áo, từ danh dự nhân phẩm con người, đến tiếng nói và cả tôn giáo.

Ở Việt Nam có biết bao nhiêu những bạn trẻ giỏi dang nhưng thấp cổ bé miệng, khi học ra trường rồi thì chỉ đi làm với đồng lương chết đói hoặc bỏ việc đi làm lao động qua ngày để nhìn những bạn cùng lứa ăn trên ngồi chốc nhờ cái gốc cán bộ của gia đình.

Một điểm khác đáng chú ý trong sự kiện này là thái độ của em Yang Peiyi được các nhà báo Tây Phương mô tả như sau:

Khi được hỏi em có buồn không khi không được ra trình diễn, em đã trả lời : "Em rất vui vì giọng hát của em được dùng và vậy là sướng rồi! ".

Em Yang Peiyi là một em bé 7 tuổi, chưa hiểu được cái mất mát của em. Cả cha mẹ em cũng không cảm thấy cái mất mát, cái bất công hay việc bị tước đoạt trắng trợn, mà còn lấy làm vinh dự vì dù sao, giọng hát con mình cũng được cất lên bay bổng trong một buổi lễ trịnh trọng chưa từng có ở Trung Quốc.

Làm sao họ hiểu được quyền lợi của họ khi mọi điều tạm gọi là tốt lành đều được họ xem như là "ân huệ" của nhà nước?

Làm sao họ hiểu được rằng, lẽ ra, họ còn phải được hưởng nhiều hơn cái mà họ đang có? Lẽ ra, con họ, em bé Yang Peiyi, phải được vinh dự đứng vào chỗ của em Lin Miaoke vì giọng hát đó là từ chính em, vì chính em đã dầy công tập luyện, vì chính em có biệt tài hát hay nhất.

Cái răng khập khễnh không phải là cái tội để gạt em ra. Cái răng đó chỉ đánh dấu giai đoạn phát triển thể chất rất tự nhiên của đứa bé 7 tuổi dễ thương, hồn nhiên, không có gì là xấu xa cả. Nếu Ban Tổ Chức đã chọn giọng em thì phải cho em cái vinh dự được thế giới thưởng thức và chiêm ngưỡng. Đó là sự công bằng tối thiểu.

Phản ứng của em Yang Peiyi và cha mẹ em cũng tương tự như nhiều người dân ở Việt Nam khi cho rằng những cái mình có, tạm gọi là tốt lành, cũng là "ân huệ" của nhà nước CSVN.

Nhiều bạn trẻ trong nước đã tâm sự rằng: Dù sao mình cũng được đi học, còn hơn những người không được đi học. Dù sao mình cũng có mái nhà để ở, còn hơn những người sống lê lết ngoài đường phố. Dù sao mình cũng có việc làm dù là lương chết đói. Dù sao mình cũng còn được sinh hoạt trong chùa, trong nhà thờ, còn được tụm năm tụm ba, đi làm những công tác xã hội giúp những người bất hạnh. Dù sao thì chùa lớn, nhà thờ rộng ngày càng mọc lên càng nhiều ở các thành phố. Và như vậy là cũng may mắn rồi, vì đó là "ân huệ" của đảng và nhà nước.

Cái còng đeo vào cổ họ chỉ được nới rộng ra để cái đảng và nhà nước đó sống còn, chứ đó vẫn là cái còng mà lẽ ra họ không phải đeo.

Nhiều bạn trẻ trên đã không hiểu rằng, lẽ ra, người dân Việt Nam còn phải được nhiều hơn cái họ đang có. Họ đã không nhìn ra được cái mà họ bị tước đoạt. Nói chung, họ đã bị tước đoạt quyền sống cho ra người, như ở các nước mà chính phủ lo cho dân. Đó còn là quyền thay đổi chính phủ nào không biết lo cho dân.

Em bé Yang Peiyi và cha mẹ em chưa ý thức được em đã bị tước đoạt quyền lợi nên hài lòng với cái "ân huệ" là giọng hát em được sử dụng.

Người dân Việt Nam không thể hài lòng với những vá víu hiện tại được. Người dân Việt Nam phải được hưởng cuộc sống ấm no, được đi học khi còn trẻ, được chăm sóc khi bệnh hoạn đau yếu, già nua, và khi đi làm thì được đối xử công bằng, được sống trong môi trường trong sạch, không dối trá lừa lọc tham nhũng bất công, không bụi bậm dơ bẩn, thiếu vệ sinh, v.v... Người dân phải được tự do lên tiếng khi thấy bất công, tự do theo một tôn giáo mà không bị lừa lọc dối trá ngay trong tôn giáo mình do sự can thiệp của nhà nước. Và xa hơn nữa, người dân phải có quyền sống trên một lãnh thổ nguyên vẹn, không bị nay mất chỗ đất này, mai mất chỗ biển kia.

CS Việt Nam cũng như CS Trung Quốc đều viện cớ "Lý do là vì quyền lợi quốc gia" . Vâng, chính "vì quyền lợi quốc gia" nên nhà cầm quyền tước đoạt bao nhiêu quyền lợi của người dân, và tha hồ tung hoành, nay ra những lệnh này, mai ra những nghị quyết kia.

Trường hợp này, nhà nước Trung Quốc đã ra lệnh sai lầm khi dấu nhẹm em Yang Peiyi và phô trương em Lin Miaoke để rồi bị cả thế giới lên án. Trên 40 tỷ đồng đổ ra để đánh bóng bộ mặt Trung Quốc, để quyết chí làm cho thế giới phải khâm phục và công nhận sức mạnh của Trung Quốc. Trên 40 tỷ đồng đó đã bị cuốn trôi sông chỉ vì một quyết định tai hại của một cán bộ dấu tên đã dẹp em Yang Peiyi đi. Trên 40 tỷ đồng bị trôi sông vì cái lý do dấu em Yang Peiyi chỉ là vì em có bộ răng xấu xí, một lý do chạm đến lương tâm thế giới luôn tôn trọng những cảm xúc nơi trẻ em.

Khi tự bào chữa rằng quyết định trên là vì "quyền lợi quốc gia" thì quả thật CSTQ đã lạm dụng lòng yêu nước của người dân, để tác oai tác quái. CSVN thì đang thi đua với CSTQ để cũng tác oai tác quái với người dân, lạm dụng lòng yêu nước của người dân.

Cha mẹ em Yang Peiyi sẵn sàng dâng hiến giọng ca của con mình để làm đẹp cho bộ mặt Trung Quốc, và ngay cả em bé Yang Peiyi cũng vậy. Tuy nhiên, lòng yêu nước của họ đã bị CSTQ lạm dụng.

Người dân Việt Nam còn bị tệ hại hơn người dân Trung Quốc nữa. Ngoài việc bị lạm dụng lòng yêu thương gắn bó với tổ quốc, người dân Việt Nam còn bị mất đất, mất biển vì một nhà nước bất tài, vô tâm.

Tiếng hát trẻ thơ bị tước đoạt vinh dự trong buổi Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội Bắc Kinh vì một nhà nước độc tài, đang làm nhức nhối nhiều con tim Việt Nam quằn quại vì: tại Việt Nam, người dân còn bị tước đoạt cả những quyền tối thiểu để làm con người.

Mai Ly
16/8/2008

Lưu Manh Trí Thức, Đớp Cứt Chăn Trâu


Trương Minh Hòa

Thói đời đen bạc, thiên hạ đảo điên bởi vì trong bất cứ xã hội, thời nào cũng không thiếu vắng những kẻ xấu, gian, ác, đểu đó là thành phần "cặn bã trong xã hội nầy bàng bạc" khắp nơi, không ranh giới, từ kẻ thất học đến có học với bằng cấp treo đầy nhà, ngay cả những kẻ tu hành, coi cõi đời là cõi tạm cũng cố gắng làm điều xấu hầu trục lợi bản thân, mượn đạo tạo đời:

"Nước cường nhược có lúc có khi.
Kẻ gian ác, thời nào cũng có".


Thành phần xấu nầy được chia nhiều đẳng cấp, hạ cấp thì trộm cướp, lừa đảo; cao cấp, học thì viết sách dạy thiên hạ cướp của giết người như Karl Marx; một điều không ai chối cãi là những kẻ ăn học đàng hoàng thường khi có thừa khả năng nhận thức ra điều ta lẽ phải, thế mà họ vẫn làm điều xấu nhưng vẫn "thanh tâm trường an lạc" sau khi ngậm được bã danh lợi, bất chấp: "trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn lưu danh". Thế gian lắm lọc lừa, nên Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chán ngán thói đời đen bạc:

"Còn bạc, còn tiền, còn đệ tự.
Hết cơm, hết gạo, hết ông-tôi".


Tại Việt Nam, từ khi có đảng Cộng Sản và tên đại quốc tặc Hồ Chí Mén, thì cái "tình huống" lừa đảo, gian manh, càng phát triển như "nấm sau cơn mưa dầm", nhờ đảng Cộng Sản mà nước Việt Nam trở thành "vương quốc lừa đảo" bởi hệ thống nhà nước do đảng lãnh đạo chủ trương "dùng lừa đảo để trị dân", họ khuyến khích "toàn dân cùng lừa đảo" mạnh ai nấy chụp giựt từ cán bộ trung ương, địa phương đến dân chúng, nam phụ lão ấu nếu không chụp giựt thì lấy gì mà sống?. Trong một đất nước mà kẻ ác, thành phần xấu, gian manh, lừa lận lên ngôi, thế mà vẫn tự hào là "đạo đức cách mạng", mới là điều ngược đời:

"Người người chụp giựt.
Nhà nhà chụp giựt.
Cán nhớn, cán bé chụp giựt.
Cả nước cùng nhau chụp giựt.".


Trong những thói hư tật xấu, có nhiều "thằng dốt làm vua, thế gian cạo trọc và thầy chùa để râu" với cảnh người khôn đi học, thằng ngư dạy đời, làm đảo lộn cả luân lý, tiến bộ của nhân loại, thế nhưng đảng Cộng Sản luôn tự hào là "cách mạng vùng lên để đổi đời". Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở miền Nam Việt Nam, xuất hiện thành phần nằm vùng, thân Cộng trà trộn trong dân chúng, ngay cả trong các tôn giáo như thượng tọa Thích Trí Quang, ni sư Huỳnh Liên .... linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần tập hợp lại, khai sanh ra cái quái thai "thành phần thứ ba" (là phong trào phản chiến khuynh tả nội địa, do Cộng Sản giựt dây bên trong, nhưng được mang tên khác tại Việt Nam), họ lôi kéo thêm những kẻ "hèn nhát" sợ chết trước cảnh đất nước lâm nguy khi giặc Cộng đang đe dọa khắp nơi, những kẻ "đứng núi nầy trông núi nọ", thành phần đón gió ..v..v.. đó là lũ "ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản". Trong các vùng nông thôn, những thằng dốt, ngu, ngốc không có khả năng, trình độ, nhưng ham danh, thích làm quan to, nên bị đảng Cộng Sản dụ, phong chức, trở thành Việt Cộng khủng bố, đó là những kẻ: "sống trong nước dân chủ, đội mũ tai bèo".

Sau năm 1975, hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, trong hàng ngũ tỵ nạn chân chính, không thể tránh khỏi sự trà trộn của: gián điệp nằm vùng, đón gió, tỵ nạn kinh tế sau thời gian dài, như cây kim để trong bọc lâu ngày phải lòi ra, từ lúc Việt Cộng đổi mới, mở cửa để chậm sụp đổ, thì cũng là "tương kế tựu kế" của Việt Cộng, lơi dụng để thu thêm tiền từ những người bỏ nước ra đi qua chiêu bài thăm quê hương, dần dần biến thể thành "du lịch, du hý, du dâm" một số kẻ mang tiền về để "du thương" làm ăn, cấu kết với bọn "du côn, du thủ, du thực" trong bộ máy cầm quyền, công an, đảng Cộng Sản gồm toàn là "chăn trâu, du đãng trị". Dù có một số kẻ đã bị "trấn lột" sau thời gian làm giàu như Úc Kiều Nguyễn Trung Trực, Hòa Lan Kiều như Trịnh Vĩnh Bình tuy nhiên bất cứ thời điểm nào, vẫn còn có nhiều kẻ sống tự do ở hải ngoại, nhưng lòng phơi phới chuyện làm ăn, buôn bán, cấu kết bóc lột mồ hôi của đồng bào kém may mắn ở quê nhà, họ "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" nên thập thò đón gió để hưởng lợi; đó là thành phần "ăn cơm tự do, đội mo Cộng Sản", xuất hiện trong các Cộng đồng tỵ nạn như thứ dán, chuột lợi dụng thời cơ bò ra kiếm ăn vậy.

Thành phần "đội mo" nầy không phân biệt dốt, có học, tu sĩ một điều chắc chắn là họ thừa biết chế độ Cộng Sản là tàn ác, gian manh, vi phạm nhân quyền nhưng "quyền lợi" làm họ tạm quên đi hết các thứ ấy, trở thành mặt chay mày đá. Những kẻ đội mo Cộng Sản thường lộ mặt qua việc: ca tụng Việt Nam ngày nay phát triển vượt bực với nhà lầu mọc lên khắp các đô thị, xe cộ lưu hành đầy đường như ngày xưa, trước 1975 nhưng họ thường không nói rõ là nhà, xe đó của cán bộ Cộng Sản và thành phần làm giàu nhờ cấu kết với đảng cướp. Du học sinh khắp nơi trên thế giới, đi du học dễ dàng (cũng không nói đó là con cháu cán bộ, Hồng hơn chuyên, là có điều kiện, khả năng tài chánh, trong khi tuyệt đại đa số dân nghèo không thể cho con đi học, dù là cấp tiểu, trung học, với nhiều thứ tiền học phí cho các "kỹ sư tâm hồn" tự biên tự diễn đòi hỏi).... nhưng đáng chê nhất là đám "khoa bảng" từng làm việc cho chính quyền miền Nam, hưởng nhiều lợi lộc nhờ xương máu của các chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa trên chiến địa, để họ sống an thân, sau đó vượt biển, di tản sớm nhất đáng lẽ họ phải là người biết ơn, phù hợp với đạo làm người. Thế mà sau thời gian sống ở hải ngoại, hưởng đầy đủ "bơ khối, sửa thùng", nhưng bị Việt Cộng mạt sát là: "ăn bơ thừa sửa cặn" mà chưa biết nhục, trái lại có một số trong thành phần nầy lại chay mặt "NỊNH" đảng, tệ hại hơn là trơ trẽn "bợ đít, nâng bi, lòn trôn" những thằng dốt mà làm lớn ở Việt Nam, được giáo sư Nguyễn Ngọc Huy ví von rất đứng là: "con khỉ ngồi trên bàn".

Nhưng ngày nay, ở hải ngoại xuất hiện một số "khoa bảng" đổi giọng Nịnh và trở thành: "LƯU MANH TRÍ THỨC, ĐỚP CỨT CHĂN TRÂU" đang sống ở ngay trong một xã hội dân chủ tự do. Một số kẻ "đớp cứt chăn trâu" thấy xuất hiện ở vài nơi với các "bầy đớp cứt" tập thể như: Tạp Nhạp Dân Chủ Điên Ngoa, Giao Điếm ..v...v cá nhân thì phải kể đến tên Cẩu Cao Cầu, Đốc Tờ Nguyễn Xoay Ngẫn, Bùi Dỏm còn thiền xu Thích Nhất Vẹm thì đã "đớp cứt chăn trâu" từ lâu mà ngày nay vẫn còn cảm thấy "thơm miệng", hà hơi, bay ra mùi thúi từ Làng- Môn xông ra nhiều nơi, một đời "ngậm cứt lũ chăn trâu" mà muốn được tôn là "Phật sống" như Đức Đa Lai Đa Ma, thì quả là thời kỳ mạt pháp, ma quái giả thành Phật như chuyện Tây Du Ký.

Một tay "lưu manh trí thức, đớp cứt chăn trâu" ló mặt, trước đây có học vị là tiến sĩ, giáo sư dạy luật ở miền Nam, là nhân vật có "máu mặt" trong chính quyền, có lúc là "kinh tế gia" thời danh, được nhiều người nể trọng. Sau 30 năm bỏ nước ra đi tìm tự do, sống ở bên Tây sung sướng. Bỗng đâu được đám chăn trâu hứa hẹn trả nhà ở khu đại học luật gì đó, hay là hứa ban quyền lợi, bèn hồ hởi phấn khởi trở thành "Thằng nịnh đột xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa", là thứ "nịnh thời thượng" hay là nói theo từ ngữ văn minh, văn hóa Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là: "nịnh không người lái", cứ thế mà nịnh, không cần lương tri, đạo lý, nhân cách. Lối nịnh nầy cũng là thứ: "quân sư quạt máy" ở hải ngoại, tưởng đâu trước đây có bằng "tiến sĩ luật", hành nghề giáo sư đại học luật, làm lớn trong chính quyền miền Nam rồi nói gì, thiên hạ cũng nghe và phục như du kích Việt Cộng trong các vùng nông thôn:

"A.K, súng lục kè kè.
Nói bậy, nói bạ, chúng nghe rầm rầm"



Tay "đớp cứt chăn trâu" cũng là "quân sư quạt máy" tiến sĩ, giáo sư trường luật muốn dùng "luật rừng" của quốc hội "không người lái" của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, cũng gồm đa số toàn là chăn trâu, du côn, thành phần bất hảo soạn ra theo lịnh đảng, nhằm hợp thức hóa việc đàn áp, vi phạm nhân quyền, luật buôn bán nô lệ "hiện đại". Gã lưu manh trí thức nầy quả là có tham vọng, muốn làm thầy đời, nhằm giáo dục người bỏ nước ra đi tìm tự do ấy, chính là tên điếm VŨ QUẮC THÚI, ngậm cứt của đám chăn trâu mà vẫn "không biết, cảm giác thúi" nên mới đáng nói những lời "nịnh" được định hướng theo xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành thủ tục trong việc hứa hẹn "hoàn trả tài sản" trong nước, tiến sĩ luật Vũ Quắc Thúi cho con trai là Vũ Quắc Thao, tổng hội sinh viên, cổ động tuổi trẻ mang tài năng về nước riêng bản thân kẻ "ngậm cứt chăn trâu khen thơm" bèn trổ tài Nịnh một cách trơ trẽn để lấy điểm và cũng nhằm củng cố "mối quan hệ hữu cơ đón gió, trở cờ" trong việc hợp tác "lao tư lưỡng lợi" mà có khả năng "đảm bảo" tài sản sớm hoàn trả, nên khi nhìn thấy những thằng khủng bố, chuyên môn gây chiến đang cầm quyền ở Việt Nam, nay nhờ thời thế vào được chiếc ghế "không thường trực" vào ngày 16 tháng 10 năm 2007, trong cái gọi là Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Được biết cái Hội Đồng nầy trở thành "sân khấu hài kịch" kể từ khi Nga Sô, Trung Cộng làm thành viên thường trực, phủ quyết nhiều vấn đề mà đáng lẽ ra Hội Đồng phải "nhất trí" trong việc bảo vệ hòa bình thế giới; là nơi Trung Cộng đùa cợt, có cả định nghĩa khác với "bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền". Làm hội viên thường trực cũng không làm gì được nếu một trong số các nước thành viên "phủ quyết", thì cái chức "hội viên không thường trực" cũng chỉ là màng trình diễn của Liên Hiệp Quốc khi uy tín càng xuống dốc do những thế lực "ma quái" gia nhập, khuynh đảo. Khi những vấn đề nào mà được Hội Đồng nầy đồng thanh biểu quyết là phải biết nói phù hợp với quyền lợi của tất cả các thành viên thường trực. Do đó cái chức "thành viên không thường trực của Việt Nam" trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ là anh hề hoạt náo, nhưng là anh hề vô duyên, nói ra hổng ai cười.

Tuy nhiên, đối với "đám chăn trâu" là hãnh diện lắm thay, đúng là "con khỉ ngồi trên bàn với bộ quần áo làm vua, có đội mão, mang hia". Nhà tiến sĩ luật khoa Vũ Quắc Thúi cũng biết "đón hứng" đúng lúc, có bài bản như lũ cá vồ trong Ao Cá Bác Hồ, khi cục cứt rơi hứng nào là cứ nhào tới đớp là chắc ăn, không đi sai chính sách trong nghề "NỊNH" nên bèn làm một màn: "con cá Vồ sống vì Cứt" mà cho là Việt Nam được 183 phiếu thuận, hổng có ai chống, trong số 192 phiếu, thế "nà" đạt mục đích yêu cầu, tức "nà" nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trở thành "cường quốc thế giái chứ gì?".

Bây giờ ngay cả thằng Mỹ, Âu Châu còn "nhất trí", thì người Việt hải ngoại nên nhìn thấy cái chân lý ấy, là đừng chống đảng, Bác nữa, hãy đặt quyền lợi quốc gia dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là nước Việt Nam "giàu mạnh, muôn năm", nay trên đà trở thành cường quốc Á Châu, chớ còn gì nữa?. Gã quân sư quát máy Vũ Quắc Thúi, ngậm cứt chăn trâu bèn tùng ra mùi "THÚI QUẮC" tán hưu tán vượn theo kiểu nịnh và cũng vừa gởi một thông điệp cho tất cả người Việt hải ngoại rằng: đấy, nước ta giàu mạnh là nhờ tài NÃNH ĐẠO tinh khôn của đảng với những đỉnh cáo trí tuệ nòi người như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh đưa đất nước từ không đến có và ngày nay đã vào được tận Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với nhiệm kỳ 2 năm và cũng hy vọng sẽ được bầu ở lại luôn.

Và nhà "quân sư quạt máy" tiến sĩ luật Vũ Quắc Thúi còn vấn kế thêm, cũng là "bài thuốc mê gia truyền của đảng" rằng: Việt Nam làm gì sau khi được bầu vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc?. Không đợi ai trả NHỜ, quân sư quạt máy, kiêm" lưu manh trí thức, ăn cứt chăn trâu" nói ngay cái kế mà hắn có thể đã "hội ý" với đám chủ gốc chăn trâu rằng:

1- Lợi dụng chức vụ nầy để dân chủ hóa, kiện toàn chế độ chính trị (sic)
2- Biến nước Việt Nam thành trung lập (sic luôn)
3- Vận động thành lập khu trung lập gồm 3 nước Đông Dương Việt-Miên-Lào-Thái gồm thu vào một mối dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam, để có sức mạnh chống Trung Cộng. (sic)

Quân sư quạt máy, tiến sĩ luật Vũ Quắc Thúi quả là vấn kế "tuyệt" với những thằng "chăn trâu" ở Việt Nam, biết đánh trúng vào tâm lý "khỉ khoái ăn chuối" hay là "xếp không ăn chuối" mà tâng bốc đám dốt lên tận mây sanh, thì lo gì nhà đất sẽ sớm được trả phải hông? Nhưng cái kế nầy rõ ràng là:

"Rằng hay thì thật là hay.
Nghe qua mới biết kết bày cho vui".

Việt Cộng đời nào chịu từ bỏ quyền lực, đập chúng bể đầu, sứt trán mà chưa thấy gì, huống chi chỉ nhở ngồi vào chiếc ghế "hội viên không thường trực hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc" chỉ trong vòng 2 năm mà "giác ngộ" được những thằng ăn cướp chuyên nghiệp, túi tiền đầy ấp, tên nào cũng muốn "bảo vệ túi tiền và quyền lực như bảo vệ con người trong tròng mắt". Nước Việt Nam đã thành "một huyện bất thành văn của Trung Cộng từ khuya rồi" và tập đoàn cai trị ở Hà Nội chỉ là "quan Thái Thú Trung Cộng gốc Việt", nước ta đã "không có gì là độc lập, tự do" từ thời Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến nay, nên làm gì mà trung với lập và chuyện thành lập ra khối trung lập để chống Trung Cộng, chỉ là liều thuốc an thần cho những ai còn "mơ mộng, mộng du chính trị, trí ngũ, trí mớ, trí mơ ..." và kể cả "lưu manh trí thức, đớp cứt chăn trâu".

Tuy nhiên cái kế tuyệt vời của quân sư quạt máy, quân sư không người lái Vũ Quắc Thúi cũng dễ trở thành "tương kế tựu kế" khi mà có một số người còn "mê ngủ" u mê, u ám, ẩu trĩ muốn "ĐOÀN KẾT" với đảng và nhà nước Việt Cộng để cũng nhau chống bọn "lưu manh bành trướng Bắc Kinh với mộng bá quyền", mà từ năm 1979 đã từng bị đàn anh "dạy cho một bài học" mà không dám mét với Liên Hiệp Quốc, dù hai nước ngồi cùng bàn hội nghị, chung diễn đàn. Đoàn kết với Việt Cộng là ĐẾCH CÒN cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa và cũng ĐẾCH CÒN tương lai, cơ hội để đất nước có được tự do dân chủ .... quân sư quạt máy, tiến sĩ luật, kiêm nhà "lưu manh trí thức, đớp cứt chăn trâu" quả là diệu kế. Nhưng phải chi kế nầy được tung ra vào thời 1945 thì mức độ thành công cao, nhưng bây giờ thì xin thông cảm nhé, nhờ vậy mới lòi ra thêm một tên đốn mạt có bằng cấp cao "tiến sĩ luật khoa, giáo sư đại học, chính khứa miền Nam".

Trương Minh Hòa

Tâm sự của cựu đại tá việt cộng


Trần Thanh

Chiều nay khi vừa tan ca làm việc, anh Tý cu li vội đạp xe đến nhà ông nội. Chả là, anh vừa được công ty phát cho một ít quà mừng ngày sinh nhật của bác Hồ. Mỗi một công nhân được phát một hộp giấy có in hình bác Hồ và bác Mao đang bắt tay nhau, tươi cười hữu nghị. Bên trong các hộp giấy là một số món quà lặt vặt và có cả những tấm vé số hoặc những tờ mẫu đơn xin gia nhập câu lạc bộ gì gì đó của Trung Quốc. Có đều toàn bộ những tấm vé số và những tờ mẫu đơn đều được viết bằng chữ Tàu, tuyệt đối không có một dòng chữ Việt nào hết. Trong công ty chẳng có ai biết chữ Tàu. Chỉ có một vài người biết lõm bõm một vài chữ thì đoán mò rằng đó là những tờ đơn xin gia nhập câu lạc bộ thể thao hay điện ảnh gì đó của Trung Quốc! Còn tấm vé số thì không ai đọc được để biết các lô trúng như thế nào, ngày nào xổ và nếu trúng thì lĩnh tiền ở đâu?

Anh Tý đang làm việc cho một công ty của Trung Quốc tại Hà Nội, chuyên chế tạo và lắp ráp xe gắn máy Trung Quốc, mang thương hiệu "Đại Bá". Công ty có cả thảy một ngàn công nhân, chia ra làm ba ca làm việc. Toàn bộ vốn đầu tư là của Trung Quốc. Riêng ban giám đốc và toàn bộ cán bộ quản lý thì do người Việt phụ trách. Tuy nhiên, mọi việc điều hành sản xuất đều do các cố vấn Trung Quốc quyết định, nghĩa là họ lên kế hoạch, sau đó đưa sang ban giám đốc của người Việt để thi hành. Nếu so với các công ty quốc doanh của Việt Nam thì công ty của Trung Quốc trả lương cao hơn gấp đôi. Phải quen biết và giỏi chạy chọt lắm mới được tuyển vào làm cho công ty "Đại Bá". Anh Tý cu li nhờ có ông nội là đại tá quân đội nhân dân đã về hưu, gửi gấm những người quen nên mới kiếm được một chân cu li trong giây chuyền lắp ráp trong công ty. Anh mừng hết lớn vì vào thời buổi kinh tế cực kỳ khó khăn như vầy mà được phục vụ cho mấy đồng chí Trung Quốc, được lãnh lương cao thì cũng quá hãnh diện rồi! Bởi vậy mỗi khi công ty bố thí cho công nhân bất cứ món quà gì thì anh thường đem đến biếu ông nội để bày tỏ lòng biết ơn ông. Sẵn hôm nay được phát quà, lại không biết đọc chữ Tàu, anh Tý sực nhớ ra ông nội mình là một cây "nho chùm". Thế là anh hăng hái phóng xe đạp tới nhà ông, ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Vừa dắt xe đạp vào nhà, anh Tý đã vội đánh tiếng:

- Cháu chào ông ạ! Thưa ông có khỏe không?

Nói xong, anh Tý thoăn thoắt trèo lên căn gác xép của ông nội. Toàn bộ giang sơn của ông chỉ thu gọn trên căn gác xép, còn bên dưới là để cho con cháu ở. Ông Khải, ông nội của anh Tý, là cựu đại tá đã về hưu được 20 năm nay. Đúng ra ông chưa tới tuổi về hưu nhưng vì bất mãn, ông xin về hưu non. Từ ngày về hưu, ông chỉ vui vầy với cái vườn cây bé xíu ở sau nhà và thường vào internet để theo dõi tin tức tình hình trong và ngoài nước. Ông Khải đang đọc báo trên internet, thấy thằng cháu đích tôn đến, ông gỡ cặp kiếng lão ra:

- À, thằng Tý. Mới đi làm về hả? Sao, dạo này có gì lạ không?

Tý vội đưa gói quà cho ông nội:

- Ông ạ, bữa nay công ty của cháu cho mỗi một công nhân một hộp quà để mừng sinh nhật bác Hồ. Cháu gởi biếu ông gói quà. Trong gói quà có tờ giấy vé số với mấy tờ đơn gì đó. Cháu không đọc được chữ Tàu, nhờ ông xem hộ nó là cái gì?

Ông Khải cầm gói quà rồi nói:

- Sao cháu không giữ lấy mà dùng, cái gì cũng gởi biếu ông thế này. Cháu hãy đem về biếu mẹ cháu!

Anh Tý nài nỉ ông:

- Cháu còn nhiều dịp để nhận quà lắm. Ông đừng có lo cho cháu với mẹ cháu. Nhờ ông xem hộ mấy tờ đơn trong hộp quà họ nói cái gì để cháu vào công ty, "phiên dịch" lại cho anh em. Khổ quá ông ạ, cả công ty không có ai biết đọc chữ Tàu!
Phương pháp ngủ mở mắt của
con quạ đen Phạm Minh Mẫn!
Ông Khải mở gói quà ra xem xét các món đồ rồi ông bỗng cười hềnh hệch:

- Ô hay, cái hộp này đựng các bao cao su .... ngừa thai!

Rồi ông mở hộp giấy, lấy ra một cái bao giấy bạc, xé ra coi thử bên trong có đúng là bao cao su không thì ông tái mặt. Trên bao cao su có in hình cái đầu của ..... bác Hồ! Kế bên là một dòng chữ Tàu: "Không có gì quý hơn cái này"! Ông Khải dịch cho thằng cháu đích tôn nghe và ông bình luận:

- Như thế này là bọn Tàu nó chơi rất đểu! Nó đã đem thằng Hồ Chí Minh ra mà bêu riếu đến tận cùng trời đất rồi. Nó đã chửi cha, chửi ngay trên đầu, trên cổ bọn việt gian cộng sản mà bọn chó săn này có dám hó hé gì đâu! Nó chơi đểu như thế này thì thằng Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi không bao giờ đầu thai được! Cái câu nói "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của thằng Hồ đã bị sửa đổi thành "Không có gì quý hơn cái bao cao su ngừa thai!"

Nghe ông nội dịch và bình luận câu chữ Tàu, anh Tý thấy quá thú vị, bật cười sảng khoái! Ông nội của anh Tý năm nay đã 80 tuổi, tham gia cách mạng năm 17 tuổi, đúng lúc cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 bùng nổ. Lúc ấy do tinh thần ái quốc tự phát nên ông tình nguyện đi kháng chiến. Sau đó ông tham gia mặt trận Việt Minh nhưng cũng chẳng hiểu Việt Minh là cái quái gì, chỉ nghe nói họ là những người "quốc gia" đánh Pháp, thế là ông theo! Vài năm sau đó, ông được kết nạp vào đảng cộng sản mà ông cũng chỉ hiểu lờ mờ đó là cái đảng "quốc gia" chống Pháp! Nhưng sau này, khi vụ cải cách ruộng đất xảy ra thì ông đã sáng mắt nhưng đã quá muộn, lỡ phóng lao rồi, phải theo lao! Bởi thế, những năm tháng trong cuộc đời binh nghiệp của ông đều là những năm tháng của ray rứt và trăn trở, tựa như những tâm sự u uất của một phụ nữ đẹp khi biết mình đã ngu ngốc trao duyên lầm tướng cướp! Đến năm 1988 thì ông xin về hưu non lúc mới 60 tuổi, mang cấp bậc đại tá. Tính ông vốn ngay thẳng, ưa chống đối những bất công, nên thường bị "đì" sói trán. Những kẻ cùng lứa tuổi với ông, cùng tham gia kháng chiến hồi cách mạng tháng tám 1945, có nhiều kẻ đã trèo lên tột đỉnh danh vọng, ngồi chễm chệ trong bộ chính trị, trong khi đó ông chỉ là một viên đại tá quèn bị chèn ép phải về hưu non!

Đến bây giờ ông Khải đã được 80 tuổi. Ông thường tự nhủ mình đã thọ bát tuần rồi, sống được như vậy cũng là quá đủ, tất cả những tự hào của gia tộc phải được truyền lại cho thằng cháu đích tôn, tức anh cu Tý, năm nay 25 tuổi. Bố của anh Tý là bộ đội chống Mỹ, đã từng lăn lóc ở các chiến trường miền Nam và sau năm 1975, vẫn phải tiếp tục đánh nhau với "bá quyền Trung Quốc". Đến năm 1988, bố của anh Tý, trong khi đánh nhau ở vùng biên giới, bị đạn pháo của Trung Quốc làm cụt một chân. Từ đó anh trở thành thương binh, sống bằng nghề đạp xích lô tại Hà Nội. Nhưng rồi số phận oan nghiệt vẫn chưa buông tha cho người thương binh: năm ngoái trong khi đạp xe ba gác, đi giao một tạ thịt lợn đến lâu đài của tên thứ trưởng bộ giao thông vận tải thì anh bị bầy chó bẹc giê của hắn xông ra cắn đứt lìa cuống họng! Anh đã chết một cách tức tửi không nói được một lời nào, chết ngay tại thảm cỏ xanh mượt trong tòa lâu đài, chết ngay trên đống thịt lợn chưa kịp giao! Tên thứ trưởng bộ giao thông vận tải cũng chính là bạn đồng ngũ với anh hồi kháng chiến chống Mỹ, cả hai cùng sinh hoạt trong cùng một trung đội. Hắn có biệt hiệu là "Thằng Mặt Chuột", chuyên đi ăn cắp vặt và .... đụ bậy mấy cô cán bộ hộ lý! Vậy mà thời thế đưa đẩy, bây giờ hắn đã trở thành thứ trưởng kiêm bí thư đảng ủy. Mỗi lần hắn đi hớt tóc, thường rút giấy bạc một trăm đô la ra để "boa" cho mấy em điếm và mồi thuốc lá cũng bằng giấy bạc một trăm đô! Hắn nuôi một bầy chó bẹc giê, mỗi ngày tiêu thụ hết năm mươi cân thịt lợn. Tình cờ khi bố anh Tý đi giao thịt lợn đến lâu đài của hắn thì nhận ra hắn, đồng thời hắn cũng nhận ra anh nhưng phớt lờ không thèm chào hỏi! Thôi, thế cũng được, anh đã "anh dũng hy sinh" trên thảm cỏ xanh trong tòa lâu đài của người bạn cũng là .... "vinh dự" lắm rồi, đỡ buồn tủi cho thân phận của mình mỗi khi gặp lại thằng bạn ... chó đẻ! Chỉ có điều, sau bao nhiêu năm xông pha lửa đạn nơi chiến trường, anh đã không chết vì bom đạn của Mỹ "ngụy" mà lại bị chết vì bầy chó bẹc giê của bọn việt gian cộng sản một cách vô duyên, lãng xẹt! Một cựu đại úy, cựu tiểu đoàn phó của quân đội nhân dân việt cộng đã anh dũng hy sinh vì chó bẹc giê!

Ông Khải tiếp tục mở những gói quà nhỏ trong hộp quà:

- À, cái gói này là hai cái bu gi xe gắn máy. Còn hộp này là cái bộ phận lọc gió của xe gắn máy, thợ máy họ gọi là các-buya-ra tơ đó cháu!

Ông Khải chỉ vào các món quà đặt trên bàn và nhận xét:

- Những món quà này đối với cháu hoàn toàn vô dụng vì cháu không thể dùng được món nào. Này nhé, cháu còn độc thân thì đâu có cần dùng bao cao su ngừa thai làm gì. Cháu đi "xế điếc" (xe đạp) thì cũng đâu có cần dùng bu gi và hộp lọc gió dành cho xe gắn máy! Ông cũng không cần dùng những thứ này vì ông đã 80 tuổi rồi, muốn đi đâu thì chỉ có đi xe đạp hoặc cuốc bộ cho khỏe người!

Anh Tý hơi sượng sùng vì những món quà anh đem biếu ông chẳng được một tích sự gì. Thấy vậy, ông Khải bèn khỏa lấp, chuyển sang đề tài khác:

- Thế dạo này cháu vẫn sinh hoạt trong phong trào đấu tranh đòi dân chủ đấy chứ?

Anh Tý là một thành viên của phong trào đấu tranh đòi dân chủ tại Hà Nội. Anh đã tham gia phong trào với sự khuyến khích của ông nội. Mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, thắc mắc, anh thường hỏi ý kiến của ông nội, và ngay cả những vị đang trực tiếp lãnh đạo phong trào cũng thường bí mật đến vấn kế ông Khải, xem ông như là một lãnh tụ không chính thức, một quân sư già dặn nhiều kinh nghiệm. Ông Khải tuy nghèo nhưng danh tiếng của ông vang dội khắp Hà Nội và các thành phố thuộc miền bắc. Ông nổi tiếng nhờ ưa chống đối những bất công, bị đảng đì sát ván, suýt bị đi tù, buộc phải về hưu sớm, và nhờ ông có kiến thức giỏi, thông thạo tới ba ngoại ngữ là tiếng Tàu, tiếng Pháp và tiếng Anh. Nghe ông nội hỏi, anh Tý bèn trịnh trọng báo cáo:

- Vừa rồi mấy anh chị em chúng cháu đã làm được một cú vang dội: treo tấm biểu ngữ đòi đa nguyên đa đảng ngay tại cầu Thăng Long Hà Nội và cầu Lạch Tray ở Hải Phòng! Người dân họ bu lại xem đông lắm. Phóng viên báo chí nước ngoài cũng có đến quay phim và chụp hình. Bọn công an rất lúng túng, mãi hơn hai tiếng đồng hồ sau, chúng mới dẹp được các tấm biểu ngữ! Chúng cháu đang dự trù lần tới sẽ rải truyền đơn, tiếp tục đòi đa nguyên, đa đảng, đòi hủy bỏ điều bốn hiến pháp, đòi nhân quyền cho người dân!

Ông Khải rót một tách trà, nhấp một ngụm rồi hỏi anh Tý:

- Cháu đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng, thế cháu có biết "đa nguyên" là cái gì không?

Nghe ông nội hỏi, anh Tý bỗng lúng túng, đỏ mặt:

- Thật tình, cháu cũng không biết nó là cái gì. Cháu thấy mấy anh chị trong phong trào dân chủ đòi "đa nguyên" thì cháu cũng đòi, thế thôi!

Ông Khải cười nhẹ với ánh mắt bao dung:

- Thế bây giờ cháu có muốn biết nó là cái gì không, thì ông sẽ giảng cho cháu?

Anh Tý cung kính nói bằng giọng lễ phép:

- Thưa ông, xin giảng cho cháu biết đa nguyên là cái gì? Đa đảng thì cháu hiểu rồi, hầu như ai cũng biết!

Ông Khải bắt đầu giảng bằng cách đặt câu hỏi:

- Cháu thấy mấy món quà mà công ty "Đại Bá" tặng cho cháu như thế nào? Có hữu ích cho cháu không?

Anh Tý đáp liền không suy nghĩ:

- Hoàn toàn vô ích ông ạ! Cháu còn độc thân, đâu có cần bao cao su ngừa thai để làm gì! À, mà nếu cần thì có lẽ chỉ dùng để thổi bong bóng cho trẻ con chơi! Cháu đang đi "xế điếc" (xe đạp) thì đâu có cần dùng bu-gi xe gắn máy và hộp lọc gió để làm gì!

Ông Khải gật đầu tán đồng:

- Đúng thế, cháu nói đúng! Như vậy, ta có thể nói rằng, đa nguyên và đa đảng, trong trường hợp của cháu, nó cũng tựa như bu-gi xe gắn máy và hộp lọc gió! NÓ CHỈ HOÀN TOÀN HỮU ÍCH KHI CHÁU ĐI XE GẮN MÁY! Ông hỏi cháu câu này: - cháu thích đi xe gắn máy hay đi xế điếc (xe đạp)?

Anh Tý trả lời ngay:

- Dĩ nhiên là cháu thích đi xe gắn máy vì nó nhanh hơn, tiện lợi hơn nhiều chứ ạ!

Ông Khải hỏi:

- Giả sử cháu đang đấu tranh với chủ hãng để đòi có một đời sống tốt đẹp hơn thì cháu nên đấu tranh đòi cái nào? Cháu nên đòi một chiếc xe gắn máy để đi hay đòi một cái bu-gi xe và một cái hộp lọc gió để TREO VÀO TAY LÁI XE ĐẠP COI CHƠI CHO VUI?

Anh Tý tái mặt, ngậm câm. Những ví dụ đơn sơ của ông nội làm anh hiểu ngay tức khắc. Ông Khải nhìn thằng cháu đích tôn khờ khạo mà lòng cảm thấy thương nó. Nó lớn lên trong một cái xã hội hoàn toàn bị bưng bít về thông tin cho nên nó khờ khạo về chính trị cũng là phải. Ngay cả vô số những việt kiều ở hải ngoại, được sống trong một môi trường dân chủ hết sức thuận lợi mà còn ngu ngốc, tình nguyện chui vào những cái bẫy rập của cộng sản! Ông kiên nhẫn giảng tiếp:

- Khi mình đấu tranh đòi một cái gì thì mình phải đòi cái lớn nhất, cái quan trọng nhất. Ví dụ như mình bị bọn cướp nó cướp mất nhà thì mình phải ĐÒI LẠI CHO BẰNG ĐƯỢC TOÀN BỘ CĂN NHÀ, chớ không đòi những cái tẹp nhẹp như chổi cùn, rế rách, cái cối đá, cái nồi đất, cái quạt mo ..v..v... Toàn dân ta đã bị bọn việt gian cộng sản cướp mất nhà trong hơn 60 năm nay, bị bọn chúng bắt làm nô lệ hơn 60 năm nay. Bây giờ chúng ta phải đấu tranh để ĐÒI LẠI TỰ DO. .MỘT KHI CHÚNG TA ĐÃ CÓ TỰ DO RỒI THÌ CHÚNG TA SẼ CÓ TẤT CẢ! Tất cả những thứ như: tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, hoặc dân chủ, nhân quyền, đa nguyên, đa đảng gì gì đó, chỉ là những cái hộp quà nhỏ trong cái hộp quà lớn. HỘP QUÀ LỚN CHÍNH LÀ HAI CHỮ TỰ DO.

Vừa rồi cháu và các anh chị trong phong trào dân chủ, căng biểu ngữ đòi đa nguyên và đa đảng. Cháu chẳng biết "đa nguyên" là cái gì thì không khéo chính các anh chị, chú bác của cháu cũng chẳng biết nó là cái gì! Mình đấu tranh để đòi một cái mà mình không biết nó là cái gì thì đòi làm gì cho phí thời gian, công sức?

Cả thế giới đang đi xe gắn máy, chỉ còn có bốn nước là Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba và Việt Nam là còn đang đi xe đạp. Mình thấy thế giới thảo luận với nhau về ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG, mình cũng bắt chước đòi đa nguyên đa đảng nhưng mình quên rằng mình vẫn còn đang đi xe đạp! Vậy chúng ta phải đấu tranh theo thứ tự những bước như sau:

Bước một: - Làm cách mạng xóa bỏ chế độ cộng sản (vất chiếc xe đạp vào sọt rác!)

Bước hai A: - Thiết lập chế độ tự do, dân chủ (mua xe gắn máy)

Bước hai AA: - Tha hồ lựa chọn đa nguyên (lựa chọn thể chế chính trị nào cho thích hợp với đất nước)

- Tha hồ thành lập các chính đảng (tựa như mua các đồ phụ tùng xe gắn máy)

Ông Khải với tay lấy cái điếu bát thuốc lào, làm một bi, rồi dùng cây đóm tre để châm lửa, hít một hơi thật dài, tiếng kêu nghe sòng sọc thật vui tai. Sau đó ông nhắm mắt lim dim nhả ra một luồng khói dày đặc thơm ngát mùi thuốc lào. Anh Tý nhanh nhẩu rót một tách trà nóng đưa cho ông nội rồi nhắc khéo:

- Ban nãy ông hứa là giảng cho cháu về "đa nguyên" ....

Ông Khải hắng giọng rồi nói tiếp:

- Một khi đã tiêu diệt được bọn việt gian cộng sản rồi thì người dân có thể tự do lựa chọn cho mình một thể chế chính trị thích hợp. Có nhiều loại thể chế chính trị khác nhau để cho ta lựa chọn: chẳng hạn như tổng thống chế, đại nghị chế, bán-tổng-thống chế (semi-presidentialism) v..v.. Đó chính là đa nguyên. Nhưng gì thì gì, trước hết ta phải XÓA BỎ CÁI CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ DÃ MAN, TÀN BẠO của bọn việt gian cộng sản cái đã!

Nước Mỹ hiện nay đang theo tổng thống chế với lưỡng đảng. Các nước như Đan Mạch, Tân Gia Ba, Thụy Điển theo đại nghị chế với quốc hội một viện. Các nước như Canada, Anh quốc, Ấn Độ theo đại nghị chế với quốc hội lưỡng viện. Ngoài ra hiện nay trên thế giới có 13 nước theo bán-tổng-thống chế, tức là vừa có tổng thống vừa có thủ tướng ..v..v.. Có nhiều món ăn ngon để chúng ta lựa chọn, .tại sao chúng ta cứ mãi cam tâm ăn có MỘT MÓN CỨT DUY NHẤT (cộng sản độc tài đảng trị) suốt 60 năm nay!!! Vô lý quá!

Nghe ông nội giảng đến đây, anh Tý nêu một thắc mắc:

- Cháu có thắc mắc là sau khi chế độ cộng sản bị xóa bỏ thì những người đảng viên cộng sản có được quyền ra ứng cử hay được đi bầu không?

Ông Khải gật gù:

- Câu hỏi của cháu rất hay! Bọn việt gian cộng sản là những kẻ phản quốc. Mà đã là phản quốc rồi thì đương nhiên bị mất quyền công dân. Những kẻ đã bị mất quyền công dân thì chắc chắn không thể nào được ra ứng cử và được đi bầu! Chúng ta phải triệt chúng ngay tận gốc để chúng vĩnh viễn không bao giờ còn cơ hội quay lại nắm chính quyền nữa! Kể cả những tên tay sai đi bưng bô cho bọn việt gian cộng sản cũng phải bị loại trừ. Những thành phần này ở trong cũng như ngoài nước hiện nay nhiều lắm!

Anh Tý bỗng lo lắng:

- Ông ạ, ông cũng là đảng viên cộng sản ....

Ông Khải đáp:

- Đúng vậy, ông đã từng tham gia đảng cộng sản nhưng ông đã xé bỏ thẻ đảng và xin ra khỏi đảng cách đây 20 năm, lúc ông bị bọn chúng ép về hưu. Ông nói thật với cháu, đến cuối đời rồi, ông luôn luôn ray rứt, hối hận là mình đã từng đi theo bọn cướp, gây ra tội ác, giết hại dân lành! Ông đã từng đi B (vào Nam), làm trung đoàn trưởng, chỉ huy bộ đội nã trọng pháo vào nhà dân! Bây giờ ông sám hối, thường xuyên tụng kinh Phật và giúp xây dựng các phong trào dân chủ đấu tranh, để chuộc lại phần nào các tội lỗi trước đây mình đã phạm! Con chim sắp chết cất tiếng kêu bi thương, con người sắp chết nói lời chân thật. Ông đã gần đất xa trời, không biết chết bất cứ lúc nào nên ông chẳng còn gì để mà sợ nữa! Ông đã từng viết thơ gởi thằng tổng bí thư Nông Đứt Mạch, chửi thẳng nó là đồ chó, đi làm tay sai cho giặc Tàu! Tụi nó muốn giết ông thì cứ việc giết! Ông khuyên cháu nên noi gương ông cụ tổ nhà ta. Cụ tổ trước đây đã từng đỗ phó bảng, làm quan văn dưới triều nhà Nguyễn, đã từng đi theo phò vua Hàm Nghi lúc ngài ban hịch Cần Vương chống Pháp. Sau này chẳng may cụ tổ bị giặc Pháp bắt, bị lưu đày nơi đảo Tahiti rồi chết ở đó! Ông cố nội của cháu là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, cũng đi chống Pháp, bị giặc Pháp bắt và xử chém năm 1931! Gia tộc nhà ta có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Bọn việt gian cộng sản cũng là một loại giặc ngoại xâm. Cháu nên noi gương tổ tiên tiêu diệt hết bọn quỷ đội lốt người Việt Nam đó ....

Nghe ông nội giảng, anh Tý cảm động và anh bỗng cảm thấy hình như hồn thiêng của tổ tiên đang hiện về lảng vảng trong căn phòng. Anh cố gắng nêu lên một câu hỏi nữa:

- Cháu nghe nói sắp tới ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ làm tổng thống kiêm luôn thủ tướng nước Việt Nam phải không ông? Người ta đồn ông ta chính là ông Boris Yeltsin của nước mình?

Ông Khải đáp:

- Mấy cái thằng cộng sản miền Nam như thằng Triết, thằng Dũng, thằng Kiệt, thằng Khải, thằng Lê Hồng Anh đều là một lũ ăn cướp. Tuy nhiên vì tụi nó là dân miền Nam, nói giọng Nam đặc sệt, đã từng sống trong chế độ của Việt Nam Cộng Hòa trước đây nên tụi cướp trong bộ chính trị đã lợi dụng những thằng này. Bọn chúng đưa những thằng như Triết và Dũng sang Mỹ để đi ăn mày để bớt bị đồng bào chống đối. Đồng thời bộ chính trị chỉ đạo cho những thằng tay sai ở hải ngoại phao tin:

- Ông Triết với ông Dũng là người thân Mỹ, có khuynh hướng cấp tiến, cải tổ v..v..
- Ông Triết với ông Dũng cũng là dân "ngụy" vì trước đây đã từng sống, đi học và lớn lên trong cái chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Như vậy hai ổng là .... "bạn" của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản!
- Người Mỹ đã, đang và sẽ giúp việt gian cộng sản được xuống cọp an toàn, được hạ cánh an toàn. Ông Dũng chỉ cần lên tiếng "xin lỗi" toàn dân về việc đảng cộng sản Việt Nam đã "lỡ tay" giết chết mười triệu người thì toàn dân sẽ tha thứ và chấp nhận cho ông ta được làm tổng thống!

Nói tóm lại, hai tên tướng cướp Triết và Dũng chỉ là hai cái lá bài của bọn cướp tung ra nhằm lừa bịp, xoa dịu sự chống đối của người dân. Cháu thử tưởng tượng nếu thằng Mạnh hay thằng An chủ tịch quốc hội mà đi qua Mỹ ăn mày, NÓI GIỌNG BẮC ĐẶC SỆT thì đồng bào ở hải ngoại sẽ biểu tình chống đối mạnh tới cỡ nào! Nhất là thằng Mạnh lại là con ruột của thằng Hồ tặc!

Nếu cháu muốn biết rõ thì cháu cứ vào cái trang nhà của tờ báo điện tử ở bên Mỹ, chuyên đưa những hình ảnh và tin tức về những cuộc tranh đấu của những người dân oan trong nước. Cháu sẽ thấy có vô số những bài viết và những cuộc nói chuyện bình luận của những thằng đi bưng bô cho việt cộng! Có thằng còn bày cách cho việt gian cộng sản "được hạ cánh an toàn", rồi tham gia tổng tuyển cử, ra ứng cử ..v..v.. Mấy thằng tội đồ của dân tộc thì phải được đưa ra tòa và sẽ bị treo cổ giống như thằng Sadam Hussein chớ lý nào toàn dân cho phép tụi nó được ra ứng cử tổng thống!!!

Nói đến đây, ông Khải với tay lấy cái điếu bát thuốc lào:

- Thôi bây giờ ông cháu mình nhậu thịt chó đi. Có thằng đệ tử hồi trước nó là trợ lý cho ông ở trung đoàn, bây giờ nó là chủ quán thịt chó Văn Điển. Nó mới sai người đến biếu ông mấy món dồi chó, chả chìa và rựa mận. Ông cháu mình hãy nhậu với rượu Lúa Mới. Mọi chuyện chính trị ta tạm gác lại đến lần tới .... Ông chỉ cầu mong sao cho ông trời làm một trận dịch cho toàn bộ bọn việt gian cộng sản bỗng nhiên lăn đùng ra chết hết để đất nước ta thoát khỏi tai họa làm nô lệ khủng khiếp nhất trong lịch sử của dân Việt!

Trần Thanh
Ngày 17 tháng 8 năm 2008

Sunday, August 17, 2008

Từ Củ Cà Rốt Đến Chai Coca Cola


Trương Minh Hòa

Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là một trong số những nước sinh sau đẻ muộn trên hành tinh nầy, dù có quá trình lịch sử không thuộc loại "ngàn năm văn hiến" như Trung Hoa, Việt Nam, Ai Cập nhưng lại là "hậu sinh khả úy". Sau thời kỳ bị đô hộ, xâu xé bởi các cường quốc Âu Châu đương đại như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga đổ dồn về đây kể từ khi nhà thám hiểm người Tay Ban Nha là Kha Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu; thời kỳ nội chiến và sau đó giành được độc lập với vị tổng thống đầu tiên là George Washington, dần dần nước nầy ổn định nhờ chính thể dân chủ, nhưng bên ngoài vẫn chưa hết họa ngoại xâm luôn dòm ngó. Đời tổng thống thứ 5 là ông Jame Moroe, trong suốt 2 nhiệm kỳ, đưa ra học thuyết bất can dự vào các cường quốc Âu Châu, với mục đích tránh được họa xâm lược, quan hệ, có khả năng bị ảnh hưởng các thế lực lớn và dồn hết sức lực để xây dựng một đất nước non trẻ, hảy còn nhiều vấn đề nội tình chưa ổn định, nhất là vần đế an ninh quốc gia, biên thùy rộng lớn.

Học thuyết Monroe chấm dứt khi Hoa Kỳ lớn mạnh, tham dự vào hai cuộc đại chiến thế giới, trở thành lực lượng quan trọng, tạo nên chiến thắng trong hai cuộc nầy, từ đó trở thành chủ nợ các các cường quốc Âu Châu, vì Hoa Kỳ ít bị thiệt hại hơn các quốc gia Âu Châu, trực tiếp đối diện với chiến trường. Trước đây Hoa Kỳ từng bị dòm ngó, áp lực, thì nay là cường quốc mạnh nhất, đúng là: "cá ăn kiến, kiến ăn cá". Chính sự lớn mạnh vượt bực nầy, khiến các nước Âu Châu sanh lòng ganh tỵ, nên Âu Châu tỏ ra không mặn nồng với các chính sách Hoa Kỳ, ngoại trừ Anh Quốc, chỉ sau nầy là đồng minh thân cận trong cuộc chiến Iraq mà thôi, chớ Anh Quốc cũng từng làm ngơ trong cuộc chiến Việt Nam; đúng hơn là Anh Quốc do thủ tướng Tony blair cũng chẳng tốt lành gì, họ muốn mượn trận chiến chống khủng bố toàn cầu sau 11 tháng 9 năm 2001 mà giải quyết vấn đề nội bộ mà từ lâu trở thành nan giải, nhân cơ hội nầy, như kế "thuận thủ thu dương", khiến tổ chức Đạo Quân Cộng Hòa Ái Nhỉ Lan (IRA) từ bỏ vũ khí vì sợ ghép chung và thành phần khủng bố là mất hết chánh nghĩa, mục tiêu đấu tranh.

Thời chiến tranh lạnh, các đồng minh Âu Châu tỏ ra thờ ơ, dù Hoa Kỳ gánh hết cho phí, nhân mạng trong cuộc chiến tốn kém với khối Cộng Sản, trong đó có cả chuyện bảo vệ an ninh, quyền lợi của các nước dân chủ trước đại họa bành trướng, nhuộm đỏ toàn cầu của khối Cộng Sản quốc tế do Nga, Tàu lãnh đạo; thậm chí có vài nước Âu Châu còn đâm sau lưng, như Thụy Sĩ là nước công nhận chế độ Hà Nội sớm nhất và nước Pháp, nhất là thời tổng thống Charles De Gaulle, có chính sách thân thiện với Hà Nội; Pháp từng cung cấp dụng cụ phim cho Cộng Sản trong lãnh vực tuyên truyền, chi viện ống dẫn dầu trên đường mòn Hồ Chí Minh để các đơn vị chính qui có nhiên liệu mở nhiều trận địa chiến có xe tăng yểm trợ.

Thời chiến tranh lạnh, ở Á Châu, nhằm ngăn chận sự bành trướng khá nguy hiểm của Trung Cộng, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, từ thời tổng thống Eisenhower, học thuyết bao vây ngăn chận từ năm 1949, nhằm cô lập Trung Cộng mọi mặt, vô hiệu hóa kế: "minh tu Sạn Đạo, án độ Trần Thương", bảo vệ Đài Loan, ngăn chận Trung Cộng tại biển Đông. Tại khu vực Đông Nam Á, ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dallas, đưa ra học thuyết Domino, nhằm giữ vững tiền đồn chống Cộng miền Nam, nên mới có Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á ra đời; nhưng rất tiếc là học thuyết nầy đã bị gã ma đầu, chuyên viên đi đêm, và sau nầy gặp ma Trung Cộng, đã phá vỡ và dọn đường cho Trung Quốc trở thành "bầu bạn mới" sau cuộc ngoại giao bóng bàn 1972 tại Bắc Kinh.

Miền Nam Việt Nam là đồng minh thân cận của Hoa Kỳ, nhưng bất hạnh cho cả dân tộc là vị tổng thống đệ nhị Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, từng chơi với bạn mà không hiểu ý bạn, thế nên khi bạn không còn thân thiết thì bỏ chạy và bỏ rơi cả miền Nam rơi vào tay kẻ thù Cộng Sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông Thiệu và kể cả những cận thần "quân sư" như tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, trung tướng Đặng Văn Quang là những người nắm giữ tình hình hơn ai hết, biết rõ sau khi học thuyết "Nixon" Việt Nam hóa chiến tranh mà không lo tìm đường binh khác, đến khi Hoa Kỳ giảm quân viện thì mời nhảy, là quá trễ.

Nếu sau nầy, văn khố giải mật Hoa kỳ không nói về "sự mật ước rút quân 2 quân khu, để cho Cộng Sản Bắc Việt đánh nhanh, trong vòng 55 ngày vào tới Saigon giữa ông Thiệu và Hoa Kỳ", thì đây là lỗi của ông Thiệu, như vậy, hình như ông Thiệu là người "ích kỷ", ông có thể có ý nghĩ như những kẻ tầm thường: "ăn không được, ta phá cho hôi", tức là "ta thôi làm tổng thống, thì không có ai làm nổi", nên chính ông Thiệu, tổng tư lịnh quân đội, ban hành những lịnh bất nhất từ quân khi 1, quân khu 2, phá nát các đơn vị thiện chiến như sư đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và sau cùng trói tay danh tướng Ngô Quang Trưởng, tư lịnh quân khu 1 và kế tiếp là thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lịnh quân khu 2 nếu không có những lịnh "quái gở" nầy thì quân đội Cộng Sản Bắc Việt khó lòng mà nuốt gọn 2 quân khu trong vòng thời gian quá ngắn so với cuộc chiến trải dài từ 1954 đến 1975, lúc đó đạn dạn vẫn còn, tinh thần quân sĩ vẫn còn cao.

Trong bất cứ trận chiến nào, khi chủ tướng sanh tâm, phá nát quân đội để giặc tràn vào, thí thất bại cầm chắc trong tay. Miền Nam bị bức tử không do "đồng minh tháo chạy" mà nguyên nhân chính là do vị chỉ huy tối cao, tổng tư lịnh, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu gây ra. Một điều đau lòng khác là: trong cuộc chiến tranh lạnh, những điểm nóng như bán đảo Triều Tiên, Đông-Tây Đức thì đồng minh Hoa Kỳ chưa tháo chạy, chỉ có miền Nam Việt Nam mới lọt vào tay Cộng Sản, trước khi trách người, hãy xem lại mình trước, thì mới thấy được sự thật; đồng minh với đại sứ quán, cơ quan quân viện DAO, vẫn còn ở Saigòn, thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các cận thần đã "tháo chạy trước đồng minh", là sự thật. Nên quyển sách "khi đồng minh tháo chạy" của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng chỉ có giá trị với các văn bản lịch sử, nhưng chưa nhìn nhận sự thật và cũng nhằm biện minh cho ông Thiệu, kẻ mà tiến sĩ Hưng hưởng được nhiều ơn mưa mốc, chống Cộng trong phòng lạnh, đi hành quân ở "nước ngoài" bằng phi cơ hạng sang dành cho chính khách, thì ông không thông cảm những chiến sĩ trải thân ngoài mặt trận.

Hoa Kỳ có nhiều chính sách đối ngoại sau đệ nhị thế chiến, thông thường nghe nói nhiều nhất là "cây gậy và củ cà rốt", tức là dùng tiền tài, viện trợ, cho ăn trước, nếu sau nầy trở mặt là dùng cây gậy đập "vỡ sọ" như trường hợp của Saddam Hussein ở Iraq, mới được áp dụng từ thời Bush cha đến con qua hai cuộc chiến vùng Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên dùng cà rốt chỉ có thể nhử được thỏ, bọ còn chồn, chuột,.. thì không thành công. Nhưng đối với những đối tượng nầy, tốt nhất là dùng miếng thịt bên cạnh "gói cà ri, ngũ vị hương, hành tỏi, giền" là có thể làm chung chúng sợ.

Thời tổng thống đảng Cộng Hòa George.W. Bush, qua hai nhiệm kỳ, áp dụng học thuyết, theo tác giả Michael Benge, người từng bỏ ra hơn 11 năm sống và điều tra tình hình tôn giáo, nhân quyền tại Việt Nam, cho là Hoa Kỳ áp dụng học thuyết mới là "chính sách ngoại giao Cocacola" (Coke Bottle Diplomacy), đã được áp dụng từ thập niên 1980 đến nay, tỏ ra rất là "uyển chuyển", được nhiều đời tổng thống giải quyết sau cuộc chiến Việt Nam. Thời ông Bush con thì tình trạng vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo Việt Nam càng gia tăng, thế mà hành pháp, áp dụng lối mập mờ đối với nước theo Cộng Sản như Việt Nam: "khi ẩn khi hiện, khi trồi khi sụt, khi có khi không", lúc đưa vào, khi đưa ra tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với danh sách các nước vi phạm quyền tự do tôn giáo đáng quan tâm, thì làm sao Việt Cộng, Trung Cộng ngán? Những nước Cộng Sản rất ngoan cố, phải có biện pháp cứng rắn, mới mong tạo áp lực, bắt họ phải biết "uống nước ngọt nhớ nguồn", nếu không thì đừng giao thương, không ban qui chế bình thường hóa thương mại như thời chiến tranh lạnh là những nước độc tài hoảng sợ, như vậy "dung cờ là dung giặc" là nguyên tắc chơi cờ tướng, nhưng cũng nên áp dụng trong lãnh vực chính trị, nhất là đối với những kẻ thù gian hiểm Cộng Sản. Hoa Kỳ không giao thương với Việt Nam thì vẫn không bị ảnh hưởng kinh tế, như vậy Việt Cộng cần Mỹ hơn, đây là thế thượng phong mà Hoa Kỳ đã bỏ quên.

Từ nhiều năm qua, Hoa Kỳ đã cho Việt Cộng uống quá nhiều nước ngọt Cocacola để giải bớt đầu óc tàn ác, và họ tin tưởng là dần dần sẽ đưa đến dân chủ. Thật là ngây ngô, vì Việt Cộng vừa uống Cocacola của Mỹ và cũng vừa nhâm nhi rượu Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì của quan thầy Bắc Kinh, nên tiếp tục đàn áp tôn giáo; nhờ nước Coca mà Việt Cộng khỏe ra, thẳng tay hơn. Riêng Hoa Kỳ, năm 2007, tổng sản lượng đổ vào hơn 10, 6 tỷ Mỹ Kim mà vẫn chưa thấy có cải thiện tự do tôn giáo, khi mà các tín hữu Tin Lành miền Trung vẫn bị trù dập, bắt bớ, giam cầm, sát hại. Miền Tây thì Phật Giáo Miên Khmer Krom ở Sóc Trăng cũng bị bầy chồn Việt Cộng đàn áp, khiến ông Lục cả Tin Kakhorn đành phải sang Miên lánh nạn, cũng bị mật vụ Việt Cộng vượt biên, bắt, giải về Việt Nam bỏ tù; đạo Thiên Chúa cũng vẫn bị trù dập như cũ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất duới sự lãnh đạo của quí đại lão huề thượng Huyền Quang, Quảng Độ luôn bị "bao vây tứ bề" pháp nạn thảm thương.

Thế mà Hoa Kỳ vẫn cung cấp Cocacola đều đều, nên Việt Cộng càng "hồ hởi phấn khởi" đàn áp tôn giáo. Tháng 6 năm 2008 vừa qua, khi tên tưởng thú, thủ tướng không người lái Nguyễn Tấn Dũng, tức là Dũng Xà Mâu "qui mã", chỉ bàn về hợp tác kinh tế là chánh, còn nhân quyền, tự do tôn giáo chỉ bàn suông cho có lệ, theo ngôn từ ngoại giao thôi; được biết trước đó để chuẩn bị cung cấp thêm Coca, Mỹ lại đưa tên Việt Cộng ra khỏi danh sách, hổng biết, sau nầy có đưa trở lại khi "tình hình" thay đổi?.

Kể từ sau năm 1975 đến nay, con số người bị Việt Cộng tàn sát lên đến hàng triệu, nhưng nhân quyền, tự do tôn giáo vẫn là thứ "nằm trên đầu môi chót lưỡi" của giới lãnh đạo Hoa Kỳ và được hứa hẹn, cũng "bằng mồm" của những tướng cướp lừng danh trong bộ máy cầm quyền đảng và nhà nước Cộng Sản như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng mỗi lần mở chuyến công du, bèn xì chút hơi, thả vài nhà dân chủ, hay giảm án cho vài nhà đấu tranh mà Hoa Kỳ cũng như những viên đại sứ từ Peter Peterson, Michael Marine, nay là Michael Michalak cũng đều "phản ánh" tình hình nhân quyền "khi trồi, khi sụt" tùy theo hứa hẹn, hẹn hứa như "thủy triều" nước lớn, nước ròng.

Tức là những kẻ nầy đang đùa giỡn trên sinh mạng của hàng triệu người, mà lòng phơi phới niềm vui "quyền lợi", cứ thế mà phát huy. Nếu Hoa Kỳ cho Việt Cộng uống cocacola, thì nhớ đặt bên cạnh đó CÁI CÒNG SỐ TÁM, với án lịnh "phong tỏa tài chánh" từ tòa án quốc tế, kèm theo đơn thưa của những nạn nhân, những phúc trình các cơ quan điều tra liên quốc như Human Rights Watch, Amnest International để gây áp lực trực tiếp với những tên nào muốn uống Cocacola; uống phải tuân thủ điều kiện, chớ uống mà vẫn mặt chay mày đá, thì đâu phải của chùa, uống hoài sao?.

Tình hình vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo là rất nghiêm trọng, nhưng mỗi lần chính phủ Hoa Kỳ muốn thăm hỏi ý kiến của những công dân Mỹ gốc Việt, thì họ đã lầm, mời những người không đại diện cho dân, là các nhóm đảng phái như Việt Tân, Dân chủ Nhân Dân là không tôn trọng nguyên tắc dân chủ. Thay vì mời các đại diện cộng đồng là phù hạp với nguyện vọng và lá phiếu mà họ ủng hộ chính quyền trong các cuộc bầu cử. Khi những người không đại diện cho ai, nhóm thiểu số, nhất là đảng Việt Tân, hai lần qua chủ tịch đảng Đổ Hoàng Điềm, phát biểu lạng quạng, có lợi cho Việt Cộng, phớt lời tự do tôn giáo, và còn ca tụng Việt Cộng là: "không còn phân biệt đối xử với người quốc gia từ 1991 ....", thì Việt Cộng vô cùng "hồ hởi phấn khởi".

Hình như Hoa Kỳ cũng đã bị lọt vào bẩy của những tên "gian manh Bắc Bộ Phủ, cấu kết với thành phần đón gió hải ngoại nằm vùng" như băng đảng Việt Tân; đó là chuyện Việt Cộng cứ la lớn, lên án đảng Việt Tân với đủ các từ ngữ "phản động, khủng bố".... thì Hoa kỳ nhìn vào, bèn kết luận ngay: "đấy là những tổ chức chống Cộng THIỆT TÌNH", thì Việt Cộng mới đưa tên, cho nên mỗi khi có vấn đề cần tham khảo ý kiến là cứ nhắm mắt mời đại diện Việt Tân là không sai, nhưng Hoa Kỳ nào ngờ Việt Tân là tổ chức cò mồi của Việt Cộng đưa ra, họ chống Cộng chỉ vì THỊT TIỀN mà thôi Việt Cộng gian manh lắm, chúng lựa chọn tổ chức của chúng để" nâng cấp" thành kẻ thù cực kỳ nguy hiểm, đánh lừa thế giới, Hoa Kỳ và cả những người Việt tỵ nạn. Xin hảy đề cao cảnh giác, đừng lầm mà bị lọt vào cạm bẩy Việt Cộng lẫn Việt Tân, thì đường về tổ quốc" xa lắc xa lơ, khi trót nghe theo lời u mê".

Trương Minh Hòa

Hồng hơn Chuyên


Thanh Thủy

Một trong những khẩu-hiệu lừng danh của người Cộng-sản mà ai cũng biết là: Hồng hơn Chuyên. Tập-đoàn Cộng-sản Việt-Nam, mỗi khi đi Đông, về Tây, những cấp lãnh-đạo tối-cao của họ thường tuyên-bố đủ mọi điều để thuyết-phục, chiêu-dụ các chuyên-viên mọi ngành và những doanh-nhân người Việt ở hải-ngoại về nước để giúp cho họ những kỹ-thuật cao và vốn đầu-tư để cứu nguy cho chế-độ khi đảng Cộng-sản đang ở thế lâm-nguy, nhưng, điều đáng lưu-ý là họ không bao giờ dám đụng-chạm hay sữa-đổi những khẩu-hiệu mà đảng Cộng-sản vẽ ra cho họ vì đó là cẩm-nang căn-bản mà người Cộng-sản tuyệt-đối phải tuân-hành.

Hồng là đỏ, là màu mà người Cộng-sản dùng để làm tiêu-biểu cho họ, ám-chỉ màu máu, màu của bạo-lực cách-mạng, màu của máu đổ, thây phơi để xây-dựng nên “Thiên-Đàng Xã-Hội Chủ-Nghĩa”, cho nên cờ Cộng-sản luôn là màu đỏ: cờ Cộng-sản Nga màu đỏ với cái búa, cờ Trung-Cộng màu đó với một ngôi sao lớn và 4 ngôi sao nhỏ chư-hầu, cờ Việt Cộng màu đỏ với ngôi sao vàng, trông giống như hình con rùa vàng đang lội trong biển máu.

Dân-tộc Việt-Nam có nước da màu vàng, tánh tình hiền-lành và siêng-năng, cần-cù, có thể tập-đoàn Cộng-sản Việt-Nam và Hồ-Chí-Minh dùng con rùa vàng để tượng-trưng cho dân-tộc Việt-Nam và cho biết rằng dân-tộc Việt-Nam phải bơi trên biển máu nầy để xây-dựng đảng Cộng-sản. Tương-lai của dân-tộc Việt-Nam chắc-chắn được họ sắp-xếp phải như thế, cho nên từ ngày Hồ-Chí-Minh về nước lập ra đảng Cộng-sản cho đến nay, những thãm-trạng mà họ gây nên như khủng-bố, giết người, moi gan, mổ ruột, đàn-áp, bạo-hành, v.v…thường-xuyên xãy ra.

Thời chiến-tranh, họ pháo-kích bừa bãi, bất kể ngày đêm, vào thành-phố, vào trường học, vào những đoàn người chạy giặc, chôn tập-thể đồng-bào vô-tội ở những vùng mà họ vừa chiếm đống, xua đồng-đội của họ vào những mặt-trận khốc-liệt với chiến-thuật biển người, bất kễ thiệt-hại về nhân-mạng. Thời bình sau năm 1975, họ thi-hành một chánh-sách trả-thù, diệt chũng rất tàn-nhẫn, vô nhân-đạo qua chánh-sách “Học Tập Cải-Tạo”, “Vùng Kinh-Tế Mới”, Đánh Tư-Sản, Đánh Tiểu Thương, đàn áp mọi Tôn-Giáo và ra tay cướp-đoạt tài-sản, nhà cửa, ruộng đất của người Miền Nam mà hậu-quả đưa đến ngày nay là Phong-Trào Dân-Oan Khiếu-Kiện đang nổi dậy khắp nơi để đòi lại quyền sống và đòi lại những gì đã bị bạo-quyền cướp-đoạt.

Năm 1985, do sự u-mê, cao-ngạo và cuồn-vọng của tập-đoàn lãnh-đạo Hà-nội, khiến cho liên-tiếp 2 kế-hoạch ngũ niên của họ bị thất-bại hoàn-toàn, tài-nguyên khánh-tận, dân-tình đói khổ triền-miên, chế-độ lâm-nguy, bạo-quyền lo-sợ cho nên mới có chánh-sách cởi-mở kinh-tế để cứu nguy chế-độ.

Đã hơn 20 năm cởi-mở, theo đuổi nền kinh-tế thị-trường, bạo quyền đã nhiều lần thoát hiểm và những đảng viên Cộng-sản có quyền-thế, nhờ vào tham-ô, nhờ vào tài-nguyên của đồng-bào hải-ngoại gởi về, nhờ vào những kỹ-thuật văn-minh Tây-phương đã giúp cho họ canh-tân nhiều mặt để phát-triển kỹ-thuật làm ăn, tất cả những thứ ấy đã góp phần giúp họ đều trở nên giàu có, đặc-biệt, một số lớn còn là những cự-phú, những tư-bản đỏ, giàu hơn rất nhiều những tỷ-phú của thời Việt-Nam Cộng-Hòa. Nhưng, chủ trương Hồng hơn Chuyên của họ vẫn không hề thay đổi, không có bất kỳ một nhà chuyên môn nào, dù tài-ba đến đâu, có thể tham-chính nếu không phải là người Cộng-sản. Tất cả những lần bầu-cử của họ đều là gian-lận với cách-thức “Đảng cử, dân bầu”, bởi vậy, không một công-dân nào, dù là một người có một chuyên-môn giỏi mà họ rất cần, có thể chen chân vào chánh-quyền được, nếu không phải là đảng viên được họ chọn lựa.

Sau năm 1975, tất cả những người Việt vượt biên tìm tự-do đều bị bạo-quyền lên án là “Đồ phản quốc”, lười biếng lao-động, vượt biên để tìm những bơ thừa của đế quốc. Phũ-phàng thay, một thời gian sau, chính những kẻ vượt biên bị bạo quyền chưỡi rủa lại mang tiền của về để cứu chế-độ phi nhơn và giúp cho những kẻ nhục-mạ và giết hụt mình trở nên giàu có. Quyền-lợi riêng và nhu-cầu cá nhân đã làm cho nhiều người quay mặt với quá-khứ đau thương, bất kể những oan-nghiệt mà toàn dân phải hứng chịu do những hậu-quả đó gây ra, mặc dầu không ít người “áo gấm về làng” đã bị bạo-quyền lừa-đảo, phải “bỏ của chạy lấy người” mà một số người vẫn không tởn, còn thập-thò đợi dịp để “đút đầu vô gông”.

Thu-hoạch được một nguồn-lợi lớn-lao và vô tận nầy, bạo-quyền bèn đổi giọng, lớn tiếng tung-hô Người Việt Hải Ngoại là “Khúc Ruột Ngàn Dậm”. Thật, không ai tráo-trở bằng mồm mép Việt-Cộng. Nhưng, chỉ nói thế để bòn rút ngoại-tệ, bạo-quyền không bao giờ mở cửa chính-trường cho những “khúc ruột ngàn dậm” nầy bước vào, vì họ dù có Chuyên nhưng không Hồng mà nếu có Hồng đi nữa thì cũng chỉ là Hồng vuốt đuôi, Hồng đón gió, trở cờ, nên có quỳ lụy, lăng-xăng đến cở nào đi nữa thì cũng chỉ là những con cờ thí mà thôi. Ôn-ào, nịnh-bợ như tướng “Râu Kẽm”, chuyên-môn, lòn cúi như ông nhạc-sĩ già cũng chỉ được đứng sớ-rớ để “làm cảnh” cho chế-độ Việt-cộng bán nước mà thôi.

Việt-Nam hiện nay lại đang lâm vào cảnh suy-thoái trầm-trọng về kinh-tế vì sự bất tài của tập-đoàn lãnh-đạo và bị người dân khắp nơi lên án nặng-nề về tội đàn-áp Tôn-Giáo, tội đàn-áp những người bất đồng chánh-kiến trong nước, tội bán nước, dâng đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa cho ngoại bang, còn xã-hội thì bất ổn vì những vụ Dân-Oan Khiếu-Kiện, công nhân khắp nơi biểu tình đòi quyền sống vì làm việc vất-vả mà vẫn không đủ ăn,v.v… Trước những khó-khăn đó, bạo-quyền không có khả-năng để giải-quyết, cho nên, vừa rồi, Thủ-Tướng Việt-cộng Nguyễn-Tấn-Dũng lên tiếng cầu-cứu, kêu gọi những người trí-thức ở hải ngoại hãy xóa bỏ quá-khứ, đem tài-trí và chuyên-môn về giúp cho bạo-quyền giải-quyết để vượt qua được những khó-khăn hiện tại.

Qua một thời-gian dài, mọi người trong chúng ta dù biết ít hay nhiều về bản-chất của người Cộng-sản, nếu chịu để tâm đều nhìn thấy những trò lật lộng, tráo-trở mồm mép của họ, cho nên mỗi khi có những biến-cố gì xảy ra mà họ không có khả-năng giải quyết thì giọng-điệu của họ trở nên nhẹ-nhàng đầy vẻ khuyến-dụ, rồi những tên nằm vùng và cò-mồi ở hải ngoại phụ-họa, vận-động, thế là một số người hám-danh, hám-lợi, nhảy ra chụp giựt, phản-bội anh em, quay lưng trước niềm đau của vận nước, bước vào cạm bẫy “Lùi một bước để chuẩn-bị tiến tới 3 bước” của bọn người Cộng-sản.

Hiện nay, trước lời kêu gọi của Nguyễn-Tấn-Dũng, một số giới trẻ khoa-bảng, lòng nhiều sôi-động, nhưng nhẹ dạ và ưu-tư, muốn đáp-ứng lời kêu gọi đó để mang tài sức và học hỏi của mình về phụng-sự đất nước. Lòng yêu nước đó rất đáng được tuyên-dương, tuy nhiên, các bạn phải biết là vấn-đề nầy, bạo quyền đã chuẩn-bị từ lâu, các đảng-viên có thế-lực từ trung-ương xuống địa-phương đều tìm mọi cách cho con cháu của họ đi du-học đầy-dẫy ở các nước Tây-phương, một số lớn đã thành-đạt. Những thành-phần nầy đều Hồng lẫn Chuyên, Hồng từ trong trứng nước Hồng ra, các bạn đừng trông-mông gì có thể chen chân được với họ, lãnh-đạo mọi ngành trong xã-hội là bọn nầy, các bạn chỉ là tay sai, là những quân cờ.

Tuy nhiên, sở dĩ Nguyễn-Tấn-Dũng lên tiếng kêu gọi, chúng ta nhận thấy họ có một số lý-do:

1.- Để chứng tỏ cho thế-giới tây-phương thấy là họ thật sự cởi-mở để kêu gọi đầu tư của các nước Tây-phương hầu cứu-vãng nền kinh-tế của họ đang hồi kiệt-quệ.

Tương-tợ như trường hợp họ đem ông thiền-sư Nhất-Hạnh về đi khắp từ Nam chí Bắc để chứng-minh họ cho tự-do Tông-Giáo để được Mỹ xóa tên trong danh-sách các quốc-gia đàn-áp Tôn-Giáo để dễ-dàng chui vào WTO.

2.- Con cháu họ tuy đã đổ-đạt, thành-danh, nhưng trong tình-trạng khó-khăn, tốt nhứt là kêu gọi trí-thức bên ngoài về để giúp họ gánh-vác công việc, nếu thành-công thì họ hưởng, vì bọn nầy Hồng đủ tiêu-chuẩn, giới trí-thức bên ngoài chỉ có Chuyên thì được vài cái bằng ban khen, còn thất-bại thì những kẻ chỉ có Chuyên sẽ bị mang tội “phá-hoại cách-mạng”. Chuyện nầy thường xảy ra trong thế-giới Cộng-sản.

3.- Con cháu họ tuy đã đổ đạt thành danh, nhưng còn bận lo bao nhiêu vụ riêng-tư như rửa tiền, áp-phe, băng đảng, hoặc chơi-bời trụy-lạc, ăn trên, ngồi trước, tiền tham-ô quá nhiều nên thụ-hưởng đủ mọi thứ xa-hoa phè-phỡn, cho nên bọn “Con Ông Cháu Cha” nầy còn thì giờ đâu mà nghĩ đến những cuộc sống lầm-thang của dân chúng, những ô-nhục xã-hội, những suy-đồi đạo-đức.

4.- Trong nước hiện nay có những công-trình xây-dựng to lớn, quy-mô khắp từ Nam chí Bắc, những họa-đồ của những công-trình nầy hầu hết đều là của những kiến-trúc-sư, kỹ-sư con của bọn lãnh-đạo đảng, những người kiến-trúc-sư, kỹ-sư không có Hồng thì dù mang văn-bằng ở ngoại-quốc về, dù tài-ba có lỗi-lạc thì cũng chỉ là những kẻ thừa-hành đầy trách-nhiệm với những bất-trắc khó-lường.

Cầu Cần-Thơ đang xây mà đã sập trong thời-gian vừa qua đã làm thiệt-mạng bao nhiêu người, đến nay vẫn chưa thấy bạo-quyền cho biết lý-do để xử-lý những kẻ tắc-trách. Tìm ra lý-do tại sao cầu sập thì quá dễ đối với những người chuyên-môn, nhưng những kẻ phụ-trách kỹ-thuật xây cầu thì toàn là “Con Ông Cháu Cha”, chuyên ăn xén, ăn bớt vật-liệu trong đó thì làm sao mà họ xử-lý được? Trừ khi trong ban kỹ-thuật xây cầu có người chỉ có Chuyên mà thiếu Hồng làm tay sai, ví dụ như những người trí-thức ở hải ngoại đã hưởng-ứng lời kêu gọi của bạo quyền Việt-Cộng, thì vấn-đề sẽ trở nên ồn-ào và mọi người sẽ thấy ngay lập tức con cờ bị thí quân.

Để kết-luận một cách cụ-thể, chúng ta thấy cho đến ngày nay, tất cả mọi lãnh-vực điều-hành từ chánh-trị, kinh-tế, tôn-giáo, cho đến mọi ngành nghề sinh-hoạt trong xã-hội, từ trung-ương cho đến địa-phương, tất cả đều do bọn Hồng từ trong trứng nước Hồng ra lãnh-đạo chỉ-huy, không có bất cứ một bóng-dáng Chuyên thuần túy nào được chen chân vào. Đó là một bằng chứng xác-đáng để những người mang danh là trí-thức ở hải ngoại suy ngẫm và có thái-độ thích-nghi.

Thanh Thủy
(17/08/2008)

Ham hàng rẻ của Trung Cộng: ôm hận nghìn đời!

Trần Thanh

Ông Tứ buồn bã, chán ngán nhìn cái văn phòng làm việc rộng thênh thang và vắng tanh như chùa bà đanh. Mới hồi năm ngoái, văn phòng của ông lúc nào cũng đông nghẹt người, khách khứa ra vào ì xèo đến nỗi ông phải mướn tới ba cô thư ký giúp việc mà làm cũng không xuể. Vậy mà đánh đùng một cái, tình hình kinh tế bỗng nhiên xoay chuyển như màu da con cắc kè, biến cái tấp nập, rộn ràng của văn phòng ông thành ra cái ế hàng thê thảm như bãi tha ma! Lý do? Ồ, lý do thì nhiều lắm. Nào là chiến tranh đang bùng nổ ở Trung Đông, nào là xăng lên giá, nào là thị trường chứng khoán và nhà đất bị sụp đổ ..v..v... Cách đây hai năm, cái ."nghề" hoạt động "từ thiện" của ông vẫn còn rất sáng giá, tiền chui vô túi ông như suối chảy, đếm không xuể. Nhờ khéo đánh động vào lòng nhân đạo của cộng đồng Mỹ Việt và biết kết hợp với mấy TIÊN-SƯ-CHA quốc doanh việt cộng nên văn phòng dịch vụ từ thiện của ông lúc nào cũng đông khách. (Chú thích: TIÊN = giới nhà giàu; SƯ = công an đầu trọc; CHA = quạ đen)

Vốn xuất thân là du đãng Cầu Muối từ thuở nhỏ, kết hợp với khả năng thiên phú, ông Tứ có một cái mũi rất thính để đánh hơi tiền bạc. Bất cứ chỗ nào ông ngửi thấy mùi tiền là ông mò tới và chỉ trong một thời gian ngắn, là ông ... đào trúng cái mỏ liền. Cái hay và "thiên tài" của ông là ở chỗ đó! Ngoài "nghề" hoạt động "từ thiện", ông còn kiêm luôn "nghề" kinh doanh chính trị. Ông là một trong những sáng lập viên của cái đảng .Vì Tiền Đồ Của Dân Tộc, gọi tắt là đảng. VÌ TIỀN! Gọi tắt hơn nữa là đảng "Vi Ti"! (VT). Đã có một thời đảng VÌ TIỀN của ông hốt bạc dữ lắm, nhờ phịa ra cái gọi là "sư đoàn kháng chiến", có tới MƯỜI NGÀN .... ÂM BINH! Vào thời điểm đó, nước Mỹ chưa tháo bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hai nước còn thù nghịch, cho nên việt kiều ở Mỹ ngày đêm thương nhớ quê hương, ai cũng tưởng là vĩnh viễn nghìn trùng xa cách. Bởi vậy, khi đảng VÌ TIỀN của ông Tứ ra mắt đồng bào lần đầu tiên tại California và quyên tiền đồng bào để tổ chức kháng chiến, quang phục lại quê hương thì ngàn người như một, đồng loạt đóng góp tiền ào ạt tới mức đếm không kịp! Có người vừa ủng hộ tiền vừa ..... khóc! Ai ai cũng gửi gấm tất cả tấm lòng vàng và niềm tin rất cao vào đảng Vì Tiền Đồ Của Dân Tộc. Nội nghe cái tên đảng không thôi là người ta thấy cảm động, tin tưởng, muốn móc tiền trong túi ra để ủng hộ kháng chiến rồi!

Thế nhưng vở kịch .... bịp nào rồi cũng có lúc phải hạ màn. Lúc mới ra mắt đồng bào lần đầu tiên, đảng VÌ TIỀN được đồng bào tin tưởng, yêu mến bao nhiêu thì bây giờ người ta khinh ghét cái đảng lưu manh, lừa bịp ấy bấy nhiêu! Thật là ê chề quá, nhục nhã quá! Một số đảng viên vì ngây thơ bị dụ dỗ vào đảng, khi sự việc đổ bể, họ đã nhận chân ra sự thật, bèn từ bỏ đảng, quay về đời sống làm ăn lương thiện. Nhưng một số những tên bịp trong ban lãnh đạo, sau khi đã cuỗm được một món tiền lớn của đồng bào (khoảng vài chục triệu), vẫn tiếp tục con đường lừa gạt, buôn xương bán máu của người dân, và đồng thời bọn chúng đã về Việt Nam, lòn trôn bọn việt gian cộng sản, xin được bưng bô và đi đổ bô cứt cho việt cộng!!!

Tuy nhiên, giờ đây người dân ai cũng khôn ra rồi, cái chiêu bài "kháng chiến phục quốc" không còn ăn khách nữa vì thiên hạ đi về Việt Nam du lịch ào ào thì kháng chiến cái nỗi gì! Bởi vậy nên đảng Vì Tiền của ông Tứ lại xoay chuyển chiến lược sao cho phù hợp với tình thế mới, tựa như con cắc kè thay đổi màu da. Ông vẽ ra kế hoạch "hoạt động từ thiện", đánh động vào lương tâm, vào lòng nhân đạo và vào cái .... túi tiền của đồng hương Việt ở hải ngoại. Một lần nữa, ông lại thành công, lại đào trúng cái mỏ đô la! Việt cộng thấy ông làm ăn khấm khá, bèn kết nạp ông vào đảng Cộng Sản, đồng thời cử nữ cán bộ Huỳnh Thị Đào sang Mỹ, phối hợp với ông để đào mỏ đô la! Công việc đào mỏ chưa được bao lâu thì xảy ra tình trạng suy thoái kinh tế. Hơn nữa, ý thức của người dân bây giờ cũng cao hơn trước nhiều, .nhờ các tờ báo điện tử trên internet tố cáo các trò bịp của đảng Vì Tiền, nên không ai muốn "nối giáo cho giặc" nữa! Nữ cán bộ việt cộng Huỳnh Thị Đào bị người dân phát hiện, tố cáo, ôm cái đầu máu và cái .... bụng bầu do ông Tứ tặng cho, bỏ chạy về Việt Nam!

Ông Tứ há miệng thật lớn, ngáp một hơi dài cho thỏa nỗi chán chường, thất vọng của một gánh hát đang bị ế khách mà ông vừa là diễn viên, vừa là đạo diễn, kiêm luôn bầu gánh. Chán quá, ế như thế này thì lấy đâu ra tiền để trả tiền thuê văn phòng hàng tháng lên tới mấy ngàn đô! Bỗng nhiên ông thấy một thanh niên Mỹ đang đứng lấp ló nơi cửa. Đó là một người Mỹ chính cống, da trắng, tóc vàng, mắt xanh. Ông Tứ liền nhanh nhẩu chào mời:

- Hello, how are you. Come in please!

Anh thanh niên người Mỹ trạc 25 tuổi, dáng người cao và ốm roi roi, bắp thịt săn chắc, trông như một thể tháo gia nhà nghề. Ông Tứ lăng xăng kéo ghế mời anh thanh niên ngồi:

- What can I do for you, my friend? You want to give some donation? (Tôi có thể giúp bạn được điều gì? Có phải bạn muốn làm từ thiện phải không?)

Anh thanh niên Mỹ đưa tay ra bắt và tự giới thiệu:

- Xin chào ông. Tôi tên là Jack. Xin phép tôi có thể hỏi ông một vài điều được không ạ?

Ông Tứ sốt sắng:

- Được, được, anh cần điều chi, cứ nói!

Anh Jack cất giọng rụt rè:

- Ông có thể hàn gắn lại được những vết thương phải không ạ?

Ông Tứ vội tía lia cái miệng bằng vốn liếng tiếng Mỹ bồi:

- Đúng, đúng là như vậy. Chúng tôi có thể hàn gắn mọi vết thương chiến tranh, con xa cha, vợ xa chồng, anh em xa nhau. Ngay cả những người Mỹ có thân nhân mất tích tại Việt Nam, đang đau khổ, chúng tôi cũng có thể hàn gắn lại những niềm đau trong quá khứ cũng như trong hiện tại!

Rồi không đợi anh Jack lên tiếng, ông Tứ hỏi luôn:

- Chắc cha anh là cựu chiến binh Mỹ đã từng tham chiến tại Việt Nam trước năm 1975?

Anh Jack ngỡ ngàng:

- Ồ, thế ra đây không phải là văn phòng bác sĩ đông y?

Nghe Jack hỏi như vậy, ông Tứ biết ngay chắc anh ta đọc cái bảng quảng cáo phía bên ngoài, được viết bằng thứ tiếng Mỹ ba rọi, gây ra sự hiểu lầm! Ông Tứ vội xua tay:

- Đây là văn phòng từ thiện chớ không phải văn phòng bác sĩ đông y!

Anh Jack lúng túng xin lỗi:

- Xin lỗi, tôi lầm. Vì tôi thấy bảng quảng cáo bên ngoài có ghi giòng chữ " .... có thể chữa lành mọi vết thương bị đứt trong quá khứ ...." Xin lỗi, có phải ông là người Tàu không?

Ông Tứ vẫn cười tươi, xã giao:

- Vậy là anh hiểu lầm chúng tôi đấy. Ý chúng tôi muốn nói là giúp những người Mỹ có thân nhân bị mất tích tại Việt Nam, hàn gắn lại mọi vết thương tinh thần! Tôi là người Việt chớ không phải là người Tàu.

Anh Jack thở dài ngồi dựa ngửa trên ghế. Trông sắc mặt anh ta tái xanh, có vẻ như vừa mới trải qua một cơn đau đớn rất ghê gớm cả về thể chất lẫn tinh thần. Anh ta có vẻ ngại ngần trong giây lát rồi lên tiếng:

- Tôi có một chuyện rất đau buồn. Nếu không phiền thì tôi có thể giải bày tâm sự với ông được không ạ?

Ông Tứ tỏ vẻ thông cảm:

- Được, dù sao chúng tôi cũng là văn phòng chuyên tư vấn về tâm lý! Anh cứ việc kể ....

Anh Jack bắt đầu kể câu chuyện buồn của mình:

- Năm nay tôi vừa đúng 25 tuổi. Tôi là một thể tháo gia chuyên nghiệp, chuyên về bộ môn phóng lao và nhảy sào. Tôi đã từng đoạt huy chương vàng toàn quốc cách đây vài năm. Tôi đã ghi danh xin thi đấu để được lọt vào đội tuyển của Mỹ để đi tham dự Olympic năm 2008 tại Bắc Kinh, Trung Cộng nhưng không đủ điểm nên bị loại. Tuy vậy, vốn là người hâm mộ thể thao, tôi quyết định mua vé máy bay sang Trung Cộng xem Olympic 2008. Sẵn dịp này tôi cũng muốn nhìn tận mắt cái đất nước có diện tích đứng hàng thứ ba trên thế giới và dân số là một tỷ rưỡi, đông nhất thế giới. Đúng vào dịp này vợ tôi đang mang bầu sáu tháng nên cô ta không thể đi cùng tôi. Tuy nhiên, vốn là người cẩn thận, cô ta dặn dò tôi nhiều lần là khi sang Trung Cộng du lịch, đừng có thấy hàng hóa bán rẻ mà ham, kẻo rồi lại ôm hận nghìn đời! Chính bản thân cô ta đã bị một bài học nhớ đời! Số là, bên Mỹ bây giờ có hai hiện tượng "China" đáng chú ý, đó là: các cửa hàng loại "One dollar store" nhan nhản khắp nơi và các buffet. Một hôm vợ tôi vào cửa tiệm One-dollar-store thấy có bán loại dép Nhật (người Mỹ gọi là flip-flop) thật là đẹp, từ hình dáng kiểu mẫu đến màu sắc mà giá chỉ có một đô la một đôi. Nếu mua một đôi dép tương tự như vậy mà được chế tạo tại Mỹ thì tối thiểu giá phải gấp mười lần! Thế là cô nàng tha một lúc năm sáu đôi gồm nhiều màu sắc khác nhau đem về nhà. Nhưng chỉ sau có mấy ngày mang đôi dép rẻ tiền đó thì hai bàn chân của cô ta bỗng nhiên bị sưng tấy lên. Thế rồi sang đến tuần sau thì những vết sưng đã biến thành những vết lở loét rất đáng ngại. Sợ quá, vợ tôi vội vàng đi bác sĩ thì họ cho biết là hai bàn chân của cô ta đã bị nhiễm độc một loại hóa chất rất nguy hiểm, nếu không chữa trị sớm có thể bị cưa chân! Nhờ sớm phát hiện và lo chữa trị ngay cho nên vợ tôi mới thoát khỏi cái tai họa bị cưa chân, phải chống nạng! Ngoài ra, tôi còn nghe nói có một số đồ chơi cho trẻ em do Trung Cộng chế tạo bị nhiễm chất độc chì khá nặng. Các mặt hàng khác như son phấn phụ nữ, kem đánh răng, quần áo, thực phẩm sấy khô và đông lạnh, trái cây, rau "tươi", trà, ..v..v... tất cả đều bị tẩm các loại hóa chất độc hại, có thể gây ra bệnh ung thư cho người tiêu dùng. Nói tóm lại, tất cả những thứ gì được chế tạo ra từ Trung Cộng đều là những cạm bẫy giết người. Càng rẻ chừng nào thì càng nguy hiểm chừng đó. Trung Cộng đang đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa xuất cảng và bằng ô nhiễm môi trường. Cái tai họa của nhân loại trong thế kỷ 21 chính là đất nước Trung Cộng với dân số là một tỷ rưỡi!

Nói đến đây anh Jack dừng lại một chút để dò xét phản ứng của ông Tứ. Thấy ông Tứ gật đầu tỏ vẻ chú ý đến câu chuyện, anh ta hứng thú kể tiếp:

- Khi sang đến Bắc Kinh, sau ngày đầu tiên xem thế vận hội mở màn, ngày hôm sau, tôi đi dạo phố một mình, đi khắp các hang cùng ngõ hẻm, mặc dầu tôi không biết một chữ Tàu nào, còn người dân ở đây thì rất ít người biết tiếng Anh. Trong lúc đi lang thang, tình cờ tôi thấy một cửa tiệm có treo bảng quảng cáo rất hấp dẫn: "Sex Store, only One Dollar!" Tôi tò mò đi vào xem thì thấy đó là một cửa tiệm có ngăn ra nhiều tấm vách tựa như trong nhà vệ sinh đi tiểu của nam giới. Mỗi tấm vách cách nhau khoảng một mét, có cửa đóng đàng hoàng, đại khái trông gần giống như cái phòng điện thoại công cộng. Trên tường có vẽ những bức hình các cô gái Tàu xinh đẹp đang "thổi kèn"! Người khách chơi bời chỉ cần đút .... con cu của mình vào một cái lỗ trên vách tường thì lập tức phía đằng sau bức tường sẽ có một em Tàu ngồi "thổi kèn" cho người khách đến nơi đến chốn! Dĩ nhiên, muốn hưởng lạc thú này thì trước tiên người khách phải bỏ ra MỘT ĐÔ LA vào cái máy thâu tiền! Ối chào, chỉ có một đô la! Sao mà quá rẻ như vậy, ngoài sự tưởng tượng! Ở bên Mỹ, cái lạc thú "thổi kèn" như vầy tối thiểu phải từ 50 đô trở lên! Tự nhiên người tôi nóng bừng lên, rạo rực thèm khát cái trò cám dỗ rẻ tiền này. Những lời dặn dò của vợ tôi đã theo gió bay đi mất tự hồi nào. Tuy nhiên, tôi chưa đến nỗi như một kẻ chết đói lâu ngày, thấy miếng ăn là nhào vô chụp giựt. Tôi tần ngần đứng trong tiệm quan sát một lát xem thế nào đã. Bỗng tôi thấy cửa một phòng "thiên thai" xịch mở, một ông già lụ khụ, khoảng .... 80 tuổi, người da đen, hân hoan thơ thới bước ra khỏi phòng. Nét mặt ông ta rạng rỡ, nụ cười tươi rói, chứng tỏ là ông ta rất hài lòng với dịch vụ "thổi kèn". Tôi nhìn ông ta và thăm dò ý kiến:

- Is it OK?

Ông già không trả lời mà đưa ngón tay cái chỉa lên trời, nghĩa là "very good"! Thấy ông già 80 tuổi mà còn hài lòng như vậy thì tôi cảm thấy vững tâm, tin tưởng vào cái dịch vụ "one dollar" này. Tự nhiên lúc ấy tôi cảm thấy có cảm tình với người Tàu quá! Họ xứng đáng là trung tâm của thế giới, có nhiều sáng kiến hay, kinh doanh vừa rẻ lại vừa "bảo đảm chất lượng", nếu cứ như vầy thì họ sẽ thu hút hết tất cả khách du lịch trên thế giới! Tiếp theo đo,ù tôi lại thấy một ông già người Tàu mở cửa bước ra. Ông này cũng lớn tuổi rồi, tóc bạc phơ, áng chừng 70 tuổi. Ông này hiên ngang bước ra khỏi tiệm, cười hề hề, có vẻ rất hài lòng. Tôi bèn tới hỏi ông ta:

- Is it good?

Ông già Tàu nhăn răng cười:

- Hảo lớ, hảo lớ! (tốt lắm!)

Vậy là yên chí rồi. Hai người khách mà ai cũng hài lòng, nhất là, họ là những người già khó tính. Như vậy chứng tỏ đây là dịch vụ sex đáng tin tưởng. Thế là tôi quyết định nhập cuộc. Tôi hăng hái bước vào một "động thiên thai", .... hiên ngang móc ra một tờ giấy bạc MỘT ĐÔ LA, bỏ vào cái máy thâu tiền. Ngay lập tức cánh cửa trên tường mở đánh xoạch, để lộ ra một cái lỗ, đường kính khoảng năm phân. Đồng thời cái máy thâu tiền gắn trên tường phát ra một câu nói êm ái, ngọt ngào, giọng nữ:

- Insert your cock in here, please! (Làm ơn đút con cu của bạn vào!)

Lập tức tôi tụt quần, đút ngay con cu vào cửa "thiên đàng" để hưởng lạc. Ngay sau đó, tôi cảm thấy một cảm giác ấm áp, dễ chịu, rất là .... sướng, làm cho "thằng nhỏ" của tôi vùng lên ngay lập tức. Tôi tưởng tượng phía sau bức tường là một cô gái Tàu xinh đẹp đang ra sức "làm việc" để đem lại hạnh phúc cho tôi. Càng tưởng tượng thì tôi càng thấy sướng, cộng thêm sức thanh niên trai tráng của một thể tháo gia, "thằng nhỏ" của tôi nó đạt tới kích thước tối đa một cách dễ dàng chỉ trong mười giây..... Thế nhưng, bỗng nhiên tôi nghe đánh "soẹt" một tiếng, và cảm thấy đau nhói như bị dao cắt. Tôi vội thối lui để rút con cu ra thì, Chúa ơi, tôi tá hỏa tam tinh vì con cu của tôi đã bị ai lấy dao chặt đứt lìa và bị rớt xuống phía bên kia vách tường! Ối trời ơi, Chúa ơi, xin hãy cứu con! Máu tuôn ra xối xả! Tôi kinh hoàng quá vội bụm háng, chỉ mặc có cái quần xì líp, bỏ chạy ra ngoài, miệng la "help me! help me!" (cứu tôi!) Khi vừa chạy ra khỏi cửa tiệm thì tôi thấy có một vài người Tàu đã đứng chực sẵn bên ngoài với chai xịt thuốc cầm máu, tựa như chai keo xịt tóc. Họ xịt lia lịa vào vết thương của tôi rồi ra dấu cho tôi lên chiếc xe lôi để đi nhà thương. Họ chỉ nói được có một tiếng là "hospital" là tôi hiểu liền. Đó là chiếc xe lôi được gắn vào chiếc xe gắn máy. Tôi kinh hoàng nhảy vội lên xe. Tên tài xế nổ máy xe và phóng vụt đi .....

Anh Jack ngừng kể như để cố kềm hãm sự xúc động của mình. Còn ông Tứ thì vô cùng kinh ngạc vì đây là lần đầu tiên ông nghe thấy có một chuyện quái đản như vậy. Ông thúc dục:

- Rồi sau đó thế nào? Kể tiếp đi!

Anh Jack kể tiếp:

- Tôi nằm điều trị ở bệnh viện được ba ngày thì sang đến ngày thứ tư, nhân viên bệnh viện báo cho tôi biết, nếu tôi muốn gắn một con cu khác thì họ sẽ làm cho, với giá cũng rất rẻ, rất "hữu nghị" là ba ngàn đô! Họ nói hiện nay trong kho đông lạnh của họ đang "tồn kho" một con cu của một người da đen. Nếu tôi muốn thì họ sẽ gắn cho tôi, kích thước cũng không không thua gì cái đồ "o-ri-gin" của tôi, hiệu năng cũng rất là .... bảo đảm chất lượng! Nhưng lúc ấy tôi đã quá sợ cái đồ rẻ tiền rồi nên tôi từ chối ngay lập tức và đòi xuất viện. Tôi hối hận là đã không nghe theo lời khuyên của vợ tôi. Tôi dậm chân, bứt tóc mình và tự nguyền rủa mình:

- Em ơi, Kristine, anh là một thằng tồi. Anh cãi lời em trăm đường anh hư mà!

Ông Tứ bỗng cắt ngang câu chuyện bằng câu hỏi:

- Sao anh không gắn cái con cu khác vào. Giá chỉ có ba ngàn đô. Hai vợ chồng anh cần phải có nó, hạnh phúc gia đình mà?

Anh Jack rầu rĩ:

- Ông coi, tôi là người da trắng, mọi thứ trên người tôi đều là trắng, vậy mà tự nhiên con cu của tôi lại đen thùi lùi như cục than hầm thì coi sao được? Lúc tôi đi thì nó trắng, lúc tôi về thì nó đen! Tôi sẽ ăn nói với vợ tôi như thế nào đây? Mà liệu vợ tôi nó cái chịu cái thằng .... cu đen đó hay không? Khổ lắm ông ơi!

Ông Tứ bỗng nhiên bật cười khan vì cái ý tưởng ngộ nghĩnh của anh Jack. Nhưng sau đó ông nói:

- Xin lỗi anh tôi đã cười .... Vậy bây giờ tình trạng của anh ra sao?

Jack tiếp tục tâm sự:

- Sau này tôi tìm hiểu thật kỹ thì mới biết như vầy: có rất đông du khách trên thế giới đến xem Olympic. Nhân cơ hội này mấy cái tiệm ăn của bọn Tàu bất lương ra sức tìm đủ mọi mánh khóe để làm tiền. Tụi nó quảng cáo rùm beng là người Tàu có món ăn cổ truyền là mì xào "ngầu pín" và cháo "ngầu pín", hết sức là bổ dưỡng, tăng cường sinh lực, cường dương tráng thận cho giới đàn ông lẫn .... đàn bà! Tụi nó quảng cáo có đủ loại "pín" hết: nào là pín cọp, pín tê giác, pín trâu, pín bò, pín gấu, pín hải cẩu ..v..v.. Mỗi một loại pín bổ dưỡng theo một kiểu khác nhau. Một dĩa mì xào pín hoặc một tô cháo pín chỉ có năm đô la. Rất nhiều du khách tò mò đến ăn thử cho biết, kể cả các lực sĩ thế vận hội cũng đến thử, biết đâu nhờ ăn .... "pín" mà đoạt giải huy chương vàng thì vinh quang cho tổ quốc biết chừng nào! Nhờ biến cố thế vận hội và quảng cáo bố láo mà tụi ba Tàu hốt bạc, mấy tiệm bán cháo pín lúc nào cũng đông nghẹt khách. Thậm chí đối với những tiệm nổi tiếng, khách phải đứng xếp hàng rồng rắn dài cả cây số để được vào thưởng thức một tô cháo pín hoặc một dĩa mì xào pín! Với một số lượng thực khách đông khủng khiếp như vậy thì cọp, gấu, tê giác,trâu,bò ở đâu mà cung cấp pín cho xuể? Thế là bọn Tàu bất lương, tàn ác đã nghĩ ra cái trò "One dollar store Sex" để dụ những kẻ ham rẻ mà đem .... cúng con cu cho bọn chúng!

Chắc có lẽ ông thắc mắc là tại sao có mấy ông già vô "động thiên thai", lúc ra, ông nào cũng hân hoan, hài lòng? Bây giờ sau khi sự việc đã xảy ra, tôi đi tìm hiểu kỹ thì mới biết như vầy: đối với mấy ông già thì cái "pín" của mấy ông đó nó đã trở nên bèo nhèo rồi, đâu có thể nào "ta đi dựng cờ" được nữa! Bởi vậy tụi bất lương nó đâu có thèm chặt đứt làm gì! Lúc mấy ổng đút vào thì tụi nó xoa một ít .... xì dầu và mỡ heo lên con cu rồi cho con chó ngồi cạnh đó liếm! Làm gì có mấy em gái Tàu xinh đẹp nào ngồi đó mà "thổi kèn" như hình vẽ quảng cáo! Thỉnh thoảng có một vài ông bị xui xẻo vì con chó nó đang đói, nó bèn tớp đứt luôn cái "pín"! Tôi nghe nói mấy cái tiệm ăn đó, tụi nó thuê bọn sát thủ từ bên Ý Đại Lợi qua để chặt pín của khách hàng! Những loại khách hàng trẻ trung như tụi tôi, pín chất lượng tốt, sau khi đã "dựng cờ" thì a lê hấp, tên sát thủ mafia Ý bèn vung đao. Thế là đi đời một của quý của một nạn nhân ham đồ rẻ!!!

Kể xong câu chuyện, anh Jack đưa hai tay ôm lấy đầu, vẻ mặt rất rầu rĩ. Bỗng nhiên ông Tứ nhớ đến cái dịch vụ mà đảng Vì Tiền của ông đang hùn vốn kinh doanh với đảng Cộng Sản tại Việt Nam. Ông bèn giới thiệu với Jack:

- Này, anh Jack, vừa rồi anh bị bọn China nó đánh lừa. Tôi thành thật chia buồn cùng anh. Tuy nhiên tôi biết có một chỗ này giải trí, có thể làm cho anh vơi bớt cơn sầu ....

Jack tò mò hỏi:

- Cái gì và ở đâu?

Ông Tứ đáp:

- Anh nên đi du lịch Việt Nam. Ở đó có cũng có "One Dollar Store" giải trí đặc biệt lắm. Nó cũng gần giống như cái "động thiên thai" mà anh vừa kể ở bên Bắc Kinh. Nhưng ở Việt Nam, thay vì anh đút con cu của anh vào cái lỗ thì anh đút cái ..... đầu của anh vào!

- ?????

- .... Một khi anh đã đút cái đầu của anh vào rồi thì anh sẽ thấy một cô gái trẻ đẹp, cởi truồng một trăm phần trăm, sẵn sàng cho anh .... bú bất cứ cái gì mà anh muốn! Chỉ có MỘT ĐÔ LA thôi trong vòng mười phút! Rẻ quá đi chớ. Anh nên đi du lịch Việt Nam. Ông Triết, chủ tịch nước của chúng tôi đã từng quảng cáo: - con gái Diệc Nam đẹp lắm!

Bỗng nhiên anh Jack nổi giận, chửi thề ỏm tỏi:

- Fuck off, China son of the bitch! VietNamese communists son of the bitch too! (ĐM, Trung Cộng là đồ chó đẻ. Cộng sản Việt Nam cũng là đồ chó đẻ) Ở bên Trung Cộng, tôi đút con cu vô thì bị mất cu nhưng tôi vẫn còn được sống sót để trở về Mỹ. Nếu tôi ham rẻ, mà qua Việt Nam, lại nhào vô "One Dollar Store" thì tôi sẽ bị tụi chó đẻ nó chặt đứt mất cái đầu để nấu cháo thì làm sao tôi trở về Mỹ được? Fuck you, you fucking ass-hole guy! (Đù mẹ mày, mày là thằng khốn kiếp!)

Chửi xong anh Jack đứng phắt dậy, bỏ ra khỏi văn phòng. Còn lại một mình ông Tứ ngồi đực mặt ra và sượng sùng quá cỡ!

Trần Thanh
Ngày 16 tháng 8 năm 2008