Thursday, August 7, 2008

Bài Học Qua Biến Cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn


Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Hôm nay đúng 2 tháng lá thư gây sóng gió của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gởi đến 3 vị Giám Mục Việt Nam đi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney được phổ biến. Với nội dung và ngôn từ của lá thư, Hồng Y Phạm Minh Mẫn bị phê phán và chống đối khắp nơi tạo thành một biến cố lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người nhiều giới. Trong bài viết này, tôi cũng muốn nhắc lại một bài học rút ra từ biến cố xảy ra của Giáo Hội Công Giáo Ba Lan hơn một năm trước vì có điểm tương đồng với hiện tượng Hồng Y Phạm Minh Mẫn của Việt Nam.

Ngày Chúa nhật 7 tháng Giêng năm 2007, Giáo Hội Công Giáo Ba Lan đã “lên cơn sốt” bởi làn sóng phản đối mãnh liệt của dân chúng yêu cầu vị Tổng Giám Mục chỉ định của Tổng Giáo Phận Warsaw phải từ chức ngay trong ngày lễ nhậm chức (investiture). Lý do là vì Ủy Ban Điều Tra phanh phui ra bằng chứng cho thấy Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus trong quá khứ từng là điềm chỉ viên cho mật vụ của chế độ Cộng sản Ba Lan.

Các đài truyền hình ngày hôm đó chiếu đi chiếu lại cảnh dân chúng Ba Lan tập họp đông nghẹt bên ngoài nhà thờ Chánh Tòa thủ đô Warsaw, tay giơ cao biểu ngữ, miệng la hét inh ỏi yêu cầu Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus phải từ chức. Khi đó bên trong nhà thờ, ống kính truyền hình tập trung vào vị Tổng Giám Mục 67 tuổi trong phẩm phục đại trào đang khóc tức tưởi, đôi môi run rẩy, nước mắt chảy dài, đang cúi gầm đầu đọc bản văn từ chức, chỉ một vài phút trước khi bắt đầu nghi thức nhậm chức Tổng Giám Mục của Tổng Giáo Phận Warsaw là chức vụ cao trọng nhất của Giáo Hội Công Giáo Ba Lan. Cảnh tượng nhục nhã này diễn ra trong một buổi lễ rất long trọng, có mặt đông đủ các chức sắc đạo đời, kể cả Tổng Thống Ba Lan. Hình ảnh đó làm tôi nhớ mãi.

Vài ngày sau đó, tôi đã viết bài “MỘT BÀI HỌC QUA VIỆC TỔNG GIÁM MỤC WARSAW TỪ CHỨC” và tôi gửi lại kèm theo đây để đọc giả có dịp so sánh sự việc của hai vị chức sắc cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo Ba Lan và Việt Nam đã gây ra. Mặc dù tình tiết câu chuyện có khác nhau nhưng có điểm chung là cả hai vị chức sắc cao cấp đều bị dân chúng phẫn nộ và phản đối ầm ĩ. Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus đã nhận tội và xin từ chức, Hồng Y Phạm Minh Mẫn thì đang phải lánh mặt không dám chính thức công khai xuất hiện tại Hải Ngoại như trước nữa.

VÀI NÉT VỀ HỒNG Y PHẠM MINH MẪN

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một trong 5 vị Hồng Y từ trước tới nay. Vị Hồng Y tiên khởi của Việt Nam là Trịnh Như Khuê Tổng Giám Mục Hà Nội, được phong tước vị Hồng Y ngày 24 tháng 5 năm 1976, kế tiếp là những vị: Hồng Y Trịnh Văn Căn được phong tước vị Hồng Y ngày 30 tháng 6 năm 1979, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được phong tước vị Hồng Y ngày 21 tháng 2 năm 2001, Hồng Y Phạm Đình Tụng được phong tước vị Hồng Y ngày 26 tháng 11 năm 1994. Hiện nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chỉ còn được hai vị là Hồng Y Phạm Đình Tụng nguyên Tổng Giám Mục Hà Nội đã về hưu và Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn sinh năm 1934, xuất thân là một Linh Mục thuộc Giáo phận Cần Thơ, theo học tại Đại Chủng Viện Sài Gòn và chịu chức Linh Mục năm 1965. Năm 1993, cha Phạm Minh Mẫn được chọn làm Giám Mục Phó Giáo phận Mỹ Tho. Chỉ sau 5 năm Giám Mục Phó Phạm Minh Mẫn được chuyển về làm Tổng Giám Mục của cái gọi là Tổng Giáo Phận thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là Tổng Giáo Phận Sài Gòn trước kia, đã bị đổi tên sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Ngày 21 tháng 10 năm 2003 Ngài được phong tước vị Hồng Y.

Như vậy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một vị chức sắc được “thăng quan tiến chức” nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Chỉ trong vòng 10 năm từ vị trí khiêm tốn của một Giám Mục Phó trong một Giáo phận nhỏ ở miền quê đã được nâng lên tước vị Hồng Y cao trọng nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

VỊ HỒNG Y CỦA “MỤC VỤ DI DÂN”

Hồng Y Phạm Minh Mẫn trở thành một khuôn mặt quen thuộc của đồng bào Công Giáo và Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn Cộng sản tại Hải Ngoại qua vai trò đặc biệt có tên là “Mục Vụ Di Dân” của Ngài. Dưới danh nghĩa “Mục Vụ Di Dân” đó, mặc dầu trên thực tế giáo dân Công Giáo Hải Ngoại không có nhu cầu để Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam cần phải tiếp tay lo lắng nhưng Ngài vẫn đi lại thường xuyên qua nhiều quốc gia, xuất hiện nhiều nhất tại các Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ qua sự tiếp tay của một số Giáo Sĩ và Giáo dân tại địa phương. Vì thế, công tác “Mục Vụ Di Dân” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong những năm qua tỏ ra gặt hái nhiều thành công cụ thể và tương lai hứa hẹn sẽ thu góp thêm được nhiều thành quả ở trước thời điểm lá thư gây sóng gió được chính thức “chào đời” vào ngày 4/6/2008!

Tuy nhiên con đường “Mục Vụ Di Dân” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn không phải lúc nào cũng êm thắm và từ từ đã tự hé mở quan điểm của Ngài qua những lần trả lời phỏng vấn hoặc qua lá thư Mục Tử khi lên tiếng về Linh mục Nguyễn Văn Lý với bài viết “ngôn sứ thật, ngôn sứ giả”; có lần Ngài gọi đồng bào tị nạn Cộng sản tại Hải Ngoại là “tha phương cầu thực”. Gần đây nhất, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại nên xóa bỏ căn cước tị nạn! Những điều này đã làm cớ cho một số người lên tiếng chống đối.

Phải chăng thời gian rồi đã qua đi và những tiếng nói chống đối cũng thưa dần rồi lặng im, mọi chuyện đâu lại vào đấy mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn lại vẫn mạnh tiến trên con đường “Mục Vụ Di Dân”“luôn đầy ắp công việc của Giáo phận, của Giáo hội Việt Nam và trong cương vị Hồng Y còn thêm những công việc của Toà Thánh, với tuổi càng cao, càng thường xuyên đau yếu ...” nhưng chương trình chu du Hải Ngoại của vị Hồng Y tuổi cao sức yếu này khiến cho những nhà ngoại giao chuyên nghiệp nhìn vào cũng phải chóng mặt.

Điều này cũng dễ hiểu vì có nhiều Giáo Sĩ và cơ sở tôn giáo Hải ngoại lúc nào cũng sẵn sàng “trải thảm đỏ” để đón vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Sự có mặt của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong các dịp Đại Hội, các dịp lễ, các dịp rước kiệu, các dịp hành hương, các dịp khánh thành, các dịp kỷ niệm của giáo xứ và cộng đồng đã trở thành mốt thời thượng làm cho buổi lễ thêm phần long trọng để thu hút giáo dân tới tham dự cho đông. Trong các trường hợp đó, hình ảnh và tên tuổi của Hồng Y Phạm Minh Mẫn lúc nào cũng chiếm chỗ trang trọng trên các tờ thông báo chương trình.

DÂY ĐÀN CĂNG THẲNG

Với nội dung và ngôn từ của lá thư ngày 4 tháng 6 vừa qua, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã lái thuyền vào vùng biển động! Ngài đã đụng chạm tới một sự kiện rất tế nhị đối với Cộng Đồng Người Việt tị nạn Cộng sản tại Hải Ngoại qua quan điểm Cờ Vàng, Cờ Đỏ! Đề tài này lúc nào cũng căng thẳng như một dây đàn, chỉ sờ nhẹ vào đã bật ra tiếng kêu, nói gì đến việc Ngài dùng ngón tay búng mạnh vào đó!

Ai cũng biết những người Việt tại Hải Ngoại đại đa số là những nạn nhân đã phải trốn chạy chế độ Cộng sản và muôn đời lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là một biểu tượng thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Ngược lại, họ kinh tởm lá Cờ Đỏ Sao Vàng mà họ gọi là “cờ máu”, vì lá cờ máu này mà họ đã phải liều chết vượt biên trốn chạy chế độ Việt cộng man rợ, mang theo lời sỉ vả của Phạm Văn Đồng là thủ tướng Việt cộng lúc bấy giờ: “bọn chúng đàn ông là hạng ma cô, đàn bà là hạng đĩ điếm. Bọn chúng phải ra đi cho sạch đất nước ...”. Trong tình cảnh đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai lên tiếng đòi triệt hạ Cờ Vàng và gián tiếp giới thiệu Cờ Đỏ trong dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney thì tránh sao cho khỏi sự phẫn nộ của đồng bào Hải Ngoại?

Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn ghi lại sự kiện là vì thư đó mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã gặp sự chống đối một cách dữ dội của nhiều người và nhiều giới, phần đông là người Công Giáo. Có thể nói trong lịch sử của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ trước tới nay chưa có một chức sắc cao cấp nào bị nhiều người người phê bình, phản đối, chế diễu, bêu rếu với lời lẽ nặng nề qua các câu vè, thơ phú, tranh biếm họa .... lên án gắt gao như Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Có người còn mượn gió bẻ măng, nhân cơ hội này đã mang luôn cả Giáo Hội Công Giáo đặt lên bàn mổ. Từ sự việc đó có thể rút ra một bài học nhớ đời cho nhiều người, trước tiên là cho chính con người đã gây ra cớ sự.

BÀI HỌC CỦA HỒNG Y PHẠM MINH MẪN

Trước tiên phải nói, có lẽ vì từ trước tới nay Hồng Y Phạm Minh Mẫn được các Giáo sĩ và Giáo dân Hải Ngoại tranh nhau đón rước và dâng cúng tiền bạc một cách hậu hĩnh trong các chuyến đi “Mục Vụ Di Dân” đã khiến cho Ngài lầm tưởng là Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại là một đàn chiên ngoan dễ sai dễ bảo và sẵn sàng cúi đầu vâng nghe theo lập trường chính trị của cá nhân Ngài. Sự kiện này đã được ông Mặc Giao, một cây bút Công Giáo nhận xét trong bài tựa đề TỨ MÃ NAN TRUY của ông được phổ biến gần đây; “Điều này cũng cho thấy các vị có thẩm quyền của Giáo Hội tại quê nhà từ lâu có thói quen coi thường giáo dân. Giáo dân trong nước ít phản ứng vì không dám. Giáo dân Hải Ngoại có nhiều phản ứng hơn nhưng bị coi là hành động của một thiểu số cứng đầu, thích “phản chứng” (contestataire), còn lại đều là một đàn cừu ngoan ngoãn để xoa đầu cạo lông, hay một đàn bò béo để vắt sữa. Các vị cứ làm như giáo dân Hải Ngoại không có cái mồm để nói, không có cái đầu để suy nghĩ.”

Về điểm này, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney và Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã có câu trả lời cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn một cách rất hùng hồn trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney vừa qua.

Đề tài Cờ Vàng, Cờ Đỏ không thuộc về bổn phận của một chức sắc tôn giáo phải nêu lên. Nếu Hồng Y Phạm Minh Mẫn tôn vinh lá cờ đỏ, nếu nhờ lá cờ máu mà Ngài được thăng quan tiến chức để có vị trí như hiện nay thì việc “ăn cây nào phải rào cây đó” là chuyện đương nhiên. Dù vậy, khi Ngài dùng cách nói ví von về người mẹ Việt Nam lúc mặc áo vàng lúc mặc áo đỏ ... để có ý rao bán món hàng “cờ đỏ” với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng sản tại Hải Ngoại là một ước tính sai lầm. Làm như thế chẳng khác nào một nhà buôn mở cửa hàng bán thịt lợn giữa thủ đô của nước Á- rập Saudi!

Một điểm khác, tôi nghĩ là qua sự việc này cũng giúp Hồng Y Phạm Minh Mẫn bài học về cách xử dụng ngôn từ trong các văn thư. Ba chữ “một thói đời” trong ngôn ngữ Việt Nam có nghĩa rất xấu, chỉ dùng để bày tỏ sự khinh dể hoặc khi muốn sỉ nhục kẻ khác. Nếu vì chưa hiểu được ý nghĩa của ba chữ đó mà Ngài đã dùng “một thói đời” với những người tôn vinh lá Cờ Vàng, thì lúc này, qua cơn thịnh nộ của họ, chắc Ngài đã hiểu. Ngược lại nếu Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiểu được ý nghĩa mà đã cố tình dùng cách nói “một thói đời” để nhục mạ Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại thì từ nay làm sao Ngài có thể rao giảng đức bác ái được? Với lối xử dụng ngôn từ như thế, chẳng những Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tự hạ giá trị bản thân và tước vị Hồng Y mà Ngài được tặng phong mà còn mắc món nợ ân tình với những người đã từng đón tiếp và đóng góp tài chánh cho Ngài. Với lối xử dụng ngôn từ như thế Ngài đã gây đau buồn và tủi nhục cho người Công Giáo, chưa kể tới Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn mắc món nợ danh dự đối với Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.

Có lẽ điểm sau cùng và quan trọng nhất là qua biến cố nói trên Hồng Y Phạm Minh Mẫn biết là tên tuổi của Ngài đã chết đối với Cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Con đường “Mục Vụ Di Dân” thực sự đã tắt nghẽn vì những chiếc cầu đã bị sập toàn bộ bởi quả bom có sức công phá khốc liệt mà tự tay Ngài đã châm ngòi cách nay vừa đúng hai tháng. Bằng chứng là Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không dám xuất hiện tại các nơi đã được thông báo trong chương trình như Portland, Seattle, San Jose, Sydney. Cách đây vài ngày Ban Tổ Chức Đại Hội Thánh Mẫu thường niên của Dòng Đồng Công ra thông báo cho biết Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ không tham dự.

Tôi mong là Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên tiếp tục hủy bỏ chuyến đi Lourdes, vì trong Lá Thư Mục Tử ngày 15 tháng 7 vừa qua, Ngài nói là được mời đi Lourdes nhưng viết thêm một câu thòng “nếu sức khỏe cho phép” thì Ngài sẽ đi! Trong hoàn cảnh hiện nay, tôi thiết nghĩ sức khỏe của Ngài “không cho phép” ngoại trừ có “sức ép từ một thế lực” nào đó mà Ngài vẫn cần phải tham dự!

TÂM TÌNH THAY LỜI KẾT

Câu chuyện về Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một câu chuyện buồn. Nỗi buồn này không phải cho riêng cá nhân Hồng Y Phạm Minh Mẫn mà còn cho Cộng Đồng Công Giáo Hải Ngoại đã từng quý mến và ân cần tiếp đón Ngài. Nỗi buồn cho những người tôn vinh lá Cờ Vàng là biểu tượng thiêng liêng của hai chữ Tự Do. Đây là nỗi buồn cho những người Công Giáo Việt Nam nói chung, nhưng quan trọng và xâu xa hơn nữa là qua sự kiện này gợi lại nỗi buồn về số phận của Dân Tộc Việt Nam.

Dù vậy qua biến cố này có dấu hiệu chứng tỏ giáo dân Việt Nam đã trưởng thành, không còn giữ thái độ cúi đầu vâng dạ một cách thụ động nhưng đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến và phê phán việc làm sai trái của Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho dù Ngài là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội. Người Công Giáo phải hiểu là Giáo Hội luôn được hướng dẫn bởi Thần Linh Thiên Chúa, nhưng Giáo Hội được điều hành bởi những con người. Người Công Giáo phải tin là giáo lý của Đức Kitô không bao giờ sai lầm, Thần Linh Thiên Chúa không bao giờ sai lầm, nhưng con người thì ai cũng có thể sai lầm được. Vì thế không có gì tai hại cho bằng đồng hóa các chức sắc lãnh đạo Giáo Hội với chính Giáo Hội.

Biến cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng nhắc nhớ Dân Tộc Việt Nam về chủ thuyết ngoại lai Cộng sản đã gây ra bao đau thương tang tóc cho Dân Tộc. Chủ thuyết đó đã và đang tìm cách hủy diệt nền tảng đạo lý và gây hận thù trong lòng Dân Tộc giữa hai thành phần đối kháng nhau. Cũng vì chủ thuyết đó mà một thành phần Dân Tộc đã phải trốn chạy bỏ nước ra đi.

Tuy hai biến cố của Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus và Hồng Y Phạm Minh Mẫn có điểm tương đồng, nhưng câu chuyện nước người đã kết thúc, vì chế độ Cộng sản Ba Lan không còn tồn tại và vị Tổng Giám Mục đã từ chức lui vào bóng tối. Ngược lại, chế độ Việt gian Cộng sản đang còn đó và chế độ quỷ quyệt này không bao giờ mệt mỏi trong ý định thò vòi ra hút máu Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại. Chúng thực hiện âm mưu này bằng tất cả mọi thủ đoạn, kể cả lợi dụng các tôn giáo.

Lời cuối cùng tôi muốn chia sẻ là bao lâu chế độ Việt cộng còn tồn tại là bấy lâu Dân Tộc Việt Nam còn chia rẽ, còn hận thù và các Tôn giáo còn bị chúng lợi dụng trong âm mưu đen tối. Xét cho cùng, tất cả chúng ta đều là nạn nhân của những đầu óc tinh ma trong bộ máy cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Qua biến cố này, Dân Tộc Việt Nam càng xác định rõ bổn phận phải làm hết mọi cách để tháo gỡ bộ máy quyền lực của chế độ Cộng sản Việt Nam, một chế độ phản dân hại nước đang cố bám vào huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh để tồn tại hầu tiếp tục đè đầu cưỡi cổ Dân Tộc.

BÀI HỌC QUA VIỆC TỔNG GIÁM MỤC WARSAW TỪ CHỨC

Một bản tin được hầu hết các cơ quan truyền thông trên thế giới loan tải với tựa đề lớn:

“Giáo Hoàng Benêđicto XVI đã yêu cầu Tổng Giám Mục chỉ định của Warsaw từ chức vài phút trước khi cử hành lễ nhậm chức, sau khi Tổng Giám mục Stanislaw Wielgus xác nhận ông đã từng là một điềm chỉ viên cho mật vụ thời chế độ cộng sản Ba Lan”.

Ngoài phần tin tức và bình luận khá dài trên các báo, ngày 8-1-2007 các kênh truyền hình CNN và BBC còn chiếu nhiều hình ảnh liên quan tới sự kiện này. Hình ảnh vị Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, 67 tuổi, mặc phẩm phục đại triều trong ngày lễ nhậm chức tại nhà thờ chánh tòa Warsaw, đang ngồi cúi gập đầu, nước mắt chảy dài và đôi môi mấp máy trong tư thế vô cùng khổ sở là hình ảnh làm tôi nhớ mãi.

Trong đoạn phim khác chiếu cảnh một viên chức Tòa Thánh mặc áo dòng đen, đang giơ cao bản “giao kèo” mà Tổng Giám Mục (TGM) Stanislaw Wielgus đã ký với mật vụ cộng sản Ba Lan nhận làm điềm chỉ viên ngay từ những năm 1960. Tờ giao kèo đó là bản “án tử hình” mà TGM Stanislaw Wielgus đã tự ký cho mình từ mấy chục năm trước và vừa mới được moi ra từ văn khố của chế độ này đã sụp đổ 17 năm qua. Trước cái bóng ma trong quá khứ hiện về như thế, TGM Wielgus không còn có thể tiếp tục biện minh cho quá khứ vô tội của mình như ông đã từng làm để phản bác những người chống đối việc ông được được Giáo Hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào chức vụ cao trọng nhất của giáo hội Ba Lan. Ông phải từ chức!

ĐẦU ĐUÔI CÂU CHUYỆN

Các tài liệu của Ủy ban điều tra cho biết Stanislaw Wielgus đã được mật vụ cộng sản Ba Lan móc nối ngay từ khi còn là sinh viên ở Đại Học Lublin từ năm 1967 và có bí danh là “Agent Grey” hoặc “Adam Visocki” và có nhiệm vụ theo dõi những hoạt động “phản cách mạng” của các linh mục.

Theo tin của hãng REUTERS, sau khi chịu chức linh mục Wielgus đã có thời là Giáo sư triết học và là Giám đốc Đại học Công Giáo Lublin trước khi trở thành Giám mục tại Plock vào năm 1998. Dưới chế độ cộng sản ông được được hưởng đặc ân xuất ngoại và phải tiếp xúc với mật vụ trước và sau các chuyến đi.

Tờ báo có khuynh hướng bảo thủ Gazeta Polska, trích dẫn những tài liệu từ thời cộng sản Ba Lan, sau này đã được công khai hoá cho thấy Wielgus làm việc với mật vụ cộng sản Ba Lan trong hơn 20 năm kể từ thập niên 60 cho tới khi chế độ đó sụp đổ. Ủy ban điều tra của giáo hội trong vụ này đã cho biết “nhiều tài liệu đã xác nhận Wielgus tình nguyện... cộng tác” (many documents which confirm Wielgus’s willingness to...cooperate.)

Ý DÂN LÀ Ý TRỜI

Khi Đức Hồng Y Josef Glemp, Tổng Giám Mục Warsaw hưu trí, Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm TGM Stanislaw Wielgus thay thế vào chức vụ này. Ngay sau khi tin đó được công bố đã có sự phản kháng từ nhiều giới, nhưng Giáo Hoàng vẫn giữ lập trường. Cho đến trước lễ Giáng sinh 2006 vừa rồi, Giáo Hoàng còn tuyên bố là ngài đã biết rõ về quá khứ của người mà ngài đã chọn lựa vào chức vụ Tổng Giám Mục Warsaw. Tuy nhiên làn sóng những người phản đối càng lúc càng dâng cao và sau khi đại diện Toà Thánh có cuộc họp với chính phủ Ba Lan, và trước nguy cơ có sự phân hoá trầm trọng trong nội bộ Giáo Hội Ba Lan và nhất là sau khi những tài liệu mật do Ủy Ban điều tra công bố cho thấy TGM Wielgus đã từng là một điềm chỉ viên của mật vụ cộng sản Ba Lan nên Giáo Hoàng đã phải nhượng bộ và ra lệnh cho Tổng Giám Mục Wielgus từ chức chỉ vài phút trước nghi thức nhậm chức (investiture) trong thánh lễ Chúa Nhật 7 tháng Giêng tại nhà thờ Chánh Toà Warsaw, sau khi đã ở trong chức vụ chỉ định này được 2 ngày.

Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus đã đọc bản văn từ chức trong thánh lễ có đủ chức sắc cao cấp đạo đời tham dự, kể cả Tổng Thống Ba Lan Lech Kaczynsky và Hồng Y Stanislaw Dziwicsw, TGM Giáo phận Cracow, nơi Giáo Hoàng John Paul II phụ trách khi còn là Hồng Y Carol Vojtyla. Thánh lễ hôm đó được báo chí mô tả là “hỗn độn” vì bên ngoài có đám đông biểu tình la ó đòi TGM Stanislaw Wielgus phải từ chức trong khi đó bên trong nhà thờ một số người lớn tiếng van nài: “Xin cha ở lại với chúng con!”

Hãng REUTERS còn cho biết, hiện nay chính phủ Ba Lan đang có nỗ lực đoạn tuyệt với quá khứ cộng sản bằng cách cho mở các hồ sơ mật của chế độ cộng sản để thanh lọc hàng ngũ và nhất là đang xem xét lại vai trò của giáo hội Công Giáo trong thời kỳ đảng cộng sản cầm quyền. Linh mục Isakiewics-Zaleski thuộc nhóm đối lập với đảng cộng sản Ba Lan, sắp xuất bản cuốn sách mà người ta nghĩ là sẽ phanh phui danh tánh thành phần giáo sĩ làm tay sai cho chế độ cộng sản, mà mới đây một giới chức Toà Thánh cho biết có tới 15 % trong tổng số linh mục đã hợp tác với chế độ cộng sản. Mục tiêu hàng đầu của chính quyền bảo thủ hiện nay của Ba Lan là loại bỏ những gương mặt nổi trong chế độ cộng sản ra khỏi các vị trí quan trọng tại Ba Lan. Tổng Giám mục Stanislaw Wielgus đã rơi vào trường hợp này.

ĐIỀM CHỈ VIÊN LÀ GÌ?

Những ai đã từng sống với cộng sản, nhất là những tù nhân chính trị của chế độ cộng sản, đều có kinh nghiệm, và có khi là nạn nhân, của cách thức công an mật vụ cộng sản chiêu dụ người trong hàng ngũ đối phương vì một quyền lợi nào đó để trở thành “tai mắt” của chế độ trong công tác rình mò theo dõi và báo cáo hành vi những người chung quanh. Biện pháp “người mình kiểm soát người mình” được các mật vụ cộng sản khai thác tối đa trong cố gắng ngăn chặn và diệt trừ thành phần chống đối đảng. Một tài liệu của Chính phủ Đức vừa công bố sau khi khai quật hồ sơ mật thời chế độ cộng sản Đông Đức cho thấy tên tuổi của 91.000 công an mật vụ và 300.000 điềm chỉ viên – hay một điềm chỉ viên trên 50 người dân Đông Đức!

Đối với những thành phần mà người cộng sản biết là lúc nào cũng có tư tưởng chống đối chế độ như giáo hội Công Giáo thì hệ thống tổ chức “điềm chỉ viên” càng được coi trọng và được móc nối công phu hơn. Những điềm chỉ viên nào ít bị anh em chung quanh nghi ngờ nhất sẽ là điềm chỉ viên lý tưởng. Như vậy có một điềm chỉ viên trong hàng giáo sĩ như Stanislaw Wielgus để theo dõi và báo cáo hoạt động “phản cách mạng” của giáo hội Ba Lan thật là lý tưởng đối với mật vụ cộng sản Ba lan. Dĩ nhiên các điềm chỉ viên sẽ được phần thưởng, theo nguyên tắc có làm có hưởng, làm ít hưởng ít làm nhiều hưởng nhiều. Phần thưởng có nhiều hình thức khác nhau, trong trường hợp Stanislaw Wielgus, phần thưởng cho vai trò điềm chỉ viên là được cho phép đi nước ngoài! (Allowed to travel abroad).

ÂN HUỆ CỦA ĐẢNG

Ai cũng biết chế độ cộng sản kiểm soát dân rất chặt chẽ bằng chính sách hộ khẩu. Mặc dù tùy theo hoàn cảnh và thời gian mà sự kiểm soát này có thể gia giảm, nhưng nói chung sự di chuyển của người dân từ nơi này đến nơi khác, ngay cả trong nước, luôn luôn là một vấn đề đối với người dân. Hiểu như vậy sẽ thấy rằng “cho phép đi nước ngoài” quả là một ân huệ lớn lao của đảng cộng sản Ba Lan ban cho và Stanislaw Wielgus đã tự ký một “bản án tử hình” từ những năm xa xưa để được hưởng ân huệ đó.

Một điều đáng nói ở đây là khi nhận công tác làm điềm chỉ viên cho mật vụ Ba Lan, Stanislaw Wielgus đã không nghĩ rằng có ngày chế độ cộng sản quỉ quái đó sẽ sụp đổ và tờ giao kèo mà ông đã ký khi nhận làm tay sai cho bọn chúng sẽ có lúc bị phanh phui và được công bố trên toàn thế giới! Những giọt nước mắt của Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus chảy dài xuống má chỉ vài phút trước khi chính thức nhận chức vụ cao cả nhất của giáo hội Công Giáo Ba Lan: Tổng Giám Mục của Tổng Giáo Phận Warsaw, thủ đô nước Balan, có ý nghĩa rõ rệt trọng của nó. Rõ ràng đó là những giọt nước mắt của sự hối hận. Dù vậy không phải TGM Stanislaw Wielgus hối hận vì đã phản bội giáo hội Công Giáo Ba Lan, mà hối hận vì đã khờ khạo không nghĩ là có ngày chế độ cộng sản Ba Lan sẽ phải sụp đổ và nhất là hối hận vì đã dại dột lưu lại bằng chứng về hành vi phản bội của mình.

TRÔNG NGƯỜI LẠI NGẪM ĐẾN TA

Biến cố Stanislaw Wielgus đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh của Giáo hội Công giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Khi thấy trên màn ảnh TV cảnh một viên chức Toà Thánh giơ cao “bản án tử hình” mà Wielgus đã tự ký để đổi lại ân huệ nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan cho phép xuất ngoại tôi chợt giật mình liên tưởng tới hiện tượng “ra nước ngoài” khá tấp nập của một số giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam trong nhiều năm qua. Phần đông là đi Mỹ.

Tôi không phản đối việc xuất ngoại này, vì mỗi người đều có lý do riêng để xuất ngoại và tôi luôn tôn trọng những lý do đó. Đối với các vị Hồng Y, Giám Mục tôi lại càng kính cẩn hơn vì các ngài là những chức sắc cao cấp của Giáo Hội, có thể các ngài có những sứ mệnh thiêng liêng cao cả cần phải ra nước ngoài mà tôi không thể biết được. Tuy nhiên có đôi lần tôi nghe biết có một số giáo sĩ xuất ngoại chỉ với mục đích vận động tài chánh, dĩ nhiên là với mục đích cao cả như xây nhà thờ và lo các việc từ thiện bác ái.

Đồng bào Công Giáo Viêt Nam hải ngoại rất rộng rãi khi được kêu gọi đóng góp tiền bạc giúp đỡ các nhu cầu về tôn giáo và xã hội trong nước. Có thể sự rộng rãi của đồng bào hải ngoại đó đã góp phần tạo nên “cơn cám dỗ” cho các giáo sĩ xây sửa nhà thờ và các nhà hoạt động xã hội lo mở mang cơ sở, làm cho phong trào ra nước ngoài càng lúc càng sôi nổi hơn chăng? Xin đừng quên rằng “cho phép đi nước ngoài” là một ân huệ của đảng cộng sản ban cho và tôi không tin là đảng ban phát ân huệ đó vô điều kiện.

Riêng những vị ra nước ngoài với mục đích vận động tài chánh, khi mang về nước chắc sẽ được giải quyết theo phương thức “cả ba ta cùng có lợi”. Người hải ngoại cho tiền sẽ được hưởng phước đời sau; các chức sắc có công xuất ngoại vận động xin tiền, sẽ có phương tiện xây nhà thờ, lo việc từ thiện, bác ái; những cán bộ cộng sản ký giấy cho phép các ngài xuất ngoại, ngồi nhà chờ sẳn để nhận “chút ít” hầu có cái sinh sống mà quyết tâm phục vụ và lo cũng cố cho... Đảng. Vì còn đảng là còn tiền!

MỘT BÀI HỌC ĐÁNG GHI NHỚ

Sự kiện Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus của Ba Lan bị buộc phải từ chức sau khi chứng tích đã cộng tác với mật vụ cộng sản trong quá khứ được phơi trần, là một bài học quý báu cho những giáo sĩ đang sống dưới các chế độ cộng sản, nhất là những chức sắc đang được hưởng ân huệ của đảng ban cho.

Tôi không biết các giáo sĩ Việt Nam được đảng cộng sản ban ân huệ cho ra nước ngoài có phải ký một thứ giấy tờ gì như TGM Wielgus không? Nếu không, xin các ngài hãy dâng lễ tạ ơn Chúa, vì như thế là bọn mật vụ cộng sản Việt Nam quá u mê khờ khạo, thua xa đám mật vụ cộng sản Ba Lan trong phạm vi này. Ngược lại, nếu các ngài đã phải ký “bản án tử hình” rồi, xin nhớ là khi chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ, phải nhanh chân vào văn khố của đảng tìm và hủy diệt ngay bằng chứng. Trong trường hợp không thể thủ tiêu được “bản án tử hình” thì phải rút lui vào bóng tối, đừng bao giờ xuất đầu lộ diện để nhận một chức vụ gì, kẻo phải trượt chân té ngã khi đang bước lên đài danh vọng như Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus trong ngày Chúa Nhật 7 tháng Giêng 2007 vừa qua.

Thiết nghĩ chúng ta cần phải có tầm nhìn xa hơn TGM Stanislaw Wielgus để hiểu rằng chế độ Việt cộng rồi có ngày sẽ sụp đổ và chừng đó tên tuổi của những chức sắc tôn giáo đã hợp tác và làm tay sai cho chế độ phản dân hại nước đó sẽ bị phơi bày ra ánh sáng. Chừng đó các chức sắc tôn giáo này sẽ phải đối diện với giáo dân và chịu sự “phán xét” của công luận. Trường hợp TGM Stanislaw Wielgus của Ba Lan là một thí dụ điển hình.

Một thời gian sau sẽ chẳng còn ai nhớ tới Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, nhưng bài học rút ra từ câu “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên” hoặc “Ý Dân là Ý Trời” qua việc vị Tổng Giám Mục này “chuẩn bị lễ cưới, cử hành lễ tang” tại nhà thờ chánh toà Warsaw trong ngày Chúa Nhật 7 tháng Giêng 2007 sẽ còn được dư luận khắp thế giới nhắc tới như một bài học. Theo tôi nghĩ đây là một bài học vô cùng quý báu cho những giáo sĩ đang sống trong mấy chế độ Cộng sản còn sót lại trên thế giới, trong đó có Việt Nam .

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Tuyên Úy Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland. New Zealand

Trung Quốc có đáng sợ không?


Trần Nhu

Trung Quốc có đáng sợ không? Trước hết là đối với người Việt Nam chúng ta.

Vấn đề đầu tiên được đặt ra là “ý chí” có dám tranh đấu khi đất nước bị xâm lăng và uy hiếp hay không? Việt Nam không phải chỉ thời nay mới bị Trung Quốc uy hiếp và xâm lăng mà trong suốt quá trình từ khi lập quốc trải qua mấy ngàn năm đến nay, thời nào người Trung Quốc cũng muốn xâm lăng và uy hiếp Việt Nam, nhưng ông cha chúng ta không bao giờ sợ người Trung Quốc. Cả nam, nữ, già, trẻ: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, bà Bùi Thị Xuân... các bô lão thời Trần chẳng có ai sợ người Trung Quốc, mặc dù họ là một nước lớn, đông dân nhất thế giới. Chính cái “ý chí” dám tranh đấu vì quyền lợi dân tộc, vì sự sống còn của Tổ Quốc với cái tâm lý không sợ nên nhân dân Việt Nam đã đánh bại Trung Quốc ít nhất là 15 lần.

Tôi lại nêu lên một thí dụ điển hình nữa về “ý chí” quyết đấu tranh khi đất nước bị xâm lăng. Trong lịch sử nhân loại có đế quốc nào hùng mạnh hơn Thành Cát Tư Hãn ở thế kỷ thứ XIII. Thế mà ông cha ta đâu có sợ và đã 3 lần đánh bại quân Mông Cổ. Sứ Nguyên đến nước ta nếu tỏ thái độ kiêu ngạo hống hách là lập tức bị quân quan Ðại Việt trói lại tống ngục. Lịch sử thế giới thời đó có nước nào cả gan từ chối tiếp sứ Nguyên, chứ chưa nói đến giám trói sứ.

Ông cha ta như thế đấy. Chỉ có những người lãnh đạo ÐCSVN ngày nay là nhu nhược hèn yếu và mang nặng tâm lý khiếp sợ Bắc Triều. Chính thái độ khiếp nhược của ban lãnh đạo ÐCSVN đã khuyến khích Bắc Kinh ngày càng lấn lướt. Bắc Kinh gây sức ép, Hà Nội lùi từng bước, nhưng Việt Nam lùi chừng nào Trung Quốc tiến chừng đó.

Nhìn lại một chuỗi diễn biến từ các hiệp định biên giới do ban lãnh đạo ÐCSVN ký với Bắc Kinh năm 1999 – 2000 và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên đất liền mất mấy chục nghìn Km2, và những gì họ chiếm được không bao giờ nhả ra. Bắc Kinh còn đang lấn chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta, vùng biển bị Trung Quốc tiếp tục bành chướng xuống biển Nam Hải mà không gặp sự kháng cự đáng kể nào của Hà Nội. Ban lãnh đạo ÐCSVN còn dấu nhẹm không cho nhân dân biết các hiệp định ký với Trung Quốc khi sự việc Trường Sa, Hoàng Sa bùng lên, thậm chí họ còn không cho dân chúng phản đối Trung Quốc trong rất nhiều vụ biểu tình chống Trung Quốc đã bị đàn áp.

Hải Quân Trung Quốc năm 2006 vô cớ nổ súng giết chết 9 ngư phủ Việt Nam. Từ đó đến nay, năm nào hải quân Trung Quốc cũng bắn và bắt ngư phủ Việt Nam đánh cá trên vùng biển của mình. Hà Nội nín thinh, gần đây 2 người Trung Quốc đánh chết một công dân Việt Nam ngay tại Thủ Ðô, Hà Nội. Công an tòa án Việt Nam không dám động đến công dân thiên triều, đành phải giao tên tội phạm lại cho Trung Quốc.

Nhu nhược đến thế là cùng! Sự khiếp sợ Bắc Triều như một bệnh dịch lan truyền từ cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước đến các tướng lãnh binh sĩ không còn ai dám tranh đấu cho quyền lợi của đất nước. Ðài Loan chỉ có 20 triệu dân, từ nửa thế kỷ nay, thường xuyên bị Trung Quốc đe dọa thôn tính. Nhiều khi tưởng như họ ăn tươi nuốt sống hòn đảo bé nhỏ này, thế mà lãnh đạo và dân chúng Ðài Loan đâu có khiếp sợ, đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh “mềm nắn, rắn buông”. Nên vấn đề sống còn của đất nước được đặt ra vẫn là ý chí dám tranh đấu cho quyền lợi dân tộc thì Trung Quốc dù có bao nhiêu triệu quân với những võ khí tối tân họ cũng chẳng làm gì được.

Nước Tầu khổng lồ chỉ có thể ám ảnh giới lãnh đạo ÐCSVN. Nhìn lại quá khứ và cả lịch sử cận đại trên thực tế lịch sử đã chứng minh người khổng lồ Trung Hoa thường bị các bộ tộc thiểu số nhỏ cai trị nhiều lần, mặc dù người Tầu có (Binh Thư tuyệt tác của Tôn Tử). Nhưng các tướng Hán đánh một trăm trận thua chín mươi chín trận. Xin dẫn ra đây một số trường hợp để bạn đọc suy ngẫm:

Lịch sử nước Tầu có chép: Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên (Mông Cổ) là bộ phận tổ thành quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa là các đế quốc mạnh thống nhất được Trung Hoa và cường thịnh một thời lại do các dân tộc thiểu số tạo lập nên ở vùng phía Bắc Trung Hoa.

Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều đóng đô ở Bắc Kinh. Nước Liêu dòng Khiết Ðan lập nên gọi Bắc Kinh là Nam Kinh, là một trong bốn kinh đô của nước Liêu, nước Kim thuộc dòng Nữ Chân của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả kiến lập gọi Bắc Kinh là Trung Ðô. Triều Nguyên do người Mông Cổ xây dựng định đô tại Bắc Kinh gọi là Ðại Ðô.

Các ông vua của ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều sinh ra và lớn lên ở vùng hoang mạc mênh mông, thích cỡi ngựa, săn bắn và chơi bời hưởng lạc vô độ. Họ đã bắt các hoàng đế Trung Hoa phải quỳ gối khuất phục. Sự khiếp nhược và bất lực của nhiều triều đại Trung Quốc trước những người láng giềng nhỏ bé nhưng được trang bị bằng tinh thần thượng võ. Với ý chí quyết thắng ngay cả những đối thủ tý hon như Hung Nô, Ðột Quyết, Tây Hạ và Mãn Thanh cũng đã cai trị cả nước Trung Hoa vĩ đại. Ðối với Việt Nam, ông cha ta chưa bao giờ chiến đấu trong một trận ngang sức. Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Tiền nhân ta đã thắng kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Trong Bình Ngô Ðại Cáo, Nguyễn Trãi đã từng viết: “Ðánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.”

Ta thấy khi quân Mông Cổ bao vây Long An. Triều đình Nam Tống các quan văn võ bỏ chạy hết, chỉ còn lại sáu người. Thái Hoàng Hậu triệu tập đại thần làm việc. Các quan đã chạy hết. Trần Nghị Trùng một mực xin giảng hòa (xin hàng). Lương Mông Viễn thấy thế không lợi. Ông tướng này đã lén chạy khỏi Lâm An đến đầu hàng quân Mông Cổ. Thái Hậu cử Trần Nghi Trung đến trại Bá Nhạn cầu hòa và nộp tiền, nhưng Bá Nhạn không nghe. Chỉ quy định thời gian cuối cùng để xin hàng. Thế là tất cả triều đình bá quan văn võ đều nhất trí xin hàng. Tục ngữ Việt có câu: “Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” hay “Cha nào, con nấy”, hoặc “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” cái giống người Hán thâm độc và chịu nhục thì không giống người nào bằng. Nhưng trận mạc thì lại rất dở. Trong thực tế, chiến thắng bao giờ cũng do đào luyện quân sĩ, quân sĩ thì cũng tùy ở giống. Người Tầu từ dân đến tướng lãnh, binh lính mấy ngàn năm nay chẳng thay đổi gì, chậm chạp, nặng nề, không có sáng kiến trong trận mạc, không có óc tự tin, dễ hoảng hốt trước những chuyện bất ngờ. Xem các trận đánh với các bộ tộc thiểu số trận nào họ cũng thua đậm. Ðến đời nhà Tống bọn tướng sĩ Hán nhát như chuột. Nghe tiếng quân Mông Cổ sợ hết hồn hết vía, run cầm cập còn đánh chác gì! Bọn tướng Tầu, thời Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông lẫn quân lính cũng vậy, cứ nghe thấy tiếng quân Nhật là bỏ chạy thục mạng. Cho đến khi Nhật hàng đồng minh rồi vẫn còn hoảng sợ.

(Ðồng minh giao cho quân Tầu nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Không dám đến gần, phải có quân Mỹ đi bên cạnh mới chịu đi.)

Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Trung Hoa từ thời Cổ Đại, còn được gọi là thời kỳ Tiền Sử, cách đây khoảng 5000 năm, tới thời kỳ Trung Cổ rồi lịch sử Cận Đại. Theo quan điểm chung hiện nay cho rằng lịch sử Cận Đại bắt đầu từ Cách Mạng Tư Sản Anh, năm 1640 và kết thúc vào đầu thế kỷ 20. Đến thời kỳ Hiện Đại được nhiều sử gia thống nhất mà tính từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay. Trong khoảng thời gian trên một trăm năm lại có thể chia thời kỳ hiện đại thành hai giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II. Suốt trên một trăm năm những trận đánh trên đất Tầu, xét trên tổng thể trận nào người Tầu cũng thua đậm, và buộc phải ký những hiệp ước hết sức nhục nhã. Tác giả tạm kể những trận đánh chính yếu dưới đây:

Sự khởi đầu “Lịch sử Trung Quốc hiện đại” là chiến tranh thuốc phiện năm (1839) Anh đã đánh bại Trung Quốc, trong giai đoạn này Trung Quốc có trên 400 triệu dân. Anh chỉ có 10 triệu... Và cái yêu sách tiếp theo đối với triều đình nhà Thanh mỗi lúc càng nặng nề. Xin tóm lược những cuộc hành quân của quân Anh như sau:

Năm 1840, Hạm đội Anh do Ðô đốc George Elliot chỉ huy đến Quảng Châu (tháng 6) hải cảng và Ðảo Châu Sơn bị quân Anh chiếm (tháng 7)

Năm 1841, Ðặc mệnh toàn quyền Anh Henry Pottinger (1789-1856) chỉ huy hải quân Anh tiến dọc vùng duyên hải Trung Quốc, chiếm hầu hết những thành phố quan trọng như Thượng Hải bị chiếm tháng 6-1842, và sau đó là Thẩm Dương v.v.... Triều đình Trung Hoa phải cầu hòa (xin hàng) và chịu thất bại quân sự lớn nhất thời đó.

Ngày 29/8/1942 Hiệp Ước Nam Kinh được hai bên ký kết trên Tầu Cornvallis của hải quân Anh. Hồng Kông phải nhượng cho Anh vốn đã bị chiếm từ tháng (1/1841) mở cửa thương mại ở 5 cảng lớn Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải.

Ngày 26/6/1858, ký hiệp ước Thiên Tân giữa Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và Nga, buộc Trung Quốc phải mở thêm 11 cảng nữa và các nước thành lập Tòa Ðại Sứ ở Bắc Kinh. Các nước có quyền thương mại và truyền đạo Thiên Chúa giáo ở nội địa. Thuế xuất và quy định mậu dịch thiết lập hải quan thanh tra nước ngoài (Horatio N. Laij) hợp pháp hóa việc nhập khẩu thuốc phiện.

Hiệp Ước Ái Huy, do Di Sơn và Nicholas Muraview năm 1891 ký kết buộc Trung Quốc, phải nhượng cho Nga Hoàng vùng đất tả ngạn sông Amur rộng mênh mông.

Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh 25/10/1891) với Pháp tăng tiền bồi thường chiến phí. Pháp dành quyền sở hữu đất đai các đoàn truyền giáo Thiên Chúa giáo, được tự do truyền đạo, còn sứ thần Nga, thì buộc nhà Thanh phải nhượng khu vực từ miền Ðông USSURI (Cô-Tê-Lý-Giang) cho tới bờ biển. Nghĩa là 4 nước đè người khổng lồ ra làm thịt tơi bời lại tiếp đến Nhật:

Ngày 23/7/1894 - 17/4/1895 chiến tranh Trung Nhật diễn ra sau 10 ngày về vấn đề Triều Tiên. Vì cuộc khởi nghĩa của Hội Ðông Học ở Nam Triều Tiên tạo cớ cho Nhật nhảy vào bắt Nữ Hoàng Triều Tiên và chỉ định một nhiếp chính trung thành với Nhật. Ngày 21/7 Tầu của Kowshing của Anh chở quân Tầu đến Triều Tiên can thiệp, bị quân Nhật đánh chìm nghỉm, ngày 25/7 nhiếp chính Triều Tiên tuyên chiến với Trung Quốc. Trung Quốc và Nhật cũng tuyên chiến với nhau. Nhật dành toàn thắng trên bộ và cả trên biển tại Bingyang ngày 16/9 ngoài khơi sông Áp Lục gần cảng Lư Thuận, ngày 21/11 và tại Uy Hải Vệ (21/2/1895).

Ngày 17 tháng 4 năm 1895 Trung Quốc phải chấp nhận tất cả điều khoản của hiệp ước Mã Quan. Triều đình nước Tầu buộc phải công nhận nền độc lập của Triều Tiên và nhượng đảo Ðài Loan, Bành Hồ và cả bán đảo Liêu Ðông ở Mãn Châu cho Nhật. Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh 200 triệu lạng Bạc, và mở thêm 4 cảng cho ngoại thương của Nhật. 1896, Nhật được quyền lãnh tài phán ở Trung Quốc (bạn đọc lưu ý: Sở dĩ tôi đề cập đến vấn đề này để nhắc chúng ta rằng những hiệp định và biên giới giữa VC với Bắc Kinh không có giá trị pháp lý).

21 tháng 7 . Hiệp ước thương mại với Nhật, được coi là một phần của giải pháp hòa bình, trao cho Nhật qui chế tối huệ quốc và bảo đảm các nước ký hiệp định có quyền vận hành các cơ sở công nghiệp ở các cảng được qui định trong hiệp ước.

14/11/1897. Ðức chiếm vịnh Giao Châu với Thanh Ðảo sau vụ sát hại hai nhà truyền giáo ở Sơn Ðông. Từ lâu người Ðức coi việc này là chuỗi logic của sự can thiệp ba bên (1895). Việc này thúc đẩy “hàng loạt nhượng bộ” trong năm sau, trong đó hầu hết các nước phương Tây đều tham gia.

Tháng 2/1898. Anh đạt được hiệp định mở cửa đường thủy nội địa đối với Tầu nước ngoài, không bán đồng bằng sông Dương Tử cho nước khác, và sử dụng tổng thanh tra người Anh đối với hải quan khi thương mại Anh còn có vai trò chủ đạo trong các lãnh vực này.

6 tháng 3. Ðức đạt được hiệp ước thuê vịnh Giao Châu trong 99 năm, với các quyền xây dựng đường sắt và khai thác các mỏ ở Sơn Ðông (đường sắt Thanh Ðảo - Tế Nam khánh thành năm 1904). Khoản vay thứ hai từ Anh và Ðức gồm 16 triệu bảng trong 40 năm với lãi suất 4,5%.

27 tháng 3, 7 tháng 5. Nga buộc Trung Quốc cho thuê phía Nam bán đảo Liêu Ðông trong 25 năm, kể cả Ðại Liên và Lữ Thuận, được quyền xây dựng đường sắt từ Cáp Nhĩ Tân ở phía Bắc đến các cảng mới thuê.

10 tháng 4. Pháp ký hợp đồng thuê vùng Quảng Châu Loan và miền phụ cận trong vòng 99 năm, được quyền mở rộng đường sắt đến Vân Nam (hoàn thành năm 1910) và cam kết không bán cho nước khác các phần dọc biên giới Việt Nam.

26 tháng 4. Nhật nhận được cam kết của Trung Quốc không bán phần đất ở Phúc Kiến.

9 tháng 6. Anh ký hợp đồng thuê Cửu Long đối diện Hồng Kông trong 99 năm, và (1/7) thuê Uy Hải Vệ khi Nga thuê Lữ Thuận.

Hiệp ước Ái Huy, do Di Sơn (c.1878) và Nicholas Muraviev (k.1809 – 1891) ký kết, nhượng tả ngạn sông Amur cho Nga.

1859. Nhà Thanh từ chối yêu cầu của Anh về việc cho phép các nhà ngoại giao nước ngoài vào Bắc Kinh. Anh tấn công chiến lũy Ðại Cổ (25/6) nhưng bị đẩy lùi.

12/10/1860. Bắc Kinh bị 17.000 quân Anh và Pháp chiếm đóng. Cung điện Mùa Hè (Viên Minh viên) bị đốt cháy thành bình địa (18/10) để trừng phạt triều đình bắt giữ phái đoàn Anh. Hoàng đế rời khỏi kinh đô chạy lên phía Bắc, em của hoàng đế “đàm phán” Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh, 25/10 với Pháp), tăng bồi thường chiến phí, Pháp giành quyền sở hữu đất đai cho các đoàn truyền đạo Thiên Chúa. Sứ thần Nga Muraviev buộc nhà Thanh nhượng khu vực từ miền Ðông Ussuri (Ô Tê Lý Giang) cho tới bờ biển (14/11). Vào thời điểm này, Anh trở thành đồng minh mạnh nhất của triều đình nhà Thanh chống lại các cuộc khởi nghĩa địa phương.

1855-1873. Sau nhiều năm xung đột với người Hán địa phương và bị triều đình đánh thuế quá nặng, người Hồi Giáo (Panthays) ở Vân Nam nổi dậy, thành lập nhà nước độc lập, “Vương quốc Nam Thái Bình” ở Dali, thuộc kinh đô cố Nam Chiếu. Ngoài ra còn có cuộc nổi dậy của người Hồi Giáo ở Tây Bắc (Giang Tây và Cam Túc, 1862-), sau đó bị Tả Tôn Ðường dập tắt.

1855-1881. Bộ tộc H’mong ở Quí Châu khởi nghĩa.

8/10/1856. Sau nhiều năm Anh, Pháp, và Mỹ nỗ lực nhằm giành các quyền và ưu tiên mới thông qua sự chỉnh lý hiệp ước. Sự kiện Tầu Arrow ở Quảng Châu tạo cớ cho Anh ép buộc người Trung Hoa bằng quân sự. Tuyên bố tầu Arrow đã đăng ký ở Hồng Kông và bị quan chức nhà Thanh khám xét bất hợp pháp, Anh chuyển quân và chiếm Quảng Châu (12/1857). Sau đó các tầu Anh bắt đầu hướng ra phía Bắc để buộc triều đình đầu hàng.

Ðến thời cận đại (1789-1914) và đương đại 1945 với Anh, Pháp, Nga và Nhật ta sẽ thấy sự khiếp nhược bất lực của các chính quyền Trung Hoa, từ vua chúa tướng lãnh, kể cả Ðảng Cộng Sản như thế nào! Dưới đây là đối chiếu các chiều kích giữa Trung Quốc và các nước tham chiến một cách sơ lược.

Ngày 18/1/1915, Nhật giao cho Trung Quốc bản yêu sách 25 điểm Chính Phủ của Viên Thế Khải chấp thuận ngay bốn khoản đầu (815): (1) Nhật kế thừa các quyền của Ðức ở Sơn Ðông; (2) triển hạn thuế đất đai ở Mãn Châu tới 99 năm. Kiều dân Nhật được tự do buôn bán tại đây; (3) Nhật nắm phần nửa lợi nhuận ở công ty Hanyeping là công ty điều hành các nhà máy thép tại Hán Giang, mỏ sắt Daye và than ở Bình Sơn; (4) không miền duyên hải nào của Trung Quốc được cho thuê hoặc nhượng cho nước khác mà không được sự đồng ý của Nhật (...) Mặc dù các anh hùng hảo hán của nước Tầu chịu nhượng bộ gần hết cả tổ quốc nhưng Nhật vẫn không tha.

Năm 1937-1945 các cuộc tấn công của Nhật vào Trung Quốc và Nhật khởi đầu, chiến tranh thế giới II ở Ðông Á cũng ở đây, 1931 Nhật chiếm Mãn Châu. Ðạo quân Quan Ðông của Nhật trong đêm diễn tập ở Thẩm Ðương (1819) đã làm nổ tung đoạn đường sắt gần đó rồi vu khống cho Trung Quốc. Ðây gọi là biến cố Mãn Châu, lấy cớ đó quân Nhật chiếm kho đạn An Ðông, Giang Khẩu và Trường Xuân,. Thống chế Tưởng Giới Thạch vội cho đoàn quân chạy trốn. Kế đó cả ba tỉnh miền Ðông bị chiếm. Ngày 19 quân Nhật đổ bộ lên Thượng Hải đánh đuổi Bát Lộ Quân 19 của Trung Quốc chạy khỏi Tô Giới quốc tế như chuột. Nhật chiếm Bắc Kinh ngày 28 và Thiên Tân ngày 29 như ăn gỏi. Ðây là cuộc tấn công đại quy mô mở ra ở Bắc Trung Quốc vào đến tận sào huyệt của các danh tướng người Hán. Họ ở cả thủ đô. Không gặp một sự kháng cự nào.

Người Tầu chẳng có ý chí gì từ tướng lãnh đến quân lính đông như kiến cỏ mà cứ thi nhau bỏ chạy chốn một khi nghĩ đến quân Nhật là hồn vía lên mây, kế đó Nhật chiếm Tô Châu (20/11 và tiến đến vùng sông Dương Tử. Ngày 21 quân Nhật chiếm Quảng Châu, cũng không gặp sự kháng cự nào. Thừa thắng Nhật chiếm luôn Kalgan, ở mặt trận khác 3/9 Nhật chiếm Bảo Ðịnh, ngày 2/4, Thạch Gia Trang. Sau biến cố ngày 18/9/1931 quân Nhật chiếm đóng thành phố Thẩm Dương. Từ đó làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn ở Ðông Bắc Trung Quốc. Ðảng CS Trung Quốc với Bát Lộ quân chẳng làm gì, ngoài việc hô hào dân Tầu chống Nhật, trong khi đó họ lại lẩn chốn. Cuộc Vạn lý Trường Chinh, được coi như là cuộc di tản chiến thuật, và được coi như là sự kiện oai hùng nhất của ÐCSTQ. Hai đạo quân trong cuộc tháo chạy nhục nhã này là quân đoàn 1 do Lâm Bửu (1908-1971) chỉ huy, và quân đoàn III dưới sự chỉ huy của Bành Ðức Hoài (1898-1974). Tổng số quân là 80.000 nhưng có lẽ chưa tới 16% số binh lính trên thoát chết khi đến được Thiểm Tây một năm sau đó (20/10/1935) họ đã chạy trốn quân Nhật với quãng đường dài gần 6.000 dặm qua rất nhiều miền đất hoang vu nguy hiểm ...

15 + 18/1/1935. Tại hội nghị Tuần Nghĩa (thuộc tỉnh Quý Châu) những đối thủ của Mao trong ban lãnh đạo DCSTQ bị phê phán nặng nề về việc đã phạm sai lầm Tả khuynh khiến cho sức chiến đấu của Hồng Quân suy yếu, dẫn đến tình thế phải rời căn cứ địa và tiến hành Vạn Lý Trường Chinh:

Nhẽ ra người CS thì phải dấn thân chinh chiến, dấy binh đao. Khôi phục nền độc lập cho Trung Hoa, ấy thế vậy mà hồi Nhật xâm lược Trung Quốc ÐCSTQ đã không dám đánh Nhật. Những người lãnh đạo ÐCSTQ quả thật tài tính sáng suốt, họ biết đánh Nhật, khác gì mang trứng chọi đá, chỉ một trận thì sẽ bị Nhật diệt sạch sành sanh, không còn một mống nắm chắc trăm phần trăm thua, và sẽ mất hết (cả chì lẫn chài) binh quyền. Khẩu hiệu thống nhất chiến tuyến với Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, mục tiêu của ÐCSTQ là bảo toàn lực lượng để sau đó có cơ hội giết lẫn nhau. Người Tầu đánh nhau với Nhật thì quá dở, nhưng họ giết lẫn nhau thì không ai bằng. Nói cách khác Mao muồn giành lực lượng để sau này đánh nhau với quân Quốc Dân Ðảng. Nhưng muốn sống đến ngày đó chỉ còn cách phải ăn bám và luồn lách vào chính quyền Quốc Dân Ðảng. 25 tháng 12 Tưởng Giới Thạch bị Mao bắt cóc và giam giữ ở Tây An do Trương Học Lương thực hiện theo lệnh của Mao. Và được trả tự do khi ông đồng ý ngừng cuộc nội chiến và hợp tác với ÐCSTQ để chống Nhật. Trên thực tế ÐCSTQ không có chống Nhật, nhưng cần chỗ nương tựa, tuy nhiên, Mao Trạch Ðông và ÐCSTQ vẫn tuyên truyền rằng cuộc Trường Chinh của Hồng Quân là cuộc chiến đấu thần thánh đánh Nhật do Mao chủ tịch lãnh đạo. Chạy dài dài – mà lại là bước ngoặt đưa Trung Quốc đến thắng lợi hoàn toàn, kể cũng lạ? và là sự tuyên truyền quá lố quá trắng trợn. Sự thật Bát Lộ quân chưa đụng Nhật đã hoảng loạn tháo chạy, khẩu hiệu “Bắc Tiến kháng Nhật” là che đậy cho sự thất bại thảm hại của Bát Lộ quân tháng 10-1933 đến tháng 1-1934 ÐCSTQ liên tiếp chịu trận và cuộc tiến công thứ 5 của Quốc Dân Ðảng thì chính quyền trung ương ở nông thôn của ÐCSTQ lần lượt mất hết căn cứ này đến căn cứ khác, Hồng quân của Mao buộc phải tháo chạy trốn. Ðó chính là sự thật lịch sử (cuộc trường chinh), ý đồ là rút quân mở đường máu tháo chạy sang vùng ngoại Mông Cổ để nhờ quân Liên Xô che trở. Như vậy với phía Tây giáp Mông Cổ, nếu không thủ đắc sẽ rút lén tuột về Liên Xô. Ở phía Bắc Hồng Quân chết gần hết trên đường chạy trốn đến khu ngoại Mông. Họ chọn con đường rừng đi qua tỉnh Sơn Tây, và Tuy Viễn. Một mặt có thể nói phét để bịp thiên hạ rằng: Hồng Quân lên phía Bắc để chuẩn bị kháng Nhật (dân Trung Hoa nhiều người ngu tín, tin là Hồng Quân dám cả gan đánh Nhật thật) một mặt vừa an toàn cho các lãnh tụ vì ở đó không có quân Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải Vạn Lý Trường Thành lập thành chiến tuyến. Sau mấy ngàn năm công lao của Tần Thủy Hoàng và tiếp theo nhiều triều đại nước Tầu, không phục vụ cho việc phòng thủ Tổ quốc Trung Hoa, mà lại để cho quân Mông Cổ sử dụng rồi lại phục vụ cho Nhật. Còn Binh Pháp của Tôn Tử tuy rất hay. Nhưng tướng Hán chưa bao giờ mởớ tới. Không biết ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Ðông có nghĩ tới chuyện này không? Cũng xin lưu ý Hồng Quân thoát hiểm đến Thiển Bắc thì quân chủ lực giảm xuống từ 800 ngàn xuống còn khoảng 6 ngàn. Nhưng các lãnh tụ thiên tài chạy trốn thì còn sống cả. Thế mà sách ÐCSTQ viết rằng ÐCSTQ và Mao chủ tịch lãnh đạo quân dân Trung Quốc kháng chiến chống Nhật thắng lợi vẻ vang ... không biết thắng ở đâu? mà tìm lục không ra?

Còn một sự thật nữa, cũng cần phải nhắc ở đây là. Khi Nhật đánh Trung Quốc, Quốc Dân đảng của TT Tưởng Giới Thạch có 1/7 triệu quân, được Mỹ, Anh võ trang, trong khi đó tháng 11/1937 kể cả Tân Tứ Quân mới thành lập. Toàn bộ Hồng Quân chỉ có 70 ngàn lính đã thế còn bị chia năm xẻ bẩy vì mưu đồ chính trị nội bộ đảng... là dương cao ngọn cờ kháng Nhật, nhưng bên trong tranh thủ gom góp quân các địa phương và du kích để đó, mặt khác chuyển đại đa số quân binh khỏi chiến tuyến, chứ thực sự ÐCSTQ không có chiến tích nào đáng kể trong cuộc chiến này. Có chăng là Quốc Dân Ðảng. Năm 1939, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, Anh và Nga quân đội Tưởng Giới Thạch và Mao lấy lại được chút ít tinh thần. Chính phủ của Tưởng Giới Thạch nhận được nhiều viện trợ của Mỹ, Anh, Liên Xô cho chính quyền Quốc Dân Ðảng nhiều khoản tiền lớn và vũ khí ... Quân Mao cũng ăn ké vào đó. 8/3/1942, Anh và Mỹ cung cấp cho Quốc Dân đảng 50 triệu bảng Anh và Mỹ viện trợ 500 triệu dollars.

Nên nhớ rằng: khi Hội Quốc Liên và Hoa Kỳ lên án những hoạt động quân sự của Nhật tại Trung Quốc. Hội nghị các cường quốc ở thủ đô Brussels (15/11) thất bại trong nhiệm vụ trung gian hòa giải.

20 tháng 11. Chính phủ Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh chuyển đến Trùng Khánh, nhưng hành chánh công quyền đặt ở Hán Khẩu. Tưởng đến đây ngày 8/12.

12 tháng 12. Biến cố Panay. Máy bay Nhật oanh kích tầu Anh và Mỹ đang thả neo ngoài khơi gần Nam Kinh. Sự việc này tạo căng thẳng giữa các cường quốc. Rốt cuộc, chính phủ Mỹ chấp thuận lời giải thích của Nhật về vụ việc trên. Tuy nhiên, chính quyền Nhật tiếp tục chính sách cao tay ấn đối với tài sản và quyền lợi của các nước khác ở Trung Quốc, bất chấp những chống đối từ phía Mỹ, Anh và Pháp. Tình hình khốc liệt tại Châu Âu cho phép Nhật có thể theo đuổi ý đồ của mình mà không phải lo đối phó với sự can thiệp từ nước khác.

13 tháng 12. Nam Kinh thất thủ. Nhật oanh kích Trân Châu Cảng khiến Mỹ tham chiến chống Nhật mở ra mặt trận thứ hai ở Thái Bình Dương. Mỹ dành cho Trung Quốc khoản viện trợ 630 triệu USD dưới hình thức quân trang, quân dụng, vũ khí, và khoản tiền vay 500 triệu USD, tất cả đều được trao cho chính phủ Trùng Khánh.

8/3/1942. Anh và Mỹ khắc phục nạn lạm phát trầm trọng tại Trung Quốc, cung cấp khoản tín dụng 50 triệu bảng Anh và 500 triệu USD.

Ngày 8/8/1945 chiến tranh đã chấm dứt tại Châu Âu được vài tháng. Hai ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Hồng quân Liên Xô tràn vào Mãn Châu trong tuần lễ tiếp đó. Nhật đầu hàng vô điều kiện – Trung Quốc dâng đất cho Liên Xô.

Ngày 14-8 Thay mặt quốc dân đảng. Tổng Tử Văn ký hiệp ước hữu nghị và Liên Minh với cs Liên Xô (qua mặt ÐCSTQ). Ðể đắp lại việc CS Liên Xô công nhận chính quyền Quốc Dân Ðảng là chính quyền trung ương của Trung Quốc. Phe Quốc Dân Ðảng đồng ý về quyền độc lập của Ngoại Mông; Và cho CS Liên Xô quyền sở hữu chung tuyến đươc sắt Nam Mãn Châu và Cảng Ðại Liêu. Họ cũng nhất trí dâng cảng Lư Thuận cho Hải quân Liên Xô.

Chiến tranh đã chấm dứt nhưng Trung Quốc vẫn bị chia rẽ, gầm ghè tranh ăn giữa Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS của Mao Trạch Ðông, thành ra chẳng đảng nào, quân đội nào của nước Tầu dám đụng đến Nhật. Có lẽ họ vẫn còn khiếp sợ quân Nhật chăng? Chẳng đặng đừng quân đội Mỹ lại phải nhẩy vào.

Tháng 8 và tháng 9, quân Mỹ chiếm Thượng Hải, Thanh Ðảo, Dagu, Quảng Châu và Pusan (Triều Tiên) rồi tiến vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Quân Nhật đã hàng nhưng quân Tầu vẫn không dám đến gần quân đội Nhật. Buộc quân Mỹ phải bồng các lực lượng Quốc Dân Ðảng đến các thành phố này để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật.

Trong khi đó tại Diên An Ðảng CS Trung Quốc tổ chức Ðại Hội lần thứ VII mừng chiến thắng, lúc này họ đã có ½ triệu đảng viên, binh lực gồm 900,000 quân chuẩn bị ăn thua với Quốc Dân Ðảng. Trong khi đó họ hô hào: “Người Trung Quốc không hại người Trung Quốc”. Ðiều này giống hệt giọng điệu Hồ chí Minh năm 1946 cũng hô hào: “đoàn kết, đại đoàn kết.” Trong khi đó thanh toán những người quốc gia. Ðảng CS Trung Quốc cũng vậy. Khi cần lợi dụng Quốc Dân Ðảng, họ kêu gọi: “Sống chung lâu bền” giúp đỡ nhau quản lý, thành thật song phương, vinh nhục có nhau v.v... Nhưng kết quả là gì? Kháng chiến Trung-Nhật vừa kết thúc (nhờ đồng minh). Ðảng CS Trung Quốc gom toàn lực đánh đuổi chính quyền Quốc Dân Ðảng, ở Việt Nam cũng vậy. Sau khi thắng Quốc Dân Ðảng. Họ cứ tuyên truyền ồn ào là Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Mao Chủ Tịch. Ở VN từ 1945-1954 Hồ chí Minh được coi như thần thánh. Ở nước Tầu thập niên 50-60 Mao Trạch Ðông được coi như bộ óc vĩ đại nhất của loài người, thanh niên, đảng viên đã quay cuồng về hình ảnh Mao Trạch Ðông (Ðông phương hồng – có Mao Trạch Ðông) nhiều người Phương Tây nhìn Mao như một vị thiên tài xuất chúng. Vị thần tái sinh cứu rỗi loài người: Dưới ảnh hưởng của các vị hiền thánh danh tiếng như Lenin, Stalin, dân chúng nhiều nước say mê rồ dại giết lẫn nhau. Cơn si cuồng nhiệt kéo dài khá lâu, phải có một độ lùi, thoái hóa đáng kể của thời gian các học giả, sử gia phương Tây mới nhìn rõ chân dung thật của Mao Trạch Ðông. Một trong những tên đao phủ kinh tởm nhất lịch sử nhân loại, cũng như sự ngu dốt tối tăm của Hồ chí Minh.

Nhưng đa số người Trung Quốc đến nay vẫn tin Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Ðông, đã giải thoát cho tổ quốc Trung Hoa.

Sự thực ai nghiên cứu lịch sử cũng biết. Chính đế quốc Mỹ và đồng minh đã giải thoát cho nước Tầu. Chứ cả Quốc Dân Ðảng lẫn Đảng CS Trung Quốc đối với người Nhật họ chẳng có Kg nào. Bây giờ thì Trung Quốc đã dư ăn và có nhiều vũ khí tối tân đấy nhưng cũng đừng có sợ, vũ khí nào thì cũng còn phải do con người chứ? Không phải bây giờ người Tầu mới thiếu dũng khí đâu, tổ tiên, ông cha của họ đã thế rồi.

Cuối thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển... kèm theo sự huỷ hoại môi trường sống với nhiều hậu quả ngày càng rõ rệt! Loài người là một bộ phận của tự nhiên. Sống trong thiên nhiên, không được phép hủy hoại môi trường sống bằng cách phá hoại và xả các độc tố hoá học vào không gian, gây chiến tranh v.v... Nhưng chất độc tinh thần mới là chủ chốt trong các loại chất độc gây thảm hoạ cho nhân loại. Kẻ thù của nhân loại ngày nay càng lộ nguyên hình. Đó là tư tưởng và hành động bành trướng, với chính sách diệt chủng của giới lãnh đạo Bắc Kinh, như ở Tây Tạng, Cao Miên, Miến Điện Darfur v.v... trong các chế độ độc tài diệt chủng hiện nay trên thế giới đều là sản phẩm của Bắc Kinh. Nạn diệt chủng lan toả khắp thế giới!

Trong lúc cục diện toàn cầu đang có xu hướng hoà dịu, giảm dần đối đầu. Nhưng ở khu vực Á Châu, Thái Bình Dương, yếu tố bất ổn và khả năng xung đột khu vực ngày càng tăng do tham vọng quá độ của giới lãnh đạo Bắc Kinh.

Gần đây Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Một bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã âm thầm xây dựng một hải cảng quân sự có thể chứa hàng chục tầu ngầm hạt nhân, gây quan ngại cho các nước trong khu vực, cũng như Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ ông Robert Gate tuyên bố rằng “Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ rơi các nước trong vùng Châu Á.” Còn viên tướng chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương là Ðô Ðốc Keating cho biết: “Mỹ không có ý định từ bỏ ưu thế quân sự ở Châu Á, sau khi có tin Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Theo tuần san Quốc Phòng Jan’s ở Anh và các nhà phân tích quân sự, căn cứ hải quân ở thành phố Nam Á có khả năng để cho hai hàng không mẫu hạm cập bến và có chỗ trú ẩn cho 20 chiếc tiềm thủy đỉnh hạt nhân. Ðô đốc Keating hối thúc giới lãnh đạo Bắc Kinh chớ dồn các nguồn lực của mình vào những hoạt động như vậy.”

Ðô đốc Keating nói thêm rằng các nhà lãnh đạo ở Trung Nam Hải không nên kỳ vọng là Trung Quốc có khả năng trở thành một cường quốc quân sự có khả năng khống chế Châu Á.

Ông Keating nói: “Có một việc tuyệt đối cần thiết mà chúng tôi phải làm là tiếp tục thực hiện cuộc đối thoại với các nhân vật tương nhiệm của phía Trung Quốc, tiến hành những hoạt động giao lưu, chia sẻ chiến thuật, kỹ thuật và qui trình với mục tiêu chủ yếu là để cho Trung Quốc hiểu được vai trò vượt trội của chúng tôi như một quân lực có khả năng chế ngự ở Thái Bình Dương, để họ hiểu được là chúng tôi kiên quyết duy trì vị thế này, và biết được là chúng tôi hy vọng và tin tưởng là họ không tìm cách đương cự chúng tôi về mặt quân sự.”

Theo Ðôc Ðốc Keating, Trung Quốc chắc chắn sẽ gặp thất bại nếu họ có mưu toan như thế.

Trong những năm gần đây, các giới chức Hoa Kỳ nhiều lần nói rằng việc Trung Quốc gia tăng chi tiêu quân sự tự nó không gây ra một mối đe dọa cho Hoa Kỳ, nếu hành động này không đi kèm với những ý đồ thù nghịch. Ðô Ðốc Keating cho biết ông nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc đối đầu quân sự giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, ít ra là trong tương lai gần.

Ðô Ðốc Keating nói: “Chúng tôi đang làm những gì có thể làm ở Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương – và huy động mọi ban ngành và năng lực của mình, để bảo đảm với Trung Quốc là chúng tôi không muốn gây thiệt hại cho họ, và khu vực Thái Bình Dương có đủ chỗ để hoạt động cho tất cả mọi nước.”

Ðây không phải là những lời nói có tính chất ngoại giao mà là một thông điệp chính thức gửi đến Bắc Kinh.

Sự thể sẽ rất xấu, trước hết là đối với các quốc gia trong vùng cái họa bành trướng của Trung Quốc, và nếu cuộc đối đầu bằng hạt nhân xẩy ra giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á. Chắc chắn những tổn hại về nhân mạng và vật chất không thể lường được. Trung Quốc đang tác oai, tác quái trong khu vực, họ cao ngạo, hung hăng xem thường thế giới vào lúc này Trung Quốc giương cao ngọn cờ mới 6 sao (lục tộc cộng hòa) ở Biển Ðông, làm cho các nước Ðông Nam Á hoảng sợ, đồng thời thế giới thấy rõ tham vọng bá quyền bành trướng của Trung Quốc, là sự ngông cuồng đầy thách đố thiên hạ, lại còn công bố bản đồ mới của Trung Quốc 2007 với vùng An Vạn Bắc Biển Ðông rộng 5 triệu Km2, thêm một thách đố khác với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Úc. Sách lược bành trướng và hải dương Nam tiến tham vọng nắm đầu thế giới. Bắc Kinh hàm hồ vội vã xây dựng thành phố Tam Sa, tự ý khoanh vạch một vùng rộng 5 triệu Km2 biển Ðông gọi là chủ quyền của Trung Quốc!

Ý đồ của họ là đặt tuyến giao thông quốc tế Ðông Tây từ eo biển Malacca đến biển đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc! Vậy các tầu dầu hàng hóa từ Tây qua Ðông đến Ðài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản. Kể cả hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cũng phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc. Họ muốn đóng lại vai trò của Thành Cát Tư Hãn chăng?

Thật là cuồng vọng, hoang tưởng, nếu họ đạt mục đích này. Ngoại trừ Trung Quốc khuất phục được Nhật, đánh bại được Mỹ.

Cái tham lam vô hạn độ của Trung Quốc. Không phải chỉ cần hãm lại, mà cần phải đánh quỵ, trước khi nó hành động gây họa cho nhân loại.

Những chiến lược gia trí tuệ mẫn cảm siêu quần ở hàng đầu, trong sự phát triển lịch sử quân sự Hoa Kỳ ắt phải nhìn xa thấy rộng, trong bối cảnh của thời đại, để đề ra những phương hướng chiến lược hoặc sử dụng lựa chọn phương pháp tối ưu để đối phó với Trung Cộng. Am tường sâu sắc đối phương, tìm hiểu những thực tiễn xã hội và con người Trung Hoa, đến các cấp lãnh đạo của họ là điều không thể thiếu, mà mỗi bước tiến của lịch sử đều có vô vàn mâu thuẫn xã hội, chính trị, đặc biệt độc đáo đòi hỏi con người phải suy nghĩ thăm dò trước khi giải quyết vấn đề.

Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gate và Ngài Ðô Ðốc Hải Quân Keating chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương hẳn là phải từ các trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ mà ra. Tất họ phải nghiên cứu binh pháp của Tôn Tử: “Biết địch biết mình giành thắng lợi không gặp hiểm nguy. Biết thiên thời địa lợi nữa, giành thắng lợi mới thật chắc chắn!”

Huấn lệnh của Tư Lệnh hải quân lục chiến Hoa Kỳ năm 1989 viết: “Tư tưởng tác chiến của Tôn Tử vẫn thích dụng cho ngày hôm nay cũng như 2500 năm trước.” Tương kế tựu kế Mỹ nên dùng Binh Pháp Tôn Tử. Nhà chiến lược nổi tiếng người Anh ông Kaso trong cuốn sách bàn về chiến lược viết: “Chiến lược hoàn mỹ nhất, cũng chính là chiến lược không cần phải qua chiến đấu gay go mà vẫn đạt tới mục đích. Ở Pháp: năm 1772, linh mục P. Amiot đã dịch và xuất bản ở Paris tùng thư: Binh Pháp Tôn Tử. Ðây là bản Binh Pháp Tôn Tử được dịch sớm nhất ở Phương Tây: Lúc đó một tạp chí lý luận quân sự Pháp viết: “Nếu các tướng lãnh chỉ huy quân đội Pháp đều được đọc Binh Pháp Tôn Tử này thì thật là phúc lớn cho nước Pháp”.

Quả thực Binh Pháp Tôn Tử lần đầu tiên đưa ra một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về chiến tranh và quân sự, trình bày một loạt các nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh, các ý tưởng mà phần lớn trong đó đã trở thành những danh ngôn có sức sống lâu dài.

Hiện trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ, xếp Binh Pháp Tôn Tử trước cả tác phẩm bàn về chiến tranh của Clausewitz. Binh Pháp Tôn Tử được dịch từ Hán Văn ra Nga năm 1957, ra tiếng Anh 1905, tiếng Pháp từ năm 1772. Ở Ðức 1910 - Ðặc biệt là ở Nhật vào thời Võ Tắc Thiên đời Ðường (684-704, một người Nhật là ông Cát Bi Châu Bi (Kimino Makibi) đã mang binh pháp Tôn Tử về Nhật truyền thụ lại cho giới tướng lãnh Nhật. Từ đó phong trào học tập binh pháp Tôn Tử liên tục diễn ra, giới quân sự cho rằng: “Khổng Phu Tử là Thánh Nho, Tôn Phu Tử là Thánh binh. Những nhà Nho đời sau không thể tìm thấy Ðạo Nho ở đây ngoài Khổng Phu Tử, nhưng binh gia không thể quay lưng lại với Tôn Phu Tử mà tiến theo hướng khác”. Các tướng Nhật thời cận đại đã ứng dụng binh pháp Tôn Tử đánh cho người Khổng Lô Trung Quốc không ngóc đầu dậy được. Ở nước ta Tôn Tử binh pháp đã được truyền bá từ cuối thế kỷ thứ 9, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, đã hiểu sâu binh pháp Tôn Tử và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, tiến hành thắng lợi, các cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của kẻ thù phương Bắc.

Trong thiên Mưu Công, tác phẩm đã đề xuất nhiều lý lẽ toát lên tinh thần tổng quát là: Phải tìm cách giành thắng lợi tối đa bằng một giá tối thiểu. Danh ngôn: “Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài giỏi nhất. Không đánh mà buộc đối phương đầu hàng mới là người giỏi nhất” đã trở thành tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của các nhà chiến lược quân sự xưa nay.

Nếu bài học có thể rút ra từ chiến tranh Việt Nam, I-rắc, với Trung Quốc, Hoa Kỳ chỉ cần yểm trợ hậu cần cho những quốc gia láng giềng của Trung Quốc có khả năng chiến đấu như Tây Tạng. Nơi đó chính là mồ chôn vĩnh viễn chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc. (Xin xem bài: “Trung Quốc là kẻ thù của thế giới” để bạn có thể quán triệt được mọi vấn đề sinh tử của Trung Quốc ở Tây Tạng trong các websites chẳng hạn như VietnamExodus, Vietvungvinh, NsVietNam, Doithoai v.v...)

Trần Nhu
Ðầu Mùa Hạ, 2008

Thế vận hội Bắc Kinh trong "Trai Cải Tạo Tổ Chim Sắt" với phé nhỏ, cù lũ nhí dương



Trương Minh Hòa

Thùng rỗng hay kêu to, tốt mã rã đám, xấu hay làm dáng, dốt hay nói chữ .... là chuyện thường xảy ra trên đời. Những kẻ bất tài vô tướng không dùng tài năng để tiến thân, thay vào đó là phương thức dùng mánh lới, tiểu xảo riêng, nên bất cứ thời đại nào cũng có đám Nịnh, từ nịnh thần thời phong kiến đến nịnh chủ thời nay.

"Nước cường nhược có lúc, có khi.
Kẻ xu nịnh, thời nào cũng có".

Những thằng dốt được đảng Cộng Sản Việt Nam đặt vào những chiếc ghế lãnh đạo để làm tay sai, công cụ, nên mới có cái "chế độ nịnh đảng thật kỹ", đây là sự kiện "kẻ dốt kém thế lực, nịnh kẻ dốt đương quyền" để cùng nhau thi đua, vơ vét, bóc lột, tham nhũng, làm giàu, trở thành tư bản đỏ biến nước Việt Nam thành "vương quốc lừa đảo" và một nhà nước toàn dốt, toàn gian, gồm "toàn là những kẻ nịnh từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc", mà những thằng dốt nầy thì cho là "xã hội chủ nghĩa ưu việt" và những thằng nào NỊNH Giỏi, nịnh "có chính sách" tự cho là "đỉnh cao trí tuệ loài người" hay "giai cấp tiên tiến". Thời buổi mà bọn Nịnh được "nâng cấp" thành "thượng lưu, thì đất nước không thể giàu mạnh nổi. Những thằng nịnh khác ở hải ngoại, nằm trong vài tổ chức cò mồi, là đám "nịnh đảng ở nước ngoài" bợ háng, nâng bi những thằng dốt trong Bắc Bộ phủ cho là "có cải thiện về mặt nhân quyền" hoặc như chủ tịch một đảng cò mồi cho là: "đảng Cộng Sản Việt Nam không còn đối xử bất bình đẳng với người quốc gia từ 1991 nữa.", được đương sự công khai và "hồ hởi phấn khởi" phát biểu trong cuộc họp tại quốc hội Hoa Kỳ mới đây, nhằm chuẩn bị về nước chia ghế trong "xưởng gật", họ trơ trẽn nịnh đảng, cố dùng ngôn từ biến ngày quốc hận 30-4 thành ngày ăn mừng đại thắng với tiêu đề: "diễn hành cho tự do" nên lòi cả đám nịnh mặt chay mày đá nầy :

"Ai nâng háng mà không hề bợ dái.?
Ai lòn trôn mà chẳng nịnh bao giờ.?
Dậy mà đi, dậy mà đi .."

Đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ công nhận cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của quân dân miền Nam trước 1975 và hành vi phản dân hại nước, làm Thái Thú Nga, nay là cho Trung Cộng, nên họ cũng đã và đang đối xử bất bình đẳng những tổ chức, người Việt quốc gia; ngay cả người chết, mồ mả cũng bị đối xử tàn tệ, thì làm sao có thể nghe, tin lời nói một cách vô ý thức, vô trách nhiệm, xỏ lá và mang đầy bản chất kẻ NỊNH như vị chủ tịch đảng, một tổ chức mang nhiều tai tiếng, quá trình lừa đảo "kháng chiến cuội để thu tiền".

Tuy nhiên, đảng Cộng Sản "không bao giờ phân biệt đối xử với ĐỒNG TIỀN", có nghĩa là bất cứ "bọn phản động nước ngoài" ở các nước "tư bản" trở về, dù họ cầm trong tay đồng đô la Mỹ, Úc kim, Gia kim, Anh kim, Euro .... thì được quyền "bình đẳng tiêu xài" khi về nước du lịch, du hý, du dâm và biết nhét vào tay bọn "du đãng, du côn" trong hệ thống nhà nước từ phi trường đến địa phương tạm trú trong thời gian trở về với lý do "thăm quê hương".

Khi bầy chim Phượng Hoàng bay cao thi đua, thì loài chim sẻ cũng bắt chước lượn cánh, để lộ ra cái nhược điểm "cơ bản" nên mới có câu tục ngữ: "phượng hoàng đua, se sẻ cũng đua". Đó là trường hợp của Trung Cộng, thấy "người ta ăn khoai, vác cây mây mà chạy", cố gắng bon chen, vận động để được "đăng cai" thế vận hội năm 2008, được tính toán cẩn thận nhiều năm, dù không tin có Trời, Phật, Chúa, nhưng những tên "vô thần Bắc Kinh" luôn lấp cái khoản trống tâm linh bằng phong thủy, bói toán, mê tín với sự tin tưởng là nhờ đó nên đảng bền, cán vững, con cháu vượng phát, đời đời cai trị nước Trung Hoa trong chế độ phong kiến thời đại, với tiên đế là Mao Trạch Đông.

Đó là cái lý do mà nhà cầm quyền Bắc Kinh chọn ngày tổ chức thế Vận có con số 8 từ ngày, tháng, năm; theo sự tin tưởng, người Hoa cho là hên. Hình như Trung Cộng cũng đánh bắt được cái: "nét ngây thơ" của Ủy Ban Thế Vậi Hội IOC với những "con nai vàng ngơ ngác, đạp trên đống tiền đô" khi biết họ đúng là: "mắt em dìu diệu buồn Tây Phương" đối với người Cộng Sản. Tuy nhiên những "chính khách ngây thơ già" ở các nước dân chủ tin tưởng là nhờ Thế Vận Hội ở Bắc mà có thể "cải thiện tình trạng dân chủ, vi phạm nhân quyền" trong "cái diễn biến hòa bình ôn hòa" như tiến trình dân chủ ở các nước Tây Phương, họ tin tưởng sẽ đưa nước Trung Hoa thoát khỏi" thiên đàng Cộng Sản" để hội nhập vào sinh hoạt thế giới theo tinh thần dân chủ. Nhưng thật ra thì các chế đô Cộng Sản rất ngoan cố, đảng và nhà nước không bao giờ có "chế độ hối cải, từ bỏ quyền lực" để công nhân tự do cho dân, mà tất cả các nước Cộng Sản từ Liên Sô đến Đông Âu sụp đổ, đều do người dân đứng lên.

Trung Cộng cũng muốn chụp lấy cơ hội ngàn năm một thuở nầy trong "tương kế tựu kế" hầu phô trương thanh thế, chứng minh cho thế giới thấy được sự thành công rực rỡ của chủ nghĩa Maoist, nhưng cái đầu kinh tế thị trường bị miếng "vải HÒE" che đậy và cố khoe cái "đuôi khỉ xã hội chủ nghĩa" là thành quả phát triển kinh tế theo công thức kỳ lạ: "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" với công thức "mượn đầu heo nấu cháo" rồi muốn giết cả người chủ cho mượn đầu heo. Trung Cộng thừa biết cái mặt yếu của mình về điều kiện để tổ chức cuộc thế vận hội với sự yếu kém hạ tầng cơ sở; tức là không phải là chuyện "giản đơn" như thời Mao Chủ Tịch huy động lực lượng Hồng Vệ Binh với hàng triệu thanh niên "cuồng nhiệt" nhào vào thanh toán các đối thủ, giết người, đập phá là sức mạnh vô địch của "nhân dân" thì cái gì mà không làm nổi, là nét chủ quan của tất cả các tên lãnh đạo Cộng Sản trên thế giới. Một đàng ngây thơ và một đàng thì thủ đoạn, kết quả đưa đến "thế vận hội Bắc Kinh ngày 8 tháng 8 năm 2008", được coi là thế vận hội "quái đản, kỳ dị" nhất trong lịch sử thế vận từ trước đến nay; ngay cả hình thức, vận động trường chính, nơi làm lễ khai mạc gọi là Tổ Chim (Bird Nest) với hệ thống chằn chịt các thanh sắt ngang dọc màu xám xịt, không khác nào "một trại tập trung cải tạo khổng lồ" có sức chứa hàng chục ngàn người. Chủ tịch IOC là Jack Rogue, đã "lỡ giao phó cho Trung Cộng đăng cai" nên:

"Cũng đành nhắm mắt đưa chân.
Thử xem Thế Vận xoay dần đến đâu?"

Dù đã có nhiều lời trấn an các nước tham dự về tình trạng hạn chế truyền thông của các cơ quan thông tân thế giới, và những lời "trần tình" của nhà nước Bắc Kinh, nhưng thế giới vẫn chưa tin thế vận nầy đạt đúng những gì mà họ đã nhìn thấy qua các cuộc tranh tài thế giới trước đây tại nhiều nước. Hình như đó cũng là thâm ý của Bắc Kinh, nhân đây để "cải tạo tư tưởng" những nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả tổng thống Hoa Kỳ George.W. Bush đến đây để tham dự "bài học thế vận cải tạo" do các vị quản giáo như "Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo ..." có cái "chế độ giáo dục" thế giới biết thế nào là: "Thế Vận Hội được định hướng theo xã hội chủ nghĩa và chủ thuyết Mao Trạch Đông" và sự pha trộn thật "tài tình" giữa hai nền văn minh hiện đại và thời kỳ lạc hậu cách đây hàng 5 ngàn năm, nếu người ta đi từ các thành phố lớn đến những vùng nông thôn hẻo lánh, thì mới biết là ở nước Trung Hoa ngày nay vẫn còn duy trì "một nước với hai nền văn minh xưa-nay", đó là nét độc đáo của chủ nghĩa xã hội tại Hoa Lục.

Vòng ngoài cái trại cải tạo "thời thượng" với mỹ từ "Thế Vận Hội Bắc Kinh" là hàng trăm ngàn "vệ binh vũ trang" túc trục, canh giữ ngày đêm cái" nhà tù thể tháo vĩ đại hoàn vũ", được bao bọc thêm lớp rào kẽm kiên cố, mà các nước tự do hay dùng để canh giữ những phạm nhân thuộc thành phần nguy hiểm "maximium security" được toàn thế giới nhìn vào qua hệ thống truyền hình, thật là "hẩu, hẩu, hẩu ...", ngoài ra còn có cả hệ thống máy điện tử tối tân khắp nơi với con số lên đến hàng chục ngàn chiếc, thật là "thiên la địa võng" kín mít như "bát quái đồ trận" con kiến, con ruồi, hay bất cứ con gì, như con Vẹm chúa 36, con ong chúa 63 ... cũng khó lọt qua "nội bất xuất, ngoại bất nhập", nên bất cứ sự ra vào nào cũng phải có "chính sách và sự nhất trí" của các lực lượng vệ binh công an Trung Cộng canh coi. Trại cải tại hoàn vũ được Trung Cộng ngụy trang và gọi bằng mỹ từ "Thế Vận Hội Bắc Kinh" đã được Hội Nhà Báo Không Biên Giới cảnh báo cho toàn thế giới, với 5 cái còng tay, thay cho 5 vòng tròn, được trưng bày nhiều địa danh, thành phố lớn trên thế giới, thế mà vẫn có những người hảy còn "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà đi tham dự như ông tổng thống Hoa Kỳ George.W.Bush, còn thủ tướng Úc Kevin Rudd thì vẫn một lòng giữ tình hữu nghị Úc-Trung bền vững, môi hở răng lạnh, dù sông Dương Tử có thể cạn, núi Thái Sơn có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi; vì ông ở nước Úc, nói toàn là tiếng Anh, nên cũng "ghiền" nói tiếng Quan Thoại.

Tuy nhiên, để làm ra vẻ là quan tâm đến nổi đau khổ của dân chúng Trung Hoa, các nước bị xâm chiếm như Tây Tạng, nên ngày 7 tháng 8 năm 2008, hai ông Bush và Rudd, trên đường đi tới cái trại "tổ chim sắt" cũng đều hứa hẹn là sẽ "phản ánh trung thực" nêu lên vấn đề nhân quyền với Bắc Kinh. So ra thì mấy ông lãnh đại siêu cường "mày râu nhẳn nhụi, Weston bảnh bao, cà vạt thắt cổ" nầy còn thua xa phụ nữ; được biết người Trung Hoa theo quan niệm Khổng Tử với "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", phụ nữ bị giới mày râu ở nước Việt Nam thấm nhuần Nho học sau hàng ngàn năm cai trị cũng hùa theo là "đàn bà đái không khỏi ngọn cỏ". Nhưng đây là quan niệm "lỗi thời, phản động", không theo đúng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, vì ngày nay, bất cứ phụ nữ nào, khi đi phi cơ phản lực, ngồi trên Toilet, thì các bà "đái trên mây" chớ ngọn cỏ nhằm nhò gì. Do đó, bà thủ tướng Đức Angela Merkel còn có cái nhìn thật đúng, hơn cả những ông lớn lãnh tụ siêu cường, khi nhìn thấy cái thế vận hội Bắc Kinh chỉ là "trại cải tạo thời thượng" mà thôi, nên từ đầu bà đã có lập trường dứt khoát là hổng nên đút đầu vào "trình diện" với quản giáo trưởng Hồ Cầm Đào.

Nhằm thực hiện một "cuộc đổi đời" vĩ đại nầy, đảng và nhà nước Trung Cộng đã dùng mọi phương tiện "HIỆN ĐẠI" nhưng cũng rất là "HẠI ĐIỆN" để thiết kế xây dựng "trại cải tạo Olympic" thật hoành tráng, đương nhiên là bằng "bạo lực cách mạng" theo đúng chủ thuyết Mao Trạch Đông, với "chính nghĩa nằm trên đầu súng". Từ đó, nhiều "căn hộ" đã bị nhà nước đuổi, ủi sập để lấy đất xây dựng thế vận, họ đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình, ngay cả gần kể ngày khai mạc, đó là" dân oan khiếu kiện thế vận hội" làm mất mặt Trung Cộng, và những ai lỡ mua vé đi xem, cũng cảm thấy áy náy trong lòng khi biết rõ ràng là: chuyện mình đến đây vui chơi trên sự đau khổ của biết bao nhiêu người khác bị mất hết nhà cửa. Trong thời gian xây dựng, một số người làm cũng đã bị tai nạn, và về trình diện Mao Chủ Tịch" để được lãnh "tờ giấy khen" cũng làm cho những người có lương tri thương xót cho số phận. Số tiền dành cho chuyện xây dựng "trại cải tạo Olympic" lên đến hơn 40 tỷ Mỹ Kim (chớ không tín theo đồng Nhân Dân Tệ), so ra còn cao hơn Thế Vận ở Sydney, Úc, chỉ tốn có 6 tỷ là hoành tráng lắm. Tuy nhiên, Trung Cộng không ngại, vì tiền nầy đâu phải của đảng, mà là mồ hôi của hơn 1,4 tỷ người góp lại thành vốn; mặt khác, chỉ tốn có 40 tỷ mà lùa cả những "tên sừng sỏ, tư bản phản động nhất thế giới" vào trại tù cải tạo ngắn hạn, với chính sách có 2 tuần "học tập cải tạo" cũng đáng "đồng tiền bát cháo trắng với củ cải muối". Trong lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, chưa bao giờ có cơ hội để "cải tạo" những "thành phần ác ôn, nguy hiểm" chống lại đảng và nhà nước đẳng cấp quốc tế như lần nầy.

Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, những sự hưng chấn "hồ hởi phấn khởi" của nhà cầm quyền đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ kéo dài trong niềm hy vọng không lâu:

"Bàn tay ta làm nên tất cả.
Vận động trường cải tạo bọn ác ôn".

Đúng là "Trời cao có mắt", nên từ đầu năm 2008 đến nay, khi mà cây đuốc thế Vận được "mồi" ở thành Athenes, thì bắt đầu có biến cố ngay khi ngọn lửa thiêng vừa ra khỏi lò lá kiếng thu nhiệt. Cũng giống như "cuộc vạn lý trường CHẨU" của Mao Trạch Đông từ năm 1934 đến 1936, Mao cùng với hàng trăm ngàn cán bộ bị quân của Tưởng Giới Thạch rượt chạy ngàn dậm, cuối cùng đến vùng phía bắc Trung Hoa, chỉ còn vài ngàn, trốn trong hang núi Diên An, cũng sẳn sàng "CHẨU" qua biên giới Nga để lánh nạn nếu quân Tưởng tiến đến đây truy lùng. Mao hơn Hồ Chí Minh là không "biến nâng bi thành hành động" để đặt tên những địa danh trên quê mình bằng "Suối Mác, Núi Lê". Do đó ngọn đuốc thế vận cũng "vạn lý trường chẩu" với đoạn đường dài hơn 140 ngàn cây số, chạy trốn như chuột như du kích, giao liên Việt Cộng, nhưng lếu láo qua bài ca vọng cổ tuyên truyền văn công là: "dệt chặng đường xuân"; cũng giống như Mao trước đây, ngọn đuốc bị che kín bởi "những hàng nhân viên an ninh các nước sở tại", có lúc bị tưới nước tắt, lúc lên xe bus bít bùn như Thoát Hoan chui vào ống đồng ở Việt Nam, khi thì "trèo lên phi cơ phản lực có người lái "và có lúc thì "tạm có giấc ngủ cô đơn" ở một địa điểm thật bí mật nào đó để chờ "tình hình yên tĩnh là tiếp tục chạy trối chết về đất Tàu".

Những chặng đường "trường chẩu" thường phải chui lòn ở các nước tự do như Pháp, Anh, Úc .... nhưng cũng "thấy chút ánh sáng hết linh" tại nước chư hầu là Việt Nam, đuốc "được tập đoàn Thái thú Việt Cộng bảo vệ như bảo vệ con ngươi trong tròng mắt", nên trở thành đất an toàn ngoài lãnh thổ "mẫu quốc, thiên triều Bắc Kinh", điều nầy ngườiViệt Nam, đảng viên Cộng Sản cũng đều nhìn thấy là "Không có gì là độc lập và tự do" từ khi Hồ Chí Râu mang cái lý thuyết Karl Marx, chủ thuyết Mao Trạch Đông tròng vào cổ, ngu dân và làm tay sai cho ngoại bang. Trong những ngày cuối cùng, vào ngày 6 tháng 8 năm 2008, đuốc đã đến "BẮC KINH" hú hồn sau thời gian gần 3 tháng chạy "THẤT KINH". Nhưng ngày hôm sau thì ngọn đuốc lại được những người "yêu chuộng sự thật, nhân quyền" gồm các du khách Hoa Kỳ, Anh đã treo cái cờ Tây Tạng, phản đối ngay tại gần "trại cải tạo tổ chim".

Được biết, từ ngày 10 tháng 3 năm 2008, người Tây Tạng "tức nước vỡ bờ" biến lòng yêu nước thành hành động, đã đứng dậy, dậy mà đi đúng nghĩa để phản đối tình trạng đàn áp, diệt chủng; trong khi đó, đảng và nhà nước Việt Cộng cũng "dậy mà đi" nhưng không phải để bảo vệ quê hương, mà là bảo vệ "cái tư bản quí báu đuốc thế vận của quan thầy" khi đi ngang qua Saigon ngày 28 tháng 4 năm 2008.

Vì bảo vệ "tài sản của mẫu quốc Trung Cộng" mà tập đoàn Thái Thú Hà Nội đã thẳng tay đàn áp dân Việt Nam; như vậy, Việt Nam ngày nay cũng giống như Tây Tạng, chớ có gì là độc lập. Đảng viên Cộng Sản các cấp, thanh niên, sinh viên, dân chúng hãy nhìn sự kiện nầy để có thái độ quyết liệt, cùng đồng lòng đứng lên triệt hạ một thiểu số bán nước bộ chính trị trung ương đảng, cam tâm làm Thái Thú cho Tàu ở Hà Nội, lấy lại độc lập tự chủ cho đất nước. Im lặng là chấp nhận sự thống trị của ngoại bang Trung Cộng trên quê hương; nhất là thành phần CÔNG AN, là công cụ đắc lực cho tập đoàn Thái Thú Việt Cộng, hãy vì quyền lợi đất nước, sự tồn vong của dân tộc mà đứng về phía nhân dân để làm nên lịch sử chống ngoại xâm theo truyền thống tổ tiên: Nếu công an không tuân hành theo lịnh của những quan Thái Thú chính ủy, thủ trưởng, thì bọn chúng cũng không thể làm gì được; trái lại công an cấp nhỏ là số đông, có thể bắt giữ, quản thức "những tên quan lại của Trung Cộng gốc Việt", nếu cần cho vài tên đi trình diện Hồ Chí Minh ở hỏa ngục khi mà tất cả các lực lượng công an đều "nhất trí" không tuân theo lịnh các quan Thái Thú, tức là không đàn áp nhân dân biểu tình, khiếu kiện chỉ đứng xem với vai trò giữ trật tự như cảnh sát các nước dân chủ, thì chế độ Cộng Sản tự nhiên tan hàng tức khắc, nước sẽ độc lập ngay.

Tuy nhiên, nếu chưa hối cải, đợi khi đảng bị lật nhào như Liên Sô, thì dù cho mẫu quốc Trung Cộng có "mến thương" đến đâu, cũng không bao giờ dám bỏ tiền ra để lập các trại tỵ nạn như Mỹ, các nước tự do đã làm để cứu vớt quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30-4-1975. Đôi khi vì quyền lợi mà Trung Cộng còn bắt giải giao cho tòa án quốc tế những "tay chân bộ hạ thân thương" của họ. Đây là thông điệp mạnh mẽ, tình lý, gởi đến lực lượng công an, bộ đội tại Việt Nam, đừng để nước tới trôn mới nhảy là qua trễ nhé!

Những biến cố do ông Trời, làm bạt vía kinh hồn, gây quan ngại không nhỏ cho "bè lũ vô thần Trung-Nam-Hải" khi trận bão mở màn Nargis bỗng giáng xuống "đại đệ tử" Miến Điện, làm cho dân chúng khốn đốn và cũng làm cho nhà cầm quyền quân Phiệt Miến lúng túng. Trong khi cây đuốc thế vận, trở thành "ÁNH MA TRƠI" đang được hàng vạn "quần hồng" hay nói theo từ ngữ Háng học là "Quần Hòe" phất phới trên đoạn đường nằm trong lãnh thổ Tàu, thì đột nhiên trận động đất dữ dôi ở Tứ Xuyên đã làm cho gần 70 ngàn người dân chết, hàng trăm ngàn bị thương và con số mất nhà, bị ảnh hưởng lên đến hàng chục triệu. Trong khi trường học, bịnh viện bị sập dễ dàng, thì những nhà dành cho cán bộ thì vẫn "trơ gan cùng động đất", thế mới biết là nhà nước nầy có mục đích yêu cầu là "bảo vệ cán bộ" để cai trị, chớ cán bộ chết hết, lấy ai bảo vệ đảng và tham nhủng? Trận động đất kinh hoàng nầy làm cho "ánh ma trơi thế vận" đành phải tạm ngưng" cuộc vạn lý trường chẩu "3 ngày, đoạn tiếp tục trong thầm lặng và chờ ngày chạy về" trại cải tạo tổ chim" đúng ngày khai mạc 8 tháng 8 năm 2008.

Gần tới ngày thế vận, đầu tháng 8 năm 2008, những cuộc khủng bố bị cho là của các tổ chức Hồi Giáo ở Tân Cương làm cho nhiều người chết, gây quan ngại cho khách tham dự thuộc các nước dân chủ, mặt khác cuộc khủng hoảng tín dụng, mất giá đồng Mỹ Kim làm cho nhiều người đành phải tiết kiệm không đi, ở nhà xem truyền hình đỡ tốn tiền mà không sợ nguy hiểm, hay hít nhằm khí dơ. Rồi tình trạng bán vé giả với con số các trang mạng lên đến 71, làm bối rối không ít cho ban tổ chức. Tuy nhiên, một vấn đề mà "cả ủy Ban thế Vận IOC và nhà nước Bắc Kinh" đều quan tâm là: bầu trời Bắc Kinh vẫn mịt mù như "áng mây mù thế kỷ" hay là "bóng đen bao trùm Trung Quốc" cũng là một vấn đề quan trọng, dù nhà nước có hứa hẹn, trấn an, như lối duy vật biện chứng như Việt Cộng bất dân làm thủy lợi:

"Nghiêng đồng đổ nước ra sông.
Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa".

Nhà nước Trung Cộng chắc là phải "mất ăn mất ngủ" vì ông Trời, dù cấm hơn phân nữa, trong số hơn 3 triệu chiếc xe hơi lưu hành tại Bắc kinh ngưng phun khói, cho đóng của các nhà máy trong vùng và các tỉnh lân cận, công an biểu diễn cái màng "giáo dục quần ... chúng" bỏ thuốc hút, bằng cách "ngắt" điếu thuốc đang cháy trên môi dân ghiền đó là những biện pháp "cụ thể" để cải thiện "ông Trời", nhưng cái "tình huống" nầy không thể đảo ngược được. Bầu không khí Trung Quốc nói chung và Bắc Kinh nói riêng đã bị ô nhiễm từ lâu, có thể nói là từ năm 1978, sau khi "thiên tử tiên đế Cộng Sản Mao Xếch Xáng tiêu diêu nơi miền hỏa ngục" để đoàn tụ với Marx, lenin, Stalin, Hồ Chí Chuột thì gã đàn em "người lùn gây máu lửa Đặng Tiểu Bình", là người từng ra tàn sát hàng chục ngàn sinh viên ở An Thiên Môn 1989, cũng là người" hạ quyết tâm" đưa ra học thuyết" Mèo trắng mèo đen" được biến thành "MÉO MÓ" khi mà mèo trắng, đen, tam thể không bắt Chuột mà lại BẮT CHƯỚC chế hàng nhái, giả với nhản hiệu cầu chứng "Made In China" được thế giới đánh giá đúng là "BA CHỮ TÊ" tức là "THỨ-THIỆT- TỆ" để đưa Trung Quốc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đến "phồn vinh giả tạo", chỉ phát triển ồn ào ở đô thị như các nước Tây Phương và tuyệt đại đa số dân sống ở nông thôn hảy còn biết bảo vệ" văn hóa, di sản tổ tiên từ thời Nghêu Thuấn".

"Tớ đâu dám sánh kẻ CÀY MÁY.
Canh tác chân tay, phân CỨT ĐÁI.
Dân nghèo, cán bộ lại giàu sang.
Mặt hàng Trung Cộng nhiều DỚ DÁI."

Đó là bộ mặt phát triển kinh tế "dị mô" cũng như Việt nam ngày nay. Do đó, bầu trời Trung Cộng vẫn mịt mù khói kỷ nghệ, gây ô nhiễm "trường kỳ" theo chủ thuyết Mao: "lấy mây mù bao vây thành phố" làm cho sức khỏe dân chúng bị ảnh hưởng, nên người dân Hoa Lục có lối "giải độc" là khi có tiền, mua "nước biển" để chuyền vào mạch máu cho khỏe, chớ họ cảm thấy luôn bị mệt mỏi "trường kỳ". Từ lâu nay, du khách đến "tham quan" đất tàn dư Cộng Sản, từ phi cơ nhìn xuống, toàn là một vùng mây màu vàng bao phủ bầu trời và khi phi cơ đáp xuống phi trường là cảm thấy khó thở; là do ảnh hưởng của các nhà máy kỹ nghệ với nhà nước quản lý, thì dù cho có đến 10 cái hiệp định thư Kyoto, hoặc ông thủ tướng lừng danh bảo vệ môi trường "bằng mồm" ở Úc Châu là Kevin Rudd, bà bộ trưởng Penny Wong, Peter Garrett hoặc cựu phó tổng thống Al Gore (vừa chiếm giải Nobel) cũng phải "chào thua". Các nước dân chủ thải chất khí Dioxin vào khí quyển có kiểm soát của chính phủ, các cơ quan bảo vệ môi sinh la hoài; còn ở Trung Quốc, có ai dám la lên?

Tình trạng ô nhiễm bầu không khí quan thành phố Bắc Kinh làm cho đảng và nhà nước Trung Cộng "rầu thúi ruột" nên luôn trấn an vì: "ngộ đã lỡi đăng cai", xin đừng sợ, cứ vào mại vô, mại vô. Trước bầu trời u ám thường trực, các đoàn lực sĩ cảm thấy không còn "phấn khởi" thi đua, nên có thể có một số lực sĩ cũng muốn bỏ thi. Tuy nhiên, các tay lực sĩ Trung Cộng thì "phấn khởi" lắm, họ quen với "khói mù, trời nóng bức", hy vọng năm nay, Trung Cộng sẽ dành được nhiều huy chương, khi tất cả bỏ cuộc càng "hẩu, hẩu, hẩu". Những ngày gần tới khai mạc "khóa cải tạo Bắc Kinh" ở trại Tổ Chim Sắt, nhiều du khách, lực sĩ khi vừa tới phi trường, đã lấy mặt nạ ra bịt mũi, mồm, vì đang "tiếp cận" với cái "tàn dư phản động của các thế lực khí thải do kỷ nghệ phát triển bừa bải gây ra", đúng là "gậy ông đập lưng ông".

Đoàn lực sĩ, nhà dìu dắt, cán bộ, công an, mật vụ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vốn có nhiều kinh nghiệm trong việc "vệ sinh phòng dịch" từ sau ngày chiếm được miền Nam 1975 đến nay, từng đi ngang qua các đống rác, cũng là "tàn dư chế độ Mỹ-Ngụy để lại", có sáng kiến dùng thứ "TÃ HỒNG CÀI HÁNG" của giới phụ nữ hay dùng hàng tháng để bịt mồm, mũi, tránh các thứ vi trùng, vi dế xâm nhập qua đường hô hấp, nên cái "chế độ tã hồng nầy được vị thiền xu Thích Nhất Vẹm tâm đắc, giác ngộ, đặt tên cho một tác phẩm, sau khi biết được "sư nữ Fleurette " cũng có cái" chế độ "bịt háng như thế lúc còn thấy được" mặt trời nắng cực rọi trong tâm":

"Việt Cộng hô hào giữ vệ sinh.
Động viên dọn rác, dẹp mương, kinh.
Dùng đũa hai đầu, ăn nghiêm túc.
Khẩu trang chất lượng: vải cửa mình."

Với kinh nghiệm nầy, hy vọng các "đàn lực sĩ Việt Nam mang lá cờ Hòe" một sao vàng đến đóng góp với lá "cờ Hèo" năm sao vàng, trong trại cải tạo Tổ Chim Sắt, sát cánh cùng 205 quốc gia diễu hành trong trại, với khẩu trang làm bằng "thứ bợ háng" là rất hạp vệ sinh và đương nhiên là được các hãng truyền hình quốc tế dành nhiều ưu tiên quay và phỏng vấn; được biết ngày nay, bọn đế quốc tư bản đã sáng chế ra nhiều loại "tã hồng cài háng" rất chất lượng, khỏi phải dùng dây cột như thời 1975, chỉ gắng vào mồm là dính luôn "đảm bảo" máu không trào ra hay bất cứ thứ gì thấm vào "hang Pác pó", nên miệng mũi rất an toàn, không sợ bị khí độc do ô nhiễm không khí gây ra. Kỳ nầy, các lực sĩ dưới là cờ Hòe của Việt Nam có triển vọng làm nên lịch sử là đoạt được một số huy chương vàng, bạc, đồng, thau, kẽm, thiết, nhôm nếu biết khai thác khẩu trang "tã hồng bịt háng" trong các cuộc thi đấu.

Trong lối đánh bài sập sám chướng của người Trung Hoa, vấn đề ăn thua khó phân định, ngoài chuyện may rủi, còn có tài năng "binh giỏi" hay dỡ. Trong "binh pháp sập sám" có câu: thùng thủ, cù lũ dương. Nhưng không phải lúc nào cũng áp dụng câu ấy mà nhiều khi "ôm đầu tức vì thua kế của đối thủ"; cũng như lối đánh cờ tướng: tiên ngũ lục pháo, hậu bình phong mả, không phải lúc nào cũng đi tùy theo đối thủ có sở trường con xe, pháo, mã bài sập sám có đẳng cấp "cù lũ" là cao nhất, ngoại trừ thùng phá sảnh (mậu binh). Nhưng cù lũ không phải lúc nào cũng thắng, cù lũ chỉa với 3 ách và một đôi; cù lũ nhí cũng là cù lũ với 3 con 2 và một đôi.

Trong kỳ thế vận hội 2008, Bắc Kinh là cù lũ nhí, với 2 đôi nhỏ mà tưởng là có thể "đại thắng", nào ngờ lần đầy đã bị thấu cấy, nên thảm bại là khó tránh khỏi. Ngoài hao tài, tốn của, thì "cái hũ tương thúi Cộng Sản" bị bể, thế giới nhìn thấy tất cả sự thật về "nước Trung Hoa" dưới chế độ "bao che sự thật". Nhờ hệ thống truyền thông toàn cầu, mà sự thật phơi bày, nên các sắc tộc như bị Tàu thôn tín có khả năng đứng dậy, đòi quyền "dân tộc tự quyết", là công thức mà Liên Bang Sô Viết, Cộng Hòa Nam Tư tan vở như chùm nho bị thúi cuốn, các trái nho tự động rớt xuống. Do đó, sau thế vận hội, các dân tộc bị thôn tín cũng có khả năng mở ra "vận hội mới" cho dân tộc mình, nếu tất cả hàng chục bộ tộc cùng đứng dậy, thì đảng và nhà nước Trung Cộng cũng phải "CHẨU" thôi.

BÊN LỀ THẾ VẬN: MÔN TRỊ BỊNH CỦA Á CHÂU: "CẮT LỄ, CẠO GIÓ, DÁC HƠI".
(Trên các đài truyền hình Úc Châu, vào ngày 6 tháng 8 năm 2008, các phóng viên đã đến "tham quan" vài nơi chuyên trị bịnh theo lối nầy, có người làm thử, như ông Rochie đài số 7. Nhân đây xin đưa ra vài điều về môn nầy trong tinh thần tìm hiểu, không mang nội dung hướng dẫn hay là tài liệu y khoa gì đó. Người viết từng sống lâu năm ở các vùng nông thôn" khỉ ho cò gáy" trong thời gian đi lính đánh bọn khủng bố Việt Cộng, thu thập được vài sự kiện. Xin các vị bác sĩ thông cảm, khi đọc cái bài viết" phản khoa học" nầy, hổng dám mùa rìu qua mắt thợ, nạo thai trước mặt đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay đọc kinh cúng trước mặt cái thầy cúng, thầy tụng với nghề nghiệp chuyên đọc kinh để" charge đẹp" những người có chuyên buồn trong gia đình như tang chế)

Người Tây phương có Tây y, thuốc men, mổ xẻ... thì người Á Đông cũng có cách trị bịnh để thoát khỏi bàn tay tử thần, phòng bịnh hơn trị bịnh. Dựa vào kinh nghiệm, cây cỏ, âm dương, ngũ hành mà người Á Châu có lối trị bịnh bằng những phương cách như: châm cứu, cạo gió, cắt lể, dác hơi, bấm huyệt thời gian khá lâu, các bác sĩ Tây khi nhìn thấy những vết cạo gió trên thân thể bịnh nhân, thì thường là không "happy" với những "lời khuyên của bác sĩ" là: chớ nên làm như vậy nếu muốn đến đây trị bịnh.

Tuy nhiên, người Á Châu đã từng dùng những phương pháp đó để chửa một bịnh, với câu: "thầy dở cũng đở xóm giềng", nên những ông thầy cạo gió, cắt lễ .... được dân chúng ở các vùng nông thôn "ngưỡng mộ" qua nhiều lần nhờ giúp mà "khắc phục" được bịnh tật, được cho là "mát tay, phước chủ may thầy". Họ là những thầy thuốc không có bằng cấp, nên không tốt nghiệp bằng tiến sĩ, cử nhân y khoa ở các trường đại học y khoa các nước tự do; nên nhiều thầy cạo gió, cắt lễ cũng có học ở trường" thuốc Rê Gò Vấp" khi vừa chửa bịnh vừa phập phà điếu thuốc vấn với giấy nhật trình.

Người Trung Hoa có môn châm cứu, lừng danh từ khi tổng thống Hoa Kỳ Nixon sang thăm "hữu nghị" lần đầu tiên năm 1972 và từ đó giới y học Tây phương lưu ý. Người Nhật có môn Bấm huyệt (Accupressure) cũng thông dụng và chữa được nhiều thứ bịnh, người Việt có môn cắt lể, cạo gió, dác hơi hình như các môn nầy có quan hệ với nhau, không biết ai sáng chế ra đầu tiên, nên không thể nói dân tộc nào tiên phong.

Môn châm cứu không phải tự nhiên mà có, số là người Trung Hoa hay đánh nhau để "tranh giành bá chủ", nhất là Hán Tộc có "truyền thống xâm lược, thôn tín xứ người". Vào năm 200 trước Tây lịch, thời nhà Tần, do các chư hầu đánh nhau, nên những "tinh binh" bị trúng tên, mang về chữa trị. Một điều lý thú là trong số những binh lính ấy, trước đây có mắc phải vài chứng bịnh nan y, khi trúng tên của quân nghịch, mang về, rút tên ra, thì lạ thay! Những chứng bịnh hết một cách thần kỳ; từ đó người Hoa biết khám phá ta các huyệt đạo, hệ thống kinh mạch chạy toàn cơ thể như những rễ cây nên môn châm cứu đầu tiên là mảnh xương thú mài nhọn, nên châm cứu rất đau và có máu chảy (hình như đây cũng bắt nguồn môn cắt lễ?). Thời gian sau nầy, người ta mới dùng kim bằng sắt để châm, rồi nhiều đời, các danh y đóng góp thêm nghiên cứu, môn nầy được nhiều triều đình phong kiến tín nhiệm. Đến thế kỷ 17, khi người kim đánh bại triều đình nhà Minh, thuộc Hán tộc, triều đình Mãn Thanh sợ người Hán giết hại hoàng tộc bằng những cây kim nhỏ xíu, nên ra lịnh cấm hành nghề châm cứu, khiến bộ môn nầy bị chậm lại một thời gian; mãi đến khi cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, triều đình Mãn bị mất quyền và từ đó môn châm cứu phục hồi. Sau khi Mao Trạch Đông giành được lục địa năm 1949, vì bị cấm vận, vì không có nhiều thuốc Tây, nên môn châm cứu được dân chúng coi như là phương cách chửa bịnh thần kỳ với thuốc Bắc từ các loại dược thảo.

Người Việt Nam có môn cạo gió, cũng có lối dùng đồng bạc, thẻ gừng chà mạnh vào các hệ thống thần kinh ở lưng, ngực khiến để lại những vết bầm (bác sĩ Tây nhìn thấy mà không thích). Nhưng nhờ những vết bầm đó, là các tế bào bị chết, khiến cho các bạch huyết cầu nhào tới "tiến công" sực hết để bảo vệ, ngoài ra công dụng chà sát trên các hệ thần kinh, có tác dụng làm hưng chấn, kích thích để tác động vào hệ thống phòng thủ trong cơ thể. Đó cũng như là lối "vaccine" làm cho các bạch huyết cầu "tập dượt", rồi "thừa thắng xông lên" sực luôn vi trùng, thế là bịnh nhân thuyên giảm, nhờ ăn uống và hết bịnh.

Môn dác hơi cũng thế, nên khi dác xong là bịnh nhân cảm thấy khỏe là thế. Tuy nhiên môn cắt lễ, ngày xưa với "khu chén" lấy cây dao khẻ, đoạn lấy mảnh hơ lên lửa sát trùng, rối thầy cắt cũng lần mò theo những đường kinh mạch theo kinh nghiệm. Bịnh nhân cảm thấy khỏe, giảm nhiệt sau khi cắt, là vì máu chảy ra, làm giảm nhiệt, nhưng nên cẩn thận, vì các loại vi trùng có thể xâm nhập qua vết cắt, gây những chứng bịnh khác. Dác hơi được phổ biến cả Tây, nên người dân các nước đã làm quen; ở Việt Nam ngày xưa, thầy dác hơi hay dùng ống tre luộc trong nước sôi, đoạn úp lên những nơi mình muốn trị bịnh. Người dân nông thôn có nhiều lối trị bịnh, như bịnh cảm "con rắn", mới xem qua thì cũng chưa hiểu. Thông thường triệu chứng là ói mửa, đau bụng, chóng mặt dữ dội, Thầy cắt nhìn thấy bèn lật cánh tay nằm gần nách, dùng nước lả hay rượu trắng, đoạn vỗ mạnh đến khi nơi nầy nổi lên một khúc đen, hình con rắn liu điu, thế là thầy cắt cứ cắt vào đầu, đuôi và giữa là trị hết, rất thần kỳ.

Trương Minh Hòa

Một Sách Lược Nguy Hiểm: Chống Chống - Cộng

Chu Tất Tiến

Cuộc chiến đấu chống Cộng Sản đòi Tự Do và Dân Chủ cho Việt Nam là một cuộc chiến phức tạp và không cân sức giữa hai khối: Khối Tự Do - Yêu Nước và Khối Cường Quyền - Phản Quốc. Khối Tự Do -Yêu Nước gồm những tâm hồn nhiệt thành nhưng ở xa quê nhà phối hợp cùng những chiến sĩ Dân Chủ ở ngay trong nước là những người không có phương tiện tự bảo vệ. Trong khi đó, khối Cường Quyền - Phản Quốc thì dồi dào bạo lực, tài chánh, quyền uy, và phương tiện để áp đảo những chiến sĩ Dân Chủ lại mênh mông, không giới hạn.

Một sự thực phũ phàng nữa là ngay trong hàng ngũ chống Cộng ở hải ngoại, sự phân rẽ rất chủ quan lúc nào cũng manh nha làm cho nhiều người nản chí. Lực lượng đã phải dàn trải mỏng trên nhiều tiểu bang và nhiều quốc gia, phương thức chiến đấu đã không đồng bộ mà còn bị chia rẽ, đánh phá từ bên trong, thì cuộc chiến nhất định sẽ khó khăn, gian khổ. Các nhà tranh đấu cho Dân Chủ ở trong nước sẽ còn bị áp bức, trù dập, bỏ tù, bị du côn trấn lột, công an hành hạ, tống vào nhà thương điên và chích thuốc điên, hoặc giam cầm biệt tích, mà không nhận được những hỗ trợ kịp thời từ bên ngoài.

Thử tìm hiểu về nguyên nhân của các vụ việc chia rẽ nội bộ, người ta thấy, ngoài những nguyên nhân xã hội, tâm lývà chính kiến khác biệt, còn nổi bật lên một yếu tố rất nguy hiểm: đó là sách lược "Chống - Chống Cộng" của Cộng Sản, mục đích làm suy yếu hàng ngũ những người đấu tranh cho Dân Chủ ở hải ngoại.

Đây là một sách lược nhằm phá hoại tình đoàn kết quốc gia, cũng như gây hoang mang, chia rẽ trong mọi nơi, mọi lúc, làm mất uy tín những nhân vật chống Cộng có một chút tên tuổi hay những nhân vật đã được cộng đồng chống Cộng có cảm tình từ lâu. Sau khi chiến dịch "chụp mũ" kiểu chợ búa thất bại, vì đã tung ra quá nhiều "mũ" đến nỗi người ta không còn coi nặng sự việc bị chụp mũ nữa, Cộng Sản chủ trương hai loại hình hoạt động mới, tinh vi hơn và nguy hiểm hơn.

1. Về phương diện viết:

Nhiều bài viết mới xuất hiện của những tác giả lạ mặt, phân tích tình hình chính trị, văn hóa, và sinh hoạt báo chí của những người chống Cộng, để mò mẫm, tìm ra những khe hở của những nhân vật đó, rồi hạ bệ những nhân vật chống Cộng bằng những ngôn từ có vẻ trí thức, cho rằng các tác giả đó là "tay sai Cộng Sản", chỉ thỉnh thoảng mới lọt vào vài danh từ bình dân như "bưng bô", "đội đĩa"...

Thí dụ như trong bài báo viết về giới lãnh đạo Cộng Sản tham nhũng, một tác giả đã dùng danh xưng "ông" để gọi một lãnh tụ Cộng Sản. Lập tức, có một bài viết lên án tác giả này, cho rằng tác giả đã đề cao Cộng Sản. Thoạt đọc bài phê bình, người đọc nhanh sẽ tưởng như người phê bình là một người chống Cộng kiên định, không chấp nhận cho ai gọi Cộng Sản bằng "ông". Nhưng thật ra, nếu để ý kỹ, sẽ thấy người phê bình đó, không bao giờ cho một câu đả kích chế độ Cộng sản một giòng nào, mà chỉ phân tích, nhằm hạ nhục người viết kia mà thôi. Đọc kỹ hơn, người ta sẽ thấy tất cả những ai bị phê bình, đều là những người chống Cộng triệt để bằng hành động, chứ không chỉ bằng lời nói. Như vậy, kẻ phê bình kia, chỉ qua một bài viết tầm thường, đã cố tình loại ra khỏi vòng chiến vài nhân vật chống Cộng thứ thiệt, còn kẻ "chống" Cộng bằng mồm đó, chưa hề làm một động tác chống Cộng nào, ngoài mấy bài viết lẻ tẻ, lên án phe ta kịch liệt, muôn phần tệ hại hơn là chống Cộng. Kẻ phê bình đó không cần biết (hay không hề muốn biết) là người chống Cộng khoa học và chân chính không muốn bắt chước Cộng Sản gọi kẻ thù bằng "thằng". Thằng hoặc, nhắc đến tên tội đồ của dân tộc là Hồ Chí Minh, cũng chỉ gọi tên, chứ không cần viết là "thằng Hồ Chí Minh" thì mới là chống Cộng.

Và cũng có người chỉ vì phát biểu hay viết mà xử dụng một vài chữ không thích hợp, lập tức đang từ hàng ngũ chống Cộng lại biến thành cộng sản. Những bài viết gây hoang mang này tác hại hơn việc chụp mũ bình dân giáo dục, vì được viết trịnh trọng, có mục, có tiểu mục. Ngôn từ, dĩ nhiên, trí thức hơn phương pháp chụp mũ bừa bãi. Người đọc không tinh ý sẽ cảm thấy bài viết có giá trị.

Dĩ nhiên, Cộng Sản vẫn áp dụng song song loại chửi lộn "hạ cấp" với ngôn từ gay gắt, chửi bới, mạ lị tục tĩu những nhân vật chống Cộng khác. Trong những hệ thống thư điện tử tràn ngập trên các làn sóng, rất nhiều khúc "đấu tố" ngắn ngủi, dùng toàn ngôn từ tệ hại, đôi khi viết luôn lên tựa đề: "Đ.M. thằng khốn nạn ABC..." hoặc "đồ chó đẻ EDG..." Có những điện thư đòi ngồi lên đầu đối thủ mà .. (đi toilet!). Tất cả các "khúc chửi bới" để tiêu diệt phe ta này, vẫn hàng ngày tràn ngập trên các mạng lưới thư điện tử. Người nhận thư, nếu bản tính cả tin, có thể sẽ nghĩ rằng những kẻ phê bình kia là người chống Cộng triệt để và tự nhiên bớt sự ủng hộ với người bị phê bình. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, tự nhiên một nhân vật chống Cộng sẽ bị loại ra khỏi vòng chiến. Nếu không bị loại, thì cũng bực mình, nản chí mà bỏ cuộc.

Lưu ý là một số địa chỉ e-mai, ngoài việc dùng tên bình thường như Nguyễn Thành, Trần Thắng, kẻ tay sai Cộng Sản có thể dùng tên hiệu kêu rất to: tiêudiêtcôngsản, tieudietthồchíminh, duyêndáng (vietnam), hòabình. Nhưng chính những tên hiệu "tiêudiẹtcộngsản" lại chính là cộng sản, vì nội dung toàn là ca ngợi Bác, Đảng và chủi bới thậm tệ những người quốc gia.

2. Về phương diện Nói:

Có một vài cá nhân luôn xuất hiện trong tất cả các cuộc hội thảo chống Cộng, nhưng không bao giờ phát biểu lời chống Cộng, mà chỉ lắng nghe các diễn giả nói không chỉnh một chữ là lập tức nắm micrô đả đảo liền. Thí dụ như khi nghe nói "chúng ta phải phản đối Cộng Sản bán đất, dâng biển ...", thì hỏi lại ngay: "chúng ta đây là những ai? Ông có gồm cả Cộng Sản vào không?" Hoặc chất vấn một cách dữ dội: "Tại sao ông lại nói là yêu cầu Phan văn Khải hay Nguyễn Tấn Dũng trả lời? Như vậy, là ông muốn nói chuyện với Phan Văn Khải hay Nguyễn Tấn Dũng hay sao?" Rồi đùng đùng đứng dậy, bỏ ra, tỏ thái độ khinh bỉ diễn giả.

Lưu ý là trong khi chất vấn, những người này không bao giờ dùng danh từ đả kích Cộng Sản, cũng không gọi "thằng Phan Văn Khải", chỉ đả kích diễn giả mà thôi. Nếu có dịp gần những cá nhân "quậy" kiểu này, thì sẽ thấy có những lúc nào đó, ông "quậy" sẽ bĩu môi: "Ậy! mấy cha Hát Ô già này thì làm gì nên hồn!" Hoặc lý luận kiểu nửa đùa nửa thực: "Cũng phải cám ơn Cộng Sản, vì nếu không có Cộng Sản, thì không có ngày hôm nay được chính phủ Mỹ cho ăn, mặc, cho con cái ăn học, cho cơ hội Chống Cộng!"

Hay:

"Hồi đó, ở Việt Nam, có nằm mơ cũng không thấy được đi Mỹ. Nhờ có Cộng Sản vào mà mới được du học đấy chứ? Mẹ kiếp! Ngày xưa chỉ con ông cháu cha mới được đi du học. Cộng Sản vào, cả triệu người du học! Còn kêu ca nỗi gì?" và "nếu không có Cộng Sản, thì làm gì có hambớgơ mà ăn hoài?"

Đó là sách lược mới của Cộng Sản: dùng người phe ta đánh phe ta! Nếu không tỉnh táo, người chống Cộng sẽ rơi vào một mê hồn trận, để một là biến thành một người tả xung hữu đột, chống cự lại phe ta dữ dội, hai là chán nản, bỏ cuộc.

Nếu tỉnh táo, cứ im lặng, không để bị rơi vào bẫy chia rẽ, thì ít hay nhiều, người bị tố khổ cũng thấy phần nào mất đi nhuệ khí và buồn trong lòng. Công việc chống Cộng sẽ vì đó, mà mất đi một ít sức mạnh, bớt đi một số các tay dũng sĩ. Đằng nào thì Cộng Sản cũng có lợi. Chỉ còn biết cầu xin Ơn Trên gia hộ cho các nhà đấu tranh đòi Tự Do, Nhân Quyền, và Dân Chủ được an mạnh cả tinh thần lẫn thể chất, bình tĩnh, gạt ngoài tai những lời châm chọc, dù trí thức hay bình dân, để tiếp tục chiến đấu đến thành công cho nước Việt Nam yêu quý.

Chu tất Tiến

Wednesday, August 6, 2008

Danh Dự Quốc Gia


Ngô Nhân Dụng

Tại sao 600 tờ báo cùng các đài ti vi, radio ở Việt Nam không nơi nào loan tin chính phủ Nhật Bản đang giúp nước ta bằng việc chống tham nhũng?

Cựu chủ tịch công ty PCI và ba người Nhật khác bị truy tố đã hối lộ các quan chức người Việt quản lý dự án Ðại Lộ Ðông Tây ở Sài Gòn. Nhân viên của công ty PCI, trúng thầu sử dụng tiền viện trợ Nhật Bản làm con đường này, đã đem 820 ngàn đô la Mỹ (90 triệu đồng Yen) hối lộ các quan chức Việt trong những năm 2003 và 2006. Trong vụ PMU ở ngoài Bắc, cũng là tiền viện trợ Nhật Bản cho Bộ Giao Thông Vận Tải! Ðúng là một đường lối nhất trí, trước sau như một! Nếu số tiền này được dùng mua xi măng, mua cát, vân vân, thì chắc cái xa lộ Ðông Tây ở Sài Gòn đã dài thêm được mấy chục mét, đồng thời hàng ngàn công nhân Việt Nam đã được lãnh lương đem về đóng học phí cho các con! (Số tiền đó lớn gấp đôi số tiền viện trợ làm cái sân đá banh bằng cỏ nhân tạo mới khai trương ở Hà Nội, và được cả thế giới biết đến vì cảnh ông quan đánh nhà báo).

Nhật báo Yomiuri cho biết Nhật Bản là quốc gia viện trợ cho Việt Nam nhiều nhất. Nếu nhờ vụ truy tố này mà từ nay trở đi các công ty Nhật Bản tới nước ta bớt đút lót, bớt hối lộ thì chắc đường sá ở Việt Nam sẽ rộng hơn và các cây cầu cũng vững chắc hơn! Cho nên đây là một tin vui, vui vì chính phủ Nhật Bản cũng giúp dân Việt Nam bài trừ tham nhũng! Tin này được các báo, các đài ở Tokyo tường thuật và nhật báo Người Việt cũng loan tải đầy đủ ngày hôm qua. Nhưng báo chí trong nước đều im lặng, thế mới lạ!

Báo chí Việt Nam không cho bà con biết người nhận hối lộ hơn 800 ngàn Mỹ kim có phải tên là Huỳnh Ngọc Sỹ như bên Tokyo họ viết hay không. Không ai phỏng vấn ông để biết ông cầm tiền về rồi trao cho những ai, họ chia chác như thế nào. Trong thời gian năm 2002 đến 2006 đó những ông nào giữ chức vụ nào ở thành phố? Các ông nào trong số đó đang ngồi trong Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng? Bao nhiêu điều dân Việt Nam muốn biết nhưng không được biết!

Và chắc chắn không nhà báo Việt Nam nào dám bàn luận về bản tin đó, ngoài một ký giả của nhật báo Người Việt. Ký giả Gia Ðịnh đã nhân bản tin này mà thuật lại những vụ tham nhũng khác như vụ liên quan đến Siemens, một công ty Ðức bị truy tố ở Munich về tôi hối lộ ở Việt Nam. Anh cũng giải thích những lý do tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam không muốn tham gia các định chế quốc tế chống tham nhũng! Vì trừ tham nhũng thật thì lộ hết!

Nhưng nhật báo Yomiuri bên Nhật Bản khi loan tin này đã nêu lên một vấn đề lớn trong mục xã luận: Vấn đề danh dự quốc gia. Xin nói ngay để bà con mình khỏi thắc mắc, báo Yomiuri không bàn gì về danh dự quốc gia của người Việt Nam. Họ chỉ bàn về danh dự của họ, là dân Nhật Bản mà thôi. Ðèn nhà ai nhà ấy rạng. Danh dự nước Việt Nam chắc phải để người Việt lo với nhau!

Mục Xã Luận Nhật báo Yomiuri, trong số báo ngày 5 tháng 8, 2008, đã viết: “Không thể tha thứ được khi các công ty (Nhật Bản) coi chuyện hối lộ ở những nước đang phát triển chỉ là một cách làm kinh doanh bình thường! Vụ truy tố tội hối lộ đầu tiên này liên can tới chương trình viện trợ phát triển chính thức (ODA) phải coi là tín hiệu mạnh mẽ cho các công ty Nhật Bản biết để thay đổi cách nhìn của họ.”

Xin nói thêm là đạo luật Ngăn Cấm Cạnh Tranh Bất Chính mới được quốc hội Nhật tu chính vào năm 1998, sau khi họ ký vào công ước bài trừ tham nhũng của các nước OECD (Tổ Chức Hợp Tác Và Phát Triển Kinh Tế). Các nước ký vào công ước này đều phải thay đổi luật lệ trong nước mình để thi hành đúng những điều khoản trong công ước. Nhà báo Gia Ðịnh hôm qua viết rằng Việt Nam đã ký vào công ước đó nhưng không bao giờ chính thức hóa cả. Từ khi Nhật Bản ký tới nay, vụ hối lộ ở Việt Nam là vụ truy tố đầu tiên nhân danh đạo luật mới này. Nhật báo Yomiuri đã nhắc các độc giả của họ là nước Việt Nam ta được đóng vai mở hàng - còn gọi là tiên phong - trước các nước khác, trong việc thi hành luật lệ mới. Công ty PCI đã trúng thầu ở 16 nước được Nhật viện trợ trực tiếp ODA, và công ty này đã trình những bản kế toán “không bình thường” về công việc làm ở các nước này, trong đó có Việt Nam. Tổng số tiền không minh bạch trong sổ sách của PCI lên tới 140 triệu Yen, trải ra 16 nước thì cũng không nước nào địch nổi Việt Nam, với 90 triệu “chi bất thường” chỉ trong một dự án ở Sài Gòn!

Tờ báo Yomiuri, có 10 triệu ấn bản mỗi ngày, cũng làm nhiệm vụ nhắc nhở các độc giả của họ rằng “Nhật Bản là quốc gia viện trợ nhiều nhất cho Việt Nam, năm ngoái đã tặng 100 tỷ Yen, tức là gần một tỷ đô la.” Rồi họ viết ngay để nhắc nhở, “Ðây là tiền do dân chúng (Nhật Bản) đóng thuế!” Họ muốn nói, số tiền 800 ngàn đô la đem hối lộ đó là mồ hôi nước mắt của dân Nhật chứ không phải là tiền các quan đã xin được của đền Bà Chúa Kho!

Nhật báo Yomiuri lên tiếng than phiền chính phủ Nhật không ráo riết trong việc bài trừ tham nhũng. Họ nêu thí dụ năm 2002, công ty Mitsui đã bị điều tra về vụ hối lộ các quan chức Mông Cổ 1.3 triệu Yên trong vụ thực hiện một viện trợ ODA khác. Năm đó, công tố viện đã chuẩn bị truy tố đại công ty này, nhưng sau lại bỏ. Tờ Yomiuri không nói lý do, chỉ có thể đoán là công ty Mitsui đã xin nộp phạt để khỏi bị ra tòa. Nhưng theo báo Yomiuri, tha cho một công ty đi hối lộ như vậy là làm cho cả nước mang tiếng, vì tổ chức OECD đã phải nhiều lần nhắc nhở chính phủ Nhật hãy tích cực hơn trong việc thi hành công ước bài trừ tham nhũng! Bài trừ gì mà từ năm 1998 đến nay, đã 10 năm mới truy tố có một vụ hối lộ các quan lại Việt Nam! Ðể so sánh cho người Nhật thấy chính phủ của họ không nỗ lực đủ để làm bảo vệ uy tín quốc gia, Nhật báo Yomiuri nêu lên trường hợp nước Mỹ - mà dân Nhật thì vẫn muốn họ phải hơn dân Mỹ. Tờ báo viết, “Hãy so sánh để thấy, kể từ khi công ước được thi hành, nước Mỹ đã truy tố khoảng 100 công ty về tội hối lộ các quan chức ngoại quốc.” Thế mới biết dân Nhật Bản họ lo bảo vệ danh dự quốc gia như thế nào, ngay cả trong chuyện bài trừ tham nhũng ở ngoại quốc họ cũng không muốn thua kém ai!

Về vụ hối lộ ở Việt Nam, nhật báo Yomiuri thú nhận, “Không thể nào trừ hết tệ đoan các công ty đi đút lót khi các quan chức chính quyền xứ họ đòi ăn hối lộ, như trong vụ PCI này, trừ khi những người ăn hối lộ bị chính quốc gia họ trừng phạt.” Ðây có thể là một lời biện minh mà công ty PCI sẽ nêu lên khi bị ra tòa. Họ có thể mời quý ông Nguyễn Việt Tiến, Huỳnh Ngọc Sỹ, vân vân, sang Nhật làm chứng, cho thấy là quý ông lúc nào cũng được bình an, thanh thản, chả thấy có tội nào hết! Tuy nhiên, tờ báo này vẫn chỉ lo đến danh dự quốc gia của người Nhật, cho nên họ lại nhắc các công ty Nhật, “Các công ty nên nhớ rằng nếu họ chấp nhận đem tiền đút lót theo đòi hỏi của các quan chức tham nhũng, hành động đó sẽ khiến cho cộng đồng quốc tế mất lòng tin vào nước Nhật chúng ta!”

Người Nhật có vẻ rất lo ngại làm mất lòng tin. Khi một người không được ai tin thì coi như danh dự và phẩm giá không còn nữa. Khi một nước bị mất lòng tin của thế giới cũng vậy, không còn ai kính trọng nữa. Người Nhật nghĩ như thế mà chắc người Việt mình cũng nghĩ như thế. Cho nên, chúng tôi muốn gửi các bạn đồng nghiệp trong nhật báo Yomiuri lời xin lỗi của một người Việt Nam. Người Việt chúng tôi rất ân hận đã có những quan chức đòi hối lộ khiến cho các công ty Nhật phải lấy tiền đóng thuế của người dân quý quốc đem đút lót, một hành động mà chính đạo đức nước tôi lên án cũng như luật pháp nước Việt Nam ngăn cấm. Chúng tôi xin cúi đầu xin lỗi với tất cả mọi người Nhật Bản.

Trở lại nước mình, chúng ta lại càng ngạc nhiên khi thấy trong hai ngày qua báo chí trong nước không ai nhắc tới mối nhục chung này. Chúng tôi không trách các bạn đồng nghiệp, nhất là quý bạn ở Sài Gòn, nơi diễn ra vụ tham nhũng này. Vì chúng tôi biết quý vị đều nằm trong vòng kiểm soát gắt gao. Và các nhà báo cũng còn nhớ cảnh một ông thuộc liên đoàn bóng đá tát tai một ký giả, mới xảy ra tuần trước. Nhật báo Người Việt hôm qua cũng đăng tin này. Vụ hành hung diễn ra giữa công chúng, trước mặt các khách ngoại quốc! Nhưng đáng thương nhất là các trẻ em phải chứng kiến cảnh tượng đó, chúng sẽ học được gì ở người lớn trong cái “Trung Tâm Ðào Tạo Trẻ Quốc Gia” này? Nhưng các nhà báo đã học lại được một điều, là trong xã hội Việt Nam các quan khinh rẻ dân, đặc biệt là người ta khinh rẻ nhà báo.

Ở Nhật Bản, một tờ nhật báo như Yomiuri lâu lâu lại đánh thức lương tâm của cả dân tộc họ. Cho nên mới có bài xã luận tựa đề là “Hối lộ quan chức ngoại quốc là làm mất danh dự quốc gia.” Ở Việt Nam dù không ai được viết, nhưng tất cả mọi người đều nghĩ rằng dân tộc mình cũng biết phải giữ danh dự của quốc gia không khác gì dân Nhật Bản! Nhưng người ta chỉ có thể bảo nhau giữ danh dự quốc gia nếu được tự do!.

Ngô Nhân Dụng

Tiền Nhiều Cũng Không Bằng Lòng Dân ... Lòng Người



Trung Ngôn

Trong tuần qua, trên nhật báo San Jose Mercury News, ngày 01-8-2008, ký giả Joshua Molina đã viết một bài nói về việc nữ Nghị viên Nguyễn đã quyên được số tiền gấp đôi số tiền của Ban Bãi Nhiệm và cho biết là những món tiền lớn đều do các chủ kinh doanh, các nhà thầu xây dựng.

Dưới tiêu đề "Councilwoman Nguyen raises twice as much money as recall backers BIG DONERS: BUSINESS OWNERS, DEVELOPERS" ký giả Joshua viết:

"Vào thế trận, Nghị viên Hội Ðồng Thành Phố San Jose Madison Nguyễn không chịu đi xuống mà không chiến đấu; đương đầu với nỗ lực bãi nhiệm, bà đã gây quỹ được 103,408 Mỹ kim để giữ chỗ ngồi của mình.

"Theo tiết lộ của hồ sơ tài chánh tại City Hall chiều Thứ Năm, thì bà Nguyễn, 33 tuổi, đã có nhiều hơn hai lần số 42,882 Mỹ kim được quyên góp bởi những người chủ trương cuộc bãi nhiệm, những người này đã phẫn nộ vì sự chống đối của bà trong việc đặt tên cho vùng buôn bán lẻ trong khu vực của bà là "Little Saigon".


Bài báo viết tiếp:

"Bà Nguyễn, đã không trả lời điện thoại của báo Mercury News, đã quyên góp một số tiền lớn hơn lúc bà tranh cử vào hội đồng thành phố năm 2005, hoặc ngay cả năm 2006 tái tranh cử. Trong lúc các ứng cử viên hội đồng thành phố đối diện với mức giới hạn quyên góp gây quỹ, thì không có một giới hạn là bao nhiêu cho phía bên nỗ lực bãi nhiệm để họ có thể quyên góp cho đến mức đạt tiêu chuẩn của cuộc bầu phiếu. Với sự hỗ trợ của ông Thị trưởng Chuck Reed, bà Nguyễn đã nhận được sự ủng hộ nặng ký về tài chánh từ các nhà thầu thiết kế, các chuyên viên địa ốc và các chủ kinh doanh.

"Tặng dữ cá nhân lớn nhất cho bà là 3,500 Mỹ kim từ Dana Foods, một tiệm tạp hóa tại Concord. (Chủ nhân tiệm này chưa có thời giờ để có ý kiến ngay). Bà Nguyễn có nhận một vài đóng góp với số tiền 2,500 Mỹ kim từ các thực thể như Chinatown LLC của San Jose, FF Development ở San Diego và cơ sở San Jose của Core Homes.

"Bà cũng nhận được một ngân phiếu 2,000 Mỹ kim từ những người vận động môi giới như Dustin DeRollo và Tom Saggau và những ngân phiếu 1,000 MK từ những tay chơi chính trị được nhiều người biết tại San Jose, kể cả chủ đài phát thanh Robert Kieve; công ty xây nhà và phát triển ROEM và Carl Guardino, giám đốc điều hành Nhóm Silicon Valley Leadership.

"Ông Larry Gerston, Giáo sư Khoa học Chính trị tại Ðại Học San Jose cho rằng số tiền gây quỹ của bà Nguyễn nhiều hơn là điều không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi vì bà Nguyễn kết hợp chặt chẽ với các lãnh tụ Ðảng Dân Chủ và nhiều người trong nhóm này chống lại khái niệm bãi nhiệm."


Giáo sư Gerston nhận định rằng:

"Có thể là chính đáng khi người ta cho rằng Madison Nguyễn không phải là người ngay thẳng, nhưng thời điểm để thực hiện cái quyết định này là vào cuộc bầu cử sắp tới."

"Tuy nhiên, Giáo sư vẫn cho rằng phía chủ trương bãi nhiệm có một ưu thế.

"Khối người dân chống-Madison Nguyễn có một cái gì đang tích cực phát huy là cái mà nhóm ủng hộ Madison không thể có, đó chính là tình cảm nồng nàn, tha thiết." Và Giáo sư Gerston nhấn mạnh "Bạn không thể nào sử dụng đô-la để thay thế tình cảm tha thiết trong lòng người."

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Nén bạc đâm toạc tờ giấy" nghĩa là thế lực đồng tiền có thể vô hiệu hóa những văn bản giấy tờ, để đổi trắng thay đen trong các cuộc hà hiếp dân lành nghèo tiền bạc.

Nghị viên Madison Nguyễn hiện đang áp dụng câu tục ngữ Mỹ "Ðồng đô-la có thể che khuất mặt trời" và đang dùng số đô-la lớn lao của giới thương buôn, kinh doanh địa ốc vân vân từ các sắc dân khác, để chèn ép, hà hiếp và vùi dập cộng đồng tỵ nạn nghèo tiền của, chỉ có một tấm lòng thiết tha với cái tên Little Saigon, mà đã bất đắc dĩ chống lại sự áp đặt cái tên "Saigon Business District" của bà Nghị viên Madison Nguyễn và ông Thị Trưởng Chuck Reed, nên mới bị điêu đứng, khốn khổ.

Chính ông Hoàng Thế Dân, một thành viên của nhóm Madison, đã lên tiếng trù yểm rằng: "Cộng đồng Little Saigon" sẽ bị vùi dập đến tận cùng vì đã dám chống lại việc làm phi dân chủ của Hội Ðồng Thành Phố.

Lời nói của ông Hoàng Thế Dân, cho đến hôm nay, không còn là một lời hăm dọa suông mà đang là những hành động tàn tệ giáng xuống cộng đồng Little Saigon.

Thật vậy, lấy một sự kiện nhỏ để làm bằng chứng: chính Hội Ðồng Thành Phố đã ra Nghị quyết công nhận cái tên Little Saigon là danh xưng được đại đa số cư dân San Jose ưa thích và ủng hộ, rồi cũng chính Hội Ðồng Thành Phố ký nghị quyết cho thiết lập cổng chào Welcome to Little Saigon San Jose và những là phướn dọc theo đường Story Road từ cầu xa lộ 101 đến đường Senter, trong văn bản có cả chữ ký của Nghị viên Madison Nguyễn.

Nhưng khi thực hiện nghị quyết thì Hội Ðồng Thành Phố gây rất nhiều khó khăn, bới lông tìm vết trong các bản vẽ các mẫu lá phướn. Rồi sau khi đã có một số mẫu lọt được "vòng luật lệ", Hội Ðồng Thành Phố vẫn chưa chịu buông tha, cho những lá phướn được treo lên dọc đường Story Road như đã quyết nghị. Thành phố cứ mặc cả, cò kè bớt một thêm hai, thật là nhỏ nhặt. Lúc đầu chỉ cho 11 cái thay vì 20 rồi tăng lên 18, nhưng lại có chỗ cấm kỵ không được treo, đó là trước Grand Century Mall của Tăng Thành Lập, số 1001 Story Road và trước tiệm bánh mì Lee Sandwiches của ông Lê Văn Hướng, người đã dùng một danh sách 92 chữ ký giả mạo để chống lại Little Saigon và dối gạt Hội Ðồng Thành Phố.

Hỏi Ban Tái Thiết phụ trách việc treo phướn rằng tại sao lại phải tránh hai nơi ấy, Ban Tái thiết nói là chỉ làm theo lệnh của Hội Ðồng Thành Phố. Làm như vậy thì tránh sao khỏi sự nghi ngờ là đã có tài phiệt nhúng tay vào những đòn thù thiếu quang minh chính đại này. Sau phiên họp sáng thứ Tư, ngày 23-7-2008, cộng đồng Việt Nam tỵ nạn đã rất buồn, và đã quyết định để cho Hội Ðồng Thành Phố thể hiện thiện ý và làm việc theo lương tâm của những viên chức chính quyền do dân bầu lên, cộng đồng tỵ nạn sẽ không còn có ý kiến về vấn đề này nữa. Chính quyền đã ra Nghị quyết thì hãy chờ chính quyền thực hiện, sớm hay muộn, đúng hay sai, công luận sẽ phán xét.

Cộng đồng người Việt tỵ nạn nên vững niềm tin vào nền dân chủ Hoa Kỳ, nhất là niềm tin vào sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia. Tiền bạc chỉ có thể sai khiến được bọn người kiếm ăn và xu nịnh vô liêm sĩ trong một thời điểm nào đó mà thôi, không thể mua được tình cảm đích thực của lòng người. Tiền bạc thì có lúc cạn kiệt, kẻ vì tiền sẽ phản lại chủ ngay.

Do đó, dù cho bà Madison Nguyễn có sử dụng tiền muôn bạc vạn, từ các tài phiệt, để tìm cách trù dập, hà hiếp cộng đồng người Việt, tôi tin chắc rằng bà chẳng thể nào đạt được mục đích. Vì như Giáo sư Gerston đã nhận định "The anti-Nguyen folks have something going that the pro-Nguyen folks don't have, and that is passion. And there is no way you can substitute dollars for passion." "Khối nhân dân chống-Madison Nguyễn có một cái đang tích cực phát huy là điều mà nhóm ủng hộ Madison không thể có, đó chính là tình cảm nồng nàn, tha thiết. Do đó, bạn không có cách nào để có thể sử dụng đô-la để thay mà thế tình cảm tha thiết trong lòng người."

Trung Ngôn