Friday, May 30, 2014

Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc - Trần Trung Đạo

Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc

Trần Trung Đạo

Sau 40 năm nếu tính từ thời gian hải quân Trung Cộng tấn chiếm Hoàng Sa và 56 năm kể từ khi Phạm Văn Đồng gởi công hàm cho Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, lần đầu tiên lãnh đạo CSVN chính thức phủ nhận công hàm. Bao nhiêu lần lập đi lập lại câu thần chú “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc về chủ quyền đối với Hoàng Sa” nhưng giới lãnh đạo CSVN không hề nhắc đến công hàm, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ. Thứ Sáu 23-5-2014, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia, trong cuộc họp báo với mục đích “làm rõ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng” đã đưa ra các lý luận để phản bác các quan điểm của Trung Cộng.

Điều kiện quốc tế dẫn tới công hàm Phạm Văn Đồng

Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rõ ràng nào về lãnh hải. Nhà văn Trung Quốc Wei Wen-han nghiên cứu về lãnh hải nhắc lại cho đến tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và thềm lục địa thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957, Nam Dương tuyên bố mở rộng lãnh hải từ 3 hải lý theo truyền thống mà hầu hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lý và được tính từ điểm ngoài cùng của các đảo thuộc lãnh thổ Nam Dương. Vì Nam Dương là quốc gia quần đảo, nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Hòa Lan và nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (Declaration on China's Territorial Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý”“áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.

Công tâm mà nói, bản tuyên bố của Trung Cộng trong thời điểm đó nhắm vào Mỹ đang bảo vệ các tàu hàng Đài Loan trong các vùng đảo Kim Môn, Mã Tổ, Bành Hồ hơn là các nước Đông Nam Á. Người soạn thảo bản tuyên bố của Trung Cộng áp dụng phương pháp tính lãnh hải của Nam Dương và có tầm nhìn Đại Hán nên đã đưa các đảo Tây Sa (Hsisha) tức Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) tức Trường Sa trong vùng biển Đông vào. Chính phủ Mỹ tức khắc bác bỏ bản tuyên bố của Trung Cộng và các chiến hạm Mỹ vẫn tiếp tục bảo vệ an ninh cho các tàu hàng Đài Loan trong vùng 3 hải lý của đảo Kim Môn, Bành Hồ chung quanh Đài Loan. Trung Cộng không dám bắn. Bộ quốc phòng Mỹ đã lên kế hoạch tấn công Trung Cộng bằng bom nguyên tử. Để giữ thể diện, Bành Đức Hoài tuyên bố ngưng bắn vào Kim Môn nếu tàu chiến Mỹ ngưng bảo vệ tàu hàng Đài Loan. Mỹ chẳng những không đáp lại đòi hỏi của Trung Cộng mà còn gởi Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles thăm Đài Loan để bàn kế hoạch phòng thủ Đài Loan lâu dài.

Hai lý do Trần Duy Hải dùng để bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng

Thứ nhất. Công hàm Phạm Văn Đồng “hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Lý luận này không thuyết phục được ai. Không cần phải đứng về phía Trung Cộng mà chỉ một người có chút hiểu biết và dù đứng về phía Việt Nam cũng phản bác lại dễ dàng. Đưa ra lý do không đề cập đến Hoàng Sa, Trường Sa là một cách tự kết án mình. Bản tuyên bố của phía Trung Cộng ghi rõ Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng và Việt Nam đáp lại bằng cách“ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. CSVN có nhiều cách để lấy lòng đàn anh Trung Cộng mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước. Chẳng hạn, Phạm Văn Đồng chỉ nhấn mạnh đến sự ủng hộ của đảng và nhà nước CSVN đối với các chính sách của Trung Cộng trong xung đột Đài Loan mà không nhắc nhở gì đến Hoàng Sa, Trường Sa và coi như không biết đến “Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc”. May ra còn có thể cãi cọ được. Tiếc thay, lãnh đạo đảng sợ viết như vậy chưa vừa lòng đàn anh và chưa tỏ bày hết lòng dạ trung kiên, cắt cỏ ngậm vành của mình.

Không giống thái độ của các nước Mỹ, Anh, Hòa Lan, CSVN tự nguyện đưa cổ vào tròng. Không có một văn bản nào cho thấy Trung Cộng áp lực Việt Nam phải đồng ý với bản tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng. Không có tài liệu nào cho thấy Trung Cộng đe dọa nếu CSVN không ủng hộ sẽ đưa quân sang “dạy cho một bài học” hay cắt đứt viện trợ. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Cộng, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Cộng đã biết phòng xa. CSVN thì không. Nếu sự kiện được trình lên toàn án quốc tế, không một quan tòa nào sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.

Phân tích để thấy, lãnh đạo CSVN trong lúc phủ nhận giá trị của công hàm Phạm Văn Đồng trước dư luận quốc tế, cũng đồng thời thừa nhận trước nhân dân Việt Nam công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước.

Lý do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa”.

Trong hai lý do, chỉ có lý do Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là có sức thuyết phục về mặt pháp lý cũng như gây được cảm tình của thế giới tự do. Tuyên cáo của chính phủ VNCH công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao VNCH đầu năm 1975 đanh thép bác bỏ giá trị pháp lý của công hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những gì không thuộc lãnh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. VNCH là một quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về VNCH đã được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, lý luận VNCH có gây được cảm tình nhân loại và có thể dùng để tranh luận trong bàn hội nghị cũng chưa thắng được bởi vì VNCH không còn là một thực thể chính trị.

Phản đối của nhà nghiên cứu Trung Quốc

Ngô Viễn Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam và từng du học tại Việt Nam đã bác bỏ các luận điểm của CSVN. Ngô Viễn Phú cho rằng: “Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh).”

Đàn anh Cộng Sản Trung Quốc công nhận đàn em CSVN là chuyện đương nhiên và thể theo lời yêu cầu của CSVN chứ không phải của VNCH. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước thay đổi theo từng thời kỳ. Singapore là một nước nhỏ nhưng mãi đến 1990 mới công nhận Trung Cộng. Liên Xô là một nước lớn nhưng Mỹ bắt chờ 16 năm sau cách mạng CS Nga mới công nhận Liên Xô. Thời điểm 1933 Nhật bắt đầu bành trướng ở phương Đông nên Mỹ cần làm dịu căng thẳng ở phương Tây, nếu không Tổng thống Franklin Roosevelt còn cô lập Liên Xô thêm nhiều năm nữa.

Việc “Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam” cũng chỉ giá trị giữa miền Bắc CS và Trung Cộng không ảnh hưởng gì với quốc tế và không liên hệ gì đến nước thứ ba, trong trường hợp này là VNCH. Trung Cộng có quyền công nhận miền Bắc Cộng Sản và không công nhận VNCH về mặt ngoại giao nhưng vẫn phải thừa nhận VNCH là một quốc gia độc lập được quốc tế và các quốc gia tham dự hội nghị Geneva, trong đó có Trung Cộng tham dự và ký kết.

Trong khi phản bác Ngô Viễn Phú lại cũng dựa trên lý luận CSVN đã xâm lược VNCH và không có quyền “thừa kế” lãnh thổ của nước bị chiếm: “Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”

Về mặt công pháp quốc tế cũng như cả lãnh đạo CSVN lẫn phe phản đối lý luận của CSVN đều công nhận rằng chủ nhân thật sự của Hoàng Sa vẫn là VNCH. Do đó, điều kiện tiên quyết, chọn lựa duy nhất và con đường thích hợp nhất không chỉ để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Công mà mở đường cho tự do, dân chủ và thịnh vượng là tập trung vào công cuộc phục hưng VNCH.

Lối thoát VNCH

Đọc tới đây, một số độc giả có thể sẽ dừng lại vì cho người viết không tưởng, hư cấu hay chủ trương đi lại một vết xe đổ. Không. Phục hưng VNCH không phải là đi lùi vào quá khứ mà hướng tới tương lai, không phải lập lại mà thăng tiến cao hơn. VNCH không phải là vết nhăn trên trán của thế hệ cha chú đã qua mà là hành trang và ước vọng của tuổi trẻ ngày nay. Chủ nghĩa CS mới thật sự là lạc hậu và việc cáo chung của chủ nghĩa này chỉ là vấn đề thời gian. Thác nước Niagara không thể nào chảy ngược. Không phải người viết, phần đông độc giả mà ngay cả các lãnh đạo CSVN cũng không thể chối cãi sự thật đó. Chủ nghĩa CS còn kéo dài ở Á Châu cho đến hôm nay là nhờ họ biết núp bóng sau tấm bình phong chống thực dân đế quốc. Tấm bình phong do họ dựng lên đang rã mục. Năm 1954 tại miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng CS và dân tộc Việt Nam là một, như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói “đảng là con nòi của dân tộc”. Năm 1975, khi đối diện với miền Nam từ lối sống đến phương tiện hoàn toàn khác với những gì bộ máy tuyên truyền CS đã thêu dệt nhiều người bắt đầu nhận ra đảng đã lợi dụng máu xương của những người ngã xuống vì khát vọng hòa bình, vì mơ ước đoàn viên, vì cơm no áo ấm chỉ để CS hóa toàn đất nước. Và hôm nay, 2014, đông đảo nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.

Và khi đó, thể chế nào khác sẽ thay thế chế độ CS nếu không phải là thể chế cộng hòa? Thực tế chính trị rất hiển nhiên đó đang là một khải hoàn ca tại hầu hết các quốc gia cựu Cộng Sản như Cộng hòa Czech, Cộng hòa Hungary, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Lithuania, Cộng hòa Estonia, Cộng hòa Mông Cổ v.v... Tiến trình dân chủ hóa diễn ra nhanh hay chậm tùy theo điều kiện của mỗi nước nhưng là hướng phát triển của văn minh nhân loại trong thời đại này.

Giá trị của VNCH

Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm qua, VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” “ôm chân đế quốc Mỹ”.

Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.

Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.

Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.

Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ đô la.

Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.

Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.

Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”

Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 39 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.

Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm năm trước.

Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại chính là dân tộc.

Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.

Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.

Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.

Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.

Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.

Trần Trung Đạo



Làm cách nào xóa mối nhục bán nước? - Ngô Nhân Dụng

Làm cách nào xóa mối nhục bán nước?

Ngô Nhân Dụng

Các “đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên một tưởng thú Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Cộng (viết tắt, Trung Cộng).

Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện, không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn.

Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!”. Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền!. Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.

Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.

Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.

Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa”“Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa”“Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.

Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa”. Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!

Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?

Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.

Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.

Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.

Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”. Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,

Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng”. Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung”.

Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan”. Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.

Ngô Nhân Dụng



Nói một lần về chuyện MÀU CỜ - Song Chi

Nói một lần về chuyện MÀU CỜ
Song Chi (RFA)

Cho đến bây giờ đã gần 4 thập niên trôi qua kể từ ngày VN thống nhất, nhưng lòng người Việt vẫn chưa thể thống nhất. Một trong những biểu hiện rõ nhất là đa số vẫn chỉ có thể chấp nhận đứng dưới một lá cờ: hoặc vàng hoặc đỏ. Chỉ có số ít hoặc không nghiêng về màu cờ nào và dành sự quyết định đó cho tương lai, khi đất nước đổi thay, sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý về việc chọn lựa màu cờ; hoặc không chọn cả hai và muốn chính phủ mới sau này sẽ có một lá cờ mới, đoạn tuyệt hẳn với quá khứ.

Về phần mình, tôi tôn trọng quyết định của tất cả những ai xem lá cờ vàng là thiêng liêng, hoặc không nghiêng về màu cờ nào, hoặc không chọn cả hai như vừa nêu trên, tôi chỉ muốn tâm sự đôi điều với những ai cho đến giờ phút này vẫn xem lá cờ đỏ sao vàng của đảng cộng sản là cờ Tổ quốc.

Nếu đó là người dân bình thường không quan tâm và cũng không đọc/nghe/xem thông tin đa chiều về tình hình chính trị nên chưa nhận thức ra, hoặc nếu là những người từ 40, 50 tuổi trở lên nhưng sinh ra và lớn lên ở miền Bắc vốn nghe tuyên truyền bao nhiêu năm về “chế độ ngụy quyền tay sai bán nước” nên không hiểu hay căm ghét lá cờ vàng, hoặc nếu là người sinh ra sau chiến tranh không từng sống qua cả hai chế độ nên không biết chọn lựa gì hơn lá cờ đỏ…thì không có gì đáng nói.

Nhưng có những người đã hiểu ra tất cả những sai lầm, tội lỗi và hệ lụy đảng cộng sản đã gây nên cho đất nước, dân tộc VN trong bao nhiêu năm qua, thậm chí còn đứng về phía những người tiến bộ, dân chủ, mà vẫn còn lướng vướng lá cờ đỏ thì thật đáng tiếc.

Trước hết, chúng ta đều biết, lá cờ đỏ sao vàng không phải là lá cờ có từ bao nhiêu đời nay của dân tộc VN, do ông bà tổ tiên ta truyền lại, mà đó là lá cờ của đảng cộng sản VN. Cho dù được gọi là quốc kỳ thì cũng chỉ là quốc kỳ của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa trước đây ở miền Bắc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN hiện nay.

Là lá cờ đại diện cho đảng cộng sản, cho một chế độ do đảng cộng sản dựng nên, nhưng trên thực tế, một sự thật mà cho đến nay những ai có lương tri, có hiểu biết đều không thể phủ nhận rằng chính đảng cộng sản trong quá khứ và hiện tại, đã và đang là lực cản lớn nhất trên con đường giành lại tự do dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân và sự cường thịnh cho đất nước. Sau bao nhiêu năm độc quyền lãnh đạo, không có lý do gì để đổ thừa cho bất cứ nguyên nhân nào khác, đảng và nhà nước cộng sản phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khi:

Để cho VN hôm nay trở thành một quốc gia lạc hậu, thua xa các nước láng giềng hàng chục, hàng trăm năm về mọi mặt.

Để cho người dân ngày hôm nay sống trong một xã hội không có tự do, dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, đạo đức suy đồi, văn hóa tàn mạt, những bản tính tốt đẹp, nhân văn của con người VN bị hủy hoại đến tận cùng…

Để cho VN bị lệ thuộc nặng nề vào Trung Cộng từ kinh tế cho đến chính trị, VN bị mất đất, mất đảo, mất biển và có nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng…

Đó là chưa kể, vì sự mù quáng của đảng cộng sản mà trong suốt thế kỷ XX, VN bị lôi kéo vào những cuộc chiến tranh liên tiếp hao người tốn của, tàn phá nặng nề đất nước và con người, từ chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và miền Nam Việt Nam Cộng Hòa, chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc và biên giới Tây Nam với Khơ me Đỏ-Cambodia…

Chưa kể, chính những hành động ngu muội, đặt tình hữu nghị Việt-Trung lên trên quyền lợi đất nước, dân tộc của đảng cộng sản đã đưa tới bao hệ lụy thiệt thòi, nguy cơ cho đất nước và dân tộc VN, như công hàm của ông Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958 cho tới nay đã luôn bị Bắc Kinh đưa ra làm cứng họng Hà Nội khi mở mồm nói về chủ quyền Hoàng Sa là một trong rất nhiều ví dụ.

Vậy có nên đứng dưới một lá cờ đại diện cho một chế độ, một đảng cầm quyền có quá nhiều sai lầm, mà nếu gọi là cõng rắn cắn gà nhà, bán nước thì cũng không ngoa hay không? Xin tùy cho mọi người suy nghĩ.

Hãy nhìn từ Liên Xô cho đến các nước XHCN cũ ở Đông Âu, sau khi thoát khỏi chế độ cộng sản, có nước nào sử dụng lại lá cờ của đảng cộng sản trước đó hay ngược lại, họ vĩnh viễn cất bỏ tất cả mọi thứ liên quan đến thời kỳ, chế độ cộng sản vào… bảo tàng?

Mong rằng một ngày nào đó, trên khắp nẻo đường VN sẽ tung bay lá cờ của một chế độ tự do dân chủ văn minh tôn trọng con người, lá cờ ấy màu gì cũng được nhưng đừng là màu đỏ gợi nhớ tới màu đỏ máu mà các đảng cộng sản trên thế giới thích dùng, bởi biểu tượng cờ đỏ, búa liềm, ngôi sao là biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản, của toàn thể phong trào cộng sản trên thế giới.

Trong khi ngày nay nhắc lại “thành tích” của các chế độ cộng sản từ Liên Xô, các nước Đông Âu cũ… cho tới Bắc Hàn, Trung Quốc, Việt Nam… người ta chỉ lạnh người nhớ đến những tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh, hay tội ác xâm lược…mà các chế độ này đã từng gây ra đối với nhân dân của họ và của nước khác.

Và cùng với lá cờ mới, là một bài quốc ca mới, không còn những ngôn ngữ sắt máu, hiếu chiến kiểu như “Cờ in máu chiến thắng… Đường vinh quang xây xác quân thù…”, mà sẽ là những ca từ ngọt ngào tụng ca quê hương VN, tụng ca hòa bình, tình yêu thương.

Chỉ đến lúc đó, mới hy vọng có thể có được sự bình yên và thống nhất trong lòng mọi người con dân Việt, dù đang sống trong hay ngoài nước.

Song Chi



ĐẢNG CS GỞI ĐẠI SỨ TRÁ HÌNH CÙ HUY HÀ VŨ - Dương Thanh Đông

ĐẢNG CS GỞI ĐẠI SỨ TRÁ HÌNH CÙ HUY HÀ VŨ
VÀO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI.

Dương Thanh Đông

Cù Huy Hà Vũ là con trai của đại công thần đảng Cộng Sản, nhà thơ Cù Huy Cận, đã bán rẻ tâm hồn
cho quỷ đỏ cộng sản từ khi làm thuộc hạ thân tín cho tên Việt gian Hồ Chí Minh, tên cộng sản ác ôn, là tội đồ của dân tộc Việt nam. Cù Huy Cận biến thành tên nịnh nót chuyên nghiệp, nằm trong thành phần thi nô như Tố Hữu, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…trong khi những người chân chính như thi sĩ Hữu Loan, thì bị trù dập từ thuở cải cách ruộng đất đến khi qua đời, ông sống trong nghèo khổ tại miền bắc. Cù Huy Cận nhờ tài nịnh hót tên Việt gian Hồ Chí Minh từ thời 1945, nên hắn hưởng nhiều bổng lộc, được Hồ ban cấp quyền ăn cướp công khai tài sản nhân dân, sau nầy con cái tranh giành nhau những bất động sản do đời cha ăn cướp, đời con cháu thụ hưởng. Cù Huy Hà Vũ lớn lên trong nhung lụa, du học ở Pháp vào thời mà toàn dân miền bắc đói khổ, ăn độn ngô khoai và ăn cả nhau tươi từ các bệnh viện cung cấp, do ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em của đại tướng Võ Nguyên Giáp thi hành công tác của đảng giao phó.

Cù Huy Hà Vũ thuộc gia đình quí tộc đỏ, giai cấp thượng lưu cộng sản, không cần phải tìm hiểu, chỉ cần nhìn những tấm ảnh mà hắn có mặt chung với các lãnh tụ miền bắc, cũng đã nói lên Cù Huy Hà Vũ luôn bảo vệ đảng, tôn thờ Hồ Chí Minh là thần thánh và cả gia tộc họ Cù vẫn dùng biểu tượng lá cờ máu, là sản phẩm của chế độ độc tài, sắt máu cộng sản bạo tàn nhất trong lịch sử nước Việt.

Do tranh quyền thất bại với cánh cầm quyền Nguyễn Tấn Dũng, đưa đến bản án 7 năm tù, nhưng vốn là dòng quí tộc đỏ, nên Cù Huy Hà Vũ hưởng qui chế tù như là khách sạn, sau nầy, vì nhu cầu cần người lãnh đạo thành phần du sinh, đón gió, nằm vùng, nên đảng dàn dựng cho Cù Huy Hà Vũ sang Hoa Kỳ với lý do chữa bệnh. So với Nguyễn Hữu Cầu, Tạ Phong Tần, Điếu Cày… thì những người nầy xứng đáng là tù nhân lương tâm, còn Cù Huy Hà Vũ chỉ là tù hờ, tù khổ nhục kế và được đảng cấp chiếu khán sang Mỹ bằng lý do đối kháng nhà cầm quyền nhưng lại "không chống đảng CS". Không ai chấp nhận một tay anh chị trong băng đảng Mafia tuyên bố hoàn lương vì bất đồng quyền lợi với những kẻ cầm đầu băng đảng, nhưng lại một lòng trung thành với đảng Mafia. Cù Huy Hà Vũ hay bất cứ tên Cộng Sản nào, dù thân Nga hay thân Tàu cũng luôn luôn bảo vệ đảng, là mái nhà chung của bọn vô thần, bất lương. Do đó những kẻ trong đảng CS tranh giành quyền lực, không phải là "bất đồng chính kiến" như các cơ quan tuyên truyền của băng đảng Việt Tân cố tình đánh lạc hướng suy nghĩ của mọi người, vì cái "chính kiến" là đảng, là tà thuyết Marx Lenin, lãnh tụ Hồ Chí Minh… chúng chỉ bất đồng về quyền lợi, quyền hành mà thôi.

Nói đúng hơn là đảng CSVN không thể cử một đại diện chính thức sang sống chung, sinh hoạt và lãnh đạo hơn 4, 5 triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, nên cách tốt nhất là gởi Cù Huy Hà Vũ sang, dưới dạng là tù chính trị, cộng thêm cái cớ nhân đạo là cho đi chữa bệnh, để đảng CSVN có được một đại sứ trá hình tại một nơi mà hầu hết mọi người đều dị ứng với cờ đỏ sao vàng, ảnh Hồ Chí Minh. Hai thứ ấy là biểu tượng trong trái tim hồng của một công tử đỏ, dòng giống cộng sản, nay đã đến đời thứ 3 (Cháu của Cù Huy Cận là Cù Huy Xuân Hiếu, nay đang du học ở nước Úc).

Hoa Kỳ tự hào là quốc gia dân chủ, với tượng thần Tự Do ở New York, là nơi nhận những di dân đa sắc tộc, nên một số người bị đàn áp như anh chàng luật sư mù Trần Quang Thành (Trung Cộng) cũng được chính phủ Mỹ cho cư trú. Đảng cộng sản lợi dụng tinh thần dân chủ mà cài người sang, trường hợp tên đạo tặc tập thơ Hoa Địa Ngục Nguyễn Chí Thiện là một trong những kế hoạch đưa người vào cộng đồng tỵ nạn VN ở hải ngoại để lãnh đạo sau khi được băng đảng Việt Tân tô son trét phấn thành thần tượng là ngục sĩ (tên CS gốc chủ động mãi dâm nầy đã lộ mặt sau khi khuyên người Việt đừng biểu tình, mà đến trò chuyện thân mật với những tên lãnh đạo CS công du nước ngoài và chúng về nước là thay đổi, tiến đến dân chủ), luật sư Bùi Kim Thành cũng sang Mỹ sau thời gian được băng "dù sao bác Hồ vẫn kính yêu"… nay là Cù Huy Hà Vũ, kẻ không bao giờ là người quốc gia, tuyên bố: "tôi không chống đảng" thì Cù Huy Hà Vũ chống lại những người chống đảng bán nước cộng sản VN, nói đúng hơn là hắn là đại diện chính thức của đảng CSVN nằm ngoài sứ quán và lãnh sự, núp dưới bình phong tỵ nạn chính trị. Bao quanh đại sứ CSVN trá hình thành tù nhân lương tâm là những kẻ mà cộng đồng hải ngoại không còn lạ gì như Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Bích, Chu Tất Tiến..và băng đảng Việt Tân, đài truyền hình "Sinh Bắc Tử Nam" của gã Trúc Hồ…

Hoa Kỳ có chính sách nhân đạo là cách biểu lộ qua sự thu nhận bất cứ ai bị chính quyền đương đại giam cầm hay áp bức. Tinh thần nhân ái ấy có khe hở nên Cù Huy Hà Vũ, con một đại công thần CS, bị trù dập không phải là bất đồng chính kiến, có tinh thần dân tộc, đấu tranh để đưa đất nước đến dân chủ tự do, nhưng hắn bị thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực với các đồng chí của hắn, nhất là đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Do đó ý nghĩa tỵ nạn chính trị của Cù Huy Hà Vũ hoàn toàn khác biệt với các tù nhân HO. Việc gọi là điều trần trước quốc hội Mỹ là một sinh hoạt dân chủ thông thường mà tại quốc hội có một diễn đàn, nơi nầy như là một sân khấu Karaoke, hễ ai có người giới thiệu (thường là vài vị dân cử đói phiếu), mời đến và được một số người Việt (thường là khoa bảng như Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Bích..) cùng với một sớ người thân tín, cùng lập trường đến tham dự cho có số lượng và những người tổ chức đưa những hình ảnh nầy lên các cơ quan truyền thông Việt ngữ, là hình thức nổ có chính sách và bài bản, nhiều khi nhà dân chủ dỏm, thùng rỗng kêu to. Đó là kỹ thuật tuyên truyền của những kẻ bịp bợm, trong đó có CS và Việt Tân. Trên facebook hay diễn đàn, nhiều khi thấy hình của thủ tướng tự phong Đào Minh Quân đứng trên bục thuyết trình ở White House hay thư viện quốc gia… Thật ra, điều trần trước quốc hội là việc rất trọng đại, dành cho các dân biểu, thượng nghị sĩ khi có vấn đề quan trọng, hay những khách đặc biệt như thủ tướng, tổng thống đến tham dự, hoặc những nhân vật như bà Aung San Suu Kye, Đức Đa Lai Đa Ma vị lãnh đạo tinh thần nổi tiếng toàn cầu của người Tây Tạng lưu vong… còn người Việt Nam thì việc điều trần trước quốc hội Mỹ, chỉ thấy tại diễn đàn "sân khấu Karaoke" mà thôi. Từ lâu nay, băng đảng Việt Tân và các nhà dân chủ cuội, cũng cho là điều trần trước quốc hội để đánh lừa mọi người về tư thế quan trọng của họ, nhưng đây là các tuyên truyền đánh bóng cá nhân, vì tự họ không có đủ uy thế, tài năng, nên đành phải dùng hào quang "quốc hội" mà gọi là điều trần để dựa vào hào quang đó mà làm những công tác sau nầy.

Vừa sang Mỹ là Cù Huy Hà Vũ xuất chiêu, với thành phần ủng hộ không ai xa lạ như Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Thắng, Chu Tất Tiến…. và đàng sau là băng đảng Việt Tân. Thăm dò dư luận bằng bản tin của Dr. Trần, tin nóng là Cù Huy Hà Vũ sẽ thành lập chính phủ. Bản tin nóng của Dr. Trần là màn giáo đầu mà đảng, thành phần tay sai sắp ra tay hành động với nhân vật nổi bật Cù Huy Hà Vũ, tù nhân lương tâm hạng quí tộc máu, lại được Mỹ cho định cư qua sự đồng thuận cấp chiếu kháng cho xuất ngoại (nếu Mỹ can thiệp cho định cư, nhưng nhà nước cộng sản không cấp chiếu kháng, thì không thể ra đi được).

Bản tin nóng của Dr. Trần rao vặt chính phủ Cù Huy Hà Vũ được xem là có sự ủng hộ mạnh của Mỹ, Pháp, quân đội CS... và để cho chắc ăn, nhét vào những người Mỹ gốc Việt nổi tiếng như nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, luật sư Đinh Việt (nguyên là thứ trưởng bộ Tư Pháp dưới thời tổng thống George W Bush)... để đánh lừa mọi người là Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ là do Mỹ vận động và Mỹ sẽ đưa Cù Huy Hà Vũ về Việt Nam thay thế thành phần lãnh đạo hiện nay. Tuy nhiên, Dương Nguyệt Ánh là người xác nhận là không hề liên lạc hay bất cứ quan hệ nào với Cù Huy Hà Vũ, thì cái bình phong do Mỹ ủng hộ đã sụp đổ, té ra đây là những kẻ mạo danh, tuyên truyền láo khoét.

Người ta chỉ thấy hình của Cù Huy Hà Vũ với một vài người Mỹ mà ít thấy nổi tiếng và có cả nhân vật chuyên ăn PHÂN (là Nguyễn Đình Thắng)... nhưng nào thấy Cù Huy Hà Vũ ngồi mạn đàm với tổng thống Mỹ hay Pháp… hoặc văn bản của các nguyên thủ quốc gia nêu trên với thông báo báo chí (Press release) như họ từng dành cho bà Aung San Suu Kye, Đa Lai Đa Ma…

Dr.Trần nào đó đưa tin nóng, mà lại tin vịt, để chuẩn bị dư luận người Việt ủng hộ "tên đại sứ CS trá hình nhà đối kháng Cù Huy Hà Vũ" thật là dốt, ngốc và đần. Tên Dr. Trần nầy không biết là ở đâu mà không biết sinh hoạt dân chủ các nước Tây Phương, cứ dám nghĩ, dám nói ẩu là Mỹ, Pháp… sẽ đưa Cù Huy Hà Vũ về làm tổng thống. Người Việt hải ngoại đã thất vọng giới trí thức, làm hệ lụy đến hàng ngũ trí thức chân chính. Những trí thức nay thành trí cùn như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Đinh Xuân Quân, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Bích... đã bị cháy rụi uy danh trong bếp than rơm "Bên Thắng Cuộc" của "Vẹm Văn San Hô" Huy Đức. Trí thức Bùi Diễm trong quyển The jaws of history lại ca tụng tên đại Việt gian Hồ Chí Minh… thì Dr. Trần cũng là loại trí thức dấu mặt hay mạo danh khoa bảng để bịp thiên hạ. Trí thức có danh tiếng hẳn hòi mà còn có tên dỏm, thì thứ Dr. Trần khơi khơi, không ai biết, lại càng không thể tin được, có thể tên Dr. Trần là một tên VC nằm vùng, băng đảng Việt Tân hay đón gió tung tin để chuẩn bị tạo thế đứng, lòng tin vào một "tân đại sứ trá hình Củ Huy Hà Vũ" vào cộng đồng tỵ nạn và trong tương lai sẽ hướng dẫn hải ngoại vào tròng của đảng?

Mặc dù Mỹ chính thức ủng hộ bà Aung San Suu Kye hay tiếp kiến Đức Đa La Đa Ma, nhưng chưa hề lên tiếng ủng hộ thành lập chính phủ lưu vong để về Miến Điện hay Tây Tạng nắm chính quyền.

Chuyện Cù Huy Huy Hà Vũ thành lập chính phủ, được những cường quốc đương đại ủng hộ là điều không thể kiểm chứng, nhưng trò bịp bợm nầy đã bị phơi bày trước khi chính phủ thành hình. Tuy nhiên, đảng CSVN đã thành công trong việc đưa được một đại sứ trá hình vào cộng đồng hải ngoại để làm công tác gom cả hải ngoại vào tay đảng.

Cù Huy Hà Vũ không chống đảng, còn Việt Thường Trần Hùng Văn là một cán bộ nồng cốt của đảng trá hàng, từng du học ở Liên Xô khi còn ở miền bắc trước 1975, đã không thể dấu cái đuôi CS sau thời gian phản tỉnh giả: "Tôi không chống Cộng, chỉ chống Việt gian". Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc ở Úc, là kẻ có nguồn gốc gia đình cách mạng như Cù Huy Hà Vũ, tốt nghiệp đại học sư phạm sau 1975 và ở lại dạy một thời gian trước khi tìm cách len lỏi vào cộng đồng hải ngoại, cũng tuyên bố: "tôi không hề chống cộng". Đó là những bằng chứng điển hình về những kẻ nằm bên kia chiến tuyến, đang sinh sống trong cộng đồng tỵ nạn quỷ đỏ. Họ không chống đảng, thì chắc chắn là thành phần trung thành với đảng CSVN, là kẻ thù của nạn nhân cộng sản.

Bao quanh "đại sứ VC trá hình" Cù Huy Hà Vũ là những thành phần mà người Việt hải ngoại đã quá quen thuộc về lập trường chính trị, thì không ai ngạc nhiên với câu tục ngữ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".

Dương Thanh Đông




Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát! - Huỳnh Ngọc Tuấn

 Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát!

Huỳnh Ngọc Tuấn

Cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ quốc gia ngày hôm nay phải đồng hành với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền và dân chủ. Không có thực quyền làm chủ đất nước chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bị hy sinh và bị sỉ nhục và đất nước sẽ diệt vong. Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát, vì nhà cầm quyền CSVN không hề có ý chí và thực tâm bảo vệ quyền lợi của tổ quốc và dân tộc...

Việc Trung Cộng đưa giàn khoan dầu nước sâu vào biển của Việt Nam là một điều hoàn toàn có thể tiên liệu trước và trong tương lai Trung Cộng cũng sẽ cho thiết lập vùng nhận dạng phòng không tại biển Đông như đã làm tại biển Hoa Đông cũng là điều có thể tiên liệu. Vì đây là nước cờ tất yếu trong ván cờ chiến lược của Trung Cộng để thực hiện giấc mộng bá quyền.

Dư luận đang đặt ra câu hỏi tại sao Trung Cộng lại đưa giàn khoan dầu nước sâu vào biển VN và lại trong thời điểm này.

Vì biển Đông chiếm một vị trí chiến lược cả về kinh tế lẫn quân sự.

Về kinh tế Trung Cộng đang khát dầu và khí đốt cùng nguồn tài nguyên to lớn hàm chứa trong lòng biển Đông, và biển Đông là một hải lộ quan trọng vào bậc nhất thế giới với lượng hàng hóa lưu thông khổng lồ, là huyết mạch của hai nền kinh tế lớn trong khu vực và cũng là đồng minh chiến lược của Hoa kỳ là Nhật bản và Hàn quốc.

Xác lập được chủ quyền tại biển Đông (cho dù bằng phương tiện bá đạo và bất hợp pháp) Trung Cộng sẽ từng bước lấn sân và đuổi Mỹ ra khỏi khu vực, vô hiệu hóa một phần lớn sức mạnh hải quân Mỹ đang thống trị tại châu Á Thái bình dương. Chính vì vậy mà Trung Cộng bất chấp sự bất bình của quốc tế sự phản đối của nhân dân VN.

Mấy năm trước đây khi cảm thấy bất an vì Trung Cộng đang trỗi dậy một cách “không hòa bình” như họ rêu rao, người Mỹ quyết định “chuyển trục”, tức là chuyển trọng tâm chiến lược từ Châu Âu - Đại tây dương sang châu Á – Thái bình dương để đối phó với những diễn biến bất ổn, điều này tạo ra một cơ hội cho Putin “phục thù” đối với sự mở rộng ảnh hưởng của Phương Tây và NATO tại châu Âu.

Putin xâm lược Ukraina bất chấp những cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina mà Nước Nga và Phương Tây đã ký, thách thức an ninh khu vực và cả quyền lực của Nato. Việc Putin xâm chiếm Ukraina làm Mỹ phân tâm và phân lực. Đây là một thời điểm không thể nào tốt hơn để Trung Cộng bành trướng ra biển Đông.

Chưa bao giờ kể từ sau sự kiện Liên xô và khối quân sự Varsava sụp đổ mà an ninh thế giới bị thánh thức như bây giờ. Sự liên kết Nga - Trung làm cho nhiều người liên tưởng đến một “trục” chống Mỹ mới đang hình thành!?...

Sự phối hợp hành động Nga - Trung ở phía Đông và phía Tây đẩy Mỹ vào thế “lưỡng đầu thọ địch” khiến tình hình biển Đông và Ukaina trở nên khó giải quyết và nguy hiểm vì có hai “mặt trận” mở ra cùng một lúc.

Vai trò cảnh sát quốc tế của Mỹ thời gian gần đây đã suy yếu khiến cho các quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á như VN khó bề đối phó với một cường quốc khổng lồ đầy tham vọng và bất chấp đạo lý như Trung Cộng. Còn CSVN thì đã hoàn toàn bất lực.

Câu hỏi nhức nhối đặt ra cho những người yêu nước là làm sao tìm được kế sách hữu hiệu để đối phó với tình hình. Thú thật người viết bài này xin thúc thủ!?

Không thúc thủ làm sao được khi hơn nửa thế kỷ qua đảng CSVN đã độc chiếm quyền lãnh đạo đất nước với những chính sách sai lầm nghiêm trọng từ chính trị, kinh tế và ngoại giao như chúng ta đã thấy!?

Cho mãi đến ngày hôm nay VC vẫn gọi Trung Cộng là đồng chí anh em, với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt làm kim chỉ nam cho mối quan hệ “môi hở răng lạnh”!

Đảng CSVN là một tập đoàn tham nhũng và thối nát, coi đất nước này như của riêng họ để họ tùy nghi sử dụng. Họ lộng hành và đứng trên luật pháp (một thứ luật pháp độc tài và chuyên chế).

Hơn nữa thế kỷ qua CSVN đàn áp, bỏ tù và không từ một thủ đoạn nào đối với những người yêu nước và đấu tranh đòi dân chủ. Họ coi những người yêu nước và những nhà dân chủ là thù địch, coi các hội đoàn xã hội dân sự là “phản động”.

Họ coi dân chỉ là bù nhìn hay đỡ hơn một chút là công dân hạng hai. Họ gạt bỏ người dân ra khỏi vị trí quyền lực quốc gia, không cho bất cứ một ai ngoài đảng CS chia xẻ quyền lực với họ. Họ tự tung tự tác, vơ vét tài sản quốc gia chia chác cho nhau, khai thác tài nguyên quốc gia nuôi sống guồng máy đàn áp khủng bố để tiếp tục thống trị. Họ kỳ thị và trù dập những người trí thức chân chính có thực tài và tâm huyết làm băng hoại tinh thần dân tộc và nguyên khí quốc gia.

Thực thi một đường lối ngoại giao cực đoan ấu trĩ, coi những giá trị tự do dân chủ của loài người là thù địch, đóng cửa với những trào lưu tư tưởng canh tân và khai phóng, du nhập học thuyết Mác- Lê nin- Mao phản khoa học và phản dân tộc để trùm lên đầu lên cổ nhân dân, đẩy đất nước vào thế cô lập trong một thời gian quá dài. Sao chép Trung Cộng một cách mê muội cả về chủ thuyết chính trị đến mô hình xã hội và văn hóa khiến quốc gia lạc hậu chậm tiến.

Kết quả của hơn nửa thế kỷ cai trị sai lầm đó là một VN nghèo nàn lạc hậu nhất, trong một khu vực bị đánh giá là lạc hậu nhất hành tinh chúng ta!

Nguồn lực và sức mạnh quốc gia trống rỗng vì tham nhũng và quản lý sai lầm, dân trí kém mở mang vì chế độ độc tài hà khắc ngu dân, quốc phòng nhu nhược vì khí tài quân sự lạc hậu và nghèo nàn.

Nhưng nghiêm trọng nhất là hai sai lầm của CSVN về quốc phòng là:

1. Biến quân đội thành gia nô chỉ biết cúc cung phục vụ cho đảng CSVN, sẵn sàng đàn áp dân chúng và những người yêu nước chứ không lo bảo vệ tổ quốc. Một quốc gia mà quân đội bị hạ nhục thì lấy đâu ra sức mạnh để chiến đấu vệ quốc?

2. CSVN “nhận giặc làm cha”: VN chúng ta ở bên cạnh một anh khổng lồ đầy tham vọng và hung bạo nên cha ông chúng ta luôn có kế sách đối phó, không chủ quan mơ hồ tự đầu độc mình và đầu độc cả dân tộc bằng phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt.

Để tồn tại bên cạnh một anh khổng lồ tham tàn như vậy dân tộc chúng ta chỉ có một chọn lựa duy nhất là phải mạnh về kinh tế và quốc phòng, mạnh về sự đoàn kết toàn dân trong một ý chí phục vụ đất nước, nếu không chúng ta sẽ bị diệt vong.

Trong lịch sử loài người có không ít các quốc gia và dân tộc đã bị xóa sổ vì suy yếu và sai lầm của người lãnh đạo, Chiêm Thành không phải là một bài học hay sao?

Sự cạnh tranh và va chạm giữa các quốc gia và dân tộc là điều tất yếu của sự phát triển nhân loại, cho nên để được tồn tại chúng ta phải mạnh... Tuyệt đối không được mơ hồ về chuyện này!..

Ngày hôm nay đất nước và dân tộc chúng ta bị đe dọa và sỉ nhục vì chúng ta suy yếu, trách nhiệm này thuộc về đảng CSVN..

LẬP TRƯỜNG CỦA CHÚNG TA

Ngày hôm nay tổ quốc lâm nguy mà đảng CSVN lại hoàn toàn bất lực nhưng vẫn khăng khăng ôm giữ độc quyền lãnh đạo. Họ tiếp tục đàn áp, khủng bố và bỏ tù những người yêu nước và những nhà dân chủ, họ gạt bỏ nhân dân qua bên lề quốc gia đại sự thì chúng ta sẽ không thể đóng góp gì được.

Muốn đóng góp cho đất nước trong cuộc đấu tranh chống xâm lược không còn cách nào khác là chúng ta phải đấu tranh để lấy lại quyền làm chủ đất nước của mình, quyền quyết định vận mệnh của mình và dân tộc mình từ tay đảng CS.

Cho nên cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ quốc gia ngày hôm nay phải đồng hành với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền và dân chủ. Không có thực quyền làm chủ đất nước chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bị hy sinh và bị sỉ nhục và đất nước sẽ diệt vong.

Hiện nay nhà cầm quyền CSVN trực tiếp hoặc thông qua một số “nhân vật trung gian” kêu gọi người dân không nên biểu tình chống Trung Cộng vì biểu tình chống Trung Cộng là cổ vũ chiến tranh!?.., hay nếu có biểu tình thì nên ủng hộ lập trường của nhà nước!

Chúng ta bác bỏ luận điệu ngụy biện và nguy hiểm đó.

Trước hết biểu tình để thể hiện quyết tâm và ý chí bảo vệ tổ quốc của dân tộc VN, biểu tình để tạo thế liên kết dân tộc, để vận động sự ủng hộ quốc tế và biểu tình là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình đấu tranh giành lại quyền làm chủ đất nước.

Biểu tình để ủng hộ lập trường của nhà cầm quyền CS là tự sát, vì nhà cầm quyền CSVN không hề có ý chí và thực tâm bảo vệ quyền lợi của tổ quốc và dân tộc.

Người dân VN phải tự quyết vận mệnh của mình và tổ quốc.

Huỳnh Ngọc Tuấn



DÙNG CÁI CỚ VIỆT TÂN, VIỆT CỘNG ĐÀN ÁP DÂN TRONG NƯỚC - Phan Đông Anh

DÙNG CÁI CỚ VIỆT TÂN , VIỆT CỘNG ĐÀN ÁP DÂN TRONG NƯỚC
Phan Đông Anh

Biến cố dàn khoan DH 981 gây chú ý dư luận thế giới và người Việt trong cũng như ngoài nước, như thùng thuốc nổ được lắp ngòi và kích hỏa, dân chúng Việt Nam bùng phát tình yêu nước sau hàng nhiều thập niêm bị nhận chìm trong khủng bố của đảng CS, miếng cơm manh áo, và chính sách xì hơi theo bài bản cao trào cách mạng thì thẳng tay đàn áp, khi thoái trào cách mạng thì lùi một bước để chuẩn bị ba bước tiến. Người dân Việt Nam đứng dậy trong nổi uất ức đè nén từ lâu, do bạo quyền CS cam tâm phục tòng Bắc Kinh, làm thái thú cho kẻ thù truyền kiếp Hán Tộc và rước giặc vào xâm lăng dần mòn đất nước từ nội địa đến hải đảo, lãnh hải.

Dân chúng đã biến căm thù thành hành động qua việc tấn công vào quyền lợi của người Trung Cộng sang khống chế nền kinh tế, sách nhiễu nhân công nghèo, hống hách như dân mẫu quốc, dưới sự bảo vệ của hệ thống đảng quyền qua công cụ công an, bộ đội, tổng cục chính trị 2, nhà tù…. Dàn khoan DH 981 không mang mục đích khai thác dầu, nhưng đây là cuộc thăm dò phản ứng của người dân Việt Nam, để trong tương lai, Trung Cộng sẽ đặt thêm một số dàn khoan khác sâu trong lãnh hải Việt Nam. Trận hải chiến bằng vòi rồng là bằng chứng dàn dựng giữa hai bên là thái thú và thiên triều, đã không thể lừa bịp được nhân dân trong thời đại văn minh, k thuật thông tin tân tiến, âm mưu lái tinh thần yêu nước của dân tộc sang mục tiêu và lợi ích của tập đoàn tay sai Trung Cộng đã bị lộ và phản ứng ngược lại. Đảng CSVN dùng biến cố dàn khoan DH 981 để kích động lòng yêu nước, bài học cũ soạn lại từ nam 1946, Hồ Chí Minh thành công trong chiêu bài bịp bợm ”kháng chiến đánh Pháp giành độc lập” nhưng chính Hồ cũng là kẻ mời Pháp sang cai trị lần thứ hai với hiệp ước sơ bộ Sainteny.

Cả hai quan thầy Trung Cộng và Thái Thú CSVN đã không lường trước phản ứng ngược lại như ”gậy ông đập lưng ông” làm thiệt hại rất nhiều tài sản của thiên triều Bắc Kinh, đã dầy công xây dựng từ khi tình hữu nghị nối lại và sau đó được khai triển, thắt chặt hơn với ”16 chữ vàng và 4 tốt”.

Sự kiện dân chúng đứng dậy với con số hàng chục nghìn tại Bình Dương (vùng có nhiều công ty Trung Cộng và các nước Á Châu khác như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan..) Hà Tĩnh, Thái Bình, ngay cả Cần Thơ là thủ phủ các tỉnh miền Tây cũng có biểu tình. Có thể nói là dân Việt Nam đã bừng tỉnh sau nhiều thập niên đắm chìm trong trầm lặng, mà đảng cộng sản thái thú đã tin là phương pháp tẩy não của Pavlov, kèm theo khủng bố thành công; nhưng nay, tình hình ngoài dự đoán đã khiến bạo quyền thái thú và Tàu cộng phản ứng đối phó chống đỡ: ở biên thùy Việt-Trung, quân Trung Cộng áp sát biên giới, nhưng đây chỉ là đòn răn đe, để yểm trợ thái thú Việt Nam ổn định tình hình, thanh trừng nội bộ là thành phần thân Nga đang lợi dụng biến cố dàn khoan HD 981 để khôi phục quyền bính và đồng thời đàn áp nhân dân, là lề thói quen thuộc của đảng CS, áp dụng từ thời Hồ Chí Minh đến ngày nay. Trung Cộng cho hồi cư ào ạt người của họ để tránh thiệt hại do tình hình bất ổn, chờ khi thái thú hoàn thành nhiệm vụ dẹp tan nội loạn, sẽ sang, tiếp tục cấy người và khuynh đảo kinh tế, chính trị. Phía bạo quyền thái thú, đảng giả vờ điều động một số đơn vị bộ đội, làm ra vẻ như là Trung Cộng sắp đánh Việt Nam như năm 1979, theo giáo sư Carl Thayer, học viện quốc phòng Úc, thì Trung Cộng không đánh Việt Nam và tình hình hiện nay hoàn toàn khác với thời kỳ xung đột quyền lợi giữa hai đàn anh cộng sản sau năm 1975. Nhưng CSVN khai thác lòng yêu nước bằng những hình thức điều động quân giữa hai phe cùng một ý thức hệ để đánh lừa dân chúng lần nữa, là chiêu bài đoàn kết với thái thú để chống thiên triều Bắc Kinh, một điều mà trong suốt quá trình hàng ngàn năm lịch sử chống xâm lược phương Bắc, chưa hề xảy ra, tuy nhiên chỉ có vài trường hợp rước voi về dầy mả tổ với vua Lê Chiêu Thống, đầu hàng giặc như Trần Ích Tắc, Trần Kiện…

Để lấy cớ đàn áp dân chúng, đầu tiên là đảng thái thú CSVN quy cho những thành phần bất hảo, côn đồ mà đảng thường dùng câu ”thành phần xấu” để bắt bớ, truy lùng những vụ tấn công và quyền lợi kinh tế của thiên triều và cũng gây thiệt hại kinh tế CS trong lúc đang cần tiền, đầu tư nước ngoài. Chiêu bài ”thành phần xấu” không có lý do chính đáng và thuyết phục, nên nay đảng CSVN dùng bình phong tay sai băng đảng Việt Tân để lấy cớ bắt bớ, khủng bố dân trong nước.

Băng đảng Việt Tân cũng có cùng một gốc với đảng CSVN, cùng vinh danh Hồ Chí Minh là có công với đất nước, thì làm gì băng đảng Việt Tân là thù nghịch? Trái lại chính tổ chức Việt Tân là nơi thi hành nghị quyết 36 một cách tích cực, hô hào cổ động hòa hợp hòa giải với CS như chủ tịch Đổ Hoàng Điềm tuyên bố tại tòa Bạch Cung thời tổng thống George W Bush: ”từ năm 1994, CSVN không còn phân biệt đối xử với người quốc gia nữa..”. Tuy nhiên, băng đảng Việt Tân ngụy trang dưới vỏ bọc: ”đấu tranh dân chủ đa nguyên” để che dấu làm tổ chức trá hình của CSVN ở nước ngoài. Hiện tượng cờ đỏ CS xuất hiện tại các nơi công cộng các nước Tây Phương là thành quả của Việt Tân, do đó, không ai tin băng Việt Tân là tổ chức chống cộng, trái lại đây là thế lực nội thù nguy hiểm hơn cả cộng sản ở nước ngoài, núp bóng quốc gia, phục vụ ma cộng sản.

Trong quá khứ, những dàn dựng chống cộng rất là tồi tệ của băng đảng Việt Tân đã càng để lộ bộ mặt cộng sản trá hình: một đảng viên Việt Tân dấu súng lục trong hành lý, vượt qua hết các trạm kiểm soát tối tân và người, chó tại phi trường Hoa Kỳ và bị khám phá tại phi trường Việt Nam, sau đó bị giữ lại điều tra và trục xuất. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, 2 lần trở về hoạt động, bị bắt và còn ca tụng đảng đối xử rất tốt là tù nhân đòi hỏi có sửa, thịt cá, báo, cell phone… đều được thỏa mãn.

Vụ bắt bớ cô gái trong nước là Lô Thanh Thảo do một đảng viên Việt Tân Chim Quốc Quốc, đã càng làm cho bộ mặt thật của Việt Tân lộ rõ nét là tổ chức ngoại vi của CS. Đảng CSVN lên án băng đảng Việt Tân là tổ chức cực kỳ phản động, khủng bố để nâng cấp tổ chức ngoại vi của đảng, làm cái cớ để bắt bớ, tù đày những người yêu nước. Muốn bắt ai, đảng CSVN chỉ cần chụp mũ là có quan hệ đến bọn phản động nước ngoài là đảng Việt Tân, là coi như phù hợp với chủ trương.

Để hỗ trợ cho đảng CS trong nước, ở nước ngoài, băng đảng Việt Tân thường tổ chức những cuộc quyên góp tiền, với danh nghĩa yểm trợ cho những nhà đấu tranh trong nước; không ai biết là những số tiền thu vào, được yểm trợ như thế nào, nhưng trong quá khứ, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là tổ chức tiên khởi của Việt Tân, đã thu hơn 22 triệu Mỹ Kim, anh em Hoàng Cơ Minh trở thành triệu phú. Khi muốn chụp mũ, bắt bớ, đảng CSVN chỉ cần cho là đảng Việt Tân, là hợp với luật rừng, dính dáng hay bị Việt Tân nhận bừa, trở thành nạn nhân của cộng sản. Khi một người chống đảng bị bắt, chỉ cần đài phát thanh Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới, Đáp Lời Sông Núi lên tiếng ca tụng, hay Việt Tân tổ chức đốt nến cầu nguyện, tổ chức quyên góp tiền để ủng hộ… là cũng đủ lý do để đảng cộng sản VN quy tội, kết án là: ”quan hệ đến tổ chức cực kỳ phản động ở nước ngoài”.

Nếu đảng Việt Tân thực sự đe dọa đến sự an nguy của đảng, thì chúng đã dẹp từ lâu như các tổ chức phục quốc sau năm 1975 và gần đây là sự đàn áp dã man tổ chức mang tên là Hội Đồng Bia Sơn ở Phú Yên. Tuy nhiên, đảng CSVN và băng đảng Việt Tân, gian nhưng không ngoan, một đảng viên nổi tiếng hiện sống và hoạt động công khai tại Việt Nam là Nguyễn Thanh Giang, người từng giới thiệu cho Trần Khải Thanh Thủy gia nhập đảng Việt Tân, nhưng Nguyễn Thanh Giang vẫn sống an toàn và lại còn được đảng cấp chiếu kháng xuất ngoại để hội thảo với các đồng chí Việt Tân…

Cũng là bài bản cũ, nay đảng CSVN soạn lại để lấy cớ đàn áp phong trào quần chúng đứng dậy vì lòng yêu nước và đồng thời từ chối lá cờ máu, bằng chứng là những cuộc biểu tình trong nước đã chứng minh thế nhân dân của đảng thái thú đã mất trong lòng người dân. Công hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng và những thái độ khiếp nhược của đảng CSVN trước những hành động lấn lướt của Trung Cộng, đã phơi bày bộ mặt mãi quốc cầu vinh của tập đoàn Lê Chiêu Thống thời đại. Đảng CSVN không thể bảo là nhân dân VN bất bình, nổi lên chống thái thú và thiên triều Bắc Kinh, mà đổ thừa do đảng Việt Tân giựt dây, kích động.

Ở nước ngoài, hầu hết những cuộc biểu tình với danh nghĩa chống Trung Cộng bành trướng thường là do băng đảng Việt Tân tổ chức, hay có bàn tay của Việt Tân nhúng vào, nhưng dân Việt Nam không hề mời Trung Cộng vào, mà chỉ có một nhóm thiểu số đảng cộng sản rước giặc Tàu vào nhà, thì người Việt cần phải biểu tình sứ quán, lãnh sự CSVN là trúng vào mục tiêu và kẻ nội thù chính.

Một điều dễ nhận ra là hầu như các cuộc biểu tình do băng đảng Việt Tân tổ chức, thường chống Trung Cộng bành trướng qua xung đột dàn khoan DH 981 mà chống CSVN chỉ là mục tiêu phụ, tức là những cuộc biểu tình bày tỏ lòng yêu nước đã bị Việt Tân và cộng sản lái sang hướng khác, làm mất đi ý nghĩa chống xâm lược, thay vì chống thái thú, thì chống thiên triều.

Tai hại là thành phần du sinh CS, sứ quán, nằm vùng, đón gió, có quan hệ quyền lợi… đã mang lá cờ đỏ sao vàng, xuất hiện nơi vùng đất của nạn nhân cộng sản, là thế lực thù nghịch, nương theo chiêu bài chống Trung Cộng để công khai bánh trướng lá cờ máu tại hải ngoại. Trong nước, đảng CSVN dùng cớ các cuộc biểu tình chống Trung Cộng là do đảng Việt Tân tổ chức, hay giựt dây, để có lý do mạnh đàn áp dân trong nước. Do đó mới đây, nhiều cuộc bắt bớ xảy ra và nạn nhân bị qui chụp là thành phần phản động, quan hệ đến Việt Tân, tức là Việt Tân đã và đang giúp cho các đồng chí cộng sản của họ đàn áp, khủng bố dân chúng, dập tắt phong trào đứng lên chống thái thú và ngoại xâm. Chống ngoại xâm là tấm lòng chung của tất cả người dân nước Việt, nhưng đoàn kết với thái thú để chống thiên triều là đồng lõa với tội phản quốc, nên người Việt Nam cần sang suốt để không bị lọt vào bẩy sập của nội thù ma mảnh, gian ác là tập đoàn thái thú CSVN.

Biểu tình trước sứ quán, lãnh sự Trung Cộng, là không bao giờ lấy lại chủ quyền, dân chủ, tự do, nhưng chống thái thú CSVN từ trong và ngoài nước, là đi đúng đường của tiền nhân, cơ may lấy lại chủ quyền từ tay thái thú và từ đó dân tộc Việt nam mới có thể đòi lại chủ quyền tại những lãnh hải mà thái thú CSVN dâng hiến tự ý, không phải là ý muốn toàn dân. Trong nước diệt thái thú, hải ngoại trừ Việt Tân, là hai mặt trận và kẻ thù chính, để mở đường cho một quốc gia dân chủ, độc lập trong tương lai.

Phan Đông Anh


Wednesday, May 28, 2014

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ? - Sỹ Liên

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ?

Sỹ Liên

Cộng sản Việt Nam chẳng khác gì đang ngậm phải một cục xương với thịt bầy nhầy, nuốt vô thì khó, nhả ra thì uổng. “Thà đành mất nước còn hơn mất đảng” (lời của TBT Nguyễn văn Linh). Để làm sáng tỏ vấn đề tại sao cộng sản Việt Nam không dám kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân, xin trở lại Hiệp định Genève năm 1954 là một hiệp định phân chia đất nước Việt nam ra thành 
hai miền Nam, Bắc. Từ vĩ tuyến 17 chạy về phía Bắc thuộc về chánh phủ cộng sản. Phía nam vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, Phú Quốc thuộc về chánh phủ quốc gia. Do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở về phía nam vĩ tuyến 17 là thuộc về lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà, được quốc tế công nhận điều đó quá dĩ nhiên mà ai cũng biết. Ngay thủ tướng của Trung cộng là Chu Ân Lai cũng phó thự vào hiệp định 1954, có nghĩa là đã hàm ý thừa nhận. Lấy vĩ tuyến 17 để chia đôi đất nước ra làm hai miền Nam, Bắc cũng do chính Chu Ân Lai đề nghị. Nhưng ngặt một nỗi bọn u mê Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bắc bộ phủ của chúng lại quá khiếp nhược, hèn hạ, muốn lập công đền ơn, đáp nghĩa với bọn quan thầy của chúng lại quá vội vã khi bọn tàu khựa đưa ra thông báo thiềm lục địa của chúng bao gồm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào ngày 1 tháng 9 năm 1958. Thì chỉ có 13 ngày sau. Tức là vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bộ chánh tri trung ương đảng, “hồ hỡi, phấn khởi” mà đại diện là Phạm văn Đồng ký quyết định (Công hàm gọi theo cộng sản) bán nước cho Tàu cộng vào ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Bây giờ Cộng Sản Việt Nam hả miệng thí mắc quai. Giấy tờ sờ đó thì làm sao mà chối cải được, trưng ra bằng chứng lịch sử thì có từ đời vua Gia Long và Minh Mạng, nhà vua có thành lập đội Hoàng Sa từ lâu rồi, . Chọn những người tình nguyện ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi để làm lính đi giữ đảo. Nên dân Quảng Ngãi và Lý Sơn có câu hò:
Hoàng Sa đi dễ, khó về
Ra đi thì có người về thì không.
Nhưng bọn Tàu cộng cũng không kém gì, Sau khi chiếm được Hoàng Sa năm 1974. Vì chánh phủ VNCH mắc bận giữ gìn an ninh cho dân chúng trong đất liền, chống lại bọn đầu khấu Việt cộng xâm lăng, răng đen mã tấu nên hủy bỏ lịnh hành quân tái chiếm lại đảo Hoàng sa. Nên Tàu cộng có cơ hội, di chuyển một số hài cốt có từ mấy trăm năm về trước trong đất liền của họ ra chôn trên đảo Hoàng Sa để chúng nó nói đảo Hoàng Sa là của chúng, dân của chúng đã có mặt ở đó lâu đời rồi. Bây giờ muốn kiện Cộng sản Tàu ra toà án quốc tế thì Việt Nam phải làm sao?

A. Dùng Luật Biển 1982

Nếu căn cứ vào luật biển năm 1982 ký tại xứ Chùa tháp (Phnom Penh) năm 1982 chưa chắc đã thành công? Vì luật nầy không có tính cách bắt bưộc hay cưỡng chế. Trên thực tế chỉ áp dụng cho những quốc gia nhỏ hoặc ngang hàng với nhau mới có hiệu lực mà thôi. Hay bị một quốc gia lớn kiện một gia nhỏ mà quốc gia nhỏ thua kiện thì chắc chắn có hiệu lực. Trái lại quốc gia lớn thua kiện thì coi như không, nếu họ không muốn thi hành. Vì luật 1982 chỉ là để tượng trưng mà thôi. Đòi hỏi ở lòng tự giác của mỗi quốc gia hơn là tính chất pháp lý cưỡng chế bắt buộc. Nếu một quốc nhỏ đi kiện một quốc gia lớn, dù toà án xử như thế nào mà họ không thi hành thì cũng đành phải chịu. Không thể nào chế tài họ được, như con kiến đi kiện củ khoai vậy. Luật biển 1982 không có tính chất quyền hồi tối. Còn công hàm của Phạm văn Đồng ký công nhận chủ quyền của Tàu cộng ký vào năm 1958 đã trở thành quá khứ rồi. Nghĩa là trước khi luật biến 1982 ra đời đến 24 năm. Hiện nay Hoa Kỳ cũng chưa phó thự vào luật nầy. Vì Hoa kỳ rất khôn, Hoa Kỳ không ký vào luật nầy. Vì luật nầy giới hạn lãnh hải của mỗi quốc từ đất liền ra biển là 200 hải lý. Còn các đảo thì từ bờ biển ra chỉ có 12 hải lý mà thôi.

Tại sao Hoa Kỳ không chịu ký vào luật biển 1982, vì Hoa kỳ có rất nhiều đảo trong Thái Bình Dương, có nhiều đảo cách xa đất liền hơn 5,7 trăm dặm. Như Hawaii, Hoholulu ... và nhiều đảo khác nữa. Nếu Hoa Kỳ ký vào luật biển 1982 Vô tình Hoa kỳ cho phép các tàu chiến của các quốc gia khác hay thù địch lân la gần các hòn đảo của Hoa Kỳ, chỉ cách 13, 14 hải lý thì Hoa Kỳ không có quyền đuổi họ đi vì họ nại ra luật biển 1982 thì Hoa Kỳ lấy đâu mà tranh luận với họ. Hoa Kỳ không ký vào luật biển 1982 là một sự khôn ngoan có tính toán.

B. Muốn Kiện Trung Cộng Phải Trở Lại Hiệp Định Genève 1954

Muốn trở lại hiệp định Genève thì Việt cộng phải công nhận Việt Nam Cộng Hoà là một thực thể, một chánh phủ hợp pháp, không còn là Ngụy quân, Ngụy quyền nữa. Hơn nữa VNCH là một quốc gia thật sự có lãnh thổ, có dân tộc, có chánh quyền đó là ba yếu tố căn bản để cấu thành một quốc gia. Trước năn 1975 VNCH đã được các nước tự do, dân chủ trên khắp thế giới cộng nhận, có toà dại sứ nhiều nơi trong khối các quốc gia tự do. Ngoại trừ các nước cộng sản.

Hiệp định Genève mới thể hiện được Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của VNCH vì nằm về phía nam vĩ tuyến 17. Không ai có quyền chối cãi hay tự tiện lấy đất của nước VNCH đem cho nước khác là Trung cộng. Đó là một hành vi bất hợp pháp. Mang tội trộm cắp, đồng lõa cho cả người nhận và lẫn người cho. Tại sao Việt Nam không dùng lý lẽ nầy để giành phần thắng cuộc về mình trước toà án quốc tế? Việt cộng còn sợ sệt ngại ngùng và cũng dư biết. Làm như vậy là phải công nhận VNCH là quốc gia độc lập có chủ quyền về đất đai, lãnh thổ trên đất liền và ngoài biển cả trên thềm lục địa của Việt Nam. Vì vậy Việt cộng còn sợ bị kẹt vào hiệp định Paris năm 1973. Đối với Việt cộng hiệp định Paris là con dao hai lưỡi. Nếu công khai nhận VNCH là một quốc gia thực thể trước quốc tế như trên đã nói. Họ sợ, họ có thể bị nhân dân VNCH kiện họ ra toà án quốc tế vì họ vi phạm hiệp định nầy bởi họ dùng vũ lực để xâm chiếm miền Nam vào ngày 30/4/75. Trong hiệp định nầy qui định ngưng bắn tại chỗ trong thế da beo. Ai chiếm được chỗ nào sẽ ở yên chỗ đó. Không được phép dùng vũ lực để xâm chiếm lẫn nhau. Giai đoạn đầu các phe sẽ hiệp thương với nhau. Sau đó sẽ đi đến thống nhất đất nước qua một cuộc trưng cầu dân ý, phổ thông đầu phiếu. Không được quyền dùng vũ lực. Hoa Kỳ sẽ viện trợ 2 tỷ Mỹ kim để xây dựng lại đất nước. Sau khi đất nước thống nhứt qua một cuộc bầu cử dân chủ. Nhưng Cộng sản không tuân hành hiệp định, dùng vũ lực để chiếm miền Nam. Nên Mỹ không đồng ý viện trợ 2 tỷ Mỹ kim cho Việt Nam là như vậy. Mặc tình cho Việt cộng cứ nài nỉ van xin.

Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế thì đúng trên lý thuyết. Nhưng về phía nhân dân của nước VNCH có thể kiện chánh phủ cộng sản ra toà án quốc tế để đòi lại sự công bằng và bắt họ thi hành hiệp định Paris, năm 1973. Cộng sản phải rút vế miền bắc vĩ tuyến 17, giao lại miền Nam cho nhân đân miền Nam quản trị. Cộng sản đã thừa biết điều đó. Họ có muốn làm điều đó hay không là do lòng yêu nước của họ. Họ có dám hy sinh quyền lợi đảng phái, phe nhóm của họ để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ của tô tiên ngàn đời truyền lại cho cháu con hay không? Hay họ chỉ biết “thà mất nước còn hơn mất đảng.” Nếu họ không sớm thức tỉnh xoá bỏ chế độ đảng trị. Thành lập chế độ đa đảng, từ bỏ 4 tốt, 16 chữ vàng, tình hữu nghị với Trung cộng như Miến điện. Ban giao với Hoa Kỳ mật thiết thì những đoàn thể quốc gia ở hải ngoại chắc chắn sẽ bỏ qua quá khứ mà giúp họ cả tấm lòng để giải trừ tai hoạ do bọn bành trướng Bắc kinh gây ra cho dân tộc Việt Nam được trường tồn mãi mãi và lãnh thổ được vẹn toàn. Lịch sử sẽ ca ngợi họ. Còn nếu không thì họ sẽ trở thành tội đồ của lịch sử..

C. Có Nên kiện Trung Cộng Ra Toà Án Hay Không?

Có nên kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế hay không? Nên lắm chớ, kiện để giành chánh nghĩa về mình. Để cho các nước văn minh, tiến bộ tự do trên thế giới chú ý về hành động gây hấn, phi pháp của Trung công mà tiếp tay lên án và chận bớt sự hung hăng của họ đối các nước nhỏ ơ Đông Nam Á. Nhưng kiện họ thì nên kiện ở toà nào? Hiện nay trên thế giới có hai toà án. Đó là toà án La Hay và toà án quốc tế. Vậy ta nên kiện ở toà nào hay cả hai?

1. Toà Án La Hay. Nếu kiện Trung cộng ở toà nầy thì hơi khó khăn chưa chắc họ chấp nhận đơn kiện cáo của Việt Nam. Vì họ đòi hỏi những giấy tờ thủ tục khó khăn, Chưa chắc họ nhận đơn của Việt Nam.

2. Toà Án Quốc Tế. Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân thì tiện hơn. Vì toà án nầy thủ tục dễ dàng. Nhưng ngày họ nhận đơn cho đến ngày ra phiên xử đầu tiên thời gian kéo dài tối thiểu cũng một vài năm.

D. Cái Lợi Và Cái Hại Khi Kiện Trung Quốc Ra Toà

1. Nếu Trung cộng thua. Việt Nam thắng kiện. Việt Nam sẽ giành được phần chánh nghĩa về mình. Trên thực tế Trung cộng không thi hành và chấp nhận bản án do toà án phán quyết thì sao? Ai làm gì được họ, có cách nào chế tài họ được hay không? Nên nhà cầm quyền Việt Nam phải suy xét cho tường tận.

2. Nếu chẳng may Trung Cộng thắng kiện thì sao? Việt Nam sẽ mất Hoàng Sa, Trường Sa cùng vùng lãnh hải của Việt Nam nằm trong vòng lưỡi bò của họ vĩnh viễn không còn lý cớ nào đòi lại được nữa. Một chính sách ngu dân, độc tài đưa đến một tai hại vô cùng cho dân tộc Việt Nam phải gánh chịu. Vậy mà họ cứ cái gì cũng để cho đảng lo. Đảng lo là như vậy hả?

E. CHỈ CÓ MỘT PHƯƠNG PHÁP DUY NHẤT ĐỂ ĐƯA VIỆT NAM RA KHỎI SỰ XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

Cái hay nhất mà chánh quyền Việt Nam phải áp dụng để cứu nguy cho đất nước thoát khỏi hoạ xâm lăng của Trung cộng là giải thể chế độ độc đảng. Thành lập chế độ đa đảng, đa nguyên giải tán đảng cộng sản. Sửa lại hiến pháp,bỏ điều 4. Theo chế độ tự do. Cho toàn dân, các đảng phái chánh tri hoạt động tự do, công khai, có đủ quyền ra ứng cử, bầu cử để cùng nhau gánh vác việc nước. Báo chí phải được tự do bày tỏ lập trường trong vai trò ngôn luận, truyền thông của mình. Thiết lập bang giao mật thiết với các nước tự do và Hoa Kỳ. Mở cửa hải cảng Cam Ranh, cho tàu chiến của đồng minh và Mỹ ra vào thăm viếng. Cho phép hải quân Hoa Kỳ lập căn cứ tại đó. Đồng thời vận động với chánh phủ Hoa Kỳ ký hiệp ước quân sự hỗ tương lẫn nhau khi bị nước ngoài xâm chiếm lãnh hải và đất liền của Việt Nam. Chỉ có cường quốc số 1 trên thế giới là Hoa Kỳ mới có đủ sức về quân sự, chánh tri, kinh tế để cứu Việt Nam thoát hoạ xâm lăng của Trung cộng ngay bây giờ mà thôi. Mong bộ chánh trị, trung ương đảng cộng sản thức tỉnh sớm, đã muộn rồi.

Quý vị đừng lo hoặc sợ sệt. Tài sản của quý vị được bảo đảm, không bị mất. Con cái, gia đình được bảo vệ an ninh hạnh phúc, mọi việc sẽ bỏ qua. Hứa với quý vị một cách chân thành không ai trả oán, trả thù. Nếu chính quý vị và con cái quý có tài, có lòng yêu nước thật sự sẽ được ưu tiên đãi ngộ, bổ nhiệm vào các vụ công quyền hợp với khả năng con cái của quý vị và ngay cả quý vị nữa. Quý vị hãy sớm thức tỉnh, chớ ngại ngùng, chần chờ nữa, nên làm theo lòng dân, các vị sẽ không bị thiệt thòi chi cả. Đừng để đến khi toàn dân nổi dậy, tức nước vỡ bờ như kiểu Đông Âu, các vị có ăn năn thì cũng đã quá muộn. Đây tất cả là lời thành thật mong quý vị sớm thức tỉnh.

Sỹ Liên



Tuesday, May 27, 2014

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam
Giống như bao nhiêu lần trước, cứ mỗi khi Hà Nội có đủ bạo dạn để phản đối mạnh bước chân xâm lấn của Trung Quốc thì Bắc Kinh lại lôi ra cái túi gấm cố hữu.

Vào ngày 20/5/2014, để đáp lại các phản đối ồ ạt quanh việc Trung Cộng kéo giàn khoan 981 vào thềm lục địa Việt Nam, ông Lưu Hồng Dương, đại sứ Trung Quốc ở Indonesia đã tuyên bố trên báo Indonesia Jakarta Post rằng:

“Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai. Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”

Thật vậy, trong hiện tình Biển Đông và trong suốt bao năm qua, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản để Trung Cộng khẳng định cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ tại Biển Đông. Công hàm này còn làm khựng lại các ý định trong vùng Đông Nam Á muốn hợp tác với Việt Nam đem Trung Cộng ra tòa án quốc tế. Vì ngày nào chính nước chủ nhà còn thừa nhận Biển Đông thuộc Trung Cộng, thì việc kéo Việt Nam nhập bọn chỉ làm cho các lý cớ kiện tụng của họ yếu đi mà thôi.

Bắc Kinh biết rõ công hàm Phạm Văn Đồng là khúc xương khó nuốt của Hà Nội. Và càng nhìn Hà Nội loay hoay tránh né khúc xương đó, Bắc Kinh càng khai dụng để lấn tới. Cho đến nay, giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn loay hoay tránh né bằng 2 cách rất vô ích sau đây:

Cách thứ nhất là cãi chày cãi cối qua miệng các quan chức như cựu trưởng ban biên giới Lê Công Phụng, cựu trưởng ban biên giới Trần Công Trục, và gần đây nhất là Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, vào ngày 23/5/2014. Lập luận của Ban Tuyên Giáo Trung Ương là: vì các chữ Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc tới trong bức công hàm nên không hề có chuyện thừa nhận 2 quần đảo đó là của Tàu. Hoặc bức công hàm chỉ thừa nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc tính từ bờ thôi chứ không nói tính từ bờ nào.

Đây là kiểu lý luận coi tất cả dân Việt Nam là người mù chữ. Nếu lý luận này đem ra trước quốc tế thì lại càng là trò diễu dở và làm lùn thêm mức uy tín vốn đã thấp của Hà Nội. Vì công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 tệ hơn thế nhiều. Nó thừa nhận nguyên cả vùng biển mà Trung Cộng tuyên bố chỉ 10 ngày trước là hải phận Tàu và còn ghi rõ Việt Nam "ghi nhận", "tán thành", và hứa sẽ "tôn trọng". Đó chính là đường lưỡi bò 9 vạch. Vùng biển này không chỉ bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn bao luôn từ 70% đến 90% toàn vùng Biển Đông, tùy theo cách tính. Nguyên văn cốt lõi của bức công hàm Phạm Văn Đồng là:

"Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển."

Công luận quốc tế biết đọc và đã đọc trọn vẹn cả tuyên bố ngày 4/9/1958 của Bắc Kinh và công hàm ngày 14/9/1958 của Hà Nội. Vì vậy, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN phải bỏ hẳn những cố gắng vặn vẹo ý nghĩa văn bản này một cách vô ích. Chỉ có con đường duy nhất là phủ nhận giá trị của toàn bộ bản công hàm Phạm Văn Đồng.

Tuyên bố của Chu Ân Lai ngày 4/9/1958
(1958年9月4日全国人民代表大会常务委员会第100次会议通过 )
一九五八年九月四日全国人民代表大会常务委员会第一00次会议决定批准中华人民共和国政府关于领海的声明。
附:中华人民共和国政府关于领海的声明中华人民共和国政府宣布:
(一)中华人民共和国的领海宽度为十二海里(▲)。这项规定适用于中华人民共和国的一切领土,包括中国大陆及其沿海岛屿,和同大陆及其沿海岛屿隔有 公海的台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。(二)中国大陆及其沿海岛屿的领海以连接大陆岸上和 沿海岸外缘岛屿上各基点之间的各直线为基线,从基线向外延伸十二海里(▲)的水域是中国的领海。在基线以内的水域,包括渤海湾、琼州海峡在内,都是中国的 内海。在基线以内的岛屿,包括东引岛、高登岛、马祖列岛、白犬列岛、鸟丘岛、大小金门岛、大担岛、二担岛、东▲岛在内,都是中国的内海岛屿。
(三)一切外国飞机和军用船舶,未经中华人民共和国政府的许可,不得进入中国的领海和领海上空。任何外国船舶在中国领海航行,必须遵守中华人民共和国政府的有关法令。
(四)以上(二)(三)两项规定的原则同样适用于台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。台 湾和澎湖地区现在仍然被美国武力侵占,这是侵犯中华人民共和国领土完整和主权的非法行为。台湾和澎湖等地尚待收复,中华人民共和国政府有权采取一切适当的 方法,在适当的时候,收复这些地区,这是中国的内政,不容外国干涉。一九五八年九月四日于北京全国人民代表大会常务委员会
 Google translate:
 (Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Hội nghị lần thứ 100)

    
Tháng 4 , cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 1958 Nhân dân quyết định phê duyệt 00 báo cáo đầu tiên về lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân của chính phủ Trung Quốc .

    
Phụ lục: Tuyên bố về Cộng hòa Nhân dân Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc của Trung Quốc công bố lãnh hải của chính phủ :

    
(A) Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là chiều rộng của lãnh hải của mười hai hải lý (▲). Yêu cầu này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục và hải đảo và đất liền và các hải đảo trên vùng biển của Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa trong cát, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. (B) vào đất liền và ngoài khơi hòn đảo của Trung Quốc kết nối với các vùng lãnh hải đất liền ra bờ biển và dọc theo mỗi thẳng điểm cơ bản dòng mỗi trên bờ biển bên ngoài của hòn đảo giữa đường cơ sở, mở rộng ra bên ngoài từ đường cơ sở mười hai dặm biển (▲) vùng biển là vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trong vùng nước trong đường cơ sở, bao gồm vịnh Bột Hải, eo biển Qiongzhou, là biển nội địa của Trung Quốc. Ở các đảo trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, hạ cánh cao, quần đảo Mã Tổ, quần đảo chó trắng, chim Okajima, kích thước Jinmen Đảo, Tam Đảo, đảo Erdan, Đông ▲ Island, là đảo thuộc nội hải của Trung Quốc .

    
(C) tất cả các tàu và máy bay quân sự nước ngoài, mà không có sự cho phép của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sẽ có vùng lãnh hải của Trung Quốc và trên biển lãnh thổ. Bất cứ tàu bè nước ngoài trong vùng lãnh hải của Trung Quốc phải tuân thủ các luật và quy định có liên quan của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.

    
(D) ở trên (b) (c) của hai quy định của cùng một nguyên tắc áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. Đài Loan và Penghu hiện còn đang bận rộn với quân đội Hoa Kỳ, đó là vi phạm bất hợp pháp của toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Penghu đang chờ hồi phục, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích hợp, khi thích hợp, để phục hồi các khu vực này, đó là công việc nội bộ của Trung Quốc, không can thiệp nước ngoài. 04 Tháng Chín 1958 tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc của Hội nghị Bắc Kinh.
Cách thứ nhì là chỉ nói riêng với người Việt Nam. Nhà cầm quyền nay đã đưa ra đủ loại biện minh, như lý do gởi bản công hàm là vì thời điểm đó "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc”; như bản công hàm đó "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao"; như bản công hàm đó không có giá trị pháp lý vì 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa; như công hàm đó không có giá trị vì "chưa được Quốc hội thông qua" cũng như “Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”; v.v....

Tất cả các luận điểm đó là một bước tiến dài nếu nhìn lại các tuyên bố của thời trước và ngay sau 1975 của các lãnh đạo cao nhất đảng CSVN, như "Trung Quốc chỉ giữ các đảo giùm ta", hoặc "chẳng thà để Trung Quốc giữ còn hơn để các đảo nằm trong tay chính quyền ngụy",.... Nhưng các bước tiến đó vẫn hoàn toàn vô ích đối với chủ quyền đất nước ngày nào mà nhà cầm quyền Việt Nam chưa dám nói công khai những luận điểm đó trước thế giới.

Nói cách khác, đã đến lúc giới lãnh đạo CSVN đừng làm việc vừa thừa thãi vừa kỳ cục là cứ cố gắng thuyết phục người Việt Nam rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trên mọi bình diện lịch sử, pháp lý, v.v... Tại sao cứ đòi tranh luận và thuyết phục những người ĐÃ đồng ý rồi. Có người Việt Nam nào còn ngờ vực điều đó đâu! Trong khi khối người cần nghe những điều đó một cách chính thức từ miệng nhà nước Việt Nam là thế giới bên ngoài, đặc biệt là các đầu lãnh tại Bắc Kinh, chứ không phải người Việt Nam!

Hiển nhiên ai cũng biết Hà Nội tránh né là vì đang lo sợ phản ứng của Bắc kinh một khi họ công khai phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng. Nhưng ngược lại, việc phủ nhận đó sẽ mở rộng con đường đưa Bắc kinh ra trước các tòa án quốc tế; mở rộng cửa cho các chính sách khác của Việt Nam để đối phó với đại họa Bắc Thuộc; chấm dứt cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ngay trong nội bộ giới lãnh đạo đảng CSVN; và đặc biệt là ngưng vĩnh viễn cảnh trói tay các chiến sĩ Việt Nam làm bia bắn cho hải quân Tàu như thời Trường Sa 1988.

Không ai có thể làm công việc phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng thay cho các lãnh tụ đảng và nhà nước CSVN được, vì họ thừa nhậnchủ thể tiếp nối chính phủ VNDCCH từ thời ông Phạm Văn Đồngcũng tự nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất tại Việt Nam hiện nay.

Cửa sổ cơ hội cho lãnh đạo đảng CSVN chuyển hướng cũng không còn nhiều. Với vận tốc xâm lấn từ ngoài khơi đến sâu trong đất liền và tràn lan trên cả nước hiện nay, lằn mức "không cưỡng bánh xe xâm lược được nữa" đang đến rất gần.

Vấn đề còn lại là lãnh đạo đảng CSVN đã đủ can đảm để loại bỏ những kẻ thề thốt "không ăn ở hai lòng với Trung Quốc" ra khỏi hàng ngũ chưa? Đã nhận ra sự dại dột và từ giã chính sách "thà mất nước chứ không mất đảng" chưa? Vì một khi nước vừa mất thì kẻ mà Bắc Kinh truy diệt đầu tiên chắc chắn là đảng.

source: net



Sunday, May 25, 2014

Kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn cộng sản áp dụng mặt trận kinh tế để làm suy yếu ngụy quyền việt gian cộng sản Việt Nam


Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn,
Cố Vấn của CĐ/NVQG/HK
Thưa quý vị,
Vài ngày trước đây, tôi có dịp trình bày suy tư của tôi về một phương cách khả thi để chúng ta có thể đánh bại Cộng sản Việt Nam.

Hôm nay, tôi xin khai triển ý nghĩ của tôi nhằm mục đích góp ý với quý vị trong việc đi tìm phương cách để đánh bại Công Sản Việt Nam.

Chúng tôi nhận định rằng chỉ có người dân trong nước mới có thể đánh đổ chính quyền csVN.

Tập thể những người Hoa Kỳ gốc Việt Nam và tập thể những người Úc, Pháp gốc ViệtNam thì chỉ

có thể yểm trợ cho những nỗ lực của người dân trong nước mà thôi.

Đặc biệt thì chúng ta cần phát triển nỗ lực đánh bại Cộng Sản bằng phương thức kinh tế là mặt trận

mà chúng ta có khả năng và có thực lực.

Theo thống kê của những nguồn đáng tin cậy thì hiện nay Tập thể người Hoa kỳ gốc Việt Nam và tập thể người Úc, người Pháp v.v. gốc Việt Nam đã tiếp tế trên mười tỷ bạc (10 billion US Dollars) cho csVN dưới nhiều hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt phải kể là:

Đem tiền về đầu tư ở Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Đi du lịch Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Gửi tiền cho thân nhên, bè bạn tại Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Mua sản phẩm “Made in ViệtNam” là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN
Nếu chúng ta cắt được đường tiệp tế đó thì chúng ta sẽ gây được ảnh hưởng dây chuyền.

csVN sẽ bị túng quẫn, csVN phải tìm cách moi móc tài sản của người dân trong nước.

Vật giá sẽ leo thang. Tiện ích sẽ bị giảm thiểu. Cuộc sống sẽ bị khó khăn. Dân chúng sẽ phẫn nộ.

Từ đó người dân sẽ oán thù đảng csVN.

Người dân sẽ đứng lên đòi hỏi để thay đổi và lật đổ chính quyền.

Trước đây Tiến Sĩ Nguyễn Văn Lương đã có trình bày những ý kiến nầy.

Một vị sĩ quan cấp tướng cũng có lời kêu gọi bà con để cắt nguồn tiếp tế ngoại tệ nầy.

Nhưng, những lời kêu gọi đó không được bà con đáp ứng.

Con số ngọai tệ chui vào túi của đảng csVN tăng lên dần theo năm tháng.

Lần nầy chúng tôi muốn khai triển những lời kêu gọi trước đây, chúng tôi chỉ muốn kêu gọi đến lương tâm của mỗi người trong quý vị mà thôi.

Bí quyết là mỗi người trong Tập thể của chúng ta chỉ cần hứa với lương tâm của mình bốn điều:
a. Không đem tiền về đầu tư tại ViệtNam.
b. Không đi du lịch ViệtNam.
c. Không gửi tiền về ViệtNam.
d. Không mua sản phẩm sản xuất từ ViệtNam.
Khi đã tự hứa với lương tâm mình rồi tức là quý vị đã góp phần đắc lực để cắt giảm nguồn tiếp tế ngoại tệ cho Đảng CSVN. Sau đó, mỗi khi quý vị có nảy ra một ý định đầu tư hoặc du lịch ViệtNam, v.v... thì lương tâm của quý vị sẽ bị cắn rứt và lương tâm của quý vị sẽ là động lực ngăn cản để quý vị từ bỏ những ý định cung cấp ngoại tệ cho csVN đó đi.

Tôi tin rằng quý vị còn có lương tâm.
Hãy hứa với lương tâm mình đi nào.

Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn