Thursday, June 9, 2011

Chủ nghĩa Anh Hùng - Bùi Lộc

Bùi Lộc

Chuyện xưa và nay

Là dân di cư năm 54, tôi cứ nghĩ chẳng phải sống với vc nữa và sẽ được hưởng thanh bình trong sự sung túc của Miền Nam nước Việt. Còn người cs đang từ tay không bây giờ được làm chủ nửa nước chắc cũng thoả mãn đâu còn muốn gì hơn.

Nhưng tôi lầm với những ý nghĩ trẻ con và ngây thơ thằng bờm ấy. Chẳng mấy chốc, tôi lớn lên lại phải vác súng thay thế lớp cha chú tôi để tiếp tục chống cộng. Và sau cùng chúng tôi lại thua như cha chú tôi.

Khi tiếp súc với những người cs Bắc kỳ, tôi nghiệm ra được là mình không thể thắng họ nổi. Những câu tuyên bố đầu tiên tôi nghe được khi họ nói với chúng tôi:

“Chưa bao giờ tôi thấy có hạng người nào ngu hơn các anh. Cách mạng đã đuổi các anh cùng đường mà còn cố nhẩy xuống biển theo đế quốc. Các anh phải biết rằng sau khi giải phóng Miền Nam, cách mạng Việtnam cùng với cách mạng toàn thế giới sẽ truy lùng bọn tư bản đến tận sào huyệt của bọn chúng tại Phố Bức Tường (Wall Street)”.

Còn nhân dân Miền Bắc toàn là anh hùng: “Quân đội nhân dân anh hùng. Công an nhân dân anh hùng. Bô lão anh hùng. Thanh niên Việtnam anh hùng. Thanh nữ Việtnam anh hùng. Thiếu nhi Việtnam anh hùng.” Nghĩa là toàn dân Việt cộng anh hùng.

Còn thực phẩm: “Tất cả dành cho tuyến đầu. Ngoài những tổ sản xuất lương thực dành cho phía trước Mỗi gia đình với những khẩu phần ít ỏi, lại còn hũ gạo nuôi quân. Nếu ăn khoai sắn hay độn bất cứ thứ gì ngay cả phải nhịn đói, nhưng đáo hạn hũ gạo vẫn phải đạt tiêu chuẩn ấn định, nếu không là có ân mưu chống đối, phản động. Thanh thiếu niên chưa đến tuổi đã thi nhau tình nguyện tham gia chiến đấu đánh đuổi Đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng anh em ruột thịt MiềnNam.

Riêng Bác tuyên bố những lời đầy khí thế khiến mọi người nức lòng, hăng hái nhẩy vào lửa:

“Nếu có đốt cả dẫy Trường sơn để đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào, chúng ta cũng sẽ đốt.”

“Dầu phải chiến đấu cho tới người Việtnam sau cùng, thì nhân dân ta cũng sẵn sàng chiến đấu.”

“Nếu cuộc chiến có phải kéo dài năm năm, mười năm hay hai mươi năm. Hải phòng và một số thành phố khác, một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, nhân dân ta quyết không sợ.”

Toàn dân suốt ngày vừa làm vừa ca:

"Giải phóng Miền Nam,
Chúng ta thề quyết chiến đấu.
Diệt Đế quốc Mỹ,
Phá tan bè lũ bán nước.
Ôi xương tan máu rơi,
Lòng hận thù ngất trời.
Sông núi bao nhiêu năm vẫy vùng.”

. . . . .

Thề hy sinh đến cùng,
Cùng nhau ôm súng xông tới . . .

Riêng Bác Lê Duẫn giận lẩy Anh Hai Trung quốc: “Nếu các anh không cung cấp lương thực, vũ khí cho chúng tôi, chúng tôi sẽ phải hy sinh thêm hai ba triệu thanh niên nữa, và cuối cùng chúng tôi cũng sẽ thắng”.

Đấy, Đảng phát động cuộc chiến Thần Thánh đánh đuổi Thực dân mới Đế quốc Mỹ, giải phóng anh em ruột thịt Miền Nam thế đấy. Hơn nữa; cách mạng phát động cuộc giải phóng còn vì lời vàng ngọc của Lãnh tụ Lénin muôn vàn kính yêu, người xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học còn vang vọng khắp thế giới cộng sản: “Nếu mất, chúng ta chỉ mất xiềng xích, nhưng nếu thắng chúng ta sẽ được tất cả “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình.” (Quốc tế cs ca.).

Lời tuyên bố này khuyến khích mọi tầng lớp cán bộ nức lòng muốn giải phóng người anh em càng sớm càng tốt. Trong Nam Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu cũng tuyên bố tương tự nhưng mang tính phòng thủ: “Chúng ta bằng mọi cách phải ngăn chặn bọn cs ác ôn. Nếu chúng ta thắng, chúng ta còn tất cả; nhưng nếu chúng ta thua, chúng ta sẽ mất tất cả.”

Sau cùng Miền Nam thua, các ông, các bà, các bác, các chú dì, mợ, anh chị, các em và tôi mất tất cả. Người cs Bắc nức lòng theo Bác theo Đảng thắng và được tất cả.

Hàng đoàn xe tấp nập ngày đêm chở phẩm vật thu được của Miền Nam ra Bắc.Tất cả tài sản vào tay cán bộ đảng qua chiến dịch đánh tư sản. Cán bộ chiếm nhà cửa của quân dân cán chính chế độ cũ hay qua chính sách lùa dân đi kinh tế mới, người vượt biên bỏ lại. Những người xuất ngoại theo chương trình HO sau này, nhiều người phải ký giấy hiến tặng nhà cửa,ruộng vườn mới được đi.

Đổi tiền, tỷ giá một đồng tiền mới ăn 200$ tiền cũ. Mỗi hộ khẩu chỉ được 200$ tiền mới. Số tiền cũ còn bao nhiêu không cần biết trở thành giấy lộn, gói hàng cũng không được. Quảng đi, cán bộ hay bà con cán bộ lượm về đổi sau cánh cửa đã được khoá lại. Sau ngày chiếm được Miền Nam cán bộ ai cũng trở nên giầu có. Lớn giầu lớn, bé giầu bé.

Còn người dân với 200$ làm sao sinh sống. Thế là cả dân Miền Nam nếu không có liên hệ xa gần với cán bộ trở thành tay trắng trong nháy mắt.

Toàn thể cán bộ cách mạng hoàn toàn vô sản, cả đời chỉ mơ một chiếc xe đạp, một cái đài (radio), một đồng hồ Seiko hai cửa sổ, không người lái, không chết đuối, nên đánh đấm rất hăng, rất khoẻ, đụng độ bất cứ đế quốc nào cũng thắng. Hai đế quốc sừng sỏ nhất thế giới Mỹ và Pháp đã xất bất xang bang với cách mạng ta, bỏ của chạy lấy người. Cán bộ ta anh hùng như thế đó.

Nhưng bây giờ mọi người đều thắc mắc sao đối với bọn xâm lược Trung quốc, cán bộ, nhà nước ta lại yếu xìu vây. Trung quốc, một đế quốc vừa mới hồi sinh, kinh nghiệm đánh đấm không có, mỗi cách đánh du kích tức đánh lén, còn không thì biển người, lấy thịt chắn đạn; nội lực thấm gì so với những đế quốc đương đại như Liên sô, Hoa kỳ, Pháp Anh mà sao dám ngang nhiên trêu chọc một “Quân đội nhân dân bách chiến bách thắng, một dân tộc anh hùng” như thế.

Nó bắt cắt đất, cắt biển, cũng cắt. Nó muốn khai thác Bauxite, cứ tự nhiên. Nó vào khai thác rừng đầu nguồn với lý do che mắt thánh là thuê mướn cũng phải cho. Nó ngang nhiên vào ngay hải phận sát bờ cũng chỉ nhẹ nhàng phản đối với lời nói õng ẹo của nữ phát ngôn bộ ngoại giao: “Xâm phạm chủ quyền không thể tranh cãi”. Cái đau nhất là bắt bớ, trấn áp những công dân dám lên tiếng phản đối khi đất nước bị xâm chiếm giũa thanh thiên bạch nhật. Làm nhục và hành hạ, giam cầm hay bắn giết ngư dân hành nghề ngay trong lãnh hải của mình.

Và mới nhất vào ngày 26. 05. 2011, tàu của chúng lấn ép tầu Bình minh 2, cắt cable thăm dò dầu khí trong lãnh hải đặc quyền kinh tế của mình.

Thực không ai hiểu nổi. Có lẽ Bác và Đảng mơ “Thế giới Đại đồng quá” mờ cả mắt. Cái gì Anh Cả Staline và Anh Hai Mao nói cũng đúng quá nên làm theo răm ráp đưa đến những nhận định sai lầm về bạn thù. Có mỗi Dẫy Trường sơn Bác đã đốt mất rồi, lại nướng thêm hơn ba triệu thanh niên của cả hai miền Nam Bắc trong cuộc chiến tranh thần thánh.

Oái oăm ông bạn xưa nay công khai thành thù, môi hở răng lạnh đã tê cứng vẫn không dám lên tiếng.

Muốn ngăn chặn những hành động vô lối, xấc xược của ông bạn tráo trở này chỉ còn mỗi cách dựa hơi kẻ thù năm xưa. Nhưng thật khó khăn vì danh dự, thế đứng và quyền lợi của đảng ta cũng như của ba triệu anh em đảng viên. Cái khó nhất là lỡ chửi và lên án đế quốc nặng quá. Cái khó này chẳng nhằm nhò gì với đế quốc, nhưng khó là khó với dân, sợ họ cười cho. Rồi nhiều thứ phải hy sinh quá. Bắng mọi cách Đảng phải tồn tại. Thôi thì tới đâu hay tới đó vậy, chứ biết sao.

Ngày xưa cán bộ ta “trên răng, dưới củ kiệu” làm gì cũng được, đánh hăng, đánh mạnh, đánh không sợ bể đầu, cụt tay hay cụt chân, đánh chết bỏ. Vì chắng mất gì, nếu có mất là mất xiềng xích. Cón thắng là được tất cả. Nhưng bây giờ khác rồi, cán bộ ta đều đã trở thành tỷ phú, triệu phú Dollars, sống cả bao đời cũng không hết. Ăn sáng phở 35 dollars một tô, rau thì có vườn rau sạch. Đi làm bằng xe Roll-Royce. Nay đi dự đại hội, mốt cắt băng khánh thành xí nghiệp mới. Garage còn thêm chiếc Porsch để cuối tuần du hý, tham dự liên hoan sinh nhật bạn bè với các em chân dài. Nhà hai ba cái, cái để ở, cái để nghỉ mát, cái làm nhà thờ tổ. Nên không dám đánh nữa. Đánh để mất hết à. Ai mà dại, mà ngu thế.

Người ta đang hình dung một ngày nào đó, những đoàn xe tất nập chở hàng từ Việtnam qua Trung quốc. Đổi tiền mới có giới hạn cho toàn dân trắng tay. Các quan chức các ngành, lớn nhỏ nếu không chạy kịp, đều bị lùa vào trại cải tạo lao động. Dân chúng bị đẩy ra khỏi thành phố với hai tay trắng giống y tình trạng Bác, Đảng đã làm với dân chúng Miền Nam sau năm 1975. Các quan chức Trung quốc sang chiếm những ngôi biệt thự hay những căn nhà sang trọng trong các thành phố. Văn hoá phẩm Việnam (văn hoá phẩm đồi truỵ) bị chất đống đốt hết. Các bảng hiệu, tên đưởng phố thay bằng chữ Tầu, tên Tầu. Hànội sẽ mang tên Thành phố Mao trạch Đông. Thành phố Hồ chí Minh được đổi thành Thành phố Đặng tiểu Bình. Ai nhanh chóng học chữ Tầu sẽ có cơ may hội nhập sống còn. Còn lại sẽ thuộc thành phần thiểu số. Tiếng Việt chỉ tồn tại như một thổ ngữ. Và rồi trở thành đề tài nghiên cứu thổ ân cho các sinh viên đại học thế giới sau này.

Đấy chủ nghĩa anh hùng của người cs Việtnam chỉ dùng để lấn át, lên án, đánh đấm, chèn ép và nuôi hận thù vời anh em trong nhà, còn với kẻ thù truyền kiếp của đất nước thì bạc nhược; tồi tệ hơn nửa còn đàn áp những người dám lên tiếng chống đối hay nêu đích danh kẻ thù.

Bắc thuộc 1000 năm lần trước còn giải phóng được nhờ những anh hùng dân tộc và ý chí toàn dân. Nhưng nếu sa cơ lần này thì mất đứt, tiêu luôn, không còn cơ may lấy lại được nữa.

Bùi Lộc


Wednesday, June 8, 2011

Đại tá Lương Xuân Việt



Từ tờ mờ sáng ngày 6 tháng 5, 2011, căn cứ Fort Campbell còn đẫm hơi sương. Nơi đây là bản doanh của sư đoàn tác chiến 101 với diện tích rộng trên 105 ngàn bộ Anh vuông là nơi đóng quân của trên 25,000 quân nhân và gia đình.

Từ trái sang phải Lương Thị Thu Diễm Asley, con gái đầu lòng, bà Kim Mỹ Lương, phu nhân, Lương Xuân Quốc, contrai út Justin, Đại tá Lưong Xuân Việt và con trai lớn, Lương Xuân Huy Brandon.trong niềm vui của ngày về từ chiến trường A Phú Hãn vào đầu tháng 3, 2011 vừa qua sau 13 tháng chiến đấu với những chiến công vang dội.
Fort Campbell nằm giữa ranh giới hai tiểu bang Tennessee và Kentucky. Sáng nay, căn cứ Fort Campbell tấp nập với trên 3,000 binh sĩ đang tập họp trên một sân cỏ giữa doanh trại, dưới sự chỉ huy của vị Đại tá người Mỹ Gốc Việt Lương Xuân Việt để chuẩn bị cho cuộc chạy bộ dàì 5 dậm Anh, để chào mừng Ngày của Ngưòi Mỹ gốc Á Châu Thái Bình Dương, do Lữ đoàn 3 Nhảy dù là một trong 5 lữ đoàn tác chiến cuà sư đoàn 101 tổ chức.

Đây là một truyền thống mà sư đoàn 101 vẫn tồ chức hàng năm vào tháng 5 để ghi nhận và vinh danh người lính Mỹ gốc Á Châu Thái Bình Dương.

Ngoài các phái đoàn người Mỹ gốc Phi Luật Tân, Đại Hàn, Samoa, Nhật bản tham dự như mọi năm, năm nay, đặc biệt, sư doàn 101 tiếp đón lần đầu tiên phái đoàn người Mỹ gốc Việt gồm gần 20 người thuộc hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hoá Người Mỹ gốc Việt (VAHF) đến từ Texas và California, Linh mục Petter Châu Đỗ, ông Đỗ Hữu Đệ, Chủ tịch và môt số thân hào nhân sĩ thuộc cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Nashville, Tennessee, phóng viên Trọng Thắng và chuyên viên quay phim John Nguyễn của đài truyền hình Viet Face TV, Bác sĩ Nguyễn Thu Thảo thuộc đài truyền hình VNA.

Viện bảo tàng của Sư đoàn 101 chứa đầy chứng tích của chiến tranh VN.

Quan khách được Thiếu tá Stephen Platt, tùy viên báo chí của Đại tá Việt, đưa đi thăm viếng Viện bảo tàng của sư đoàn.

Những bộ sưu tập thật công phu và giá trị ghi chép và minh hoạ lại lịch sử của sư đoàn kể từ khi được thành lập năm 1942, cho tới những cuộc chiến tranh lừng danh trên thế giới tại Đại Hàn, Việt Nam, Iraq, và mới nhất tại A Phú Hãn.

Chính sư doàn 101 đã đỗ bộ vào bờ biển Normandy, Pháp để giải phóng Âu châu mà trong phim “Ngày dài nhất” (The longest Day) nói về đoàn quân ngoại quốc đầy hào hùng và được người dân Âu châu gọi là những anh hùng thời Đệ Nhị thế chiến mà không ai trong chúng ta là không biết đến.

Riêng trong chiến tranh Việt Nam, bước chân của người lính sư đoàn 101 cũng đã ghi dấu khắp nơi, từ Khe Sanh, Hạ Lào,... với trận Lam Sơn 719. Tất cả đều có những chứng tích ở đây. Kể cả những “thông hành chiêu hồi được máy bay Mỹ thả ngập đuờng mòn Hồ Chí Minh để kêu gọi các chiến binh CS “tung cánh chim tìm về tổ ấm”, một chương trình đã chiêu hồi được trên 200,000 sĩ quan, binh sĩ CS trong suốt 21 năm của cuộc chiến cũng được trung bày ở đây.

“Buồn và nhớ tuổi thanh xuân biết bao!”

Ông Nam Trần, trong phái đòan người Việt tại Nashville, Tennessee, cựu sĩ quan QLVNCH, nhiều năm tù CS, đến Mỹ năm 1993 theo diện HO. ông và gia đình sống tại New York đến năm 1995 thì dời tới Nashville làm việc cho một hãng in.

Hiện ông và gia đình gồm một vợ 4 con, người lớn nhât 35 tuổi và con nhỏ nhất 20 tuổi còn đi học . Đời sống đã ổn định. Đứng tần ngần trước những di vật, ông Nam bùi ngùi tâm sự:

”Tôi phục vụ trong Lữ đoàn 173, thuộc sư đoàn 22 Bộ binh đóng ở Tuy Hoà. Chúng tôi đã có dịp chiến đâu với các binh sĩ thuộc sư đoàn 101. Họ rất tinh nhuệ, tinh thần cao và bảo vệ đồng minh thật chí tình. Ông cũng nhắc đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 với mục đích cắt đường tiếp viện của CS qua đường mòn Hồ Chí Minh năm 1971 mà hình ảnh và chứng tích đang được trưng bày kín phòng triển lãm. Ông Nam tâm sự: “Tôi thấy buồn và nhớ tới tuổi thanh xuân của mình biết bao!”

Anh Minh Nguyễn chăm chú xem những chiến xa, súng đạn nhiều loại được trưng bày cùng với những tượng của những người lính với quân phục khác nhau. Anh thán phục người Mỹ đã bỏ công sức ra để lưu lại những bài học cho những thế hệ đến sau.

Tại chiến trường A Phú Hãn, Đại tá Lương Xuân Việt, thứ hai từ bên trái, đang nói chuyện với binh sĩ của ông thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù, trực thuộc Sư đoàn 101 của quân đội Hoa kỳ.
Anh Minh cho biết anh, đến Mỹ qua chương trình bảo trợ ODP. Anh vượt biển nhiều lần nhưng không thoát. Sau nhờ có cha anh là cựu Hải Quân, dù có đi học tập nhưng ông đã vượt biên đến Mỹ và bảo lãnh anh và con của anh hiện đang theo học Đại học tại đây. Đới sống yên ổn không bon chen nhiều nên anh bằng lòng với cuộc sống. Anh Minh cho biết cộng đồng người Việt ở đây khỏang 5 tới 6 ngàn người ở rải rác trong hai tiểu bang Tennessee và Kentucky, số đông là những cựu sĩ quan sang đây với diện HO và sinh sống bằng nghề Nail.

Sư đoàn 101 đã có chương trình trùng tu Viện Bảo tàng đầy giá trị này với hai dãy nhà khang trang sẽ được đặt tại con đường giáp ranh với bên ngoài để du khách có thể vào xem mà không cần phải vào trong bản doanh của sư đoàn 101. Mọi người như không muốn rời Viện Bảo tàng, nơi đang có những hình ảnh nhắc nhớ đến VN, đến một phần đời của mỗi người tại quê hương xa típ tắp nhưng Thiếu tá Platt luôn bên cạnh nhắc nhở phái đoàn phài giữ giờ cho tiết mục sắp tói.

Trường Huấn luyện nhảy dù

Trường huấn luyện nhảy dù tại căn cứ Fort Campbell hàng năm huấn luyên nhiền ngàn binh sĩ để cung ứng co các binh chủng.

Với chương trình huấn luyện 10 ngày, các học viên phải học các cách nhảy từ có dù, không dù, nhảy tử trực thăng hay nhảy từ những điểm cao rồi, chạy 13 dặm trong 3 giờ đồng hồ. Nếu hoàn thành, các học viên sẽ được cấp bằng nhảy dù và trở về các đơn vị để phục vụ. Hai huấn luyện viên và 4 binh sĩ đã nhảy biểu diễn các kiểu cho phái đoàn người Mỹ gốc Việt xem. Những tiếng vỗ tay khen ngợi hào hứng và những cái vẫy tay chào quyến luyến trước khi phái đoàn được chuyển qua khu huấn luyện tác xạ.

Khác với những xạ trường trong các trung tâm huấn luyên cũ trưóc đây với những ụ cát, những hình người làm điểm nhắm. Ở đây là một phòng kín rộng đầy những giây điên chằng chịt. Trên 10 khẩu súng đủ loại được đặt trước một phông hình của một dãy phố. Khi bật đèn và nhấn nút điều khiển trên phông hình xuất hiện những hình người ẩn núp hoặc chạy và các xạ thủ có thể nhắm bắn như ngoài chiến trường.

Vị sĩ quan huấn luyện viên gỉai thích: ”Với cách huấn luyện này vừa đỡ tốn kém, vừa chính xác hơn vì những phông cảnh có thể thay đổi cho thích hợp với những chiến trường khác nhau, và các học viên có thể bắn suốt ngày mà không phải tốn tiền đạn.”

Quan khách đưọc dịp bắn thử các loại súng và nhắm vào chiến trường ảo trước mắt nhưng cũng tạo được cảm giác hồi hộp không ít.

Cuộc viếng thăm bất ngờ của TT Obama

Bà Nancy Bùi đang phỏng vấn Đại tá Lưong Xuân Việt cho Chương trình 500 Lịch Sử Phỏng Vấn, tại văn phòng làm việc của ông trong căn cứ Fort Campbell, Kentucky.
Ngoài những trường huấn huyện vừa kể, Sư đoàn 101 còn có nhiều lực lượng đặc biệt khác được huấn luyện và đặt căn cứ tại đây, như Biệt đội trực thăng đặc nhiệm 160 mà những phi công lái 4 chiếc trực thăng xâm nhập vào Parkistan đến tận bản doanh của Bin Laden đang trốn đóng, bắn chết và mang xác cuả tên trùm khủng bố làm rung động cả thế giới cũng trực thuộc Sư đoàn 101.
Biệt đội 160 từng tham chiến tại Việt Nam, và có căn cứ tại đây. Do đó, chương trình lễ mừng Ngày Người Á Châu Thái Bình Dương hôm nay bị thay đổi đôi chút để đón tiếp TT Obama đến thăm viếng và vinh danh những phi công và đội đặc nhiệm cuả họ và sư đòan 101.

Trong hơn 2 giờ đồng hồ thăm một vòng doanh trại, với sự tiếp đãi ân cần của Thiếu tá Platt và các binh sĩ trong ban tiếp tân, phái đoàn đã học hỏi rất nhiều về sinh hoạt và đới sống của người lính Mỹ tác chiến. Người tham dự như cảm thấy gần gũi, thông cảm và mang ơn nhiều hơn những người lính và gia đình họ. Sự chu đáo này cũng nói lên tình cảm đặc biệt mà vị Chỉ huy trưởng và binh sĩ tại đây dành cho phái đoàn người Mỹ gốc Việt.

VAHF và người Việt Nashville vinh danh Đại tá Việt

Khoảng gần trưa, trong không khí trong lành, với mùi thơm thoang thoảng của hoa xồi đỏ, và ánh nắng dịu dàng của những ngày đầu hè, khoảng trên 500 quân nhân và quan khách Mỹ Việt đã tụ tập trước phòng khánh tiết của Lữ Đoàn 3 nhảy dù để tham dự Lễ Vinh danh Lữ đoàn trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên và duy nhất thuộc binh chủng tác chiến Hoa kỳ, Đại tá Lương Xuân Việt.

Để đáp lễ các sắc dân khác với y phục cổ truyền và để buổi lễ thêm phần long trọng, tất cả các phụ nữ người Mỹ gốc Việt có mặt đã mặc áo dài đầy màu sắc tươi vui, một số đội những vành khăn xếp rộng vành trông thật đẹp mắt . Riêng phóng viên Trọng Thắng đã khăn đóng, áo the, quần trắng thật long trọng.

Trong bài diễn văn ngắn nhưng cảm động, bà Nancy Bùi, hội Trưởng Hội VAHF đã phát biểu:
“Đúng 36 năm, 6 ngày trước đây, ngày 30 tháng 4, 1975, Sài gòn thất thủ. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Cuộc chiến đã cướp mất trên 58.000 chiến binh Hoa kỳ, hơn 500,000 chiến binh Nam Việt Nam và trên một triệu người dân Việt. Đó là một cuộc chiến gây nhiều tranh cãi nhất trong thế kỷ thứ 20. Nhưng khi hoà bình đến, cuộc sống của người dân Việt Nam không khá gì hơn bởi vì kẻ ác đã chiến thắng …. và nhiều người đã phải nghĩ rằng hàng triệu người Mỹ và Nam Việt Nam đã chết uổng phí. Nhưng nhờ lòng quảng đại của dân và chính quyền Mỹ đã đón nhận người Việt tị nạn và từ đó, cuộc chiến tranh Việt Nam cũng có một kết quả tốt đẹp. Đó là cộng đồng người Mỹ gốc Việt…”.

Bà Nancy Bùi sau đó đã ca ngợi những nỗ lực của người Mỹ gốc Việt đã mau chóng ổn định đời sống và trở thành một sắc dân có nhiều những đóng góp tích cực nhất vào sự phồn vinh của Hoa Kỳ. Và Đại tá Lương Xuân Việt là một thí dụ điển hình.

Bà cũng thay mặt hội VAHF. chân thành cám ơn sự hy sinh gian khổ của người lính Hoa Kỳ và tri ơn gia đình những người đã bỏ mình cho tự do và dân chủ trên toàn thế giới. Bà mong một ngày nào đó tự do, dân chủ sẽ soi rọi đến trên 85 triệu dân VN.

Trong bộ quân phục tác chiến, Đại tá Lương Xuân Việt đáp từ bằng những lời ca tụng sự hy sinh của quân lực VNCH.

Theo ông, cuộc chiến VN tuy đã có kết quả không tốt, nhưng nó đã để lại những bài học quý giá mà ông và binh sĩ của ông được học hỏi để rút tỉa kinh nghiệm. Ông cũng ca tụng và tri ơn những người lính tác chiến của sư đoàn 101..

Đại tá Lương Xuân Việt chạy dẫn đầu đoàn quân trên 3,000 binh sĩ thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù để chạy bộ 5 dậm Anh, trên những con dốc, ngọn đồi của căn cứ Fort Campbell trong buổi sáng còn mờ sương, chào mừng ngày của Người Mỹ gốc Châu Á Thái Bình Dương vào đầu tháng 5, 2011 vừa qua.
Ông phát biểu: ”Tất cả những gì tôi có là nhờ sự làm việc và đóng góp của tất cả các bạn. Nếu không có các bạn, tôi sẽ chẳng có gì hết..”

Linh mục Peter Châu Đỗ đã cùng với bà Nancy Bùi trao tặng tấm plaque của hôi VAHF vinh danh Đại Tá Lương Xuân Việt về những thành quả xuất sắc làm rạng danh người Mỹ gốc Việt trong việc chiến đấu bảo vệ tự do và dân chủ tại Hoa kỳ và trên toàn thế giới.

Người điều khiển lễ vinh danh là ca sĩ Thái Hà, thành viên của Ban Quản trị hội VAHF, đã cùng với phóng viên Trọng Thắng của đài truyền hình Viet Face TV, bác sĩ Nguyễn Thu Thảo thuộc truyền hình VNA tại California, sau đó đã trao tặng hoa cho bà Lương Mỹ Kim, phu nhân của Đại tá Việt để tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân về những hy sinh của người vợ và gia đình của những quân nhân Hoa kỳ. Buổi lễ được kết thúc bằng một bữa ăn trưa tại phòng khánh tiết của doanh trại.

Từ ước vọng của người cha tới ước mơ của vị Đại tá trẻ và sáng giá bậc nhất nhât của quân đội Hoa kỳ

Theo dư luận am tường về quân đội Hoa kỳ, Đại tá Lương Xuân Việt, người vừa về từ chiến trường A Phú Hãn cùng với 9,000 quân của ông, là một trong những Đai tá trẻ, sáng giá, với nhiều chiến công hiển hách từ hai chiến trường Iraq và A Phu Hãn.

Sau khi về từ chiến trường Iraq năm 2009, ông đã từ là Trung tá Tiểu đòan trưởng được phong chức Đại tá Lữ đoàn trưởng và được gửi đi chiến trường A Phú Hãn, ông lên nhanh đến độ không có thời gian để đi học khoá huấn luyện sĩ quan cao cấp.

Với thành tích cầm quân tại chiến trường gần 13 tháng với bao chiến công mà số quân tổn thất chỉ có 17 người. Tháng 6 sắp tới, ông sẽ được đưa về Đại học Standford để học về kỹ năng ngoại giao và lãnh đạo trong một năm. Nhiều người tiên đoán rằng sau khoá học này ông có nhiều cơ hội được lên tướng để trở thành vị Tướng người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong lịch sử Hoa kỳ.

Xuất thân từ gia đình binh nghiệp, Cha ông là Thiếu tá Lương Xuân Dương, thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của Quân lực VNCH từng làm sĩ quan tuỳ viên của Trung Tướng Lê Nguyên Khang.

Sau 1975, cha ông và gia đình gồm một vợ và 8 người con, 7 gái và Đại tá Lương Xuân Việt là con trai duy nhất trong gia đình. Mẹ ông là bà Kathy Lương, hiện bà đang sống tại vùng ngoại ô Los Angeles, nơi mà gia đình bà đã đến Mỹ lập nghiệp trên 36 năm qua.

Trong cuộc phỏng vấn gần hai tiếng đồng hồ dành cho chương trình 500 Lịch Sử Phỏng Vấn của hội VAHF, vị Đại tá ngưòi Mỹ gốc Việt đã nghẹn lời khi ông tâm sự về người cha:

“Cha tôi thường không biểu lộ chuyện buồn, nhất là với con cái. Nhưng ông không thể giấu được những dằn vặt với ý nghĩ vì sao ông không ở lại để tiếp tục chiến đấu với binh sĩ của ông? Ông thường khuyên bảo tôi nên chọn binh nghiệp để phục vụ vì rất có thể một ngày nào đó tôi có thể đem lại lợi ích cho quê hương Việt Nam.

Khi còn nhỏ, chị cũng biết sống trong khu ngoại ô Los Angeles, trẻ con chúng tôi không tránh nổi những trận ấu đả. Khi tôi còn nhỏ được cha mẹ tôi cho học võ Vovinam nên việc rèn luyện thân thể là chuyện hàng ngày đối với tôi, và tôi không bao giờ sợ khi cần phải dùng sức để tự bảo vệ . Nhờ đó mà việc chọn binh nghiệp cũng rất thích hợp với tôi. Lớn lên chút nữa khi vào Đại học, tôi cố gắng học và đậu điểm rất cao tại Đại học University of Southern California (USC), nên được chọn vào trường sĩ quan không khó khăn.

Sau khi tôi ra trường, phục vụ trong ngành tác chiến. Khi tôi lên tới Đại úy thì Ba tôi mất. Tôi nhớ mãi ngày ba tôi tham dự lễ gắn lon Đại úy của tôi, mắt cha tôi sáng lên với niềm vui và hãnh diện. Cha tôi mất vì bệnh ung thư khi ông chưa đầy 65 tuổi. Tôi ước gì ông còn sống đến hôm nay và lâu hơn nữa để ông được nhìn thấy sự thành đạt của tôi! ”

Niềm ước mơ lớn nhất cho Việt Nam

Khi được hỏi ông mơ ước gì cho đất nước Việt Nam? Vị Đại tá trẻ đã trả lời thật ngắn gọn như ông đã nung nấu trong sự suy nghĩ của ông từ bao lâu: ”Điều ước mơ tôi mong muốn nhất là cho đất nước Việt Nam, một ngày nào đó, sẽ có tự do và dân chủ thực sự. Tôi cũng ước cho toàn dân Việt có cơm no, manh áo, và tất cả những trẻ em có cơ hội cắp sách tới trường.”

Trên chiếc bàn thấp và nhỏ giữa phòng làm việc của Đại tá Việt, những cuốn binh sử như đưọc giữ trong tầm tay với của vị Chỉ huy trưởng ở đây. Có những binh sử của Hoa kỳ và của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Những cuốn hồi ký của các danh tướng và có cả những binh sử của Việt Nam Cộng Hoà.

Đại tá Lương Xuân Việt cho biết ông đọc và nghiên cứu rất nhiều. Sự học hỏi này giúp cho ông rút tỉa được kinh nghiệm của những người đi trước.

Ông cho biết một số tài liệu của các tướng Việt Nam Cộng Hoà đã viết như Tướng Ngô Quang Trưởng với chiến thuật du kích chiến hay Tướng Nguyễn Duy Hinh hiện còn sống tại vùng Hoa Thịnh Đốn viết về kinh nghiệm cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 cũng là những binh sử gối đầu của ông. Ông cho biết khi cầm quân, dù mất một người cũng là nhiều, nên ông chú tâm vào các chiến thuật đánh sao cho kết quả nhưng không hao tổn xương máu của binh sĩ mới là chiến thắng toàn diện.

Chính vì thế mà trong gần 13 tháng điều khiển trên 9,000 quân tại chiến trường A Phú Hãn, với nhiều chiến công hiền hách, Đại tá Lương Xuân Việt chỉ mất có 17 binh sĩ. Ngay trong tuần lễ đầu sau khi về tới Mỹ, Đại tá Việt đã được Bộ Quốc phòng Pentagon mời lên để tường trình về chiến trận, đặc biệt về cách cầm quân thật hiệu qủa của ông.

Một chỉ huy trưởng nghiêm minh nhưng đầy lòng nhân ái.

Đại tá Lương Xuân Việt còn được sự kính phục của binh sĩ dưới quyền ông. Đi đến đâu chúng tôi cũng nghe những lời nói về ông với đầy cảm mến: “Ông ấy là một nhà lãnh đạo giỏi, ông ấy thương binh sĩ và làm việc rất nhiều để hỗ trợ binh sĩ, ông ấy cư xử với chúng tôi như anh em,..”.

Riêng với Thiếu tá Platt, tuỳ viên báo chí của Lữ đoàn thì không tiếc lời khen ngợi:

”Đại tá Việt rất nghiêm, nhưng ông ấy sống chết với binh sĩ. Chúng tôi chứng kiến cảnh Đại tá đau buồn khi ông nghe tin binh sĩ tử nạn. Ông lúc nào cũng làm hết sức, ngoài cả những gì ông ấy cần làm như tìm mọi cách đến thăm những binh sĩ bị thương hoặc hy sinh, mặc dù nhiều lúc ông phải dùng trực thăng, đi đến những vùng nguy hiểm nhưng đối với ông sự có mặt của người chỉ huy trưởng trong những lúc sống còn của người binh sĩ dưới quyền ông là một điều tối quan trọng. Tôi đã từng làm việc với nhiều Đại tá chỉ huy trưởng khác, nhưng khi làm việc với Đại tá Lương, tôi biết là tôi làm việc nhiều hơn rất nhiều nhưng tôi lại rất vui. Ông ta là một nhà lãnh đạo tài ba, và đức độ”

Nhưng tất cả những điều vừa kể trên chỉ là một phần của Đại tá Lương Xuân Việt, khi người phỏng vấn hỏi về gia đình thì gương mặt ông sáng lên và nói về người vợ của ông, bà Lương Mỹ Kim: bằng những lời thiết tha, chân tình:

”Kim là tất cả của đời tôi. Cô ấy thay tôi làm cha khi tôi phải ra chiến trường, cô ấy an ủi và chia sẻ với tôi trong những lúc vui buồn hoặc khó khăn. Chị biết mỗi khi có một binh sĩ phải hy sinh, tôi còn ngoài chiến trường thì Kim thay tôi đến để an ủi gia đình họ, trong khi tôi biết chính trong lòng của Kim cũng đang bối rối và lo sợ cho tôi và những bấp bênh của một gia đình có ngưòi chồng trong ngành tác chiến. Vì luật lệ trong quân đội khiến chúng tôi phải dời đổi chỗ ở liên tục. Ít có nơi tôi ở đưọc lâu quá 3 năm nên Kim và các cháu cũng phải thay đổi trường học, môi trường sống liên tục. Tôi không thể làm tất cả những điều đã và đang làm nếu không có sự cộng tác của Kim.”

Và một mơ ước khác cho 3 người con là Lưong Thị Thu Diễm Asley, 16 tuổi lớp 11, Lương Xuân Huy Brandon, 14 tuổi, lớp 9, và Lương Xuân Quốc Justin 10 tuổi, lớp 5 sẽ chọn binh nghiêp.

Đại tá Việt thổ lộ: “Cháu gái lớn muốn học luật và sẽ chọn làm việc cho quân đội. Cháu trai thứ hai đang chờ đợi vào trường sĩ quan, cháu út thì còn nhỏ nhưng cũng đã và đang tìm hiểu. Tôi luôn khuyến khích các cháu, vì tôi mghĩ rằng: quân đội Hoa kỳ là một trong những môi trường phục vụ tốt nhất”.

Bài học từ chiến tranh VN

Tối hôm trước. Đại tá Việt và phu nhân là chị Kim đã có nhã ý mời chúng tôi đến thăm tư gia của họ trong căn cứ Fort Campbell. Căn biệt thự nhỏ xinh xắn trên đỉnh một ngọn một con đồi thấp là mái ấm cuả Đại tá Việt và gia đình.

Trước nhà, phiá trái là cổng chào màu đỏ, nhỏ làm bằng gỗ theo hình cổng chào Torii của người Nhật; gần giống cổng tam quan của người Việt, phía trái trồng cây kiểng và hoa rực rỡ. Bên trong căn nhà, vật dụng được trưng bày tươm tất nhưng giản dị của một gia đình trung lưu Mỹ.

Tiếp chúng tôi, Đại tá Việt ngồi chiếc ghế sa lông chính giữa, bên phải là Đại tá Paul Sarat, lo về hành chánh, tài chánh. Bên trái là Thiếu tá Matt Leslie, trưởng Ban hành quân, có vợ Việt Nam, chị Linda Leslie. Họ nói chuyện với nhau thân mật nhưng tương kính.

Chị Kim lo việc tiếp khách và chỉ có chị Linda đến chơi tiếp tay, mà không hề thấy bóng của người phục dịch. Chị Kim cho biết sư đoàn có đơn vị huấn luyện và hướng dẫn các gia đình binh sĩ cách sống tự lập. Các bà được dạy cách thay bánh xe, thay đèn, sửa những vật dụng giản dị trong nhà. Đời sống của gia đình một vị Đại tá trong quân đội Hoa kỳ thật đơn giản và tự lập.

Cuộc chiến tranh đã qua đi 36 năm, đến thăm viếng căn cứ Fort Campbell, doanh trại của Sư đoàn tinh nhuệ nhất để thấy cuộc lột xác hầu như hoàn toàn của quân đội Hoa kỳ sau bài học từ chiến tranh Việt Nam.

Họ thay đổi từ chiến cụ, kỹ thuật tác chiến đến tinh thần và lối sống và làm việc của binh sĩ Hoa kỳ. Họ không còn là một tập thể ô hợp của những người lính bị động viên.

Hôm nay, người lính và đặc biệt là những vị sĩ quan chỉ huy, họ là những nhà binh chuyên nghiệp với kỷ luật nghiêm minh, với kỹ năng kỹ thuật nhuần nhuyễn. Ngoài việc đánh trận, ho cũng được huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp, và đặc biệt tư cách và lối ứng xử của họ nói lên được tinh thần kỷ luật và trách nhiệm nghiệm minh nhưng lại đầy tinh người của một đoàn quân tinh nhuệ nhất trên thế giới, trong đó có nhiều vị chỉ huy cũng như gần 20 ngàn binh sĩ người Mỹ gốc Việt các cấp. Đó cũng chính là niềm an ủi và hãnh diện của cộng đồng người Mỹ gốc Việt của chúng ta.
Người Mỹ tốn hơn 58 ngàn sinh mạng và nhiều tỷ bạc cho chiến tranh VN. Cuối cùng họ đã học được bài học của họ để xây dựng một quân đội hùng mạnh gần như hoàn hảo vào bậc nhất trên thế giới mà không một quân đội nào trên thế giới muốn đối đầu.

Miền Nam VN tự do của chúng ta đã tổn thất hàng triệu người, thất thoát tiền rừng, bạc biển cho cuộc chiến. Nhưng đau thương nhất là chúng ta mất cả mảnh đất tự do của quê hương. Chúng ta đã học được bài học gì sau hơn 36 năm?

(Bài của Triều Giang. Hình của Ban Báo Chí Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, sư đoàn 101 tác chiến và Bác sĩ Nguyễn Thu Thảo...)


Tuesday, June 7, 2011

Biểu tình Tuần hành Vinh danh cờ Vàng và đòi giải thể CSVN

THÔNG BÁO VÀ LỜI KÊU GỌI QUAN TRỌNG

V/V: THAM GIA CUỘC BIỂU TÌNH TUẦN HÀNH VINH DANH CỜ VÀNG
VÀ ĐÒI GIẢI THỂ CỘNG SẢN VIỆT NAM


    Kính thưa:

    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện và thành viên các hội đoàn đoàn thể,
    - Các tổ chức chánh trị,
    - Quý cơ quan truyền thông Việt ngữ,
    - Cùng toàn thể đồng bào tỵ nạn Úc châu và Victoria
Kể từ khi những cuộc cách mạng Hoa Lài tại Egypt, Tunisia, Yeman, Trung Đông và Bắc Phi, nhà cầm quyền CSVN trở nên tàn bạo và sắt máu hơn đối với đồng bào ruột thịt của chúng ta tại Việt Nam.

Hiện nay nhà cầm quyền CSVN:
    Đang thẳng tay đàn áp các tôn giáo, chúng đã bắt giam những vị tu hành thuộc Công Giáo, Phật Giáo và Phật Giáo Hoà Hảo.

    Bắt và giam cầm các nhà đấu tranh cho Dân Chủ và Nhân Quyền tại Việt Nam.

    Công an CSVN đang đàn áp nhân dân, đánh chết rất nhiều người vô tội.
Vì thế chúng tôi thiết tha kêu gọi đồng bào trong nước hãy vì tương lai của Tổ Quốc và Dân Tộc thi hành quyền công dân của mình, hãy quyết định cho Việt Nam một tương lai tươi sáng hơn bằng cách đứng lên bằng mọi hình thức đòi giải thể chế độ CSVN.

Ban chấp hành Cộng Người Tự Do Victoria (CĐNVTD-VIC) phối hợp cùng Cộng Đồng Liên Bang, Hội Đoàn, Đoàn Thể thiết tha kêu gọi đồng bào tại Victoria hãy tham gia thật đông đảo vào cuộc xuống đường biểu tình tuần hành ngay tại trung tâm thành phố Melbourne.

CĐNVTD-VIC sẽ tổ chức cuộc biểu tình tuần hành với chủ đề: “Vinh Danh Cờ Vàng - Giải Thể Cộng Sản Việt Nam”

Mục đích của cuộc tuần hành:
    Để hỗ trợ đồng bào Quốc nội cùng với những vị tu hành và các nhà đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ cho Việt Nam trong việc giải thể chế độ CSVN.

    Trao thỉnh nguyện thư lên Quốc Hội Úc và Quốc Hội Tiểu Bang yêu cầu lên tiếng buộc nhà cầm quyền CSVN phải lập tức trả tự do cho các vị tu hành các nhà tranh đấu cho Dân Chủ tại Việt Nam.

    Yêu cầu Quốc Hội Úc và Quốc Hội Tiểu Bang hãy ủng hộ thể chế đa đảng, bầu cử tự do, công bằng, dân chủ do chính người dân Việt Nam bầu lên.
Điạ điểm tập trung và phát xuất:
    Tại: Federation Square, Melbourne (gần Flinder St Station)
    Vào ngày: Chủ Nhật 12-6-2011
    Vào lúc: 10 giờ sáng
Kính thưa quý vị và đồng bào,

Đã đến lúc đồng bào trong nước và chúng ta tại Hải Ngoại phải quyết định cho một tương lai Dân Chủ, Tự Do và Độc Lập cho Việt Nam, đã đến lúc chúng ta trong cũng như ngoài nước đứng lên giải thể chế độ CSVN.

Vì tương lai của Dân Tộc và Tổ Quốc, sát cánh với đồng bào ruột thịt Quốc nội, chúng tôi thiết tha kêu gọi toàn thể đồng bào và các Hội Đoàn, Đoàn Thể hãy tham dự thật đông trong ngày biểu tình tuần hành sắp đến.

CHÚNG TA QUYẾT TÂM PHẢI BIỂU TÌNH DỨT KHOÁT ĐÒI GIẢI THỂ CÔNG SẢN VIỆT NAM vào ngày CHỦ NHẬT 12-6-2011 tại FEDERATION SQUARE.

Mọi thắc mắc xin quý vị và đồng bào liên lạc với Ô. Nguyễn văn Bon (0411 616 453).

Trân trọng kính báo và kính mời,
TM. BCH-CĐNVTD-VIC

Nguyễn văn Bon
Chủ tịch
Ngày 8-5-11

Tuesday, May 31, 2011

Những trí thức "chồn lùi"


TẠI SAO THỜI NÀO CŨNG CÓ MỘT SỐ NGƯỜI TRÍ THỨC BƯNG BÔ CHO VIỆT CỘNG?

    Mùa xuân hoa nở muôn mầu
    Còn người trí thức ... đếm đầu ngón tay

    (HSG)
Lê Duy San

Trí thức, hiểu theo nghĩa thông thường của người bình dân, là người học cao, hiểu rộng, biết nhiều. Bởi vậy những người có bằng cấp cao, ít nhất từ bậc Cử Nhân trở lên hoặc các học giả, đều được liệt vào thành phần trí thức (1). Vì học cao, nên người trí thức thường được đảm trách những chức vụ thuộc hàng lãnh đạo. Vì thế họ thường mắc bệnh tự cao, tự đại, tự kiêu, tự phụ, coi thường người khác, nhất là những người không có bằng cấp bằng mình. Thực ra con người đáng khinh hay đáng trọng không phải là ở bằng cấp thấp hay cao, mà là ở phẩm cách (dignity) của người ấy thế nào, cao hay thấp, có đáng kính trọng hay không. Không thiếu gì nhưng ông trí thức bằng cấp rất cao, nhưng phẩm cách không có, tính tình hèn nhát, ích kỷ, làm gì cũng chỉ sợ hại đến thân trừ phi có danh, có lợi.

I. Theo Việt Cộng vì yêu nước

Vào thập niên 1940, dưới thời Pháp thuộc, chưa có danh từ Việt Cộng mà chỉ có danh từ Việt Minh. Việt Minh hay Mặt Trận Việt Minh là mấy chữ viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội cũng như Việt Nam Quốc Dân Đảng gọi tắt là Việt Quốc, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt và Việt Cách. Mặt trận Việt Minh được Hồ Chí Minh thành lập vào tháng 5/1941 mà thành phần đều là đảng viên đảng Cộng Sản VN sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam chịu áp lực của Cộng Sản Nga phải đổi tên thành Đảng Cộng Sản Đông Dương vào tháng 10/1930. Sau khi Nhật đầu hàng và Việt Minh cướp được chính quyền từ chính phủ quốc gia Trần Trọng Kim vào ngày 19/8/1945, để lấy lòng và cũng để lừa gạt các đảng phái quốc gia, đảng Cộng Sản Đông Dương tức đảng Cộng Sản Việt Nam (2) đổi tên là Đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản trá hình vào tháng 11/1945.

Lúc đầu 2 chữ Việt Minh không có nghĩa xấu. Nó chỉ là hai chữ viết tắt của bẩy chữ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, một mặt trận do Cộng Sản Việt Nam dựng lên nhưng nhiều người quốc gia không biết nên đã tham gia. Và một chính phủ liên hiệp đầu tiên đã được thành lập vào ngày 2/3/46 mà ông Hồ Chí Minh là Chủ Tịch và cụ Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) là Phó Chủ Tịch. Chính vì vậy mà khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào ngày 19/12/1946, rất nhiều thành phần trí thức và tiểu tư sản đã đi theo mặt trận này trong đó có Luât Sư Nguyễn Mạnh Tường, Bác Sĩ Đặng Văn Ngữ, Học Giả Đào Duy Anh, Giáo Sư Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Hà v.v… để kháng chiến chống Pháp.

Nhưng dần dần chúng (Việt Minh) tìm cách loại trừ những thành phần quốc gia và để lộ nguyên hình là Cộng Sản nên nhiều người quốc gia đã phải trốn về Hà Nội tạm thời cộng tác với người Pháp để chống lại Việt Minh. Vì thế những người quốc gia này bị mang tiếng xấu là theo Pháp chống lại nhân dân. Thực ra thì bọn chúng còn tệ hơn vì chúng đã theo Nga, theo Tầu để để đưa cả dân tộc vào vòng nô lệ.

Sau hiệp định Geneve 1954 chia cắt đất nước, bắc vĩ tuyến 17 thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tức Việt Minh, nam vĩ tuyến 17 thuộc chính phủ quốc gia Việt Nam (lúc đó chính phủ quốc gia Việt Nam còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp tức vẫn còn lệ thuộc Pháp). Những người theo Việt Minh tại miền Nam vẫn còn tin tưởng Việt Minh là người yêu nước và vẫn chưa biết rõ Việt Minh là Cộng Sản nên đã theo lời dụ dỗ của Việt Minh tập kết ra Bắc. Còn thành phần cộng sản chính hiệu được Việt Minh (tức Cộng Sản) gài ở lại để bí mật hoạt động phá hoại miền Nam sau này.

Khi chính phủ miền Nam Ngô Đình Diệm truất phế Hoàng Đế Bảo Đại, thành lập nền đệ nhất Công Hoà Việt Nam và thoát ra khỏi vòng lệ thuộc người Pháp, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà phát động phong trào tố Cộng, thì hai chữ Việt Minh không còn được dùng nữa mà thay vào đó hai chữ Việt Cộng để chỉ thẳng bọn Cộng Sản Việt Nam đang nằm vùng và hoạt động tại miền Nam cũng như bọn Cộng Sản Hà Nội đang cai trị miền Bắc để chỉ bọn người độc ác, giết hại dân lành, nhất là trong cuộc cải cách ruộng đất xẩy ra vào những năm 1953, 1954, 1955 và 1956 tại miền Bắc, và luôn luôn ăn gian, nói dối?

II. Theo Việt Cộng vì bất mãn và chưa rõ chế độ Cộng sản thế nào

Sau năm 1954, có thể nói hầu hết người dân miền Nam đều biết chính phủ miền Bắc theo Cộng Sản. Nhưng vì sự bưng bít của chế độ Cộng Sản miền Bắc nên hầu hết chỉ biết chủ nghĩa Cộng Sản qua sách vở và vẫn nghĩ rằng đó là một chủ nghĩa tốt đẹp. Do đó khi thấy chế độ Cộng Hòa Việt Nam tại miền Nam hạn chế một số quyền tự do để đối phó với sự phá hoại của bọn Việt Cộng nằm vùng thì một số trí thức cho là độc tài, là phản dân chủ. Một số trí thức khác, vì không được ăn trên, ngồi trốc thì bất mãn, chống đối. Lợi dụng tình trạng này, bọn Việt Cộng miền Bắc đã lập ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào năm 1960 để thâu nạp bọn trí thức bất mãn nhưng hám danh, hám lợi này. Trong số bọn trí thức bất mãn nhưng hám danh này chúng ta thấy có Huỳnh Tấn Phát, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Tôn Thất Dương Kỵ v.v… Còn một số khác thì khôn hơn, tuy thích Việt Cộng, nhưng không dám đi theo. Chúng vẫn ăn cơm quốc gia, nhưng lại chỉ trích chế độ miền Nam. Đó là bọn mang danh thành phần thứ ba như Trần Ngọc Liễng, Lý Qúy Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức v.v… Bọn này cũng hám danh, ngây thơ về chính trị, nhưng lại thích làm chính trị và rất hèn. Sống dưới chế độ có tự do, dân chủ như chế độ Cộng Hoà Việt Nam, thì lợi dụng tự do dân chủ để chống đối. Nhưng khi sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản thì im hơi, lặng tiếng, không dám chống đối lấy nửa lời.

III. Theo Việt Cộng vì hám danh, hám lợi

Sau 30 tháng 4 năm 1975, và nhất là sau khi Nga và các nước Đông Âu theo chế độ Cộng Sản xụp đổ, có thể nói là không còn ai tin tưởng ở chế độ Cộng Sản nữa, kể cả bọn Cộng Sản.

Một người dân Saigon, anh Nguyễn Quốc Chánh đã làm một bài thơ nhan đề “Quê Hương và Chủ Nghĩa” có những câu như sau:
    Chủ nghĩa dạy em, thù hận hờn căm
    Chủ nghĩa dạy em, độc ác bất nhân
    Chủ nghĩa dạy em, lọc lừa xảo trá
    Chủ nghĩa dạy em, dối gian trăm ngả

    Chủ nghĩa dạy em, bội phản vong ân
    Chủ nghĩa dạy em, giết chết lương tâm
    Chủ nghĩa dạy em, vô thần đấu tố
    Chủ nghĩa mù, rước voi dày mả Tổ

    Chủ nghĩa ngu, thờ đồ tể ngoại bang
    Chủ nghĩa bưng bô, xây dựng thiên đàng
    Chủ nghĩa lừa em, những con bò sữa
    Chủ nghĩa bất lương, ma cô nhà chứa

    Chủ nghĩa tú bà, dụ dỗ thơ ngây
    Chủ nghĩa cò mồi, vơ vét luôn tay
    Chủ nghĩa cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc
    Chủ nghĩa lưỡi câu, móc mồi dân tộc

    Chủ nghĩa bịp lừa, bánh vẽ tự do
    Chủ nghĩa cá ươn, tư tưởng vong nô
    Chủ nghĩa chết đi, Quê Hương vẫn sống
Vâng, Chủ nghĩa chết đi, nhưng Quê Hương vẫn sống. Không những vẫn sống mà còn sẽ sống oai hùng, sống vinh quang chứ không phải sống nhục nhã như bây giờ. Chủ nghĩa nào vậy ? Xin thưa đó là Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Chính vì thế mà 4 nước còn lại theo chế độ Cộng Sản là Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba thì hai nước lớn nhất là Trung Hoa và Việt Nam đã phải từ bỏ nền kinh tế chỉ huy (nền tảng của chủ nghĩa Cộng Sản) để chuyển sang nền kinh tế thị trường tức nền kinh tế của tư bản chủ nghĩa để sống còn. Vậy mà vẫn có một số trí thức Việt Nam thích Việt Cộng là tại sao? Xin thưa đó chỉ vì hai chữ LỢI và DANH. Đây là bọn người vô liêm sỉ, không đáng mang danh là trí thức. Chúng là một bọn hèn nhát. Khi thấy khổ và biết không thể làm ăn được gì dưới chế độ Cộng Sản thì co giò chạy trước. Nay thấy bọn Việt Cộng nới lỏng một chút, cho phép làm ăn hoặc bố thí cho một chút danh hão như làm giáo sư đại học không lương, cố vấn không lợi là tâng bốc chúng, hoan hô chúng không biết ngượng miệng. Chính bọn trí thức này làm cho người trí thức bị khinh khi bỉ lây. Chính bọn trí thức này làm cho Mao Trạch Đông coi thường và đánh gía trí thức không bằng cục phân.

Tóm lại, ngày nay, chẳng ai còn coi chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng, chế độ cộng sản là tốt đẹp, ngay cả một người bình thường chứ đừng nói là người có học thức cao. Nhưng giới nào cũng vậy, luôn luôn có một số người vì lợi mà quên hết cả nghĩa lễ liêm sỉ. Giới trí thức cũng vậy, cũng có một số người, không những hám lợi mà còn hám cả danh nên cũng quên hết cả nghĩa lễ liêm sỉ để tâng bốc Việt Cộng chứ thực tâm chúng cũng chẳng ưa gì Việt Cộng. Chẳng qua cũng chỉ là lợi dụng nhau mà thôi. Ngày xưa còn có người vì không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản, vì lòng yêu nước, dám bỏ cuộc sống sung sướng ở ngoại quốc về nước theo Việt Minh để chiến đấu chống Pháp. Còn ngày nay thử hỏi có ai không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản, có ai tin bọn Việt Cộng yêu nước mà bỏ nghề nghiệp tốt đẹp, cuộc sống yên vui ở ngoại quốc để về nước phục vụ cho chúng để mang tiếng là đồng lõa với bọn bán nước, phản bội tổ quốc? Hay vẫn chỉ có bọn trí thức thân Cộng dung cái miệng tung hô để mong kiếm chút cơm thừa, canh cặn, chút danh hão, nhưnh vẫn sinh sống ở ngoại quốc? Bọn Việt Cộng cũng không phải là không biết. Nhưng lợi dụng được chút nào thì chúng vẫn lợi dụng. Kẻ nào ngu dốt muốn đút đầu vào rọ thì ráng mà chịu.

Để kết thúc cho bài này, xin mượn mấy câu thơ sau của Trần Chiêu Yên:
    Trí Thức Ngưu Đầu
    Khốn thay cho lũ đại ma đầu
    Háo lợi cầu vinh, rõ bọ sâu
    Đón gió trở cờ mơ bổng lộc
    Nằm vùng phản quốc mộng công hầu
    Rợ hồ mấy thuở dung hòa nhỉ
    Đảng cộng bao giờ thay đổi đâu ?!
    Trí thức tham danh thành tặc tử
    Ngưu đầu há dễ giấu đầu trâu !
Lê Duy San
30/4/10

Chú thích:
(1) Thực ra một người được gọi là trí thức không những cần phải có học vấn cao, có phẩm cách nghĩa là phải biết giữ nghĩa lễ liêm sỉ mà còn phải có lý tưởng.
(2) Đảng Cộng Sản VN được Hồ Chi Minh thành lập vào tháng 2/1930.
Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia thì mặt trận Việt Minh được thành lập vào ngày 19/5/41 bởi Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. Nhưng trên thực tế, người ta chỉ biết tới hai chữ Việt Minh từ sau ngày Nhật đầu hàng tức sau ngày 15/8/1



Friday, May 27, 2011

Thư Trả Lời Việt Dũng - Đỗ Văn Phúc

Đỗ Văn Phúc

Tôi có nhận được từ một người bạn, bài viết của Việt Dũng phê bình bài này của tôi.

Xin cám ơn anh Việt Dũng đã có những nhận xét rất đúng về sự thiếu sót của tôi. Và cũng xin ghi nhận những lời phê bình bình tĩnh, hoà nhã của anh; thể hiện phong cách của một người có giáo dục và tư cách. Đó cũng là phong cách cư xử đứng đắn giữa những chiến hữu với nhau.

Đúng như Việt Dũng đã viết, tôi đã quá đặt nặng việc phê phán những hiện tượng tiêu cực trong giới nghệ sĩ, mà thiếu phần cỗ vũ những khía cạnh tích cực của những nghệ sĩ có tinh thần cộng đồng, lập trường Quốc Gia, Họ là những viên ngọc cần được nâng niu và khích lệ.

Nhưng trong một cách nhìn bao quát, thì đa số các nghệ sĩ chuyên nghiệp thường chiều theo thị hiếu của khán giả để còn đứng được trên sân khấu. Trong khi đó, một phần nhỏ những nghệ sĩ nặng tình Quốc Gia thì có mục tiêu là phục vụ đấu tranh cho dù bị thua thiệt về nhiều mặt trong cuộc sống. Và tôi tin rằng họ chấp nhận hy sinh như thế cũng như những nhà tranh đấu khác.

Khi nhắc đến các sinh hoạt văn nghệ, thì thường có hai loại hình cho hai mục đích khác nhau:

1. Những buổi nhạc hội, dạ vũ có bán vé thì khán giả là quần chúng bình thường. Thị hiếu của họ là các loại nhạc tình cảm nặng về giải trí. Khán giả chỉ ưa nhìn các ca sĩ trẻ tuổi hay nổi danh vang bóng một thời với những xiêm y màu sắc rực rỡ, vơí lối diễn tả ướt át, khêu gợi; nhạc điệu mùi mẫn hay giật gân.

Những kẻ xướng ca vô loài
2. Trong khi những sinh hoạt nghiêm trang của Cộng Đồng để kỷ niệm những ngày trọng đại, thì khán giả là thành phần chọn lọc, mà chỉ thích hợp với các bản nhạc thiên về lòng ái quốc, đấu tranh. Đó là sở trường của các nghệ sĩ như Việt Dũng, Nguyệt Ánh. Và than ôi, ban tổ chức chỉ có khả năng trang trải chút sở phí di chuyển, ăn ở cho các bạn chứ không thể trả cát sê hàng chục ngàn như khi mời Như Quỳnh, Ý Lan… Dù những ca sĩ sau này chưa chắc đã hát hay hơn các ca sĩ Hưng Ca.

Lần nữa, xin cám ơn Việt Dũng, và cũng nhân đây, xin tỏ lòng ngưỡng mộ đối với những người Việt tị nạn (trong đó có các nghệ sĩ) dù bao năm qua, vẫn giữ vững lập trường không bán tư cách, tài năng vì danh vọng và tiền bạc để phản bội lý tưởng chung.

Cũng xin thưa với Việt Dũng, không chỉ có các nghệ sĩ phản thùng, mà ngay trong anh em cựu quân nhân, cựu tù nhân chính trị chúng tôi, cũng không thiếu những kẻ đã quay đầu, chạy về Việt Nam tâng bốc cái chế độ mà họ đã từng chiến đấu chống lại và từng bị ngược đãi sau chiến tranh. Cũng có những kẻ tuy còn cư ngụ tại các nước tự do, nhưng đã lập lờ làn ranh Quốc Cộng, vì chút lợi sẵn sàng ngồi chung mâm với kẻ thù hay vớ bọn tay sai của giặc..

Bọn này còn tệ và đáng khinh bỉ hơn các nghệ sĩ phản thùng rất nhiều.

Đỗ Văn Phúc
Austin May 26, 2011
________________
    Tệ Trạng Ca Sĩ Hải Ngoại Về Ca Hát Ở Việt Nam
Viet Dzung

Đọc bài viết của ông Đỗ Văn Phúc về vấn đề ca sĩ hải ngoại về ca hát ở Việt Nam, tôi không thể chạnh lòng và không thể không viết lên một vài suy nghĩ về vấn đề này.

Ngay từ đầu bài viết, ông Đỗ Văn Phúc trích lời ông Đào Duy Từ để khép tất cả các nghệ sĩ vào bốn chữ “Xướng ca vô loài”, và cho dù ở cuối bài, ông viết thêm một câu rằng “Nhưng cũng xin đừng vơ đũa cả nắm mà mắng mỏ người ta là xướng ca vô loài, tội nghiệp cho những nghệ sĩ có lòng và có tư cách”.

Nội dung trong bài viết chỉ quy trách những nghệ sĩ đã về Việt Nam trình diễn, nhưng tác giả đã không nhìn thấy rằng con số nghệ sĩ về Việt Nam trình diễn trong suốt 36 năm qua, chỉ khoảng VÀI CHỤC người, trong tổng số cả ngàn nghệ sĩ tại hải ngoại, tức là một tỷ lệ rất ít so với tỷ lệ Việt kiều về nước thăm quê hương và sĩ số người Việt trên toàn thế giới.

Điều tôi muốn nói lên ở đây là có những nghệ sĩ mà cho đến nay, tấm lòng của họ dù đã bao nhiêu lần được mời, được trả bằng những số tiền khổng lồ, nhưng vẫn từ chối về Việt Nam trình diễn. Những trường hợp điển hình như nữ danh ca Thanh Thúy, dù đã về Việt Nam nhiều lần để làm việc từ thiện, nhưng vẫn quyết tâm không bao giờ hát cho chế độ ở trong nước. Còn rất nhiều những ca sĩ khác, già có, trẻ có, thế hệ cũ có, thế hệ mới có, không bị choáng mắt bởi những số tiền khổng lồ, không vì đam mê danh vọng hão huyền, vẫn trung thành với cộng đồng người Việt tại hải ngoại, vậy thì tại sao chỉ có những lời chê bai nghệ sĩ, mà không hề có một lời vinh danh những người đó?

Trước đây dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền Việt Nam có cả một bộ Dân vận và Chiêu hồi, có cả một lực lượng nghệ sĩ hùng hậu, từ ca sĩ cho đến nhạc sĩ sáng tác, có cả một ngân khoản lớn lao để tài trợ cho các chương trình đó. Thế nhưng ra tới hải ngoại, những nghệ sĩ đấu tranh chỉ hoạt động trong cô đơn, âm thầm. Từ một Trầm Tử Thiêng với những ca khúc để đời, đến Trần Thiện Thanh với những bài hát về lính, và ngay cả mới đây là nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang, họ chỉ được vinh danh khi họ nhắm mắt lìa đời, và danh dự nhất đối với họ là phủ được lá cờ vàng ba sọc đỏ lên chiếc quan tài trước khi chôn cất. Thế nhưng khi còn sống, có ai nghĩ tới họ, và họ đã chết trong cô đơn nếu không muốn nói là có những trường hợp nghèo khó tột cùng.

Đó là chưa kể đến những tranh chấp trong cộng đồng. Một cộng đồng khi chia thành hai ba nhóm, nhóm này tranh chấp với nhóm kia, nhóm kia mời nghệ sĩ này về trình diễn thì nhóm này ngay lập tức nhao nhao lên chỉ trích, gọi nghệ sĩ đó là Việt gian, Việt cộng. Chuyện này xảy ra thường xuyên đến nỗi ngay cả những người có lòng nhất, nay cũng ngại khi phải về giúp cho một cộng đồng ở những thành phố đang có những chia rẽ trầm trọng giữa những người Việt quốc gia.

Những người còn sống, đã cả một đời viết và sáng tác nhạc tranh đấu, cũng chẳng hơn gì. Một Phan Văn Hưng ở Úc, một Nguyệt Ánh ở Hoa Thịnh Đốn, nhóm Phong Trào Hưng Ca, hay nhóm Tù Ca Xuân Điềm, có ai nghĩ đến việc yểm trợ họ không? Có ai nghĩ đến chuyện mua băng, mua video của họ không? Có cộng đồng nào nghĩ đến việc mời họ đến trình diễn và trả cachet tương xứng cho họ không? Hay chỉ là những tổ chức, những cộng đồng mời họ đến vào dịp 30 tháng 4, 19 tháng 6, trình diễn FREE miễn phí để đóng góp cho công cuộc đấu tranh của cộng đồng, rồi sau đó cũng chính cộng đồng hay tổ chức đó đã không hề nhớ đến họ khi đứng ra tổ chức đại nhạc hội Tết hay dạ vũ, và lấy tiền trả cho những ca sĩ khác với những số tiền lớn gấp ba gấp bốn để gây quỹ? Cho tới nay đã có một tổ chức nào, cộng đồng nào, hay ngay cả một nhóm nào vinh danh những nghệ sĩ đấu tranh này hay chưa? Hay chỉ vinh danh những tổ chức xã hội, từ thiện, những cá nhân khác? Ngay cả việc khuyến khích những người trẻ sáng tác và hát những nhạc phẩm tranh đấu cho dân chủ, cho nhân quyền, cho tự do, đã có ai làm hay chưa? Những câu hỏi đó thì có, nhưng không có câu trả lời.

Muốn có một cây tốt, thì phải ươm mầm tốt. Muốn có những nghệ sĩ nặng lòng với đất nước, thì phải có những chương trình khuyến khích, nâng đỡ họ. Chúng ta có những chương trình khuyến học, những trung tâm Việt ngữ để dạy cho trẻ quên tiếng Việt. Chúng ta cần thêm những người biết quý trọng những nghệ sĩ đã bỏ cả cuộc đời để dấn thân đấu tranh cho Việt Nam, cho tự do, cho dân chủ, hoặc đã dám hy sinh từ bỏ mọi quyền lợi, danh vọng, tiền bạc và trung thành với cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Mong rằng ý kiến này đóng góp thêm cho bài viết của tác giả, và cũng mong rằng cộng đồng người Việt tại hải ngoại nên nghĩ lại về thái độ của mình đối với những nghệ sĩ của chúng ta.

Viet Dzung

Tệ Trạng Ca Sĩ Hải Ngoại về Ca Hát ở Việt Nam Trách Chi Những Kẻ Chỉ Biết Lợi Nhuận - Đỗ Văn Phúc

Đỗ Văn Phúc

Ngày xưa, ông Đào Duy Từ tuy là một nhân tài lỗi lạc, nhưng vì là con của một đào hát cô đầu, nên không được đi thi để ra làm quan như các sĩ tử khác. Xã hội Việt Nam cho đến thời Cộng Hoà, vẫn coi những người hoạt động trong giới ca hát là thấp kém nhất; không có trong sự xếp loại “Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh”. Vì thế, mới có chữ “Xướng Ca Vô Loài”

Khác với xã hội Tây Phương mà nghệ thuật trình diễn đã được coi trọng từ hàng trăm năm trước, nhất là khi có quan điểm tân tiến về bình đẳng xã hội; Việt Nam ta vẫn coi nhẹ nghề ca hát, kịch trường. Một phần do ảnh hưởng phong kiến, một phần cũng do tự những giới trong nghề trình diễn phần lớn xuất thân kém cỏi và ít chịu thăng tiến về kiến thức và phẩm cách. Họ thường nổi lên do chút tài thiên phú. Có một số ít học, mà không qua các lớp đào tạo để có những kiến thức cơ bản trong nghề và các kiến thức về xã hội. Vì thế, một phần của giới này có lối sống buông thả, thiếu phẩm hạnh, thiên về lợi danh.

Theo làn sóng người di tản tị nạn Cộng Sản, các ca sĩ nhạc sĩ cũng có mặt rất sớm trên mảnh đất tự do. Sau đó, những chuyến vượt biên, đoàn tụ đã đem lại thêm rất nhiều người tài danh để đủ khả năng hình thành một sinh hoạt văn nghệ sống động tại Hoa Kỳ và các nước tự do – là món ăn tinh thần không thể thiếu được của những người Việt mới định cư, chưa hội nhập vào đời sống văn hoá hoàn toàn khác lạ của các nước sở tại.

Những năm khi còn ở trong các trại tù Cộng Sản, chúng tôi luôn luôn nuối tiếc về sự “khai tử” của nền văn hoá văn nghệ phong phú của miền Nam Tự do. Nhưng nhờ các ca, nhạc sĩ di tản, nền văn hoá, văn nghệ đã được hồi phục và phát triển mạnh. Các bản nhạc được ghi chép lại, trình diễn và phổ biến rộng rải đã trở thành niềm vui và hy vọng cho hàng triệu người Việt chúng ta không những ở hải ngoại mà cả ngay trong nước. Đó là điểm son mà chúng tôi không hề quên.

Người Việt hải ngoại đã trả công xứng đáng cho các ca, nhạc sĩ, các chương trình Thúy Nga, Asia, các đại nhạc hội tổ chức khắp nơi bằng sự tham dự đông đảo, bằng các bài báo vinh danh, quảng bá. Những tưởng rằng tấm lòng của họ sẽ chung thủy với sự cổ vũ, đùm bọc của đồng hương.

Nhưng mấy năm gần đây, làn sóng những ca (có vài nhạc sĩ) quay bước trở về Việt Nam để mua nhà, mở tiệm, ca hát càng ngày càng tăng. Thậm chí có những ca nhạc sĩ còn lếu láo tuyên bố ca tụng Cộng Sản và được Cộng Sản ban cấp bằng khen ve vuốt. Những người này không lâu trước đây còn đứng trên sân khấu Asia, Thúy Nga, mặc áo lính, hát những bài ca tụng chế độ Cộng Hoà, vinh danh người lính miền Nam; thì đùng một phát, trở mặt thấy xuất hiện trên sân khấu Sài Gòn. Có những ca sĩ trở mặt nhiều lần, từ đỏ sang vàng, kiếm được chồng sang, kiếm được chút vốn, lại trở từ vàng sang đỏ. Có kẻ sau khi về đỏ, bị lừa bịp, hất cẳng lại từ đỏ sang vàng nhanh đến chóng mặt.

Sự trở cờ, quay mặt này làm hao tốn không ít bút mực lời bàn trên các trang web, báo chí hải ngoại. Người ta lên án, chê bai thậm chí thoá mạ bằng nhiều chữ rất tàn độc. Đa phần là do các ca sĩ đã luống tuổi, giọng ca đã bể không còn hơi. Ở hải ngoại, khan giả còn chút cảm tình mà chấp nhận. Họ tưởng có thể mò về Việt Nam để được vỗ tay vì chút dư âm của dĩ vãng xa xưa. Người ta đã miệt thị những kẻ này bằng các chữ khó nghe như “con Nhện Trắng Gò Công”, “Nguyễn Cao Kỳ Cẩu”, “Trịnh Hủi” …

Người viết bài này đã hơn một lần lên tiếng đề nghị không nên mất thì giờ về những ca sĩ này. Vì xét cho cùng, họ không phản bội điều gì cả. Họ không tôn thờ lý tưởng nào mà chỉ là những người làm tiền, kiếm danh vọng. Ngoài một số ít các ca nhạc sĩ có trình độ, có ý thức chính trị như Lê Dinh, Duy Khánh, Lam Phương, Ngọc Minh … đa số không hề có chút lập trường, nhận thức chính trị nào. Họ ra đi khỏi Việt Nam là để trốn chạy một chế độ mà họ không thể sống thoải mái được như trong một xã hội tự do. Điểm này có vẻ nghịch lý, vì kinh tế cũng là một phần trong phạm trù chính trị. Nhưng trong thâm tâm họ, họ không có cái tầm nhìn như thế. Vì thế, khi có cuộc sống thoải mái ở nước ngoài, mà lại được đi về Việt Nam ca hát, thì họ tận dụng ngay cơ hội. Mục đích của họ chỉ là tiền và danh thôi.

Lỗi là tại chúng ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào họ và đánh giá họ cao hơn nhiều thực chất của họ. Đơn thuần, họ là những nghệ sĩ, chỉ biết đồng tiền và danh vọng.

Những nhạc sĩ khi viết bản nhạc do tình cảm thắm thiết với đối tượng, âm điệu nhạc sẽ có hồn, và lời nhạc sẽ thanh thoát (đó là Chiều Mưa Biên Giới, Anh Đi Chiến Dịch, Ngày Trở Về, Quê Nghèo …); trái lại thì chỉ là những nốt sol, đô, mị ráp vội vàng cho đủ một bài ca, cho đúng nhạc lý, và lời thì chắp vá, ngọng nghịu đến vô duyên.

Người ca sĩ khi hát vì sự đồng cảm với nội dung bài hát thì giọng hát tuyệt vời, thấm vào từng thớ thịt, giòng máu người nghe, làm cho họ xúc động đến rơi lệ. Ngược lại, thì chỉ là một giải trí cho qua thời gian mà không để lại một ấn tượng nào.

Trong cuốn phim “From Here to Eternity”, khi Binh Nhì Angelo Maggio (do Frank Sinatra đóng) bị tên Thượng Sĩ Phì Lũ Fatso Judson (Ernest Borgnine) bắt nhốt và đánh chết; người bạn rất thân là Binh Nhì Robert Lee Prewitt (Montgomery Cliff) đã thổi ba hồi kèn tiễn biệt lúc sáng mai với nước mắt ràn rụa. Âm vang thổn thức từ đáy con tim của người lính nghệ sĩ đã làm cho cả doanh trại đều ngồi dậy nhìn ra và cảm xúc tột cùng.

Chúng ta đang sống trong một xã hội tư bản do chúng ta lựa chọn và chấp nhận (dù chì là sự lựa chọn bắt buộc giữa hai chế độ Tư bản và Cộng sản). Chế độ Tư bản dựa trên lợi nhuận, và luật cung cầu. Khi có cầu, thì mới có cung. Hết nhu cầu về phương diện này, thì nhà sản xuất xoay qua cung cấp cho mặt khác đang có nhu cầu nổi lên. Họ làm thế vì lợi nhuận chứ không hoàn toàn vì lòng yêu thương phục vụ khách hàng. Dù rằng trên các quảng cáo, luôn luôn mở miệng nói: ”We are here for you”. Phải nói rằng “we are here for money!” mới đúng.

Các ca nhạc sĩ, các nhà sản xuất băng đĩa không là ngoại lệ. Họ phải sống trước đã. Ngay cả anh chị em cựu tù nhân chính trị cũng thế thôi. Những năm mới qua Mỹ, đi làm thuê cho các hãng xưởng, họ rất hăng hái chống cộng. Họ lên án văn hoá phẩm VC, họ chê trách những ai nghe nhạc VC, đọc báo VC. Nhưng sau khi có một số vốn bỏ ra đầu tư, những người kinh doanh về sách báo, băng nhạc, phim ảnh đã sớm chiều theo thị hiếu khách hàng mà nhập cảng những băng nhạc, DVD từ Viêt Nam với nội dung ban đầu là những bài hát cho trẻ em, rồi đến những băng hài hước rẻ tiền, và sau đó, không ngần ngại nhập luôn những băng phim truyện mà chắc chắn có ít nhiều tuyên truyền cho CS.

Câu trả lời của họ luôn luôn là: “Mình buôn bán, thì khách hỏi gì phải tìm cho có!!!”

Các vị chủ chợ, địa ốc, chuyển tiền thì khỏi nói. Làm sao mà họ không bị quyến rũ bởi mức lời hàng chục, hàng trăm ngàn đô la mỗi tháng?

Chúng ta thử nghe một đoạn của ông Nam Lộc, một MC chuyên nghiệp mà nhiều người tị nạn rất ngưỡng mộ khi trả lời phóng viên Xuân Hồng của đài BBC trong chương trình “Lá Thư Hàng Tuần” phát thanh sáng Thứ Bẩy 26 tháng 5, 2007 tại Hoa Kỳ
    Trích:
    Xuân Hồng: Xin ông Nam Lộc cho biết các chương trình ca nhạc của Trung tâm Asia thường dựa vào những yếu tố nào để thực hiện?

    Nam Lộc: Thưa anh, Asia Entertainment là một trung tâm ca nhạc và sinh hoạt nghệ thuật tư nhân phục vụ cho khán thính giả người Việt tại hải ngoại. Do đó khi thực hiện các chương trình ca nhạc, chúng tôi hoàn toàn dựa vào cảm quan cùng nhu cầu thưởng ngoạn của người tiêu thụ. Chính vì thế mà hầu hết các nhạc phẩm được sử dụng và trình bày trong mọi đĩa nhạc đều là những ca khúc được khán thình giả yêu thích hoặc yêu cầu, vì nó phản ảnh đúng tâm trạng, hoàn cảnh cùng nỗi niềm và thị hiếu của người nghe. Có thế thì khán thính giả mới mua DVD và trung tâm mới có lợi nhuận để tiếp tục thực hiện các sản phẩm mới. Ngưng trích
Vậy thì khi Cộng Đồng tỵ nạn chống Cộng tích cực thì họ làm băng nhạc, hát các bài chống Cộng. Khi Cộng Đồng chống Cộng yếu đi, và có thể kiếm tiền ở quốc nội, thì họ đi hai hàng. Khi Cộng Đồng hải ngoại không còn là con bò sữa, do những đợt di dân sau này với hàng loạt khán thính giả mới đến Hoa Kỳ càng ngày càng đông không thiết tha gì với nhạc cũ miền Nam thì họ bắt buộc phải chuyển qua loại nhạc khác mà có thể là nhạc từ Việt Nam; hay mò về Việt Nam quay phim, ca hát ca tụng Việt Cộng để kiếm tiền ở Việt Nam.

Tóm lại, một khi đã bước vào vòng doanh thương, chỉ có tiền là "mục tiêu tối hậu". Tổ quốc, đồng bào chỉ là những khái niệm xa lạ, mơ hồ. Tiền đếm được, mua được những ước muốn, áo quần, nữ trang đua đòi vì nhu cầu ăn diện của giới nghệ sĩ rất cao.

Cái lỗi là do chúng ta đã kỳ vọng vào những điều mà họ không hề có; và đánh giá họ quá cao so với tầm vóc của họ. Nhưng cũng xin đừng vơ đũa cả nắm mà mắng mỏ người ta là xướng danh vô loài, tội nghiệp cho những nghệ sĩ có lòng và có tư cách.

Đỗ Văn Phúc
Cuối Đông năm Kỷ Sửu, Jan. 2010.

CÒN NHỚ HAY QUÊN? - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Những tin tức bên nhà cho biết tiến trình mà Việt Cộng gọi là “Bầu Cử Quốc Hội Khóa 13” làm cho những người có chút liêm sỉ thấy bị tổn thương trầm trọng. Tổn thương cho giòng giống Việt Nam có những tên mặt người dạ thú như Việt Cộng, tổn thương vì cả dân tộc không ai là không biết bầu cử Quốc Hội chỉ là một trò bịp của Việt Cộng, cố nặn ra một cơ quan để trình diễn với quốc tế đó là “Quốc Hội”; mà vẫn phải cúi đầu thi hành cái trò giả dối bịp bợm đó, tổn thương vì những bậc trí thức, những kẻ dâng cả đời mình để phụng sự SỰ THẬT, SỰ SỐNG lại “hăng hái tham gia” hoặc ủng hộ những kẻ tham gia cái trò bịp bợm đó.

Tuy rằng sự bịp bợm, giả trá đời nào cũng có, nhưng ít ra là những trò phỉnh con nít, gạt những kẻ quê mùa v.v… những cái trò đó cũng bị người đời lên án hay mỉa mai. Cụ Nguyễn Khuyến, người được danh hiệu Tam Nguyên Yên Ðỗ đã viết về ông Nghè Tháng Tám:
    “Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
    Cũng gọi ông Nghè có kém ai
    ……..
    Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
    Tưởng rằng đồ thiệt hóa đồ chơi!”
Việt Cộng cũng có can đảm không thua gì những Chú Ba Tàu hàng mã, làm lồng đèn tháng Tám, cũng bắt mọi người gọi những tên tay sai của chúng là “Ðại Biểu Nhân Dân” tức Dân Biểu và mọi người cũng phải gọi đó là “dân biểu” mà thực ra những tên này là bọn “Ðảng biểu”, thực chất là đầy tớ của Ðảng Cộng Sản, hay đúng hơn phải gọi chúng là những tên hề.

Thì ra, sau hơn nửa thế kỷ ra đời, lấy giống từ Nga, Tàu, mấy chục năm cai trị đất nước, Việt Cộng vẫn còn sợ người dân, không dám để cho người dân phê phán việc làm của chúng, đánh giá “thành tích” của chúng, không dám để người dân đánh giá việc làm của chúng một cách tự do, do đó, Việt Cộng cũng như Tàu Cộng vẫn cố nắm chắc đằng chuôi. Mặt khác, dân tộc Việt Nam qua 4 ngàn năm văn hiến, đã có những thành tích lừng lẫy như đánh bại quân Mông Cổ, một quân bách chiến bách thắng từ Á sang Âu, đã đại phá quân Thanh trong mấy ngày, đã có một kho tàng văn hóa mà Khổng Tử phải nhìn nhận “Ðạo từ phương Nam đến(?)” đã có một nếp sống văn hóa dân tộc mà các nhà truyền giáo Công giáo phải công nhận là tiến bộ và rất gần với Thiên Chúa Giáo. Thế mà đến nay đành cam chịu khuất phục trước bạo lực Cộng Sản, đành chấp nhận để Việt Cộng bắt buộc đóng đi, đóng lại cái trò hề “Bầu Cử Hội Ðồng Nhân Dân các cấp”. Những lần trước có thể vì phương tiện truyền thông còn eo hẹp, có thể vì áp lực Việt Cộng còn mạnh, vì dư luận quốc tế còn lơ là, chứ lần này, có những cuộc cách mạng Hoa Lài của Trung Ðông và Phi Châu, dư luận quốc tế công nhận cái gọi là “Quốc Hội” của Việt Cộng chỉ là một tổ chức bịp, một cây kiểng, và không có một giá trị “lập pháp” nào. Có khi những tên gọi là “Ðại Biểu Nhân Dân” cũng chưa biết bốn chữ này có nghĩa gì, hoặc được “tạp huấn” đó là nhiệm vụ “thông qua tất cả những gì “Ðảng” biểu thông qua, nhất trí”. Thế mà người dân vẫn cặm cụi đi bầu, vẫn gạch 8 lấy 2 như Việt Cộng dạy, tuy vẫn biết và biết rất rõ đây chỉ là trò bịp, trò làm cho có lệ của Việt Cộng, thế mà vẫn cứ răm rắp làm, mặc cho những nhà đấu tranh cho dân chủ mạnh dạn kêu gọi tẩy chay cuộc “bầu cử”, mặc dù đã có những thông tin, truyền đơn v.v… phản đối, cuộc bầu cử vẫn được số đông đồng bào tham gia, dù tham gia miễn cưỡng. Có phải dân trí Việt Nam thế hệ này “thấp kém” hơn các thế hệ trước? Có phải vì Việt Nam hôm nay vẫn sống trong ốc đảo, bị bưng bít ba bên bốn bề? Hay một lý do gì khác mà vẫn thi hành những gì Việt Cộng muốn? Tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm chưa được dân chúng ý thức một cách thấu đáo, cộng thêm với sự hèn nhát của những nhà trí thức, những vị lãnh đạo tôn giáo chỉ thấy “cái tôi” cần phải thụ hưởng, cần phải an toàn, cần phải được ưu đãi mà quên mất cái gốc của đạo mà từ trước mình đã xin dâng hiến cả cuộc đời để phục vụ.

Bài viết này không có mục đích chê trách những tên được đảng Cộng Sản cho làm tay sai, đóng vai những tên hề, vì những kẻ này bản chất của nó là như vậy, cái bản chất đã mất đi cái chất người rồi. Chúng đã bị Việt Cộng “lai giống vật” rồi. Bài viết này nhằm một mục đích khác. Trước khi trình bày mục đích chính cũng xin nói qua về cái gọi là “Quốc Hội” như một ví dụ cụ thể để đồng hương ở hải ngoại cũng như đồng bào trong nước ôn lại sự bịp bợm của Việt Cộng nhân cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 13 của Việt Cộng.

Từ ngày có định chế “tam quyền phân lập”: hành pháp, tư pháp và lập pháp thì cơ quan lập pháp được tôn trọng bực nhứt vì nó thể hiện cái ý chí của toàn dân. Nếu cơ quan hành pháp do một vị đứng đầu điều hành đất nước một cách tổng quát, thì lập pháp với những đại diện của từng địa phương, nói lên tiếng nói trung thực và gần gũi của mỗi địa phương. Do đó, vị đại diện phải là người địa phương, được dân chúng địa phương, gọi là đơn vị bầu lên, đại diện cho địa phương đó, nói lên ý muốn, đường hướng của dân chúng địa phương, Tất cả gộp lại cùng trong một “Nhà” gọi là quốc hội, vấn đề gì được đa số chấp thuận coi như đó là ý muốn của dân chúng cả nước. Dĩ nhiên, nguyên tắc dân chủ là thiểu số phục tùng đa số. Ða số đã chọn vị đại diện, đa số đại diện thể hiện nguyện vọng, ước muốn hay lợi ích của cả toàn dân. Bản chất của Quốc Hội là đại diện trung thực của toàn dân nên phải được tự do ứng cử với những điều kiện về tư cách, trưởng thành và kiến thức, nhất là sẽ là kẻ xứng đáng và trung thành với ý muốn của cử tri. Nếu muốn có một đại biểu trung thực đại diện cho dân một cách đứng đắn, dân chúng hay cử tri phải được tự do bầu cử, muốn bầu cho ai tùy ý họ. Trình bày như thế chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót, nhưng nếu Việt Cộng thực hiện được những điều còn thiếu sót trên đây, chắc chắn đã là một chính thể của dân, thể hiện ý chí của dân.

Hồi Việt Cộng mới vào Saigon, cán bộ của chúng thường khoe khoang chế độ Cộng Sản là không ai bóc lột ai, không ai cai trị ai, mà thay phiên nhau mỗi người làm một thời gian, kể cả chủ tịch nước. Ðúng là thằng mù dẫn dắt thằng sáng mắt. Chúng tôi trong tư cách “dân ngụy” miền Nam, ngồi nghe chúng giảng mà nín cười không được, để rồi sau đó thấy nhục nhã, cái trình độ có thể nó là “trâu bò” như vậy mà cai trị dân chúng thì không có cái nhục nào bằng. Sau này, khi Việt Cộng cho “bầu cử Hội Ðồng Nhân Dân các cấp” quốc hội, Hội đồng Tỉnh và Hội đồng xã, chúng tôi mới thấy không phải thay phiên như bọn trong rừng rú mới ra khoe mẽ, mà cũng không phải “có một chút gì dân chủ” như chế độ Việt Nam Cọng Hòa. Trái lại, nghe những lời giải thích về bầu cử, về quốc hội v.v… khiến người miền Nam muốn nôn mửa. Không có chuyện tự mình ra ứng cử, mà phải do một cơ quan của Việt Cộng gọi là “Mặt Trận Tổ Quốc” giới thiệu tức là tuyển chọn. Cái quyền ứng cử đã bị ăn cướp. Thế nhưng trên lý thuyết, trên “hiến pháp” vẫn có khoản cho rằng người dân được tự do bầu cử và tự do ứng cử! Cái mặt bịp bợm của Việt Cộng đã được chúng tự phơi bày ra. Ðã do đảng Cộng Sản giới thiệu, nhưng Việt Cộng cũng chưa vừa ý, vẫn còn run sợ, sợ rằng dân chúng sẽ lựa trong cái đám được đảng Cộng Sản đưa ra, có kẻ “ít xấu nhất” mà bầu cho nó, do đó, Việt Cộng phải dạy cho dân biết phải “gạch 8 lấy 2”, gạch 9 lấy 1 v.v…, trong danh sách được đưa ra. Nhưng còn một sự chọn lọc phút chót. Ban bầu cử chọn ai mới được thắng, dù trong số được VC chỉ thị cho dân phải bầu, nhưng Ban Bầu cử vẫn có quyền, đảng vẫn giữ quyền quyết định. Khi tôi giải thích cho đứa cháu ngoại đang học đại học Hoa Kỳ “thể thức bầu cử” của VC như vậy. Nó hỏi tại sao mấy ông Việt Cộng không tự chọn mỗi địa phương một hoặc 2 người rồi đưa vào quốc hội có giản tiện và ít tốn kém không? Ðã không làm như “người ta” thì bày cái quốc hội như vậy làm gì? Nó không tin tôi, vì tôi đã trình bày cho nó nghe một quái thai chứ không phải một cái được gọi là quốc hội của Việt Cộng. “Thà ngoại nói 5 cộng với 5 là … 7 hay 12 còn có lý hơn là cái mà ngoại gọi là quốc hội Việt Cộng với cách thức ứng cử và bầu cử như vậy. Không ai có thể tin đưọc.” Những người trẻ sinh ra và trưởng thành ở hải ngoại không thể tin được, vì họ căn cứ vào hiến pháp năm 1992 của VC thì điều 2 (trích): Ðiều 2: Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Nhà Nước của Nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.” Ðiều 83: cùng hiến pháp lại đề cao Quốc Hội là cơ quan quyền lực nhất nước, lại được bầu theo kiểu “Ðảng cử dân bầu”. Ðiều quan trọng khác là quốc hội chỉ là một cơ quan bù nhìn, làm cảnh. Hơn 80 triệu dân trong nước cũng không tin đó là Quốc Hội với thể thức bầu cử và ứng cử chửi cha 2 chữ dân chủ. Nhưng cả nước phải làm như vậy và phải gọi đó là quốc hội.

Các tôn giáo khác thì chúng tôi không có tin tức, riêng với Phật Giáo thì Phật Giáo thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có bao nhiêu tăng ni đều bị VC xếp vào loại phản động, đàn áp, sách nhiễu, còn đối với Phật Giáo Quốc Doanh cũng không biết có bao nhiêu tăng ni. Riêng Công giáo thì có đến hơn 30 giám mục, dưới quyền mỗi giám mục có hàng trăm linh mục, tu sĩ nam nữ. Thế mà có đến 103 người vừa tu sĩ nam nữ, vừa linh mục tham gia vào cái quái thai “Quốc Hội” hay quái thai “Hội Ðồng Nhân Dân”.

Nhục nhã thay! Những kẻ gọi là được các giám mục “chấp thuận” cho ra ứng cử đại diện cho cho Công Giáo lại là những kẻ không ra gì, mất tư cách người Công giáo, như ông Phan Khắc Từ, một vợ chính thức và 2 con sinh sống một cách công khai mà được Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn chấp nhận cho ra ứng cử (theo lời của ông Phan Khắc Từ) thử hỏi vị “đại diện” đã như vậy, những linh mục được (bị) đại diện ra thế nào? Chẳng lẽ tất cả đều có vợ con hay bồ bịch như vị đại diện? Chẳng lẽ chủ trương của Hồng Y Phạm Minh Mẫn là khuyến khích các linh mục thuộc quyền phải có vợ con hay bồ bịch theo “gương tốt” của ông Phan Khắc Từ? Phải bất chấp luật buộc độc thân mới là linh mục thuộc Tòa Thánh La Mã? Giáo dân Công Giáo khắp nơi và Tổng Giáo Phận Saigon đòi hỏi Hồng Y Phạm Minh Mẫn giải thích sự kiện PHẢN GIÁO HỘI HOÀN VŨ này.

Khi linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý hô hào “Tự Do tôn giáo hay là chết” và ngài đứng lên đấu tranh bất bạo động với Việt Cộng để có tự do tôn giáo, Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể đã cho rằng ngài không can thiệp được cho linh mục Nguyễn văn Lý vì “cha Lý làm chính trị”! Bây giờ, chính Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể cho phép và ủng hộ các linh mục dưới quyền ra tham gia trò hề bầu cử, quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp của Việt Cộng, Tổng Giám Mục Thể trả lời ra sao với linh mục Nguyễn Văn Lý? Linh mục Nguyễn Văn Lý “làm chính trị” hay Giám Mục Tổng Thể và các linh mục, tu sĩ nam nữ dưới quyền làm chính trị?

Một giám mục gốc Việt ở hải ngoại vào thời điểm đó cũng kết án linh mục Nguyễn Văn Lý làm chính trị, nhưng bây giờ, trước 103 người vừa linh mục, tu sĩ tham gia các chức vụ của bạo quyền Việt Cộng thì Ngài ngó lơ, nhìn đi chỗ khác. Tại sao vậy?

Ðưa ra những vấn nạn này có phải chúng tôi là kẻ “chống cha chống Chúa”? Hay những ai phản bội CHÂN LÝ, công lý, đi ngược lại Giáo Luật là "CHỐNG CHÚA"? Chúng tôi nói lên SỰ THẬT vì SỰ THẬT là Ðức Giê Su Kitô, Nếu chúng tôi nói sai sự thật, xin chỉ cho chúng tôi biết chúng tôi nói sai ở chỗ nào, câu nào sự kiện nào.

Chúng tôi viết ra những điều này, chính bản thân chúng tôi cũng rất đau lòng, nhưng Ðức Giê Su Kitô còn đau lòng gấp triệu lần chúng tôi, vì các vị giám mục của ngài đã phản bội sự thật, đã khuyến khích lừa bịp và đi ngược lại giáo lý của Ðức Kitô. Hành động của các ngài cũng là hành động có hại cho dân tộc Việt Nam.

Ai cũng biết bầu cử Quốc Hội và Hội Ðồng Nhân Dân các cấp của Việt Cộng là lừa bịp, cái được Việt Cộng gọi là quốc hội chỉ làm cây kiểng, bù nhìn cho đảng Cộng Sản. Hầu hết dân chúng đã biết, đã hiểu như thế, nhưng những nhà trí thức, những bậc lãnh đạo tôn giáo càng hiểu rõ hơn. Câu hỏi đặt ra là tại sao các ngài đã có hành động binh vực sự bịp bợm của Việt Cộng?

Các giới lãnh đạo tôn giáo, các bậc trí thức, tất cả mọi người dân Việt Nam nếu đã biết trò bịp bợm của Cộng Sản thì hãy mau mau đứng lên, không thể để cho Việt Cộng chà đạp SỰ THẬT mãi được. Không có tôn giáo nào ngăn cấm nói lên sự thật, rao giảng sự thật, nhất là đối với Công Giáo khi 2 ngàn năm trước Ðức Giê Su Kitô đã nói TA LÀ ÐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG” Các giám mục Việt Nam còn nhớ hay đã quên? Dân Việt Nam còn nhớ hay đã quên?

Lê Văn Ấn

Đói nghèo làm giảm sự tự tin, bia rượu làm tăng sự ngu đần - Lê Nguyên Hồng



Lê Nguyên Hồng

Việt nam đã và sẽ tiếp tục là một nước nghèo trên thế giới. Nhà nước thì đặt ra “định mức” nghèo là người có thu nhập khoảng 400 ngàn đồng VN/người/tháng – Đối với khu vực nông thôn – Và 500 ngàn đồng VN/người/tháng – Đối với khu vực thành thị. “Chuẩn” nghèo nói trên nó chẳng giống ai vì người ta không biết dựa vào các chỉ số lao động và tiêu dùng nào, và sự khảo sát nào mà nhà nước Việt Nam hiện nay lại đẻ ra được cái gọi là chuẩn ấy?

Thôi thì cứ cho đó là “chuẩn” thật, thì theo với các số liệu có thể rất chủ quan cũng của nhà nước đưa ra, hiện nay cả nước có 3,1 triệu hộ nghèo, chiếm 14,42% và 1,65 triệu hộ cận nghèo, tỷ lệ 7,69%. Các tỉnh có hộ nghèo nhiều nhất là Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%).

Trong tháng 05/2011, tuy đến hôm nay chưa tròn tháng, nhưng chỉ số lạm phát tháng 5 của Việt nam đã tăng lên 2,21% và làm cho mức lạm phát so với tháng 5 năm 2010 lên đến mức gần 20%. Bị nhà nước thắt chặt tiền tệ, nguồn vốn nhàn rỗi khó tìm, cho nên các ngân hàng đã đẩy lãi suất tín dụng tiết kiệm cao quá trần của ngân hàng quốc gia là 14% mà hiện nay đã lên tới 18%-19%. Vì vậy lãi suất cho vay bị đẩy lên đến 28%-29% là một mức lãi suất “ăn cướp” của doanh nghiệp. Nguy cơ phá sản của hàng loạt danh nghiệp nội địa là điều khó tránh khỏi.

Chưa bao giờ người dân nghèo lại càng bị xoáy sâu vào sự nghèo đói như lúc này. Bóng ma lạm phát đã gõ cửa từng mái nhà tranh của những người nông dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, những người lao động tự do và công chức “ba cọc ba đồng” nơi thành thị. Chưa bao giờ người ta lại lo lắng cho cái dạ dày lép kẹp của mình như lúc này.

Về tâm lý, khi đói người ta chỉ nghĩ đến việc ăn, khi khát người ta chỉ nghĩ đến việc uống. Các công việc khác tạm được quên, kể cả tình yêu là thứ ma lực cuốn hút con người mãnh liệt cũng sẽ phải nhường chỗ cho “con ma đói, ma khát”. Khi đói người ta thường hay nghĩ quẩn, nghĩ ngắn, không thể nhín xa trông rộng. Bởi vậy những phạm trù như văn hóa, khoa học, ý thức công dân vv.., sẽ mất đi. Con người trở nên đớn hèn, và mất đi sự tự tin, sự khôn ngoan sáng suốt.

Thời điểm này, nếu đối với một số người nghèo, có ai đó tìm giúp họ việc làm ra tiền ngay, dù phải vất vả nguy hiểm họ vẫn dám làm, vì mục đích của họ là cái ăn trước đã. Thậm chí, đối với những người lâm vào thế bí, có thể họ sẽ nghĩ quẩn đến việc đi ăn trộm ăn cướp để thỏa mãn cái dạ dày. Ta thử nghĩ xem, nếu bây giờ mà đem các kỹ chiến thuật đấu tranh bất bạo động đến với dân nghèo, rồi bảo họ xuống đường mà đi biểu tình chống Độc tài Cộng Sản thì rất khó. Thà bảo họ xông vào đâu đó mà đoạt lấy áo cơm, có khi lại dễ hơn. Chính vì yếu tố tâm lý ấy, lịch sử đã tạo nên nhiều cuộc cách mạng thành công nhờ khẩu hiệu: “Cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Như vậy đói nghèo vừa làm mất sự tự tin, nhưng ngược lại nó lại kích thích sự hung hãn bản năng của con người.

Có vẻ như bia rượu không liên quan gì đến đói nghèo. Nhưng không phải vậy! Một mặt nào đó bia rượu là thứ đốt tiền bền bỉ, vì uống là phải đi đôi với ăn thì mới thành cuộc nhậu: “Một tiền gà thì ba tiền thóc” là như vậy. Không những thế, bia rượu còn là thủ phạm hủy hoại nhân cách và tàn phá sức khỏe con người. Và khi những đồng tiền mồ hôi xương máu bị đem ra đốt vào những cuộc nhậu, mua lấy sự hao mòn sức lao động do mất sức trong ngộ độc rượu bia (say rượu bia là tình trạng ngộ độc thần kinh) làm mất sự tái sản xuất. Đối với tầng lớp giàu có họ ăn uống với phong cách khác cho nên sức khỏe ít bị ảnh hưởng, đồng thời tiền bạc có tốn kém chút đỉnh với họ cũng chẳng hề hấn gì. Nhưng đối với anh dân nghèo, nạn rượu bia, chè chén chính là một trong những nguyên nhân lãng phí và tác động trực tiếp vào sự nghèo đói. Chưa kể đến những hệ lụy như mất kiểm sóat về hành vi, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc trong ứng xử và gây tai nạn giao thông.

Theo thống kê của nhà nước, chỉ riêng các loại bia thương hiệu Sài Gòn, năm 2010 đã sản xuất và tiêu thụ hết 1,088 tỷ lít, năm nay dự kiến sẽ đạt 1,3 tỷ lít. Riêng loại bia Heineken thôi, thị trường Việt Nam đã được xếp thứ ba trên tổng số 170 thị trường của loại bia này trên khắp thế giới, chỉ xếp sau Mỹ và Pháp. Như vậy là một nước nghèo khó như Việt Nam đã “sánh vai với các cường quốc năm châu” đúng như lời ông Hồ Chí Minh đã mơ ước. Nhưng chỉ là việc “sánh vai” với các nước giàu về cái sự uống bia! Đấy là chưa kể đến hàng tỷ lít rượu lậu tiêu thụ hàng năm, được chưng cất bằng men lá và công nghệ dân dã của Trung Quốc, hoặc pha cồn công nghiệp trực tiếp vào nước lã để “điều chế” thành đồ uống, kế đến mới là các loại rượu đóng chai “quốc doanh” mà đôi khi các đệ tử lưu linh gọi là “quốc lủi”. Ở các nước phát triển, bia rượu thường được uống rải rác theo lối thư giãn, có văn hóa hẳn hoi, phong cách không phải là "nốc" bia rượu trong cuộc nhậu như ở Việt Nam. Đồng thời lượng cồn và các chất độc hại trong đồ uống này cũng được kiểm định chặt chẽ. Nhưng ở Việt Nam, chuyện kiểm định chất độc hại trong bia rượu có lẽ chỉ có ở khu vực quốc doanh và doanh nghiệp lớn, nhưng mức độ tin cậy thì cũng còn phải xem lại, còn khu vực tư nhân nhỏ lẻ trôi nổi thì 100% là không có kiểm soát.

Khi đã say, người ta luôn cảm thấy mình đúng, mình chuẩn xác. Các quyết định trong lúc nhậu nhẹt thường rất chóng vánh vì mất kiểm soát. Một khi con người hành động trong lúc không còn tỉnh táo thì chắc chắn là sai nhiều hơn đúng. Sau khi tỉnh rượu bia, tinh thần và thể xác hoàn toàn mệt mỏi, con người trở nên lười suy nghĩ, ngại lao động, họ trở nên bị thiểu năng trong tình trạng ít nhiều của sự ngu đần. Ngày trước người ta cho rằng thực dân Pháp dùng rượu cồn để đầu độc dân chúng, làm công cụ ngu dân, thì ngày nay bọn thực dân “nội địa” lại buông thả cho nạn bia rượu thả sức hoành hành. Không hiểu đây có phải là một kiểu ngu dân để dễ cai trị hay không?

Dự kiến trong những tháng tới của năm 2011, xã hội Việt Nam sẽ đại loạn. Thứ nhất vì nạn đói nghèo do lạm phát, giá cả “đại nhảy vọt” cho nên tệ nạn xã hội sẽ tăng theo, do dân chúng không tìm được lối thoát. Sự phân hóa chóng mặt của hai tầng lớp giàu và nghèo sẽ dẫn đến những thù địch giai cấp không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó những bất công và bất minh trong quản lý hành chính của bộ máy công quyền sẽ làm tăng tư tưởng đối đầu giữa dân chúng và chính quyền. Các vụ chống người thi hành công vụ, tấn công cảnh sát, kiểm lâm, thuế vụ, quản lý thị trường sẽ gia tăng.

Chúng ta cùng chờ xem những diễn biến đó sẽ xảy ra như thế nào?


Lê Nguyên Hồng

From Boat Person To Catholic Bishop

May 20, 2011

The Congregation for Bishops and the Archdiocese of Melbourne have announced the appointment of Fr. VINCENT VAN LONG NGUYEN the present Assistant General for FAAMC
Auxiliary Bishop for the Archdiocese of Melbourne, Australia.

Friar Vincent was born in Gia Kiem, Vietnam, on December 3, 1961, and made temporary profession on December 8, 1984. He made Solemn Vows on January 14, 1989, and was ordained to the Priesthood on December 30, 1989. Fra Vincent served as a Pastor for many years, and was the General Custos of Australia from October 2005 until his election as Assistant General of the FAAMC Federation on September 21, 2010.

The Episcopal Ordination is scheduled for Thursday, June 23, 2011in the Cathedral of Melbourne, Australia.

In the name of the Minister General, his Definitory, and all the Friars of the Order, best wishes and the promise of a fraternal accompaniment in prayer.

Friar Vincent Marcoli
Secretary General

A Vietnamese refugee who came to Australia in a refugee boat has been appointed a Catholic Bishop in the Archdiocese of Melbourne. Bishop Vincent Long Van Nguyen was 18 years old when he, and his family, fled communism in 1980.

The Apostolic Nunciature in Australia advised Archbishop Denis Hart that Pope Benedict XVI has appointed Fr Vincent Long Van Nguyen OFM Conv as Auxiliary Bishop in the Archdiocese of Melbourne.

Welcoming the appointment, Archbishop Denis Hart said today: "The appointment of Bishop Vincent as auxiliary in Melbourne is a historic one. He escaped from Vietnam by boat as a young man, came to Melbourne, joined the Conventual Franciscans, and has already given distinguished service as a pastor in Springvale, as a leader in his order and has made a generous and gifted contribution to the Church.”

“We welcome him warmly as he returns from Rome, and look forward to his ordination as Titular bishop of Tula in St Patrick's Cathedral on Thursday 23 June at 7.30pm. He is in our prayers at this important moment."

After the fall of Saigon, three brothers settled in Holland, a sister is still in Vietnam and his parents and a brother and a sister are in Melbourne.

In 1983, Bishop Nguyen became a Conventual Franciscan friar and studied for the priesthood in Melbourne.

After his priestly ordination on 30 December 1989, he was sent to Rome for further studies and was awarded a licentiate in Christology and Spirituality from the Pontifical Faculty of St Bonaventure.

He served as a parish priest for 4 years in Kellyville NSW and for 7 years in Springvale.

He was elected superior of the Order of Friars Minor Conventuals in Australia in 2005.

Since 2008, he has been in Rome serving as Assistant General, responsible for the Asia-Oceania section of order.

The Bishop returns to Melbourne from Rome at the end of May.
__________

Vatican: Hôm 20/05/2011, Đức Giáo Hoàng Benoît (Biển Đức) XVI đã bổ nhiệm một Linh Mục Việt Nam đầu tiên làm Giám Mục tại Úc, đó là Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, Tổng cố vấn dòng Phanxicô Viện Tu, được thăng GM hiệu toà Tala và làm Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne.

Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long năm nay 50 tuổi, sinh ngày 03/12/1961 tại Gia Kiệm, tỉnh Đồng Nai, rời Việt Nam ngày 11/08/1980, đến tỵ nạn tại Úc ngày 02/12/1981, và gia nhập dòng Phanxicô Viện Tu năm 1983. Thầy khấn đơn ngày 08/12/1984 và khấn trọng ngày 14/01/1989. Thầy Long đậu cử nhân thần học (STB) tại thần học viện ở Melbourne và thụ phong linh mục ngày 30/12 cùng năm 1989.

Sau đó cha Vinh Sơn Long làm phó xứ tại Springvale (1990-1992) rồi sang Roma du học từ năm 1992, đậu Cao Học thần học (STL) tu đức và Kitô học năm 1994 tại Học viện Seraphicum của dòng Phanxicô Viện Tu. Trở về Úc, cha Vinh Sơn Long được bổ làm Giám đốc các thỉnh sinh của dòng tại Úc (1994-1998). Ngoài ra cha làm Đại diện Bề trên miền trong 10 năm trời (Custodial Vicar, 1995-2005), đồng thời cũng đảm nhận các công tác mục vụ như cha sở ở Kellyville thuộc giáo phận Parramatta (1999-2002); Cha sở ở Springvale thuộc tổng giáo phận Melbourne 2002-2008), Bề trên giám tỉnh và thành phần ban lãnh đạo quốc tế (International Leadership Team OFM Conv) từ năm 2005 đến 2008.

Từ ngày 22/04/2008, Cha Nguyễn Văn Long là Tổng cố vấn của dòng đặc trách vùng Á châu Thái Bình Dương (FAAMC).

Theo Niên Giám 2011 của Toà Thánh, tổng giáo phận Melbourne hiện do Đức TGM Denis James Hart, 70 tuổi, coi sóc và có 1.085.000 tín hữu Công Giáo trên tổng số 3,844 triệu dân cư, với 229 giáo xứ, 3 GM phụ tá, 561 linh mục triều và dòng, 1232 nữ tu (SD)