Friday, February 26, 2010

34 Năm Sau và Họ Là Ai ? - Lão Gà Tre



Lão Gà Tre

Ba mươi bốn năm (34) so với chiều dài lịch sử của một triều đại thời xưa thì ngắn, nhưng với một đời người thì dài lắm, nhất là đối với những ai quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh khổ đau của dân tộc Việt Nam thì nó lại càng dài hơn.

Ba mươi bốn năm trôi qua quả thật như một giấc mơ hãi hùng! Máu, nước mắt, khổ lụy, nghiệt ngã vẫn còn đây! Những cuộc vượt thoát vô tiền khoáng hậu của người Việt trốn chạy cộng sản – mà cả thế giới đều biết – vẫn còn ghi đậm trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với người Việt tị nạn, làm sao có thể quên được những ngày tháng hãi hùng ấy. Có lẽ nó sẽ nằm sâu, nằm mãi trong tiềm thức của mỗi chúng ta.

Ba mươi bốn năm rồi mà người đi vẫn đi, không còn đi được bằng cách vượt biển, vượt biên thì cũng tìm cơ hội khác để đi: ODP (đoàn tụ), lấy vợ, lấy chồng, du học, chạy chọt làm sao để rời xa cái gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa” . Chính ngay những người theo cộng sản cả đời, những người được hưởng ơn mưa móc như núi, nhưng nếu có cơ hội ra đi là họ đi ngay để trốn khỏi cái “thiên đường” quái đản ấy.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách hùng hồn rằng con người không thể sống dưới chế độ cộng sản. Khổ thay, Việt Nam là một trong bốn nước cộng sản còn lại mà loay hoay mãi vẫn không thể nào thoát khỏi cái thiên đường mù đầy oan nghiệt ấy! Nếu miền Nam Việt Nam không bị bán đứng vào tay cộng sản vào 1975, thì chắc chắn, sau sự sụp đổ của khối cộng sản Ðông Âu và Nga Sô, toàn cõi Việt Nam bây giờ đã là một xứ tự do, giàu mạnh như bao nhiêu quốc gia văn minh khác. Ít ra cũng bằng Nam Hàn với nền văn minh nhân bản như ngày nay..

Khỏi cần phải tố cáo hay chê bai chế độ; khỏi cần luận tội tập đoàn cộng sản lãnh đạo đất nước đã tàn phá quê hương như thế nào sau 34 năm thống nhất hai miền Nam-Bắc; khỏi cần so sánh với các nước láng giềng và các quốc gia khác trên thế giới – cũng bằng ấy thời gian đã vươn lên như đi hia bảy dặm – mà cứ nhìn vào xã hội tan nát, luân thường đạo lý tiêu tan, thị trường cung cầu quái dị, con người chạy theo vật chất một cách điên cuồng là biết ngay.

Khỏi cần phải nghe những luận điệu vì cảm tính của một số người về thăm quê hương rồi trở lại hồ hởi ca ngợi: “Ðất nước ngày nay khá rồi, thôn quê đã có điện nước, người dân có quyền đi lại và có quyền chửi luôn cán bộ cộng sản”. Thế sao? Chỉ có ba bóng đèn thắp sáng trong vài túp lều thô sơ, nghèo khổ, lạc hậu; chỉ có vài người vụt miệng chửi đổng cán bộ là đã có tự do, là đất nước khá rồi hay sao? Trong khi đó đa số các quốc gia tự do trên thế giới đã và đang tiến vào một đời sống sung túc và văn minh nhất của con người lại không đem ra so sánh!

Ðúng! Việt Nam đã có tự do, nhưng đó là thứ tự do của giai cấp cai trị được “tự do” ăn trên ngồi trước, “tự do” trấn lột quần chúng để thụ hưởng những xa hoa, phù phiếm trên nỗi thống khổ của toàn dân, vốn đã quá khổ trong một thế kỷ qua vì chiến tranh bom đạn. Phải, Tự là “tự” họ quyết định sự sống của người khác bằng họng súng và Do là “do” họ tạo nên những thủ đoạn đê hèn để áp đảo người dân, tước đoạt mọi thứ quyền tự do căn bản của con người.

Ðúng! Có tiến bộ, nhưng là thứ tiến bộ lừa đảo, mưu mô xảo quyệt cướp giựt để đàn áp mọi sự chống đối của người dân – khao khát hít thở không khí tự do – đã và đang đứng lên đòi tự do tôn giáo, tự do được sống làm người.

Nói tới chính trị là phải chứng minh bằng dữ kiện, bằng đường lối cai trị của một chế độ đang điều hành guồng máy quốc gia. Chế độ ấy như thế nào thì chúng ta đã thừa biết, khỏi cần nhắc lại làm gì cho tốn giấy tốn mực. Nếu họ thật tâm lo lắng cho quyền lợi của quê hương đất nước, cho người dân được hưởng những quyền tối thiểu của con người thì 34 năm qua đất nước đã khá lên rồi. Nếu họ có thật tâm xây dựng đất nước thì tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi, phải tiếp tục ra đi cho đến ngày nay, và phải chấp nhận sống chết trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do? Vì thế, những luận điệu nông cạn thiếu suy nghĩ ấy chỉ là mớ lý luận có lợi cho cục tuyên vận của CSVN.

Vậy, họ là ai?

Họ là những thành phần ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, miễn sao có một đời sống sung túc trên xứ người là đã thỏa mãn. Còn quê nhà, bà con làng xóm có sống như thời kỳ “đồ đá” thì cũng mặc. Miễn sao lâu lâu ta về thăm cái xứ lạc hậu ấy để thí cho một vài đồng đô, vừa được tiếng, vừa được những người thọ ơn ca tụng cho thỏa cái tự ái vị kỷ của mình.

Họ là ai?

Họ là thành phần cán bộ được cộng sản cấy theo đoàn người tỵ nạn, nằm vùng khắp mọi nơi, đóng vai quốc gia trá hình, chờ cơ hội là bò dậy tấn công vào hàng ngũ người Việt Quốc Gia, vốn đã chia rẽ trầm trọng do bản chất vị kỷ, phi chính trị của những người sinh hoạt ngoài công cộng.

Họ có mặt sinh hoạt nội gian, nội gián trong mọi tổ chức, đảng phái chính trị. Mục tiêu chính của họ là phá nát các tổ chức chính trị chống cộng, bày mưu, chước kế đâm bên này, thọc bên kia, gây mâu thuẫn nội bộ, tung những nguồn tin giật gân ra ngoài làm cho quần chúng mất niềm tin. Mục tiêu của họ chỉ có thế thôi. Khi đã thành công vì phá được các tổ chức chính trị đi đến tình trạng gần như bị tê liệt thì họ đi đâu và làm gì? Dĩ nhiên là họ đã lặn thật kỹ, viện cớ chán ngán thế sự, lui về ngồi rung đùi đếm tiền và hưởng nhàn, ôm theo một đống tiền, gọi là công tác phí trọn đời.

Họ là ai?

Thà rằng tỏ rõ thái độ đầu hàng như một ông tướng, ông nhạc sĩ “nhớn” đã quay về với đảng và nhà nước, ăn năn sám hối để được hưởng “lộc” cuối đời. Dù xú danh muôn thuở, người đời nguyền rủa, nhưng ít ra họ đã biểu lộ thái độ chính trị dứt khoát theo cộng để người ta phân biệt lằn ranh biên giới rõ ràng giữa họ và chúng ta. Còn hơn những tên nằm vùng sống với nhiều mặt nạ khác nhau để quậy phá các tổ chức chính trị, hội đoàn, cộng đồng; thậm chí trong giới cầm bút cũng không thiếu những tên tự xưng là người cầm bút, nhưng bất xứng, lại háo danh, hám lợi. Chính họ là một thứ bồi bút không hơn không kém, viết lách theo đơn đặt hàng, núp bóng trong tổ chức Văn Bút, để “cố đấm ăn xôi” một cách quyết liệt với mục đích xé nát tổ chức nhằm xóa bỏ dấu tích còn lại của người Việt quốc gia trên diễn đàn quốc tế. Họ cố đấm dù không ăn được xôi đến độ một cách phi lý, phi văn hóa mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng phải nghi ngờ chắc chắn đàng sau họ phải có một sức đẩy nào đó. Họ chính là “những kẻ vô lại may mắn” như nhà văn Phạm Ngũ Yên đã đặt tên trong một loạt bài tố cáo đích danh những tên vô lại này trước công luận vào năm 2008.

Họ là ai?

Họ cũng là những người vượt biển vượt biên ra đi tìm tự do, nhưng sống “với vật chất và vì vật chất” nên theo thời gian, thời thế thế thời phải thế. Họ đã quay lưng, cúi đầu phục vụ trực tiếp, hay gián tiếp cho cục tuyên vận CSVN, sẵn sàng đâm vào vết thương lòng của tập thể người Việt tỵ nạn để kiếm lợi.

Họ là ai?

Họ là những nhà “làm chính trị” theo kiểu lập dị, với mớ lý luận thiên tả, ưa bềnh bồng, không định hướng như con thuyền không bến. Họ sống bên này với thế giới tự do văn minh, phủ phê vật chất nhưng luôn luôn mơ mộng ở một “thiên đường” khác: thiên đường của hoang tưởng, thiên đường của không tưởng. Nhưng nếu họ được sống thực trong cái “thiên đường” ấy, chắc chắn là họ phải lên cơn điên và trở thành người điên sớm nhất. Tiếc thay, khi va chạm với thực tế trong cái xã hội tha hóa ấy thì hối hận cũng đã muộn màng!

Họ là ai?

Họ là thành phần làm chính trị theo kiểu salon, thích đọc diễn văn “xa đấm, gần đâm”. Nghĩa là ở xa thì hô hào “Ðấm” đá, nhưng ở gần thì “Ðâm” đầu bỏ chạy. Họ cứ tưởng sẽ hòa hợp được với cộng sản bằng một mớ kiến thức về kỹ thuật mà họ học được từ hải ngoại. Về nước họ sẽ được trọng dụng và đảng cộng sản sẽ nghe theo họ. Ðúng là hoang tưởng!

Họ là ai?

Họ là những thương gia, với quan niệm “chỉ làm thương mại, không làm chính trị”. Giấc mơ của họ là giấc mơ của những “đại gia” thời mới, đượỳc nhà nước ca tụng và tâng bốc trên tận mây xanh. Trước khi đặt vấn đề đầu tiên là “tiền đâu”; dĩ nhiên là họ phải chạy theo giai cấp thống trị, làm theo lệnh của bạo quyền để kiếm lợi. Vì vậy, với thành phần chỉ biết mua bán để kiếm lợi thì trách họ làm gì cho bận tâm. Với họ. quê hương dân tộc không bằng một quả chanh, khi vắt hết nước là liệng vỏ ngay. Gần đây, nhiều “đại gia” đổ tiền về làm ăn vì được đảng nâng bi ca tụng hết mình, nhưng chỉ một thời gian sau thì những đại gia này đều bị trấn lột sạch sành sanh ... kêu Trời không thấu! Cái giá “không làm chính trị, chỉ biết làm ăn” họ đã phải trả một cách cay đắng.

Lời kết:

May thay, dân tộc Việt trường tồn qua mấy ngàn năm nay cũng nhờ vào hồn thiêng tổ tiên phù trợ, nên thành phần “Họ Là Ai” nói trên chỉ là thiểu số ung nhọt, sâu mọt trong đại gia đình dân tộc Việt mà thời nào cũng có trong lịch sử. Còn đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do thật sự từ năm 1975 đến nay, vẫn một lòng, một chí hướng, đó là giải thể chế độ cộng sản để đưa đất nước tiến lên trong tự do dân chủ. Ngày nào còn bóng dáng cộng sản là còn đấu tranh đòi quyền sống cho đồng bào ruột thịt đang chịu đựng trăm đắng ngàn cay ở quê nhà.

Ba mươi bốn năm rồi, mặc dù những hiện tượng chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta đã xảy ra vì địch và vì chính chúng ta tạo nên cũng có, nhưng những chiến sĩ can trường đã và đang âm thầm hay công khai đấu đầu với CSVN ở khắp mọi nơi vẫn kiên trì, bất khuất, vẫn một lòng với đại cuộc đấu tranh chống cộng. Ở quốc nội, các vị chân tu của các tôn giáo, các nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn không sờn lòng đứng lên đòi quyền sống, quyền hành đạo, quyền được phát biểu tư tưởng, mặc dù bị bắt bớ giam cầm dã man trong suốt 34 năm qua. Ở hải ngoại, vẫn những chiến sĩ xung trận ngăn chặn mọi sự xâm nhập của CSVN trên mọi chiến tuyến. Xin cầu chúc “chân cứng đá mềm” tới những tấm lòng bất khuất mà thời nào họ cũng đứng lên trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt.

Là những người may mắn thoát khỏi nanh vuốt của tập đoàn cộng sản, chúng ta không thể nào ngồi yên để hưởng thụ, mà đã đến lúc phải góp sức vào công cuộc chung, tiếp tay với những anh hùng đang xả thân vì nước bằng cách vận động, góp tinh thần – dù chỉ là lời nói – cho quý vị lãnh đạo tinh thần, những nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước đang ngày đêm gian khổ, sống chết trước sự đàn áp dã man của bạo quyền cộng sản.

Có như thế thì chúng ta mới không phụ lòng những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cho chính chúng ta được sống. Có như thế thì mới không hổ thẹn với chính lương tâm mình mỗi khi nhìn lại chặng đường lưu lạc gian khổ suốt ba mươi bốn năm qua: “Ta đã làm được gì cho quê hương dân tộc”? Có như thế mới làm gương cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ nguồn gốc và tinh thần trách nhiệm đối với sự sinh tồn của dân tộc. Một Brian Doan, một Madison Nguyễn, một John Nguyễn ... cũng chỉ là một thiểu số nhỏ bé, bé hơn cả những hòn sỏi khi ném xuống mặt hồ yên lặng, vẫn chưa đủ sức làm gợn sóng lăn tăn. Thế nhưng, mặt khác của vấn đề là sự tỉnh thức của chúng ta, của tập thể người Việt không cộng sản, đó là đoàn kết và cố gắng chăm sóc cho thế hệ nối tiếp gìn giữ truyền thống giáo dục gia đình.

Nhân mùa quốc nạn, xin được thắp nén hương lòng gửi đến hồn thiêng của các anh linh tử sĩ, đồng bào vượt biển, vượt biên đã anh dũng nằm xuống cho đất mẹ sớm nở hoa tự do. Ðồng thời cũng xin được nguyện cầu bình an cho những anh hùng dân tộc đang ngày đêm chiến đấu một mất một còn với CSVN trên mọi mặt trận.

Lão Gà Tre



Hình ảnh dã man, tàn bạo chống chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa




Cộng sản Việt Nam đàn áp Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo


PHẬT GIÁO HÒA HẢO THUẦN TÚY
BẢN TIN KHẨN CẤP


Quang cảnh trang nghiêm lễ niệm Phật tại nhà Bà Tuyết

Bà Tuyết bị đánh bể mặt, bể mũi
Tiếp theo bản tin khẩn cấp đề ngày 23-02-2010 về vụ công an khủng bố cuộc niệm Phật tại nhà Bà Nguyễn Thị Tuyết thuộc Xã Tân Quới (Vĩnh Long) trong ngày 23-02-10, Ban Truyền Thông PGHH/TT xin loan báo thêm:

Sau khi đánh đập đoàn người niệm Phật làm ngất xỉu nhiều người, công an dùng bạo lực bắt đi 17 người là Bà Nguyễn Thị Tuyết (chủ nhà), ông Bùi Văn Luốc (Hội Trưởng PGHH/TT Vĩnh Long) Lưu Văn So (70 tuổi), Nguyễn Văn Sáu (54 tuổi), Nguyễn Quốc Trung, vv.. còn 3 người đàn bà bị ngất xỉu CA bỏ lại là Lê Thị Vàng (51 tuổi), Bùi Thị Thảo Lam (21 tuổi), Bùi Thị Cẩm Hằng (18 tuổi).

Số người bị bắt nói trên bị chở trên xe bít bùng (xe chở tù nhân) đem về UBND huyện Bình Tân (Vĩnh Long).

Được báo cáo, cụ Liêm liền cho lịnh anh em PGHH/TT gần khoảng 30 người, lập thành phái đoàn đi đến UBND huyện Bình Tân yêu cầu nơi này cho biết những tín đồ PGHH vửa bị bắt về tội gì? thì được nơi này trả lời rằng: Vì tội phá rối trật tự công cộng. Thật là quái đản, ngồi niệm Phật im lặng trong nhà không một tiếng động là phá rối trật tự ư?

Trước tình hình phản ứng của Phái đoàn PGHH/TT, UBND huyện Bình Tân không còn cách làm gì khác hơn là phải thả 17 người ra về.

Trong số người bị đánh đập, nặng nhất là Bà Nguyễn Thị Tuyết (chủ nhà) bị đánh bể mặt, máu mũi chảy dầm dề, sau khi được thả về phải đi liền đến bịnh viện để cấp cứu, còn năm, bảy người khác nhẹ hơn chỉ điều trị tại nhà.

Một số hình ảnh được ghi nhận:


Cảnh CA đập phá nơi thờ phương tôn nghiêm ở nhà bà Tuyết,
vất liệng bừa bãi kinh sách, có cả ảnh Đức Huỳnh Giáo Chủ



Bùi Thị Thảo Lam bị đánh ngất xỉu Bà Lê Thị Vàng bị đánh ngất xỉu


Bùi Thị Cẩm Hằng bị đánh ngất xỉu. Quang cảnh xung quanh nhà bà Tuyết lúc bị CA bao vây

Kể ra, tại tỉnh Vĩnh Long, chỉ vỏn vẹn có 18 ngày (05/02/10-23/ 02/10) mà CA Vĩnh Long đã khủng bố tàn bạo với khối PGHH/TT đến 3 lần, Giáo Hội Trung Ương PGHH/TT cực lực lên án những hành động “khủng bố trắng” của CA tỉnh Vĩnh Long.

Khối PGHH/TT sẽ làm tất cả những gì, kể cả hy sinh mạng sống để đòi hỏi Công Lý và Tự Do Tôn Giáo cho PGHH.

Việt Nam, ngày 24 tháng 2 năm 2010.
TM. Khối PGHH/TT
Trưởng Ban Truyền Thông

Trương Thành Long

Thông Báo CĐNVTD-VIC Úc châu: Tòa Sơ Thẩm

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TIỂU BANG VICTORIA
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 03 9687 9198
Email: nguyenvanbon@cdnvtd.com


THÔNG BÁO & THƯ MỜI HỌP KHẨN CỦA CĐNVTD-VIC
V/v: Trang Trải Án Phí Cho Trạng Sư và Luật Sư Ra Tòa Trung Thẩm
    Kính thưa:

    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện các hội đoàn đoàn thể,
    - Quý vị đại diện các cơ quan truyền thông báo chí,
    - Toàn thể đồng hương CÐNVTD-Victoria.
Vào ngày 10-3-2010 sắp tới đây tòa Trung Thẩm sẽ xét xử: vụ một cá nhân trong cộng đồng đệ đơn kiện ông Chủ Tịch CÐNVTD-VIC Nguyễn Thế Phong (nhiệm kỳ 2007-2009) tại tòa Trung Thẩm Victoria (County Court) với lời cáo buộc rằng trong phiên họp ngày 15-03-2009 ông Chủ tịch CÐNVTD-VIC đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng.

Ngày 25-2-2010, ban chấp hành CĐNVTD-VIC đã được luật sư Cộng Đồng cho biết số tiền cho đợt đầu của vụ kiện này là $40,000 Úc Kim và số tiền này cần được đóng vào “Trust Account” của luật sư trước ngày 10-3-2010.

Với số tiền to lớn này ban chấp hành CĐNVTD-VIC không có khả năng để trang trải, nhưng nếu chúng ta không có số tiền này thì Trạng Sư của chúng ta sẽ không ra tòa và chúng ta sẽ bị mất đi cơ hội chứng minh trước những lời cáo buộc của nguyên đơn trong phiên tòa này. Vì lý do trên chúng tôi kêu gọi một phiên họp khẩn và kính mời toàn thể quý vị xin dành chút thời giờ quý báu đến tham dự phiên họp quan trọng này.
    Ngày: Thứ Bảy, 6-3-2010.
    Giờ: 4:00 chiều.
    Địa Điểm: Văn Phòng Cộng Đồng số 214 Nicholson st, Footscray 3011
Trân trọng kính mời.
TM. BCH-CÐNVTD-VIC

Nguyễn Văn Bon
Chủ tịch
25 – 02- 2010

Sunday, February 21, 2010

Cờ đỏ năm (5) sao



    CỜ ĐỎ SAO VÀNG
Đinh Lâm Thanh

Sau ngày một số tiểu bang và thành phố lớn tại Mỹ công nhận cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng của người Việt Tự Do thì Công sản cuống cuồng ra lệnh cho các sứ quán tìm cách triệt hạ cờ quốc gia đồng thời đề cao và ca tụng cờ máu của chúng.

Sự thật, cờ Đỏ Sao Vàng không mang một biểu tượng liên hệ với nguồn gốc, địa lý, dân tộc, lịch sử hay văn hóa nào của Việt Nam. Cờ máu là con đẻ từ hai lá cờ đàn anh, Đỏ Búa Liềm của Liên Sô Cộng sản và Đỏ năm Sao Vàng của Trung Cộng.

Cờ máu do già Hồ nhận từ các nước đàn anh đưa về, gồm màu đỏ tượng trưng cho máu, cho chiến tranh giai cấp và một sao duy nhất chính là đảng Cộng sản. Cờ đảng nầy được áp đặt lên đầu dân tộc khi già Hồ và tập đoàn Cộng sản cướp được chính quyền. Vậy có chút gì vinh dự để xưng là cờ của Việt Nam !

Tàu cộng 'dạy cho csvn' về bài học phải treo cờ ở những nơi thích hợp !!!


Gọi là cờ ‘máu’ nhưng không phải vì miếng vải đỏ, mà là màu máu của tang thương chết chóc, mùi tanh hôi thoát ra từ hàng triệu người đã tức tưởi nằm xuống ở những nơi nào có bóng dáng quân Cộng sản. Kể từ ngày cờ máu xuất hiện đến nay, trên 100 triệu người đã bị Cộng sản tàn sát từ Liên Bang Sô Viết qua các chư hầu Đông Âu đến Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba. Mỗi khi trông thấy cờ máu dù của xứ Cộng sản nào, dân chúng đều kinh hoàng tháo chạy. Thế mà đến giờ nầy, một số người ăn cơm quốc gia vẫn còn lú lẫn ca tụng một cách điên cuồng chế độ Cộng sản hoặc vì đã ngữa tay nhận ân huệ của quân thù để chống phá lại người Việt Tự Do.

Đối với Việt Nam, lịch sử đã chứng minh trên một triệu người Miền Bắc bỏ ruộng vườn quê cha đất tổ, bồng bế chen nhau xuống tàu vào Nam vì họ đã chứng kiến tận mắt hình ảnh đấu tố man rợ của Cộng sản sau năm 1945 khi giết gần một triệu người mà chúng gọi là địa chủ bóc lột !. Tiếp đến mùa hè đỏ lửa 1972 đồng bào Quảng Trị bỏ thây trên đại lộ kinh hoàng trong lúc chạy vào Huế cũng như dân chúng trên cao nguyên Pleiku-Kontum đã bỏ tài sản tính mạng trên đoạn đường về Qui Nhơn lánh nạn Cộng sản khi vừa hay tin Quân Đoàn II triệt thoái.

Cờ máu đi đến đâu là chết chóc theo đến đó

Để che mắt quốc tế và bịp dân chúng Miền Nam, cờ máu được ngụy trang bằng Xanh Đỏ với Sao Vàng (cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) nhưng vẫn không đánh lừa được dân chúng. Ngay từ lúc Cộng quân xua quân vượt ranh giới, hàng triệu người từ Miền Trung đã dùng đủ phương tiện chạy vào Sàigòn tìm đất sống, bám víu vào chế độ tự do. Than ôi, cuối cùng những tên phản quốc bán nước cúi đầu mời giặc, ra lệnh buông súng vô điều kiện, quỳ gối nạp mình, dâng đất nước, dâng tổ quốc cho loài lang sói. Một lần nữa cả triệu người liều mạng ra biển đánh đổi tự do với may rủi của đại dương vì họ không bao giờ chấp nhận Cộng sản khi thấy cờ đỏ sao vàng xuất hiện tại thủ đô Sàigòn.

Nơi nào Cộng sản muốn đến, muốn xâm chiếm thì trước tiên chúng phải bắn pháo, đặt mìn, liệng bom vào dân chúng để tạo ‘chiến trường máu’ dùng làm áp lực và cản đường phản công của QLVNCH. Đây chính là hình thức chiến tranh rừng rú, vô nguyên tắc, vô nhân đạo khi chúng tận dụng thân xác, xương máu gia đình vợ con của đối phương để cầm chân cản đường.

Cờ máu trong cuộc đấu tố đẫm máu sau năm 1954

Trên đây bài viết đề cập nổi kinh hoàng sợ sệt của dân chúng Việt nam đối với cờ máu. Bây giờ, xin nói về lối xử dụng cờ máu một cách văn minh khoa học và ‘tiên tiến vĩ đại’ của tập đoàn Cộng sản qua hai hình ảnh sau đây :

Cờ máu cắm tại cầu tiêu công cọng. Hãy nhìn kỹ bức hình nguyên thủy để không còn bôi bác cho rằng ảnh được cắt nối chắp ráp : Một cán ngố đang tụt quần giải quyết bầu tâm sự trước mặt lá cờ máu anh hùng, vinh quang và vĩ đại của anh ta. Có thể hình chụp tại trong Nam, vì cầu tiêu cộng cộng là nơi nuôi cá tra mà chúng ta thường thấy ở miền quê. Nếu đúng vậy thì dân Miền Nam chơi trò xỏ lá, đem cái vinh quang cao quý nhất của Cộng sản Miền Bắc cắm ngay tại chỗ đi cầu ! Trường hợp hình chụp ngoài Bắc thì thật là hết thuốc chữa, cờ của chúng dùng để giúp đồng bào giải quyết bệnh bị táo bón kinh niên vì quanh năm suốt tháng chỉ biết có sắn khoai !.

Bức ảnh nầy chứng minh, sau hiệp ước Versailles, trò bịp lấn đất dành dân bằng hình thức treo cờ của Cộng sản bị dân miền Nam chơi trò đểu, hoặc do đầu óc ngu muội của Cộng sản, treo cờ không bỏ sót một góc hẻm nào, ngay tại những nơi để cho người ta đi đại tiện hằng ngày ! 33 năm rồi mà cả tập đoàn Cộng sản không nhìn thấy cái lố bịch của chúng. Thật tội nghiệp !

Đây là vị trí cao nhất để treo cờ 'máu'

Bức hình dưới đây chứng minh rõ ràng cái đầu ‘siêu việt’ của một tập đoàn mang danh ‘đỉnh cao trí tuệ’ trong cái ‘nôi của loài người’. Hãy nhìn kỹ, tập đoàn Cộng sản dùng lá cờ Đỏ Sao Vàng trải dài từ cửa máy bay xuống tận xe hơi để nghênh đón kẻ thù số 1 của Chủ Nghĩa Xã Hội đạp lên và bước qua. Người ta thấy những tay lãnh đạo Việt Nam mắt híp, mặt hớn hở đón tổng thống Bush đang ngạo nghễ dẫm chân trên cờ máu của chúng. Vì đồng tiền, vì muốn nịnh bợ khối tư bản mà Hà Nội đã quỳ xuống dùng cờ làm thảm đón tiếp quân thù !. Các bạn trẻ Việt Nam nghĩ gì ? Dân chúng Việt Nam nghĩ gì ? Chỉ vì một chút danh lợi mà tập đoàn lãnh đạo phải hạ nhục cờ của mình xem như một hình thức tạ tội với kẻ thù !

Cờ nước chúng em đã trải sẵn, xin mời Ngài cứ tự nhiên 'đạp lên' !!!

Những việc nầy cho thấy tập đoàn Cộng sản Hà Nội không bỏ qua một hành động nào, từ những việc làm bất nhân thiếu đạo nghĩa đến ngữa tay ăn mày xin xỏ ân huệ với bất cứ bạn hay thù. Điều nầy đủ chứng minh rằng, đảng Cộng sản Hà Nội đã dâng cho quan thầy Trung Cộng từ đất liền cho đến hải phận của Việt Nam để van xin đặc ân ‘bình an ngai vàng’ của chúng.

13.03.2008

Trích trong 'Một Đời Xót Xa', ISBN 978-1-60643-652-3, Do Nam Việt và Tự Lực xuất bản và phát hành tại Mỹ tháng 6 năm 2008

Đinh Lâm Thanh

Bịnh Mù Loà - Nguyễn Châu

Nguyễn Châu

Trước 30 tháng Tư 1975, tại miền Nam và tại Mỹ, Pháp v. v... đã có khá nhiều người bị mù lòa mà thuốc men và kỹ thuật chữa trị của Thế Giới Tự Do không chữa nổi.

* Chứng mù của một bộ phận trí thức miền Nam Việt Nam, của nhóm phản chiến Hoa Kỳ, của một vài tài tử, ca sĩ, của một số triết gia Pháp, Đức, của một số tu sĩ đầy vọng tâm, kể cả những tên năm vùng ...

* Bệnh mù của họ kéo dài gần ba thập niên, tưởng đã trở nên kinh niên bất trị, nhưng không ngờ Cộng sản Việt Nam sau khi xâm chiếm Nam Việt Nam khoảng hai năm, đã phát minh được phương thuốc chữa bệnh mù cho hơn 20 triệu người miền Nam, cho hầu hết những người chủ trương phản chiến hăng say nhất như Joan Baez, Jane Fonda ...

* Bệnh mù của Kissinger và một số nhà ngoại giao Tây phương cũng được chữa lành. Họ được sáng mắt khi Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách man rợ đối với “đồng bào ruột thịt miền Nam” như lùa hết Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù được mở ra dọc theo núi rừng từ Nam ra Bắc, cưỡng bách dân miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới, thực chất là một cuộc đày ải để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải của họ tại các thành phố ...

Hàng triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi, cả triệu người bỏ mạng trên biển Đông, trong rừng sâu, tại các vùng kinh tế mới “Khổ Thấy Mẹ” và trong các nhà tù mang mỹ danh “Cải Tạo”.

Chính sách tàn bạo và thâm độc của Cộng sản nói chung và Cộng sản Việt Nam nói riêng là một thần dược chữa chứng mù lòa cho những kẻ bị huyền thoại Giải Phóng mê hoặc, cho những người mù lòa do tham vọng cá nhân, chức quyền bốc hỏa làm mờ lương tri. Đa số những người mù lòa trước năm 1975 đã được sáng mắt để nhìn rõ thực chất của Cộng sản, thấy rõ “tính ưu việt” của tập đoàn “sinh ra trong đói nghèo, lớn lên bằng chiến tranh, giết hại, nuôi sống bằng sự dối trá và đang hấp hối bởi sự bất tài, bất lực và tham nhũng”...

Tự nhận là đỉnh cao trí tuệ, sau 29 năm thống nhất lãnh thổ, xây dựng đất nước trong hòa bình, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thực hiện được CÔNG VIỆC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO cho nhân dân, mặc dù tài nguyên đất nước vô cùng phong phú: rừng vàng, biển “đô la” từ dầu mỏ và hải sản, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới cấp cho chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo 54 triệu Mỹ Kim, và tiền Việt Nam Hải Ngoại “chi viện không hoàn trả” cho thân nhân mỗi năm hơn 3 tỷ Đô-la Mỹ.
Tiền ấy đi về đâu, mà đại đa số nhân dân vẫn đói nghèo đến độ mẹ phải bán con nhỏ, con lớn 9-10 tuổi qua Cam-Bốt làm điếm, nhà Nước thì bán hàng chục ngàn phụ nữ qua làm vợ người Đài Loan, xuất khẩu nhân công, xuất khẩu con nuôi quốc tế? Trước tình cảnh này, nhiều cán bộ cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số trí thức Cộng sản cũng đã sáng mắt nhìn thấy rõ bản chất ác quỷ của Đảng ta, đã liều thân lên tiếng và đã bị Đảng tru diệt không nương tay...

Thế mà tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn một số người Việt mang danh tỵ nạn chưa được sáng mắt, vẫn mắc chứng mù lòa mà nguyên nhân chính là do lòng tham tiền bạc, hoặc mơ ước chút danh vị nào đó từ phía Cộng sản.

* Trong số người mắc chứng mù lòa này, ngoài một số cựu tù nhân chính trị đi trong thành phần “HO” không có ý thức quốc gia, không lý tưởng, vừa mới qua Mỹ được vài tháng, đã vội quay trở lại Việt Nam làm việc cho kẻ đã muốn giết mình (Chu Tất Tiến – Sau 25 Năm Nhìn Lại Việt Nam..., trang 77), còn có một số luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, chủ báo, nhà văn, nhà thơ, thương nhân... Số người này tìm cách len lỏi vào cộng đồng tỵ nạn để tuyên truyền cho chế độ Cộng sản bằng cách này hay cách khác, thầm lén hoặc lộ liễu.

Họ lập ra những tổ chức “nhân đạo” với mục đích bòn rút tiền của Việt Nam Hải Ngoại đem về trong nước nói là “Nuôi trẻ mồ côi”, “giúp người tàn tật”, tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ cứu trợ “thương phế binh” không phân biệt Bắc Nam, “xây trường học, sắm bàn ghế cho học sinh”, “mua thuốc và đưa các đoàn y tế về chữa bệnh, chủng ngừa, chữa bệnh mù tại Việt Nam...
Người mù tại Việt Nam được sáng, nhưng số người hải ngoại tham danh hám lợi này lại không sáng mắt, cho nên họ đã hành động như chính phủ Cộng sản Việt Nam là một con số không to tướng, vì tất cả mọi vấn đề từ ấm no, học hành, y tế, trẻ mồ côi người tàn tật tại quốc nội đều do ngân sách của Việt Nam Hải Ngoại chi ra hết.
Các viên chức Đảng và Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khỏi phải bận tâm gì đến đời sống nhân dân, để chăm lo bòn rút công quỹ cho đầy túi riêng, đưa Việt Nam đạt vị trí thứ ba trong nấc thang tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á.

Người mù đeo kính "Hoà Hợp Hoà Giải

Số người hải ngoại tối mắt vì đeo kính hiệu “Hòa Hợp Hòa Giải”. HHHG là chiêu bài của cái gọi là Chính phủ Cách Mạng lâm thời sau 30-4-1975 có mục đích dụ dỗ quân dân cán chính miền Nam đi trình diện để nộp mình vào ở tù một cách thoải mái, Cộng sản khỏi đi lùng bắt, tránh sự rối loạn nguy hiểm.

Bằng chứng là sau khi đưa hết vào trại tù, thì chính phủ Cộng sản không còn nhắc lại nữa, chỉ còn một số người mù tại hải ngoại, đứng đầu là Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, hô hào HHHG mà thôi. Tháng 7 năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa và cảnh giác trước âm mưu “Diễn Tiến Hòa Bình”, vẫn bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, kể cả bỏ tù và triệt hạ các Đảng viên Cộng sản phản tỉnh, phê bình sai trái của Đảng trong việc trị quốc.
Người mù: cựu thành viên MTGPMN

Hầu hết các thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng bị uy hiếp phải tìm cách trốn thoát ra ngoại quốc. Các tay cầm cờ ba màu ra đón quân Giải Phóng vào Sài Gòn như Đoàn Văn Toại, chẳng bao lâu sau đó bị Cộng sản bắt giam và đánh đập tàn nhẫn... Sau khi được thả ra, Toại vượt thoát được sang Pháp, “bệnh mù” khỏi được một thời gian. Sáng mắt, Toại tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trong cuốn “Le Goulag Vietnamien” (Nxb Laffont, Paris 1979).

Trong nhà tù Đoàn Văn Toại đã gặp một cựu chiến binh Cộng sản, 82 tuổi, cũng bị giam, mặc dầu cuối thập niên 1920, ông ta là một trong những lãnh tụ và sáng lập viên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Pháp một thời gian, không hiểu sao, Đoàn Văn Toại bị mù trở lại, “bệnh mù tái phát” làm cho Toại có luận điệu nịnh bợ Cộng sản và đã bị trừng trị đích đáng.

Từ thập niên 70 đến 80, Đảng và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc, bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thượng Nhân đã phát biểu là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!

Người mù : Việt Kiều yêu nước

Thế nhưng đến thập niên 1990, thì Đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam đã gọi họ là “Việt Kiều Yêu Nước” và một cách âu yếm hơn là “Khúc ruột ngàn dặm”. Lập tức, trong những năm đầu của thập niên 90, ở Pháp, và Nam California-Hoa Kỳ, bỗng nẩy sinh một khuynh hướng mong muốn Hòa Hợp Hòa Giải với chính quyền Cộng sản Việt Nam.

“Bằng những bài báo dùng ngụ ngôn bóng bẩy kêu gọi kết hợp trong nước và ngoài nước, bằng những tập san xuất bản đều đặn với những bài xã luận nói về hợp sông, hợp suối, hợp lưu, bằng cách cho đăng những bài viết của những người Cộng sản đích thực như Trần Bạch Đằng, một nhà lý luận Cộng sản chuyên nghiệp, hay của những người có nợ máu với dân chúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải này mong muốn có quan hệ tốt với Cộng sản, quên thù hận xưa, để cùng tiếp tay xây dựng đất nước. Một vài nhân vật nổi tiếng trong giới Y khoa và báo chí cũng tuyên bố kêu gọi về nước làm chính trị và xã hội.” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-90).

Những tổ chức tranh đấu trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại gọi nhóm này là “cơ hội chủ nghĩa” hoặc “tay sai Cộng sản Việt Nam”, thậm chí còn buộc tội họ là “Việt gian”. Vì trên lý thuyết, nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thực tâm muốn cho đất nước thoát nghèo nàn và lạc hậu, thực tâm quên hận cũ, thù xưa, chào đón người Việt hải ngoại về cùng chung tay phục hưng đất nước, thì đó là một phước lớn của dân tộc Việt.

Nếu được như thế, thì sẽ không còn phân biệt LÝ LỊCH quốc gia hay cộng sản, không còn tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm bị giam giữ, tra tấn, ngược đãi trong các nhà tù; nhà cửa của người vượt biển được chính quyền Cộng sản trả lại nguyên vẹn, vô điều kiện, người bất đồng chính kiến không bị theo dõi, bắt giam hoặc hãm hại một cách bí mật ...

Nhưng trên thực tế, người Cộng sản chỉ mong hải ngoại mang tiền về, mà không mang theo chính trị. Cộng sản Việt Nam chỉ dùng những người đem lại lợi ích tiền của về trong nước và tuyên truyền chính trị cho họ ở hải ngoại mà thôi. Những kẻ mơ mộng, thơ ngây hoặc những tay ham mê chút lợi danh, vội vã trở về hợp tác với Cộng sản, chỉ sau một thời gian ngắn, đều phải “trở lại hải ngoại sống âm thầm, xa lánh bạn hữu và cộng đồng”. Kinh nghiệm cho thấy khi một người thân Cộng ở hải ngoại, đã lộ mặt, bị cộng đồng lên án, tẩy chay, khi họ không còn chút uy tín nào nữa, thì người Cộng sản lập tức bỏ rơi. (Nhiều trường hợp cụ thể, về nạn nhân của hòa hợp, giao lưu, thiện nguyện, cứu trợ vân vân... được nêu rõ trong tác phẩm của Chu Tất Tiến, từ trang 92 đến 95).

Chủ trương “hòa hợp hòa giải” với Cộng sản Việt Nam của kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng qua nhóm Thông Luận, nhóm Hợp Lưu Giao Điểm... đã bị hầu hết Cộng Đồng Người Việt khắp nơi xem là ngây thơ và mù quáng, vì trên thực tế Cộng sản Việt Nam không bao giờ chấp nhận đa nguyên, họ bảo vệ Đảng bằng bất cứ giá nào.

Ngay cả với người đã nằm xuống, Cộng sản Việt Nam vẫn nuôi mối hận thù và đã ngược đãi họ. Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa đã bị phá, bức tượng “Tiếc Thương”, một tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, dựng trước cổng nghĩa trang, đã bị Cộng sản Việt Nam tiêu hủy đi.

Một số người Việt hải ngoại gọi là Việt Kiều Yêu Nước tình nguyện về quê hương giúp đỡ người dân tật nguyền, đau ốm, nghèo khổ... sau nhiều lần đi về tự do thoải mái, họ đã bị nghi ngờ là nằm trong kế hoạch mà Cộng sản Việt Nam gọi là “diễn tiến hòa bình” của đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.

Cuối cùng, họ gặp khá nhiều phiền hà, như bị rút giấy phép, bị gọi đến trình diện, đến “làm việc” với công an, với Thành ủy, nhận chỉ thị về các hạn chế sinh hoạt của họ vân vân. Kết quả: họ phải tìm cách “bỏ của chạy lấy người”. Những công tác thiện nguyện do người Việt hải ngoại hoặc người ngoại quốc thực hiện ở Việt Nam, nếu chỉ trong giai đoạn ngắn, thì ít gặp trở ngại, nhưng nếu có kế hoạch lâu dài mà Cộng sản chưa gài được người vào tổ chức, thì nhất định sẽ gặp khó khăn và nguy hiểm. Giáo sư Chu Tất Tiến trong “Sau 25 năm nhìn lại Việt Nam ...” trưng dẫn trường hợp “ông Giám đốc Hãng Citroen Pháp Quốc, khi sang Việt Nam tìm thị trường, lang thang đi mua những cái “name tag” (tấm thể bài) của lính Mỹ cũ bán đầy ngoài đường, đã bị bắt giữ, vì nghi ngờ là gián điệp đi tìm tù binh! Ông đã chán nản bỏ sang Thái Lan và chỉ bay qua Sài Gòn để làm việc trong ít ngày rồi biệt luôn” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-92).

Những tên mù trong hẻm Hợp Lưu Giao Điểm ở California, khi về Việt Nam, những tưởng được biểu dương, ưu ái, nào ngờ bị xem như chó ghẻ. Lý do đơn giản: Cộng sản nghi ngờ bọn này là cò mồi của kế hoạch “Diễn Tiến Hòa Bình” mà chúng đang hết sức cảnh giác đề phòng. Vì mù lòa cho nên nhóm này không thấy được rằng Cộng sản Việt Nam không tin ai cả, ngay cả đồng chí với nhau ở Trung Ương cũng chơi nhau sát ván và tìm cách hãm hại lẫn nhau, thì biết tin ai?

Người mù: anh hùng Điện Biên và cố vấn Cu Hồ

Đại Tướng VG Cộng sản Võ Nguyên Giáp nổi danh với trận Điện Biên Phủ, có số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng toàn quân tháng 9-1986, từng bị các đồng chí ganh tị, phanh phui lý lịch, để tìm cách hạ bệ. Võ Nguyên Giáp bị nghi là tay sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng ...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban Ngày” tr.350).

Võ Nguyên Giáp, bí danh là “Văn” bị kết tội âm mưu lập “bè phái chống đảng”, rồi bị thất sủng ... đã âm thầm chịu đựng hàng chục năm, nay 93 tuổi, kề miệng lỗ, mới dám liều mạng viết Cáo trạng kêu oan, đòi “công đạo” “ (Thư của Võ Nguyên Giáp ngày 3/1/2004).

Những người mù “bẩm sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam” như ông bà Vũ Đình Huỳnh, thân sinh của Vũ Thư Hiên, đến năm 1967, mới được Đảng giải phẫu và sáng mắt ra để nhìn thấy nguyên hình của Cộng sản Việt Nam: “... chúng nó đến, con tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa cho bằng được”.

Đây là lời kể của bà Vũ Đình Huỳnh về cảnh công an đến nhà bắt ông Vũ Đình Huỳnh, người đã nuôi dưỡng, cận kề chăm sóc cho Hồ Chí Minh. Vũ Thư Hiên viết: “Trong lòng bà, ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt...” (ĐGBN, tr. 28). Bệnh mù của gia đình Vũ Thư Hiên được chữa khỏi sau 9 năm bị Cộng sản tù đày, cả nhà bị khổ đau, tan tác. Vũ Thư Hiên đã thấy và đã nói lên cho những người khác:

“Nhờ đảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn rõ sự vật đến thế. tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bên ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.

“Cũng nhờ đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm gian khổ, bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ tìm hiểu ngọn nguồn?" ... (ĐGBN, tr. 456)

Người mù: Khoa bảng sản phụ, mổ tim, mổ mắt

Một thí dụ cụ thể về “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải”: đó là trường hợp một bác sĩ có tiếng ở Nam California đã có công đón tiếp một phái đoàn cộng sản qua Hoa Kỳ tính toán làm ăn. Ông ta cũng cả gan thách thức cộng đồng Người Việt bằng những lời cổ động cho việc hòa hợp hòa giải, rồi thách cộng đồng: “nếu có 500 người biểu tình chống lại việc ông về Việt Nam hợp tác, thì ông sẽ bỏ ý định về.” Lập tức Cộng Đồng Người Việt phản ứng bằng cách tập hợp hơn một ngàn người trước cửa phòng mạch của ông cựu sĩ quan quân y “ngụy” này và lên án ông quyết liệt.
Tuy nhiên, ông bác sĩ “mù lòa” này đã nuốt lời, tiếp tục việc về nước, đinh ninh rằng mình đã lập được công chống cộng ... đồng hải ngoại, sẽ được Đảng đón tiếp long trọng, sẽ mời ông vào phòng họp với cơ quan Nhà Nước cấp cao. Có ngờ đâu, khi ông bác sĩ “mù” này về đến phi trường, chỉ gặp được vài nhân viên cấp thấp đến chào hỏi mà thôi, không có một sự gọi là đón tiếp nào. Tại Việt Nam, ông bác sĩ “mù” này phải mò mẫm tự mình đi xin xỏ, xin giấy phép... khi muốn gặp một cơ quan nào cần giao dịch. Tại sao “Nhà Nước ta” lại nhạt nhẽo với các “Việt kiều yêu nước này”?
Điều này người sáng mắt thấy được ngay. Đó là vì tên tuổi của ông bác sĩ này đã bị Cộng Đồng Người Việt xóa đi, còn giá trị nào nữa để Đảng ta lợi dụng cho việc tuyên vận chiêu dụ hòa hợp hòa giải. Ông bác sĩ này đã bị hải ngoại tẩy chay, thì trong nước dùng làm cái gì? Ngoài ra, có thể Cộng sản Việt Nam còn suy luận rằng: nó là sĩ quan “Ngụy”, làm bác sĩ, được Cộng Đồng Người Việt nuôi và giúp cho thành giầu có, thế mà khi mê đắm công danh, nó còn phản lại Cộng Đồng, thì Đảng làm sao tin được một tên đã công khai phản chủ nó là Cộng Đồng Hải Ngoại.

Cho đến nay, Cộng Đồng Hải Ngoại đã có ít nhất là ba bác sĩ mắc bệnh lòa. Ông thì lòa vì lợi lộc, tiền bạc, ông thì lòa vì lời tâng bốc và hư danh. Ông Họ Bùi ở Cựu Kim Sơn, từng theo Hương Dương Thu về Hà Nội yết kiến, lần thứ hai bị Cộng sản bắt giam nửa năm vì tội giao lưu; ông họ Phạm Phụ Khoa, quận Cam thì chẳng còn ai đếm xỉa; còn ông Nguyễn Lão Khoa xứ Cao Bồi bị thong manh, làm bồi bút, đi yết kiến Nguyễn Đình Bin, về Việt Nam hứa hẹn nhiều giúp đỡ. Có lẽ vì lo sợ “không biết bỏ nắm xương tàn nơi đâu” trên đất Hoa Kỳ, nên sau khi đi yết kiến thượng cấp tại Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Lão Khoa về Hoa Kỳ, lại tìm cách lân la với Cộng Đồng Hải Ngoại, không hiểu ông đã khỏi bệnh chưa?

Nguyễn Châu


Saturday, February 13, 2010

teolangthang blog's Chúc Mừng Xuân Canh Dần


Chúc Mừng Xuân Canh Dần
2010







ÔNG ĐỒ
Vũ Đình Liên
1936

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Nhưng mỗi năm một vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?




Ông Đồ - Vũ Đinh Liên



ÔNG ĐỒ
(Bản chữ Hán phiên âm)

Mỗi niên đào hoa khai
Tổng kiến lão Tú tài
Truy nghiễn hồng tiên bãi
Thông cù nhân vãng lai

Đa thiểu thị tự dã
Trách trách tiễn chu kỳ
Xảo bút nhất huy tựu
Như phụng vũ long phi

Lãnh lạc niên phục niên
Cô khách hà mang nhiên ?
Hồng tiên bi sắc thấm
Truy nghiễn sầu mặc kiên

Tú tài do tại ty
Quá lộ hữu thùy tri
Tiên thượng hoàng diệp lạc
Thiên biến tế vũ phi

Kim niên đào hựu tân
Bất kiến cựu thời thân
Trù tướng không hàng vọng
Cổ hồn hà quy vân ?

Vũ Đình Liên




ÔNG ĐỒ
(Bản chữ Việt)

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Nhưng mỗi năm một vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

Vũ Đình Liên
1936







MẬU THÂN, ANH NHỚ GÌ KHÔNG?





MẬU THÂN, ANH NHỚ GÌ KHÔNG?
thơ: Ý-Nga

Tím đen, xác rỉ nước vàng
Người tan nát mặt, họ hàng biết ai?
Chặt ngang cổ, bổ ngang tai
Đâm bàn tay thủng, kẽm gai xâm vào*

Cọc tre xuyên đến đỉnh đầu
Cụm năm người chết, cụm xâu cả mười
Sình trương bao xác đứng ngồi
Máu me rùng rợn, rã rời, trơ xương

Mưa rơi ray rứt đoạn trường
Con thơ khóc Mẹ, vợ thương khóc chồng
Mảnh nào nhận dạng bà, ông?
Mảnh nào rửa thối động lòng quật khai!

Cát Xuân, Điên Đại, Đá Mài,
Bãi Dâu, Hương Thủy, Phú Bài, Bao Vinh*
Trường Tiền, An Cựu bao tình
Đông Ba, Đại Nội: tử, sinh não nùng



Đạn xuyên ót, sọ vỡ tung
Máu me kinh hãi buồn giòng sông Hương!
Huế nào khăn trắng tang thương
An Hòa, Thành Nội tai ương đã từng

Mưa thê thiết, xác trợn trừng
Đường nào cũng máu! Lệ từng con tim!
Đạn bay tứ hướng truyền … âm!
Cha con, chồng vợ gọi … thầm tên nhau

Truồi, Gia Hội, Phú Văn Lâu
Thủ tiêu, ám sát, chặt đầu, cuốc phang

Chết! Không ai thắp nén nhang!*
Chết oan vô tội hàng hàng thây dân!
Chết! Không hòm gỗ che thân!
Chết! Không giọt lệ thân nhân sụt sùi!



Áo Vàng, chùa Huế, bao nơi …
Nơi nào không có máu sôi trong hồn?
Huế đau! Em nhớ Saigon!
Nhà em cũng cháy, chỉ còn tàn tro

Anh linh yên giấc ngàn thu!
Chúng tôi còn sống chẳng mù lương tri
Không chờ Tết mới nhớ về
Mỗi ngày mỗi nhớ! Trăm bề tâm đau!


Ý Nga, 9.2.2008
-Mồng Ba Mậu Tý

1. Khe Đá Mài, quận Hương Thể
2. Bãi Cát Xuân Ô Điên Đại, quận Phú Vang
3. Sau chùa Áo Vàng, quận 2 đường Chi Lăng
4. Bãi Dâu, quận 2 phía Bao Vinh




MẬU THÂN, ANH NHỚ GÌ KHÔNG?
thơ: Ý-Nga
nhạc: Nguyễn Văn Thành

Xác tím đen, xác rỉ nước vàng
Xác tan nát mặt, họ hàng biết ai?
Xác chặt ngang cổ, xác bổ ngang tai
Xác chết từng chùm xâu bằng kẻm gai



Xác chết đứng ngồi cọc tre xuyên suốt đầu
Xác chết trương sình, rùng rợn, trơ xương
Xác đạn xuyên ót, xác sọ vỡ tung
Xác chết chặt đầu, xác cuốc phang, xác trợn trừng,

Chết! Không ai thắp nén nhang
Chết oan thây dân tôi hàng hàng
Chết! Không hòm gỗ che thân
Chết! Không giọt lệ thân nhân sụt sùi

Hỡi anh linh yên giấc ngàn thu!
Chúng tôi còn sống, lương tri chẳng mù
Không chờ Tết mới nhớ về
Mỗi ngày mỗi nhớ! Trăm bề tâm đau!

Mưa rơi ray rứt, Điên Đại, Đá Mài,
Mưa rơi thê thiết, Phú Bài, Bao Vinh
Máu me kinh hãi, Hương Thủy, Bãi Dâu
Buồn giòng sông Hương, Truồi, Gia Hội, Phú Văn Lâu



Vợ khóc chồng, Trường Tiền, An Cựu
Con khóc Mẹ, Đại Nội, Đông Ba,
Đường nào cũng máu, Áo Vàng, chùa Huế,
Lệ từng con tim, Thành Nội, An Hòa

Mảnh nào nhận dạng ông bà?
Mảnh nào rửa thối động lòng quật khai?
Huế nào khăn trắng tang ai?
Nơi nào không có máu sôi trong hồn?

Hỡi anh linh yên giấc ngàn thu!
Chúng tôi còn sống, lương tri chẳng mù
Không chờ Tết mới nhớ về
Mỗi ngày mỗi nhớ! Trăm bề tâm đau!










Friday, February 12, 2010

CỘNG SẢN VIỆT NAM SẼ TUNG CHƯƠNG TRÌNNH TRUYỀN HÌNH VÀO MỸ NHUỘM ĐỎ CỘNG ĐỒNGHẢI NGOẠI

Tin Hà Nội - Báo chí trong nước ngày hôm nay loan tin tà quyền Cộng sản Việt Nam sẽ mở rộng kế hoạch chiêu dụ Việt kiều và thi hành nghị quyết 36, bằng cách tung các chương trình truyền hình nhắm vào các đài địa phương tại Mỹ và các đài qua hệ thống dây cáp. Trong những ngày qua thị trường truyền thông của Mỹ đang có những biến chuyển rất lớn, khi hệ thống truyền hình được chuyển qua dạng Digital đã mở ra rất nhiều đài mới, và vì thế chỉ trong vòng một tháng tại miền Nam California, đã có thêm 4 đài Việt ngữ 24 trên 24 giờ phục vụ cho cộng đồng người Việt tại đây, trong đó có đài SET là đài chị em của SB-TN. Tuy nhiên việc này cũng tạo ra cơ hội cho nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, và theo bài báo phổ biến cho biết theo tin của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội đã ra lệnh phải thi hành và mở rộng những hoạt động dành cho kiều bào ta ở nước ngoài về cả bề nổi và chiều sâu, động viên bà con ngày càng hướng về quê hương, đóng góp tài lực và vật lực cho quá trình phát triển đất nước. Với chiều hướng này, bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam đã ra lệnh thi hành đề án đưa đài truyền hình VTV4 vào hệ thống truyền hình cáp tại các địa bàn có đông người Việt Nam sinh sống. Một chi tiết trong bản tin cho thấy rằng, đài truyền hình nhà nước VTV-4 trước giờ muốn bắt sóng ở Mỹ cần phải có hệ thống satelite riêng, nhưng nay Hà Nội sẽ lợi dụng cơ hội mở cửa hệ thống truyền hình Digital để nhảy vào và cũng sẽ trình chiếu đài này trên hệ thống giây cáp tức Cable, viễn ảnh thấy rõ là sẽ tăng tốc nhuộm đỏ hải ngoại, và cũng tăng sức cạnh tranh với các đài truyền hình của người Việt quốc gia.

Cũng trong dịp này, bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam cho biết trong 5 năm trở lại đây, ngoài Việt kiều ở Mỹ, Australia, châu Âu, những người đi xuất khẩu lao động, các chuyên gia Việt Nam, lưu học sinh đang làm việc và học tập tại nước ngoài đã đóng góp rất lớn trong số kiều hối chuyển về Việt Nam. Hiện có khoảng 500,000 người Việt đang làm việc ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, phần lớn trong số đó dành từ 70 đến 80% thu nhập gửi về nước. Hà Nội loan báo kiều hối trong năm nay gửi về nước là 8 tỷ mỹ kim, tức là tăng hơn năm trước khoảng 1 tỷ mỹ kim. Tuy nhiên một bản tin khác lại bày tỏ sự thất bại của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trong việc đưa ra chương trình xin miễn thị thực cho Việt kiều về nước. Ngày hôm qua Thứ trưởng ngoại giao Cộng sản Việt Nam đã bày tỏ thất vọng là vì số kiều bào xin miễn thị thực quá ít. Bản tin cũng bày tỏ sự mâu thuẫn, khi có báo đăng là có khoảng 400,000 kiều bào được miễn thị thực, nhưng có báo đăng là chỉ có 40,000 người. Hà Nội thú nhận con số này còn khiêm tốn so với lượng kiều bào có nhu cầu. Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn cho hay trong suốt hai năm qua Hà Nội đã vận động kiều bào để tham gia chiến dịch này, nhưng con số nói trên là một con số rất nhỏ, và đa số là những người xuất khẩu lao động tại Ðông Âu, còn những kiều bào từ Mỹ và từ Tây Âu đã không tham gia vào chiến dịch tuyên truyền mà tà quyền Cộng sản Việt Nam đề ra.

Source: http://www.hvhnvtd.com



Đôi Điều Tâm Sự Về Quỹ $1 Cho Công Lý - Nguyễn Quang Duy

Nguyễn Quang Duy

Xuân là dịp để vui mừng, đòan tụ, chia sẻ và tha thứ. Buồn thay xuân năm nay Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD) tại Victoria đang xảy ra những điều ngược lại.

Người viết nhớ lại tại Đại Hội Thường Niên CĐNVTD/Úc châu, tổ chức ở Nam Úc, năm 2006, mọi người hết sức vui mừng khi phái đoàn từ Victoria long trọng thông báo Đền Thờ Quốc Tổ sẽ được khánh thành vào cuối năm. Như vậy là trên đất khách quê người, đồng hương tại Melbourne sắp có nơi để phụng thờ Quốc Tổ.

Từ Canbera về lại Melbourne, lần đầu đến dự lễ tri ân một chiến sỹ Úc hy sinh tại Việt Nam vừa được cải táng. Bên tay phải của bàn thờ Quốc Tổ là bàn thờ các chiến sỹ Úc đã hy sinh tại Việt Nam. Thật đúng với văn hóa Việt vốn trọng ân trọng nghĩa.

Nhưng rồi những bất đồng nội bộ đã xảy ra và mỗi ngày một thêm căng thẳng. Rồi báo chí địa phương đưa tin và dư luận hoang mang. Khách quan nhận xét thì việc tài chánh phải có sổ sách và báo cáo đến Chính Phủ, đến các Đại Hội Thường Niên Cộng Đồng. Nếu không minh bạch thì phải chịu điều tra và kiểm toán.

Thế nhưng việc Đền thờ Quốc Tổ lại lan sang việc đấu tranh chống văn hóa vận cộng sản, trong khi đồng hương biểu tình phản đối cuộc triển lãm “Impressive Vietnam” tại Crown Casino vào tháng 2/2009, thì: “một cá nhân đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình chống CSVN của CÐNVTD-VIC”.

Gần đến các ngày biểu tình thì hằng ngàn tờ A3 với hình ông Nguyễn Thế Phong và những lời cáo buộc được âm thầm dán khắp các khu vực đông người Việt sinh sống tại Melbourne . Lần biểu tình gần đây nhất chống “Mừng Ngày Quốc Nhục 2/9/2009”, riêng người viết đã tự tay cạo xé trên 20 tấm tại khu Footscray. Nhiều người khác bất bình cũng đã tiếp tay cạo xé. Nhưng có cạo mấy hiện tại các khu đông đồng hương sinh sống vẫn còn những dấu tích nham nhở do bọn “ném đá dấu tay” gây ra.

Rõ nhất là trên báo điện tử Công An Nhân Dân, giữa tháng 3/2009, có bài viết xuyên tạc CĐNVTD tại Úc châu. Cá nhân ông Nguyễn Thế Phong bị mang ra bôi nhọ, chẳng khác gì nội dung tờ cáo buộc tại khu Footscray. Bài viết cũng nhắc đến tên 3 thành viên đã bất đồng trong việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ. Không hiểu vì sao bài viết được gỡ xuống chỉ sau ít ngày trên mạng báo Công An Nhân Dân.

Sau đó ông Nguyễn Thế Phong bị thưa ra tòa vì: “đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng”“những cáo buộc rằng Ban Chấp Hành CÐNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã tham lũng công quỹ của cộng đồng”

Ông Nguyễn văn Bon, tân chủ tịch CĐ đã thông báo đến đồng hương: “Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban Chấp Hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội Quy CÐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của mình”. Cũng cần nói ông Nguyễn văn Bon và đa số tân ban chấp hành gồm những người trẻ trên dưới 30 mươi tuổi và vừa được đồng hương tại Victoria tín nhiệm trực tiếp bầu ra.

Khi được bà Nam Dao phỏng vấn, ông Nguyễn văn Bon tha thiết kêu gọi: ”Cộng Ðồng là cộng đồng chung của mọi người, chúng ta có bổn phận khuyến khích và hỗ trợ những người thiện nguyện ra gánh vác công việc chung của cộng đồng, đặc biệt là khi họ chỉ hành xử theo đúng bổn phận, trách nhiệm mà cộng đồng và bản nội quy đòi hỏi. Ban Chấp Hành chúng tôi có bổn phận bảo vệ danh dự và quyền lợi chung của CÐNVTD tại Victoria, nhưng chúng tôi không thể làm được bổn phận thiêng liêng này nếu không có được sự giúp đỡ đồng bào và các hội đoàn đoàn thể trong những hoàn cảnh như thế này.”

Thật hết sức bất công, khi các bạn trẻ trong Cộng Đồng vừa đang phải lo tổ chức Hội chợ Cộng Đồng vừa phải lo vận động $1 cho công lý tại Victoria.

Thật hết sức bất công khi những người đứng ra nhận trách nhiệm Cộng Đồng không quyền lực, không quyền lợi, lại phải đối đầu với thế lực cộng sản, với nghị quyết 36, với công an Việt cộng nằm vùng, với hằng trăm triệu Mỹ kim đảng Cộng sản sử dụng liên tục đánh phá cộng đồng của chúng ta.

Cả lý lẫn tình $1 cho công lý tại Victoria là chính đáng. Và thật hết sức bất công nếu chúng ta không góp công, thờ ơ, bàng quang trước sự kiện.

Bất công nhất là khi thế giới đang lên án hành vi của đảng Cộng sản vi phạm nhân quyền, trấn áp công lý, giam cầm nhục hình hằng ngàn anh chị em đấu tranh cho dân chủ và tòan vẹn lãnh thổ, thì lẽ ra $1 phải dành cho đấu tranh công lý tại Việt Nam.

Xuân sắp tới xin cùng nhau ước mong phía bên kia thay đổi ý định vào phút cuối. Khi đóng góp tôi tin rằng Cộng Đồng sẽ thắng kiện, và án phí sẽ do phía bên kia chi trả, nếu thế hy vọng CĐNVTD tại Victoria sẽ dành một phần cho việc đấu tranh công lý tại Việt Nam. Như thế, $1 cho Công lý tại Victoria cũng đồng nghĩa với $1 cho Công lý tại Việt Nam.
    Cung Chúc Tân Xuân
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
12/2/2010


Thông Báo CĐNVTD-VIC Úc châu: Tòa Sơ Thẩm


THÔNG BÁO CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA.
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 03 9687 9198
Email: nguyenvanbon@cdnvtd.com
CT: Ông Nguyễn Văn Bon


V/v: Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm


Kính thưa:
    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện các hội đoàn đoàn thể,
    - Quý vị đại diện các cơ quan truyền thông báo chí,
    - Toàn thể đồng hương CÐNVTD-Victoria.
Chúng tôi xin thông báo đến toàn thể quý vị: vào ngày 12 tháng 2 năm 2010, CĐNVTD-VIC đã ra hầu toà tại tòa Sơ Thẩm Victoria. Nguyên đơn đã cáo buộc CĐNVTD-VIC “tham lũng” tiền công qũy của cộng đồng.

Kết quả:

Quan tòa tại tòa Sơ Thẩm đã quyết định không xét xử vụ này tại phiên tòa này. Quan tòa cũng đã đồng thời ra một lệnh tòa (court order) đưa vụ việc xuống cho Trung Tâm Giải Quyết Các Tranh Chấp (Dispute Center) tại Broadmeadows để hòa giải. Quan Tòa cho biết rằng dịch vụ của trung tâm này hoàn toàn miễn phí.


Trân trọng thông báo.
TM. BCH-CÐNVTD-VIC

Nguyễn Văn Bon
Chủ tịch
12 – 02- 2010


Thursday, February 11, 2010

Mừng xuân Canh Dần không quên Mậu Thân 1968 tội ác csVN

    Tết Mậu Thân 1968 trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc


Nguyễn Quang Duy

Tết Mậu Thân 1968, quân đội cộng sản vi phạm ngưng bắn mở cuộc tổng tấn công thủ đô Sài Gòn và hầu hết các thành phố tỉnh lỵ tại miền Nam.

Trên bốn mươi năm qua, do thiếu tài liệu và phân tích, chúng ta không quan tâm lắm đến vai trò và chiến lược của nhà cầm quyền Bắc kinh trong biến cố lịch sử này. Chúng ta thường chỉ xem vai trò của họ là viện trợ quân trang, quân cụ, quân nhu cho cộng sản Việt Nam .

Bài viết này dựa trên những tài liệu nội bộ hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc được giải mật để chỉ ra vai trò chỉ đạo và chiến lược tòan cầu của những người cầm quyền Bắc Kinh trong trận tổng tấn công này. Tòan bộ các tài liệu từ phía trung quốc là biên bản các buổi họp bằng tiếng Trung Hoa, được dịch sang Anh ngữ và phổ biến trên mạng "Cold War International History Project" Woodrow Wilson International Center for Scholar. Tài liệu từ phía Việt Nam chủ yếu từ tập tài liệu Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua. Tập tài liệu này được nhà xuất bản Sự Thật cho phổ biến khi chiến tranh Việt -Trung bắt đầu năm 1979.

Từ những năm đầu 1950, khi hai đảng Cộng sản Việt – Trung chính thức lập quan hệ ngọai giao, Trung Quốc đã trực tiếp chỉ đạo và tham gia chiến tranh Việt Nam. Chỉnh quân, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, các chiến dịch quân sự đều được đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các cố vấn Trung Quốc và được huấn luyện bởi các chuyên gia Trung Quốc. Hiệp định Genève chia đôi đất nước đã được Chu Ân Lai trực tiếp đề ra và tiến hành.

Sau 1954, miền Bắc đã xẩy ra một cuộc tranh chấp giữa hai phe lãnh đạo. Phe theo Trung Quốc nắm đa số và luôn luôn thắng thế. Phe thân Liên Sô là thiểu số lại bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam .

Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất đất nước. Ngày 7-1-1959, Hồ chí Minh chính thức xác nhận: “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (1)

Tháng 5-1963, Lưu Thiếu Kỳ đi thăm và đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung Quốc. Hồ chí Minh và Lưu Thiếu Kỳ đã ký một Tuyên Bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế. Tháng 7-1963, Hồ chí Minh họp riêng với Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!”. (2) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra.

Lệnh tấn công

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam. Sau Hội nghị Trung Ương lần thứ 9, nhóm do Lê Duẩn cầm đầu tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Tại hội trường Ba Đình, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung Quốc.” (3)

Để tăng cường xâm nhập miền Nam , ngày 08-04-1965, Lê Duẩn sang Trung Quốc xin quân viện. Lê Duẩn lên tiếng:"Chúng tôi muốn một số phi công và thiện chí quân, ... và những người thiện nguyện khác, bao gồm những đơn vị xây dựng cầu cống, đường sá." (4) Lưu Thiếu Kỳ đáp lại "Đó chính là chính sách của chúng tôi, chúng tôi sẽ làm tốt nhất để đóng góp với các đồng chí." (5)

Tài liệu về phía Việt Nam cho biết: “…về nguyên tắc, đến tháng 6 năm 1965 phía Trung Quốc phải gửi phi công sang giúp Việt Nam . Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1965 Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Trung Quốc đã báo cho Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là phía Trung Quốc không thể gửi phi công sang Việt Nam được vì ‘thời cơ chưa thích hợp’ và ‘làm như vậy không ngăn cản được địch đẩy mạnh oanh tạc’. Trong một cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 8 năm 1966 họ cũng nói: ‘Trung Quốc không đủ khả năng về không quân giúp bảo vệ Hà Nội’ ”. (6) Thay vào đó, Liên Sô đã gởi phi công sang chiến trường Việt Nam .

Tại Hà Nội, ngày 13-4-1965, Tao Zhu, bí thư Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc Nam phân bộ, báo cho Hồ chí Minh Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc và Mao đã giao trách nhiệm viện binh cho 4 tỉnh phía Nam . Để chắc chắn, ngày 16-05-1965, Hồ chí Minh đã sang Trung Quốc hội kiến Mao trạch Đông. Ông trình bày với Mao kế họach xây dựng hệ thống giao thông phía Bắc để tiếp nhận quân viện từ các quốc gia trong khối cộng sản qua biên giới Trung Quốc. Cùng với kế họach xây dựng đường mòn Hồ chí Minh để xâm nhập miền Nam . Ông nói với Mao: "Nếu chủ tịch Mao đồng ý Trung Quốc sẽ giúp, chúng tôi sẽ gởi người của chúng tôi vào Nam ." Mao trạch Đông trả lời:"Chúng tôi chấp nhận. Chúng tôi sẽ làm. Không có vấn đề gì cả." (7)

Ngày 23-3-1966, Lê Duẩn sang Trung Quốc bị Chu Ân Lai chất vấn về việc Việt Nam chính thức kêu gọi viện binh từ các quốc gia cộng sản khác, nhất là từ Sô Viết. Chuyến cầu viện này có lẽ đã thất bại, ba tuần sau Lê Duẩn lại phải sang Trung Quốc một lần nữa. Biên bản buổi họp ngày 13-4-1966, giữa Chu Ân Lai, Đặng tiểu Bình, Kang Shen, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh, được tường trình với nhiều dữ kiện lịch sử quan trọng.

Đặng tiểu Bình cho biết chỉ chưa đến một năm Trung Quốc đã gởi sang Việt Nam 130.000 quân để xây dựng cơ sở hạ tầng chiến lược, hằng chục ngàn quân chiến đấu hiện đang túc trực ở biên giới, đã có những thảo luận về việc Trung Quốc sẽ tham chiến nếu chiến tranh xảy ra. Lê Duẩn góp ý:" Bây giờ đã có hằng trăm ngàn quân Trung Quốc tại Việt Nam , nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu có chuyện nghiêm trọng xẩy ra, ở đó cần thiết 500.000 quân." (8) Phía Trung Quốc cũng miễn cưỡng chấp nhận để Việt Nam nhận viện binh từ các quốc gia cộng sản khác.

Trong cùng buổi họp, Chu Ân Lai tuyên bố dự định sẽ gởi chừng 4 đến 5 tóan nghiên cứu quân sự gồm chừng 100 người vào Nam Việt Nam để trực tiếp quan sát tình hình quân sự. Chu Ân Lai nhấn mạnh các toán này có thể sẽ đến tận ngọai ô Sài Gòn.

Tháng 6-1967, đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân. Ngày 4-7-1967, Võ Nguyên Giáp và Phạm văn Đồng đã sang Trung Quốc tường trình Bắc Kinh tình hình và chiến lược quân sự. Phạm văn Đồng đã báo cáo Chu ân Lai như sau: "Một số chiến lược đang được áp dụng trên chiến trường miền Nam theo lời đề nghị khi trước của các đồng chí. Việc này chứng tỏ chiến lược quân sự của chúng tôi, và của các đồng chí, là chính đáng, với tiến triển khả quan". (9)

"Lấy nông thôn bao vây thành thị" và "vũ trang tổng tấn công" là chiến lược do Mao Trạch Đông đề xướng. Chiến lược này được sử dụng như kim chỉ nam cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân. Nhà cầm quyền Hà Nội còn tin rằng dân chúng miền Nam sẽ nổi dậy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ chạy theo quân đội cộng sản, vì thế họ còn gọi là “cuộc tổng tiến công và nổi dậy”. Điều này đã không xảy ra, ngược lại quân và dân miền Nam đã anh dũng bẻ gẫy, đánh tan tòan bộ cuộc tấn công.

Trong buổi họp, ngày 4-7-1967, Chu ân Lai than thở, ông và các đồng chí của ông đều đã trên dưới bẩy mươi, và nhấn mạnh:"Mặc dù tôi đã già, tham vọng vẫn còn đó. Nếu chiến tranh ở miền Nam không chấm dứt vào năm tới, tôi sẽ thăm các đồng chí và tham quan." (10) Năm tới mà Chu ân Lai muốn nhấn mạnh là Mậu Thân 1968. Điều này cho thấy cả nhà cầm quyền Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều rất kỳ vọng vào chiến thắng quân sự trong cuộc tổng tấn công này.

Phạm văn Đồng cũng đã báo cho Chu ân Lai biết Liên Sô đề nghị Trung Quốc cho gia tăng số lượng quân viện Liên Sô chuyển sang Việt Nam qua ngõ Trung Quốc từ 10.000 lên 30.000 tấn mỗi tháng. Có thể, Liên Sô sẽ gởi một số đầu máy xe lửa sang Trung Quốc. Để sửa sọan cuộc tổng tấn công, riêng nửa năm 1967, Phạm văn Đồng cho biết Trung Quốc đã quyết định viện trợ Việt Nam 500.000 tấn lương thực.

Tài liệu từ phía Trung Quốc cho thấy Liên Sô đã không được báo cáo tường tận cuộc tổng tấn công này. Sau Tết Mậu Thân, Liên Sô đã chỉ trích nhà cầm quyền Hà nội và cho rằng quyết định tổng tấn công Mậu thân là một quyết định sai lầm.

Có thuyết cho rằng có bất đồng trong Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam về quyết định tổng tấn công. Tuy nhiên các tài liệu đã giải mật từ cả hai phía Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không hổ trợ cho thuyết này.

Qua các tài liệu được giải mật từ phía Trung Quốc, chúng ta có thể thấy được vài lý do khiến Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo và tham gia tổng tấn công:

(1) bành trướng ảnh hưởng khối cộng sản nói chung, Trung Quốc nói riêng;

(2) tranh giành ảnh hưởng với Liên Sô;

(3) thất bại xây dựng kinh tế, Trung Quốc cần lý do "giải phóng miền Nam Việt Nam" và " đế quốc Mỹ đe dọa tấn công Trung Quốc" để giải tỏa áp lực từ quần chúng và nội bộ đảng cộng sản Trung Quốc;

(4) thất bại chiếm đóng Đài Loan, Trung Quốc sử dụng miền Nam như một thí điểm quân sự cho chiến lược vũ trang tổng tấn công và nổi dậy;

(5) bất ổn quân sự Nam Việt Nam bắt buộc quân đội Hoa Kỳ phải dồn nỗ lực giải quyết, do đó sẽ giải tỏa áp lực quân sự trực tiếp lên Trung Quốc;

(6) chiến thắng quân sự của cộng sản Việt Nam (nếu có) sẽ tạo uy tín cho các lãnh tụ Trung Quốc, nhất là trong giai đọan cách mạng văn hóa đang được rầm rộ phát động.

Tập tài Liệu “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” tuy không đề cập nhiều đến trận Mậu Thân, lại tố cáo: “Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.” (11)

Theo tài liệu này Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:

“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo. Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy. Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây …”. (12)

Tài liệu cũng tố cáo trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt nam, Trung Quốc, Nam Dương và Lào tại Quảng Đông tháng 9-1963, Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam châu Á”. (13) Để mở con đường xuống Đông nam châu Á, tập tài liệu cho biết: “Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm ‘đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng’ cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm ‘đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng’”. (14)

Tập tài liệu còn cho biết (Trung Quốc): “Ngăn cản nhân dân Việt Nam thương lượng với Mỹ, khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom miền bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M. Taylơ gọi là quyết tâm của những người lãnh đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu Việt Nam, có lợi cho chính sách bành trướng của họ.” (15)

Nạn nhân của Mậu thân 1968 là hàng ngàn thường dân vô tội đã bị cộng sản chôn sống, giết chết hay gây thương tích bản thân. Là những chiến sỹ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh hay mang thương tích do quân đội cộng sản vi phạm ngưng bắn. Là tâm lý của hằng chục triệu người dân miền Nam khi phải chứng kiến tội ác của cộng sản Việt Nam.

Thế nhưng trong khi kế họach tổng tấn công Mậu Thân được sửa sọan ở Bắc Kinh và Hà Nội. Để "bảo đảm bí mật", các thành viên Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, các lực lượng vũ trang Bắc Việt xâm nhập chỉ biết được khi tham gia cuộc tổng tấn công. Đa số cán binh cộng sản bị lường gạt đưa vào cuộc chiến mệnh danh "giải phóng miền Nam" và "nhân dân miền Nam" sẽ nổi dậy phối hợp với họ để giải phóng Miền Nam. Hậu quả của cuộc tổng tấn công là hằng trăm ngàn cán binh cộng sản tử trận, hằng trăm ngàn người còn mang thương tích từ thể xác lẫn tinh thần. Họ và gia đình cũng cần được kể là những nạn nhân của những người cầm quyền Bắc Kinh — Hà Nội trong chiến lược tòan cầu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Trung Quốc.

Một nhân vật được nhiều lần nhắc đến trong bài này, Phạm văn Đồng, ở cuối đời đã sám hối và nhắc nhở các đồng chí của ông như sau: “tất cả chúng ta vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, vừa là công tố, vừa là quan tòa và cũng vừa là bị cáo.”

Mậu thân đã xảy ra 42 năm trước, nhưng trong nội tâm từng người Việt từ cả hai phía Quốc Gia hay Cộng Sản vẫn còn nhiều chia rẽ. Sự chia rẽ làm suy yếu nội lực dân tộc lại chính là thành quả lớn nhất mà những người cầm quyền Bắc Kinh gặt hái trong quá trình 60 năm chỉ đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Mậu Thân nói riêng cuộc chiến Quốc Gia – Cộng Sản nói chung được đặt trong chiến lược tòan cầu của những người cầm quyền Bắc Kinh.

Ngày nay nhiều phần đất ông cha để đã sáp nhập lãnh thổ Trung Quốc. Hằng chục ngàn cây số vuông vịnh Bắc Bộ đã mất vào tay Trung Quốc. Hòang Sa, Trường Sa và Biển Đông đang bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng. Trung Quốc ảnh hưởng từ Trung ương đảng đến hạ tầng cơ sở, từ kinh tế đến chính trị văn hóa, từ tư tưởng đến hành động … Việt Nam được ví như một chư hầu, một bán thuộc địa, một tỉnh nhỏ nghèo của Trung Quốc. Sáu mươi năm chiến tranh hận thù chia rẽ đều nằm trong chiến lược tòan cầu của của những người cầm quyền Bắc Kinh.

Hy vọng xuân Canh Dần năm nay, chúng ta dành chút ít thời gian suy ngẫm sự thực quan hệ Việt – Trung để đồng hướng đến một Việt Nam tự do, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
10/2/2010

(1) Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8, trang 258, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

(2) Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8, trang 457, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

(3) Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, trang 129, Tuổi Xanh xuất bản.

(4), (5), (7), (8), (9) (10) Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar

(6), (11), (12), (13), 14 và (15) Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, 1979, nhà xuất bản Sự Thật.