Monday, February 8, 2010

QUÂN PHỤC của QLVNCH bị đảng VỊT TIỀM thay đổi kiểu mẩu



Bộ Quân Phục QLVNCH từ Quân Phục Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Không Quân, Hải Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh quá đẹp và khi người lính khoác Quân Phục vào người cảm thấy rất là hãnh diện và oai hùng trong bộ Quân Phục của QLVNCH, vậy vì lý do gì đảng Việt Tân lại muốn thay đổi Quân Phục của QLVNCH

Cái gọi là “Hội HO Seattle” Tiểu bang Washington từ lâu đã được nhận diện là công cụ của băng đảng Mafia Việt Tân. Mà đảng Mafia Việt Tân cũng đã được nhận diện là “bàn tay nối dài” của Việt gian CS Hànội. Ngoài nhiệm vụ xâm nhập và đánh phá các cá nhân và tổ chức của người Việt Quốc Gia, bọn Mafia Việt Tân còn tìm cách xoá bỏ tất cả những hình ảnh, biểu tượng gì còn dính dáng tới VNCH, cũng như hướng dẫn dư luận đánh lạc mục tiêu …

Ví dụ: Không dùng chữ Ngày Quốc Hận 30-4 mà gọi là Ngày Quốc Kháng hoặc Ngày Tự Do; cố tình tổ chức Lễ Quốc Hận vào ngày 03-05 là ngày CS Hànội ăn mừng chiến thắng Sàigòn; và còn bày ra chiếc quan tài có phủ lá quốc kỳ VNCH với ngụ ý chôn vĩnh viễn VNCH; Và, thay vì hô hào lật đổ chế độ CS hoặc dẹp bỏ lăng tên Hồ tặc; chúng kêu gọi đòi bọn VC hãy trả lại tên Sàigòn ! Bởi vậy, nay chúng ta không ngạc nhiên khi thấy bọn Mafia Việt Tân lại tung ra “bộ đồng phục” QLVNCH cho các “hậu duệ HO” do chúng sáng tạo, hoặc mặc bộ quân phục của Lính Nhà Đòn rước cờ nhằm xoá bỏ hình ảnh các bộ quân phục truyền thống của QLVNCH là chuyện đương nhiên. GÓP GIÓ.

Trong buổi tiệc tất niên của hội HO Seattle/WA tại nhà hàng Jumbo/Seattle vào ngày 30 tháng 01 năm 2010 vừa qua, Chương trình của buổi tiệc có một tiết mục làm nổi bật đó là Hội HO Seattle giới thiệu đến khách dự bộ đồng phục HO.

Trước ngày tổ chức, có một vài người hỏi chúng tôi về bộ đồng phục mà HO Seattle sắp trình làng vào dịp tất niên, họ hỏi chúng tôi vì đó là những đọc giả của trang web Bia Miệng, họ hỏi cũng bởi lẽ trong nhóm chúng tôi đa số là HO, những người hỏi chúng tôi họ cũng là HO nhưng không sinh hoạt trong hội HO (qua Mỹ theo diện HO). Khi mới nghe chúng tôi hơi ngạc nhiên “đồng phục HO, lạ thật chưa bao giờ nghe nói….”. Chúng tôi hỏi lại đọc giả “anh có biết bộ đồng phục đó như thế nào không? Màu gì? Và họ có nói đến ý nghĩa của bộ đồng phục không?” đọc giả trả lời “Không biết nên mới hỏi các anh thử vì các anh có sinh hoạt trong cộng đồng …”. Chúng tôi nói “Thôi màu gì thì kệ đến ngày đó là biết, anh suy nghĩ gì khi HO có một bộ đồng phục?” “Tại sao lại phải có bộ đồng phục HO, để làm gì ? Hàm chứa gì?…” “Chúng tôi đoán cũng chẳng ra, nhưng chắc là họ có cách giải thích đến với anh em HO nói riêng và đồng hương nói chung, “chờ xem”.

Chuyện cũng đã đến, trong buổi Lễ tất niên, Hội HO Seattle đã giới thiệu đến mọi người bộ đồng phục HO màu rằn ri, trước ngực và cầu vai đều có dấu hiệu, một bên ngực là “HO Seattle” bên ngực khác ”tên tuổi”, vai bên phải là lá cờ VNCH, bên trái quân, cán,chính ”đầu thì chiếc nón “bê-rê” màu cam. Bộ đồng phục là vậy, các cháu nhỏ lẫn những HO mặc đồng phục lên trình diễn ở sân khấu trông rất oai vệ, trước mắt thực khách là một quang cảnh rất lạ mắt, lạ mắt vì một bộ đồng phục ? Quân phục? lòe loẹt hơn các binh chủng của VNCH, lạ mắt nhất là chiếc bê-rê màu cam rực rỡ … Nhưng thôi, chuyện đó thuộc thẩm mỹ, cách trang sức nổi bật là do tài của các nhà design của HO, chúng ta không bàn tới. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói đến là ý nghĩa của bộ đồng phục (quân phục?).

Quân lực VNCH có nhiều binh chủng, mỗi binh chủng đều có sắc áo riêng cho binh chủng mình, sự khác biệt đó làm cho binh chủng của mình có niềm tự hào, niềm tự hào ”màu cờ sắc áo”. Ngay cả những quân trường lớn đào tạo ra cấp chỉ huy cũng có những bộ đồng phục riêng của họ, ví dụ như trường bộ binh Thủ Đức, Đà Lạt, Hải quân, Không quân v.v... Màu quân phục người lính mang trên người của họ đó không biết bao xương máu của đồng đội ngã xuống để tô điểm cho sự kiêu hùng của binh chủng mình, bộ quân phục là những gì thân thương trong suốt quãng đời binh nghiệp của người lính. Người lính nhảy dù kiêu hãnh với chiếc nón đỏ, với bộ đồ rằn ri màu huyết, người cán bộ xây dựng nông thôn họ cũng tự hào về bộ đồ đen của họ. Dù là lớn hay nhỏ, quân sự hay bán quân sự bộ đồng phục trên người là một sự gắn bó thân thương cùng kiêu hãnh, tự hào. Máu xương đã tô điểm cho sự oai hùng của bộ quần áo trên người lính. Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham mưu mới có thẩm quyền quyết định về những sắc áo của một binh chủng, bộ quân phục của mỗi binh chủng không phải tự ý, tùy hứng của một đơn vị nào đó lập ra.

Các ông trong ban chấp hành H.O Seattle nghĩ gì? Muốn gì?… Khi dựng ra bộ “đồng phục H.O”? Một bộ đồng phục của quân đội (quần, áo, giày) như vậy có ý nghĩa gì? Các ông muốn xóa bỏ những bộ quân phục của QLVNCH? Những bộ đồ Nhảy dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt động Quân, Bộ Binh, Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Trường Thủ Đức, Quân Trường Đà Lạt, Hải Quân, Không Quân. Các ông muốn quên, muốn xóa bỏ? Mỗi hội đoàn, cơ quan, đoàn thể hay công ty đều có quyền chọn cho đơn vị mình một bộ đồng phục, không ai cấm cản, nhưng bộ đồng phục đó là bộ đồ của dân sự, thật là quái đản khi một tổ chức dân sự nào đó chọn bộ đồ đồng phục cho tổ chức mình là bộ đồ nhà binh.. Phải chăng đây là một việc làm có chủ đích? Chúng tôi muốn bàn sơ qua về việc “Cố tình” hay “Vô tình”.

Ở hải ngoại có hai sự kiện cố tình thay đổi đã bị người Việt tỵ nạn phản đối mạnh mẽ:

1. Đảng Việt Tân xóa bỏ ngày Quốc hận 30/4/75 thay thế vào đó là Ngày tự Do, nhưng thất bại vì có sự phản đối của hầu hết người Việt tỵ nạn Công Sản.

2. Đảng Việt Tân muốn lấy ngày giổ Tổ Hùng Vương làm ngày Quốc khánh (bỏ đi ngày Quốc khánh của VNCH trước đây). Chuyện này VT cũng đã thất bại vì có nhiều phản đối.

Điểm thứ nhất mà VT muốn thay đổi là làm mất đi ý nghĩa chính của ngày 30/4/75, vì ngày đó là một ngày quá đau thương của đất nước do VC gây nên.

Điểm thứ hai VT muốn thay đổi với mục đích xóa dấu vết của VNCH.

Chúng ta cũng thấy bọn VC cố gắng xóa những gì của VNCH còn sót lại, ngay cả những di tích của người tỵ nạn ở các trại tỵ nạn.

Có hai trường hợp để lý giải về “BỘ ĐỒNG PHỤC H.O”

a. Đàng sau lưng của hội H.O Seattle có một tổ chức bất chính, tổ chức này xúi dục hội H.O Seattle thực hiện bộ đồ đồng phục với mục đích xóa bỏ những bộ đồ quân phục của quân lực VNCH. Những người H.O là những người thuộc Quân, Cán, Chính của VNCH đã bị tù từ 3 năm trở lên qua định cư tại Mỹ, khi H.O có bộ đồ đồng phục nhà binh mới thì những người H.O đó không còn bận màu áo ngày xưa của họ nữa khi có Lễ lộc (xin đừng nguỵ biện là chúng tôi tạo ra là “để lưu danh hậu thế” chứ không xử dụng). Không khác gì hai trường hợp mà VT đã làm nêu ở trên.

b. Có thể đây cũng là do những người trong ban chấp hành hội H.O Seattle nghĩ ra, nghĩ ra một chuyện gì đó để ”lưu danh đời sau”, xuất phát từ mặc cảm tự ty, không có khả năng hướng dẫn hội trong sinh hoạt, những người này thường thường suy nghĩ mông lung, muốn thực hiện những chuyện không tưởng hoặc là đẻ ra những sự kiện “khác người”. Họ cho sáng kiến của họ là chưa ai nghĩ tới hay thực hiện,”cao kiến” này thường có ở những người có đầu óc không lành mạnh, không có tri thức.

Nhắc lại quá khứ một chút, những người trong ban chấp hành H.O do ông Văn A Sáng là chủ tịch, ban chấp hành này cũng như ông Sáng nhiều năm về trước cũng đã “lãnh đạo” H.O nhưng không làm được gì cả, sinh hoạt tê liệt, chỉ có tên mà thôi. Bây giờ hội H.O Seattle do Văn A Sáng cầm đầu với sự cộng tác của nhóm cà-phê gồm các ông: Nguyễn Văn Lực, Trần Tươi … trong một vài năm vừa qua đã có những hoạt động đáng kể, coi như là “quá được việc”. Như tham dự diễn hành văn hóa bên xe hoa có tấm quảng cáo chợ Viet-Wah, có sự cộng tác của ông NXD, năm vừa rồi cũng vậy tổ chức diễn hành đó do Denny Diep Dang chủ xị, ông này là cựu giám đốc tổ chức Peace Tree (tổ chức này đón đại sứ VC Lê Công Phụng). Sinh hoạt nổi bật nhất của H.O là tất niên vừa qua, chúng ta nhận thấy đủ bá quan văn võ của những thành phần bất chính, những thành phần miệng thì hô ”tẩy chay VC” nhưng tay thì bắt với những thành phần liên hệ trực tiếp với VC, điển hình như ông NXD lúc nào cũng vỗ ngực xưng tên ”ta đây chống VC” nhưng lại ngồi chểm chệ trong nhà hàng Tea Palace với Huỳnh Thi, Q Nguyễn (hai nhân vật này về VN họp với VC). Hội H.O của Văn A Sáng có đông khách tham dự, chơi nổi là nhờ những thành phần bất chính nêu trên, Văn A Sáng hay ông ông già Lực đầu bạc, Trần Tươi … chẳng làm được gì cả, được sự giúp đỡ thì phải theo, được bơm thì khoái như vậy mới thỏa mãn được cái tính ”tự ty mặc cảm”. Bộ đồ đồng phục H.O phát sinh từ đó. Chắc chắn rằng ông Sáng, ông Thận không hiểu gì về sự nguy hiểm khi các ông ấy nghĩ cũng như thực hiện “làm cái gì đó để lưu danh hậu thế”.

Nếu giả dụ mộng ước các ông thành sự thật, con cháu các ông sau này chỉ nhớ đến bộ đồ các ông mà quên đi bộ đồ mà cha ông nó đã hy sinh xương máu thì chắc các ông hãnh diện lắm nhỉ? Là anh em HO với nhau, đã từng cộng tác với nhau tôi không muốn nâng quan điểm, nhưng quả thật việc làm của các ông ngu xuẩn và nguy hiểm vô cùng. Một điều nếu mọi người HO trên nước Mỹ tùy theo sáng kiến của mình tạo nên một bộ đồ đồng phục riêng thì tập thể HO chắc là nhộn nhịp màu sắc lắm hai ông nhỉ?

Muốn lưu danh hậu thế rất dễ ông Sáng ạ!, chỉ cần ông giữ vững lập trường Quốc Gia chống cộng, theo đuôi những tên ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, lưng chừng bán rẻ lương tâm là được rồi, con cháu ông và hậu thế sẽ vô cùng hãnh diện về các ông, cần gì một bộ đồ. Thái Nhật Lỉnh là tên ăn trộm, các ông đã đọc 6 trang report về TNL chưa ? Một người bị còng tay đưa vào tù về tội hình sự xứng đáng để các ông tung hô không? TNL là đàn em của Quang Nguyễn, Huỳnh Thi. Trần Trung Dũng là do TNL đẻ ra thế mà các ông hãnh diện dâng diễn đàn cho Trần T Dũng đọc diễn văn thì quần chúng nghĩ gì về tập thể HO, đồng thời lưu manh dàn dựng để xỉ nhục ông Nguyễn Minh Đường là người các ông biết quá rõ.

Người lính quân lực VNCH không được tạo ra bộ đồ đồng phục mang sắc thái quân đội nào khác ngoài những bộ đồ của các binh chủng, lực lượng thuộc VNCH trước đây. Vì những bộ đồng phục ấy là do chính phủ VNCH chỉ thị cho bộ Quốc Phòng & Tổng Tham Mưu, không thể nguỵ biện là “bây giờ đâu có chính phủ hay bộ tổng tham mưu nữa”… Ai có quyền cấm ai ... hợp pháp mà, nếu sai thì đi kiện đi ….”. Một điều mà mọi người đều công nhận là “Tinh thần của người lính VNCH chưa chết” . TỔ QUỐC- DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM mà người quân nhân mang trên đầu, trên vai, trên ngực cấm người quân nhân không được phép tạo ra một bộ đồng phục (từ đầu đến chân là quân phục). Trong tình trạng hiện tại người quân nhân QLVNCH (nói riêng) bắt buộc phải giữ gìn những gì mà ngày trước mình có, không ai có quyền xóa bỏ, lập nên cái mới. Sửa cái cũ thành cái mới không phải là hay, là giỏi (tuỳ thuộc vào mỗi vấn đề). Thật là buồn cười khi chúng ta nghe kể về sự ngu dốt của nhà cầm quyền VC, khi họ tu bổ lại lăng tẩm, di tích lịch sử, thay vì họ tu bổ thế nào để vẫn còn giữ nguyên những nét cổ xưa của di tích thì họ lại làm mới hoàn toàn (làm mất đi gía trị di tích lịch sử).

Các ông trong ban chấp hành hội H.O Seattle “sáng kiến” bộ đồ đồng phục HO để tự hào như các ông nói chăng? Bộ quân phục mà các ông đã bận trong suốt thời gian chinh chiến để gìn giữ sự Tự Do, bộ quân phục đã dính vào những người bạn, đồng đội đến hơi thở cuối cùng không đủ để các ông tự hào hay sao, mà các ông phải lập nên cái mới? Những bộ quân phục ngày trước nhiều người có quá phải không?. Các ông phải làm cho lạ, cho nổi bật, làm những gì mà không ai dám làm phải không? Bộ đồng phục H.O Seattle ra đời làm rạng danh ông chủ tịch Văn A Sáng, P.văn Thân, Nguyễn Văn Lực, Trần Tươi. Đầu óc hẹp hòi của các ông không thể nào làm thay đổi gì được cả, đừng nuôi những ảo tưởng, anh em cựu quân nhân, HO không mờ lương tri hết như một số người thù tạc với các ông, họ đã thấy được tất cả cái mưu mô đen tối trong những con người ích kỷ. Các ông chỉ là những con “Rô-Bô” cho những tay chính trị xôi thịt, cho những kẻ lương tâm bị đánh mất. Xin nhìn lại những gì các ông làm, xin nhìn cho kỹ những khuôn mặt mà các ông cộng tác, các ông nép mình v..v.. Con đường các ông đang hí hửng theo, con đường đó là sự phản bội lại đồng đội (chúng tôi có bằng chứng về sự phản bội đó).

Chúng tôi xin gởi đến các ông lời nhắn của cự chỉ huy trưởng của trường bộ binh Thủ Đức, quân trường đào tạo ra các ông. Cố đại tá Trần Đức Minh (chỉ huy trưởng cuối cùng trường bộ binh Thủ Đức). Khi còn sống ông gọi các vị làm hội trưởng Thủ Đức lên căn dặn ”Các anh làm gì thì làm, nhưng đừng đi theo VT bán đứng Hội, nếu như vậy thì nằm nhà còn hơn …”. Câu nói này trước khi chết ông cũng gọi ông Nguyễn Đình Lãng lên trăn trối.

Không thể chấp nhận những sáng kiến ”quái gở” của hội H.O Seattle, một sáng kiến đã thực hiện có tính chất phỉ báng cùng chối bỏ những bộ quân phục thuộc chính phủ VNCH. Chúng tôi kêu gọi các anh em cựu quân nhân, các anh em thuộc các lực lượng bán quân sự, các anh em H.O hãy tẩy chay bộ đồng phục H.O Seattle /WA đã trình diễn trong dịp tất niên vừa qua (30 tháng 12 năm 2010 tại nhà hàng Jumbo). Chúng tôi cũng mong mỏi sự lên tiếng của mọi người Việt tỵ nạn nhất là các cựu quân nhân khắp nơi trên thế giới.

Chúng tôi yêu cầu ban chấp hành hội H.O Seattle do ông Văn A Sáng làm chủ tịch huỷ bỏ bộ đồng phục mà các ông đã cho ra đời vừa qua.

Chúng tôi yêu cầu hội H.O Seattle làm sáng tỏ sự việc này bằng cách mở một buổi hội thảo trong cộng đồng mời các anh em cựu quân nhân, HO … để giải thích sự việc này.

Chúng tôi kêu gọi các hội đoàn, đoàn thể, tổ chức không cho những người bận bộ đồ đồng phục H.O đến tham dự bất cứ buổi Lễ nào do hội đoàn, đoàn thể tổ chức.

Nhóm chủ trương websiste Bia Miệng
** Bài sẽ cập nhật nay mai và sẽ đính kèm thêm một vài tài liệu liên quan.
** Mọi ý kiến thắc mắc hay muốn đối thoại xin liên lạc với chúng tôi qua hai số điện thoại sau đây:
-(206)355-94044 - (206)816-2924



Hiện tượng "Trăm hoa đua nở" kiện các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS: Chúng ta phải làm gì? - Nam Dao

Nam Dao

Sau khi đọc thông báo khẩn của Cộng đồng người Việt Tự do Victoria về chiến dịch vận động đóng góp "1 Đồng Cho Công Lý" của Ủy ban Pháp lý CĐNVTD-VIC và thực hiện cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC liên quan đến vấn đề này, tôi chợt nhớ lại những gì đã xảy ra cho các cộng đồng người Việt tỵ nạn khác trên thế giới.

Cách đây hơn 5 năm (2004) Cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hoà Lan vì tổ chức biểu tình phản đối văn hóa vận của CSVN nên đã bị người tổ chức đêm văn nghệ khởi tố với lý do những cuộc biểu tình đó đã gây thiệt hại tài chánh cho họ. Đồng bào tại địa phương đã tổ chức những bữa ăn gây qũy, cộng với sự hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất của đồng bào khắp thế giới, nên Ban Chấp hành mới có tiền ra tòa để rồi chiến thắng vẻ vang về mặt pháp lý. Điều quan trọng hơn hết là Cộng đồng đã bảo vệ được chính nghĩa của người Việt tỵ nạn ở Hoà Lan để cho lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tiếp tục bay cao trong những cuộc biểu tình tại Hoà Lan nói riêng và khắp thế giới nói chung.

Tiếp theo là chuyện Hội người Việt Tỵ nạn Cộng sản tại Hamburg và vùng phụ cận cũng bị người tổ chức văn nghệ làm đơn kiện về "Bản Tuyên cáo ngày 9/11/09 của Hội NVTNCS tại Hamburg kêu gọi tẩy chay đêm văn nghệ VN By Night 24/12/09". Phiên tòa xử ngày 24/12/09 đã bắt kẻ kiện phải bồi thường chi phí tiền tòa cho phía bị cáo buộc.

Rồi một vụ kiện khác xảy ra ở Mỹ: một nữ Phật tử dưới tuổi thành niên đã vu cáo một vị sư có những hành vi "khuấy nhiễu tình dục" trong lúc cô mở tủ lạnh trong nhà bếp tại chùa. Kẻ đâm đơn kiện đã bị thua vì những bằng chứng và hình ảnh cho thấy ở thời điểm đó những vật dụng nhà bếp và tủ lạnh đã được ... gỡ sạch để tân trang nhà bếp! Nếu như bếp nhà chùa lúc đó không đem sửa chữa thì vụ kiện hẳn sẽ kéo dài và gây biết bao tổn phí kiện tụng. Điều đáng lưu tâm là dẫu rằng toà án đã tuyên xử vị sư nọ vô tội, nhưng cách đây không lâu, tôi vẫn đọc được trên một diễn đàn lá thư email của một người vẫn còn tiếp tục bôi nhọ vị tu hành.

Điều này cho thấy những người muốn phá hoại các tổ chức cộng đồng và tôn giáo của người Việt tỵ nạn CS, có sẵn một đội ngũ tuyên truyền xuyên tạc để phát tán những lời vu khống của họ. Khi niềm tin đồng bào bị lung lay bởi những chiến dịch xuyên tạc sự thật đó thì các cộng đồng chống cộng sẽ bị suy yếu. Và nếu như không có những người bạn ở Mỹ kể rõ sự tình thì hẳn nhiên những người ở xa không có thì giờ theo dõi tình hình tất phải đặt những câu hỏi trong đầu và từ đó có thể mất niềm tin nơi những người bị cáo buộc oan ức.

Qua ba vụ kiện nêu trên, chính nghĩa của Cộng đồng các nơi vẫn thắng là nhờ vào sự trưởng thành về ý thức công bằng và tinh thần đoàn kết của đồng bào tại đó, cũng như của các hội đoàn và đồng bào ở các nơi khác quyết tâm không bỏ rơi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi hầu bảo vệ thành trì cộng đồng ở hải ngoại. Chính nghĩa lá cờ vàng ba sọc đỏ ở những nơi đó vẫn tiếp tục ngạo nghễ bay được là nhờ hành động cụ thể hỗ trợ tài chánh cho những người bị cáo buộc có cơ hội được giải bày trước tòa.

Trông người rồi ngẫm chuyện của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn tại Úc châu của chúng ta. Sau việc BCH Cộng đồng người Việt Tự do Victoria kêu gọi đồng bào biểu tình phản đối cuộc triển lãm Impressive Vietnam tại Crown Casino vào tháng 2/2009, mà theo CĐ đã phá vỡ ý đồ văn hoá vận của CSVN, CĐ đã khám phá ra một thành viên của CĐ đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình và đã yêu cầu đương sự ra trình bày tại một phiên họp khoáng đại của CĐ với sự hiện diện của 60 hội đoàn, đoàn thể ở Melbourne. Nhưng đương sự đã không đến mà sau đó còn kiện về tội phỉ báng ông Nguyễn Thế Phong là đương kim Chủ tịch CĐNTVTD Liên bang Úc châu, cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC và cũng là người đã đứng mũi chịu sào tổ chức những cuộc biểu tình chống cộng suốt mấy năm qua. Không ai quên được vai trò của CĐNVTD Úc châu trong chiến thắng cờ vàng thật vẻ vang nhân dịp Đại hội Giới trẻ Công giáo Thế giới năm 2008. Không ai phủ nhận được tầm quan trọng của biến cố ấy giữa khi CSVN liên tiếp tung ra những cuộc đàn áp tôn giáo mà tất cả chúng ta đều biết đến.

Kể từ khi ông Nguyễn Thế Phong bị kiện, những truyền đơn hay những poster với nội dung nói xấu ông bỗng nhiên được phát tán hoặc dán ở những khu phố chợ Việt tại Melbourne, đồng thời những lời rỉ tai tiêu cực cũng ngày càng lan ra. Thậm chí bây giờ có một vài người nói với tôi: "Tôi không góp tiền cho quỹ Công lý vì có người nói xấu về ông Phong". Tại sao chúng ta lại nhẹ dạ nghe theo những lời đồn đại đó mà không tin tưởng vào sự công minh của nền luật pháp nước Úc? Ở một xã hội tiến bộ, chúng ta đều hiểu rõ nguyên tắc "một người được xem là vô tội cho tới khi người đó bị xử là có tội" (innocent until proven guilty). Đấy là luật pháp của xã hội văn minh nơi chúng ta đang sống và là cách hành xử của một xã hội nhân bản mà tất cả chúng ta, khi bỏ nước ra đi, vẫn hằng ao ước cho đất nước mình.

Nhưng nói như thế có nghĩa chăng là chúng ta sẽ thờ ơ, khoanh tay đứng nhìn, chờ đợi xem phán quyết của toà án là gì? Cũng không thể được, bởi vì nếu không có tiền hầu toà thì coi như CĐNVTD-VIC cùng ông Chủ tịch Nguyễn Thế Phong sẽ không thể có cơ hội tự biện minh trước tòa. Phải hiểu rõ là CĐNVTD-VIC và ông Phong bị người ta cáo buộc. Nếu không có tiền ra toà thì làm sao chứng minh được là mình không có lỗi? Không có gì oan ức cho bằng một tổ chức hay một cá nhân bị coi như là phạm lỗi chỉ vì mình không đủ phương tiện để tự bênh vực.

Và đó là lý do tại sao quỹ mà CĐNVTD-VIC lập ra mới lấy tên là "1 Đồng Cho Công Lý". Thưa phải, CÔNG LÝ. Công lý cho người bị cáo buộc. Nếu chúng ta căm phẫn khi nhìn thấy Linh mục Nguyễn Văn Lý bị công an CSVN bịt miệng trước toà án Cộng sản, thì chúng ta cũng không thể cầm lòng để cho một tổ chức cộng đồng chính danh của người Việt tỵ nạn chúng ta, cùng một người đã hết lòng phục vụ cho cộng đồng của chúng ta, bị bịt miệng bởi vì thiếu sự hỗ trợ của chúng ta. Sự đóng góp của chúng ta cho chiến dịch "1 Đồng Cho Công Lý" quan trọng là vì vậy.

Tôi thiển nghĩ, giả sử CĐ Victoria và ông Nguyễn Thế Phong không có tiền ra hầu toà mà bị hàm oan, thì lương tâm của chúng ta sẽ bị cắn rứt đến thế nào? Và ai sẽ là kẻ ngồi cười khoái trá? Xin thưa, một vài người, trong đó chắc chắn là có Cộng sản Việt Nam. Làm sao chúng ta có thể để cho điều này xảy ra? Vì vậy mà tôi tin rằng đồng bào tại Úc đã trưởng thành và sẽ hành động không thua gì đồng bào tại Hoà Lan, Hamburg hay Mỹ.

Từ mấy năm qua, đồng bào Úc châu nói riêng và cộng đồng hải ngoại nói chung không ai mà không hãnh diện về những thành quả đấu tranh mà CĐNVTD Úc châu và Victoria đã đạt được, từ chiến thắng VTV4, những biểu tình đập gãy ý đồ văn hoá vận của Nghị quyết 36, những cuộc "dàn chào" rầm rộ khiến lãnh đạo CSVN phải chui vào cửa hậu mà lánh mặt, cho đến cuộc biểu dương thật đáng tự hào nhân Đại hội Giới trẻ Thiên Chúa giáo. Chúng ta nỡ lòng nào làm ngơ khi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi cho chúng ta bị gặp khó khăn?

Nhìn rộng hơn ra ngoài địa bàn Victoria, hẳn chúng ta thấy rõ cuộc chiến gay go đang diễn ra khi CSVN tung ra những số tiền to lớn nhằm phá sập cộng đồng của chúng ta tại nhiều nơi. Nếu những cộng đồng đó, vì lý do nội tại hay vì bị tấn công, gặp khốn đốn thì chắc chắn tiềm năng chống cộng của người Việt sẽ bị suy yếu. Khi một nơi bị suy yếu thì sẽ kéo theo chung những nơi khác, và do đó những chuyện xảy ra ở Victoria - hay ở bất cứ nơi đâu - không chỉ là chuyện của Victoria mà phải là chuyện của tất cả chúng ta. Đã đến lúc mỗi cá nhân người Việt tỵ nạn ở hải ngoại cần tỏ rõ thái độ quyết liệt của mình.

Với dân số trên ba triệu người Việt tỵ nạn ở hải ngoại, chỉ cần mỗi người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra "1 Đồng Cho Công Lý" để bảo vệ thành trì cộng đồng ở khắp nơi thì không một thế lực thù địch nào có thể thắng được chúng ta.

Trong cơn hoạn nạn, hãy thương yêu mà đùm bọc lẫn nhau. Nếu chúng ta không làm chuyện này thì không ai khác sẽ làm được cho chúng ta.

Nam Dao
===


Trích cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC về cuộc Vận động gây Quỹ pháp lý tại Victoria, do Nam Dao thực hiện

Về những sự kiện pháp lý chung quanh vụ kiện

Ông Nguyễn Văn Bon: Kính thưa Chị, vì lý do pháp lý, rất tiếc chúng tôi không thể có ý kiến hay đi vào chi tiết của những vụ kiện vào thời điểm này ngoài việc sơ lược là:

1. Một cá nhân trong cộng đồng đã đệ đơn kiện ông Nguyễn Thế Phong, Cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC (nhiệm kỳ 2007-09) tại tòa Trung thẩm Victoria (County Court) với lời cáo buộc rằng ông Chủ tịch CĐNVTD-VIC đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng. Phiên tòa sẽ được xử vào tháng 3 năm 2010, thể theo luật sư cho biết phí tổn của tòa án có thể lên đến hơn $6,600 một ngày và có thể kéo dài đến 7 hoặc 10 ngày.

2. Một số cá nhân khác và cá nhân đang kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm cũng đệ đơn tại tòa Sơ thẩm Victoria (Magistrate Court) cáo buộc rằng Ban chấp hành CĐNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã tham lũng công quỹ của cộng đồng. Nội vụ đang được phân xử tại tòa Sơ thẩm với một phiên tòa vào trung tuần tháng 2 năm 2010.

Đứng trước sự việc nêu trên, Cộng Đồng chúng ta buộc phải hầu tòa và chống lại những cáo buộc mà nguyên đơn đã đưa ra. Ban chấp hành chúng tôi và Ủy ban Pháp lý vì thế đã ra thông báo thiết tha kêu gọi sự đóng góp và hỗ trợ của đồng bào tại Victoria hầu trang trải cho những luật phí to lớn này.

Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban chấp hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội quy CĐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của ông.

Về bối cảnh đưa đến việc ông cựu Chủ tịch Cộng đồng Victoria bị thưa tòa Trung thẩm

Ô. Bon: Thưa chị, ông Nguyễn Thế Phong, đầu năm 2009, với tư cách là Chủ tịch Ccộng đồng đã triệu tập một phiên họp đặc biệt của Cộng đồng để tường trình và yêu cầu một cá nhân có liên hệ ra tại phiên họp này để trình bày và giải đáp những thắc mắc của các hội đoàn đoàn thể và đồng bào tại Victoria về một bằng chứng cho thấy cá nhân này đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình chống CSVN của CĐNVTD-VIC. Cá nhân này đã không đến dự nhưng sau đó cáo buộc rằng ông Chủ tịch CDNVTD-VIC đã mạ lỵ và vu khống ông ta là cộng sản, là tay sai của CSVN và đánh phá cộng đồng chống Cộng. Nội vụ đã trải qua giai đoạn hòa giải nhưng không đi đến kết quả và cho đến ngày hôm nay nguyên đơn vẫn tiếp tục khởi tố và ông Nguyễn Thế Phong, hành xử trong cương vị chủ tịch của CĐNVTD-VIC, sẽ phải ra tòa Trung thẩm vào tháng 3 năm 2010 tới đây, thưa chị.

Về phiên tòa Sơ Thẩm

Ô. Bon: Cá nhân kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm và hai cá nhân khác cũng đồng thời nộp đơn theo hình thức dân sự (civil matter) tại tòa Sơ thẩm Victoria cáo buộc Ban chấp hành Cộng đồng người Việt Tự do đã tham lũng công quỹ và xử dụng tiền cộng đồng trái phép. Ban chấp hành chúng tôi và Cộng đồng đã chính thức ủy nhiệm cho ông Nguyễn Thế Phong đại diện cho Cộng đồng trong vụ này, vì ông là người lãnh đạo BCH-CĐ trong những khoản thời gian mà nguyên cáo cáo buộc. Nội vụ hiện còn đang tiến hành tại tòa Sơ thẩm Victoria thưa chị và Ban Chấp Hành chúng tôi đã và đang hợp tác một cách tích cực và trung thực với những gì Tòa án đòi hỏi, hầu làm sáng tỏ những lời cáo buộc của nguyên đơn.

Về cách đóng góp cho Cộng đồng trong việc này

Ô. Bon: Các hội đoàn đoàn thể và đồng hương tại Victoria muốn đóng góp vào Quỹ "$1 Cho Công Lý" này của CĐVTD-VIC có thể đóng góp qua văn phòng cộng đồng tại 214 Nicholson St, Footscray 3011 hoặc gởi trực tiếp vào trương mục của Quỹ Pháp lý Cộng đồng với chi tiết như sau:

Ngân hàng: Commonwealth Bank of Australia
Tên trương mục: VCA-VIC Uy Ban Phap Ly
Số trương mục: (063020 BSB) 10395572


Guiness World Record: Sword Swallower



Internationally renowned street performer The Space Cowboy, Chayne Hultgren,
successfully swallows 18 swords during a Guinness World Record attempt in Martin Place, Sydney,
Monday, Feb. 8, 2010. The swords' blades measured 72 centimetres long


Sunday, February 7, 2010

Mr "Cow" muốn tăng ngân sách “Quỹ Giáo Dục VN”

Westminster, California – Trong một cuộc họp báo được coi là không chính thức với một số cơ quan truyền thông Việt ngữ của Little Saigon, tổ chức tại trụ sở nhật báo Người Việt hôm Chủ Nhật, 17 tháng 1, vừa qua, DBLB Joseph Cao (Cộng Hòa-Louisiana) cho biết ông muốn tăng gấp đôi ngân sách cho Quỹ Giáo Dục Việt Nam (Vietnam Education Fund-VEF) trong thời gian tới để có thể đưa thêm sinh viên Việt Nam sang học tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông và hai đồng viện sẽ mời Tổng Thống Barack Obama tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức tại Hà Nội, vào tháng 10 tới đây.

Đây là lần thứ nhì vị DBLB gốc Việt đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ tổ chức họp báo sau khi đi thăm Việt Nam, Cambodia, Lào và Nhật, từ ngày 3 đến 12 tháng 1.

Hôm Thứ Tư tuần trước, ông Joseph Cao có tổ chức một cuộc trả lời phỏng vấn qua điện thoại, tại văn phòng ở Washington, DC, và dành cho một số cơ quan truyền thông Việt ngữ.

Trước gần một chục cơ quan truyền thông hôm Chủ Nhật, DB Joseph Cao nói: “VEF do TNS John Kerry đưa ra, hiện nay chỉ có ngân sách $6 triệu/năm, và chỉ đào tạo sinh viên Việt Nam các ngành khoa học. Tôi muốn tăng gấp đôi ngân sách này để có thể đưa thêm sinh viên sang Mỹ học các ngành khoa học xã hội, như khoa học chính trị, xã hội học …”

“Tôi có nói chuyện với đại sứ Michael Mikhalak và ông nói TNS John Kerry cũng bắt đầu dòm ngó hướng này. Vào tuần tới, tôi dự định ngồi xuống với ông Kerry để nói chuyện tăng gấp đôi ngân sách cho VEF,” DB Joseph Cao nói tiếp.

Trong cuộc họp báo trước đó, DB Joseph Cao cũng xác nhận ông đã yêu cầu đại sứ Michael Mikhalak nới lỏng luật lệ để sinh viên Việt Nam dễ dàng có chiếu khán vào Mỹ.

Ông nói thêm: “Tôi nghĩ người dân phải có đủ kiến thức mới thay đổi đất nước. Ai cũng yêu dân, yêu nước. Và điều này không có nghĩa là ủng hộ Cộng Sản.”

“Yêu dân, yêu nước là một chuyện. Thay đổi chế độ Cộng Sản là một chuyện khác,” DB Joseph Cao nhấn mạnh.

Và ông giải thích thêm: “Khi nói ‘hợp tác’ không có nghĩa là bạn của họ (chế độ Việt Nam hiện nay). Đây chỉ là đưa lại thay đổi. Yêu dân, yêu nước là trách nhiệm.”

Về tình hình an ninh, DB Joseph Cao cho biết ông và hai đồng viện trong phái đoàn đi Việt Nam, DB Mike Honda (Dân Chủ-California) và ĐB Eni Faleomavaega (Dân Chủ-American Samoa), sẽ mời Tổng Thống Hoa Kỳ tham dự cuộc họp của ASEAN.

“Trung Quốc đang gia tăng sức mạnh quân sự tại Biển Đông. Ba chúng tôi sẽ mời Tổng Thống Obama tham dự thượng đỉnh ASEAN để có thể kềm hãm Trung Quốc. Chúng tôi trong Quốc Hội phải lên tiếng về vấn đề này để mang lại sự ổn định trong vùng,” DB Joseph Cao tuyên bố.

Trước đó, ông Joseph Cao cũng cho biết sơ qua về chuyến đi Việt Nam của ông. Trước chuyến đi, ông đã yêu cầu (1) được tiếp xúc với các thành phần bất đồng chính kiến đang bị đàn áp và (2) lên tiếng trực tiếp với chính quyền Việt Nam về những vấn đề quan tâm chung của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong đó có bản thân ông.

Ông cho biết, trước chuyến đi, văn phòng của ông đã gởi cho tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội danh sách những nhà bất đồng chính kiến mà ông muốn gặp, nhưng ông thất vọng khi phái đoàn Quốc Hội Mỹ lại thỏa thuận với Việt Nam là không gặp ai cả, ngoài những thành phần mà chính quyền Việt Nam chỉ định và sắp xếp. Đó là điều kiện để đoàn được đến Việt Nam.

“Sau khi hội ý với một số nhân sự đáng tin cậy, tôi quyết định vẫn tham gia phái đoàn vì vẫn có cơ hội thực hiện mục đích thứ hai,” DB Joseph Cao nói.

Ông Joseph Cao cho biết thêm, tại mỗi buổi họp, ông đều nêu lên các vấn đề trả tự do cho tù nhân lương tâm, ngưng ngay đàn áp tôn giáo, tôn trọng tài sản giáo hội, cải tổ luật pháp để có sự minh bạch trong kinh tế và tôn trọng tác quyền.

Về vấn đề giáo dục, DB Joseph Cao cho biết có nói chuyện với đại sứ Michael Mikhalak và được biết Việt Nam muốn Mỹ mang hệ thống giáo dục đại học vào. Hiện nay, hai đại học Harvard và Loyola đã mở chi nhánh tại Việt Nam.

“Tôi phân vân trường hợp đại học Loyola của Dòng Tên, là nơi tôi từng học và dạy. Tôi sẽ nói chuyện với đại học này vì tôi quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội. Nếu giáo dục không được sử dụng đúng sẽ rất nguy hại, giống như trường hợp Pol Pot của Cambodia, đi học ở Pháp về, nhưng lại làm hại dân, dù tôi đồng ý đưa giáo dục Mỹ vào Việt Nam,” DB Joseph Cao giải thích.

Cuộc tiếp xúc báo giới chỉ diễn ra đúng 45 phút, do nhà báo Đinh Quang Anh Thái, phụ tá chủ nhiệm nhật báo Người Việt, điều hợp, và mỗi cơ quan truyền thông chỉ được hỏi hai câu hỏi. Ngoài DB Joseph Cao, cuộc tiếp xúc còn có sự hiện diện của DBLB Ed Royce. (Đ.D.)

Source: VietHerald


Boxing kangaroo here to stay



'Boxing Kangaroo' banner is draped from a verandah at the
Australian athletes accomodation in the
Athletes Village on February 5, 2010 in Vancouver, Canada.

Lisa Millar in Vancouver and staff,
ABC February 8, 2010, 1:35 pm


boxing_kangaroo
Aussie athletes will be able to fly the boxing kangaroo flag proud after the International Olympic Committee removed a ban on it
The giant boxing kangaroo flag will continue to fly in the athletes' village in Vancouver after Australian Olympic bosses reached an agreement with the International Olympic Committee (IOC).

The flag hangs over two storeys of the apartment block where the Australians are staying.

The IOC wanted it removed but Australian Olympic Committee (AOC) president John Coates says he has reached a compromise and it can now stay in place for the duration of the Winter Olympic Games.

"But we will need to register the boxing kangaroo with the IOC as the third identification we have," he said.

While it is already an Australian Olympic trademark, the boxing kangaroo will now be registered with the IOC along with Australia's national flag and the coat of arms.

The IOC initially asked the Australian team to take down the banner because it was deemed too commercial.

Calls to ban the boxing kangaroo flag was branded as scandalous, ridiculous and infantile.

Flag's history

The boxing kangaroo became Australia's sporting symbol in 1983 when it was used in the successful America's Cup.

John Longley was part of the crew.

"It was an image that we created, to be a symbol for what we stood for, which was the red gloves," he said.

"It used to have a red eye and the puffed up chest and so forth. It was aggressive - we're taking the world on."

The AOC has since bought the trademark and now the boxing kangaroo is seen among crowds at Olympic and Commonwealth Games and other major sporting events.

Source: http://au.sports.yahoo.com/news/article/-/6775353/boxing-kangaroo-stay




Vũ Anh Khanh Quê Hương vẫn còn ly loạn, mà Anh đã về đâu ? - Mường Giang

Mường Giang

Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ là hai người bạn chí thân trong văn chương và quảng đời dấn thân chống Pháp cứu nước suốt chín năm máu lửa 1945-1954, khi thực dân trở lại dày xéo quê hương Việt Nam lần thứ hai.

Mang chí cả của người trai thời loạn, sống hết mình cho lý tưởng phụng sự đất nước, hai ông cũng như bao nhiêu người con thân yêu của Mẹ, lầm đường lạc lối trước những xảo thuật chính trị tuyên truyền của đệ tam quốc tế, qua cái bình phong Mặt trận Việt Minh, nên ngày hòa bình trở lại năm 1954, đã hăm hở tập kết về Bắc.

Nhưng than ôi tất cả chỉ là ảo vọng khi cái mặt thật của thiên đường xã nghĩa hiện ra trong máu lệ, qua cảnh đời nghèo đói bất công và nổi cùng khốn tận tuyệt của dân chúng vô tội bên bờ này vỹ tuyến, qua cái gọi là cải cách ruộng đất và vụ án trăm hoa đua nở, mà chánh quyền cọng sản rập khuông theo Trung Cộng để diệt các tầng lớp phú, nông, thợ thuyền và trí thức VN, những người đã làm đá lót đường, làm cầu qua sông, làm phương tiện cho đảng chiếm được nửa nước để thụ hưởng và cầm quyền. Như Phùng Quán đã viết:
    “Tôi đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt,
    Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn dẻ rách
    Da đen như củi cháy giữa rừng
    Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
    Bới đồn giặc trồng ngô trỉa lúa
    Yêu ai cứ bảo là yêu,
    Ghét ai cứ bảo là ghét.”
Thế nên hai người đã quyết ý phải từ bỏ thiên đường đang ngoi ngóp sống, để quay về Nam với Mẹ với em, với những thân thương đang ràn rụa nước mắt đợi chờ. Nhưng than ôi số đời đã định, cùng ra đi trong khi Xuân Vũ biết rằng “Ðường đi không đến” thì lại đến vào năm 1965 tại Củ Chi. Trong lúc đó Vũ Anh Khanh đã sắp với tay được vào bờ Nam dòng sông vỹ tuyến, thì một mũi tên tẩm thuốc độc vô tình đã kết liễu cuộc đời tài hoa của người chiến sĩ vào năm 1956. Mới đây, trên tờ Văn Hoá VN số 14 mùa thu 2001, xuất bản tại Houston Texas, Xuân Vũ nhớ bạn có nhắc lại câu thơ: “Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn”, rồi kể lại câu chuyện của một người chết không mồ.

Cuộc đời như vậy sao mà không buồn ? nhất là qua biến cố 30-4-1975 đã cho chúng ta thấy một cách minh bạch rằng: “chế độ thực dân đồng chủng hay dị chủng, Pháp hay Việt cộng bản chất vẫn như nhau“ và những điều mà các nhà văn kháng chiến miền Nam, trong đó kiệt hiệt nhất vẫn là con chim đầu đàn Vũ Anh Khanh, Người Bình Thuận-Phan Thiết của miền Trung duy nhất, qua các bản cáo trạng, tới nay vẫn còn giá trị.

Có điều thật là bất công và tàn nhẫn đối với những người yêu nước, trong đó có Vũ Anh Khanh. Thật vậy tại VNCH miền đất được mệnh danh là tự do dân chủ nhưng mai mỉa thay trong khi chương trình Việt sử bậc Trung và Ðại Học Quốc Gia, long trọng đề cập tới cuộc kháng chiến của Dân Tộc qua sự nghiệp lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp từ 1945-1954 tại Nam Kỳ.

Nỗi đời lại càng bi phẫn hơn qua việc lãnh đạo miền Nam đã mở rộng tim để chấp nhận bản “Thanh niên hành khúc“ của Lưu hữu Phước làm Quốc Ca VN, sau khi được sửa chữa một vài chữ. Ai cũng biết họ Lưu là Việt Cộng chứ không phải Việt Minh, nhất là sau khi miền Nam bị sụp đổ, ngày 20-08-1975 Lưu hữu Phước qua chức phận Bộ Trưởng Thông Tin Văn Hoá Chính phủ Lâm thời CHMN, đã ký nghị định “Ðốt sách chôn học trò“ trên khắp lãnh thổ VNCH cũ. Trong khi đó chỉ vì chính trị và định kiến hẹp hòi, miền Nam đã gạt bỏ những người yêu nước như Vũ Anh Khanh kể luôn các tác phẩm của ông. Ngày nay trắng đen đã rõ, chỉ đau đớn là Quê Hương vẫn còn Ly loạn mà Ông không biết đã về đâu ?

Vũ Anh Khanh qua minh họa của Xuân Vũ

Từ các tài liệu rất ít ỏi, được biết Vũ Anh Khanh tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long tỉnh Bình Thuận. Ngoài bút hiệu trên, ông còn ký tên Vương Ấu Khương khi viết truyện ngắn “Mắt xanh sống vẫn lầm than bụi đời” đăng trên tờ Xuân VN vào Tết năm 1951.

Mũi Né, quê hương của nhà văn, vốn là một thị trấn miền biển bao gồm hai xã Khánh Thiện và Thạch Long, nằm cách Phan Thiết về hướng đông bắc chừng 20 km, xưa hay nay cũng vẫn là miền đất trù phú và thơ mộng của tỉnh Bình Thuận. Hơn ba trăm năm qua như một giấc mộng nhưng cái tên Mũi Né vẫn tồn tại trong tâm khảm của mọi người, cho dù trên giấy tờ hay bản đồ qua thời gian với bao nhiêu cái tên như Vị Nê, Cap Nê, Hải Long, Hàm Dũng và gì gì nữa trong tương lai.

Ðiều trên cũng giống như thân phận của nhà văn Vũ Anh Khanh “kẻ chết không mồ“ nhưng vẫn sống mãi với những tác phẩm đấu tranh để đời mà ai cũng biết tới, dù đã có thời gian và ngay bây giờ sách vẫn bị cấm đọc hay quảng bá. Sách của ông không nhiều vì cuộc sống của nhà văn ngắn ngủi, hơn nữa trong lúc văn thi tài đang lên như diều gặp gió, thì năm 1950 ông đột ngột từ bỏ thành đô hoa lệ, sau một chuyến viếng thăm Tha La xóm đạo, một làng quê êm đềm thơ mộng như chính quê hương Mũi Né của ông với những rặng dừa xanh ẻo lả, chạy song song với đồi cát trùng trùng, ngày tháng nép mình ôm ấp biển xanh:
    “Ðây Tha La xóm đạo,
    Có trái ngọt cây lành
    Tôi về thăm xóm Ðạo
    Giữa mùa náng vàng hanh”
Nhưng rồi giặc đến, vào làng giết người cướp của, cuộc sống an bình của quê hương bổng chốc thành máu lệ, bao nam nữ đã ra đi để hiến mình cho quê hương đất nước, chỉ còn lại nổi tang tóc, buồn hiu:
    “Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng ?
    Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng
    Nhẹ bảo chàng, em chẳng biết gì ư ?
    Bao năm qua khói lửa phủ mịt mù
    Người nước Việt ra đi vì nước Việt.”
    (Tha La xóm Ðạo-Vũ Anh Khanh)
Ðó chính là lý do ông đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ dữ dội khắp nước, dù đang có nhiều sách bán chạy như chuyện dài BẠC XÍU LÌN được Tiếng Chuông xuất bản năm 1949, chỉ trong 2 tháng đã bán hết 10.000 cuốn. Sau đó phải tái bản nhiều lần vẫn không cung ứng nhu cầu của người ái mộ. Nói chung theo giáo sư Nguyễn văn Sâm viết trong “Văn Chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950“ thì hầu hết tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị và tiêu biểu trong dòng văn chương đấu tranh thời đó, dù là thơ như CHIẾN SĨ HÀNH (Tân VN, Sài Gòn 1949), Truyện dài NỮA BỒ XƯƠNG KHÔ gồm 2 tập (Tân VN, Sài Gòn 1949), CÂY NÁ TRẮC (Tân Việt, Sài Gòn 1947), truyện ngắn NGŨ TỬ TƯ (Tân VN, Sài Gòn 1949), ÐẦM Ô RÔ (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949), SÔNG MÁU (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949) và BÊN KIA SÔNG (Tân VN, Sài Gòn 1949). Riêng bài thơ Tha La Xóm Ðạo của ông, sau này được nhạc sĩ Dũng Chinh, tên thật là Nguyễn văn Chính cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc và rất được mọi người ưa thích, giống như bài “Hoa trắng thôi cài trên áo trắng” của thi sĩ Kiên Giang. Ngoài ra soạn giả cải lương nổi tiếng Viễn Châu cũng đã mượn ý của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên “Tha La xóm đạo”.

Theo Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lớn hơn ông chừng vài tuổi, hai người đã quen biết nhau khi cùng ở chung trong hàng ngũ kháng chiến quân gọi tắt là Việt Minh, một tổ chức chống Pháp quy tụ toàn dân VN không phân biệt đảng phái chính trị. Theo hí họa của họa sĩ Thanh Long và các bằng hữu lúc đó đang phục vụ tại Ban Tuyên Huấn Phòng Chính Trị, đóng ở Cái Thun gần Cái Chanh Lớn, miệt Cạnh Ðền miền tây Nam Phần, như các thi sĩ Rum Bảo Việt, Nguyễn văn Trị , Ðiêu khắc sư Trần văn Lắm, Sơn Nam, Hà Huy Hà, các họa sĩ Thanh Tòng, Thanh Long, Hoàng Tuyển, nhà thơ Việt Ánh, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí, Phạm công Nhiều, Quốc Hương và Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lúc đó dù là một nhà văn đang nổi tiếng và có rất nhiều tác phẩm bán chạy, lại là một sĩ quan lục quân, tốt nghiệp tại Trường Lục quân, thuộc Phân hiệu II Trần Quốc Tuấn nhưng tánh tình khiêm cung, hiền hậu, có thể nói là chẳng bao giờ để lộ cái tôi ra ngoài, khiến cho cả đơn vị kể luôn Xuân Vũ lúc đó, không hề biết ông là ai.

Ðối với những tâm hồn nghệ sĩ lớn như Vũ Anh Khanh, viết lách, làm thơ , phát biểu những ẩn ức trong lòng, được coi như lẽ sống của kẻ cầm bút, nhưng theo Xuân Vũ thì từ năm 1950 khi về phục vụ tại cơ quan chính trị kháng chiến, không hiểu vì lý do gì Vũ Anh Khanh trở nên bất động, thậm chí tại khu có tờ báo mang tên Tiếng Súng Kháng địch, sau đổi thành tờ Quân đội nhân dân miền tây, vậy mà Vũ Anh Khanh hầu như không hề biết tới, kể cả những lúc sinh hoạt cũng chẳng hề có ý kiến, nếu bị hỏi tới mới nói: ”tôi đồng ý thế thôi“.

Như vậy, chẳng lẽ lúc đó ông đã nhận ra cái mặt thật của Việt Minh đang bị Việt Cộng núp bóng điều khiển khống chế hay vì cực khổ nên hối hận ? cả hai thắc mắc không thấy Xuân Vũ đề cập tới, ngoài một thố lộ chân thành là Vũ Anh Khanh với người bạn kháng chiến Nguyễn hữu Trí em ruột tướng Nguyễn thanh Sơn, xuất thân trong một gia đình vọng tộc, đại điền chủ tỉnh Vĩnh Long và Vũ Anh Khanh cũng thuộc một gia đình giàu có ở Mũi Né, Phan Thiết nên trong lúc cả nhóm đi cải thiện sinh hoạt, kiếm thêm chất tươi để bồi dưỡng vì thức ăn hằng ngày chỉ có muối, chao và các loại rau dại. Thêm một chi tiết khác là ông còn độc thân cho tới lúc qua đời. Cũng theo lời kể của Xuân Vũ, thì hai ông sống chung rất lâu nhưng năm 1954 tập kết ra Bắc, Xuân Vũ đi tại bến Chắc Băng, Cà Mâu và chỉ gặp lại Vũ Anh Khanh tại Hà Nội trong khu tập thể của dân Nam kỳ tập kết.

Xuân Vũ kể lại cái chết của Vũ Anh Khanh

Ngay khi vừa ký kết hiệp định ngưng bắn năm 1954 tại Genève chia đôi đất nước, Bắc Việt đã mở ngay chiến dịch tuyên truyền về cái gọi là “Kháng chiến VN, đánh dưổi Pháp-Nhật“ do đảng cộng sản lãnh đạo, bằng cách cho nhiều phái đoàn văn nghệ sĩ VN đến các nước thân cộng, cộng sản, trung lập hay có liên hệ ngoại giao để tuyên truyền. Trong chiến dịch quy mô này, Hồ đã cho Nguyễn văn Bổng tức Trần Hiếu Minh (sau này được cài vào VNCH tổng chỉ huy đám văn nghệ sĩ nằm vùng), Ðoàn Giỏi, Anh Thơ, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Tuân đi Tân Tây Lan và Úc Ðại Lợi. Nguyễn đình Thi, Nguyễn Huy Tưỏng đi Liên Xô, Trung Cộng, Tô Hoài đi Ðông Âu còn Nguyễn công Hoan, Võ Huy Tâm, Phạm hữu Tùng và Vũ Anh Khanh đi Ấn Ðộ.

Trước khi đi, Khanh có đến thăm các bạn Nam Kỳ trẻ tập kết lúc đó chưa có tiếng tăm gì như Nguyễn quang Sáng, Bùi Ðức Ái, Xuân Vũ. Bao nụ cười ra nước mắt, những đắng cay chua xót của kiếp người nhất là những người văn nghệ sĩ có tim, óc và tri thức đã được Xuân Vũ cười cợt diễn tả nhắc lại qua các mẫu đối thoại giữa hai người bạn thân cùng trong cảnh ngộ lầm đường lạc lối, bỏ tất cả để hôm nay chuốc lấy sự nản phiền và đau lòng.

Có đọc Xuân Vũ mới biết về Vũ Anh Khanh, có nghe Xuân Vũ tự sự về bạn mình từ lúc sống với nhau trong khu đồng chua nưóc mặn ở tận cùng cảnh nghèo cực của miền tây Nam Kỳ và sau này trong thiên đàng xã nghĩa chết bỏ tại Bắc Việt, ta mới nghiêng mình cảm phục những tâm hồn hy sinh vì nước của các đại gia công tử giàu sang phú quý như Vũ như Khanh, như Trí. Và cũng vì đã từng sống trong cảnh giàu trước khi dấn thân vào con đường chông gai chống Pháp, họ đã biết tự trọng như việc Vũ Anh Khanh mượn quần áo sang của Ðảng để diện khi đi ngoại quốc làm vẹt tuyên truyền, lúc về vẫn hoàn trả nguyên vẹn, mà theo bè bạn lúc đó là chuyện điên rồ.

Cũng theo Xuân Vũ, thì mới đây nhà văn Nhuệ Hồng viết trên tờ Thời Luận hải ngoại, cho biết năm đó ông đại diện cho VNCH cùng đi dự Hội nghị các nưóc Á Phi và có gặp Vũ Anh Khanh tại New Delhi thủ đô của Ấn Ðộ. Chắc chắn đây là nguyên nhân thúc đẩy ông tìm đường về Nam, một việc đã nung nấu từ lâu nhưng không thực hiện được hoặc vì một lý do thầm kín mà chúng ta không biết dược vì bản tính của Vũ Anh Khanh trước sau kín như bưng, kể cả người bạn thân Xuân Vũ cũng không hiểu đươc.

Sau khi ở hội nghị về, Vũ Anh Khanh có mua một chai rượu quý của Anh quốc để giải sầu với đám bạn bè Nam kỳ tập kết. Theo Việt Thường trong tác phẩm “Chuyện thâm cung DTDHCM” thì năm đó (1956) tình hình miền Bắc vô cùng rối loan, nhất là bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, thuộc sư đoàn của Ðồng văn Cống và Tô Ký, bất mãn nên nổi loạn cưóp phá tỉnh Ninh Bình, một số trốn chạy về Nam. Giống như tâm trạng của những người bộ đội trên, Vũ Anh Khanh đã kín đáo mượn cớ đi Ấn Ðộ về, ông dùng rượu để chia tay bạn bè thay lời vĩnh biệt, vì sau đó trong một cuộc Hội nghị khoáng đại của Hội Liên Hiệp Văn Nghệ, Xuân Vũ mói biết tin Vũ Anh Khanh đã chết ở Vĩnh Linh, Quảng Trị vì tai nạn.

Sự thật theo tiết lộ của Võ hồng Cương, phó tổng thư ký Hội cũng là cục phó cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Bắc Việt thì năm 1956, Vũ Anh Khanh được nghĩ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành Vĩnh Linh, Quảng Trị và từ đó bơi qua sông Bến Hải quãng trên cầu Hiền Lương vài cây số, quyết tâm về Nam tìm tự do nhưng hỡi ơi Trời không thương người hiền, nên khi sắp tới bến tự do thì bị bộ đội biên phòng bờ Bắc phát giác và để khỏi bị Ủy ban quốc tế làm biên bản vi phạm Hiệp định ngưng bắn, thay vì dùng súng, Việt Cộng dùng tên tẩm thuốc độc bắn chết Vũ Anh Khanh.

Sông Bến Hải lớn hơn sông Mường Mán tại Phan Thiết và thủy triều lên xuống bất thường, nên xác của người chết nhất là một phạm nhân vượt tuyến nếu may mắn không bị trôi ra biển đông hay xuôi về mạn ngược, mà tắp vào một bãi bờ nào đó trong khu phi quân sự, thì chắc chắn cũng được dân chúng vùi dập vội vã để làm phước, chứ đâu có ai dám truy nguyên lý lịch của nạn nhân, để tự chuốc họa cho mình ?

Mấy năm sau Xuân Vũ theo phái đoàn văn nghệ đi công tác ở Vĩnh Linh, Quảng Trị và ông cũng đã có ý định như Vũ Anh Khanh, bơi qua sông tìm tư do nhưng khi chợt nhớ tới giọng ngâm sang sảng năm nào của người quá cố: “Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn” ... thì tỉnh ngộ, nhờ vậy trong cuộc trường kỳ “đường đi không tới“ nhưng cuối cùng ông đã tìm được tự do thật sự khi ra hồi chánh vào năm1965 tại Củ Chi, Hậu Nghĩa.

Vũ Anh Khanh một đời đáng kính

Sống trong buổi loan ly nhà tan nước mất, chỉ có một thiểu số không tim óc dửng dưng nhìn thế sự xoay vần, mặc cho quốc dân bị đè bẹp dưới gót sắt của ngoại bang. Nhưng tuyệt đại đa số dân chúng VN đã đứng dậy hưởng ứng phong trào chống trả với giặc thù. Cuối tháng 12-1946, quân Pháp chính thức làm chủ Sài Gòn và cũng giống như lần trước, giặc đã gặp phải sự chống trả của toàn dân.

Lần trước vào năm 1862, người Việt dùng những vũ khí thô sơ và lòng yêu nước để chống chọi với súng đạn tối tân. Lần này, người Việt tuy vô chánh phủ và thực tế chỉ là những lực lượng tự phát nhưng lại có trong tay các loại vũ khí hiện đại của Nhật để lại. Thêm vào đó là tim óc của các tầng lớp trí thức tân học, thể hiện qua các tác phẩm tuyên truyền, những lời hiệu triệu, những tờ truyền đơn nẩy lửa, tố cáo sự dã man của Pháp, đồng thời kêu gọi toàn dân đứng lên đáp lời sông núi, tiêu diệt kẻ thù.

Ngày xưa các cụ Ðồ Chiểu, Huỳnh mẫn Ðạt, Nguyễn Thông, Phan văn Trị.cũng đã từng dùng thơ văn cổ xúy cho cuộc kháng Pháp của Trương Ðịnh, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương nhưng lúc đó vì phương tiện và hoàn cảnh eo hẹp nên ảnh hưởng không được bao nhiêu. Trái lại khoảng thời gian 5 năm (1945-1950), các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nói chung là văn nghệ sĩ miền Nam đã tiếp tay cho kháng chiến một cách tích cực, góp phần lớn với toàn dân cả nước, tạo nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954, thu lại nền hòa bình độc lập cho dắt nước.

Trong chiều hướng trên, các tác phẩm văn xuôi của Vũ Anh Khanh, từ truyện ngắn cho tới truyện dài, qua nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học hiện đại, trong đó có giáo sư đại học Nguyễn văn Sâm, đều đáng được xem là những tiêu biểu nhắm vào các mục đích đấu tranh nhằm tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp, làm cản trở sự tiến hóa của dân tộc VN.

Tình trạng tạo nên cảnh ngu dân này, trước đây cũng đã được các nhà ái quốc tiền phong như Phan bội Châu, Phan chu Trinh đặt thẳng vấn đề với nhà cầm quyền Pháp nhưng có lẽ quyết liệt hơn hết là tôn chỉ của VN Quốc dân đảng,được cố Ðảng trưởng Nguyễn thái Học, viết trong bức thư tuyệt mệnh vào tháng 3-1930 gởi cho Hạ nghị viện Pháp, yêu cầu mở trường cũng như cải tổ nền giáo dục tại VN.

Nối tiếp tâm nguyện của tiền nhân, Vũ Anh Khanh qua các tác phẩm BÊN KIA SÔNG và CÂY NÁ TRẮC, đã công khai tố cáo Pháp cố tâm ngăn chận sự học hành của VN. Trong truyện ngắn MỘT ÐÊM TRĂNG, Vũ Anh Khanh qua lời nhân vật của mình, đã thổn thức: ”... Dân VN hiếu học nhưng bao lâu nay, họ cam tâm chịu dốt nát vì bị người ta tìm cách chèn ép ...”. Hậu quả trên đã tạo nên tuyệt đại tầng lớp dân chúng thất học, chịu câm lặng cúi gập trước nỗi bất công phi lý, như hầu hết các nhân vật trong truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gánh chịu. Song song, ông còn mạnh mẽ tố cáo Pháp cố tình tạo nên một xã hội băng hoại, để đầu độc dân tộc VN , là tác giả của những tệ nạn rượu chè, hút sách, cờ bạc, đĩ điếm, công khai khuyến khích hay dùng bạo lực bắt dân chúng phải mua rượu, trồng nha phiến, mở sòng bạc, ổ điếm. Tất cả những tệ nạn xã hội trên đều được Vũ Anh Khanh ghi lại đầy đủ và nát tim trong các tác phẩm BẠC XÍU LÌN, SÔNG MÁU và ÐẦM Ô RÔ. Các cơ sở trụy lạc trên đều nhan nhản khắp nước, đặc biệt là tại Hà Nội, Hải Phòng và nổi tiếng ở Sài Gòn-Chợ Lớn với hai sòng bạc Kim Chung và Ðại thế giới, do các xì thẩu Hoa, Ấn và Pháp kiều toa rập làm chủ, kết quả nhiều người Việt vì say mê cờ bạc, thần đề, bàn đèn, đĩ điếm.. phải tan gia bại sản và cuối cùng đã: “... bán con, thế vợ, đợ chồng - hết cơ, mất nghiệp, thần vòng rũ đi ...”

Sau rốt, ông đã tố cáo thực dân làm cho người VN trở thành lạc hậu, hung tàn, mất hết bản tánh con người văn hiến. Trong lãnh vực này, Vũ Anh Khanh xứng đáng là một chiến sĩ, một nhà văn can trường khi dám dùng trí óc như những phát súng thần công nhắm thẳng vào bọn cầm quyền Pháp, lũ xì thẩu bất nhân Hoa kiều và đám tư bản bóc lột Ấn Ðộ, chuyên sống ký sinh trên thân thể đầm đià máu lệ của người Việt, qua các truyện ngắn như Sài Gòn ơi, Ma thiên Lãnh, Hối tắc.

Nói tóm lại dưới chế độ thực dân, qua nỗi nghèo cực tối tăm, người Việt không còn tương lai và gần như đánh mất hết đạo lý của thánh hiền, trở nên yếu hèn nông nỗi vì quanh quẩn bị bạo lực vây bủa, kềm chế, sống trong cảnh một cổ bốn tròng, chia rẽ Trung Nam Bắc dù tất cả đều là VN và thê thảm nhất về kinh tế, Pháp và bọn ký sinh Hoa-Ấn hầu như nắm hết tất cả nguồn lợi quốc gia. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 khiến cho hơn 2 triệu người bị chết đói, là hậu quả tất yếu của chính sách trên, sau này được Vũ Anh Khanh lập lại trong truyện dài ưng ý và nổi tiếng nhất của ông NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ. Văn chương của Vũ Anh Khanh phản ảnh đúng nét đặc trưng của người Bình Thuận, ngay thẳng, trung hậu vì vậy thật linh động, có lúc thống thiết lâm ly, có khi mỉa mai cay độc nhưng vẫn không dấu nổi nét cảm khái hùng hồn, chưa chan niềm uất hận.

Vũ Anh Khanh hiện diện trên cõi đời thật ngắn ngũi (1926-1956), giống như hoàn cảnh của Vũ trọng Phụng cũng tài hoa lại vắn số, nhưng ông cũng đã làm tròn thiên chức của một thanh niên thời đại, trong cảnh quốc phá gia vong. Ðây cũng là cái giá trị cao quý nhất của kiếp người, nhất là giới mày râu hàng tri thức có lương tri và nhân phẩm, cái hào quang để thế nhân phân biện được hư thực, tốt xấu của con người.

Sau năm 1975, nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc thẳng thắn bảo rằng, cái chết sớm của Vũ Anh Khanh là một hạnh phúc, để ông không trở thành cái bình vôi như hầu hết các văn thi sĩ tiền chiến đã lãnh trong suốt thời gian sống nhục nơi cõi thiên đàng xã nghĩa u trầm. Qua việc Vũ Anh Khanh tập kết ra bắc năm 1954, nhiều người kết tội ông là cộng sản. Cũng vì lý do này mà suốt thời gian 1955-1975, tác phẩm của ông lại bị cấm, không được tái bản, lưu hành, không có tên trong chương trình giáo dục, dù năm 1956 ông đã bị cộng sản miền Bắc bắn chết trên sông Bến Hải, khi quyết lòng đi tìm tự do sau khi đã đối mặt với sự thật não lòng.

Thật ra việc Vũ Anh Khanh có là cộng sản hay không, giờ này cũng chưa có ai xác nhận được vì trong 9 năm chống Pháp, Việt cộng núp bóng Việt Minh để quản thúc toàn dân kháng chiến và trong Việt Minh lúc đó có đủ mọi thành phần, đảng phái. Vũ Anh Khanh, Xuân Vũ hay mọi người khác trong dòng người yêu nước lúc đó, biết ai là Việt Minh hay Việt Cộng. Còn vấn đề về Tề hay tập kết phần lớn chỉ vì mang tâm trạng sợ bị trả thù, nên bặm môi tới đâu hay đó.

Nhưng thôi sự thật giờ đã rõ ràng, bộ mặt thật của cọng sản từ 1930-2010, cũng đã trôi hết lớp son phấn và huyền thoại, cho nên sự thức tỉnh của Vũ Anh Khanh năm 1956 là thái độ của một anh hùng đáng kính phục và mến mộ. Hơn nữa công hay tội của một con người xin hãy để cho lịch sử định đoạt.

Tự dưng tâm hồn cảm xúc và bối rối kỳ lạ khi bâng quơ đi vào ngõ khuất của một phần đời nhà văn bị đời quên lãng VŨ ANH KHANH. Trong gió, trong mưa, trong cảnh mùa đông sụt sùi nước mắt, hình như có tiếng ai đang thì thầm: ”Hãy khóc lên đi cho quê hương yêu dấu. Quê hương vẫn còn trong cơn ly loạn mà Anh nay ở đâu ?”.

Tài liệu tham khảo:
Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp của Nguyễn văn Sâm
Văn học Miền Nam tổng quát của Võ Phiến
Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Người chết không mồ của Xuân Vũ đang trong VHVN số 14-2001 xuất bản tại Hoa Kỳ
Thi văn quốc cấm thời Pháp thuộc của Thái Bạch
40 năm văn học của Nguyễn Vy Khanh


Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 2-2010
Mường Giang


Sửa Sai Ông Bùi Tín Về Một Trang Sử - Sơn Tùng

Sơn Tùng

Nhân dịp Đảng Cộng sản Việt Nam có những sinh hoạt nhộn nhịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập đảng (3 tháng 2), Nhà báo Aude Genet, trưởng nhiệm sở hãng tin Pháp AFP tại Việt Nam, đã phỏng vấn Ông Bùi Tín ở Paris về nhiều vấn đề liên quan đến hiện tình Việt Nam.

Về cảm nghĩ đối với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tổ chức kỷ niệm ngày lập đảng, Ông Bùi Tín nói như sau (theo bản Việt ngữ được phổ biến trên mạng điện tử):

- Tôi cũng biết ở Hà-nội có những cuộc họp kỷ niệm, một cuộc hội thảo, và xuất bản sách về 80 năm đảng CS Việt Nam, hồi đầu mang tên đảng Cộng sản Đông Dương. Những diễn văn dài nặng về công thức, nặng tính giáo điều, về chủ nghiã Mác-Lênin, về giai cấp vô sản, về chủ nghiã xã hội, về quá độ từ chủ nghiã tư bản lên chủ nghiã xã hội trên phạm vi toàn thế giới …, nhưng tôi tin rằng những người viết ra, đọc lên và cả những người ngồi nghe, không có ai còn tin ở điều mình viết, đọc và nghe. Họ đang là những nhà tư sản, tư bản mới, có nhà đất, có cổ phần, chứng khoán, khá nhiều còn hùn hạp với các triệu phú, tỷ phú quốc tế. Họ chỉ giữ lại của lý luận cộng sản cái phần xấu nhất là nền chuyên chính độc đảng để bảo vệ tài sản riêng bất chính.”

Những điều trên đây không có gì đáng bàn vì là những sự thật hiển nhiên mà không một người Việt Nam nào không biết. Nhưng khi được hỏi về vai trò và vị trí của Đảng Cộng sản VN trong lịch sử Việt Nam, Ông Bùi Tín nói:

- Đảng Cộng sản VN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác - mặt này ít được chú ý vì bị họ che giấu kỹ - là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái chính trị khác bị họ thủ tiêu.

Đã vậy, sau hoà bình và thống nhất, đảng CS đã bỏ qua cơ hội hoà hợp hoà giải dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh. Đây là thất bại nặng nề nhất, bi thảm nhất, tệ hại lâu dài nhất. Họ đã nhân danh các “trại cải tạo”, trả thù, bỏ tù đầy đọa 20 vạn sĩ quan viên chức chế độ cũ, phân biệt đối xử theo tư duy hận thù, tạo nên bi kịch hàng triệu thuyền nhân, với không biết bao nhiêu người chết thê thảm trong biển cả.

Họ còn diệt trừ tư sản công thương nghiệp, diệt trừ nông dân cá thể, cưỡng bức tập thể hoá, tàn phá tận gốc nền sản xuất xã hội, rồi mới buộc phải đổi mới, mà chỉ đổi mới bộ phận về kinh tế, còn bất động về chính trị ... (ngưng trích)

Phần phát biểu trên đây của Ông Bùi Tín, ngoài những lập luận thiếu lô-gíc còn chứa những sai lầm trầm trọng liên quan đến vai trò và vị trí của Đảng Cộng sản VN trong lịch sử mà vì không biết, hay biết mà cố tình làm như không biết, đã nói cùng một luận điệu với Đảng Cộng sản VN trong mưu toan đánh tráo lịch sử.

Về chính sách tàn ác sau chiến tranh, đó đúng là con đường mà mọi đảng cộng sản trên thế giới đã đi sau khi cướp được chính quyền. Trong lịch sử có bao giờ cộng sản ở đâu “hoà hợp hoà giải” với ai?

Có phần CSVN sau khi chiếm được miền Nam còn “nhẹ tay” hơn là sau khi chiếm được miền Bắc, vì đã không phát động phong trào đấu tố man rợ như ở miền Bắc. Vì theo đúng con đường “tiến mau tiến mạnh lên chủ nghiã xã hội” mà Đảng CSVN của Ông Bùi Tín mới đứng bên bờ vực thẳm vào giữa thập niên 1980, phải theo gương đàn anh phương Bắc “đổi mới kinh tế”, nhưng không “đổi mới chính trị” vì biết không “bám chặt chuyên chính độc đảng” là chết.

Về “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập” của Đảng Cộng sản VN, sau hơn nửa thế kỷ trôi qua đã có đầy đủ tài liệu chứng minh là cần phải sửa sai, cần phải trả lại sự thật cho lịch sử.

Sự thật là nếu không có Đảng Cộng sản VN thì sau Thế Chiến II, nước Việt Nam đã dành lại được nền độc lập mà không hao tổn xương máu, hay hao tổn rất ít xương máu. Vì Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta mang ngọn cờ đỏ làm đội quân xung kích của cộng sản quốc tế trên địa bàn Đông Nam Á mà năm 1945 thực dân Pháp đã có cớ trở lại cựu thuộc địa Đông Dương với sự chấp thuận của hai cường quốc Anh, Mỹ, và sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ năm 1954, Mỹ đã vào thế chân để ngăn chặn làn sóng đỏ trong vùng Đông Nam Á và Cộng sản Bắc Việt đã dùng chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” để đánh chiếm Miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh kéo dài 15 năm (1960- 1975), gieo bao đau thương, tàn phá trên đất nước Việt Nam với hàng triệu người chết và những hận thù kéo dài cho đến ngày nay.

Trước khi cuộc Thế Chiến II chấm dứt, hai nước Hoa Kỳ và Anh đã chuẩn bị cho một trật tự mới trên thế giới thời hậu chiến, trong đó không còn chủ nghiã thực dân và phát huy quyền tự quyết của các dân tộc. Trong chủ trương ấy, Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill đã gặp nhau tại Argentia vào tháng 8 năm 1941 và đã cùng ký một thoả ước gọi là Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) trong đó hai nước cam kết tôn trọng 3 nguyên tắc: (1) chống lại hành động bành trướng lãnh thổ; (2) chống lại những sự thay đổi lãnh thổ mà không qua sự bày tỏ ý chí một cách tự do của các dân tộc liên hệ; (3) ủng hộ quyền của các dân tộc để chọn lựa thể chế riêng cho mình.

Do Hiến Chương này mà sau Thế Chiến II, các nước cựu thuộc địa tại Á Châu đã lần lượt được trả lại độc lập mà không đổ máu, hay đổ máu rất ít, trừ Việt Nam . Lý do là vì Anh và Mỹ biết rõ Hồ Chí Minh là một cán bộ cộng sản quốc tế, biết rõ tổ chức Việt Minh là do Đảng Cộng sản VN (đã đổi tên thành Đảng Lao Động) lập ra và hoàn toàn kiểm soát. Vì vậy, Mỹ và Anh đã cùng tuyên bố nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên bán đảo Đông Dương, và không công nhận chính phủ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” do Hồ Chí Minh thành lập sau khi cướp được chính quyền tại Hà-nội ngày 19.8.1945.

Cũng vì coi Cộng sản Việt Nam là đội tiền quân của cộng sản quốc tế tại Đông Nam Á nên sau khi Việt Nam bị chia đôi do Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, Hoa Kỳ đã viện trợ cho miền Nam Việt Nam và xây dựng một “tiền đồn chống cộng” tại đây, và đã trực tiếp tham chiến từ năm 1965 sau khi Cộng sản Bắc Việt xua quân xâm lấn Việt Nam Cộng Hoà.

Ông Bùi Tín đã tránh không nói đến cuộc chiến tàn khốc này do Đảng CSVN phát động và không nói đến vai trò của người Mỹ và cuộc kháng cự dũng cảm của quân dân miền Nam VN mà chỉ nói mơ hồ là Đảng CSVN “đã thực hiện thống nhất đất nước”.

Đây là thái độ mập mờ của Ông Bùi Tín từ ngày rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam và sống lưu vong tại Pháp. Đây cũng là thái độ mập mờ của một số cựu đảng viên Đảng Cộng sản VN đã chọn tự do và đang sống ở hải ngoại. Họ không chịu dứt khoát thú nhận đã sai lầm khi gia nhập hàng ngũ Cộng sản VN, và không chịu nhìn nhận sự kiện “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập” của Đảng Cộng sản VN là một trang đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Đó là một sự lừa gạt lớn nhất, môt tội ác lớn nhất, và một vị trí nhơ nhuốc nhất dành cho Đảng Cộng sản VN trong lịch sử.

Phải chăng thái độ mập mờ ấy là để ve vuốt, trấn an các đồng chí cũ của họ còn ở trong hàng ngũ CSVN? Hay nó nói lên sự tham lam của họ: muốn lúc nào cũng nắm chính nghiã, khi ở bên này cũng như lúc đứng bên kia, trong hiện tại lẫn quá khứ? Họ không muốn mất gì cả, dù là cái quá khứ sai lầm mà ngày nay đã là điều hiển nhiên trước mắt mọi người.

Ông Bùi Tín có thấy là tự mâu thuẫn khi nói Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nên tới nghiêng mình tạ tội trước Đài Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản tại thủ đô Washington trong dịp tới đây năm 2007, lại vừa muốn dành cho Đảng Cộng sản VN vị trí trong lịch sử với “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, thống nhất đất nước”?

Trái với thái độ mập mờ, mâu thuẫn này, Nhạc sĩ Tô Hải, khi tỉnh ngộ sau gần cả đời phục vụ “đảng”, và “hết hèn”, đã can đảm dõng dạc nói lớn, dù vẫn còn ở trong tay bạo quyền:

“Không có ông Hồ, không có cái đảng này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng (cựu) thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt.”

Sơn Tùng
06.02.2010

Saturday, February 6, 2010

Tội ác Việt Cộng và thảm sát Tết Mậu Thân 1968












http://www.youtube.com/watch?v=V8kFRJN2zsI




Bà Ngô Đình Nhu - Trương Phú Thứ


baNgoDinhNhu_TranLeXuan
Bà Trần Lệ Xuân

Trương Phú Thứ

Tôi nhận được rất nhiều câu hỏi qua những lần gặp gỡ, điện thư, điện thọai về “hồi ký’ của Bà Ngô Đình Nhu. Người nào cũng hỏi là bao giờ ‘hồi ký” của Bà Nhu được phát hành và nếu đã có bầy bán rồi thì mua ở đâu?

Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đã từng viết trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây cũng có câu hỏi như vậy.

Ai cũng muốn biết cuộc đời công và tư của Bà Nhu như thế nào. Bà làm gì và sống ra sao từ năm 1963 cho đến ngày hôm nay. Nhiều người cũng còn tò mò muốn biết cuộc sống tình cảm của một góa phụ nổi tiếng và xinh đẹp có gì vui buồn không?

Năm nay Bà Nhu đã trên tám mươi tuổi và bà đã xa lìa cuộc sống với những thăng trầm đã gần nửa thế kỷ. Bà đã thực sự xa lánh những phù phiếm ảo ảnh của trần thế. Bà sống đơn độc nghèo khó như một người tu hành. Đã từ hai năm nay bà không còn đi nhà thờ mỗi buổi sáng nữa vì đau chân. Tuổi già với những giới hạn về sức khỏe và đủ mọi loại bệnh tật chẳng trừ một ai. Tuy vậy bà vẫn còn khỏe mạnh hơn đa số những người cùng lứa tuổi.

Cho đến ngày hôm nay, rất nhiều người còn có những câu hỏi thật vô lối về Bà Nhu, như số tiền mười bẩy tỷ Mỹ kim bây giờ còn bao nhiêu và cất giữ ở đâu? Sau khi Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát thì bà có mối tình nào không? Tiền và tình luôn luôn là những câu hỏi và vì không có những câu trả lời nên mỗi người tin tưởng theo những cảm tình và nhận định khác nhau. Do vậy ai cũng trông chờ “hồi ký” do chính Bà Nhu viết sẽ giải tỏa những thắc mắc đó. Một nhà báo ở trong nước, Ông Phan Kim Thịnh, bút hiệu Lý Nhân, đã viết một cuốn sách nhan đề “Trần Lệ Xuân Giấc Mộng Chính Trường”. Cuốn sách được nhà xuất bản Công An Nhân Dân phát hành và đã được in lại đến ba lần chỉ trong vòng hai tháng. Như vậy thì vẫn còn biết bao người yêu kẻ ghét Bà Nhu. Quyển sách cũng chẳng có gì mới lạ. Tác giả chỉ thu góp lại những tài liệu trên báo chí và cô đọng lại thành một tập sách nhưng cũng đã lôi cuốn được rất nhiều người đọc. Tất nhiên là những tài liệu trên báo chí do nhiều người viết một cách vội vã theo nhu cầu tin tức đã có rất nhiều sai trái, nhiều khi bịa đặt trắng trợn.

Bà Nhu có viết “hồi ký” không? Câu trả lời chắc chắn và rõ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi ký Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.

Năm 1963, thế giới có hai người góa phụ trẻ và xinh đẹp là Bà Jacqueline Kennedy và Bà Ngô Đình Nhu. Hai góa phụ này luôn luôn là những tâm điểm của báo giới quốc tế. Một tiếng nói, một bước đi của Bà Kennedy hay của Bà Nhu cũng là một đề tài nóng sốt sôi nổi. Bà Kennedy đã trải qua nhiều cuộc tình và chính thức kết hôn với tỷ phú người Hy Lạp Onassis. Những hình ảnh của Bà Kennedy với nhiều người đàn ông khác nhau đầy rẫy trên báo chí. Cuộc sống của Bà Kennedy chưa thể nói là quá vương giả nhưng cũng thật nhung lụa. Một góa phụ có bạn trai hay lấy chồng, đối với người Âu Mỹ là một chuyện rất bình thường. Bà Kennedy cũng bị dư luận chỉ trích vì đôi khi đi quá giới hạn của một mệnh phụ đã từng là đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ. Ngược lại những soi mói rất tinh vi và tân tiến đôi khi thật tàn bạo của báo giới trên toàn cầu đã không đưa ra được một hình ảnh dù rất nhỏ nhoi về những cái gọi là chuyện tình của góa phụ Ngô Đình Nhu. Bên cạnh những luật lệ tôn giáo rất khắt khe và lễ nghĩa của người phụ nữ Việt Nam thì đối với Bà Nhu chỉ có hình ảnh của một người đàn ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu, cho dù Ông Nhu đã ra người thiên cổ. Bà Nhu góa bụa ngay vào tuổi mặn nồng của người phụ nữ nhưng bà đã ở vậy thờ chồng nuôi con và không hề có một tai tiếng ngay cả không có những lời đồn thổi vu vơ.

Bên cạnh những xung khắc chính trị, những người chống đối Bà Nhu cũng không thể nào tìm ra được một tì vết để nhạo báng nhưng lại kính trọng bà như là một người phụ nữ nền nếp đoan trang.

Chuyện tình cảm không có gì để nói tới. Chuyện tiền bạc của cải cũng chỉ là một con số không. Bà Nhu sống đơn sơ thanh bạch trong một căn phòng bầy biện giản dị. Trong phòng, ngoài cái điện thoại thì chỉ có một cái máy truyền hình mầu cỡ nhỏ 13 inches mà ở Mỹ bỏ ra ngoài bãi rác chắc chắn không ai ngó ngàng tới. Bà Nhu chẳng có gì ngoài hai căn phòng trên tầng lầu thứ mười một của một chung cư. Bà Nhu ở một căn và một căn cho thuê để lấy tiền sinh sống. Chỗ ở của Bà Nhu như một cái hộp bằng kính. Khách đứng trong căn phòng này nhìn mây bay lãng đãng ngay bên cạnh sẽ có cảm giác sợ hãi như đang bay giữa trời mây. Tiền mua hai căn phòng này là do một người Ý ẩn danh bí mật trao tặng. Bà Nhu có con dâu và con rể người Ý nên chắc hẳn có nhiều liên hệ giao tiếp với người Ý. Hơn nữa bà vợ của Ông Ngô Đình Trác, con trai lớn của Bà Nhu, là người Ý thuộc một gia đình quý tộc và rất giầu có. Chỗ ở này rất bất tiện và không thích hợp với người cao tuổi. Nếu Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim thì với tuổi đời như vậy chắc bà cũng tìm một chỗ tiện nghi thoải mái hơn để sống những ngày còn lại trên dương thế.

Bà Nhu không viết hồi ký và bà cũng không có gì cần phải cải chính, biện minh hay tâm tình. Thực sự thì trong những lúc rảnh rỗi, bà có viết nhiều bài tạp bút. Nếu gom góp những bài tạp bút này thì cũng có thể in thành một cuốn sách dầy đến sáu trăm trang. Bà Nhu đã viết gì? Có thể nói đây là một cuốn sách đạo. Bà Nhu viết về sự hằng hữu của Thiên Chúa và đời sống tâm linh của con người. Sau ngày Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Bà Nhu sống gần như là một người khổ tu hết lòng trông cậy phó thác vào sự an bài và định đọat của Thiên Chúa. Bà viết nhiều về lòng thương xót của Chúa không những đối với con người mà còn đối với những tạo vật trong vũ trụ. Bà rất có lòng yêu mến và gần gũi với Đức Mẹ Maria. Bà viết về những ân sủng đã được nhận lãnh và những mầu nhiệm huyền diệu của Đức Mẹ mà bà đã được ân hưởng những phước đức từ lòng yêu mến và cậy trông Đức Mẹ.

Khi được tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát thì Đức Giáo Hoàng Paul Đệ Lục và các giám mục trên toàn thế giới đang họp Cộng đồng Vatican II, đã cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổng Thống Diệm. Đó là một sự kiện vô cùng đặc biệt và Bà Nhu đã một lần duy nhất nhắc đến tên Tổng Thống Diệm trong gần sáu trăm trang giấy.

Một ông gốc lính huyênh hoang có “hồi ký” của Bà Nhu trong tay và sẽ công bố khi cần thiết. Ai cũng biết đây chỉ là một âm mưu gian giảo bịp bợm. Ông phường chèo này nếu quả thật có cái gọi là “hồi ký” của Bà Nhu thì chắc hẳn sẽ còn nhiều đòn phép láo khóet chứ không chịu ngồi yên để nghe thiên hạ mắng nhiếc chửi bới vì những lươn lẹo phản trắc lúc cưỡng chiếm được quyền hành trong một thời gian ngắn. Một sử gia chân chính thì lại quả quyết rằng các con Bà Nhu sẽ công bố cuốn “hồi ký” sau khi Bà Nhu từ trần. Ông sử gia này chắc không biết rằng Bà Nhu viết những bài tạp bút này bằng tiếng Pháp và chỉ viết về những suy tư và tâm tình tôn giáo mà thôi. Đọc giả người Việt biết đọc tiếng Pháp có là bao và chắc rằng số người muốn biết về những suy tư và tâm tình đạo giáo của Bà Nhu sẽ còn ít hơn nữa. Một tập giấy gần sáu trăm trang chỉ nói về tôn giáo và đạo đức lễ nghĩa thì phát hành lúc Bà Nhu còn sống hay đã quá vãng không phải là một vấn đề phải cân nhắc.

Bài viết này là một câu trả lời rõ ràng và chắc chắn: Không, Bà Ngô Đình Nhu không viết hồi ký.

Trương Phú Thứ

Cái "Chữ" nó "Làm" ... - Nguyễn Hoài Trang

    Cái "Chữ" nó "Làm" ..

    Nước mất nhà tan không biết NHỤC
    Huyênh hoang miệng lưỡi lục lùng danh
    Cái "TÔI" tơi tả tồi "TA" tụng
    Cái "TỚ" tội tình mục rữa TRANH !
Đọc những bài viết về sự tranh giành danh tiếng, tài năng, tên tuổi ... của các ông các bà "văn nhân", "thi sĩ" trên các văn thi đàn mà phát tởm.

Thế mới biết tại sao những bậc Hiền Sĩ ngày xưa phải sống thanh bần nơi thâm sơn cùng cốc, hay chốn hoang dã, ruộng vườn với mây ngàn, gió núi, trăng thanh ... để bảo toàn khí tiết vì không muốn mềm lưng nhễu gối, lưỡi mối miệng lươn, đầu lòn cổ rụt !.

Còn chán ngán hơn cái lũ văn, thi nô rặt mùi "sĩ đặc" đã và đang "hò lơ" kéo nhau "về nguồn" làm tôi tớ cho lũ thú vật Việt gian bán nước diệt nòi đảng cộng sản Việt Nam.

Ngồi ngẫm nghĩ thì ra cũng tại cái chữ "danh" nó làm MANH cái chữ "sĩ", cái chữ "lợi" nó làm ĐĨ cái chữ "liêm", cái chữ "tiền" nó làm LIỀN, làm KHÔN cái chữ "tiếng" ...

Và còn nữa, cái chữ "quyền" nữa ... Cái chữ "quyền" này nó làm ĐẢO, làm ĐIÊN, làm ĐIỀN, làm ĐỘN, làm ĐỒN cho cái chữ "lực" đó vậy...

Khổ là cái chữ "quyền" lại bắt đầu với cái chữ "q" phát âm là "cu" cũng như cái chữ "lực" lại bắt đầu bằng cái chữ "l" phát âm là "lờ", thành ra là "cu lờ" làm NHỤC NHƠ cả Nước. Đã thế mà cái lũ thú vật bán nước hại nòi csVN cứ khăng khăng BÁM CỨNG cái "cu lờ" nên Nước Việt tan hoang, là bãi rác cho thế giới vào phóng uế, đại khối dân Việt nghèo nàn mới "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" ... xuống hàng chó ngựa, trở thành những con vật để lũ "cu lờ" csVN "xuất khẩu" (*) ra ngoại quốc làm đĩ điếm, lao nô cho ngoại nhân. Thật NHỤC NHÃ và đau lòng quá phải không ?

Không biết lũ văn, thi, nghệ sĩ nô có biết NHỤC là gì không ?

Vẫn còn nữa đó, khi nào cbQR nghĩ ra cái "chữ" nào nó "làm" cái gì nữa, cbQR sẽ viết thêm hầu Quý Anh Chị cho vui. Vui mà cười ra nước mắt, đau thắt cả tâm cang.

(*) đây là 1 từ ngữ chứng tỏ cái bản chất THÚ VẬT của tập đoàn Việt gian csVN là bản chất phường vô lọai, không còn tính người.

(Soi Dòng Sông Chữ Thấy Mù Tâm ..)

Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog".

Xin được lắng nghe ý kiến của Quý Anh Chị trực tiếp tại Diễn Đàn Toàn Cầu Paltalk: 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc.

Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị.

conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
05022010

Source: http://nguyenhoaitrang.blogspot.com/2010/02/cai-chu-no-lam.html


Đồng Chiêm: Chính quyền cộng sản Hà nội “ngậm bồ hòn làm ngọt” - Hồ Học -Trần Trung Luận

Hồ Học -Trần Trung Luận

Cuộc ra quân hùng hổ nhất, kỳ quặc nhất của chính quyền cộng sản Hà nội nhắm vào vào giáo xứ Đồng Chiêm đến nay đã tròn một tháng và chỉ còn một tuần nữa là đến tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc

Truyền thông nhà nước cố gắng tạo cảm giác về một bình yên giả tạo ở Đồng Chiêm thông qua vài bài báo, giống nhau từ luận điệu, cách hành văn, đến ngôn từ ...

Tính cả 2 công văn của chủ tịch xã An Phú cũng không khác gì những bài báo trên, nghĩa là các tư liệu, các chứng cứ để quy chụp, biện giải của của Chính quyền xã lại được lấy từ sáng tác của một cán bộ tuyên giáo Thành uỷ nào đó mãi tít tận gác 3 cơ quan Thành uỷ Hà Nội. Một vài hoạt động khác như cứu trợ mỗi người 15kg gạo, tặng túi quà tết ... được gấp gáp tổ chức, đưa vội tên ti-vi để minh chứng cho tính ưu việt của nhà nước nơi Đồng Chiêm.

Trên thực tế đến lúc này thì các biểu tượng thánh giá đã bị triệt hạ khỏi núi Thờ, công an cán bộ chìm nổi vẫn dày đặc trong dân, cửa ngõ, lối ra vào của thôn Đồng Chiêm vẫn bị kiểm soát gắt gao, đủ để ngăn chặn mọi hoạt động bình thường dạng như thăm viếng, hành hương, chia sẻ, tìm hiểu tình hình ...

Cụ thể là chuyến cứu trợ nhân đạo của Sinh viên cộng đoàn Vinh đã bị chặn lại, một người bị đánh đuổi, bắt giữ và có hai người khác bị bắt, lục soát nhà ở, thu giữ tài sản. Một “đồn công an” thuộc công an huyện Mỹ Đức được cấp tốc thành lập, lực lượng cán bộ, an ninh xã liên tục xâm nhập từng gia đình, tiếp cận từng cá nhân để de doạ, dụ dỗ, khống chế, khủng bố tinh thần, ép buộc cam kết, khai nhận tội trạng để hình thành những hồ sơ khởi tố khi cần thiết sau này.

Nhiều người dân bị bắt, bị đánh đập dã man không có bất cứ sự hồi âm nào từ chính quyền nhà nước, dù đã có đơn từ theo đúng luật định, mọi cách hành xử ở đây đều theo lối luật rừng. Một số người bị bắt lên công an huyện Mỹ Đức bị treo nổi lên xà, hai chân không chạm đất, và công an cứ thế đánh vào hai bên mạng sườn, vỗ vào hai bên tai đến khi nào lấy được lời khai theo đúng ý công an. Mới đây có một thanh niên sau khi đưa về nhà và đi khám mới biết đã bị đánh gãy xương sườn.

Con tin của chính sách “Cây gậy và củ ca-la-thầu”

Chính sách “cây gậy và củ ca-la-thầu” là sách lược đấu tranh, khống chế đối phương , theo cách hiểu nôm na của Việt Nam như là “vừa đấm vừa xoa” “vừa đánh vừa đàm” nghĩa là không phải để tuyệt diệt đối phương mà buộc đối phương phụ thuộc, tồn tại trong quỹ đạo, theo ý muốn của riêng mình.

Thế nhưng bất ngờ trong đêm, đưa cả nghìn người gồm cảnh sát cơ động, cán bộ chuyên viên với đầy đủ trang bị, phương tiện kỹ thuật đàn áp, đập tan cho kỳ đươc cây Thánh giá bê-tông, rồi nhổ cho hết mọi thánh giá trên đỉnh núi, Chính quyền cộng sản Hà Nội đã tính chuyện tuyệt diệt niềm tin Công Giáo trong lòng Giáo dân Đồng Chiêm nói riêng và Ki-tô hữu Việt Nam nói chung. Và với

Chỉ đến khi làn sóng phản kháng, tôn vinh thánh giá dâng lên ở Đồng Chiêm, lan toả ra nhiều nơi từ quốc nội đến hải ngoại Chính quyền cộng sản mới nhận ra sai lầm và vì thế mà Đồng Chiêm sau cái đêm kinh hoàng đã trở thành con tin của của họ, để họ “đàm” họ “xoa” họ giải ngân mấy củ “ca-la-thầu”, với hy vọng che chắn, chạy tội phạm Thánh tầy đình này.

Ngay trong giới cầm quyền nhiều người đã đặt câu hỏi tại sao không” đàm” không “xoa” không đưa “ca-la-thầu” ra trước rồi hãy dơ “gậy” dơ”đấm” hay ” đánh” thì kết quả có thể sẽ là khác.

Con tin cho sự hằn học sau cú “tự sập bẫy”

Sau đêm triệt hạ Thánh giá bê-tông, nhiều người đã cho rằng đây là một cái bẫy nhằm dẫn dụ, sập bắt Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cùng các Linh mục, Giáo dân Thái Hà. Đây là cái bẫy độc ác, hèn hạ nhất vì đã dùng mồi bẫy bằng “tình thương, tình liên đới hiệp thông, đức công chính” là những đặc tính cao quý của người Thiên Chúa Giáo để sập bắt chính người Thiên Chúa Giáo.

Nhưng bẫy đã sập vào chính những kẻ giăng ra nó. Chính quyền cộng sản Hà nội đau đớn, điên loạn vô cùng. Cả một cuộc điều binh khiển tướng quy mô, cả một ý đồ, kế hoạch chính trị bị phá sản, bị phản tác dụng, một phe cánh cầm quyền có thể bị loại bỏ trong xới chính trị của đại hôi đảng sắp tới, và như thế đường hướng, số phận của chính thể cộng sản Việt Nam có thể sẽ khác.

Nghiêm trọng hơn bỗng nhiên cái mặt nạ “oanh liệt rưc rỡ” của chính quyền mấy chục năm bị lột bỏ, bị xếp cùng top với chính quyền Hồi giáo cực đoan Taliban. Từ đó một lô-gic hiển nhiên là phải bắt cả giáo xứ Đồng Chiêm thành con tin, dìm Đổng Chiêm trong kìm kẹp, bao vây cô lập, trù dập trong sự hằn học, trả thù đê mạt nhất.

Con tin để đổi lấy một lối thoát.

Khi tổ chức đập pháThánh giá bê-tông chính quyền cộng sản Hà Nội đã trù liệu rất kỹ, ngành công an đã có những điều tra chi tiết, tham mưu rất chuyên nghiệp như: Chọn thời điểm khai hoả là về đêm, chọn khi thanh niên, đàn ông trong thôn đang xa nhà làm ăn, lúc Linh mục chánh xứ đi vắng, bố trí lực lượng lớp lang, bài bản, chốt chặn các lối ra vào, phục kích cả gác chuông, tránh dân làng rung chuông báo động, sử dụng nhiều loại thiết bị, công cụ hỗ trợ tích hợp... đặc biêt là tuyệt đối bí mật (một phó bí thư Thành uỷ đã không hề hay biết về kế hoạch này).

Kết thúc của kế hoạch là phá hủy được khối bê tông trị giá dăm triệu đồng tiền Việt. Nhưng sau đó một sức ép lớn hơn hàng triệu lần khối bê-tông, không tiền bạc nào bù đắp, mua bán được đang ép mạnh lên số phận chính trị của cả phe cánh thân “Tàu” trong chóp bu lãnh đạo, đó là lòng căm phẫn, khinh bỉ của giáo dân và những người có lương tri trong và ngoài nước,

Đối với Toà Khâm Sứ hay Thái Hà hay TamToà, thì “công lý sự thật” bị chìm khuất, ẩn dấu bên dưới những miếng đất, và với khả năng của một chính quyền trong ít ngày có thể làm biến dạng nó thành cái gọi là “công viên”, nghĩa là có thể, hoán vị, tạm dừng sự kiện bằng cách dán vào đó mấy cái nhãn là “của công” cho đến khi điều kiện chín muồi hơn (đẩy được Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt và các Linh mục Thái Hà ra khỏi Hà Nội) việc cướp đoạt sẽ được tổ chức lại từ đầu, và không khó khăn, mất mặt như lần trước.

Nhưng với Đồng Chiêm thì khác, Chính quyền cộng sản Hà Nội có thể đập vỡ thêm cả trăm khối bê tông, có thể di dời cả thôn Đồng Chiêm đi nơi khác, có thể sẽ biến Đồng Chiêm thành “công viên” thành “khu sinh thái”, thành khu “quốc phòng”… điều này có thể làm được nhưng làm sao có thể đổi 15 cân gạo, mấy gói quà tết thời bao cấp, mấy ki lô mét đường bê tông (Vốn vẫn là mồ hôi nước mắt của dân nghèo) lấy tình yêu, ơn huệ Chúa Trời được hun đúc mấy trăm năm trong lòng dân lành Đồng Chiêm? Làm sao có thể tạm dừng, hoán vị được sự căm phẫn và khinh bỉ chính quyền cộng sản (nay được gọi đúng tên là tà quyền) và lòng kính yêu, tôn vinh Thánh giá của tất cả ki-tô hữu (những con người, những tổ chức, tôn giáo yêu mến tôn thờ chúa Giê-Su trên toàn thế giới)

Vì thế bao vây cô lập, lấy Đồng Chiêm làm con tin để buộc Giáo hội, các Giáo sĩ có trách nhiệm với đàn chiên phải xuất hiện, phải “đối thoại” với họ và cơn địa chấn tôn vinh Thánh giá đang lan toả khắp nơi sẽ được hạ nhiệt, giảm dần. Đây là lý do chính mà giáo xứ Đồng Chiêm bỗng chốc trở thành con tin.

Dù thế, cộng sản Hà Nội đang hết sức lúng túng, một câu hỏi đã đặt ra cho họ là ngăn sông cấm chợ, bao vây cô lập cùng với tái diễn cái việc cứu trợ, tặng quà đến bao giờ?

Kẻ gây ra tội ác đã nhận lãnh đủ hậu quả nhưng chưa biết sám hối.

Chính vì thế mới có 2 cái công văn ngọng ngoẹo của Chủ tịch xã An Phú nhằm đe doạ kết tội Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, các Linh muc giáo dân Thái Hà, và khi cần kẻ thủ ác cộng sản Hà Nội có thể đổ lỗi “phạm thánh” cho đám cường hào ác bá địa phương thôn làng gây ra.

Thế thì trong tết nguyên đán cổ truyền này sẽ lại có màn thăm chúc của Bí thư thành uỷ, của Phó chủ tịch thành phố, và nếu không thế thì cũng là của Giám đốc sở, Chủ tịch huỵện … gì đó. Người ta sẽ thấy cờ xí rợp trời, người dân (quần chúng tự phát được thuê từ nơi khác đến) tưng bừng xếp thành hàng danh dự đón chào quan khách ... rồi được phỏng vấn để phát biểu “ơn đảng, ơn nhà nước”... đưa lên TV

… Và cứ theo lối “tư duy đống đất” này thì ngay trong mùa xuân năm mới sẽ lại có những phiên toà xử giáo dân Đồng Chiêm ... Và cũng có thể có nhiều linh mục sẽ buộc phải can dự. Và cuộc trở mình đứng dậy của cả Giáo hội là không tránh khỏi … Ngàn, vạn, triệu giáo dân sẽ lại xuống đường giơ cao cây Thánh giá huy hoàng... trên mọi nẻo miền đất nước, khắp bốn phương trời Âu sang Mỹ đến châu Đại dương ... Thánh giá Đồng Chiêm sẽ vươn lên huy hoàng và tỏa ra ánh sáng.

Đây không phải là điều lãnh đạo chóp bu cộng sản mong muốn khi kỳ đại hội đảng cực kỳ quan trọng đang đến gần, cánh cửa “đối thoại” vẫn để ngỏ, vẫn có một lối thoát nào đó. Chính quyền cộng sản Hà Nội trong dịp tết nguyên đán này dù phải ngậm “bồ hòn” đắng nghét nhưng vẫn khen là ngọt để kiếm tìm lối thoát ra khỏi vũng lầy Đồng Chiêm.

Ngày 7/2/2010
Hồ Học Trần Trung Luận

Source: http://nuvuongcongly.net/index.php?option=com_content&view=article&id=661:dong-chiem-cqcs-ngam-bo-hon-lam-ngot&catid=77:kien-thuc-phap-luat&Itemid=177