Sunday, February 7, 2010

Vũ Anh Khanh Quê Hương vẫn còn ly loạn, mà Anh đã về đâu ? - Mường Giang

Mường Giang

Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ là hai người bạn chí thân trong văn chương và quảng đời dấn thân chống Pháp cứu nước suốt chín năm máu lửa 1945-1954, khi thực dân trở lại dày xéo quê hương Việt Nam lần thứ hai.

Mang chí cả của người trai thời loạn, sống hết mình cho lý tưởng phụng sự đất nước, hai ông cũng như bao nhiêu người con thân yêu của Mẹ, lầm đường lạc lối trước những xảo thuật chính trị tuyên truyền của đệ tam quốc tế, qua cái bình phong Mặt trận Việt Minh, nên ngày hòa bình trở lại năm 1954, đã hăm hở tập kết về Bắc.

Nhưng than ôi tất cả chỉ là ảo vọng khi cái mặt thật của thiên đường xã nghĩa hiện ra trong máu lệ, qua cảnh đời nghèo đói bất công và nổi cùng khốn tận tuyệt của dân chúng vô tội bên bờ này vỹ tuyến, qua cái gọi là cải cách ruộng đất và vụ án trăm hoa đua nở, mà chánh quyền cọng sản rập khuông theo Trung Cộng để diệt các tầng lớp phú, nông, thợ thuyền và trí thức VN, những người đã làm đá lót đường, làm cầu qua sông, làm phương tiện cho đảng chiếm được nửa nước để thụ hưởng và cầm quyền. Như Phùng Quán đã viết:
    “Tôi đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt,
    Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn dẻ rách
    Da đen như củi cháy giữa rừng
    Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
    Bới đồn giặc trồng ngô trỉa lúa
    Yêu ai cứ bảo là yêu,
    Ghét ai cứ bảo là ghét.”
Thế nên hai người đã quyết ý phải từ bỏ thiên đường đang ngoi ngóp sống, để quay về Nam với Mẹ với em, với những thân thương đang ràn rụa nước mắt đợi chờ. Nhưng than ôi số đời đã định, cùng ra đi trong khi Xuân Vũ biết rằng “Ðường đi không đến” thì lại đến vào năm 1965 tại Củ Chi. Trong lúc đó Vũ Anh Khanh đã sắp với tay được vào bờ Nam dòng sông vỹ tuyến, thì một mũi tên tẩm thuốc độc vô tình đã kết liễu cuộc đời tài hoa của người chiến sĩ vào năm 1956. Mới đây, trên tờ Văn Hoá VN số 14 mùa thu 2001, xuất bản tại Houston Texas, Xuân Vũ nhớ bạn có nhắc lại câu thơ: “Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn”, rồi kể lại câu chuyện của một người chết không mồ.

Cuộc đời như vậy sao mà không buồn ? nhất là qua biến cố 30-4-1975 đã cho chúng ta thấy một cách minh bạch rằng: “chế độ thực dân đồng chủng hay dị chủng, Pháp hay Việt cộng bản chất vẫn như nhau“ và những điều mà các nhà văn kháng chiến miền Nam, trong đó kiệt hiệt nhất vẫn là con chim đầu đàn Vũ Anh Khanh, Người Bình Thuận-Phan Thiết của miền Trung duy nhất, qua các bản cáo trạng, tới nay vẫn còn giá trị.

Có điều thật là bất công và tàn nhẫn đối với những người yêu nước, trong đó có Vũ Anh Khanh. Thật vậy tại VNCH miền đất được mệnh danh là tự do dân chủ nhưng mai mỉa thay trong khi chương trình Việt sử bậc Trung và Ðại Học Quốc Gia, long trọng đề cập tới cuộc kháng chiến của Dân Tộc qua sự nghiệp lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp từ 1945-1954 tại Nam Kỳ.

Nỗi đời lại càng bi phẫn hơn qua việc lãnh đạo miền Nam đã mở rộng tim để chấp nhận bản “Thanh niên hành khúc“ của Lưu hữu Phước làm Quốc Ca VN, sau khi được sửa chữa một vài chữ. Ai cũng biết họ Lưu là Việt Cộng chứ không phải Việt Minh, nhất là sau khi miền Nam bị sụp đổ, ngày 20-08-1975 Lưu hữu Phước qua chức phận Bộ Trưởng Thông Tin Văn Hoá Chính phủ Lâm thời CHMN, đã ký nghị định “Ðốt sách chôn học trò“ trên khắp lãnh thổ VNCH cũ. Trong khi đó chỉ vì chính trị và định kiến hẹp hòi, miền Nam đã gạt bỏ những người yêu nước như Vũ Anh Khanh kể luôn các tác phẩm của ông. Ngày nay trắng đen đã rõ, chỉ đau đớn là Quê Hương vẫn còn Ly loạn mà Ông không biết đã về đâu ?

Vũ Anh Khanh qua minh họa của Xuân Vũ

Từ các tài liệu rất ít ỏi, được biết Vũ Anh Khanh tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long tỉnh Bình Thuận. Ngoài bút hiệu trên, ông còn ký tên Vương Ấu Khương khi viết truyện ngắn “Mắt xanh sống vẫn lầm than bụi đời” đăng trên tờ Xuân VN vào Tết năm 1951.

Mũi Né, quê hương của nhà văn, vốn là một thị trấn miền biển bao gồm hai xã Khánh Thiện và Thạch Long, nằm cách Phan Thiết về hướng đông bắc chừng 20 km, xưa hay nay cũng vẫn là miền đất trù phú và thơ mộng của tỉnh Bình Thuận. Hơn ba trăm năm qua như một giấc mộng nhưng cái tên Mũi Né vẫn tồn tại trong tâm khảm của mọi người, cho dù trên giấy tờ hay bản đồ qua thời gian với bao nhiêu cái tên như Vị Nê, Cap Nê, Hải Long, Hàm Dũng và gì gì nữa trong tương lai.

Ðiều trên cũng giống như thân phận của nhà văn Vũ Anh Khanh “kẻ chết không mồ“ nhưng vẫn sống mãi với những tác phẩm đấu tranh để đời mà ai cũng biết tới, dù đã có thời gian và ngay bây giờ sách vẫn bị cấm đọc hay quảng bá. Sách của ông không nhiều vì cuộc sống của nhà văn ngắn ngủi, hơn nữa trong lúc văn thi tài đang lên như diều gặp gió, thì năm 1950 ông đột ngột từ bỏ thành đô hoa lệ, sau một chuyến viếng thăm Tha La xóm đạo, một làng quê êm đềm thơ mộng như chính quê hương Mũi Né của ông với những rặng dừa xanh ẻo lả, chạy song song với đồi cát trùng trùng, ngày tháng nép mình ôm ấp biển xanh:
    “Ðây Tha La xóm đạo,
    Có trái ngọt cây lành
    Tôi về thăm xóm Ðạo
    Giữa mùa náng vàng hanh”
Nhưng rồi giặc đến, vào làng giết người cướp của, cuộc sống an bình của quê hương bổng chốc thành máu lệ, bao nam nữ đã ra đi để hiến mình cho quê hương đất nước, chỉ còn lại nổi tang tóc, buồn hiu:
    “Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng ?
    Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng
    Nhẹ bảo chàng, em chẳng biết gì ư ?
    Bao năm qua khói lửa phủ mịt mù
    Người nước Việt ra đi vì nước Việt.”
    (Tha La xóm Ðạo-Vũ Anh Khanh)
Ðó chính là lý do ông đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ dữ dội khắp nước, dù đang có nhiều sách bán chạy như chuyện dài BẠC XÍU LÌN được Tiếng Chuông xuất bản năm 1949, chỉ trong 2 tháng đã bán hết 10.000 cuốn. Sau đó phải tái bản nhiều lần vẫn không cung ứng nhu cầu của người ái mộ. Nói chung theo giáo sư Nguyễn văn Sâm viết trong “Văn Chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950“ thì hầu hết tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị và tiêu biểu trong dòng văn chương đấu tranh thời đó, dù là thơ như CHIẾN SĨ HÀNH (Tân VN, Sài Gòn 1949), Truyện dài NỮA BỒ XƯƠNG KHÔ gồm 2 tập (Tân VN, Sài Gòn 1949), CÂY NÁ TRẮC (Tân Việt, Sài Gòn 1947), truyện ngắn NGŨ TỬ TƯ (Tân VN, Sài Gòn 1949), ÐẦM Ô RÔ (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949), SÔNG MÁU (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949) và BÊN KIA SÔNG (Tân VN, Sài Gòn 1949). Riêng bài thơ Tha La Xóm Ðạo của ông, sau này được nhạc sĩ Dũng Chinh, tên thật là Nguyễn văn Chính cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc và rất được mọi người ưa thích, giống như bài “Hoa trắng thôi cài trên áo trắng” của thi sĩ Kiên Giang. Ngoài ra soạn giả cải lương nổi tiếng Viễn Châu cũng đã mượn ý của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên “Tha La xóm đạo”.

Theo Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lớn hơn ông chừng vài tuổi, hai người đã quen biết nhau khi cùng ở chung trong hàng ngũ kháng chiến quân gọi tắt là Việt Minh, một tổ chức chống Pháp quy tụ toàn dân VN không phân biệt đảng phái chính trị. Theo hí họa của họa sĩ Thanh Long và các bằng hữu lúc đó đang phục vụ tại Ban Tuyên Huấn Phòng Chính Trị, đóng ở Cái Thun gần Cái Chanh Lớn, miệt Cạnh Ðền miền tây Nam Phần, như các thi sĩ Rum Bảo Việt, Nguyễn văn Trị , Ðiêu khắc sư Trần văn Lắm, Sơn Nam, Hà Huy Hà, các họa sĩ Thanh Tòng, Thanh Long, Hoàng Tuyển, nhà thơ Việt Ánh, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí, Phạm công Nhiều, Quốc Hương và Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lúc đó dù là một nhà văn đang nổi tiếng và có rất nhiều tác phẩm bán chạy, lại là một sĩ quan lục quân, tốt nghiệp tại Trường Lục quân, thuộc Phân hiệu II Trần Quốc Tuấn nhưng tánh tình khiêm cung, hiền hậu, có thể nói là chẳng bao giờ để lộ cái tôi ra ngoài, khiến cho cả đơn vị kể luôn Xuân Vũ lúc đó, không hề biết ông là ai.

Ðối với những tâm hồn nghệ sĩ lớn như Vũ Anh Khanh, viết lách, làm thơ , phát biểu những ẩn ức trong lòng, được coi như lẽ sống của kẻ cầm bút, nhưng theo Xuân Vũ thì từ năm 1950 khi về phục vụ tại cơ quan chính trị kháng chiến, không hiểu vì lý do gì Vũ Anh Khanh trở nên bất động, thậm chí tại khu có tờ báo mang tên Tiếng Súng Kháng địch, sau đổi thành tờ Quân đội nhân dân miền tây, vậy mà Vũ Anh Khanh hầu như không hề biết tới, kể cả những lúc sinh hoạt cũng chẳng hề có ý kiến, nếu bị hỏi tới mới nói: ”tôi đồng ý thế thôi“.

Như vậy, chẳng lẽ lúc đó ông đã nhận ra cái mặt thật của Việt Minh đang bị Việt Cộng núp bóng điều khiển khống chế hay vì cực khổ nên hối hận ? cả hai thắc mắc không thấy Xuân Vũ đề cập tới, ngoài một thố lộ chân thành là Vũ Anh Khanh với người bạn kháng chiến Nguyễn hữu Trí em ruột tướng Nguyễn thanh Sơn, xuất thân trong một gia đình vọng tộc, đại điền chủ tỉnh Vĩnh Long và Vũ Anh Khanh cũng thuộc một gia đình giàu có ở Mũi Né, Phan Thiết nên trong lúc cả nhóm đi cải thiện sinh hoạt, kiếm thêm chất tươi để bồi dưỡng vì thức ăn hằng ngày chỉ có muối, chao và các loại rau dại. Thêm một chi tiết khác là ông còn độc thân cho tới lúc qua đời. Cũng theo lời kể của Xuân Vũ, thì hai ông sống chung rất lâu nhưng năm 1954 tập kết ra Bắc, Xuân Vũ đi tại bến Chắc Băng, Cà Mâu và chỉ gặp lại Vũ Anh Khanh tại Hà Nội trong khu tập thể của dân Nam kỳ tập kết.

Xuân Vũ kể lại cái chết của Vũ Anh Khanh

Ngay khi vừa ký kết hiệp định ngưng bắn năm 1954 tại Genève chia đôi đất nước, Bắc Việt đã mở ngay chiến dịch tuyên truyền về cái gọi là “Kháng chiến VN, đánh dưổi Pháp-Nhật“ do đảng cộng sản lãnh đạo, bằng cách cho nhiều phái đoàn văn nghệ sĩ VN đến các nước thân cộng, cộng sản, trung lập hay có liên hệ ngoại giao để tuyên truyền. Trong chiến dịch quy mô này, Hồ đã cho Nguyễn văn Bổng tức Trần Hiếu Minh (sau này được cài vào VNCH tổng chỉ huy đám văn nghệ sĩ nằm vùng), Ðoàn Giỏi, Anh Thơ, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Tuân đi Tân Tây Lan và Úc Ðại Lợi. Nguyễn đình Thi, Nguyễn Huy Tưỏng đi Liên Xô, Trung Cộng, Tô Hoài đi Ðông Âu còn Nguyễn công Hoan, Võ Huy Tâm, Phạm hữu Tùng và Vũ Anh Khanh đi Ấn Ðộ.

Trước khi đi, Khanh có đến thăm các bạn Nam Kỳ trẻ tập kết lúc đó chưa có tiếng tăm gì như Nguyễn quang Sáng, Bùi Ðức Ái, Xuân Vũ. Bao nụ cười ra nước mắt, những đắng cay chua xót của kiếp người nhất là những người văn nghệ sĩ có tim, óc và tri thức đã được Xuân Vũ cười cợt diễn tả nhắc lại qua các mẫu đối thoại giữa hai người bạn thân cùng trong cảnh ngộ lầm đường lạc lối, bỏ tất cả để hôm nay chuốc lấy sự nản phiền và đau lòng.

Có đọc Xuân Vũ mới biết về Vũ Anh Khanh, có nghe Xuân Vũ tự sự về bạn mình từ lúc sống với nhau trong khu đồng chua nưóc mặn ở tận cùng cảnh nghèo cực của miền tây Nam Kỳ và sau này trong thiên đàng xã nghĩa chết bỏ tại Bắc Việt, ta mới nghiêng mình cảm phục những tâm hồn hy sinh vì nước của các đại gia công tử giàu sang phú quý như Vũ như Khanh, như Trí. Và cũng vì đã từng sống trong cảnh giàu trước khi dấn thân vào con đường chông gai chống Pháp, họ đã biết tự trọng như việc Vũ Anh Khanh mượn quần áo sang của Ðảng để diện khi đi ngoại quốc làm vẹt tuyên truyền, lúc về vẫn hoàn trả nguyên vẹn, mà theo bè bạn lúc đó là chuyện điên rồ.

Cũng theo Xuân Vũ, thì mới đây nhà văn Nhuệ Hồng viết trên tờ Thời Luận hải ngoại, cho biết năm đó ông đại diện cho VNCH cùng đi dự Hội nghị các nưóc Á Phi và có gặp Vũ Anh Khanh tại New Delhi thủ đô của Ấn Ðộ. Chắc chắn đây là nguyên nhân thúc đẩy ông tìm đường về Nam, một việc đã nung nấu từ lâu nhưng không thực hiện được hoặc vì một lý do thầm kín mà chúng ta không biết dược vì bản tính của Vũ Anh Khanh trước sau kín như bưng, kể cả người bạn thân Xuân Vũ cũng không hiểu đươc.

Sau khi ở hội nghị về, Vũ Anh Khanh có mua một chai rượu quý của Anh quốc để giải sầu với đám bạn bè Nam kỳ tập kết. Theo Việt Thường trong tác phẩm “Chuyện thâm cung DTDHCM” thì năm đó (1956) tình hình miền Bắc vô cùng rối loan, nhất là bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, thuộc sư đoàn của Ðồng văn Cống và Tô Ký, bất mãn nên nổi loạn cưóp phá tỉnh Ninh Bình, một số trốn chạy về Nam. Giống như tâm trạng của những người bộ đội trên, Vũ Anh Khanh đã kín đáo mượn cớ đi Ấn Ðộ về, ông dùng rượu để chia tay bạn bè thay lời vĩnh biệt, vì sau đó trong một cuộc Hội nghị khoáng đại của Hội Liên Hiệp Văn Nghệ, Xuân Vũ mói biết tin Vũ Anh Khanh đã chết ở Vĩnh Linh, Quảng Trị vì tai nạn.

Sự thật theo tiết lộ của Võ hồng Cương, phó tổng thư ký Hội cũng là cục phó cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Bắc Việt thì năm 1956, Vũ Anh Khanh được nghĩ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành Vĩnh Linh, Quảng Trị và từ đó bơi qua sông Bến Hải quãng trên cầu Hiền Lương vài cây số, quyết tâm về Nam tìm tự do nhưng hỡi ơi Trời không thương người hiền, nên khi sắp tới bến tự do thì bị bộ đội biên phòng bờ Bắc phát giác và để khỏi bị Ủy ban quốc tế làm biên bản vi phạm Hiệp định ngưng bắn, thay vì dùng súng, Việt Cộng dùng tên tẩm thuốc độc bắn chết Vũ Anh Khanh.

Sông Bến Hải lớn hơn sông Mường Mán tại Phan Thiết và thủy triều lên xuống bất thường, nên xác của người chết nhất là một phạm nhân vượt tuyến nếu may mắn không bị trôi ra biển đông hay xuôi về mạn ngược, mà tắp vào một bãi bờ nào đó trong khu phi quân sự, thì chắc chắn cũng được dân chúng vùi dập vội vã để làm phước, chứ đâu có ai dám truy nguyên lý lịch của nạn nhân, để tự chuốc họa cho mình ?

Mấy năm sau Xuân Vũ theo phái đoàn văn nghệ đi công tác ở Vĩnh Linh, Quảng Trị và ông cũng đã có ý định như Vũ Anh Khanh, bơi qua sông tìm tư do nhưng khi chợt nhớ tới giọng ngâm sang sảng năm nào của người quá cố: “Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn” ... thì tỉnh ngộ, nhờ vậy trong cuộc trường kỳ “đường đi không tới“ nhưng cuối cùng ông đã tìm được tự do thật sự khi ra hồi chánh vào năm1965 tại Củ Chi, Hậu Nghĩa.

Vũ Anh Khanh một đời đáng kính

Sống trong buổi loan ly nhà tan nước mất, chỉ có một thiểu số không tim óc dửng dưng nhìn thế sự xoay vần, mặc cho quốc dân bị đè bẹp dưới gót sắt của ngoại bang. Nhưng tuyệt đại đa số dân chúng VN đã đứng dậy hưởng ứng phong trào chống trả với giặc thù. Cuối tháng 12-1946, quân Pháp chính thức làm chủ Sài Gòn và cũng giống như lần trước, giặc đã gặp phải sự chống trả của toàn dân.

Lần trước vào năm 1862, người Việt dùng những vũ khí thô sơ và lòng yêu nước để chống chọi với súng đạn tối tân. Lần này, người Việt tuy vô chánh phủ và thực tế chỉ là những lực lượng tự phát nhưng lại có trong tay các loại vũ khí hiện đại của Nhật để lại. Thêm vào đó là tim óc của các tầng lớp trí thức tân học, thể hiện qua các tác phẩm tuyên truyền, những lời hiệu triệu, những tờ truyền đơn nẩy lửa, tố cáo sự dã man của Pháp, đồng thời kêu gọi toàn dân đứng lên đáp lời sông núi, tiêu diệt kẻ thù.

Ngày xưa các cụ Ðồ Chiểu, Huỳnh mẫn Ðạt, Nguyễn Thông, Phan văn Trị.cũng đã từng dùng thơ văn cổ xúy cho cuộc kháng Pháp của Trương Ðịnh, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương nhưng lúc đó vì phương tiện và hoàn cảnh eo hẹp nên ảnh hưởng không được bao nhiêu. Trái lại khoảng thời gian 5 năm (1945-1950), các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nói chung là văn nghệ sĩ miền Nam đã tiếp tay cho kháng chiến một cách tích cực, góp phần lớn với toàn dân cả nước, tạo nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954, thu lại nền hòa bình độc lập cho dắt nước.

Trong chiều hướng trên, các tác phẩm văn xuôi của Vũ Anh Khanh, từ truyện ngắn cho tới truyện dài, qua nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học hiện đại, trong đó có giáo sư đại học Nguyễn văn Sâm, đều đáng được xem là những tiêu biểu nhắm vào các mục đích đấu tranh nhằm tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp, làm cản trở sự tiến hóa của dân tộc VN.

Tình trạng tạo nên cảnh ngu dân này, trước đây cũng đã được các nhà ái quốc tiền phong như Phan bội Châu, Phan chu Trinh đặt thẳng vấn đề với nhà cầm quyền Pháp nhưng có lẽ quyết liệt hơn hết là tôn chỉ của VN Quốc dân đảng,được cố Ðảng trưởng Nguyễn thái Học, viết trong bức thư tuyệt mệnh vào tháng 3-1930 gởi cho Hạ nghị viện Pháp, yêu cầu mở trường cũng như cải tổ nền giáo dục tại VN.

Nối tiếp tâm nguyện của tiền nhân, Vũ Anh Khanh qua các tác phẩm BÊN KIA SÔNG và CÂY NÁ TRẮC, đã công khai tố cáo Pháp cố tâm ngăn chận sự học hành của VN. Trong truyện ngắn MỘT ÐÊM TRĂNG, Vũ Anh Khanh qua lời nhân vật của mình, đã thổn thức: ”... Dân VN hiếu học nhưng bao lâu nay, họ cam tâm chịu dốt nát vì bị người ta tìm cách chèn ép ...”. Hậu quả trên đã tạo nên tuyệt đại tầng lớp dân chúng thất học, chịu câm lặng cúi gập trước nỗi bất công phi lý, như hầu hết các nhân vật trong truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gánh chịu. Song song, ông còn mạnh mẽ tố cáo Pháp cố tình tạo nên một xã hội băng hoại, để đầu độc dân tộc VN , là tác giả của những tệ nạn rượu chè, hút sách, cờ bạc, đĩ điếm, công khai khuyến khích hay dùng bạo lực bắt dân chúng phải mua rượu, trồng nha phiến, mở sòng bạc, ổ điếm. Tất cả những tệ nạn xã hội trên đều được Vũ Anh Khanh ghi lại đầy đủ và nát tim trong các tác phẩm BẠC XÍU LÌN, SÔNG MÁU và ÐẦM Ô RÔ. Các cơ sở trụy lạc trên đều nhan nhản khắp nước, đặc biệt là tại Hà Nội, Hải Phòng và nổi tiếng ở Sài Gòn-Chợ Lớn với hai sòng bạc Kim Chung và Ðại thế giới, do các xì thẩu Hoa, Ấn và Pháp kiều toa rập làm chủ, kết quả nhiều người Việt vì say mê cờ bạc, thần đề, bàn đèn, đĩ điếm.. phải tan gia bại sản và cuối cùng đã: “... bán con, thế vợ, đợ chồng - hết cơ, mất nghiệp, thần vòng rũ đi ...”

Sau rốt, ông đã tố cáo thực dân làm cho người VN trở thành lạc hậu, hung tàn, mất hết bản tánh con người văn hiến. Trong lãnh vực này, Vũ Anh Khanh xứng đáng là một chiến sĩ, một nhà văn can trường khi dám dùng trí óc như những phát súng thần công nhắm thẳng vào bọn cầm quyền Pháp, lũ xì thẩu bất nhân Hoa kiều và đám tư bản bóc lột Ấn Ðộ, chuyên sống ký sinh trên thân thể đầm đià máu lệ của người Việt, qua các truyện ngắn như Sài Gòn ơi, Ma thiên Lãnh, Hối tắc.

Nói tóm lại dưới chế độ thực dân, qua nỗi nghèo cực tối tăm, người Việt không còn tương lai và gần như đánh mất hết đạo lý của thánh hiền, trở nên yếu hèn nông nỗi vì quanh quẩn bị bạo lực vây bủa, kềm chế, sống trong cảnh một cổ bốn tròng, chia rẽ Trung Nam Bắc dù tất cả đều là VN và thê thảm nhất về kinh tế, Pháp và bọn ký sinh Hoa-Ấn hầu như nắm hết tất cả nguồn lợi quốc gia. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 khiến cho hơn 2 triệu người bị chết đói, là hậu quả tất yếu của chính sách trên, sau này được Vũ Anh Khanh lập lại trong truyện dài ưng ý và nổi tiếng nhất của ông NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ. Văn chương của Vũ Anh Khanh phản ảnh đúng nét đặc trưng của người Bình Thuận, ngay thẳng, trung hậu vì vậy thật linh động, có lúc thống thiết lâm ly, có khi mỉa mai cay độc nhưng vẫn không dấu nổi nét cảm khái hùng hồn, chưa chan niềm uất hận.

Vũ Anh Khanh hiện diện trên cõi đời thật ngắn ngũi (1926-1956), giống như hoàn cảnh của Vũ trọng Phụng cũng tài hoa lại vắn số, nhưng ông cũng đã làm tròn thiên chức của một thanh niên thời đại, trong cảnh quốc phá gia vong. Ðây cũng là cái giá trị cao quý nhất của kiếp người, nhất là giới mày râu hàng tri thức có lương tri và nhân phẩm, cái hào quang để thế nhân phân biện được hư thực, tốt xấu của con người.

Sau năm 1975, nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc thẳng thắn bảo rằng, cái chết sớm của Vũ Anh Khanh là một hạnh phúc, để ông không trở thành cái bình vôi như hầu hết các văn thi sĩ tiền chiến đã lãnh trong suốt thời gian sống nhục nơi cõi thiên đàng xã nghĩa u trầm. Qua việc Vũ Anh Khanh tập kết ra bắc năm 1954, nhiều người kết tội ông là cộng sản. Cũng vì lý do này mà suốt thời gian 1955-1975, tác phẩm của ông lại bị cấm, không được tái bản, lưu hành, không có tên trong chương trình giáo dục, dù năm 1956 ông đã bị cộng sản miền Bắc bắn chết trên sông Bến Hải, khi quyết lòng đi tìm tự do sau khi đã đối mặt với sự thật não lòng.

Thật ra việc Vũ Anh Khanh có là cộng sản hay không, giờ này cũng chưa có ai xác nhận được vì trong 9 năm chống Pháp, Việt cộng núp bóng Việt Minh để quản thúc toàn dân kháng chiến và trong Việt Minh lúc đó có đủ mọi thành phần, đảng phái. Vũ Anh Khanh, Xuân Vũ hay mọi người khác trong dòng người yêu nước lúc đó, biết ai là Việt Minh hay Việt Cộng. Còn vấn đề về Tề hay tập kết phần lớn chỉ vì mang tâm trạng sợ bị trả thù, nên bặm môi tới đâu hay đó.

Nhưng thôi sự thật giờ đã rõ ràng, bộ mặt thật của cọng sản từ 1930-2010, cũng đã trôi hết lớp son phấn và huyền thoại, cho nên sự thức tỉnh của Vũ Anh Khanh năm 1956 là thái độ của một anh hùng đáng kính phục và mến mộ. Hơn nữa công hay tội của một con người xin hãy để cho lịch sử định đoạt.

Tự dưng tâm hồn cảm xúc và bối rối kỳ lạ khi bâng quơ đi vào ngõ khuất của một phần đời nhà văn bị đời quên lãng VŨ ANH KHANH. Trong gió, trong mưa, trong cảnh mùa đông sụt sùi nước mắt, hình như có tiếng ai đang thì thầm: ”Hãy khóc lên đi cho quê hương yêu dấu. Quê hương vẫn còn trong cơn ly loạn mà Anh nay ở đâu ?”.

Tài liệu tham khảo:
Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp của Nguyễn văn Sâm
Văn học Miền Nam tổng quát của Võ Phiến
Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Người chết không mồ của Xuân Vũ đang trong VHVN số 14-2001 xuất bản tại Hoa Kỳ
Thi văn quốc cấm thời Pháp thuộc của Thái Bạch
40 năm văn học của Nguyễn Vy Khanh


Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 2-2010
Mường Giang


Sửa Sai Ông Bùi Tín Về Một Trang Sử - Sơn Tùng

Sơn Tùng

Nhân dịp Đảng Cộng sản Việt Nam có những sinh hoạt nhộn nhịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập đảng (3 tháng 2), Nhà báo Aude Genet, trưởng nhiệm sở hãng tin Pháp AFP tại Việt Nam, đã phỏng vấn Ông Bùi Tín ở Paris về nhiều vấn đề liên quan đến hiện tình Việt Nam.

Về cảm nghĩ đối với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tổ chức kỷ niệm ngày lập đảng, Ông Bùi Tín nói như sau (theo bản Việt ngữ được phổ biến trên mạng điện tử):

- Tôi cũng biết ở Hà-nội có những cuộc họp kỷ niệm, một cuộc hội thảo, và xuất bản sách về 80 năm đảng CS Việt Nam, hồi đầu mang tên đảng Cộng sản Đông Dương. Những diễn văn dài nặng về công thức, nặng tính giáo điều, về chủ nghiã Mác-Lênin, về giai cấp vô sản, về chủ nghiã xã hội, về quá độ từ chủ nghiã tư bản lên chủ nghiã xã hội trên phạm vi toàn thế giới …, nhưng tôi tin rằng những người viết ra, đọc lên và cả những người ngồi nghe, không có ai còn tin ở điều mình viết, đọc và nghe. Họ đang là những nhà tư sản, tư bản mới, có nhà đất, có cổ phần, chứng khoán, khá nhiều còn hùn hạp với các triệu phú, tỷ phú quốc tế. Họ chỉ giữ lại của lý luận cộng sản cái phần xấu nhất là nền chuyên chính độc đảng để bảo vệ tài sản riêng bất chính.”

Những điều trên đây không có gì đáng bàn vì là những sự thật hiển nhiên mà không một người Việt Nam nào không biết. Nhưng khi được hỏi về vai trò và vị trí của Đảng Cộng sản VN trong lịch sử Việt Nam, Ông Bùi Tín nói:

- Đảng Cộng sản VN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác - mặt này ít được chú ý vì bị họ che giấu kỹ - là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái chính trị khác bị họ thủ tiêu.

Đã vậy, sau hoà bình và thống nhất, đảng CS đã bỏ qua cơ hội hoà hợp hoà giải dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh. Đây là thất bại nặng nề nhất, bi thảm nhất, tệ hại lâu dài nhất. Họ đã nhân danh các “trại cải tạo”, trả thù, bỏ tù đầy đọa 20 vạn sĩ quan viên chức chế độ cũ, phân biệt đối xử theo tư duy hận thù, tạo nên bi kịch hàng triệu thuyền nhân, với không biết bao nhiêu người chết thê thảm trong biển cả.

Họ còn diệt trừ tư sản công thương nghiệp, diệt trừ nông dân cá thể, cưỡng bức tập thể hoá, tàn phá tận gốc nền sản xuất xã hội, rồi mới buộc phải đổi mới, mà chỉ đổi mới bộ phận về kinh tế, còn bất động về chính trị ... (ngưng trích)

Phần phát biểu trên đây của Ông Bùi Tín, ngoài những lập luận thiếu lô-gíc còn chứa những sai lầm trầm trọng liên quan đến vai trò và vị trí của Đảng Cộng sản VN trong lịch sử mà vì không biết, hay biết mà cố tình làm như không biết, đã nói cùng một luận điệu với Đảng Cộng sản VN trong mưu toan đánh tráo lịch sử.

Về chính sách tàn ác sau chiến tranh, đó đúng là con đường mà mọi đảng cộng sản trên thế giới đã đi sau khi cướp được chính quyền. Trong lịch sử có bao giờ cộng sản ở đâu “hoà hợp hoà giải” với ai?

Có phần CSVN sau khi chiếm được miền Nam còn “nhẹ tay” hơn là sau khi chiếm được miền Bắc, vì đã không phát động phong trào đấu tố man rợ như ở miền Bắc. Vì theo đúng con đường “tiến mau tiến mạnh lên chủ nghiã xã hội” mà Đảng CSVN của Ông Bùi Tín mới đứng bên bờ vực thẳm vào giữa thập niên 1980, phải theo gương đàn anh phương Bắc “đổi mới kinh tế”, nhưng không “đổi mới chính trị” vì biết không “bám chặt chuyên chính độc đảng” là chết.

Về “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập” của Đảng Cộng sản VN, sau hơn nửa thế kỷ trôi qua đã có đầy đủ tài liệu chứng minh là cần phải sửa sai, cần phải trả lại sự thật cho lịch sử.

Sự thật là nếu không có Đảng Cộng sản VN thì sau Thế Chiến II, nước Việt Nam đã dành lại được nền độc lập mà không hao tổn xương máu, hay hao tổn rất ít xương máu. Vì Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta mang ngọn cờ đỏ làm đội quân xung kích của cộng sản quốc tế trên địa bàn Đông Nam Á mà năm 1945 thực dân Pháp đã có cớ trở lại cựu thuộc địa Đông Dương với sự chấp thuận của hai cường quốc Anh, Mỹ, và sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ năm 1954, Mỹ đã vào thế chân để ngăn chặn làn sóng đỏ trong vùng Đông Nam Á và Cộng sản Bắc Việt đã dùng chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” để đánh chiếm Miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh kéo dài 15 năm (1960- 1975), gieo bao đau thương, tàn phá trên đất nước Việt Nam với hàng triệu người chết và những hận thù kéo dài cho đến ngày nay.

Trước khi cuộc Thế Chiến II chấm dứt, hai nước Hoa Kỳ và Anh đã chuẩn bị cho một trật tự mới trên thế giới thời hậu chiến, trong đó không còn chủ nghiã thực dân và phát huy quyền tự quyết của các dân tộc. Trong chủ trương ấy, Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill đã gặp nhau tại Argentia vào tháng 8 năm 1941 và đã cùng ký một thoả ước gọi là Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) trong đó hai nước cam kết tôn trọng 3 nguyên tắc: (1) chống lại hành động bành trướng lãnh thổ; (2) chống lại những sự thay đổi lãnh thổ mà không qua sự bày tỏ ý chí một cách tự do của các dân tộc liên hệ; (3) ủng hộ quyền của các dân tộc để chọn lựa thể chế riêng cho mình.

Do Hiến Chương này mà sau Thế Chiến II, các nước cựu thuộc địa tại Á Châu đã lần lượt được trả lại độc lập mà không đổ máu, hay đổ máu rất ít, trừ Việt Nam . Lý do là vì Anh và Mỹ biết rõ Hồ Chí Minh là một cán bộ cộng sản quốc tế, biết rõ tổ chức Việt Minh là do Đảng Cộng sản VN (đã đổi tên thành Đảng Lao Động) lập ra và hoàn toàn kiểm soát. Vì vậy, Mỹ và Anh đã cùng tuyên bố nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên bán đảo Đông Dương, và không công nhận chính phủ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” do Hồ Chí Minh thành lập sau khi cướp được chính quyền tại Hà-nội ngày 19.8.1945.

Cũng vì coi Cộng sản Việt Nam là đội tiền quân của cộng sản quốc tế tại Đông Nam Á nên sau khi Việt Nam bị chia đôi do Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, Hoa Kỳ đã viện trợ cho miền Nam Việt Nam và xây dựng một “tiền đồn chống cộng” tại đây, và đã trực tiếp tham chiến từ năm 1965 sau khi Cộng sản Bắc Việt xua quân xâm lấn Việt Nam Cộng Hoà.

Ông Bùi Tín đã tránh không nói đến cuộc chiến tàn khốc này do Đảng CSVN phát động và không nói đến vai trò của người Mỹ và cuộc kháng cự dũng cảm của quân dân miền Nam VN mà chỉ nói mơ hồ là Đảng CSVN “đã thực hiện thống nhất đất nước”.

Đây là thái độ mập mờ của Ông Bùi Tín từ ngày rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam và sống lưu vong tại Pháp. Đây cũng là thái độ mập mờ của một số cựu đảng viên Đảng Cộng sản VN đã chọn tự do và đang sống ở hải ngoại. Họ không chịu dứt khoát thú nhận đã sai lầm khi gia nhập hàng ngũ Cộng sản VN, và không chịu nhìn nhận sự kiện “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập” của Đảng Cộng sản VN là một trang đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Đó là một sự lừa gạt lớn nhất, môt tội ác lớn nhất, và một vị trí nhơ nhuốc nhất dành cho Đảng Cộng sản VN trong lịch sử.

Phải chăng thái độ mập mờ ấy là để ve vuốt, trấn an các đồng chí cũ của họ còn ở trong hàng ngũ CSVN? Hay nó nói lên sự tham lam của họ: muốn lúc nào cũng nắm chính nghiã, khi ở bên này cũng như lúc đứng bên kia, trong hiện tại lẫn quá khứ? Họ không muốn mất gì cả, dù là cái quá khứ sai lầm mà ngày nay đã là điều hiển nhiên trước mắt mọi người.

Ông Bùi Tín có thấy là tự mâu thuẫn khi nói Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nên tới nghiêng mình tạ tội trước Đài Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản tại thủ đô Washington trong dịp tới đây năm 2007, lại vừa muốn dành cho Đảng Cộng sản VN vị trí trong lịch sử với “vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, thống nhất đất nước”?

Trái với thái độ mập mờ, mâu thuẫn này, Nhạc sĩ Tô Hải, khi tỉnh ngộ sau gần cả đời phục vụ “đảng”, và “hết hèn”, đã can đảm dõng dạc nói lớn, dù vẫn còn ở trong tay bạo quyền:

“Không có ông Hồ, không có cái đảng này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng (cựu) thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt.”

Sơn Tùng
06.02.2010

Saturday, February 6, 2010

Tội ác Việt Cộng và thảm sát Tết Mậu Thân 1968












http://www.youtube.com/watch?v=V8kFRJN2zsI




Bà Ngô Đình Nhu - Trương Phú Thứ


baNgoDinhNhu_TranLeXuan
Bà Trần Lệ Xuân

Trương Phú Thứ

Tôi nhận được rất nhiều câu hỏi qua những lần gặp gỡ, điện thư, điện thọai về “hồi ký’ của Bà Ngô Đình Nhu. Người nào cũng hỏi là bao giờ ‘hồi ký” của Bà Nhu được phát hành và nếu đã có bầy bán rồi thì mua ở đâu?

Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đã từng viết trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây cũng có câu hỏi như vậy.

Ai cũng muốn biết cuộc đời công và tư của Bà Nhu như thế nào. Bà làm gì và sống ra sao từ năm 1963 cho đến ngày hôm nay. Nhiều người cũng còn tò mò muốn biết cuộc sống tình cảm của một góa phụ nổi tiếng và xinh đẹp có gì vui buồn không?

Năm nay Bà Nhu đã trên tám mươi tuổi và bà đã xa lìa cuộc sống với những thăng trầm đã gần nửa thế kỷ. Bà đã thực sự xa lánh những phù phiếm ảo ảnh của trần thế. Bà sống đơn độc nghèo khó như một người tu hành. Đã từ hai năm nay bà không còn đi nhà thờ mỗi buổi sáng nữa vì đau chân. Tuổi già với những giới hạn về sức khỏe và đủ mọi loại bệnh tật chẳng trừ một ai. Tuy vậy bà vẫn còn khỏe mạnh hơn đa số những người cùng lứa tuổi.

Cho đến ngày hôm nay, rất nhiều người còn có những câu hỏi thật vô lối về Bà Nhu, như số tiền mười bẩy tỷ Mỹ kim bây giờ còn bao nhiêu và cất giữ ở đâu? Sau khi Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát thì bà có mối tình nào không? Tiền và tình luôn luôn là những câu hỏi và vì không có những câu trả lời nên mỗi người tin tưởng theo những cảm tình và nhận định khác nhau. Do vậy ai cũng trông chờ “hồi ký” do chính Bà Nhu viết sẽ giải tỏa những thắc mắc đó. Một nhà báo ở trong nước, Ông Phan Kim Thịnh, bút hiệu Lý Nhân, đã viết một cuốn sách nhan đề “Trần Lệ Xuân Giấc Mộng Chính Trường”. Cuốn sách được nhà xuất bản Công An Nhân Dân phát hành và đã được in lại đến ba lần chỉ trong vòng hai tháng. Như vậy thì vẫn còn biết bao người yêu kẻ ghét Bà Nhu. Quyển sách cũng chẳng có gì mới lạ. Tác giả chỉ thu góp lại những tài liệu trên báo chí và cô đọng lại thành một tập sách nhưng cũng đã lôi cuốn được rất nhiều người đọc. Tất nhiên là những tài liệu trên báo chí do nhiều người viết một cách vội vã theo nhu cầu tin tức đã có rất nhiều sai trái, nhiều khi bịa đặt trắng trợn.

Bà Nhu có viết “hồi ký” không? Câu trả lời chắc chắn và rõ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi ký Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.

Năm 1963, thế giới có hai người góa phụ trẻ và xinh đẹp là Bà Jacqueline Kennedy và Bà Ngô Đình Nhu. Hai góa phụ này luôn luôn là những tâm điểm của báo giới quốc tế. Một tiếng nói, một bước đi của Bà Kennedy hay của Bà Nhu cũng là một đề tài nóng sốt sôi nổi. Bà Kennedy đã trải qua nhiều cuộc tình và chính thức kết hôn với tỷ phú người Hy Lạp Onassis. Những hình ảnh của Bà Kennedy với nhiều người đàn ông khác nhau đầy rẫy trên báo chí. Cuộc sống của Bà Kennedy chưa thể nói là quá vương giả nhưng cũng thật nhung lụa. Một góa phụ có bạn trai hay lấy chồng, đối với người Âu Mỹ là một chuyện rất bình thường. Bà Kennedy cũng bị dư luận chỉ trích vì đôi khi đi quá giới hạn của một mệnh phụ đã từng là đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ. Ngược lại những soi mói rất tinh vi và tân tiến đôi khi thật tàn bạo của báo giới trên toàn cầu đã không đưa ra được một hình ảnh dù rất nhỏ nhoi về những cái gọi là chuyện tình của góa phụ Ngô Đình Nhu. Bên cạnh những luật lệ tôn giáo rất khắt khe và lễ nghĩa của người phụ nữ Việt Nam thì đối với Bà Nhu chỉ có hình ảnh của một người đàn ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu, cho dù Ông Nhu đã ra người thiên cổ. Bà Nhu góa bụa ngay vào tuổi mặn nồng của người phụ nữ nhưng bà đã ở vậy thờ chồng nuôi con và không hề có một tai tiếng ngay cả không có những lời đồn thổi vu vơ.

Bên cạnh những xung khắc chính trị, những người chống đối Bà Nhu cũng không thể nào tìm ra được một tì vết để nhạo báng nhưng lại kính trọng bà như là một người phụ nữ nền nếp đoan trang.

Chuyện tình cảm không có gì để nói tới. Chuyện tiền bạc của cải cũng chỉ là một con số không. Bà Nhu sống đơn sơ thanh bạch trong một căn phòng bầy biện giản dị. Trong phòng, ngoài cái điện thoại thì chỉ có một cái máy truyền hình mầu cỡ nhỏ 13 inches mà ở Mỹ bỏ ra ngoài bãi rác chắc chắn không ai ngó ngàng tới. Bà Nhu chẳng có gì ngoài hai căn phòng trên tầng lầu thứ mười một của một chung cư. Bà Nhu ở một căn và một căn cho thuê để lấy tiền sinh sống. Chỗ ở của Bà Nhu như một cái hộp bằng kính. Khách đứng trong căn phòng này nhìn mây bay lãng đãng ngay bên cạnh sẽ có cảm giác sợ hãi như đang bay giữa trời mây. Tiền mua hai căn phòng này là do một người Ý ẩn danh bí mật trao tặng. Bà Nhu có con dâu và con rể người Ý nên chắc hẳn có nhiều liên hệ giao tiếp với người Ý. Hơn nữa bà vợ của Ông Ngô Đình Trác, con trai lớn của Bà Nhu, là người Ý thuộc một gia đình quý tộc và rất giầu có. Chỗ ở này rất bất tiện và không thích hợp với người cao tuổi. Nếu Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim thì với tuổi đời như vậy chắc bà cũng tìm một chỗ tiện nghi thoải mái hơn để sống những ngày còn lại trên dương thế.

Bà Nhu không viết hồi ký và bà cũng không có gì cần phải cải chính, biện minh hay tâm tình. Thực sự thì trong những lúc rảnh rỗi, bà có viết nhiều bài tạp bút. Nếu gom góp những bài tạp bút này thì cũng có thể in thành một cuốn sách dầy đến sáu trăm trang. Bà Nhu đã viết gì? Có thể nói đây là một cuốn sách đạo. Bà Nhu viết về sự hằng hữu của Thiên Chúa và đời sống tâm linh của con người. Sau ngày Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Bà Nhu sống gần như là một người khổ tu hết lòng trông cậy phó thác vào sự an bài và định đọat của Thiên Chúa. Bà viết nhiều về lòng thương xót của Chúa không những đối với con người mà còn đối với những tạo vật trong vũ trụ. Bà rất có lòng yêu mến và gần gũi với Đức Mẹ Maria. Bà viết về những ân sủng đã được nhận lãnh và những mầu nhiệm huyền diệu của Đức Mẹ mà bà đã được ân hưởng những phước đức từ lòng yêu mến và cậy trông Đức Mẹ.

Khi được tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát thì Đức Giáo Hoàng Paul Đệ Lục và các giám mục trên toàn thế giới đang họp Cộng đồng Vatican II, đã cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổng Thống Diệm. Đó là một sự kiện vô cùng đặc biệt và Bà Nhu đã một lần duy nhất nhắc đến tên Tổng Thống Diệm trong gần sáu trăm trang giấy.

Một ông gốc lính huyênh hoang có “hồi ký” của Bà Nhu trong tay và sẽ công bố khi cần thiết. Ai cũng biết đây chỉ là một âm mưu gian giảo bịp bợm. Ông phường chèo này nếu quả thật có cái gọi là “hồi ký” của Bà Nhu thì chắc hẳn sẽ còn nhiều đòn phép láo khóet chứ không chịu ngồi yên để nghe thiên hạ mắng nhiếc chửi bới vì những lươn lẹo phản trắc lúc cưỡng chiếm được quyền hành trong một thời gian ngắn. Một sử gia chân chính thì lại quả quyết rằng các con Bà Nhu sẽ công bố cuốn “hồi ký” sau khi Bà Nhu từ trần. Ông sử gia này chắc không biết rằng Bà Nhu viết những bài tạp bút này bằng tiếng Pháp và chỉ viết về những suy tư và tâm tình tôn giáo mà thôi. Đọc giả người Việt biết đọc tiếng Pháp có là bao và chắc rằng số người muốn biết về những suy tư và tâm tình đạo giáo của Bà Nhu sẽ còn ít hơn nữa. Một tập giấy gần sáu trăm trang chỉ nói về tôn giáo và đạo đức lễ nghĩa thì phát hành lúc Bà Nhu còn sống hay đã quá vãng không phải là một vấn đề phải cân nhắc.

Bài viết này là một câu trả lời rõ ràng và chắc chắn: Không, Bà Ngô Đình Nhu không viết hồi ký.

Trương Phú Thứ

Cái "Chữ" nó "Làm" ... - Nguyễn Hoài Trang

    Cái "Chữ" nó "Làm" ..

    Nước mất nhà tan không biết NHỤC
    Huyênh hoang miệng lưỡi lục lùng danh
    Cái "TÔI" tơi tả tồi "TA" tụng
    Cái "TỚ" tội tình mục rữa TRANH !
Đọc những bài viết về sự tranh giành danh tiếng, tài năng, tên tuổi ... của các ông các bà "văn nhân", "thi sĩ" trên các văn thi đàn mà phát tởm.

Thế mới biết tại sao những bậc Hiền Sĩ ngày xưa phải sống thanh bần nơi thâm sơn cùng cốc, hay chốn hoang dã, ruộng vườn với mây ngàn, gió núi, trăng thanh ... để bảo toàn khí tiết vì không muốn mềm lưng nhễu gối, lưỡi mối miệng lươn, đầu lòn cổ rụt !.

Còn chán ngán hơn cái lũ văn, thi nô rặt mùi "sĩ đặc" đã và đang "hò lơ" kéo nhau "về nguồn" làm tôi tớ cho lũ thú vật Việt gian bán nước diệt nòi đảng cộng sản Việt Nam.

Ngồi ngẫm nghĩ thì ra cũng tại cái chữ "danh" nó làm MANH cái chữ "sĩ", cái chữ "lợi" nó làm ĐĨ cái chữ "liêm", cái chữ "tiền" nó làm LIỀN, làm KHÔN cái chữ "tiếng" ...

Và còn nữa, cái chữ "quyền" nữa ... Cái chữ "quyền" này nó làm ĐẢO, làm ĐIÊN, làm ĐIỀN, làm ĐỘN, làm ĐỒN cho cái chữ "lực" đó vậy...

Khổ là cái chữ "quyền" lại bắt đầu với cái chữ "q" phát âm là "cu" cũng như cái chữ "lực" lại bắt đầu bằng cái chữ "l" phát âm là "lờ", thành ra là "cu lờ" làm NHỤC NHƠ cả Nước. Đã thế mà cái lũ thú vật bán nước hại nòi csVN cứ khăng khăng BÁM CỨNG cái "cu lờ" nên Nước Việt tan hoang, là bãi rác cho thế giới vào phóng uế, đại khối dân Việt nghèo nàn mới "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" ... xuống hàng chó ngựa, trở thành những con vật để lũ "cu lờ" csVN "xuất khẩu" (*) ra ngoại quốc làm đĩ điếm, lao nô cho ngoại nhân. Thật NHỤC NHÃ và đau lòng quá phải không ?

Không biết lũ văn, thi, nghệ sĩ nô có biết NHỤC là gì không ?

Vẫn còn nữa đó, khi nào cbQR nghĩ ra cái "chữ" nào nó "làm" cái gì nữa, cbQR sẽ viết thêm hầu Quý Anh Chị cho vui. Vui mà cười ra nước mắt, đau thắt cả tâm cang.

(*) đây là 1 từ ngữ chứng tỏ cái bản chất THÚ VẬT của tập đoàn Việt gian csVN là bản chất phường vô lọai, không còn tính người.

(Soi Dòng Sông Chữ Thấy Mù Tâm ..)

Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog".

Xin được lắng nghe ý kiến của Quý Anh Chị trực tiếp tại Diễn Đàn Toàn Cầu Paltalk: 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc.

Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị.

conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
05022010

Source: http://nguyenhoaitrang.blogspot.com/2010/02/cai-chu-no-lam.html


Đồng Chiêm: Chính quyền cộng sản Hà nội “ngậm bồ hòn làm ngọt” - Hồ Học -Trần Trung Luận

Hồ Học -Trần Trung Luận

Cuộc ra quân hùng hổ nhất, kỳ quặc nhất của chính quyền cộng sản Hà nội nhắm vào vào giáo xứ Đồng Chiêm đến nay đã tròn một tháng và chỉ còn một tuần nữa là đến tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc

Truyền thông nhà nước cố gắng tạo cảm giác về một bình yên giả tạo ở Đồng Chiêm thông qua vài bài báo, giống nhau từ luận điệu, cách hành văn, đến ngôn từ ...

Tính cả 2 công văn của chủ tịch xã An Phú cũng không khác gì những bài báo trên, nghĩa là các tư liệu, các chứng cứ để quy chụp, biện giải của của Chính quyền xã lại được lấy từ sáng tác của một cán bộ tuyên giáo Thành uỷ nào đó mãi tít tận gác 3 cơ quan Thành uỷ Hà Nội. Một vài hoạt động khác như cứu trợ mỗi người 15kg gạo, tặng túi quà tết ... được gấp gáp tổ chức, đưa vội tên ti-vi để minh chứng cho tính ưu việt của nhà nước nơi Đồng Chiêm.

Trên thực tế đến lúc này thì các biểu tượng thánh giá đã bị triệt hạ khỏi núi Thờ, công an cán bộ chìm nổi vẫn dày đặc trong dân, cửa ngõ, lối ra vào của thôn Đồng Chiêm vẫn bị kiểm soát gắt gao, đủ để ngăn chặn mọi hoạt động bình thường dạng như thăm viếng, hành hương, chia sẻ, tìm hiểu tình hình ...

Cụ thể là chuyến cứu trợ nhân đạo của Sinh viên cộng đoàn Vinh đã bị chặn lại, một người bị đánh đuổi, bắt giữ và có hai người khác bị bắt, lục soát nhà ở, thu giữ tài sản. Một “đồn công an” thuộc công an huyện Mỹ Đức được cấp tốc thành lập, lực lượng cán bộ, an ninh xã liên tục xâm nhập từng gia đình, tiếp cận từng cá nhân để de doạ, dụ dỗ, khống chế, khủng bố tinh thần, ép buộc cam kết, khai nhận tội trạng để hình thành những hồ sơ khởi tố khi cần thiết sau này.

Nhiều người dân bị bắt, bị đánh đập dã man không có bất cứ sự hồi âm nào từ chính quyền nhà nước, dù đã có đơn từ theo đúng luật định, mọi cách hành xử ở đây đều theo lối luật rừng. Một số người bị bắt lên công an huyện Mỹ Đức bị treo nổi lên xà, hai chân không chạm đất, và công an cứ thế đánh vào hai bên mạng sườn, vỗ vào hai bên tai đến khi nào lấy được lời khai theo đúng ý công an. Mới đây có một thanh niên sau khi đưa về nhà và đi khám mới biết đã bị đánh gãy xương sườn.

Con tin của chính sách “Cây gậy và củ ca-la-thầu”

Chính sách “cây gậy và củ ca-la-thầu” là sách lược đấu tranh, khống chế đối phương , theo cách hiểu nôm na của Việt Nam như là “vừa đấm vừa xoa” “vừa đánh vừa đàm” nghĩa là không phải để tuyệt diệt đối phương mà buộc đối phương phụ thuộc, tồn tại trong quỹ đạo, theo ý muốn của riêng mình.

Thế nhưng bất ngờ trong đêm, đưa cả nghìn người gồm cảnh sát cơ động, cán bộ chuyên viên với đầy đủ trang bị, phương tiện kỹ thuật đàn áp, đập tan cho kỳ đươc cây Thánh giá bê-tông, rồi nhổ cho hết mọi thánh giá trên đỉnh núi, Chính quyền cộng sản Hà Nội đã tính chuyện tuyệt diệt niềm tin Công Giáo trong lòng Giáo dân Đồng Chiêm nói riêng và Ki-tô hữu Việt Nam nói chung. Và với

Chỉ đến khi làn sóng phản kháng, tôn vinh thánh giá dâng lên ở Đồng Chiêm, lan toả ra nhiều nơi từ quốc nội đến hải ngoại Chính quyền cộng sản mới nhận ra sai lầm và vì thế mà Đồng Chiêm sau cái đêm kinh hoàng đã trở thành con tin của của họ, để họ “đàm” họ “xoa” họ giải ngân mấy củ “ca-la-thầu”, với hy vọng che chắn, chạy tội phạm Thánh tầy đình này.

Ngay trong giới cầm quyền nhiều người đã đặt câu hỏi tại sao không” đàm” không “xoa” không đưa “ca-la-thầu” ra trước rồi hãy dơ “gậy” dơ”đấm” hay ” đánh” thì kết quả có thể sẽ là khác.

Con tin cho sự hằn học sau cú “tự sập bẫy”

Sau đêm triệt hạ Thánh giá bê-tông, nhiều người đã cho rằng đây là một cái bẫy nhằm dẫn dụ, sập bắt Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cùng các Linh mục, Giáo dân Thái Hà. Đây là cái bẫy độc ác, hèn hạ nhất vì đã dùng mồi bẫy bằng “tình thương, tình liên đới hiệp thông, đức công chính” là những đặc tính cao quý của người Thiên Chúa Giáo để sập bắt chính người Thiên Chúa Giáo.

Nhưng bẫy đã sập vào chính những kẻ giăng ra nó. Chính quyền cộng sản Hà nội đau đớn, điên loạn vô cùng. Cả một cuộc điều binh khiển tướng quy mô, cả một ý đồ, kế hoạch chính trị bị phá sản, bị phản tác dụng, một phe cánh cầm quyền có thể bị loại bỏ trong xới chính trị của đại hôi đảng sắp tới, và như thế đường hướng, số phận của chính thể cộng sản Việt Nam có thể sẽ khác.

Nghiêm trọng hơn bỗng nhiên cái mặt nạ “oanh liệt rưc rỡ” của chính quyền mấy chục năm bị lột bỏ, bị xếp cùng top với chính quyền Hồi giáo cực đoan Taliban. Từ đó một lô-gic hiển nhiên là phải bắt cả giáo xứ Đồng Chiêm thành con tin, dìm Đổng Chiêm trong kìm kẹp, bao vây cô lập, trù dập trong sự hằn học, trả thù đê mạt nhất.

Con tin để đổi lấy một lối thoát.

Khi tổ chức đập pháThánh giá bê-tông chính quyền cộng sản Hà Nội đã trù liệu rất kỹ, ngành công an đã có những điều tra chi tiết, tham mưu rất chuyên nghiệp như: Chọn thời điểm khai hoả là về đêm, chọn khi thanh niên, đàn ông trong thôn đang xa nhà làm ăn, lúc Linh mục chánh xứ đi vắng, bố trí lực lượng lớp lang, bài bản, chốt chặn các lối ra vào, phục kích cả gác chuông, tránh dân làng rung chuông báo động, sử dụng nhiều loại thiết bị, công cụ hỗ trợ tích hợp... đặc biêt là tuyệt đối bí mật (một phó bí thư Thành uỷ đã không hề hay biết về kế hoạch này).

Kết thúc của kế hoạch là phá hủy được khối bê tông trị giá dăm triệu đồng tiền Việt. Nhưng sau đó một sức ép lớn hơn hàng triệu lần khối bê-tông, không tiền bạc nào bù đắp, mua bán được đang ép mạnh lên số phận chính trị của cả phe cánh thân “Tàu” trong chóp bu lãnh đạo, đó là lòng căm phẫn, khinh bỉ của giáo dân và những người có lương tri trong và ngoài nước,

Đối với Toà Khâm Sứ hay Thái Hà hay TamToà, thì “công lý sự thật” bị chìm khuất, ẩn dấu bên dưới những miếng đất, và với khả năng của một chính quyền trong ít ngày có thể làm biến dạng nó thành cái gọi là “công viên”, nghĩa là có thể, hoán vị, tạm dừng sự kiện bằng cách dán vào đó mấy cái nhãn là “của công” cho đến khi điều kiện chín muồi hơn (đẩy được Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt và các Linh mục Thái Hà ra khỏi Hà Nội) việc cướp đoạt sẽ được tổ chức lại từ đầu, và không khó khăn, mất mặt như lần trước.

Nhưng với Đồng Chiêm thì khác, Chính quyền cộng sản Hà Nội có thể đập vỡ thêm cả trăm khối bê tông, có thể di dời cả thôn Đồng Chiêm đi nơi khác, có thể sẽ biến Đồng Chiêm thành “công viên” thành “khu sinh thái”, thành khu “quốc phòng”… điều này có thể làm được nhưng làm sao có thể đổi 15 cân gạo, mấy gói quà tết thời bao cấp, mấy ki lô mét đường bê tông (Vốn vẫn là mồ hôi nước mắt của dân nghèo) lấy tình yêu, ơn huệ Chúa Trời được hun đúc mấy trăm năm trong lòng dân lành Đồng Chiêm? Làm sao có thể tạm dừng, hoán vị được sự căm phẫn và khinh bỉ chính quyền cộng sản (nay được gọi đúng tên là tà quyền) và lòng kính yêu, tôn vinh Thánh giá của tất cả ki-tô hữu (những con người, những tổ chức, tôn giáo yêu mến tôn thờ chúa Giê-Su trên toàn thế giới)

Vì thế bao vây cô lập, lấy Đồng Chiêm làm con tin để buộc Giáo hội, các Giáo sĩ có trách nhiệm với đàn chiên phải xuất hiện, phải “đối thoại” với họ và cơn địa chấn tôn vinh Thánh giá đang lan toả khắp nơi sẽ được hạ nhiệt, giảm dần. Đây là lý do chính mà giáo xứ Đồng Chiêm bỗng chốc trở thành con tin.

Dù thế, cộng sản Hà Nội đang hết sức lúng túng, một câu hỏi đã đặt ra cho họ là ngăn sông cấm chợ, bao vây cô lập cùng với tái diễn cái việc cứu trợ, tặng quà đến bao giờ?

Kẻ gây ra tội ác đã nhận lãnh đủ hậu quả nhưng chưa biết sám hối.

Chính vì thế mới có 2 cái công văn ngọng ngoẹo của Chủ tịch xã An Phú nhằm đe doạ kết tội Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, các Linh muc giáo dân Thái Hà, và khi cần kẻ thủ ác cộng sản Hà Nội có thể đổ lỗi “phạm thánh” cho đám cường hào ác bá địa phương thôn làng gây ra.

Thế thì trong tết nguyên đán cổ truyền này sẽ lại có màn thăm chúc của Bí thư thành uỷ, của Phó chủ tịch thành phố, và nếu không thế thì cũng là của Giám đốc sở, Chủ tịch huỵện … gì đó. Người ta sẽ thấy cờ xí rợp trời, người dân (quần chúng tự phát được thuê từ nơi khác đến) tưng bừng xếp thành hàng danh dự đón chào quan khách ... rồi được phỏng vấn để phát biểu “ơn đảng, ơn nhà nước”... đưa lên TV

… Và cứ theo lối “tư duy đống đất” này thì ngay trong mùa xuân năm mới sẽ lại có những phiên toà xử giáo dân Đồng Chiêm ... Và cũng có thể có nhiều linh mục sẽ buộc phải can dự. Và cuộc trở mình đứng dậy của cả Giáo hội là không tránh khỏi … Ngàn, vạn, triệu giáo dân sẽ lại xuống đường giơ cao cây Thánh giá huy hoàng... trên mọi nẻo miền đất nước, khắp bốn phương trời Âu sang Mỹ đến châu Đại dương ... Thánh giá Đồng Chiêm sẽ vươn lên huy hoàng và tỏa ra ánh sáng.

Đây không phải là điều lãnh đạo chóp bu cộng sản mong muốn khi kỳ đại hội đảng cực kỳ quan trọng đang đến gần, cánh cửa “đối thoại” vẫn để ngỏ, vẫn có một lối thoát nào đó. Chính quyền cộng sản Hà Nội trong dịp tết nguyên đán này dù phải ngậm “bồ hòn” đắng nghét nhưng vẫn khen là ngọt để kiếm tìm lối thoát ra khỏi vũng lầy Đồng Chiêm.

Ngày 7/2/2010
Hồ Học Trần Trung Luận

Source: http://nuvuongcongly.net/index.php?option=com_content&view=article&id=661:dong-chiem-cqcs-ngam-bo-hon-lam-ngot&catid=77:kien-thuc-phap-luat&Itemid=177


Bí Ẩn Gì Đằng Sau Vụ Đồng Chiểm - Đinh Lâm Thanh



Đinh Lâm Thanh

Kính thưa Quý vị.

Như quý vị đã biết, đã có rất nhiều bài viết cũng như thuyết trình về diễn biến sự việc, góp ý, lên tiếng ủng hộ, hiệp thông với giáo dân Đồng Chiêm từ các tôn giáo, đảng phái, cơ quan truyền thông quốc tế cũng như từng cá nhân một. Nội dung buổi nói chuyện hôm nay không đúng hẳn là một đề tài thuyết trình hay tham luận như thường lệ mà bình thường là ‘diễn giả’ trình bày để ‘khán-thính-giả’ nghe. Tôi xin phép không đi sâu vào những sự kiện xảy ra của các đồng nghiệp đã viết, đã bàn mà xin trình bày quan điểm của một người cầm viết tranh đấu, để từ đó đề nghị với quý vị một vài khía cạnh của vấn đề hầu chúng ta cùng nhau thảo luận, đóng góp ý kiến từng điểm một, đồng thời thử tìm hiểu những điều gì bí ẩn đàng sau vụ Đồng Chiêm. Như vậy chương trình hôm nay tôi đề nghị một hình thức giống như một hội luận bàn tròn, xin mỗi vị đóng góp ý kiến cho buổi nói chuyện hôm nay được tốt đẹp.

Khi nói về đề tài Đồng Chiêm, chắc chắn sẽ đề cập đến vấn đề tôn giáo và sẽ có những bất đồng ý kiến nho nhỏ với các Vị chủ chăn trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Đây là những điểm nhạy cảm có thể gây ngộ nhận, vậy tôi xin phép xin thưa với quý vị trước rằng, tôi là một người theo đạo công giáo và đã có một số bài viết đề cập đến Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng như Vatican về khía cạnh chính trị, điển hình như bài viết ‘Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Và Vatican Đã Sai Lầm Khi Hợp Tác Và Hòa Giải Với Cộng Sản’ trong nầy tôi đã đưa ra sai lầm là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng như Vatican đã quá vị tha, nhân nhượng để mong đạt được sự thương thuyết và hòa hợp với cộng sản, hay nói đúng hơn là để cảm hóa người cộng sản vô thần ! Bài viết đã có những tiếng dội ủng hộ cũng như phản đối. Nhưng theo tôi, với tổng số 8 phần 10 ủng hộ, trong đó có vài vị Giám Mục, Linh Mục, các cộng đoàn Thiên Chúa Giáo ngoài cũng như trong nước ủng hộ quan điểm thì tôi nhận thấy rằng có thể tôi đã đi đúng đường.

Kính thưa Quý Vị, trong tôi có hai con người: Một giáo dân đối với giáo hội và một người dân đối với Tổ Quốc. Hay nói một cách khác là, một con người Kytô hữu phải biết giữ giới răn, phải có bổn phận đối với giáo hội, tôn kính các vị chủ chăn của Việt Nam cũng như Vatican đồng thời đối với đời, tôi cũng phải có bổn phận của một người dân trước hiện tình đất nước cũng như bổn phận của một người Việt tỵ nạn ở nước ngoài với những người thân thuộc đang đau khổ dưới chế độ độc tài cộng sản.

Nhân cơ hội nầy tôi xin phép quý vị vài phút để ‘vòng vo’ vài chuyện, mục đích gởi đến một người nào đó đã rằng cho tôi bất đồng ý kiến chính trị với hàng Giám Mục là người ‘lạc đạo’. Khi bước chân vào nhà thờ tôi phải hành xử bổn phận của một con chiên ngoan đạo, quỳ trước tượng Chúa và cúi mình hôn nhẫn trên tay của các đấng chủ chăn, vào tòa xưng tội đồng thời ghi nhận những lời khuyên giải cũng như thi hành các hình phạt nặng nhẹ do vị chủ chăn tại tòa giải tội ấn định để được ơn tha thứ. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải để con người Kytô hữu của tôi ẩn vào trí óc và quả tim, lúc đó tôi chỉ còn là một người dân thì phải có trách nhiệm đối với Tổ Quốc và Đất Nước. Lý do đơn giản là tôi đã sinh sống và trưởng thành dưới sự đùm bọc và hưởng ân huệ của chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi cộng sản chiếm Miền Nam, tôi và gia đình đã làm lại cuộc đời và con cháu tôi thành nhân ở nước ngoài, thì tôi phải có bổn phân với những người đã chết, những anh chị em thương phế binh và những chiến hữu còn sống sót tại quê nhà, là những người đã cầm súng bảo vệ cho gia đình tôi được an toàn xuống ghe trốn ra biển. Tôi nghĩ đến bổn phận, là phải vinh danh hàng vạn hàng triệu vong linh đã chết oan ức trong ngục từ cộng sản hoặc đã bỏ mình dưới lòng đại dương để ngày nay cả thế giới mới hiểu được thế nào là chế độ sắt máu tàn ác của cộng sản. Hơn nữa, cũng chính nhờ xương máu của những người chết vì hai chữ Tự Do mà thế giới đã mở rộng vòng tay đón hàng triệu người Việt phải ngậm ngùi bỏ nước ra đi. Thật ra khi nói đến vấn đề nầy, tôi không có quyền nhân danh bất cứ một ai, dù họ đã chết, nhưng lương tâm buộc tôi không được cầu an hưởng lợi mà phải đứng thẳng người lên vạch trần tội ác của tập đoàn cộng sản cũng như những phe nhóm ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Trước đây đám người nầy chạy theo kẻ thù thì đã là thủ phạm chính trong việc bán đứng nền Cộng Hòa cho cộng sản và ngày hôm nay chúng còn bám theo cộng sản tiếp tay đàn áp bóc lột, cướp bóc dân lành và phá rối cộng đồng thì không thể để chúng ngồi yên đâm vào lưng những người đang dấn thân tranh đấu.

Thực ra những gì tôi cố gắng làm ngày hôm nay là những việc nối tiếp cho chặng đường cuối của một người lính đã phải tức tưởi buông súng giữa đường. Bây giờ chỉ còn cây viết với một ước nguyện nho nhỏ là nói lên những nổi đau thương của đồng bào cũng như vạch trần tội ác của tội tập đoàn cộng sản và thành phần ham tiền tham lợi, bất chấp cả liên sỉ chạy theo giặc, chống lại cao trào tranh đấu của người Quốc Gia ở hải ngoại. Tôi sẵn sàng cấp nhận những nguy hiểm đang vây quanh để ‘nói lên những gì phải nói’ nhằm góp sức mọn của mình với những người cùng chí hướng, vì nỗi uất ức chất chứa trong lòng từ trên 35 năm qua đã biến văn thơ tôi trở thành những họng súng, hướng về một mục tiêu duy nhất là tập đoàn cộng sản Việt Nam.

Kính thưa quý vị, trở lại vấn đề Đồng Chiêm, tôi là một người công giáo nhưng đã phạm thượng nêu lên những lầm lẫn của Vatican cũng như Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trước âm mưu xảo quyệt của cộng sản. Có người cho rằng tôi ‘lạc đạo’, nhưng, như đã trình bày ở trên, ngoài xã hội tôi là một người dân thì việc đối thoại với các vị trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, tôi cũng xin phép xem những vị chủ chăn ở Việt Nam là những người dân bình thường, nghĩa là phải có bổn phận và trách hiệm trước sự tồn vong của đất nước và no cơm ấm áo của người Việt Nam. Đối với các Vị Chủ Chăn Vatican thì tôi xin xử dụng vị thế của người đã có một quá khứ chống cộng từ hồi còn trẻ, cũng như đã qua một thời gian dài sống trong các trại tù cải tạo và đã bất chấp nguy hiểm để đánh đổi tính mạng vượt biên tìm tự do bằng đường biển. Như vậy tôi đã thấy và đã biết những gì cộng sản đã làm chứ không tin những gì cộng sản đã nói như những đa số thanh niên trẻ hôm nay cũng những người mất gốc hay là người nước ngoài. (Xin nhắc lại lời của cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm !). Vậy tôi xin trở lại vấn đề ‘Đồng Chiêm’ hôm nay, nhưng không phải tiếp tục khai thác sự bất đồng quan niệm với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và Vatican, mà, để cùng quý vị trên diễn đàn thảo luận những gì bí ẩn đàng sau vụ Đồng Chiêm.

Vấn đề Đồng Chiên, tôi gọi là một biến cố trầm trọng, vì tập đoàn cộng sản vô thần đã thách thức người công giáo bằng những âm mưu có tính toán khi chúng ngang nhiên ra lệnh giật sập Thánh Giá do giáo dân Đồng Chiêm dựng lên ngay trên vùng đất mà họ đã sinh sống lâu đời. Thánh Giá là biểu tượng của người Kytô hữu với trên 2 tỷ người trên toàn thế giới, chắc chắn người công giáo sẽ có thái độ quyết liệt với tập đoàn cộng sản vô thần Việt Nam. Hành động đập phá Thánh Giá không phải là một quyết định do địa phương theo như lời chạy tội của tập đoàn trung ương, vì dưới chế độ cộng sản, tổ chức hành chánh quân sự của chúng, một hành động nào dù lớn nhỏ đều phải do hệ thống đảng ủy nghiên cứu, ra lệnh thi hành và kiểm soát gắt gao. Trở lại những vấn đề trước đây, những cuộc xuống đường cầu nguyện với hàng trăm ngàn giáo dân từ Thái Hà đến Tam Tòa để yêu cầu tập đoàn cộng sản trả lại một phần đất đai tài sản của giáo hội mà cộng sản đã tịch thu, theo tôi nghĩ, đây là những vấn đề tranh chấp bình thường giữa một nhà nước ăn cướp với người dân lương thiện hay với các tổ chức tôn giáo. Kết quả cho biết cộng sản đã giải quyết một phần nào yêu sách qua những hình thức tráo trở bằng cách trả lại cho Giáo Hội một ít đất đai đã tịch thu trước đây tại Đà Lạt chứ không đề cập gì đến tranh chấp các vùng đất nằm trong các giáo phận liên hệ như Hà Nội hay Tam Tòa. Thật ra cộng sản trả lại một phần đất cho Giáo Hội cũng không có gì đáng để Hội Đồng Giám Mục phải ra lệnh cho ngưng các cuộc biểu tình. Xét cho cùng đây là một hình thức mua chuộc chắp vá của cộng sản, vì theo luật rừng của chúng, tất cả đất đai đều thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nhà nước muốn tịch thu hay lấy lại dưới bất cứ lý do nào và bất cứ lúc nào khi chúng muốn. Tôi nghĩ rằng, khí thế của người công giáo khi xuống đường chống cộng sản trước đây không đơn giản trong việc đòi lại vài mẫu đất. Quá khứ đã chứng minh cho chúng ta hay rằng người công giáo xuống đường chống cộng sản vì Đức Tin, vì Đạo Giáo và quyền lợi của Quốc Gia Dân Tộc (Quỳnh Lưu – Đức Lợi …). Nhưng xuyên qua hai vụ Thái Hòa và Tam Tòa, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sau khi thỏa thuân với cộng sản đã ra lệnh cho giáo dân ngưng các cuộc biểu tình. Trong bài viết về ‘Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Và Vatican Đã Sai Lầm Khi Hợp Tác Và Hoà Giải Với Cộng Sản’ tôi đã viết rằng:

Đạo công giáo đã dạy cho tín hữu: Ai tát con bên trái thì con đưa luôn bên phải ra cho họ. Đó là đức yêu người: Người Kitô Hữu phải lấy lòng vị tha để đối xử với kẻ thù nghịch của mình. Suy gẫm câu nói, người ta hiểu được dụng ý rằng, đã là con người, dù sinh sống dưới hoàn cảnh nào, tội lỗi phạm đến mức nào chăng nữa thì cũng có thể cảm hóa họ được vì bẩm sinh của con người sinh ra đều có chiều hướng thiện. Có thể vì một lý do nào đó mà hoàn cảnh xã hội tạo cho con người có những hành vi tội phạm, thì mầm mống Chân Thiện Mỹ vẫn còn tiềm ẩn và ngủ yên trong tiềm thức của họ và biết đánh thức lương tâm của những người đã mất linh hồn thì cũng có thể vực họ dậy để trở về đường chính nẻo ngay. Nhưng đối với cộng sản, khi loài người đã liệt chúng vào thành phần quỷ Satan, loài rắn dữ và loại thú độc thì phần tử nầy không còn lương tâm, trí óc, quả tim con người để có thể chiêu hồi chúng trở về con đường chính trực. Giáo hội Công giáo Việt nam cũng như Vatican dùng hình thức vị tha nói chuyện với loài quỷ dữ để hy vọng hợp tác và hòa hợp với chúng là một điều sai lầm. Như vậy khi có người vừa đưa má bên trái cho quỷ nó tát thì chúng chẳng cần đợi má bên phải mà đã ra tay ăn tươi nuốt sống lập tức kẻ đối diện. Vì cộng sản là loài gian manh ác độc, chúng không để sai sót bất cứ một kẻ thù nào, ngay cả việc giành ăn tranh quyền trong nội bộ với nhau. Đến giờ nầy, những ai còn nói chuyện lễ nghĩa, tình cảm, van xin, đề nghị thì đối với cộng sản, chỉ là một đám cừu non đứng trước miệng bầy sói.

Theo thiển ý của tôi, bất cứ ai, một khi bắt tay hòa giải hòa hợp với cộng sản là họ đã nhúng tay vào bốn tội ác sau đây:

- Đồng ý và hợp thức hóa việc đảng cộng sản nhượng biển bán đất và mở cửa cho Tàu cộng vào khai thác beauxite. Vậy những ai cổ võ hoặc chạy theo việc hòa giải hòa hợp với cộng sản tức nhiên là đồng lõa tội bán nước.

- Bao che và hợp thức hóa tội diệt chủng của đảng cộng sản Việt Nam khi chúng ‘nướng’ (xin lỗi tôi phải dùng chữ ‘nướng’ cho đúng nghĩa với tội ác của cộng sản) hàng chục triệu thanh thiếu nhi Miền Bắc trong mưu đồ xâm chiếm Miền Nam cũng như đã sát hại hàng trăm ngàn thường dân vô tội, mà điển hình là vụ thảm sát trên 5000 người vô tội ở Huế năm Mậu Thân 1968, trong đó đa số là người công giáo. Vậy những ai hô hào hay đang tìm cách đối thoại hòa giải với cộng sản Việt Nam đều mang tội đồng lõa tội diệt chủng.

- Hòa giải hòa hợp với cộng sản là một hình thức hợp thức hóa tài sản của cải mà chúng đã ăn cắp tài nguyên Quốc Gia, cướp giật của dân lành. Như vậy ai chủ trương hòa giải với cộng sản là đồng lõa tội tẩu tán tài sản quốc gia và ăn cướp của dân lành đồng thời hợp thức hóa hàng chục tỷ ngoại tệ mà chúng đã bóp hầu nặng họng người Việt Nam.

- Bắt tay với cộng sản là chấp nhận một xã hội đồi trụy, thối nát, chấp nhận một sự đảo lộn luân thường đạo lý do chế độ cộng sản tạo ra mà đồng tiền của vật chất được xem là cái thước đo để đánh giá địa vị xã hội trong thiên đường của chúng. Vậy có thể kết luận bất cứ ai, dù cha, thầy, cố, trí thức, du học hay thuộc thành phần tỵ nạn nếu đi theo cộng sản dưới bất cứ hình thức nào thì cũng mang tội với tiền đồ Dân Tộc, phá hoại nền văn hóa tốt đẹp của cha ông để lại. Không biết quý vị trong diễn đàn có đồng ý quan điểm của tôi vừa nêu ra hay không ?

Trở lại vấn đề Đồng Chiêm, Vatican đối thoại thân thiện với cộng sản về việc tài sản của giáo hội cũng như vấn đề tự do tôn giáo thì Nguyễn Minh Triết đã cam kết với Đức Giáo Hoàng rằng: "Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của người dân và luôn coi đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc". Nhưng liền ngay sau đó chuyện gì đã xảy ra ? Chúng đã dùng mìn và chất nổ để phá sập Thánh Giá tại Đồng Chiêm. Qua sự việc nầy chúng ta thấy Giáo hội Công giáo Việt nam cũng như Vatican đã dùng hình thức vị tha để nói chuyện với loài quỷ dữ cộng sản hầu hy vọng hợp tác và hòa hợp với chúng là một điều sai lầm. Đối với cộng sản, khi có người vừa đưa má bên trái cho quỷ nó tát thì chúng chẳng cần đợi má bên phải mà đã ra tay ăn tươi nuốt sống lập tức kẻ đối diện.

Vụ Đồng Chiêm từ ngày đó đến giờ đã có những biến chuyển gì ? Có thể nói giữa nhà nước cũng như Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đối với giáo dân Đồng Chiêm, về mặt nổi, thì không có diễn biến gì quan trọng. Vị trí họ đạo Đồng Chiêm ở một vùng biệt lập, mặc dù gần Hà Nội nhưng xem như một vùng quê với một số ít giáo dân thường trú đã lâu đời. Nhà cầm quyền địa phương bao vây vùng Đồng Chiêm, cộng sản cho công an giả dạng giáo dân trà trộn vào trong làng tuyên truyền, gây rối và phá hoại. Nhà cầm quyền địa phương cô lập, nội bất xuất ngoại bất nhập đồng thời bắt bớ đánh đập những ai muốn vào thăm hỏi, an ủi những nạn nhân tại đây. Người ta ghi nhận Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã đến thăm hỏi, chúc lành cho những giáo dân bị đánh đập đến mang thương tích và vài linh mục khác cũng như các sinh viên công giáo vừa đến thì đã bị bắt, bị đánh đập phải mang thương tích. Về mặt nổi, ngoài những diễn biến nhỏ trên, còn lại đều có vẽ yên tĩnh !!!

Thật ra Hội đồng Giám Mục Việt Nam có lên tiếng cũng như Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã trả lời các câu phỏng vấn của phóng viên Jérome Boruszewski báo La Croix ngày 25.01.2010. Nội dung ngài đưa ra quan điểm của một chủ chăn theo tinh thần đạo giáo và quan niệm của Vatican, nhưng nội dung nặng hình thức chống đở và phản ứng lấy lệ đối với hành động đập phá Thánh Giá của nhà cầm quyền cộng sản. Trong khi đó gần như Vatican im lặng trong vấn đề nầy mà phản ứng bên trong thì hiện giờ chúng ta chưa biết chuyện gì sẽ xảy đến, ngoại trừ việc Vatican khước từ đơn xin từ chức của Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt tiếp theo nhiều phản ứng và lời thỉnh cầu của dư luận quốc tế. Nhưng ngược lại cả thế giới đều lên tiếng yêu cầu Giáo Hội Cộng Giáo Việt Nam phải có thái độ với những hành động xúc phạm tin ngưỡng của người Kytô hữu, đồng thời còn tổ chức những buổi, những ngày cầu nguyện cho Giáo Hội Công Giáo cũng như cho Dân Tộc Việt Nam.

Tôi xin đưa ra vài dữ kiện đã và đang xảy ra có liên hệ với ba đối tượng là nhà cầm quyền Hà Nội, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Vatican chung quanh vụ Đồng Chiêm để Qúy Vị góp ý cho buổi nói chuyện hôm nay:

1. Nội bộ đảng cộng sản đang bị phân hóa trầm trọng giữa một nhóm bám chặt chân Tàu, một nhóm có khuynh hướng ngã theo Âu Mỹ. Ngoài ra, yếu tố địa phương cũng nảy sinh ra nhiều nhóm sinh trưởng tại Miền Nam, Miền Trung hoặc Miền Bắc với chủ trương bè cánh. Nội bộ đảng cộng sản, nhất là đám thuộc bộ chính trị đang đấu đá, thanh toán lẫn nhau, lập phe cánh, tranh dành ảnh hưởng nhắm mục đích chiếm vị thế lãnh đạo trong kỳ bầu bán đại hội đảng vào đầu năm tới đồng thời chứng tỏ với quan thầy khả năng và quyền lực của từng băng nhóm một. Sự kiện Đồng Chiêm cũng là một lá bài để phe phái của chúng tháu cáy nhau đồng thời đấu trí với Vatican trước khi bàn đến liên hệ ngoại giao giữa hai nước, đồng thời lập thành tích để tranh nhau làm vừa lòng quan thầy Tàu cộng của chúng.

2. Trong thời gian qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã im lặng trước những biến cố trầm trong qua vụ Đồng Chiêm, tuy rằng Hội Đồng Giám Mục có thông cáo gởi đến nhà cầm quyền Việt Nam cũng như những câu trả lời phỏng vấn của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đều có tính cách tiêu cực và phản ứng lấy lệ khi đưa ra đức vâng lời và đường hướng của Vatican như một lời giải thích ! Còn một nghi vấn nữa, vì muốn làm vui lòng nhà nước Việt Nam nên Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có thể đã yêu cầu Giám Mục Ngô Quang Kiệt từ chức Tổng Giám Mục Hà Nội ngay sau vụ Thái Hà. Và sau khi Tòa Thánh Vatican khức từ đơn xin từ chức, Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt phải rút vào bóng tối và để việc điều hành giáo phận cho người phụ tá ? Vật đây có phải là hành động loại bỏ những vị chủ chăn nào không đi theo giáo hội quốc doanh và làm phật lòng nhà nước ?

3. Các Vị Chủ Chăn của Vatican là những bậc thông thái, am tường mọi việc và sáng suốt trong đường lối ngoại giao, kẻ hèn mọn nầy xin cúi đầu kính phục, nhưng xin góp một thiển ý với danh nghĩa của một người tranh đấu cho đất nước, cho tự do, dân chủ và nhân quyền cũng như no cơm ấm áo cho dân nghèo thì cá nhân tôi cảm thấy có lý và mạo muội trình bày quan điểm của mình với tích cách xây dựng của một người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam.

Vatican quan niệm rằng không để chính trị xen vào tôn giáo và Vatican đã đứng ngoài các vụ xuống đường tranh chấp giữa Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với nhà cầm quyền cộng sản hiện tại. Tôi đồng ý quan niệm của Vatican chỉ chú trọng vấn đề tôn giáo vì hàng giáo phẩm Vatican không phải là người Việt Nam thì dĩ nhiên đối với những vị nầy Việt Nam cộng sản hay không, Việt Nam có tự do dân quyền hay không, chế độ cai trị như thế nào không quan trọng, miễn là làm sao đạo giáo được bảo vệ và phát triển nhưng Quý Vị đã lầm với cộng sản Việt Nam, là một tập đoàn siêu cộng sản hơn các đảng cộng sản trên thế giới từ trước đến nay, vì chúng thiếu kiến thức chưa gột rửa được tính cách rừng rú ! Viết đến đây tôi thật xúc động khi nhớ lại lời nói của Đức Giáo Hoàng Jean Paul II với dân Ban Lan rằng: Các con đừng sợ nữa. Một câu nói hàm chứa một ẩn ý tình nghĩa sâu đậm của một Vị Chủ Chăn đối với dân tộc Balan, chính lời nói nầy đã cổ võ cho phong trào chống cộng thời đó và là một động lực đã giúp cho dân Balan tin tuởng và mạnh dạn đứng lên đánh đổ tập đoàn cộng sản một cách dễ dàng.

Vậy để kết luận bài nói chuyện, xin đưa ba câu hỏi ra để thảo luận nhằm tìm những gì bí ẩn sau vụ Đồng Chiêm:

Đối với nhà cầm quyền:

- Âm mưu gì mà cộng sản đã phạm một sai lầm trầm trọng khi chúng ngang nhiên đập phá biểu tượng thiêng liêng của người Kytô hữu là cây Thánh Giá tại Đồng Chiêm ?

Đối với Hội Đồng Giám Mục:

- Tại sao Hàng Giáo Phẩm phản ứng tiêu cực và lấy lệ trước một biến cố quan trọng trong khi nhà cầm quyền Việt Nam xúc phạm tối đa đến biểu tượng thiêng liêng của đạo công giáo ?

Đối với Vatican:

- Có phải Vatican muốn thuyết phục nhà cầm quyền Việt Nam bằng chủ trương bác ái vị tha hay là mục đích hòa hoản việc tranh chấp để tiến tới một hiệp ước ngoại giao ?

Với sự góp ý của Quý Vị qua ba câu hỏi trên, hy vọng rằng chúng ta đã trả lời được một phần nào thắc mắc của đề tài đưa ra ngày hôm nay.

Kính thưa Quý Vị, như tôi vừa trình bày ở trên, đây là một để tài rất tế nhị, xin quý vị đóng góp với diễn đàn trong tinh thần xây dựng của một người Quốc Gia đã và đang quan tâm đến vấn đề Đất Nước. Những điểm tôi đưa ra là ý kiến cá nhân, tôi cần hướng dẫn của quý vị để những lần nói chuyện trong tương lai sẽ đạt được kết quả tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, xin đừng nhân cơ hội nầy để dùng những danh từ không đẹp chỉ trích cá nhân – nhất là các vị lãnh đạo tôn giáo - mà xin quý vị hãy đứng trên tư cách một người tranh đấu chân chính để đóng góp xây dựng.

Trước khi dứt lời để đi vào phần thảo luận, tôi xin phép quý vị trở về vai trò của một con chiên để vào nhà thờ xưng tội và xin ơn tha thứ. Chắc chắn rằng khi đưa đề tài nầy ra thảo luận thì đương nhiên sẽ có những ý kiến đóng góp không vừa lòng các vị chủ chăn, nhưng tôi tin rằng, với đức bác ái, các vị chủ chăn sẽ sẵn sàng tha thứ cho tôi theo như gương Đức Thánh Cha Jean Paul II, Ngài đã vào tận khám đường để tha tội và ban phép lành cho kẻ đã âm mưu giết Ngài.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 06.02.2010

Source: http://www.hvhnvtd.com



Friday, February 5, 2010

Tà quyền cộng sản Việt Nam không giấu nổi bộ mặt gian ác, tàn bạo !

    Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không thể giấu nổi bộ mặt thật gian ác, tàn bạo của mình !
Hồ Thị Bích Khương

Vào năm 2009 vừa qua nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (NCQCSVN) bắt đầu dè dặt hết sức thận trọng đã có chút ít tiếng nói công khai với Cộng Sản Trung Quốc một cách khá rõ về vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Báo chí trong nước bắt đầu được phép của CS trung ương cho liên tục đăng tải các sự kiện có liên quan tới các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông của VN... Lãnh đạo trung ương đảng cộng sản Việt Nam đang tìm cách thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ và quốc tế, nỗ lực bang giao cải thiện quan hệ với Tòa thánh Vatican. Những việc này là nhằm cố tình đánh lừa công luận Quốc Tế cũng như các nước mà NCQCS Việt Nam đang muốn củng cố mối bang giao. Tất cả điều đó của họ chỉ nhằm che đậy sự đàn áp dã man quyền tự do tín ngưỡng, các quyền con người căn bản, các quyền tự do, dân chủ của cả dân tộc Việt Nam đang rên xiết dưới ách cai trị độc đoán của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà thôi. Đây một trong sách lược trong chiến lược đối ngoại đầy thủ đoạn đen tối, của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn này.

Trong những tháng cuối năm 2009 vừa qua, lãnh đạo cấp cao của NCQCS Việt Nam đã mò tới Mỹ liên tục qua các sự kiện cụ thể như: Chủ tịch nhà nước CS Nguyễn Minh Triết đến Mỹ vào tháng 9, Phó Thủ Tướng kiêm ngoại trưởng Phạm Gia Khiêm thăm Mỹ vào tháng 10, Phó thủ tướng CSVN - Nguyễn Thiện Nhân cũng thăm Mỹ vào tháng 11, Bộ trưởng Quốc phòng CSVN - Phùng Quang Thanh thì đến thăm Mỹ vào tháng 12 để đặt vấn đề với Hoa Kỳ việc mua sắm vũ khí. Chủ tịch CSVN Nguyễn Minh Triết cuối năm còn lên đường xuất ngoại để tiếp tục được gặp Ðức giáo hoàng Bennedict XVI tại Vatican để hội kiến hồi giữa tháng 12 năm 2009 vừa rồi. Những việc làm ấy, khiến cho nhiều người quan tâm trên thế giới về CSVN hy vọng nghĩ rằng NCQCS đang thống trị đất nước nhỏ bé khốn khổ này sẽ có những biện pháp ra tay phản ứng rõ ràng mạnh mẽ hơn trước đối với bọn bành trướng Trung cộng. Nhất là có dấu hiệu như họ tỏ ra muốn các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam sẽ được cởi nới để phát triển. Từ đó đất đai, cơ sở thờ phượng của các giáo hội đã bị cộng sản VN tịch thu, chiếm đoạt bất công bao năm qua sẽ có phần được giải quyết.

Trong lúc biết bao năm nay, bọn giặc Trung cộng ngang nhiên lấn lướt để hành hạ, sát hại, cướp bóc tài sản của đồng bào ngư dân Việt Nam trên lãnh hải của đất nước mình đã bị chúng chiếm đóng phi pháp. Đây chính là những tấn bi kịch hết sức thảm hại làm đau lòng tất cả nhân dân Việt Nam có lương tri ở cả trong và ngoài nước kể cả dư luận bạn bè quốc tế. Như chúng ta đã biết, trong biết bao năm trời qua ngư dân Việt Nam bị hải tặc của nhà nước Trung Cộng bắn giết, cướp bóc tài sản khi hành nghề trên biển, nơi lãnh hải thiêng liêng của đất nước mình đã hàng ngàn đời nay có chủ quyền. Mọi tiếng nói lên tiếng bảo vệ người dân, bảo vệ giang sơn gấm vóc của tổ quốc thân yêu thì đều bị nhà nước CSVN dẫm đạp, đàn áp, cầm tù hết sức độc đoán và tàn bạo. Nhờ công luận của quốc tế lên án dữ dội nên gần đây chúng mới giật dây cho báo chí quốc nội tung tin phản đối Trung Cộng trong cuối năm 2009 để hùa theo dư luận.

Sang đầu năm mới 2010 báo chí CSVN lại đưa tin Trung Quốc hàng ngày đem tàu đánh cá của chúng xâm nhập sâu vào vùng biển Việt Nam, thuộc miền trung để đánh bắt trộm hải sản. Tầu bè của chúng ngang nhiên nghênh ngang đi hàng tốp, thành đoàn đông tới hàng chục chiếc hành động đầy thách thức và khiêu khích gây khó chịu cho nhân dân Việt Nam. Những hành động láo xược ấy của Trung cộng đã gây nên sự bất bình cho dư luận nhân dân Việt Nam ở trong nước, hải ngoại và gây sự bất bình cho công luận quốc tế.

Như chúng ta đã biết, bao năm trời qua ngư dân Việt Nam đã bị Trung Cộng bắn giết không ghê tay ngay trên vùng biển nơi lãnh hải của đất nước mình. Nhiều người lên tiếng bảo vệ tính mạng nhân dân đều bị nhà cầm quyền cộng sản hành hạ tù đày bằng những bản án bất công. Trước sự lên án dữ đội của công luận trong ngoài nước cũng như quốc tế, nhà cầm quyền cộng sản VN mới cho báo chí trong nước dè dặt đưa tin trong cuối năm 2009 để hùa theo dư luận, có vẻ là đang phản ứng đối đầu với đàn anh Trung cộng???

NCQCS Việt Nam không có biện pháp cứng rắn nào với bọn xâm lược phương bắc để lấy lại các lãnh hải đã bị mất. Những hình ảnh trong mấy năm qua hải tặc của chính phủ CS Trung Quốc rượt đuổi bắn giết chấn lột biết bao nhiêu ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trên vùng biển của mình bị chúng chiếm giữ ngang ngược làm đau nhói bao con tim người Việt Nam. Linh hồn ai oán của ngư dân VN đã bị thiệt mạng trên biển đang thống thiết kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam ghi nhớ để trả thù. Thật đau đớn cho dân tộc Việt Nam có truyền thống chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm.

Nay NCQCSVN tỏ rõ chỉ là những kẻ cúi đầu bọn bành trước Trung Cộng nịnh bợ chúng trong khi đó chúng thẳng tay đàn áp, trừng trị nhân dân mình không thương tiếc. Đúng như luận đã nói rõ “CSVN khiếp hèn với giặc, tàn bạo với nhân dân mình”!

Mở màn đầu năm mới 2010 này, hình ảnh bi thương của người dân Việt Nam bị NCQCS VN bức hại... Thật tình khó có con người nào cầm được lòng mình khi nhìn thấy cảnh tang thương vào ngày 06-01-2010 dưới chân Thánh giá Núi thờ của nhân dân giáo xứ Đồng Chiêm, thuộc xã An Phú, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc ngoại vi Hà Nội. Đó là những hành vi tội ác của nhà cầm quyền cộng sản VN khi đã điều động hàng trăm, ngàn công an, quân đội, du kích, dân phòng, bọn lưu manh côn đồ để dùng mìn phá tan cây Thánh giá linh thiêng của giáo dân trên đỉnh núi Chẽ. Máu đào của giáo dân xứ Đồng Chiêm đã đổ xuống khi lên tiếng bảo vệ cây Thánh giá đã được dựng lâu năm trên một đỉnh núi ở vùng hoang vu xa khá thủ đô Hà Nội tới gần 70 km này. Cả thế giới nhân loại đã phải chứng kiến cảnh tượng hết sức tang thương này ngay đầu dịp năm mới đã làm tim gan chúng ta, những con người có lương tri không chỉ trong nước, ở hải ngoại và bạn bè quốc tế đều bàng hoàng, đau đớn xúc động hết sức căm phẫn bọn nắm quyền bất lương tàn ác đã gây ra. Cảnh những người phụ nữ thôn quê lam lũ hàng ngày phải chân lấm tay bùn, nằm ngất xỉu trước trùng trùng điệp điệp hàng rào cảnh sát cơ động có vũ trang đến tận răng với thân thể của các phụ nữ giáo dân đẫm máu. Những hình ảnh đau thương ấy của bà con giáo xứ Đồng Chiêm đã phải đổ máu ngã xuống trước hàng ngàn cảnh sát cơ động, công an vũ trang với đầy đủ dùi cui, roi điện, chó béc giê, đạn hơi cay cùng những vũ khí tối tân khác của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đưa lại tôi sự đau đớn, tủi hận khinh bỉ lũ cướp hung bạo đầy quyền thế trong tay đến tột cùng. Tất cả những tội ác ấy của bọn cầm quyền CS thật bất nhân đã làm cho nhân dân trên cả đất nước Việt Nam này như phải đang sống dưới hệ thống cai trị bạo ngược, tham tàn của giặc ngoại bang chứ không phải là của ĐCSVN nữa.

Rõ ràng NCQCS VN chuẩn bị mua sắm trang bị vũ khí mới hiện đại, tối tân mua của Nga, Mỹ không phải để bảo vệ lãnh thổ đất nước - tổ quốc Việt Nam thân thương của chúng ta. Mà chúng đang củng cố lực lượng, chuẩn bị vũ khí để đàn áp nhân dân trong nước-những người yêu quý tự do, dân chủ, mong muốn được tự do tôn giáo và tín ngưỡng của mình. Chúng đã quá điên loạn bất chấp lương tri, đạo lý, tình đồng bào máu mủ, chúng thẳng tay đánh đập nhân dân, chúng thật to gan lớn mật dám xúc phạm đến cả Thánh giá biểu tượng linh thiêng của cộng đồng Công giáo không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.

Đến đây chúng ta cần phải nhắc lại câu nói của chủ tịch nước CHXHCN VN Nguyễn Minh Triết trong cuộc gặp gỡ với Đức giáo hoàng tại Tòa thánh Vatican khi ông ta có dịp hội kiến Ngài cuối năm 2009. Ông ta cũng chính là một gương mặt đại diện cho nhà nước Cộng Sản Việt Nam trong năm qua đã mang bao tai tiếng, là một trong những trò hề hết sức lố bịch của vị chủ tịch một quốc gia cộng sản còn sót lại trên thế gian này. Cũng tại chính tòa thánh Vatican, với cái miệng nói không biết ngượng của ông Nguyễn Minh Triết, nên ông ta đã thơn thớt với Đức giá Hoàng rằng: “Nhà nước Việt Nam luôn luôn tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân và luôn coi đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc …”.

Đứng trước mặt các quan khách quốc tế, lãnh đạo Cộng Sản VN luôn luôn tỏ ra với thế giới như là họ muốn đem mọi điều tốt đẹp cho nhân dân. Cũng như trong kỳ lễ Noel năm 2009 vừa qua, nhà cầm quyền cộng sản VN đã cho nhiều quan chức CS đến các giáo hội trong dịp lễ để chúc mừng Giáng sinh rồi chúng đem lên ti vi trình chiếu, hòng che mắt mọi người trên thế giới. Những hành vi dối trá này của chúng cũng là để che mắt nhân dân trong nước, bầu bạn quốc tế trên toàn cầu không theo công giáo. Chúng làm vậy là để mọi người trên toàn thế giới những ai quan tâm đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào Việt Nam lầm lẫn tưởng rằng Cộng Sản VN đã quan tâm chu đáo đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân. Nhưng với bản chất hung bạo, tàn ác có hệ thống từ xưa đến nay, dù thế nào chúng cũng không thể che lấp được bản chất thật, cùng mọi tội ác tày trời, sự tàn bạo của chúng với công luận ở Việt Nam và trên Quốc Tế. Quả thật là quá đau đớn cho một dân tộc mà kẻ cầm quyền chỉ là những kẻ cúi đầu nịnh bợ ngoại bang xâm lược, còn trong khi đó thì thẳng tay đàn áp trừng trị nhân dân mình không thương tiếc. Dưới sự cai trị độc quyền của đảng CSVN, nhân dân ta như được tiếng là sống trong một đất nước có hòa bình, thống nhất, độc lập, có chủ quyền… Nhưng nhân dân thật ra không được sống trong hòa bình tự do, ấm no, dân chủ, hạnh phúc thật sự như họ đêm ngày rao giảng. Trên thực tế nhân dân Việt Nam đang phải sống, phải chịu đựng trong nỗi thống khổ, đau thương, bất công, áp bức tràn lan trên khắp cả nước …

Tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản VN là những kẻ bạo quyền đang bằng mọi cách củng cố vị trí để tiếp tục lộng lành cướp bóc. Trong toàn xã hội hiện nay, cuộc sống của những kẻ có địa vị, có quyền hành chênh lệch thật xa hoa, giàu sang đủ mọi thứ hơn rất nhiều đại đa số nhân dân lao động lương thiện trong cả nước. Những kẻ lộng quyền CSVN hiện nay cùng bè lũ con cháu của chúng ngày càng trở nên giàu có vô tận, chúng sống sa hoa, phung phí, đồi trụy, hưởng lạc xa xỉ hơn cả thời vua chúa phong kiến hủ lậu xưa kia rất nhiều lần. Dân tình trong cả nước đa số là phải sống trong cảnh lầm than cơ cực, nghèo nàn, lạc hậu bởi luôn luôn bị chèn ép mọi bề. Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, tàn ác với nhân dân không sao kể xiết. Sự đô hộ độc đoán và tham tàn vô cùng ngang ngược của chúng đã bắt buộc nhân dân ta trở thành kẻ đối địch với chính nhà cầm quyền Cộng Sản. Nhưng còn đối với ngoại bang thì cả dân tộc ta, vận mệnh nước nhà đang bị bành trướng Trung Cộng khống chế, đe dọa lấn chiếm mọi điều trước sự ươn hèn tột cùng của ĐCSVN.

Nhân dân Việt Nam chúng ta cần phải nhớ lại hàng nghìn người con của đất nước thương đau này đã phải rời bỏ Tổ quốc của mình để chạy tỵ nạn cộng sản. Họ đã phải mất xác cho cá mập ngoài biển khơi, oan hồn của họ vẫn ai oán nơi biển cả bao la, mà những người Việt tị nạn hiện đang cư cư trú trên khắp thế giới là những nhân chứng sống không bao giờ có thể xóa sạch được. Chính cả thế giới và nhân dân Việt Nam đau đớn ghi nhớ tội ác này của CSVN mãi mãi. Nói đến bè lũ cầm quyền cộng sản Việt Nam, nhân dân chúng ta phải mỗi một con người ai cũng phải biết rằng lãnh đạo đảng CS đang cúi đầu trước giặc Trung Cộng thì linh hồn của những ngư dân Việt Nam đã bị bọn hải tặc Trung cộng giết hại đang ai oán nơi chốn biển khơi và tiếp tục còn thêm nhưng hồn oan khác sẽ oán thán cả 2 nhà cầm quyền CS ở cả hai nước Trung – Việt. Chúng ta-những người dân hiện đang sống trong nước không có quyền tối thiểu của một con người, cuộc sống của chúng ta bị NCQCS VN không coi bằng con vật, đơn giản nhất là quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo bị chà đạp, toàn dân bị cướp bóc tàn nhẫn, bị đàn áp quá bất công. Hiện nay và cho đến bao giờ chúng ta vẫn phải tiếp tục gồng mình chịu đựng bao nỗi thống khổ đắng cay như vậy.

Những gì nhà cầm quyền Cộng Sản VN đang làm gây hoang mang chia rẽ đối với nhân dân, chúng khống chế mọi quyền tối thiểu con người VN. Cho dù lãnh đạo đảng CSVN có đi khắp thế giới rao giảng rằng “ở đất nước Việt Nam hiện nay đã có tự do dân chủ, nhân quyền…” thì toàn thế giới cũng nhận ra mọi sự thật qua những việc làm, qua mọi hành động của NCQCS đối với nhân dân Việt Nam thông qua các luồng thông tin hiện đại, trung thực và nhanh chóng, chính xác ngày nay.
Hơn ai hết nhân dân Việt Nam phải tự hiểu rằng muốn có nền Hòa Bình, Dân chủ, Tự Do, Ấm No, Hạnh Phúc, Nhân Quyền của đất nước thì nhân dân ta không thể cứ ngồi yên chờ đợi mà tất cả nó sẽ đến. Hơn bao giờ hết chúng ta không thể mãi mãi cúi đầu cam chịu bạo lực của nhà cầm quyền CSVN. Cho dù Cộng Sản VN có dùng roi sắt, dùi cui hay súng đạn gì đi nữa thì chúng ta cũng phải đứng lên đấu tranh chống lại chúng thật kiên quyết. Chúng ta thà tranh đấu hy sinh tất cả chứ nhất định không làm nô lệ cho CSVN đè đầu cưỡi, tước đoạt các quyền con người và triệt để mãi mãi được.

Nhà nước toàn trị độc tài cộng sản VN đang mang danh quốc hiệu nước CHXHCN Việt Nam dưới sự thống trị của đảng CSVN ngày hôm nay nhìn xung quanh bốn phía đâu đâu chúng cũng đều coi là có kẻ thù. Với chúng đâu đâu cũng thấy “các thế lực thù địch, bọn phản cách mạng đang ra sức phá hoại thành quả cách mạng XHCN…”. Chúng coi những người dân có tín ngưỡng theo đạo Phật giaó, Thiên chúa giáo, hay Tin lành, đạo Hòa hỏa, đạo Cao đài…vv… đều là kẻ thù không đội trời chung với chế độ cộng sản VN cả. Thật ra là chỉ có những người dám nói, và không dám nói ra sự thật mà thôi. Tất cả họ và những người đấu tranh đòi tự do dân chủ cho đất nước, cho dân tộc và cho chính bản thân mình đều bị trở thành kẻ phản động, chống đối đảng, nhà nước và “cách mạng CSVN”….

Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay đang lo sợ vô cùng, khi phải thực thi việc trao trả quyền làm chủ cho toàn thể Dân Tộc Việt Nam ta. Bởi thực sự nếu chúng phải trao trả lại các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền cho nhân dân ta thì đảng CSVN đâu còn dễ bề cướp bóc, áp bức, tước đoạt tài sản của toàn thể nhân dân cũng như mọi tài nguyên trên cả đất nước này nữa. Mà về bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam thì ban lãnh đạo của chúng chỉ là những kẻ sống dựa, sống ăn bám vào sức lực của toàn thể nhân dân Việt Nam mà thôi. Nếu không có sự độc tài, độc tôn, độc quyền mang danh chế độ XHCN nữa thì đâu chế độ bạo tàn này của chúng còn được tồn tại, thì còn đâu điều kiện tốt lành cùng các cơ hội vàng để chúng có thể dễ bề cướp bóc dễ dàng nhân dân.

Khi chúng mất quyền lực rồi thì Cộng Sản Việt Nam chỉ đi đến con đường tự sát hoàn toàn mà đúng như chủ tịch nước CSVN Nguyễn Minh Triết đã có lần tuyên bố rằng: “Nếu bãi bỏ điều 4 Hiến pháp có nghĩa là đảng CSVN chúng ta sẽ dẫn đến tự sát… !!!”.

Như vậy là, ĐCSVN rõ ràng chỉ vì quyền lợi ích kỷ của riêng đảng CSVN chớ không hề nghĩ đến quyền lợi của cả dân tộc và đất nước Việt Nam. Bởi vì khi phải bãi bỏ điều 4 trong hiến pháp nhà nước độc tài CSVN hiện nay thì nước ta sẽ có chế độ chính trị đa đảng, nhân đân Việt Nam sẽ có tự do, dân chủ, nhân quyền thực sự, nhân dân Việt Nam sẽ không phải chịu sự đàn áp, ai oán đau thương. Đến khi nào còn đảng Cộng Sản VN cai trị độc tài thì chừng ấy không bao giờ hàn gắn lại được vết thương lòng của dân tộc mà với tất cả những gì chúng đã gây ra cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Chúng không thể che giấu được mãi bản chất độc tài quái đản và bộ mặt tàn bạo thật của chúng qua những gì chúng đã, đang và sẽ tiếp tục đối xử tệ hại, dối trá, thủ đoạn với nhân dân mình.

Khi đã nhận ra bộ mặt thật của đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa có giải pháp để bài trừ triệt để tận gốc tội ác của chúng ? Điều đơn giản là có thể do nhân dân ta đã quen cam chịu với bao nỗi thống khổ, cơ cực dưới ách cai trị của bè lũ vua quan Cộng Sản Việt Nam trong mấy thập kỷ chăng? Hơn thế nữa khi nhận ra sự thật đau lòng mà đảng Cộng Sản VN đang làm với nhân dân ta, mà trong tầng lớp nhân dân, chưa có sự đoàn kết đồng bộ nên mọi người dân những người đang ngày đêm phải gánh chịu khổ nạn của cộng sản Việt Nam gây ra chưa có can đảm và quyết tâm cao trỗi dậy khởi nghĩa? Tôi nghĩ dù khó khăn đến mấy nhân dân Việt Nam ta nhất định có ngày phải nhất tề đứng lên giành lại quyền làm chủ vận mệnh đất nước từ tay bè lũ vua quan CSVN bất lương và đạo đức giả. Mọi người, mọi nhà phải đồng lòng đứng lên bước vào con đường tranh đấu đòi tự do, dân chủ hóa cho đất nước của mình, cho cả dân tộc và cho chính bản thân mình.

Cả dân tộc Việt Nam hãy nhất tề đứng làm nên một trang sử mới vẻ vang, phải đòi lại chủ quyền đất nước trước họa xâm lăng của giặc Trung cộng bằng mọi giá. Chúng ta kiên quyết đòi lại những quyền con người tối thiểu, đòi tự do dân chủ, đòi quyền tự quyết của dân tộc về tay mình. Sự đoàn kết của nhân dân ta càng lớn mạnh, thì nhà cầm quyền cộng sản VN càng phải thối lui. Tinh thần đòi hỏi độc lập, tự do, dân chủ thật sự cần thống nhất và phải triệt để, khi ấy tiến trình dân chủ mới có điều kiện được thực thi.

Chế độc tài vô nhân đạo, bất nhân của cộng sản Việt Nam hiện nay sẽ tan rã một ngày không xa để toàn dân Việt Nam chúng ta sớm thoát khỏi vòng lao khổ và sự đàn áp triền miên của đảng cộng sản VN chuyên chế bạo tàn.

Viết xong để kỷ niệm ngày 3/2/2010
Hồ Thị Bích Khương
Xóm 2, xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Điện thoại: 0984- 980- 597