Wednesday, November 4, 2009

Thánh Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Và Chiến Sĩ Quân Cán Chính VNCH - Phan Hoàng Phú Quý


Phan Hoàng Phú Quý

PORTLAND-Oregon: - Trong Niên Lịch Công Giáo, hàng năm giáo hội Thiên Chúa Giáo đã dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng ta, trong số đó có những linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em, thân bằng quyến thuộc và bạn bè thân hữu của chúng ta, và trong tâm tình cầu nguyện nêu trên, Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang đã tổ chức thánh lễ tưởng niệm và cầu nguyện cho linh hồn Gioanbaotixita cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các Chiến Sĩ Quân Cán Chính Việt Nam Cọng Hòa vào lúc 6 giờ chiều ngày 3 tháng 11 năm 2009, tại nhà thờ Đức Mẹ La Vang.

Trong thánh lễ hôm nay, ngoài số giáo dân tham dự, chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện của quý anh chị trong Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm và một số thân hào nhân sĩ tại địa phương.

Linh mục chủ tế Cao Thế Bình tuy ngài còn trẻ, có lẽ lúc Tổng thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, ngài chưa chào đời, thế nhưng ngài đã chia sẽ rất tâm tình và xúc tích về tài đức cũng như tinh thần phục vụ và lòng yêu nước thương dân của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngài đề cao giá trị đời sống độc thân của cố Tổng thống, nhờ sống độc thân mà cố TT Ngô Đình Diệm có nhiều thời gian để lo cho Dân cho Nước, ngài nhấn mạnh là trên thế giới này ít thấy có vị Tổng thống nào độc thân, đã 46 năm trôi qua, nhưng chúng ta vẫn luôn tưởng nhớ va cầu nguyện, đồng thời chúng ta cùng ca ngợi, cùng khâm phục, cùng bắt chước va noi gương tính liêm khiết và đức độ của vị Tổng thống bất khuất và can trường.

Ông Lê Văn Khương đại diện Nhóm Tinh Thần TT Ngô Đình Diệm đã ngỏ lời tri ân đến Cha Chủ Nhiệm và quý cha phụ tá, quý tu sĩ Nam, Nữ, ông chủ tịch HĐGX.quý Hội Đoàn và Hội Đồng Hương cùng toàn thể quý giáo dân đã cùng hiệp dâng thánh lễ tưởng niệm và cầu nguyện cho các Chiến sĩ Quân Cán Chính Việt Nam Cọng Hòa đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến trường kỳ, để bảo vệ Miền Nam Việt Nam tự do, đồng thời cũng tưởng nhớ đến Tổng thống Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm, vị Tổng thống tiên khởi và cũng là người sáng lập nền Cọng Hòa tại Miền Nam Việt Nam. Cồ Tổng thống Ngô Đình Diệm là một lãnh tụ tài đức song toàn, đã từng đưa quốc gia vượt qua giai đoạn lịch sữ khó khăn nhất, sau khi Hiệp Ước Geneve ngày 20-7-1954 chia đôi đất nước được ký kết.

Người ta có thể chỉ trích cố TT về một số khuyết điểm trong vấn đề lãnh đạo, nhưng tuyệt nhiên bạn cũng như thù, không ai có thể phủ nhận ngườI là một lãnh tụ can trường, một long vì nước vì dân, và không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, nhất là không bao giờ chịu nhường bước trước những áp lực, khiến cho quốc thể và chủ quyền quốc gia bị tổn thương, và đó chính là nguyên nhân đưa đến vụ đảo chánh ngày 1-11-1963 và hậu quả là người đã bị thãm sát với bao điếu vu vạ bất công.

Ngày nay, qua những dữ kiện và chứng từ của các tài liệu được giải mật, liệu nhân dân Việt Nam nên xem cuộc dảo chánh 1-11-63 là một cuộc cách mạng như một số người thường rêu rao hay đó chỉ là một cuộc tạo phản ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy tìm hiểu xem cuộc đảo chánh trên có chính nghĩa hay không? Thật ra, nếu cuộc đảo chánh ấy là một việc làm vì chính nghĩa quốc gia, thì trước hết nó phải là một hành động dựa vào lòng dân, thực hiện vì quyền lợi của nhân dân và của đất nước. Đằng này cuộc đảo chánh ấy, theo như tào liệu giảI mật cho hay thì rõ rang là một hành động do ngoại bang chủ xướng, không vì quyền lợI của Việt Nam, và hậu quả của việc đảo chánh là gì, nếu không phảI là một Miền Nam rối loạn, một quốc gia mất chủ quyền, trong đó quân đội trở thành một tập thể vô kỷ luật, vớI cảnh quân nhân ôm súng ngồi biếu tình ờ sân cờ, xã hội thì vô trật tự với bàn thờ Phật đem xuống đường la liệt khắp phố phường, đĩ điếm tràn lan, những cuộc biểu tình và xuống đường nhường như bất tận, trong 2 năm đầu của cuộc cách mạng, chính phủ có đến 6 lần thay chủ đổi ngôi. Với những dữ kiện trên, chúng ta không thể nào bảo cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 là cuộc cách mạng do nhân dân Việt Nam chủ xướng. Vì vậy nếu bảo rằng cuộc đảo chánh ấy là nguyên nhân tạo điều kiện đưa đến sự sụp đổ của chính quyền Miền Nam Việt Nam vào ngày 30-4-75 dẫn đến việc hàng triệu con dân Việt Nam phải mang thân phận lưu vong khắp cùng thế giơí có lẽ cũng không phải là sai.

Sau thánh lễ tưởng niệm và cầu nguyện, quý linh mục và toàn thể giáo dân tiến đến dâng hương và thành kính nghiên mình trước di ảnh của cố TT Ngô Đình Diệm.

Phan Hoàng Phú Quý


Chính Đề Việt Nam - Gs Tôn Thất Thiện


CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM:

MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG,
MỘT ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN


GS Tôn Thất Thiện
I

Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung học, 1942-44, rồi qua những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai học, từ năm 1947 cho đến nay, 2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạng bô lão, tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt mọi người.

Danh từ “canh tân” rất thông dụng trong thời Nho học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như: “phát triển”, “hiện đại hoá”…. Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi vấn đề căn bản của rất nhiều nước Á, Phi, Nam Mỹ châu, trong đó có Việt Nam, là những nước ở tình trạng chậm tiến. “Chậm tiến” là dẫm chân, thua xa về đời sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng khoa học kỹ thuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại. Cho nên “canh tân” cũng có nghĩa là “Tây phương hoá” và “hiện đại hoá”.

Tôi đã được học hỏi ở những Đại học có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính trị, Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát triển; tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó. Mãi đến năm 2004 tôi mới được cái may mắn này.

Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến, rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam.

Trong trường hợp nào tôi đã được cái may mắn đó, tôi đã kể lại trong Đặc San về Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diêm năm 2004. Trong bài này tôi sẽ nhắm vào những điểm sau đây:
    1. nói lên phản ứng của tôi sau khi đọc hết tác phẩm này, trong tư thế là một học giả đã để nhiều thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề.

    2. bàn về một số khía cạnh nhưng không phân tách, nhận xét về toàn bộ của tác phẩm, môt điều vượt khung cảnh của bài; thay vào đó, phần Phụ bản đăng nguyên văn chương đầu – “Bối cảnh của vấn đề” – và chương cuối – “Kết luận: trụ mà không trụ” – để giúp các độc giả không có đủ thì giờ, hoặc không quen với lối hành văn lập luận trừu tượng, hoặc không có được tác phẩm trong tay, để đọc toàn bộ tác phẩm, ít nhứt có một ý niệm khá rõ ràng về những khía cạnh của vấn đề được các tác giả bàn đến, và tóm tắt, họ chủ trương gì?
II

Đọc xong Chính Đề Việt Nam, tôi thấy ngay tầm quan trọng của tác phẩm và tôi đã đề xướng tái bản nó. Nhưng, lúc đó, vấn đề gặp một số trở ngại về danh tánh của tác giả. Trong phần “Phụ Giải về tái bản Chính Đề Việt Nam” trong Đặc San năm 2007, tôi có nói rằng ai là tác giả của tác phẩm cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Đệ I Cọng Hoà Việt Nam vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có thêm dữ kiện để suy ngẫm. May thay, nay những trở ngại đó không còn nữa và tác phẩm đã được tái bản (dưới hình thức một tài liệu học tập nội bộ của những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hoà, đúng như tác dụng nguyên thủy của nó).

Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để đính chính một điểm: trong “Phụ Giải” tôi đã nói lầm rằng Ông Lê Văn Đồng đã là Bộ Trưởng Bộ Canh Nông năm 957; thật ra, Ông là Đổng Lý Văn Phòng Bộ Lao Động, mà Bộ Trưởng là Ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Hai ông này đều thuộc nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu. Nhân tiện cũng để ghi nhận rằng theo “Lời Trần Tình” trong tái bản, tài liệu xuất bản năm 1964 ở Việt Nam được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988 “do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác”, và “dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này nhằm khởi động sức phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay”. Và để nói rõ và lớn lên một điều rất đúng đã được dân chúng Miền Nam truyền miệng rộng rãi vào khoảng năm 2007: (trong khi “Xã Hội Chủ Nghĩa” đã chết nhưng chưa chôn”) thì “Việt Nam Cộng Hòa đã chôn nhưng chưa chết”….

Đúng vậy.

Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó, uy tín của chế độ Đệ Nhứt Cọng Hoà và sự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ sẽ được công nhận. Đối với các nhà lãnh đạo chính trị và những nhà nghiên cứu về vấn đề chậm tiến của các quốc gia thuộc về khối gọi là “Đệ Tam Thế Giới”, tác phẩm này sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại. Ở đây tưởng nên nhắc đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này.

“Lời Trần Trình” trong tái bản của tác phẩm tiết lộ:

“Tập tài liệu bạn có trong tay là kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm vững con đường phát triển dân tộc… “Một phần những đề tài này đã được thảo luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà,… nhất là công cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc bị gián đoạn từ đó… một số chiến hữu trung kiên đã cho in tập tài liệu này, nhưng tình hình chính trị bất ổn, và chính quyền quân sự lúc đó đang bị nhiều áp lực từ nhiều phía, vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi là di sản của “chế độ cũ” nên bị chôn vùi và quên lãng.”

Nhưng tác phẩm Chính Đề Việt Nam đã không bị quên lãng. Nó xuất hiện lại, và sự xuất hiện ấy là một nhắc nhở rằng Chế Độ Việt Nam Cọng Hoà, qua thời gian, tuy đã bị chôn vùi, nhưng vẫn chưa chết. Ngày nay nó lại tỏ ra vẫn còn sống mạnh và được hãnh diện thấy những cống hiến lớn của nó cho xứ sở được càng ngày càng nhiều người ghi nhận và thẳng thắn công nhận. Trong đó, sự đóng góp về cách tiếp cận và đề xướng một giải pháp thích nghi và hữu hiệu vào vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến là một biểu chứng cụ thể.

III

Sau khi đọc xong Chính Đề Việt Nam, phản ứng đầu tiên của tôi là: “Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã mất gần 50 năm – 1960-2007 – tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã viết lên rồi”. Và chắc chắn đây cũng là trường hợp của rất nhiều người Việt Nam khác. Nói chung, Việt Nam đã mất đi 50 năm quý báu. Một phần không nhỏ vì những cuộc xáo trộn năm 1963 và những năm tiếp theo. Những tư tưởng chứa đựng trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng thì chế độ Cọng Hoà I bị lật đổ, với những hậu quả rất tai hại cho sự phát triển của Dân Tộc Việt Nam.

Trong tư cách là một học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến, tôi không ngần ngại quả quyết rằng Chính Đề Việt Nam là tài liệu xuất sắc nhứt mà tôi đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua. Không những nó sẽ giúp cho những người liên hệ với vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến thấy rõ tại sao các chương trình kế hoạch viện trợ các quốc gia này đã thất bại, mà còn cung cấp cho họ một lối tiếp cận có nhiều triển vọng thành công hơn. Riêng về Việt Nam, nó là tài liệu đầu tiên mà tôi được biết đến chỉ rõ con đường dẫn Việt Nam ra khỏi tình trạng bi đát của hơn 100 năm qua. Tác phẩm đã đặt đúng vấn đề và đã soi chiếu ánh sáng vào những yếu tố then chốt và riêng biệt của các quốc gia chậm tiến, và phân tách tường tận những yếu tố đó. Phần khác, tác phẩm cũng khảo xét tình trạng các quốc gia lớn đã thực nghiệm những chương trình phát triển, như Nga, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc những quốc gia tương tự Việt Nam, và đưa ra những nhận xét rất hữu ích cho người Việt. Riêng về Nga, Trung Hoa, và Việt Nam những kết luận của Tùng Phong đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay, 2009, có thể nói là tiên tri.

Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi học ở Trường L.S.E. (London School of Economics). Trường này được coi là lớn hạng nhất của Liên Hiệp Anh (Commonwealth). Tuy mang tên ngắn gọn là L.S.E., nhưng tên đúng của nó là “London School of Economics and Political Science”. Thực ra, nó được coi là một trường chuyên về Xã Hội Học. Dù sao Kinh Tế/Economics cũng là môn chính trong chương trình giảng dạy của nó. Do đó nó chú tâm về môn “Economic Development” – Phát triển Kinh Tế – là một điều tự nhiên. Sự chú tâm này phản ảnh những lo âu của các giới chính trị kinh tế Tây phương trong những năm đầu sau Chiến Tranh Thế Giới II, phải đương đầu với vấn đề tái thiết và lập lại ổn định, và với những đòi hỏi cải thiện gấp rút đời sống của các quốc gia Á, Phi, Nam Mỹ. Thêm vào đó lại khởi phát một cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Nga Sô trong một chiến tranh lạnh bao trùm thế giới.

Hậu quả của những chuyển biến trên đây là thế giới cần một sự phát triển kinh tế quy mô và nhanh chóng. Lúc đó, chỉ Hoa Kỳ có khả năng trợ giúp các quốc gia khác – đồng minh đương nhiên vì đồng chế độ, hoặc thuộc khối “không liên kết” cần lôi kéo về phía mình – vì Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không bi tàn phá, kinh tế phát triển vượt bực để phục vụ nhu cầu không những của mình, mà của toàn thể khối Đồng minh. Phần khác, Hoa Kỳ cũng cần duy trì sản xuất kinh tế để tránh những xáo trộn do một cuộc giảm sút kinh tế lớn gây ra.

Vì những lý do nêu trên, các Đại học, các học giả trứ danh về kinh tế học, các chuyên gia kinh tế, các giới kinh tế-tài chánh, các giới truyền thông, chính trị gia, nhất là ở Hoa Kỳ, đổ xô vào việc nghiên cứu, bàn luận, đề xuất lý thuyết về phát triển. Các Chính Phủ Hoa Kỳ đưa ra những chương trình ngoại viện lớn; các kế hoạch này được Quốc Hội thông qua dễ dàng và được dân chúng ủng hộ rộng rãi.

Có hai loại ngoại viện:
    1. viện trợ các quốc gia đồng minh cũ, thuộc Tây Âu;
    2. các quốc gia chậm tiến, hoặc thuộc ảnh hưởng Hoa Kỳ, hoặc “không liên kết”.
Loại đầu là Chương Trình Marshall; loại thứ hai là “Point IV”/ Điểm thứ tư, được gọi như vậy vì đó là điểm thứ tư trong môt bài diễn văn lớn của Tổng Thống Truman năm 1947 tuyên bố quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến.

Chương trình Marshall không quan hệ gì đến các nước chậm tiến vì nó nhằm trợ giúp các quốc gia Tây Âu tái thiết, không thuộc về lãnh vực phát triển, nên không bàn đến ở đây. Chương trình “Point IV”/ Điểm thứ 4, trái lại, không những nói lên quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến phát triển, cung cấp phương tiện dồi dào, mà vạch ra cả một lý thuyết, và các phương thức thực hành cuộc phát triển này.

Những điều chứa đựng trong “Point IV”/ Điểm IV của Tổng Thống Truman này là thâu tóm quan điểm của những tư tưởng gia Hoa Kỳ về vấn đề phát triển. Theo quan niệm này, lý do chính của sự chậm tiến của các quốc gia chậm tiến là họ thiếu vốn và “know how” (kỹ thuật). Nếu các quốc gia này được cung cấp dồi dào – cho không, hay cho vay nhẹ lãi – vốn, và kỹ thuật – qua các chương trình cung cấp chuyên viên, huấn luyện người bản xứ tại chỗ hay trong các trường Đại học Hoa Kỳ – thì trong một thời gian ngắn, họ sẽ phát triển, trở nên giàu có, không bị cọng sản quyến dỗ nữa. Qua thực nghiệm sau mấy chục năm áp dụng, nó tỏ ra không hiệu nghiệm, không đạt được mục đích. Vì sai lầm.

Trước hết là về thực chất của vấn đề. Như Tùng Phong nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, muốn giải quyết một vấn đề, phải thấu triệt vấn đề đó. Vấn đề Việt Nam là một vấn đề liên quan đến cộng đồng và lãnh đạo Việt Nam: “… các biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay [1940-1960] là một ví dụ cụ thể minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải giải quyết đối với đa số lãnh đạo….

“Đối tượng của quyển sách nầy là tìm xem vấn đề cần phải giải quyết của cộng-đồng Quốc-Gia Việt Nam trong thời kỳ nầy là vấn đề gì” (CĐVN, tr. 42). Và tác giả đã giải thích tường tận, chi tiết, vấn đề sống còn của Việt Nam, trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, là phát triển để thoát khỏi tình trạng thua kém về khoa học kỹ thuật bằng một cuộc Tây phương hoá, “không e dè, không rụt rè, không ngần ngại” (CĐVN, tr. 76). Cuộc Tây phương hoá đó là “một cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, do đó, có đường hướng và có mục đích.” Nó cũng phải là một cuộc Tây phương hoá toàn diện… nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội, và theo đó kinh tế và văn hoá. (CĐVN, tr. 144)

Về mục đích của công cuộc Tây phương hoá, Tùng Phong viết: “Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hoá nầy và sẽ đưa nó đến một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hoà mới”. (CĐVN, tr. 137)

Câu ngắn ngủi này chứa đựng những ý niệm căn bản rất độc đáo của tác phẩm. Các ý niệm này sẽ được bàn đến trong phần dưới đây: “Tây phương hoá”, “chủ động”, “mức độ cao”, “tiêu chuẩn giá trị mới”, ”trạng thái điều hoà”…. Cần nhấn mạnh rằng tác phẩm đề cập đến nhiều ý niệm độc đáo khác, nhưng không thể bàn trong bài này vì quá nhiều.
Vấn đề cần được đặt trong bối cảnh riêng biệt của nó.

Việt Nam có ba bối cảnh:
    1. tình hình chính trị thế giới,
    2. các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự,
    3. các Quốc-Gia thuộc về một khối văn hoá với Việt Nam: các nước láng giềng ở Đông-Á và Đông-Nam-Á (CĐVN, tr. 43).
Cuối cùng là phương thức nghiên cứu. Về điểm này, tính chất vô tư và khoa học của công trình nghiên cứu cần được bảo đảm, nên tác giả Tùng Phong đã cương quyết chọn vị trí lịch sử, vì “thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản”. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không bao giờ tác giả đứng vào các vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết vì “đó là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận”. Bất cứ trong lãnh vực nào – chính trị, văn hoá và kinh tế – “sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên các lý thuyết … để tránh tất cả những sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của quyển sách” (CĐVN, tr. 45-46).

IV

Cách tiếp cận nêu trên cần thiết để bảo đảm sự lựa chọn những giải pháp thích nghi cho việc thực hiện những mục đích mong muốn. Những mục đích này minh định do vị trí của Việt Nam trong thế giới ngày nay, vừa trong lãnh vực địa dư, vừa trong lãnh vực tiến hoá chung của nhân loại. Cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam, các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta “ít lắm là vài thế kỷ” (CĐVN, tr. 68).

Những mục đích tùy thuộc vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam do các điểm sau đây minh định:
    1. Việt Nam là một nước nhỏ kém mở mang;
    2. Theo truyền thống văn hoá, Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á;
    3. Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thực dân Đế quốc;
    4. Việt Nam phải cần Tây phương hoá như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để

    1. Tồn tại, bảo vệ độc lập,
    2. Phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. (CĐVN, – nt -)
Trong nhãn quan của Tùng Phong, trong hai mục đích này, “Độc lập không phải là mục đích chính”. Phải độc lập vì độc lập là “điều kiện tiên quyết và thiết yếu khẩn thiết để thực hiện cho được cuộc Tây phương hoá. Có độc lập, chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được cuộc Tây phương hoá mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây” (CĐVN, tr. 158).

Vấn đề chính của Dân Tộc Việt Nam là vấn đề phát triển, và cuộc phát triển đó thực hiện qua một cuộc Tây phương hoá. Sự thành bại của cuộc Tây phương hoá này quyết định tương lai của Việt Nam, không những gần, mà trong mấy thế kỷ sắp đến. Cho nên vấn đề được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển – Tây phương hoá. Vấn đề độc lâp được bàn đến, và rất chi tiết, như là một vấn đề dính liền với nguy cơ tái lệ thuộc Trung Hoa nếu Việt Nam chọn con đường cộng sản trong công cuộc phát triển.

Theo Tùng Phong “công cuộc phát triển Dân Tộc bằng cách Tây phương hoá là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc… một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, Dân Tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai” (CĐVN, tr. 134-35).

Khái niệm “Tây phương hoá” là khái niệm then chốt của tác phẩm này nên chúng ta cần minh định nghĩa của danh từ và nội dung của khái niệm để tránh ngộ nhận. Danh từ “Tây phương hoá” – “Westernization” (theo Anh văn), hay “Occidentalisation” (theo Pháp văn) – là một danh từ thông dụng trong giới học giả và báo chí Tây phương trong những năm trước 1950. Nhưng các giới chính trị, trí thức Á Đông, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Hoa, chống việc sử dụng danh từ này vì họ cho rằng nếu Á Đông thua kém Tây phương về kỹ thuật khoa học họ lại hơn Tây phương về phương diện triết lý, tinh thần, và nếu họ muốn kỹ nghệ hoá họ không muốn mang luôn văn hoá Tây phương. Do đó, một danh từ khác, trung lập hơn, được dùng. Đó là “hiện đại hoá”. Cho nên, trong bài này, “Tây phương hoá” nên hiểu là “hiện đại hoá”. Thật ra, danh từ này rất sát nghĩa khái niệm “Tây phương hoá” của Tùng Phong.

“Tây phương hoá”, theo Tùng Phong, là thế nào?

“Tây phương hoá là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy luận và nhiều tập quán của Âu-Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của Dân Tộc… Bản chất Dân Tộc chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của chúng ta, và phương pháp sáng tạo của chúng ta, khi nào chúng ta đã chủ động được các phương tiện và phương pháp sáng tạo Tây phương. Và đây là mục đích chính của công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta đang theo đuổi…; chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không ngần ngại” (CĐVN, tr. 76).

Hai điểm then chốt trong ý niệm trên là ta phải chủ động công cuộc Tây phương hoá, và phải đi đến mức sáng tạo. Cuộc Tây phương hoá này phải là một cuộc Tây phương hoá tự ý, không ép buộc, vì “nếu chúng ta không tự ý Tây phương hoá, thì trước hết ta sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó cuộc Tây phương hoá vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và hướng dẫn. Một cuộc Tây phương hoá không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã của xã hội chúng ta… Như vậy, giữa hai thái độ tự ý Tây phương hoá và bắt buộc Tây phương hoá thế nào cũng phải lựa chọn thái độ tự ý Tây phương hoá” (CĐVN, tr. 166).

Điểm thứ hai, đi đến mức sáng tạo, một mức cao, cũng là một đặc điểm của cuộc Tây phương hoá mà Tùng Phong chủ trương. Theo ông, “công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào thực hiện đúng đến mức độ cao” (CĐVN, tr.. 153).

Thế nào là “mức độ cao”? Ông ta giải thích:

“Tây phương hoá đến mức độ cao có nghĩa là Tây phương hoá đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuôc Tây phương hoá… Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây phương hoá của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công” (CĐVN, tr, 172)

“Chế ngự khả năng sáng tạo” là một ý niệm trừu tượng, tế nhị, có thể gây hiểu lầm rằng “Tây phương hoá” đồng nghĩa với làm mất “bản sắc Dân Tộc”. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này ở đoạn sau. Ở đây cần nhấn mạnh rằng Tùng Phong rất ý thức điều này, nên ông ta đã đưa ra những giải thích rất chi tiết và rõ ràng. Ông viết:

“Một cuộc Tây phương hoá, đến mức độ cao, chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó” (CĐVN, tr. 463-464).

Có một quan niệm thông thường cho rằng Tây phương mạnh nhờ khoa học của họ, và nếu chúng ta học được khoa học của họ thì chúng ta cũng mạnh như họ. Nhưng, thật ra, nếu chúng ta học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây phương. Bởi vì: “khoa học cũng như tất cả các sáng tạo của Tây phương là những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ thuật của Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới là gió. “Kỹ thuật Tây phương đẻ ra khoa học, chớ không phải khoa học đẻ ra kỹ thuật. Như vậy thì sự thâu thập khoa học chưa đủ để giúp cho người thâu thập chế ngự được kỹ thuật Tây phương.” (- nt-)

Vậy nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật Tây phương là cái gì?

Tùng Phong cho rằng câu hỏi này “vô cùng quan trọng cho công cuộc Tây phương hoá”. Có trả lời được, chúng ta mới thoả mãn được một điều kiện của công cuộc Tây phương hoá đến mức đô đủ cao. Điều kiện thứ hai là thực hiện được những điểm mà câu hỏi sẽ nêu lên: (- nt -)

Và giải đáp mà Tùng Phong đưa ra là một giải đáp có thể nói là độc đáo, mới, mà riêng tôi, xin thú thực là chưa hề được nghe nói đến: kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính, xin nhấn mạnh đức tính, vô cùng quý báu:
    1. chính xác về lý trí,
    2. ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Tùng Phong nhấn mạnh rằng hai đức tính này là hai đức tính của văn minh cố Hy Lạp và La Mã. Nó là nguồn sinh lực của kỹ thuật Tây phương. Nó có trước mọi phát minh khoa học và đã phát sinh ra khoa học. Và nó phải có nếu ta muốn đạt đến mức độ sáng tạo như Tây phương. Một sự thu thập khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương. “Một công cuộc Tây phương hoá chỉ chú trọng vào sự thu thập khoa học Tây phương sẽ mãi mãi là một cuộc Tây phương hoá không đúng mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương thì, mãi mãi, sẽ lệ thuộc vào các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, và không khi nào lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương.” (CĐVN, tr. 468).

Vấn đề đã trở nên rất rõ: nếu chúng ta muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta phải rèn luyện để có được hai đức tính:
    1. Chính xác về lý trí.
    2. Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Muốn rèn luyện hai đức tính trên đây, “chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch, và ngôn ngữ của chúng ta cũng phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh bạch…. ;đời sống hằng ngày của chúng ta, và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác về lý trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã chỉnh đốn lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật chất và vũ trụ tinh thần” (CĐVN, tr. 468).

Về vấn đề Tây phương hoá có làm mất bản sắc Dân Tộc, “mất quốc hồn quốc túy” hay không, Tùng Phong nói:

“Các Dân Tộc Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác của lý trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ minh chiết như nhau – sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau – thế mà họ vẫn khác nhau trong sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ…. Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tánh cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy…” CĐVN, tr. 76)

Phần khác,

“… nếu thực sự một cuộc Tây phương hoá tự ý và có lãnh đạo không làm tan rã xã hội lại có thể làm mất bản chất Dân Tộc, thì chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hoá bắt buôc và không hướng dẫn, [không làm] tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất Dân Tộc của chúng ta.” (CĐVN, tr. 166)
V

Trong những trang trên đây, ta thấy tác giả đề cập rất nhiều đến những danh từ như: “xã hội”, “nỗ lực”, “rèn luyện”, “chế ngự “, “chỉnh đốn”, “đức tính”, “lý trí”, “suy luận”… Đây là những danh từ mang ý niệm trừu tượng thuộc về lãnh vực văn hoá. Điều này nói lên sự khác biệt căn bản của lối tiếp cận vấn đề của Tùng Phong với lối tiếp cận kinh tế, thống kê, chính trị của những học giả, chuyên gia chủ trương Point IV/Điểm 4 về vấn đề phát triển. Lối tiếp cận của Tùng Phong là một lối tiếp cận chú tâm vào các khía cạnh xã hội và tâm lý, nghĩa là văn hoá. Đây là một lối tiếp cận đòi hỏi môt sự thấu triệt hoàn cảnh và tâm lý của dân tộc muốn phát triển, một điều rất khó khăn và đòi hỏi nơi người nghiên cứu, cũng như nơí người thực hành, những kiến thức rất sâu rộng, và một khả năng dùng linh tính mà tâm lý học gọi là “introspection”, một khả năng mà người ngoại quốc không có, mà ít người bản xứ dùng đến trong việc nghiên cứu vì cho rằng nó “không khoa học”. Nhưng, nếu phối hợp với kỹ thuật ở mức độ cao, như đã trình bày ở trên, nó là lối tiếp cận hữu hiệu nhất, và đưa đến sự phát giác những giải pháp độc đáo và thích nghi nhứt, như ta sẽ thấy dưới đây.

Mục tiêu của Tây Phương hóa là phát triển, và, như đã nói ở trên, phát triển để có điều kiện bảo đảm sự tồn tại và độc lập, và xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Công cuộc chính của phát triển là xây dựng lại xã hội Việt Nam sau 80 năm thống trị của người Pháp.

Cuộc thống trị đó đã để lại một di sản mà ngay nay dân Việt đang còn phải mang những hậu quả rất tai hại: Ba gánh nặng nhứt là:
    1. một công cuộc hoá Tây phương bắt buộc,
    2 một xã hội tan rã,
    3 một sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo.
Công cuộc Tây phương hoá bắt buộc làm cho chúng ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thâp nền văn minh mới. Vận mạng của chúng ta không phải do chúng nắm. Vì vậy, cuộc Tây phương hoá mà chúng ta phải chịu đựng từ môt thế kỷ nay là “một cuộc Tây phương hoá bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn.” Dân chúng bị lôi cuốn vào một phong trào Tây phương hoá, “mà không hiểu Tây phương hoá để làm gì, Tây phương hoá đến mức nào là đủ, và Tây phương hoá sao là đúng.” (CĐVN, tr. 268).

Tình trạng trên đây đã dẫn dắt đến sự tan rã của xã hội của chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực, mà các tiêu chuẩn mới thì không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử đã mất. “Đó là một điều vô cùng bất hạnh” vì chính là lúc này, lúc ta cần nhiều nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người, “sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết để toàn dân trông vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh”. (- nt -)

Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự gián đoạn lãnh đạo ”đến một trình độ trầm trọng nhứt”. Sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Các bí mật [bí quyết] Quốc gia và bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được.
Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. (- nt -) Đặc biệt là sự thiếu hụt lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: sự điều hoà giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn định và tiến lên của xã hội không còn nữa.

Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường tận. Những tư tưởng rất mới mẻ, độc đáo và sáng suốt về vấn đề này là những đóng góp lớn vào sự soi sáng vấn đề phát triển của các nước chậm tiến.

Theo nhận xét, rất đúng, của Tùng Phong, xã hội gồm hai khối: thiểu số lãnh đạo, và đa số chịu lãnh đạo. Xã hội nào cũng có mâu thuẫn nội bộ, giữa những nhu cầu cá nhân và những nhu cầu của cộng đồng, giữa những nhu cầu ngắn hạn và những nhu cầu dài hạn của cộng đồng, giữa những mức độ đóng góp hy sinh mà lãnh đạo thấy cần và đa số chịu lãnh đạo chịu chấp nhận…. Những mâu thuẫn này phải được điều hoà thì xã hội mới ổn định và tiến được. Tùng Phong đã phân tách vấn đề một cách chi tiết như sau:
“Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.

“Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được phát triển của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của cá nhân, tình nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước vọng của cá nhân.

“Nói một cách khác lý do của cuộc sống là lý do cá nhân. Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm của mọi phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương phản.

“Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều hoà tuyệt đối giữa hai hình thức của một sự thăng bằng đồng tiến, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hoà được thực hiện dưới hình thức một sự thăng bằng tỉnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự điều hoà không được thực hiện, cộng đồng sẽ tan vỡ.” (CĐVN, tr. 18)

Những mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân và cộng đồng có khi nặng, khi nhẹ. Trong những thời kỳ bình thường, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi sự đóng góp nhiều của cá nhân. Nhưng cũng có những thời kỳ mà cộng đồng phải đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và sự sống còn của cộng đồng đòi hỏi nhưng sự đóng góp to tát. Ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá thông thường để đưa cộng đồng lướt qua các trở lực.

Sự mâu thuẫn khi nào cũng có. Nhưng trong trường hợp trầm trọng, trạng thái điều hòa rất khó thực hiện, sự tan vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào, và, trong thực tế, nó trở thành một vấn đề cho lãnh đạo vì “sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cộng đồng và cá nhân sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đao, vì thiểu số lãnh đạo, nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự đóng góp của đa số chịu lãnh đạo” (CĐVN, tr. 19)

Sự mâu thuẫn càng ác liệt nếu đại đa số không có ý thức cộng đồng và không hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này dễ xảy ra trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và mãi bận tâm giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày, không có thì giờ để hiểu biết vấn đề của cộng đồng.

Ở đây ta thấy rõ tầm quan trọng của lãnh đạo và sự tham gia tự ý của đại đa số. Trong thời kỳ bình thường có thể cưỡng bách đại đa số tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong thời kỳ thử thách, uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực không thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng. Điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là “đa số chịu lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần giải quyết cần phải giải quyết của cộng đồng”. Và có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới “điều hoà và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết liệt đang đợi chờ.” (CĐVN, tr. 20)

Cần nhấn mạnh ở đây rằng sự đa số chịu lãnh đạo cũng phải ý thức vấn đề của công đồng rất quan trọng vì như vậy nó mở rộng địa bàn xoay xở của thiểu số lãnh đạo cho họ tránh được nhiều lỗi lầm chiến thuật do sự tranh đấu gay go gây ra. Nhờ đó mà sự phối hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ, và của các quyết định chiến thuật không mất hữu hiệu.

Qua những điều vừa trinh bày ở trên, ta thấy Tùng Phong coi vấn đề lãnh đạo là chính yếu, và, thực ra, Chính Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những người “lãnh đạo xứng danh”. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cọng Hoà I, mà ngay cả Việt Nam: nó có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn hiện đại hoá.
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng, đối với người lãnh đạo “xứng danh”, các vấn đề tổ chức và giáo dục quần chúng cũng rất hệ trong. Nó cũng được Tùng Phong soi sáng, nhưng ta không thể bàn đến trong khung khổ của bài này.

Vấn đề then chốt kế tiếp cần được soi sáng, sau khi đã được thấy rõ vấn đề chính của Việt Nam, lối tiếp cận hữu hiệu, và một giải pháp thích nghi để giải quyết vấn đề, là vấn đề lựa chọn dụng cụ để thực hiện giải pháp đó: vấn đề “khung cảnh chính trị.”

VI

Vấn đề “khung cảnh chính trị” là vấn đề tìm cho Việt Nam “một chính thể thích nghi cho Dân Tộc”. Chính thể đó “không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được quy định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của Dân Tộc….” Đặt vấn đề như vây là xét vấn đề phát triển từ góc đô địa lý chính trị và văn hoá, một lối tiếp cận vấn đề phát triển mới và độc đáo.

Một điều độc đáo và mới nữa là trong sự tìm một con đuờng thích nghi cho sự phát triển Việt Nam, Tùng Phong chú tâm vào nguy cơ Việt Nam bị xâm lăng, và đặc biệt nguy cơ bị lệ thuộc Trung Hoa. Trong sự cứu xét kỹ vấn đề này ông đã đưa ra những cảnh báo có tính cách tiên tri, vì tuy đưa ra cách đây 50 năm, ngày nay nó đang xảy ra ngay dưới mắt chúng ta.

Tùng Phong đặt sự phân tách vấn đề trên hai dữ kiện:
    1. hoàn cảnh địa dư lịch sử của Việt Nam, và
    2. tình trạng nội bộ của Việt Nam.
Ngay trong trang mở đầu của tác phẩm, ông đã đặt vấn đề như sau:

“Việt Nam là một nước nhỏ – về dân số, về lãnh thổ, về kinh tế kém phát triển, về phần đóng góp vào văn minh nhân loại. Cho nên lúc nào cũng bị các nước lớn chi phối, lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của ngoại xâm, và “và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam”. (CĐVN, tr. 13) Ở một đoạn dưới Tùng Phong cảnh báo:

“bao giờ yếu tố đó chưa thay đổi thì họa xâm lăng vẫn còn”.(CĐVN, tr. 236).
Nói đến “địa dư” là nói đến sự kiện Việt Nam nằm sát biên giới Trung Hoa. Nói đến “tình trạng nội bộ của chúng ta” là nói đến tình trạng Bắc Việt đã chọn con đường Cộng Sản, nghĩa là chế độ Độc tài Đảng trị như Trung Hoa.

Phương pháp Độc tài Đảng trị là một phương pháp hấp dẫn đối với nhiều người lãnh đạo khi có một chương trình vĩ đại cần được thực hiện trong một thời gian ngắn vì nó dưạ trên căn bản chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia đình, xã hội, tôn giáo và văn hoá, và thay vào đó bằng những liên hệ duy nhứt với một Đảng chính trị duy nhứt nắm chính quyền. Nó biến mỗi cá nhân thành ra một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng cũng dễ xử dụng trong tay người lãnh đạo. (CĐVN, tr. 302-304)

Nhưng, về phần miền Nam thì Tùng Phong quả quyết: nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng “chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt” (CĐVN, tr.244-245).

Lý do của thái độ dứt khoát trên đây là một chế độ Độc tài Đảng trị không thể đưa đến một trạng thái điều hoà mới trong đó tiêu chuẩn mới sống chung với tiêu chuẩn cũ, “vì [nó] phủ nhận quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó tiêu diệt trạng thái thăng bằng đồng tiến căn bản trong một cộng đồng, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng biến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp sáng tạo. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hoá trong tương lai của cộng đồng không bảo đảm” (CĐVN, tr. 305).

Không có một quốc gia Tây phương nào thực hiện phát triển bằng Độc tài Đảng trị. Ngay cả Nga Sô cũng phải từ bỏ chế độ đó và trở về với những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của nhân loại. Bài học của Nga Sô chứng minh rằng phương pháp Độc tài Đảng trị Cộng Sản không thế nào bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển Dân Tộc toàn diện. Nó đòi hỏi phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn, và đả phá tận nền tảng Mác-Lê. Lãnh đạo Nga Sô không muốn vậy, nhưng “thực tế lịch sử đã dồn họ vào cái thế không làm sao không thay đổi được”. Điều nhận xét nay được đưa ra năm 1960, 40 năm trước khi khối cộng sản tan rã, và Liên Bang Nga Sô và Đảng Cộng Sản Liên Sô bị giải thể….

Trong bối cảnh trên đây, câu hỏi được đặt ra là: sau khi độc lập đã khai phục, Dân Tộc chuyển qua giai đoạn phát triển, đường lối Cộng Sản còn thích hợp hay không? Giải đáp cho câu hỏi này liên quan đến sự bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam.

Về phía Trung Hoa, Tùng Phong nhận xét:

“Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hoà thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất” (CĐVN, tr. 235)

Tùng Phong nhắc lại rằng trong 900 năm (939-1840) Trung Hoa đã bẩy lần toan chiếm Việt Nam.

“Một hành đông liên tục như vậy nhứt định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa. Đã như vậy, ngay từ bây giờ [1960], ý định của Trung Hoa vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần…” (CĐCV, tr. 235)

Thế còn dữ kiện Trung Cộng ủng hộ viện trợ cho Việt Nam, và đặc biệt đã giúp Việt Nam thắng trong trận Điện Biên Phủ? Tùng Phong giải thích: “Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt vì, trong hoàn cảnh phát triển nghiêm khắc của họ, họ phải nỗ lực vận động một mặt trận đồng minh thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình phát triển của họ. Vả lại ta phải tự hỏi: họ đã gíúp khí giới kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì họ thân Việt Nam hay vì họ bài Mỹ, và khi viện trợ như vậy họ coi Việt Nam là một đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp gần được gồm thâu vào lãnh thổ của họ”?( – nt–)

Với cuộc phát triển đang thực hiện “nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con đường ra biển “hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa”. Viện trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con đường ra biển ‘khi thời cơ đến” (CĐCN, tr.29). Cho nên “Đối với Dân Tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp” (CĐVN, tr. 286)..

Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960. Ngày nay, 50 năm sau, trong bối cảnh Trung Hoa cưỡng chiếm các đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hải phận Vịnh Bắc Việt, v.v…, nó nói lên sự sáng suốt của những người lãnh đạo Cọng Hoà I, và sự thất thiệt lớn lao cho xứ sở do sự mất những người lãnh đạo này do những biến cố năm 1963 gây nên.

VII

Những điều vừa trình bày trên đây cho phép trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: ngày nay, đường lối Cộng Sản còn thích hợp không? Giải đáp là: Không. Không những đúng cho thời gian 1960, mà hiện nay, 2009, lại còn đúng hơn nữa. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu cho thật rõ: tại sao, như Tùng Phong giải thích dưới đây.

Chủ trương Cộng Sản chẳng những không giải quyết được vấn đề của Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này [1960] của cộng đồng, mà lại “sẽ đưa Dân Tộc vào một con đường đen tối cho nhiều thế hệ tương lai” (CĐVN, tr.27) và “sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc” (CĐVN, tr. 290).

Tùng Phong nhận xét: mối liên hệ giữa Cộng Sản Việt Nam với Trung Quốc làm “tái hiện dũng mãnh”, sau một trăm năm vắng mặt, “ký ức thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta”, và cảnh báo:

“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà còn đe dọa sự tồn tại của Dân Tộc…”

“Sở dĩ ngày nay [1960], sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì sự thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian” (CĐVN, tr. 301).

Ngày nay, năm 2009, những cảnh báo trên đây không còn là cảnh báo nữa, mà đã thành hiện thực: sự thôn tính Nam Việt bởi Bắc Việt đã mở đường cho Trung Quốc thôn tính toàn Việt Nam.

Tùng Phong viết: “Các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức được nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục” vì “những người lãnh đạo này đang còn say mê thuyết Cộng Sản và đương nhiên đưa nó lên hàng một chân lý” trong khi Nga Sô và Trung Cộng chỉ coi nó là một phương tiện. Đưa một phương tiện của người lên làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bực đối với các lãnh tụ cộng sản quốc tế, “và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức cho người sai khiến”. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc “lý thuyết được để lên trên quyền lợi Dân Tộc” (CĐVN, tr. 290).

Vì sự lệ thuộc về lý thuyết, các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã hy sinh quyền lợi Dân Tộc Việt Nam cho quyền lợi của Dân Tộc Trung Hoa. Nếu đặt quyền lợi của Dân Tộc trên hết, “thì không có lý do gì để binh vực sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng” (CĐVN, tr. 338).

Tùng Phong nói: ”sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc”. (CĐVN, tr. 290) Sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực Trung Cộng vào trường hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những phương tiện như vậy, là “làm sống lại tâm lý thuộc quốc gần như đã chết trong thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước “Trung Hoa vĩ đại”, lúc nào cũng xem Việt Nam là “một Trung Hoa con con” (CĐVN, tr. 342). Nếu Trung Hoa diễn tuồng trên sân khấu 100 m2, Việt Nam cũng phải diễn cùng một tấn tuồng trên 1 m2. “Ngày nay, vì nước Tàu thi hành phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn, thì Bắc Việt cũng phải thi hành phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ” (- nt -)

Sự quy phục thuyết Cộng Sản “sẽ đương nhiên biến sự đe doạ thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam thành thực tế…”; các nhà lãnh đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp Độc tài Đảng trị ở Việt Nam “sẽ đương nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam” vì phương pháp đó “sẽ suy nhược hoá sức đề kháng của Dân Tộc đối với kẻ xâm lăng” (CĐVN, tr. 373).

“Trong tình thế chính trị chúng ta được mục kích, sự quy phục thuyết Cộng Sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa…” (CĐVN, tr. 374).

“Sự quy phục lý thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát triển Dân Tộc chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển của Trung Hoa… Như vậy có nghĩa là “chúng ta tự ý bỏ công cuộc phát triển của chúng ta” ( – nt – )

Sự lệ thuộc trên đây là một lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với văn hoá Tàu. Từ ngày lập quốc, cách đây hơn một ngàn năm, sự chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống của Dân Tộc.

Tâm lý này xuất phát từ hai sự kiện: tự ty mặc cảm đối với “Trung Hoa vĩ đại”, và sự lệ thuộc của ta đối với văn hoá Tàu. Những lời ca tụng “Trung Hoa vĩ đại” của miền Bắc, những điệu âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ nữ hoà bình, và những y phục theo Tàu đều là “những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hoá càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng” bởi vì “các nhà lãnh đạo miền Bắc đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng” (CĐVN, tr. 375).

Mà cũng vì lệ thuộc chủ nghĩa Cọng Sản mà cuộc chiến đấu dành độc lập của chúng ta tiêu hao bao sinh lực Dân Tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng từ hai mươi năm nay. (CĐVN, tr. 376). Từ mười năm nay [1954] Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu đáng kể, trong khi các thực hiện của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại. Bao nhiêu sinh lực của Dân Tộc đã bị phí phạm.

Tùng Phong nhận xét rằng: “Chưa có một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức những điều kiện trên. Thư lại chính trị miền Bắc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ” (CĐVN, tr.287). Và cũng vì các lý do trên đây, Tùng Phong nói, “chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc, và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục” (CĐVN, tr. 217).

Những nhận xét và cảnh báo trên đây là những nhận xét và cảnh báo thốt ra năm 1960. Những gì xảy ra từ 1975 chứng tỏ rằng tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn thêm, và lại còn đen tối hơn là Tùng Phong đã dự đoán. Ngày nay, 2009, Trung Hoa không những đe dọa sự tồn tại của Việt Nam, mà đang thực sự thôn tính Việt Nam. Nhân danh xã hội chủ nghĩa và cách mạng thế giới Cộng Sản Trung Hoa đả cỡi lưng Cộng Sản Việt Nam bành trướng ách thống trị của Trung Hoa qua vĩ tuyến 17, bao luôn Cao Nguyên Nam Phần, xuống tận Cà Mau.

Năm 1960, Tùng Phong còn hy vọng rằng “sự tồn tại miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là bảo đảm cho cơ hội phát triển của chúng ta, và vừa là một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…; sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của Dân Tộc.” (CĐVN, tr. 301-302).

Không may cho Dân Tộc Việt Nam, hy vọng lớn trên đây đã không thành. Cuộc đảo chánh tháng 11, năm 1963, và những sự xáo trộn nó gây ra, tạo ra một tình trạng miền Nam vô chính phủ, vô lãnh đạo, sinh lực sút giảm; đồng thời những xáo trộn do những lực lượng phản chiến Hoa Kỳ áp lực chính phủ Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam, tạo ra một tình trạng hỗn loạn, suy sụp, tạo điều kiện cho Cộng Sản chiến thắng và thôn tính miền Nam. Đặc biệt là lúc đó, họ càng tin là họ đã đúng đường. Nhưng, ngày nay, sau những gì đã xảy ra từ lúc Cộng Sản xâm chiếm miến Nam, càng ngày càng rõ rằng những gì Tùng Phong nói lên trên đây trong Chính Đề Việt Nam là đúng: sự mất còn của miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc.

Điều vừa nêu lên giúp làm sáng tỏ một vấn đề đã làm dư luận bàn tán nhiều năm 1963, và trong thờì gian qua, vẫn còn được nhiều người đề cập đến. Năm 1963 có những tin đồn rằng ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) liên lạc với Cọng Sản. Điều này nay đã được những người thân cận xác nhận. Nhưng điều quan trọng nhất – để làm gì – thì ngoài ông Nhu ra, không ai biết ông Nhu và những người bên kia bàn gì với nhau. Nay ông Nhu đã mất, điều này vẩn chưa được soi sáng vì không có, và không còn nhân chứng, trừ anh Cao Xuân Vỹ; mà chính anh Cao Xuân Vỹ cũng không được biết.

Nay, chỉ còn tôi là người nhân chứng duy nhứt.

Nhưng tôi chỉ làm nhân chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, (xin xem hình kèm) và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây:
    1. Ông đã tiếp Trần Độ ngay “trong phòng này”, văn phòng của ông, nơi mà ông đang tiếp các ký giả,
    2. Trần Độ có hỏi ông: “Nếu chúng tôi buông súng thì Việt Nam sẽ thế nào?”
Như vậy nghĩa là:
    1. Ông Nhu đã có tiếp xúc với phía Cộng Sản;
    2. Ông Nhu đã có đề cập đến vấn đề phía Cộng Sản ngưng chiến.
Với những lý luận gì? Nay Chính Đề Việt Nam – ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962 – cho phép ta nghĩ rằng Ông Nhu đã nói với phía bên kia như sau:

1. Chuyên chế Độc tài Đảng trị không thể chấp nhận được, và khư khư ôm lấy thuyết Cộng Sản, như các nhà lãnh đạo miền Bắc đang làm, là sai, vì nó không thich nghi với hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và không giải quyết được vấn đề phát triển/hiện đại hoá của Dân Tôc Việt Nam được.

2 Áp dụng thuyết Cộng Sản là thần phục Trung Hoa, tái lập sự lệ thuôc của Dân Tộc Việt Nam đối với Trung Hoa như dưới các triều xưa, và tạo điều kiện cho Trung Hoa xâm chiếm Việt Nam.

3. Sự tồn tại của miền Nam là một lối thoát cho lãnh đạo miền Bắc khỏi mang tiếng là đã hy sinh quyền lợi của Dân Tôc Việt Nam, và phục vụ quyền lợi Trung Hoa.

Như ta đã thấy ở đoạn trên, Ông Nhu than phiền rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc đã mù quáng không chịu bỏ thuyết Cộng Sản, vẫn cho đó là chân lý, nhất quyết “trụ” với giải pháp Độc tài Đảng trị, và quy phục Trung Cộng.

Đó là năm 1962. Bây giờ, năm 2009, tình trạng lại trầm trọng và khẩn trương hơn. Và không biết bao giờ lại mới có cơ hội, và một sự lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển để giải quyết vấn đề đặt ra cho Dân Tộc Việt Nam từ một ngàn năm: “cởi bỏ cho Dân Tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa”, như Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã làm. (CĐVN, tr. 342)

Dù sao, ngày nay, với Chính Đề Việt Nam, lối tiếp cận và giải pháp đã có; ngoài hai điều kiện vừa nêu trên, chỉ cần một điều kiện căn bản hơn cả, mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc tác phẩm. Đó là:

“Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay, và trong trình độ tiến hoá của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí Dân Tộc”. (CĐVN, tr. 503)

Và Tùng Phong kết luận với một lời nhắc và hai lời kêu gọi.

Lời nhắc đề cập đến một thực tế mà ta không thể phủ nhận được. Đó là dưới áp lực của nhân khẩu, Trung Hoa phải bành trướng. Sự bành trướng này đã mở màn. “Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn ảnh đó cũng đủ làm cho chúng ta khủng khiếp.”
Và hai lời kêu gọi, một lời hướng về miền Nam, và một lời hướng về miền Bắc:

1. “công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc không lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng Dân Tộc Việt Nam bằng trong lúc này hết”
2. “chúng ta mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hoá của Dân Tộc, không nên tiếp tục sự trụ-đóng vào phương tiện Cộng Sản nữa”. (CĐVN, tr. 505-506)

Ngày nay, miền Nam không còn nữa, mà Tùng Phong cũng không còn nữa, nhưng lời nhắc và những lời kêu gọi trên lại còn thích hợp hơn lúc nào hết.

Viết cho Đặc San
Vào dịp Lễ Tưởng Niệm Tống Thống Ngô Đình Diệm
Tháng 11, năm 2009

Phụ bản Chính Đề Việt Nam:
Độc giả nào muốn có toàn bộ tác phẩm để đọc,
Xin liên lạc với Anh Đỗ Như Điện
405 Ranger Road, Fallbrook, CA 92028-8482
E-Mail: donhudien@yahoo. com
ĐT: 858-337-7049

Tuesday, November 3, 2009

Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm



Suy Tôn Ngô Tổng Thống

Ai bao năm từng in gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng
Bài phong kiến bóc lột
Diệt thực dân đang rắt gieo tàn phá

Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người
Thề đồng tâm xây đắp cho ngày mai

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống
Chung đắp xây nền thống nhất sơn hà




Nghi vấn liên quan đến cuốn video cảnh sát đánh một du sinh Việt nam - Trương Thanh Long

Trương Thanh Long

Ngày 25 tháng 10-2009 báo SJMN đăng tin Cảnh Sát San Jose sử dụng bạo lực quá mức đối với sinh viên Phương Hồ. Bài đăng trang nhất với sự mô tả và phân tích các hình ảnh và âm thanh trên cuốn video mà luật sư Nguyễn Hoàng Duyên tình cờ mua được (qua sự phát giác của một sinh viên Ðô Nguyễn). Cuốn video được phổ biến rộng rãi trên internet đã gây ra nhiều phản ứng phẫn, nộ, ai oán trong chốn dân gian đối với hành động sử dụng bạo lực với nghi can Phương Hồ.

Sự biến này xẩy ra đêm 03 tháng 9-2009, đã được ghi vào video điện thoại, một luật sư gốc Việt đã mua được, không biết từ lúc nào, nhưng mãi 53 ngày sau mới nhờ báo San Jose Mercury công bố.

San Jose Mercury hăng say, đã thuê sáu chuyên viên để phân tích cuốn video, nhằm vạch trần sự sử dụng bạo lực của Cảnh Sát San Jose.

Bà chủ nhiệm tuần báo Việt ngữ “Việt Tribune” đã “khóc thảm thiết” khi phỏng vấn Phương Hồ với bài “Vết thương người con, giọt lệ bà mẹ” đăng bên cạnh bài “Hà Nội Phản Ứng” mục đích chính là bi thảm hóa vụ sinh viên Hồ Quang Phương, sau khi gây gỗ và xô xát với một bạn cùng phòng trong bữa ăn tối, đã bị bạn cùng phòng gọi cảnh sát đến can thiệp. Theo tường thuật của các bạn cùng phòng lúc xẩy ra xô xát, thì Hồ Quang Phương đã cầm con dao cắt “steak” lên và nói: “Ở Việt Nam tao sẽ giết mày vì việc này” (sinh viên Suftin đã vấy xà phòng vào miếng thịt của Hồ Phương).

Những “vết thương của người con” nhỏ 20 tuổi, cao 6 feet, nặng 220 poundd được báo phóng lớn lên trông thật “đau lòng bà mẹ” và cảnh sát quả là tàn bạo. “Người con” lại bị giam một đêm sáng hôm sau được thả, phải đi bộ về nhà mất hai tiếng đồng hồ, nên đến lớp học môn tài chánh bị trễ mất 30 phút (theo báo SJMN).

Một đài phát thanh cứ lải nhải đặt vấn đề tại sao cộng đồng San Jose không biểu tình? Ðài này tưởng làm như thế là có thể khích động người khác làm theo mưu đồ của mình, nào ngờ đồng hương Việt Nam tại San Jose ai cũng biết "thóp" của chủ đài này nên coi như “nothing”.

Ngoài ra, anh du học sinh này đã có một luật sư đại diện, và cả chính phủ Hà Nội can thiệp, hai tờ báo hỗ trợ, một “bà mẹ hải ngoại” đau lòng, thì cần gì đến ai nữa!

Cộng đồng Việt Nam Bắc Cali chỉ nhân vụ bạo lực này mà ra thông cáo nhắc lại vụ Cảnh Sát và chính quyền thành phố San Jose không minh bạch trong vụ cảnh sát bắn chết thanh niên bệnh tâm thần Daniel Phạm và đánh đập thanh niên Nguyễn Dương gẫy cánh tay, đòi hỏi công lý và sự an toàn cho mọi cư dân Thành Phố khi cần gọi cảnh sát đến giúp đỡ.

Chuyện đâu còn có đó. Cảnh Sát Trưởng San Jose đã nhận lời yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Tiên tổ chức một cuộc gặp gỡ cư dân và báo chí để trình bầy về vụ Daniel Phạm.

Thế nhưng, đối với vụ Hồ Quang Phương, nhiều lời bàn ra tán vào tại các mục thảo luận của BBC, VOA vân vân trên internet nội dung gồm một số nghi vấn như sau đây, xin nêu ra để quý đồng hương, quý thức giả, quý luật gia cùng chia sẻ:

1. Có người nghi rằng: vị luật gia sở hữu chủ của cuốn video “tố cáo sự bạo hành của cảnh sát San Jose” đã cùng với một tờ báo lớn đã đem cuốn video ấy đến “black mail” ố làm “chantage”, mặc cả với Sở cảnh sát để “thu xếp” từ lúc mới mua được, nhưng chuyện “deal” không thành, nên mới tung lên báo chí truyền hình để đánh động dư luận, uy hiếp tinh thần, nâng vụ Hồ Phương lên tầm “Rodney King”. Sở dĩ có mối nghi ngờ này là vì vụ hành hung của cảnh sát đã xẩy ra gần hai tháng, nay mới đem ra tố cáo và nộp đơn kiện. Trong thời gian 53 ngày đêm trôi qua không nghe ai lên tiếng gì cả, kể cả Lãnh sự Cộng sản Lê Sĩ Hùng tại San Francisco.

2. Có người nghi rằng sở dĩ phía Cảnh Sát không sợ sự tố cáo từ cuốn video mà luật sư Nguyễn Hoàng Duyên và báo Mercury đưa ra, là vì cảnh sát đang nắm cái cán chứ không phải cái lưỡi của con dao kiện tụng. Biết đâu, cảnh sát đã mua được phần đầu của cuốn video gồm hình ảnh và âm thanh cho thấy sự chống cự của nghi can, cho thấy nghi can “nhập gia mà không tùy tục”, cứ quen thói hành động như ở tại nhà mình. Sở dĩ có sự nghi ngờ này là vì cuốn video mà luật sư mua được chỉ có phần sau, không có phần trước. Biết đâu, người ta đã bán cuốn video cho cả hai phía theo lợi ích của mỗi bên. Chẳng hạn, phần trước bán cho cảnh sát, phần sau bán cho luật sư để luật sư tự nguyện đứng ra nộp đơn kiện vì thấy chắc ăn một trăm phần trăm. (Theo lời của luật sư thì sinh viên du học Mỹ Hồ Phương gia đình dân thường, nghèo lắm, bằng chứng là anh ta đã “share phòng với người khác”. Nếu giầu, chắc anh ta đã thuê một căn nhà riêng.)

3. Nghi vấn thứ ba: Nếu luật sư của Hồ Phương thấy đã chắc ăn, thì cần gì phải gây náo động dư luận quần chúng để gây “sức ép” với cảnh sát? Chắc luật sư phải biết rõ rằng Tòa xử theo luật chứ không xử theo áp lực của quần chúng, càng không xử vì nước mắt bà mẹ hải ngoại ứa ra khi phỏng vấn “người con nhỏ dại” mà cảnh sát San Jose nỡ ra tay đánh đập.

“Hà Nội lên tiếng” chắc là cảnh sát San Jose “khốn đốn” tới nơi rồi! Không khéo bị cắt đứt thương mãi chứ không phải chơi đâu. Không biết Tổng Lãnh sự Lê Sĩ Hùng, Ðại sứ Lê Công Phụng bận du hí ở đâu khi “sự cố” Hồ Phương bị cảnh sát Mỹ đánh xẩy ra mà không can thiệp, bênh vực bảo vệ công dân Cộng Hòa Xui Hết Chỗ Nói, làm cho bà phát ngôn Bộ Ngoại Giao từ Hà Nội phải chõ mõm qua Mỹ? Chắc phải kiểm điểm gắt gao hai “đồng chí Tổng Lãnh Sự và Ðại Sứ tại Mỹ” chứ không thể làm ngơ. Nhất là tại sao công dân bị đánh từ đầu tháng 9-2009 mà đến cuối tháng 10-2009 mà không can thiệp, cứ ngồi chờ lệnh Bộ Ngoại Giao là cớ làm sao?

Thế gian còn nhiều điều khó hiểu lắm. Vụ Hồ Phương cũng lắm chuyện nghi ngờ, chỉ chờ hạ hồi phân giải trước tòa án Mỹ. Luật của Mỹ “nghi can hoàn toàn vô tội cho đến khi tòa tuyên án”, làm luật sư hơn ai hết phải hiểu rõ vấn đề này, huênh hoang kết tội trên báo trên đài có ngày mang họa.

Chuyện đâu còn có đó. Nên tin là Trời Có Mắt. Oan hồn Daniel Phạm chắc phải linh thiêng để hỗ trợ cho cộng đồng đòi công lý và sự an toàn cho mọi cư dân. Các đầu óc bệnh hoạn và đen tối hãy chấm dứt những luận điệu xuyên tạc, những đánh phá linh tinh, để cho cư dân thành phố được yên mà lo nhiều công việc khác. Trước mắt là cuộc biểu tình chống cộng tại SF và quỹ Pháp Lý cho vụ Brown Act.

Trương Thanh Long


Hồ Phương nói gì ? - Lê Duy Hoàng

Lê Duy Hoàng

Khi Mercurynews. com tung ra 1 loạt những bài viết và đoạn phim về việc cảnh sát San Joe đánh đập Phuong Ho, 1 sinh viên ban Toán của đại học San Joe State University (SJSU), đến từ Vietnam , thì gần như cả SJ xôn xao.

Có 1 câu hỏi qua email chuyền quanh mà không biết tại vì người hỏi không có điều kiện đọc tin tức hay là cố tình hỏi để buộc người được hỏi phải nghĩ về câu trả lời.

Câu hỏi là cậu sinh viên ấy đã nói gì và làm gì mà bị CS đánh đập thế ?

Xem trên net: http://www.mercuryn ews.com/top-stories/ci_13646146

http://www.mercurynews.com/top-stories/ci_13635707

Ta có thể đọc nguyên văn như sau: ... Ho had argued with a roomate over soap being slopped onto a steak. Ho pick up a steak knife and told the roomate that in Vietnam “I would kill you” over that ...

Tạm dịch: Ho đã có 1 cãi vã với 1 bạn cùng phòng về việc bị xà bông nhiễu trên miếng thịt /steak. Ho đã cầm con dao ăn lên và bảo người bạn cùng phòng ấy là ở Viet nam mà như vậy là tôi (tao) đã giết anh (mày) rồi.

Xem ra lúc đó cậu sinh viên Phuong Ho vẫn còn biết là ở Hoa Kỳ này khác ở Việt Nam. Ở Hoa Kỳ không được giết người còn ở Vietnam thì giết người được. Ý niệm đó phải là đã ăn vào tim vào óc thì trong cơn nguy cấp mới còn nhớ được như vậy. Giết người mà không bị xử tử hay tù tội gì mới giám làm. Giết người để bị hình phạt như ở Hoa Kỳ này thì cậu ta không giám.

Cậu ta-Phuong Ho-thuộc tầng lớp, đảng phái nào ở Vietnam mà mới có 20 tuổi đã hở tí vung dao lên. Quen có ô dù che chở, quen có chống lưng nên quen nổi nóng dễ dàng với chuyện cỏn con, và quen thói đàn áp dọa nạt người khác nên cậu ta mới xử sự kiểu anh chị dao búa như thế. Dù là cậu Phuong Ho cũng còn biết mình đang ở Hoa Kỳ, nhưng trót quen thói nên vẫn cứ vung dao áp đảo đối phương cái đã. Đứa con trai 20 tuổi trong nếp sống nhân ái của 1 gia đình biết tôn trọng nhân quyền và pháp luật, trong 1 gia đình có đạo đức, có giáo dục, bình thường thôi, không phải thứ giáo dục đạo đức cách mạng XHCN mà Phương Ho đã thấm nhuần, đứa con trai trong gia đình đó của bạn liệu có động tí là dùng dao giải quyết vấn đề không ?

Ở Vietnam hình như cũng có cái gọi là luật pháp mà … hay là chỉ toàn luật rừng áp chế thường dân thấp cổ bé miệng ? còn những người ngồi trên luật pháp rừng ấy thì có quyền giết người ??? Và giết người chỉ với 1 lý do rất là nhỏ nhặt: It xà bông nhiễu trên miếng thịt. Chỉ có thế thôi mà có thể là lý do để giết người hay chí ít cũng đủ làm ta cầm ngay con dao lên và xì ra là: May cho chú mày là đang ở Mỹ đó nghe, thử ở Vietnam, địa bàn của ta mà xem, chỉ như vầy đủ để ta giết chú mày rồi.

Câu nói của Phương Ho, cậu SV mơi 20 tuổi từ Saigon / Vietnam qua Hoa Kỳ du học đã xác nhận 1 điều: Ở Vietnam không có pháp luật nghiêm minh và nhân quyền không được tôn trọng như ở Hoa Kỳ này.

Vậy thì:

- Với một người hiếu chiến và có khả năng bạo động đến từ 1 nước không có tôn trọng nhân quyền như Phuong Ho, chúng ta có nên chỉ can thiệp đúng mức, và hãy để cậu ta được giáo dục nếp sống văn hoá, thượng tôn luật pháp, và tôn trọng nhân quyền như chúng ta không ? Để cậu ta biết thế nào là lễ độ, biết sống nhân hoà, biết tôn trọng người khác và nhất là biết tuân thủ luật pháp hầu sau này nếu không tìm cách ở lại đất Hoa Kỳ tự do này mà về nước thì sẽ truyền lại bài học đó cho đám con ông cháu cha có ô dù che chở sấc sược, hung hăng và vô nhân ở Vietnam.

- Với sự kiện chúng ta không có bằng chứng cảnh sát bạo hành trái phép nhưng tất cả mọi người trên thế giới đều có thể biết chắc Phuong Ho đã vung dao lên đe dọa người khác, vậy thì chúng ta có nên phản đối sự vi phạm luật pháp mà chúng ta chưa có bằng cớ để bênh vực sự sai luật đã quá rõ ràng không ?

- Với 1 sư việc mà chúng ta không chứng kiến từ đầu để biết rõ ngọn ngành hầu phán đoán chính xác, chúng ta có nên can thiệp quá sâu đậm một khi đã có ít nhất là 1 luật sư và vô số cơ quan truyền thông, báo chí can thiệp khá chuyên môn rồi ? Có nên chen vào dẫm lên chân nhau không cần thiết không ?

Nên biết là ngoài những can thiệp trên, cậu du học sinh Phuong Ho này còn được bộ Ngoại giao nhà nước xhcn lên tiếng bên vực và chỉ thị Cho đại sứ của Họ tại SF săn sóc đặc biệt cho cậu ta rồi. Thiết nghĩ ông chủ tịch CĐVNTNCS bắc Cali đã gởi văn thư lên tiếng như vậy là đủ. Chúng ta chỉ cần theo dõi và phản đối nếu có bạo lực được xử dụng quá đáng. Chúng ta chi cần can thiệp vừa đủ để không là 1 thờ ơ với đồng loại là được rồi.

- Với sự kiện không ai trong chúng ta có mặt tại hiện trường. Chuyện bây giờ là của cảnh sát cưỡng chế 1 kẻ có tiềm năng gây hại cho người khác. Chúng ta không là liên hệ trực tiếp đên vụ việc Vả lại bên Cảnh sát đã yêu cầu cho họ thời giờ làm sáng tỏ sụ việc. Vậy thì chúng ta có nên để yên cho họ làm việc không hay cứ nhất thiết phải xuống đường đòi giơ cao chính nghĩa mà chưa biết chính nghĩa nằm ở đâu không ???

Đừng để Chúng ta trở Thành nhóm biểu Tình chuyên nghiệp, biểu tình không công cho ý đồ của nhóm thân cộng ở SJ và bọn VC ở SF.

Đừng làm loãng đi nhiệt tình tranh đấu cho mục tiêu cận kề của chúng ta là tẩy Chay MEET VIETNAM Ở San Francisco vào 2 ngày 15, 16 tháng 11 tới đây.

Đừng làm lợi cho VC trong vụ MEET VN. Nếu ai trong chúng ta không chủ trương giúp VC bằng cách hãm bớt lòng hăng say của CĐVN phản đối VC trong vụ MEET VN thì hãy suy nghĩ lại về những phương thức hoạt động của nhóm mình, có phù hợp và được sự tiếp tay của đa số người trong CĐ không ?

Mọi người nên thận trọng đừng để bị lôi cuốn vào mục đích có lợi riêng cho 1 nhóm nhỏ. Không phải là đa số CĐ.

- Hãy ngừng ngay việc làm to chuyện Phuong Ho và Cảnh sát.

-Hãy ngừng ngay những toan tính tập trung phô trương sức mạnh CĐ ở SJ mà lo dốc toàn bộ năng lực của CĐ vào việc trước mắt là MEET VIETNAM.

- Đừng để Cho VC thủ lợi bằng cách hiệp thông, hỗ trợ với bọn họ lên án cánh sát Hoa Kỳ như ... < style="font-style: italic;"> “Dư luận Việt Nam rất bất bình khi biết thông tin về sự việc nạy Hành động sử dụng bạo lực và lạm dụng quyền lực của cảnh sát là không thể chấp nhận được và cần phải bị xử lý nghiệm"...> http://www.mofa.gov.vn/vi/ tt_baochi/ pbnfn/ns09102717 0950

Hãy so sánh để thấy sự lên tiếng này là cả 1 chiếu thức đầy dụ ý quỷ quyệt của nhà cầm quyền VNCS .Tại sao bao nhiêu ngư phủ VN đánh cá trong hải phận VN mà bọn Tàu cộng đến rượt đuổi, bắn cướp và bắt nhốt như tội phạm để rồi đòi tiên chuộc mạng mà bọn cầm quyền CS ngậm miệng cầu an đồng loã .Có thấy 1 lần nào lên tiếng phản đối ?.

Cảnh sát Hoa Kỳ phải dùng vũ lực để không chế, không chế, chứ không cố tình đả thương trí mạng kẻ dùng dao đe doạ người khác, so với công an VC hành hung người dân bị nhà nước VNCS cướp đất đi nạp đơn khiếu nại thì thật là chúng ta thay vì biểu tình họp báo chống lại việc cảnh sát SJ dẹp bạo hành chúng ta nên họp báo tố cáo nhà cầm quyền VC đã làm gương cho hậu duệ của chúng như việc chúng đã cướp đất rồi còn hành hung người bị cướp đến thương tích đổ máu phải đi cứu cấp (vụ Tam Toà, http://rfvn. com/?p=6269) nên mới bị có tí xà bông vẩy vào miếng thịt là công dân ưu tú của chế độ CS đã cầm dao lên rồi.

Không khéo thôi chúng ta lại thành bênh vực và đứng về phía kẻ hung hãn con cưng của CS.

Và CĐ bạn thấy 1 hình ảnh quá khích của chúng ta qua việc làm ồn ào không cần thiết ở SJ lúc này.

Bây giờ thì ta có thể nói Phuong Ho là con cưng của CS: Hiếu sát, hành vi rập khuôn, sẵn sàng "... GIẾT, GIÊT ... NGƯỜI" như Tố Hữu, 1 tên CS lớn đã khuyến khích đàn em, nên mới được VC chăm sóc bảo vệ dù là đã làm 1 việc rất là thiếu văn hóa phi đạo đức đáng xấu hổ như vậy trong khi SV trong nước biểu tình ôn hoà phản đối Trung Cộng cướp nước thì bi đàn áp thê thảm.

Với hành vi hung hãn vô văn hóa của Phuong Ho đáng lẽ VC nên đem về, cho 1 bài học để lần sau không tái phạm làm mất thể diện quốc gia thì mới phải, đàng này còn vừa ăn cướp vừa la làng là cảnh sát ( tự dưng ?) bạo hành với con tôi.

Thật đúng là gái ... già mồm.

Lê Duy Hoàng

Bố của tên cộng con Hồ Quang Phương là Hồ Quang Vịnh

Ố là la: bố của tên cộng con Hồ Quang Phương là Hồ Quang Vịnh: cục trưởng cục thuế vụ của tỉnh Quảng Ngãi; là một trong những cơ quan của việt gian csVN hút máu của nhân dân Việtnam.

Tên Hồ Quang Vịnh cũng như các tên CS gộc ... Triết, Dũng, Mạnh .vv.. nhờ tham nhũng hút máu của nhân dân mới có dôla gởi tên cộng con Hồ Quang Phương qua Hoakỳ học hành đễ về tiếp nối nghề của cha nó !!
_______________________

Nov 02, 2009

Cali Today News – Trong thời gian từ lúc vụ du học sinh Hồ Quang Phương bị cảnh sát hành hung được báo chí Hoa Kỳ và cộng đồng đề cập đến ầm ỉ, thì dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại phân hóa, kẻ chống người bênh cho anh Hồ Quang Phương.

Một số người bất mãn với câu nói của anh Phương là “nếu như ở Việt Nam, tao có thể giết mày vì chuyện này.” Từ câu nói này, nhiều người đã cho rằng anh Hồ Quang Phương là con cán bộ cao cấp của chính quyền CSVN, và do vậy mới ăn nói trịch thượng, mang tính chất hăm dọa và kẻ cả như thế, vì có lẽ anh ta đã quen hành xử như thế.

Một số người thì cho rằng dù anh ta là ai đi nữa, con gia đình nào đi nữa, chuyện cảnh sát lạm dụng bạo hành với anh ta là không thể chấp nhận. Cảnh sát đánh anh ta, một người Việt, chứ đâu phải đánh một du học sinh. Và từ lý luận này, một số người cho rằng cần ủng hộ anh Phương, dù anh có là con của ai.

Nhiều người cho rằng nếu họ biết rõ bối cảnh nhân thân của anh Hồ Quang Phương thì chuyện bênh hay không bênh dễ được quyết định hơn, dù rằng một số vị luật sư qua phỏng vấn đã nói rằng chuyện anh là con cái nhà ai không quan trọng, và không liên quan đến chuyện cảnh sát bạo hành anh ta.

Tuy thế, dư luận vẫn cho rằng việc hiểu rõ bối cảnh nhân thân của anh ta sẽ giúp rất nhiều trong chuyện cộng đồng Việt, vốn dĩ là cộng đồng tỵ nạn cộng sản, dễ dàng chọn lựa thái độ phù hợp trong việc có nên bênh anh ta hay không. Nhiều độc giả trên calitoday.com đã bày tỏ suy nghĩ này.

Cuối tuần qua, trong bài viết trên một tờ báo bạn trong vùng, thì người ta có thể hiểu phần nào bối cảnh nhân thân của anh Hồ Quang Phương. Bài báo viết: “… Bố làm nhân viên thuế vụ, mẹ làm kế toán, gia cảnh đủ ăn. Nhà chỉ có 2 cậu con trai, anh lớn 25 tuổi học đại học trong nước. Phương học giỏi nhiều ước vọng nhìn về nước Mỹ như một thần tượng, được cả nhà và cả họ, cùng vun đắp tiền bạc cho em đi du học để mong có một tương lai rạng rỡ hơn…”

Sau khi bài báo nói trên đưa ra những chi tiết về nhân thân của anh Hồ Quang Phương, thì toà soạn Cali Today nhận được một vài email từ một vài độc giả, và những độc giả này cho rằng những điều mà Phương tiết lộ chỉ đúng một phần nhưng chưa đầy đủ, vì theo độc giả này, thân phụ của anh Hồ Quang Phương không phải là “nhân viên thuế vụ” bình thường mà là “cục trưởng cục thuế” của tỉnh Quảng Ngãi, tên là Hồ Quang Vịnh.

Kèm theo thư email, độc giả còn gửi trang web như sau:

Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi. (http://www.quangngai.gov.vn/quangngai/tiengviet/chuyennganh/cucthue/128423/)

Chúng tôi loan tin này với sự dè dặt, vì nguồn tin chưa được phối kiểm và có thể có sự trùng tên.

Hy vọng rằng chính anh Hồ Quang Phương mới có thể tiết lộ đầy đủ và đúng nhất về bối cảnh nhân thân của anh. Tòa soạn hy vọng sẽ được tiếp xúc và phỏng vấn anh Hồ Quang Phương về vấn đề này để rộng đường dư luận.

Nguyễn Dương

Monday, November 2, 2009

Thông cáo của Ban Đại Diện cộng đồng VN Bắc Cali về vụ sinh viên Hồ quang Phương


CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM BẮC CALIFORNIA
2129 South 10th Street, San Jose , CA 95112
Điện thoại: 408- 298 6174
Email: norcalvacom@ yahoo.com

THÔNG CÁO BÁO CHÍ
của Cộng đồng Việt Nam Bắc California.
    Kính thưa: Quý vị đại diện tôn giáo,
    Quý Hội đoàn, Đoàn thể, Quý Anh chị em thanh niên, sinh viên học sinh
    Và toàn thể quý đồng hương VN tỵ nạn cộng sản miền Bắc California

    Kính thưa quý vị,
Ban Đại diện cộng đồng xin trình bày về việc du sinh Việt nam Hồ Quang Phương bị Cảnh sát bắt ngày 3 tháng 9 năm 2009 và được thả ra sau một đêm giam giữ như sau:

- Dựa theo đoạn phim do một nhân chứng thu được mà trang báo điện tử San Jose Mercury News công bố đêm thứ Bảy 24 tháng 10 năm 2009 vừa qua, tạo ra nghi vấn về biện pháp hành sự của những Cảnh sát viên thực hiện vụ bắt giữ này.

- Vì sự việc xẩy ra đã gần 2 tháng mà nay đột nhiên được tung ra rất rộng rãi trên các hệ thống truyền thông địa phương cũng như toàn quốc chứng tỏ có sự can thiệp mạnh mẽ từ phía bộ ngoại CSVN và các tổ hợp luật sư của đương sự.

- Ban đại diện Cộng đồng Việt Nam Bắc California đã gửi văn thư đến Thị Trưởng, Sở Cảnh Sát, Biện lý cuộc yêu cầu mở cuộc điều tra và giải thích về biện pháp hành sự của cảnh sát mỗi khi được gọi đến; để chúng ta yên tâm được bảo vệ an toàn và công bằng trong cuộc sống.

- Ban đại diện cộng đồng đã gặp Cảnh sát trưởng Bob Davis để được nghe trình bày, tuy nhiên chắc chắn Ban đại diện cộng đồng không thể đặt hết những thắc mắc của đồng hương đến ông Cảnh sát trưởng để được giải đáp đầy đủ. Ông Cảnh sát trưởng sẽ có buổi gặp gỡ mời quý vị lãnh đạo các hội đoàn, đoàn thể, các cơ quan truyền thông báo chí Việt ngữ và một số quý vị thân hào nhân sĩ trong cộng đồng để giải thích, giải đáp mọi thắc mắc của quý vị liên quan đến biện pháp hành sự và quyền hạn của cảnh sát mỗi khi can thiệp vào những vụ việc được gọi đến. (Vì số người tham dự có giới hạn, xin quý vị đại diện các Hội đoàn, Đoàn thể liên lạc với Ban Đại diện Cộng đồng để ghi danh. Phiên họp được tổ chức tối Thứ Năm, ngày 5 tháng 11 năm 2009 từ 7:30pm đến 9:00pm).

Ông Cảnh sát trưởng cũng cho biết cuộn tape 911 và các báo cáo lien quan đến vụ án Daniel Phạm sẽ được quyết định trao cho Tổ hợp Luật sư nếu có sự yêu cầu và các nhân chứng ký giấy đồng ý.

Trong khi chờ đợi các văn thư trả lời từ Thành phố San Jose, Văn phòng biện lý và Sở Cảnh sát; Ban Đại diện cộng đồng Việt Nam Bắc California không chủ trương kêu gọi những hình thức biểu tình hay phản đối các cơ quan nói trên.

Ban Đại diện Cộng đồng kêu gọi quý vị luật gia giúp ý kiến về pháp lý và các Hội đoàn, Đoàn thể tiếp tay thực hiện những phương thức đã được thảo luận và quyết định thực hiện.
    San Jose, ngày 31 tháng 10 năm 2009.
    Ban ĐDCĐ/VN Bắc California
    Nguyễn ngọc Tiên
    Chủ Tịch

Sunday, November 1, 2009

Tưởng Nhớ Ngày 02-11-1963 - Kim Hoa

Tưởng Nhớ Ngày 2-11
(Ngày Giỗ TT Ngô Dình Diệm)


Hôm nay 2 tháng 11 năm 2008, dự định trong tôi, ngày Lễ Các Đẳng năm nay là sẽ đi tìm cho được mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để thăm viếng và thắp nhang cho Ông trong ngày Lễ Cầu cho Các Đẳng và cũng là ngày Giỗ 45 năm của Ông.

Nhưng ngay từ sáng đi Lễ Chủ nhật về, thì kế hoạch đã bị vỡ, tôi chọn phương án hai, là đưa người chú từ Miền Trung vào, đi thăm Dinh Độc Lập. Trong lòng tôi tự nhủ: “ Đây cũng là cách tưởng nhớ đến Ông”. Đến chiều thì có thể đi Mộ như dự định.

Chúng tôi bốn người, đến Dinh Độc Lập bằng phương tiện xe buýt. Chú tôi người em chú bác ruột của Ba tôi. Suốt một đời ở mãi một vùng quê xa xôi, nghèo nàn chẳng hiểu Dinh Độc Lập là gì, mọi cái đối với ông thật là mới mẻ, ông cứ nói: “Đi như vậy thật đáng đi”. Ông bám sát cô hướng dẫn viên để nghe, để biết từng căn phòng, từng cách bài trí của các phòng, phòng Khánh tiết, phòng họp Nội Các, Phòng Đại yến, Phong tiếp khách trong nước, phòng tiếp khách nước ngoài, Bàn làm việc của Tổng Thống, phòng trình Quốc thư …

Đi lần này là lần thứ tư, sau nhiều năm không đi, tôi cũng cảm thấy hài lòng vì các cô hướng dẫn viên không còn gọi các Tổng Thống là tên nữa, họ lịch sự và nhẹ nhàng hơn mọi năm, chú tôi luôn miệng khen với con gái tôi: “Nó nói giỏi quá hỉ, mi làm răng nói được rứa, mà đi làm nghề hướng dẫn viên ni ?”
Con gái tôi cười: “Con sẽ tập nói hay và nói nhanh như cô gái ấy”

Hôm nay là ngày Chủ nhật nên khách tham quan có rất nhiều đoàn, nói nhiều thứ tiếng, tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa … Các đoàn đi trùng nhau, nên hướng dẫn viên tự động cắt bớt lịch trình của đoàn Việt Nam, tuy thế Chú tôi cũng vô cùng hài lòng vì đã được mở mang một kiến thức mới, để về quê nhà khoe với các con, các cháu biết thế nào là Dinh Độc Lập ngày xưa, Chú lại vô cùng hài lòng với tấm hình một mình chụp toàn cảnh Dinh mà người thợ chụp hình hiểu ý, cho ông đứng trong tư thế thật oai phong, trước ngôi nhà bề thế mà chỉ có những vị Tổng Thống mới được sinh sống nơi đây.

Ông chăm chú xem từng bức hình từ thời thành lập Dinh đến ngày hôm nay. Phần tôi tách riêng ra, đến bên quyển album đầu tiên lưu lại thời kỳ Tổng Thổng Ngô Đình Diệm, tôi mở hình chân dung Ông ra và thì thầm câu nguyện "Xin Chúa cho linh hồn Tổng Thống Gioan Baotixita được lên chốn nghĩ ngơi…”. Tôi yêu quí Ông vô cùng.

Tôi vẫn còn nhớ, ngày Ông về thăm thành phố Đà Nẵng, nhà tôi đông người lắm, tất cả những đoàn thể ở trên quê đều kéo về nhà tôi nghĩ ngơi chờ giờ đón Tổng Thống, không nhớ đó là năm nào, nhưng tôi được những người ấy cho chui vào hàng ngũ để nhìn xe Tổng Thống đi qua, tuy là còn rất nhỏ nhưng tôi vẫn thuộc những bài ca họ hát để chào đón Ông “Ai bao năm vì sông núi quên thân mình, gương hy sinh ngàn muôn kiếp không hề phai …. Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm, Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, xin Thượng Đế ban phúc lành cho Người …"

Giờ hát lại bài đó, nước mắt tôi rưng rưng ...

Đến năm 1960, Ba tôi bị Việt cộng ám sát, anh chị em tôi trở thành “Quốc Gia Nghĩa Tử”, tôi phải đi xa nhà.

Năm 1963, tôi về lại Đà Nẵng, nhưng lại đi Tu ở Dòng Phao Lô Đà nẵng, năm đó tôi mới 11 tuổi.

Ngày Đảo Chánh 1-11-1963 tôi còn nhớ, trong Tu viện các chị lớn khóc nhiều lắm, ai cũng thương Ông Tổng Thống, lớp chúng tôi là lớp nhỏ nhất, không biết gì, nhưng nghe Ông Tổng Thống bị nạn cũng thương lắm, cũng lấy tay quẹt nước mắt chảy theo với các chi, chúng tôi bàn với nhau cất những đồng xu có in hình Tổng Thống để nhớ đến Ông, để làm kỷ niệm.

Những ngày đó thật kinh hoàng, tuy không được ra khỏi nhà, sống trong bốn bức tường Tu Viện, nhưng chúng tôi cũng biết được Tổng Thống đã bị ám sát vào ngày 2-11 năm ấy. Chúng tôi hát Lễ Qui lăng cho Ông, tất cả nhà Dòng, từ Mẹ Bề Trên người Pháp,… đến lớp nhỏ nhất như tôi đây đều buồn đau, không thiết tha cười đùa với nhau nữa, ngày nào cũng săm se đồng bạc có in hình Tổng Thống mà nhìn, mà nhớ, mà thương Ông.

Cũng trong những ngày đó, nghe rằng có những người trong Đảng Cần Lao vào xin tị nạn trong nhà thờ, đám đông quá khích vào cổng nhà thờ xô đẩy, la hét đòi trả người, các LM nhỏ nhẹ can thiệp, xin đừng làm hại các ông ấy, việc gì cũng còn có luật lệ, tòa án …, họ hứa sẽ không làm gì ông ấy, chỉ giữ ông ấy để chờ xét xử, nhưng ông ta đi ra khỏi nhà thờ chưa được bao xa thì người ta đã đập búa vào đầu ông chết ngay trên đường.

Ông Ngoại tôi nói với tôi một câu mà tôi còn nhớ mãi “Ba mi mà còn sống, cũng bị họ giết y như vậy, họ tìm giết những người trung thành với Ngô Tổng Thống”.

Để khỏa lấp, để xóa đi những gì tốt đẹp Ông đã ra tay làm cho Tổ Quốc, cho dân tộc, họ đã bêu xấu Ông, họ kể tội Ông đủ điều, kể cả những điều Ông không hề vấp phạm. Họ phản bội, dành Công, ham Danh, phần ai nấy phủ lên người Ông Tổng Thống biết bao nhiêu là tội, để người dân đang hoang mang cũng cảm thấy rằng Ông Tổng Thống của mình đã có tội, họ cũng vội vàng lên án Tổng Thống của mình, mà thật sự trong thâm tâm, tận đáy lòng vẫn có điều gì hồ nghi (?)

Lớp người lớn như thế, thì lớp trẻ của chúng tôi làm gì khá hơn được? Thời gian trôi qua, đồng tiền có hình Tổng Thống vẫn còn cất giữ, năm thứ nhất tưởng nhớ Linh hồn Gioan Baotixita, và thưa dần …, mất cả đồng tiền. Đất nước không còn nhắc nhở gì đến Ngài Tổng Thống thân yêu ấy nữa, họ che giấu Ông đến độ chúng tôi không hề biết được Ông cũng còn có một ngôi Mộ, càng ở xa Sài Gòn càng ít thông tin về Ông hơn, rồi thêm bao nhiêu thăng trầm của đất nước, lớp trẻ chúng tôi hầu như quên hết những gì về Ông Tổng Thống, kể cả những Công và cả những Tội …

Hơn ba mươi năm, sau ngày 30-04-1975, chúng tôi được đọc những bài viết về Ngô Tổng Thống trên các mạng internet. Người ta ghi lại tất cả những diễn biến của thời kỳ lãnh đạo Đất Nước của Ngô Tổng Thống, họ mở ra cho lớp trẻ ngày ấy chưa đủ trí khôn của chúng tôi thấy được là:

Họ đã giết đi một vị Lãnh Đạo vĩ đại, có một không hai trên thế giới, yêu Dân, yêu Nước, hơn cả yêu chính bản thân mình của chúng tôi.

Khi những người làm sai, quay đầu nhìn lại. Những người lớn ngày xưa xóa được sự hồ nghi, thì lớp trẻ chúng tôi không còn gì để mất hơn được nữa.

1963 – 1975, mười hai năm sống trong hoang mang, lớn dần lên với súng đạn, với những ngày tháng bất an, nhà nhà xây hầm tránh đạn, tiếng đạn pháo kích trong trường học, trên đường phố, bên hiên nhà, trên sân chợ … thanh niên với lệnh tổng động viên đang chờ trước mắt, thiếu nữ chuẩn bị theo nhau chít trên đầu những vành khăn xô cho người chồng vừa mới cưới … Mười hai năm chuẩn bị cho sự trưởng thành của chúng tôi là thế đấy …

Để rồi vừa qua tuổi 20 chúng tôi lại trở thành những Ngụy quân, Ngụy quyền của Xã hội Chủ nghĩa … Chúng tôi không đủ thời gian để làm gì cho Đất Nước, chưa có thời gian để tìm hiểu Lịch sử đã qua, để tìm đường lối minh chính cho tương lai của mình, thì đã trở thành những thành phần phế thải của XHCN.

Có lẽ lứa tuổi chúng tôi là lứa tuổi chịu nhiều cay nghiệt nhất trên đất nước Việt nam dấu yêu này. Quí vị thử tính lại xem, được bao nhiêu viên Sĩ quan mới ra trường được hưởng chế độ HO của Mỹ ? Có anh sinh viên chế độ cũ nào đang học dở dang, được nhà trường cho hưởng tý quyền lợi nào không ? hay từ từ rời xa trường lớp, để chọn một vùng kinh tế mới nào đó, lấy lao động làm vinh quang, để xin được nhận hai chữ bình yên ? Có những Ngụy quyền nào được hưởng chế độ ưu đãi của chế độ này không ? hay chúng tôi phải mất việc, đuổi về vùng kinh tế mới, hoặc lê la ngoài chợ trời, gian trá, luồn lách, để kiếm những miếng ăn phụ giúp cho gia đình. Hãy nhìn lại đi, nguyên thế hệ của chúng tôi, chẳng nên tích sự gì cả … Thật là buồn!

Hôm nay đã 45 năm ngày Ông mất đi, con không biết phải nói gì với Ông, Ông biết rỏ là thế hệ chúng con chưa làm nên một chuyện gì? lại bị mất tất cả. Nếu họ đừng giết mất Ông, thì thế hệ chúng con không ra nông nổi này, chúng con đau buồn lắm, nhưng biết phải làm sao ? Hằng năm, trước 75 cũng như sau này, con vẫn âm thầm nhớ đến Ông. Con tin những người Công Giáo, và những người chân chính vẫn âm thầm nhớ đến Ông mỗi khi tháng 11 lại về.

Ông sống đã là một người xã thân cho chính nghĩa, bảo vệ non sông, yêu dân như con, bao nhiêu người kính phục Ông. Thì Ông chết, Thiên Chúa vẫn cho Ông được hưởng niềm hạnh phúc là hàng triệu người Công Giáo vẫn phải nhớ đến Ông. Chúa chọn cho Ông ngày Lễ Các Đẳng để ra đi, có nghĩa Chúa bảo mọi người Công Giáo đều phải nhớ đến Ông, đến cái chết của Ông, không một ai có thể quên được Ông, trong ngày cầu cho những người thân yêu đã qua đời, những linh hồn mồ côi trong Luyên tội, thì làm sao quên đi được người Tổng Thống thân yêu đã oan ức ra đi chính ngay trong ngày này?

Con tin chắc rằng Ông đang hưởng hạnh phúc trên Nước Trời. Xin Ông hãy cầu nguyện cho chúng con, những con dân của Ông đang còn lầm than, khốn khó. Xin Ông hãy tha tội cho những người đã hãm hại Ông, mà cứu lấy Dân Tộc Việt Nam chúng con, để Việt Nam chúng con tìm lại được những ngày thanh bình xa xưa,

45 năm miệt mài trong chiến tranh, đánh đấm, dành giựt quyền lợi với nhau, chúng con chỉ còn lại một đất nước nghèo nàn, xấu xa, thiếu nhân cách, thiếu nhân phẩm, sống với nhau trong sự giã dối, lừa bịp, đất nước thì chia năm xẻ bảy, người phân tán đi khắp nơi trên thế giới, chẳng còn lại gì sau ngày Ông mất cho đến nay. Hãy thương chúng con, đàn con cháu vô tội chưa hiểu biết gì, mà phải lãnh nhận một hậu quả thảm khốc như thế này.

Xin hãy cho những người đã từng làm sai lệch Lịch sử, họ còn lương tâm để đính chính lại những sai sót của họ, mà trả lại cho Ông sự trong sáng, tìm lại sự công bình cho Ông, để chúng con không phải trả giá cho sự vô ơn bội nghĩa mà họ đã làm.

Ông ơi! Thời gian không còn bao lâu nữa, chúng con những đứa trẻ bé thơ ngày ấy sẽ chuẩn bị bước vào tuổi “thập cổ lai hy”, gần đất xa trời … Chúng con chỉ ao ước được chứng kiến ngày đất nước đổi thay,con cháu chúng con tìm lại hạnh phúc thanh bình xa xưa, một vị Lãnh Đạo xuất chúng giống như Ông, sẽ xuất hiện để làm lại tất cả, sửa dạy lại tất cả, xây dựng lại tất cả, như Ông đã từng xây dựng đất nước từ con số không trở nên tốt đẹp, mà nhiều cường quốc trên thế giới đã ngã mũ kính chào.

Như thế chúng con mới đành lòng từ giã, bình yên ra đi, về bên kia thế giới với Ông, Ông Tổng Thống vô cùng quý yêu của chúng con ạ.

Sài Gòn, viết vào ngày 2/11/08 Giỗ 45 năm của Ngô Tổng Thống VN

Kim Hoa