Saturday, August 29, 2009

Con muốn làm người bình thường! - Dương Phạm

Dương Phạm

Viết cho BBCVietnamese. com từ London




Nhân đọc loạt bài viết về ‘Tthói háo danh và vĩ cuồng của giới trí thức’ cũng như về một thứ quốc nạn có tên là ‘loạn chức danh, học vị’, tôi xin mạn phép đưa ra đôi ba dòng về ‘chứng nan y’ đang lan rộng không chỉ trong giới trí thức trưởng thành mà còn cả một thế hệ trí thức mầm non của nước nhà.

Cách đây lâu lâu khi còn làm việc ở Việt Nam, tôi được một chị bạn rủ đi mua sắm đồ cho con trai mới vào lớp một. Nhân chuyện ra chuyện vào, chị vui mồm kể đã phải khó nhọc thế nào mới ‘chạy’ được cho con vào một trường điểm có tiếng ở Hà Nội, mà theo lời chị là ‘một ngôi trường không vừa đâu, toàn con cháu người nổi tiếng và các vị to học ở đây’. Chưa hết, chị còn cho biết phải dùng ‘kế’ và tiền thế nào để vào được lớp chuyên, lớp chọn, mặc dù theo tôi biết thì nhà nước đã bỏ chế độ trường chuyên lớp chọn từ khá lâu rồi.

Vào được trường tốt đã khó, để con lọt vào ‘top 10’ học sinh giỏi của lớp mới là việc đau đầu. Tuy là vào lớp một, nhưng chị khoe cháu đã học xong gần hết chương trình học lớp một để vào cái là bứt được lên ngay so với các bạn. ‘Anh ấy là nhà thơ hẳn hoi, bây giờ mà con nó học không ra gì thì chỉ có nước chui xuống đất’, đấy là lời giải thích cho mọi nỗ lực cố gắng với chuyện học hành của đứa con nhỏ của chị.

Thực ra tôi cũng chẳng ngạc nhiên. Chị chỉ là một trong số hàng triệu triệu bà mẹ trẻ có con và muốn con có được những gì tốt nhất. Nhưng thực ra, đó là lý do hết sức hợp lý để che đậy một nguyên nhân khác sâu xa hơn, thói hám danh không những đã ám vào người lớn chúng ta mà bây giờ còn đang len lỏi vào cả những thế hệ thơ bé.

Trẻ con bây giờ làm gì còn cái quyền được đi đá bóng, đánh khăng, chơi búp bê cho đến lúc mệt nhoài rồi lăn ra ngủ? Như một công dân 18 tuổi, quyền và nghĩa vụ của các cháu là phải ‘học, học nữa, học mãi’ (mà một anh bạn tôi đã dám mạn phép nói lái đi: ‘học, học nữa, hộc máu’). Học chính khóa, học thêm, học đàn, học múa, học hát, học vẽ, v.v… mà mục đích của sự học này là để bất cứ khi nào có dịp, bố mẹ sẽ đem con mình ra khoe ngay lập tức.

Học, học nữa, hộc máu!

Khẩu hiệu 'trong trường và gia đình'

Còn nữa, đã học là phải học giỏi, phải ‘top 10’, không có quyền học kém hoặc chán học. Nhưng sức người có hạn, nên bố mẹ lại phải giúp, gia sư chưa đủ thì đã có tiền để ‘chạy’ mong thầy cô thông cảm. Còn trẻ con thì dưới sức ép phải là ‘nhất’ nên cũng xoay xở mọi cách, từ chép bài cho đến quay bài rồi thi hộ. ‘Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome’, thôi thì kiểu gì cũng xong được cho cái chức danh ‘học sinh giỏi’.

Dần dần, tỷ lệ học sinh khá giỏi càng tăng thì tỷ lệ hạnh kiểm và đạo đức tốt càng giảm (đương nhiên là không có con số thống kê cụ thể). Tôi biết nhiều ông bố bà mẹ, vì không muốn bị mang tiếng là con ‘học kém’ với ‘thi trượt’ còn khuyến khích con mang ‘phao’ vào phòng thi cho ‘yên tâm’, hoặc thậm chí thuê người làm luận văn tốt nghiệp giúp. Thế là lại thêm một loạt các dịch vụ ra đời phục vụ cho ngành giáo dục, tạo thêm biết bao công ăn việc làm.

Rồi cơn lốc du học nước ngoài ào đến. Hình như thời nào cũng giống nhau, cứ ‘ở bển’ về là oai. Thế là từ đại gia, doanh nhân, nghệ sĩ, tri thức đều lo để con mình được hưởng một nền giáo dục ‘được cả thế giới công nhận’, bất cần biết sức học của cháu đến đâu. Không học được trong nước thì là do ‘chương trình chưa chuẩn, ra nước ngoài kiểu gì cũng xong.’

Nhưng du học rồi mới thấy được nhiều chuyện dở khóc dở cười. Tôi từng học cùng trường ở Anh với cậu ấm một vị cục trưởng ở Việt Nam. Hai đứa cùng học Thạc sỹ nhưng khác ngành. Đến khi tốt nghiệp, rành rành là cậu ấm này bị đánh trượt do luận văn không đạt yêu cầu và chỉ được cấp một chứng chỉ là Postgraduate Certificate (chứng nhận đã tham gia khóa học này nhưng chưa được tốt nghiệp, khác với Master Degree – bằng Thạc sỹ) nhưng về đến Việt Nam thì gia đình mở cỗ rất to mừng ‘Thạc sỹ về làng’.

Học sinh ngày nay có còn được hồn nhiên?
Chưa kể trong gần 7 năm đại học ở đây (do trượt hai năm), cậu ấm này luôn là khách hàng quen thuộc của bạn tôi do chuyên đặt hàng viết các bài luận hoặc các bài tập về nhà. Bao nhiêu tiền đổ ra cuối cùng chỉ để mua một thứ danh ‘hão’, nhưng lại rất thực trong đời sống xã hội ở Việt Nam.
Cùng thế hệ 8x, tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu tài năng ở lứa tuổi mình vươn lên nhưng cũng không ít những ‘thùng rỗng kêu to’. Tuy nhiên, chính những thế hệ đi trước đã góp phần lớn xây dựng nên tính háo danh của một thế hệ trí thức trẻ. Từ những lời động viên trở thành khen ngợi quá đáng rồi thành tâng bốc mù quáng. Tài năng bé nhưng xé ra danh to.
Xưa, Nguyễn Công Trứ từng nói ‘đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông’; nay, con cháu đều nhất mực học theo ông, nhưng đánh tiếc, chỉ chạy theo ‘danh’ mà không có ‘thực’.

Kết lại bài viết, tôi xin kể lại câu chuyện cười ra nước mắt về đứa con anh bạn tôi. Hôm cháu ngủ gật trên bàn học vì quá mệt, anh bạn tôi ra đánh thức rồi động viên: ‘Con có muốn làm siêu nhân không? Muốn làm siêu nhân thì phải học giỏi nhất, đánh võ giỏi nhất, chơi đàn hay nhất chứ? Không thì làm sao thành siêu nhân?’.

Thằng bé thẫn người ra một lúc rồi bật khóc: ‘Con không muốn làm siêu nhân đâu, con chỉ muốn làm người bình thường thôi’.

Dương Phạm
*****

    Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức
Source: http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7621/index.aspx

Vương Trí Nhàn

Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Lời TS: Trí thức là một thành phần quan trọng, đóng vai trò định hình tư tưởng, dẫn dắt xã hội. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, không phải toàn bộ nhưng ít nhất một bộ phận trong số họ có những nhược điểm cố hữu. Tuần Việt Nam xin giới thiệu một số bài viết của ông về chủ đề này với mục đích tự nhìn lại mình, phản tư để thấu hiểu và thay đổi chính mình.


Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ ... trong giới trí thức vừa được Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn. Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cái căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y“ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.

Bài viết Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị gợi tôi nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.

Nhìn người bằng ... chức danh

Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương ... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì”. (1)

Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng

Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.

Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng (me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới. Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.

Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố, đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

Vương Trí Nhàn

Ghi chú:

(1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11
(2) Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,2000, tr.82-87

*****
    Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị
Đặng Hữu Phúc
Source:
http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu//7317/index.aspx


"Bệnh thành tích, cơ hội, trọng bằng cấp, trọng chức quyền ... đang làm tê liệt trí tuệ Việt Nam. Phải chăng nó là một trong ba loại giặc đang đe doạ sự tồn vong của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã nói, đó là: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm?"

Tôi chỉ là Ashkenazy

Người đứng giữa cầm quyển sách là Ashkenazy - ông không
nhìn vào ống kính.
Tôi xin được bắt đầu bài viết này bằng một câu chuyện có thật xảy ra ở TP Hồ Chí Minh vào năm 1995. Chuyện như sau: Trong một chuyến đi bằng đường hàng không, do trục trặc, nghệ sỹ Piano lớn của thời đại chúng ta là Vladimir Ashkenazy đã phải dừng lại ở TP HCM hai ngày.

Tất nhiên một nghệ sỹ lớn như Ashkenazy khó lòng mà không bị phát hiện ra trong thế giới nhiều thông tin này. Và ông đã được mời tổ chức một buổi hoà nhạc nho nhỏ cho những người hâm mộ. Với sự khiêm tốn vốn có ở những người vĩ đại, ông chỉ muốn biểu diễn ở phòng nhỏ trong Nhạc viện TPHCM và chủ yếu dành cho một công chúng hẹp, trong giới nhà nghề. Việc này tất nhiên được nhạc viện thành phố chú ý ngay và họ muốn biến chuyến thăm bất đắc dĩ này quảng cáo thêm cho uy tín của nhạc viện.

Người lãnh đạo nhạc viện lúc đó là một giáo sư, tiến sỹ, nghệ sỹ nhân dân đã dẫn đầu một nhóm giáo sư, tiến sỹ của nhạc viện TPHCM đón tiếp Ashkenazy.

Trong buổi tiếp, sau khi trân trọng giới thiệu với Ashkenazy từng thành viên của ta với đầy đủ chức danh, học vị, thì việc mà phía ta muốn hỏi ông ta, để đưa vào programe (tờ in chương trình) và giới thiệu khi biểu diễn là: Ashkenazy là gì? Thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư hay là gì gì hơn thế nữa ? Và câu trả lời là: Tôi chỉ là Ashkenazy.

Tưởng khách không hiểu. Chủ lại hỏi lại và gợi ý thêm cho dễ hiểu hơn: chắc một nghệ sỹ lớn như ông thì phải có tham gia giảng dạy, vậy khi đó chức danh và học vị của ông là gì? Câu trả lời vẫn không thay đổi: Tôi chỉ là Ashkenazy.

Ô hay! Lạ cái ông này, cỡ như ông ta ít nhất cũng phải có một chức danh gì chứ? hay ông ta giấu? Và cuộc gặng hỏi vẫn tiếp tục. Tuy vậy, truy mãi, cuối cùng, dù đông người, ta đã phải chịu thua một mình ông, vì câu trả lời vẫn chỉ có thế, dù đã được pha thêm chút khó chịu: Tôi chỉ là Ashkenazy!

Cách giới thiệu một cuộc hoà nhạc ngày nay và cái tên cha sinh mẹ đẻ

Trên thế giới thì hàng trăm năm nay, khi giới thiệu một buổi biểu diễn nhạc chuyên nghiệp (hoặc in trên bìa CD) chỉ đơn giản như sau, ví dụ:

1. Về tác giả: Sonate số 2, giọng Si giáng thứ của F.Chopin.

2. Về biểu diễn: Piano : V.Ashkenazy

Cách đây khoảng trên hai chục năm, ở Việt Nam ta cũng tương tự như vậy. Nhưng bây giờ thì khác xa rồi, thường họ sẽ giới thiệu theo công thức như sau:

1. Về tác giả: Tên tác phẩm, của + Chức danh (giáo sư, phó giáo sư) + học vị (tiến sỹ, thạc sỹ) + Danh hiệu (nghệ sỹ Nhân dân, nghệ sỹ ưu tú. Nhà giáo Nhân dân, nhà giáo ưu tú). + Giải thưởng (giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước) + Chức vụ quản lý (Chủ tịch, Giám đốc, Hiệu trưởng, Viện trưởng...) + tên tác giả

2. Về biểu diễn: Độc tấu + tên nhạc cụ, do + Chức danh (giáo sư, phó giáo sư) + học vị (tiến sỹ, thạc sỹ) + Danh hiệu (nghệ sỹ Nhân dân, nghệ sỹ ưu tú. Nhà giáo Nhân dân, nhà giáo ưu tú) + Giải thưởng (giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước) + Chức vụ quản lý (Chủ tịch, Giám đốc, Hiệu trưởng, Viện trưởng ...) + tên người + biểu diễn

Bao nhiêu sức lực, thời gian và tiền bạc đáng ra để tập trung làm chuyên môn, làm nghề thì lại bị phung phí vào các cuộc đua tranh lấy bằng cấp.

Mời bạn đọc thử lắp những chức danh, danh hiệu này trước những tên tuổi như: Mozart, Beethoven, Chopin ….. hoặc: Karajan, Rubinstein, Horowitz v.v… bạn sẽ thấy nó hài hước tới mức nào ngay. Thêm bất cứ cái gì trước những cái tên đó, đều là một sự xúc phạm khó tha thứ. Bản thân nó đã là vàng mười. Sự sâu sắc luôn mộc mạc, giản dị. Ngược lại với sự son phấn loè loẹt, hàng mã.

Hãy để chính những nghệ sỹ, bằng tài năng, làm nên tên tuổi riêng của mình
Và không chỉ dừng lại ở các cuộc biểu diễn, mà ngay cả trong các cuộc họp hành, hiếu hỷ. Khi mời ai lên phát biểu, người ta cũng luôn luôn phủ đầu làm tối tăm mặt mũi cử toạ bằng một tràng dài các chức danh, học vị, chức vụ quản lý, chức vụ Đảng, cuối cùng mới đến tên người. Điều này dần dần đã thành thói quen, gây sự thiếu thân thiện và tủi phận với những kẻ chỉ có cụt lủn mỗi cái tên cha sinh mẹ đẻ. Họ cảm thấy hẫng như mình thiếu hẳn một cái đuôi.

Cuộc họp nội bộ ngày xưa thì giản dị: “Mời anh Trí” hay “Mời chị Tuệ” lên phát biểu. Chỉ vỏn vẹn có 3 từ thôi, mà sao thân mật, ấm cúng và hiệu quả biết bao. Còn bây giờ thì phải khoảng trên dưới 30 từ. Cũng theo công thức trên, ta lại cùng nghép thử, ví dụ:

Xin kính mời + chức danh + học vị + toàn bộ danh hiệu đã được phong + toàn bộ giải thưởng đã được tặng + toàn bộ chức vụ quản lý, chức vụ Đảng đang có + Ông(Bà) + họ tên đầy đủ + lên phát biểu.

Mời bạn tham khảo thêm tên và tước hiệu của cụ Phan Thanh Giản (1796-1867) một đại thần triều Nguyễn phong kiến như sau: Hiệp biện Đại học sỹ, lãnh Lễ bộ thượng thư, kiêm quản Hộ bộ ấn triện, sung Kinh diên giảng quan, sung Cơ mật viện đại thần, kiêm Quốc tử giám sự vụ, kiêm quản Văn thần phò mã đô uý, Phan Thanh Giản, tự Tĩnh Bá, hiệu Ước Phu. (50 từ)

Ôi, nếu cụ sống lại và đến dự một cuộc họp nội bộ của chúng ta ngày nay, và được ta giới thiệu cụ với đầy đủ chức danh như trên, thì chắc cụ rất hãnh diện. Vì lũ con cháu chúng ta sao mà giống thời các cụ thế! tiếp nối được truyền thống cha ông xưa. Và vẫn đang liên tục phát triển.

Đây là hiện tượng phổ biến trên toàn quốc khoảng hai chục năm nay chứ không chỉ riêng ở một đơn vị nào, và nó vẫn còn đang phát triển theo hướng rườm rà hơn nữa. Tôi sợ với đà này, một ngày nào đó, ngay trong gia đình, bố mẹ, con cái, vợ chồng … hoặc bạn bè gặp nhau ngoài phố, khi gọi nhau cũng phải kèm theo những danh hiệu rườm rà đã kể trên thì thực là rồ dại.

Vậy bạn đọc nghĩ sao về những hiện tượng này? Bản chất của những hiện tượng này là gì?

Một cuộc chạy đua chức danh trên toàn quốc “trồng lúa thu hoạch khoai”

Ta tự hào về chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa (mà hiện nay chỉ có người dân ở một số ít nước được hưởng là: Triều Tiên, Cu ba, Lào và Trung Quốc) mọi người đều bình đẳng. Nhưng thực chất thì người ta đang dựa theo chức quyền để phân chia đẳng cấp, quyền lợi, tất nhiên chức càng cao, bổng lộc càng lớn.

Lúc sống đã vậy, tận tới lúc chết chôn ở đâu cũng có tiêu chuẩn dựa theo chức tước. Vì thế cả xã hội đều trọng chức quyền. Mà muốn có chức quyền thì cần có bằng cấp, cộng thêm danh hiệu Đảng viên, là người ta có thể tiến thân, có thể trở thành lực lượng lãnh đạo với nhiều bổng lộc mà không cần phải có thực lực.

Đó là nguyên nhân sâu xa đã và đang dẫn đến việc nhiều kẻ cơ hội đổ xô đi săn bằng cấp bằng mọi giá. Đua bằng cấp, chức danh chứ không đua tài năng. Bởi đua tài năng, cuộc đua dưới ánh mặt trời, thì khó hơn nhiều, dễ lộ chân tướng và dễ bị thua. Bao nhiêu sức lực, thời gian và tiền bạc đáng ra để tập trung làm chuyên môn, làm nghề thì lại bị phung phí vào các cuộc đua tranh lấy bằng cấp. Nhìn vào con đường để trở thành thạc sỹ, tiến sỹ hiện nay ở nước ta đã bị biến chất. Nhiều người có lòng tự trọng không khỏi ngại ngùng và muốn lánh xa.

Bản thân bằng cấp và chức danh chân chính, lương thiện thì rất có ích cho xã hội. Trước kia, số giáo sư, tiến sĩ ở ta không nhiều, nhưng đó là những tên tuổi như: Đào Duy Anh, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Mạnh Tường ... Còn ngày nay thì đúng là “Ta tự hào đi lên. Ôi Việt Nam” giáo sư nhiều đến mức có thể “ra ngõ gặp giáo sư”. Với thực trạng này thì nền học thuật của nước nhà có nguy cơ trở thành hữu danh, vô thực.

Trong lĩnh vực biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp, để chơi đàn, hát, làm được concert thì khó quá, muốn thế phải rèn luyện hàng ngày, phải hy sinh rất nhiều mà lại không oai bằng rẽ ngang đi làm tiến sỹ, đơn giản hơn, chóng được thăng chức với nhiều bổng lộc hơn.

Kết quả là: mục đích cuối cùng và duy nhất của âm nhạc là tiếng đàn, tiếng hát, những buổi concert và viết những tác phẩm âm nhạc chuyên nghiệp thì dần dần không còn ai làm, thay vào đó là rất nhiều tiến sỹ âm nhạc ra đời. Có được cái bằng tiến sỹ, phần lớn không ai chơi đàn và hát nữa. Tiền của nhân dân bỏ ra đào tạo họ để mang lại tiếng đàn tiếng hát cho đời đã trở thành vô ích vì sai mục đích. Trồng lúa thì lại thu hoạch khoai!

Hướng dẫn làm luận văn tiến sỹ chéo ngành chéo nghề

Ở hầu hết các trung tâm đào tạo đại học của Việt Nam trên toàn quốc hiện nay, để có được chức danh thạc sỹ, tiến sỹ, phải có người hướng dẫn viết luận văn, luận án. Đó là các giáo sư, phó giáo sư. Nhưng để đào tạo ra càng nhiều, càng nhanh và để “phổ cập” học vị thạc sỹ, tiến sỹ, người ta đã sử dụng các giáo sư hoặc phó giáo sư nghề này, hướng dẫn luận văn cho các thạc sỹ, tiến sỹ nghề khác.

Tuy cùng là một ngành, nhưng càng lên cao, càng phải chuyên sâu, và cùng một ngành nhưng rất nhiều nghề hoàn toàn khác nhau. Ví dụ như trong ngành thể thao thì môn cờ tướng với bắn súng hoặc đấm bốc, không hề có liên quan đến nhau. Hoặc trong ngành điện ảnh thì nghề viết kịch bản và nghề tạo khói lửa, cũng không hề có liên quan. Nghề nào cũng vậy. Nên dù biện minh rằng, đó là “hướng dẫn phương pháp luận” thì cũng chỉ là ngụy biện, và không thể chấp nhận được.

Thử tưởng tượng trong cùng ngành y. Giáo sư chuyên nghề phụ khoa lại đi hướng dẫn luận văn cho tiến sỹ chuyên nghề nha khoa thì có được không? Bởi vì hai bộ phận này của cơ thể chúng ta là hoàn toàn khác nhau, có những chức năng hoàn toàn khác nhau. Vậy mà chéo ngành chéo nghề vẫn vô tư hướng dẫn đã trở thành bình thường từ lâu.

Vậy xin hỏi cấp trên có biết vấn đề này không? Với những sự hướng dẫn như vậy, những bản luận văn đó có giá trị gì không? Và trong việc này liệu có thể tránh được tiêu cực không? Có được cái bằng cấp ấy, có đáng tự hào để mời mọi người đi khao “rửa bằng” không? Có lẽ sự “rửa bằng” nghĩa đen lại chính xác hơn vì nó vốn không được sạch sẽ cho lắm.

Theo chúng tôi, cấp bộ hãy cho dừng ngay kiểu hướng dẫn trái ngành trái nghề như hiện nay ở hầu hết các cơ sở đào tạo trên cả nước. Và cho rà soát lại tất cả các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ đã có. Nếu không phải do người hướng dẫn có cùng chuyên môn thì cho thu hồi lại, và các luận văn đó phải được làm lại, với sự hướng dẫn của các giáo sư cùng chuyên ngành và công khai việc này trong giới chuyên ngành.

Các danh hiệu, giải thưởng, câu chuyện cười ra nước mắt
Vườn hoa chỉ có 2 loại hoa

Định kỳ một hai năm gì đó, ta có những đợt phong tặng danh hiệu nghệ sỹ ưu tú, nghệ sỹ Nhân dân và trao tặng các giải thưởng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Việc này không phải do người Việt Nam ta nghĩ ra, mà do chúng ta học tập từ Liên Xô cũ. Họ phong nghệ sỹ Công Huân, nghệ sỹ Nhân dân, giải Stalin, giải Lê Nin về văn học nghệ thuật (ví dụ Giao Hưởng số 11 của Shotstakovich được giải Xtalin năm 1953 v.v…).

Sau khi Liên Xô tan vỡ, họ đã bỏ thói quen đã có từ hàng chục năm này. Rất nhiều cách tổ chức dập theo kiểu Liên Xô cũ như: nền kinh tế có kế hoạch, hành chính bao cấp, phân phối theo tem phiếu v.v… ta đã bỏ. Nhưng không hiểu vì sao cái thói quen trao những danh hiệu và giải thưởng văn học nghệ thuật học từ họ thì ta lại vẫn duy trì, bởi nó là một phần đồng bộ trong tư duy cấu thành chế độ bao cấp, cơ chế xin cho?

Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh bằng máu và nước mắt một quy luật là: những chính sách dập khuôn theo ngoại bang sớm muộn rồi cũng gây những hậu quả xấu, thậm chí là những thảm hoạ dân tộc.

Về việc phong danh hiệu nghệ sỹ, hãy để chính những nghệ sỹ, bằng tài năng, họ làm nên tên tuổi riêng của mình (như Ashkenazy) thì nó mới có giá trị thực, bền lâu và duy nhất. Không ai có thể ghen tỵ với ai được, vì không ai giống ai. Hàng ngàn nghệ sỹ tài năng, thì sẽ có hàng ngàn cái tên khác nhau, có giá trị khác nhau, giống như vườn hoa với muôn hoa, muôn màu khoe sắc, chứ không phải chỉ có 2 loại hoa ưu tú và nhân dân.

Mà muốn được hưởng các danh hiệu này, phải làm đơn xin, cùng sự “vận động” để được phong (ban) tặng từ trên xuống. Trong hoàn cảnh đất nước ta tệ nạn xã hội tràn lan. Khó có thể tránh khỏi nhiều sự tiêu cực trong sự ban tặng danh hiệu, nếu vẫn giữ kiểu cơ chế ban phát như cũ.

Về việc trao giải thưởng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT, đây cũng là một kiểu cơ chế xin cho với những thành phần Ban giám khảo hoàn toàn được chỉ định từ trên, với những tiêu chí chấm giải tuỳ hứng. Người xin trao giải cũng phải làm đơn và “vận động”.

Riêng trong ngành nhạc đã xảy ra những câu chuyện cười ra nước mắt xung quanh việc trao giải thưởng này. Điển hình là trong đợt đua tranh phong tặng năm 2006 (đây nên là đợt phong tặng cuối cùng) cả nước đều biết tới những chuyện “đồng nghiệp tương tàn” mà báo chí gọi là “cơn địa chấn trong làng nhạc”. Nếu ta lại cứ tiếp tục trao giải thì không ai có thể khẳng định rằng những cơn “địa chấn” sẽ không trở thành “động đất”!

Nói tóm lại: Nhà nước ta nên bỏ lối tư duy kiểu dập theo Liên Xô cũ này!

Kết

Hãy để cho mọi người đánh giá tài năng và giá trị con người qua công việc. Dù anh có độn vào trước cái tên của anh hàng trăm danh vị đi nữa mà sản phẩm anh làm ra cho xã hội không có, hoặc tồi, hoặc có hại, thì khác nào gỗ mục được sơn son thếp vàng?

Một xã hội lành mạnh và có tương lai, là một xã hội biết tôn trọng những tài năng và những giá trị thực, bất kể họ có hay không có bằng cấp danh vị cao, tiền của nhiều, chức tước lớn.

Đối với người làm nghề nhạc chuyên nghiệp, thì đó là tiếng đàn, tiếng hát của người biểu diễn và tác phẩm của người sáng tác. Anh hãy tự hào về điều đó, và hãy gắn nó với cái tên cha sinh mẹ đẻ, chứ không phải là những thứ bằng cấp, danh hiệu (mà ở nước ta hiện nay của rởm nhiều hơn thật) và chức vụ quản lý anh đang có, đó chỉ là những thứ son phấn nhất thời.

Bảng giá trị tưởng như là chân lý đơn giản và hiển nhiên này lại đang bị lật ngược. Nguyên nhân chủ yếu là do bệnh thành tích, cơ hội, trọng bằng cấp, trọng chức quyền. Nó đang làm tê liệt trí tuệ Việt Nam. Phải chăng nó là một trong ba loại giặc đang đe doạ sự tồn vong của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã nói, đó là: diặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm? Với tiềm năng trí tuệ thế này, rồi dân tộc Việt Nam ta sẽ đi đến đâu? “Một dân tộc dốt, là một dân tộc yếu”

Là một người hoạt động trong nghề nhạc, tôi thấy cần phải viết bài này chỉ vì trách nhiệm công dân, với mong muốn nền học thuật nước nhà - nhất là âm nhạc - ngày càng trở nên lành mạnh và thực chất hơn. Tôi không nhằm vào bất cứ ai và cũng mong đừng ai giật mình bởi tôi luôn luôn kính trọng sâu sắc những giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ chân chính. Tuy không nhiều, nhưng họ có lương tri và trình độ chuyên môn thực sự. Tôi chắc rằng những người này sẽ ủng hộ những ý kiến trên của tôi.

Vì chúng ta đã nói dối quá nhiều và quá lâu rồi, nên những lời nói tử tế bây giờ lại trở nên hài hước. Tuy vậy - dù chỉ nhỏ bé như con Dã Tràng - tôi vẫn muốn nói rằng: Đừng sợ thay đổi vì chỉ nghĩ tới quyền lợi của bản thân, hãy nghĩ tới một tương lai tốt hơn cho tất cả. Đừng sợ ánh sáng, sợ thuốc đắng và sự thật.

Để kết bài viết này tôi xin mượn một câu Kiều của: [Giáo sư, tiến sỹ] Nguyễn Du (xin tạ tội với bậc tiền nhân vì sự xúc phạm này):

“Mượn màu son phấn đánh lừa con đen”

Chữ “Con đen” ở đây được hiểu là những người dân bình thường

Đặng Hữu Phúc

Từ Công An Nhân Dân Đến Điện Báo Tin Paris - Kim Dung

Kim Dung

Thiên hạ kháo với nhau rằng đòn thù của những người thù với ta không đau bằng những đòn thù của những người trước đây là bạn của ta … quả không sai một chút nào. Ít nhất là không sai trong trường hợp tờ điện báo Tin Paris của ông Hứa Vạng Thọ.

Nói theo một cách khác, điện báo Tin Paris đã chứng minh câu nói đó rất ư là hùng hồn qua bài viết “phong trào kháng chiến chống giặc Tàu tại gia” - nguyên văn - cố tình đả kích thầy Quảng Độ không thương tiếc. Đau thay, qua văn phong đến cách lý luận của bài đả kích này, nếu có thể gọi đó là văn phong và lý luận, chúng ta chỉ thấy được những làn hơi đứt khoảng, những ý tưởng vụn vặt, những tâm tư thù hận.

Bài viết không mạch lạc đã đành mà cũng không trôi chảy để tải được ý. Cố hiểu lắm cũng không thể hiểu tại sao tác giả lại đả kích Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, và đả kích vì lý do gì ?.

Chỉ biết tác giả cố tình đả kích và đả kích rất thù hận, hỗn xược. Thế thôi!

Ước gì đọc giả hiểu rõ tại sao họ phang … ngang như vậy. Đồng ý hay không lại là chuyện khác, nhưng ít ra khi cho đăng một bài đả kích, nhất là đả kích hận thù như vậy, nhóm chủ trương nên giữ lấy lề, và kính trọng đọc giả, họ không thể làm rộng đường dư luận rất ư là trái mùa qua một bài viết hoàn toàn bất chấp cú pháp. Nói nào ngay văn phong của bài đả kích này thua xa bài báo được đăng trên trang Công An Việt Cộng, vô tình hay cố ý, cũng được tung ra trong cùng một thời gian để đả kích ngài Thích Quảng Độ. Như họ!

Điện báo Tin Paris và báo Công An Nhân Dân cùng một thời điểm mạ lỵ Đại Lão Thích Quảng Độ không tiếc lời.

Và nói nào ngay, bài báo của Công An Việt Cộng đã nêu lý do, họ phân định rõ ràng đâu là bạn, đâu là thù, lằn ranh Quốc và Cộng với họ bao giờ cũng đậm nét. Còn nhóm chủ trương Tin Paris thì ngược lại. Họ chỉ đả kích và đả kích, ngoài ra không có gì là rõ ràng, kể cả lằn ranh Quốc và Cộng. Tất cả chỉ mờ mờ nhân ảo.

Việt Cộng phân định chúng ta rất là rõ ràng, còn nhóm chủ trương Tin Paris đã phân biệt ai là bạn, ai là thù sau 34 năm làm người mất nước, mất quê hương?

Với lối chống Cộng của họ, xin hỏi, đã giúp gì trong công cuộc chung qua do sự phân biệt đục ngầu, qua lập trường cứ thay đổi với tốc độ chóng mặt hơn cả mức lên xuống của nền chứng khoán ở Mỹ.

Khi bênh, khi chống, hay gặp ai cũng chống, làm gì cũng đả kích là cách chống Cộng hữu hiệu nhất mà họ chọn hay sao?

Đại Lão Hòa Thượng Quảng Độ đã chống đối mãnh liệt, can đảm ngay trong lòng của địch, từ lúc nhóm chủ trương Tin Paris mới co giò bỏ chạy, đang cố an thân, hoàn hồn trong bối cảnh đầy dẫy thịt và rượu bên kia phương trời Tây. Ngài đòi hỏi Tự Do Dân Chủ - Tự Do Tôn Giáo cho một nước Việt Nam lạc hậu thụt lùi so với các nước Á Châu trong vùng.

Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ vì dân tộc, vì quê hương. Ngày nào Việt Nam còn quốc nạn và pháp nạn, ngày ấy ngài Quảng Độ còn tiếp tục đấu tranh, không thay đổi. Và chúng ta, những con dân nước Việt may mắn được tạm cư trên những bến bờ tự do, trong đó có nhóm chủ trương Tin Paris, sau khi hoàn hồn, có quyền thay đổi, ngay cả phản bội để quay qua chống luôn những người đã và đang bỏ thân ra để đấu tranh cho quê hương, cho dân tộc.

Dù đồng ý hay không với phương cách của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, chúng ta cũng phải công nhận rằng ngài chống nhà cầm quyền trực diện, suốt hơn 30 năm qua. Bởi vậy, với tư cách của một con dân nước Việt, nếu còn chút liêm sĩ và tự trọng, chúng ta phải kính trọng ngài. Nhóm chủ trương Tin Paris ở bên này trời với chăn êm nệm ấm, quấn thêm vào người cả trăm thứ bảo đảm thêm cho tự do, nhân quyền nơi họ đang sinh sống, họ có quyền gì đả kích ngài, hỗn xược với ngài?

Nhóm chủ trương Tin Paris khoan cho là họ hay vì người tài nước chúng ta không thiếu. Hãy chứng minh với mọi người rằng họ có lòng, và can đảm đủ để làm 1/1000 những gì ngài đã làm, và làm rất âm thầm trước khi chúng ta ở hải ngoại biết về ngài, sửng sốt, kinh ngạc, và thán phục về sự quả cảm, coi thường cái chết của ngài.

Và cuối cùng, nhóm chủ trương Tin Paris khoan cho là họ hay trong khi họ đã không đưa ra một phương cách gì để bổ sung vào, hay thay thế phương cách của ngài Thích Quảng Độ.

Tin Paris đừng làm người cứ đi bên cạnh cuộc đời và cứ chỏ miệng chưởi bới, đả kích thiếu xây dựng. Hãy chứng minh với mọi người rằng họ có ý thức tập thể để đoàn kết, ý thức chính trị để hợp quần, trong một cuộc chiến mà phe Quốc gia đã có lắm điều thua thiệt.

Đấu tranh chỉ có thắng hay bại, chứ đấu tranh tự nó không khó. Có điều, đấu tranh chung với nhóm người cứ ra vẻ đấu tranh để mượn thế gây chia rẽ, đả kích 10 phương 8 hướng, từ Quốc cho đến Cộng, như nhóm chủ trương Tin Paris, mới khó.

Kim Dung


Buổi ra mắt phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh" tại Fairfield, Sydney Úc châu


Lê Minh
Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1395:1395&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58

Lúc 2g chiều hôm nay ngày Thứ Bảy 29/08/2009, tại Monte Carlo tại Sydney đã có buổi ra mắt bộ phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh". Đây là buổi ra mắt thứ 3 trên tổng số 4 buổi nằm trong chuyến công du Úc Châu của Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả tên Sài Gòn (PTQDDTTSG) tại các thành phố lớn, và cũng là buổi thứ 16 trên tổng số 38 buổi ra mắt trên toàn thế giới.

Mới 1.30g chiều, tức là còn nửa tiếng nữa mới đến giờ bắt đầu, mà đã có rất nhiều đồng hương hiện diện từ sớm.

Sau phần chào cờ Úc - Việt và tưởng niệm, MC Thái Hòa, một phát thanh viên của đài SBS-Việt Ngữ, là một giọng nói quen thuộc với đồng hương, đã sơ lược nội dung của buổi ra mắt phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh".

Thay mặt Ban Tổ Chức, Luật sư Đào Tăng Dực cho biết cuốn phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh" là sự đúc kết từ việc tham khảo nhiều tài liệu, nhân chứng,... cho nên cuốn phim sẽ góp phần vào công cuộc đấu tranh trong một kỷ nguyên mà không thể dấu diếm mãi sự thật. Thay mặt Ban tổ chức, ông đã cám ơn sự nhiệt tình ủng hộ của đồng hương, ghi nhận sự giúp đỡ quý báu của các cơ quan truyền thông báo chí Việt Ngữ, và đặc biệt là Cơ sở Đồng Tâm.

Đại diện đồng hương tại Sydney, vị chủ tịch Cộng đồng người Việt Tự do NSW, LS.Võ Trí Dũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc vạch trần mọi sự thật mà CSVN đã che giấu, trong đó có "sự thật về HCM". Do đó, việc ra đời của cuốn phim tài liệu này là cần thiết.

Thay mặt PTQDDTTSG, LM.Nguyễn Hữu Lễ cho biết từ năm 1975, sau khi chiếm miền Nam CSVN đã đổi tên thành phố Sài Gòn thân thương thành Hồ Chí Minh. Đây là một việc làm ô nhục nhất trong lịch sử bởi vì thành phố Sài Gòn phải mang tên của một nhân vật mà khi sống là một tai họa cho dân tộc Việt Nam, và khi chết thì cái thây ma cũng được dựng lên để tiếp tục gây chia rẽ, đem đến bao đau thương tang tóc cho đất nước Việt Nam.

Bao năm đã trôi qua, trong khi Việt Cộng vẫn tiếp tục ca tụng tô vẽ cho Hồ Chí Minh, thì người dân Việt đã thầm lặng phản kháng bằng các câu chuyện truyền tai, bài thơ hoặc thậm chí những câu vè mà đại loại như:

Một năm 3 thước vải sô
Làm sao che kín “bác Hồ” em ơi!

Việc ra đời của cuốn phim tài liệu về bộ mặt thật của Hồ Chí Minh là điều tất yếu để vạch trần sự thật, và cuốn phim tài liệu này chỉ là một sự tổng hợp khiêm nhường của nhiều sự thật.

Linh mục Lễ cho biết cuốn DVD không bán mà được tặng không cho đồng hương để tiếp tay phổ biến theo kiểu “vết dầu loang”. Nhân dịp này Linh mục cám ơn các mạnh thường quân đã ứng tiền cho mượn để thực hiện cuốn phim tài liệu này, và cũng cám ơn nhà hàng Hòa Bình đã nhiệt tình ủng hộ, mặc dù trong suốt những tuần qua nhà hàng đã nhận được một số điện thoại nặc danh chửi rủa hăm dọa.

Trước khi trình chiếu một đoạn trích dài 11 phút của cuốn phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh", Linh mục Lễ đã kêu gọi đồng hương có mặt dành một phút để hướng tấm lòng về Tam Tòa.

Với cương vị là đại diện Tổ chức Phục hưng Việt Nam, và cũng là người chịu trách nhiệm việc thực hiện cuốn phim tài liệu "Sự thật về Hồ Chí Minh" của PTQDDTTSG, ông Trần Quốc Bảo đã trình bày những khó khăn trong việc thực hiện cuốn phim, mà trong đó khó khăn đầu tiên là về tài chánh.

Ông cho biết, vì có nhiều vấn đề cần phải mổ xẻ về Hồ Chí Minh, cần phải bàn bạc tham khảo với nhiều sử gia, tài liệu, nên công việc chuẩn bị mất hết 1 năm. Cuốn phim dài đúng 1giờ, 48 phút & 41giây, là kết quả tận lực của nhiều cá nhân góp sức. Tính đến giờ này, chi phí để hoàn tất cuốn phim tài liệu, kể cả việc in ấn 30,000 cuốn DVD đã tốn hơn $200,000 Mỹ kim.

Trong phần phát biểu của quan khách, LS.Lưu Tường Quang cho rằng "có nhiều ngã đường để đến La Mã", và trong đấu tranh cũng có nhiều phương cách, miễn sao tất cả đều có một mục tiêu chung là Tự do dân chủ cho Việt Nam. Ông cũng nhắc đến tầm quan trọng của "quyền lực mềm", tức là phương tiện truyền thông báo chí bằng cách dẫn chứng một ví dụ về trường hợp của việc ra mắt cuốn phim "Ten conditions of love" (Mười điều kiện của tình yêu) được chiếu hồi đầu tháng này tại Melbourne đã khiến chính phủ Trung Quốc nhức đầu, tức tối.

Trước khi dứt lời, ông nói "Hãy trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar", và cũng kêu gọi đồng hương mạnh mẽ ủng hộ tinh thần cũng như tài chánh để những người thực hiện phim sớm có thể hoàn trả món nợ cũng như để tiếp tục thực hiện các ấn bản bằng các ngôn ngữ khác trong thời gian sắp tới.

Phần cuối của chương trình, là phần trao tặng DVD cho đồng hương và ký tên ủng hộ tài chánh. Trong khi LM.Nguyễn Hữu Lễ ký tên trao tặng các DVD "Sự thật về Hồ Chí Minh", thì vị cựu chủ tịch cộng đồng là ông Võ Minh Cương đã kêu gọi đồng hương mạnh mẽ ủng hộ tài chánh để giúp PTQDDTTSG hoàn trả khoản nợ.

Hơn 800 đồng hương có mặt đã sắp hàng để nhận lãnh cuốn DVD "Sự thật về Hồ Chí Minh" có chữ ký của LM.Nguyễn Hữu Lễ, cũng như đã sôi nổi đóng góp tài chánh. Sau hơn 1 giờ tổng kết, Ban tổ chức cho biết đã thu nhận được số tiền $16,535 Úc kim (trong đó có $800 là chi phiếu). Đó là kết quả ủng hộ mạnh mẽ của đồng hương, trong đó có nhiều mạnh thường quân, chẳng hạn như Cơ sở Đồng Tâm đã ủng hộ $2,000.

Thay mặt Ban tổ chức, LS.Đào Tăng Dực, đã ủng hộ tất cả các chi phí như in ấn, quảng cáo, quay phim và kể cả tiền thuê nhà hàng, với một phí tổn lên đến gần hai ngàn đồng.

Xin hoan hô Ban tổ chức, cở sở Đồng Tâm, Nhà Hàng Hòa Bình và tất cả đồng hương đã mạnh mẽ ủng hộ!

Tường thuật từ Sydney
Ngày 29/08/2009
Lê Minh

---o0o---

Âm thanh



http://www.lyhuong.org/webdata/thauthanh/tuongtrinh/Sydney_SuThatVe_HCM.mp3

Melbourne Úc châu: Biểu tình phản đối chương trình văn nghệ Tứ Đại Thiên Vương


Đồng hương Sydney luôn luôn kề vai chung sức cùng Melbourne và Canberra chống việt cộng. hoan hô đồng hương Sydney.

Melbourne, Úc Châu: Hôm nay ngày 28 tháng 8 là xuất đầu tiên của hai buổi nhạc hội “Gây Quỹ Đứa Bé Lần 2” với chủ đề “Tứ Đại Thiên Vương” dưới chiêu bài gây quỹ cho trẻ em nghèo tại VN tại Crown Casino Melbourne. Mặc dầu địa thế khó khăn của sòng bài, dầu là một buổi chiều thứ 6 sau một tuần dài làm việc, và mặc cho thời tiết lấm tấm mưa cùng gió lạnh của những ngày cuối Đông, đồng hương khắp nơi vẫn không quản ngại tề tựu về trung tâm thành phố đông đủ để biểu dương sức mạnh của người Việt Tỵ Nạn tại Úc trước mọi sự ngoan cố và thách thức của csVN và tay sai trong cuộc chiến văn hoá vận.

Xuất thứ 2 của chương trình nhạc hội sẽ diễn ra vào trưa Chủ Nhật ngày 30 tháng 8. Cuộc biểu tình sẽ rầm rộ hơn với sự tiếp sức bởi đồng hương Sydney và các tiểu bang khác. CĐNVTDUC/NSW đã phối hợp cùng với Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH/NSW mướn xe buýt đưa đồng hương Sydney về Melbourne tham dự cuộc biểu tình. Xe buýt sẽ rời Sydney tối thứ 7 để đưa đồng hương Sydney đi thâu đêm, vượt gần một ngàn cây số về hợp lực cùng đồng hương Melbourne tham dự cuộc biểu tình chống văn hoá vận. Đêm nay chỉ là một ngày warm-up cho cuộc chiến ngày Chủ Nhật.

Dưới đây là một số hình ảnh ...

Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1394:1394&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58
















Friday, August 28, 2009

Những chi tiết đằng sau vụ Radio SBS Úc châu cho phát thanh quảng cáo Đại nhạc hội "Tứ Đại Thiên Vương"

On Fri, 28/8/09, Viet Tran wrote:
From: Viet Tran
Subject: (xin nhờ phổ biến) NHỮNG CHI TIẾT ĐÀNG SAU VỤ SBS RADIO QUẢNG CÁO ĐNH "TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG"
To: "phonang"
Received: Friday, 28 August, 2009, 2:28 PM

Kính thưa quý vị,

Chúng tôi vừa mới tiếp xúc với ông Nguyễn thế Phong, Chủ Tịch CĐNVTD Liên Bang Úc Châu về sự việc chương trình Việt ngữ đài SBS quảng cáo cho ĐNH "Tứ Đại Thiên Vương".

Ông Nguyễn thế Phong đã cho chúng tôi biết những chi tiết như sau:
    1. - Ban Chấp hành CĐNVTD Liên Bang Úc Châu và tiểu bang Victoria, đã liên tuc. phản kháng với các cấp quản trị của Đài Phát Thanh SBS trong mấy ngày qua;

    2. - Các anh chị em trong Ban Việt ngữ SBS Radio cũng đã lên tiếng phản đối về sự việc này với Ban Quản trị,

    3. - BCH CĐNVTD nhận được sự hậu thuẩn từ quý vị thuộc Ban quản trị trung cấp SBS Radio;

    4. - Nhưng khi lên đến cấp TỐI CAO, ông ACTING MANAGING DIRECTOR của cả hệ thống SBS (TiVi lẫn phàt thanh), ông Richard Finlayson, thì ông này đã phủ quyết và CHO PHÁT THANH CÁC QUẢNG CÁO NÀY.

    (Ghi chú: Ông Managing Director, Shaun Brown, "người quen cũ" của cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng ta thời VTV4, hiện không có mặt ở nước Úc )

    5. - Người được ông Richard Finlayson "tham vấn" là một nhân viên phụ trách về quảng cáo người Úc gốc Việt, ông Thắng Ngô, từng là một cựu Nghị viên thành phố Fairfield ở Sydney. Số điện thoại của ông Thắng Ngô ở SBS (Sydney) là 02-9430-2805

    6. - Vấn đề này hiện đang là một đề tài "nóng bỏng" trong cộng đồng người Việt chúng ta ở Melbourne. Đồng hương đang rất phẩn uất.

    7. - Ngoài việc goại điện thoại vào Đài SBS (03) 9949 2121 (Vietnamese), ông Nguyễn thế Phong còn đề nghị quý vị có thể gởi email phản đối trực tiếp đến địa chỉ của ông Richard Finlayson và ông Thắng Ngô.
Chỉ cần ngắn gọn đại khái như:

"I object to SBS Radio advertising for Tu Dai Thien Vuong concert in Melbourne on Friday 26/08 and Sunday 30/08/2009) " (về địa chỉ richard.finlayson@ sbs.com.au)

"Tôi phản đối việc đài phát thanh SBS quảng cáo cho chương trình Đại Nhạc Hội Tứ Đại Thiên Vương ở Melbourne vào thứ Sáu 28/8 và Chủ Nhựt 30/8/2009) (về địa chỉ thang.ngo@sbs.com.au).

Hưng Việt


"Us Is Back ..." Việt Nam "back" Không ? - Nguyễn Duy Thành


• Nguyễn Duy Thành


Để kiềm chế và cân bằng thế chiến lược trong chính sách đối ngoại sau 8 năm lơ là ở khu vực Đông Nam Á. Nay chính quyền Obama đã chính thức lên tiếng: "US is back to Asian". Vậy, Việt Nam có nên "Back" cùng Hoa Kỳ để tìm vận hội mới cho quốc gia và dân tộc, hay cố hữu duy trì sự lệ thuộc Trung Cộng.? Đây cũng là nội dung của bài phân tích và nhận định về những sự kiện chính trị nổi bật xảy ra gần đây, nhất là có sự liên quan đến mối quan hệ theo thế Tam giác của 3 quốc gia Việt Nam- Trung Quốc và Hoa Kỳ. Xin cảm ơn bạn đọc đang theo dõi và kính chào quý vị.

Cũng như cựu Ngoại trưởng Condolezza Rice. Bà Hillary Clinton hình như không có thời gian để ăn cơm nhà, bởi lịch trình công du dày đặc từ ngày nhậm chức Ngoại trưởng đến nay. Tất cả các cuộc công du của Bà đã toát lên một dấu hiệu "tống cựu nghing tân", nhằm đổi thay chiến lược từ đối đầu sang đối thoại, hay nói cách khác là chiến thuật cứng ngắc của cựu Tổng Thống Bush chẳng có một chút gì phù hợp với một người đàn bà đầy năng động, mềm dẻo và thông minh đang làm việc cho vị Tổng Thống da màu khá trẻ, sung sức và đầy nhiệt huyết dưới khẩu hiện muốn đổi thay nước Mỹ và cục diện chính trị của thế giới, cũng nên nhắc lại họ đã từng là đối thủ của nhau trong trận tranh giành cái "Long Sàng" , nhưng nay lại cùng "Song Kiếm Hợp Bích" để chống lại con Sư tử Trung Cộng đang nhe nanh muốn làm chủ loài người . Khả dĩ, phải ví von một chút sinh động như thế thì cũng đúng thôi, Bởi, hàng loạt quốc gia Châu Phi nồng nhiệt vổ tay để nghênh đón bà Ngoại trưởng Hoa Kỳ đến thăm. Người ta vui mừng là phải, bởi đã quá lâu dân tình của các xứ sở này đã chán ngán sự làm ăn bê bối, cẩu thả của các nhà đầu tư Trung Cộng, thậm chí người bản xứ Châu Phi còn bị đánh đập hành hung bởi công nhân của quốc gia khổng lồ này.

Điểm đáng chú ý hơn là cuộc viếng thăm của Bà Halliry Clinton đến Ấn Độ, ngoài việc ký kết các hợp đồng thương mãi và hạt nhân, có một Hiệp định kỹ thuật vũ khí của Hoa Kỳ bán cho Ấn độ sẽ không bị tiết lộ. Đây là một điều đã làm cho Trung Cộng không vui một chút nào, vì từ lâu hai quốc gia có số dân đông nhất thế giới, có cùng biên giới, có hục hặc với nhau về sự lưu vong của Đức Đạt La Đạt Ma mà văn phòng chính là ở Ấn Độ, và cả hai quốc gia này đang thi sức chạy đua quân sự trong lãnh vực Hải Quân.

Quan trọng hơn, ngày 22 tháng 7 năm 2009. Ngoại trưởng Hoa Kỳ đến dự Hội Nghị và ký kết Hiệp Ước Bất Tương Xâm với khối Đông Nam Á và chính thức tuyên bố "Tôi muốn gởi một thông điệp rằng Hoa Kỳ đã trở lại Đông Nam Á". Nhưng, chi tiết đáng chú ý hơn trong hội Nghị này, là Bà Halliry Clinton đã gặp riêng nguyên thủ của 4 quốc gia thuộc hạ lưu Sông Cửu Long như: Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Lào, thái độ gặp riêng các nước này nói lên điều gì? Một câu hỏi mà giới phân tích chính trị khu vực Đông Nam Á cần nghĩ tới , nhất là Việt Nam. Bởi, cơ chế phát triển Sông Mê Kông, bao gồm 4 nước nói trên thì có cả Miến Điện và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, nhưng từ lâu Hoa Kỳ biết rõ Trung Cộng đã bất chấp và cố sức khai thác ở phần Thượng nguồn chỉ vì quyền lợi riêng, bỏ mặc sự sống chết của các quốc gia thuộc khu vực Hạ lưu. Nay Ngoại trưởng Hoa Kỳ gặp riêng như một dấu chỉ thầm thì với 4 quốc gia được để ý này, rằng- "Các anh hãy liên minh lại, chuyện gì xảy ra thì có tôi đây", đặc biệt trong 4 nước này thì có Việt Nam sẽ là Chủ tịch khối Đông Nam Á vào năm 2010. Cho nên, muốn thu phục các quốc gia trong vùng thì tốt gì hơn là Hoa Kỳ cần phải quan hệ chặt chẽ với Việt Nam!

Như thế, tổng kết một cách khái quát chung về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nhiệm ký đầu của Tổng Thống Obama, một điểm sáng hiện lên để cho người ta dễ dàng nhận ra, là những chuyến bay quanh của Bà Ngoại trưởng nước Mỹ đã tạo nên một vòng vây nhằm thắt chặt lại, để khống chế sự vùng dậy rồi nhảy vọt của con Sư tử Trung Cộng, mà Việt Nam lại một lần nữa rơi vào tầm ngắm của Hoa Kỳ chọn làm điểm bờ kè để ngăn làn sóng kinh tế của Trung Cộng đang ào ạt đổ vào Đông Nam Á, hay nhấn mạnh một cách thật đậm để người Việt Nam dễ nhớ rằng: Trong thời chiến, Mỹ dùng Việt Nam làm nút chặn làn sóng Đỏ Cộng Sản. Nay trong thời bình, Hoa Kỳ dùng Việt Nam làm con Đê để cản làn sóng Xanh của Trung Cộng. Vậy, một câu hỏi thật lớn sẽ được đặt ra là:

Vốn quốc gia và dân tộc có nghiệp dĩ như thế, thì Lãnh đạo Việt Nam sẽ làm gì ???

Câu trả lời thuộc về giới cầm quyền Hà Nội. Nhưng tình hình chính trị Việt Nam đang có những biến động lớn, đã cho phép người ta đi đến một kết luận dễ dàng trong khả quan. Đó là đảng Cộng Sản Việt Nam không còn một con đường nào khác hơn, ngoại trừ một sinh lộ "độc nhất vô nhị" là phải bước qua cánh cửa của Hoa Kỳ đang mở ra. Tại sao? Vì :

- Còn phụ thuộc vào Trung Cộng thì đảng viên có khuynh hướng cầu tiến, cầu danh không thể vươn lên vì những thành phần cố hữu do Bắc Kinh đào tạo, từ đây sinh ra hàng loạt tư tưởng tiêu cực ngầm tạo thành vây cánh, phe phái, và trở thành khuynh hướng "Tự chuyển hóa" hay "Tự diễn biến" mà hiện nay Hà Nội cố sức phục hồi uy tín của đảng trở lại. Nhưng đã muộn, vì điểm hở của đảng không thể tự hàn đóng lại được, đó là sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa và vụ Bauxite Tây Nguyên mà gần như Trung Cộng đang nắm chủ quyền. Đây chính là điểm chết của đảng mà thời gian chưa tiên đoán được lúc nào, là nhân dân sẽ động thổ hạ quan tài xuống huyệt, và chôn vùi đảng vĩnh viễn. Vì:

- Các Tôn giáo đã, đang, vàsẽ đấu tranh dưới hình thức cầu nguyện để đòi lại công lý và quyền lợi tự nhiên của giáo hội, hay phong trào dân oan đòi lại quyền tư hữu ..vv.. Tất cả mọi khó khăn này, giới cầm quyền Hà Nội có thể sử dụng biện pháp mạnh, hay phương cách khéo léo kể cả "ngoại giao" chìm hay nổi , nhằm hạn chế và chấm dứt mọi tình trạng xấu để kéo dài sự tồn tại của chế độ. Nhưng nhất định một điều Đảng CSVN không thể khống chế sự nảy sinh tranh đấu từ thành phần Ngư dân bị thất nghiệp trong tương lai, khi tàu thuyền của họ không thể xa bờ vì lệnh cấm của Trung Cộng, từ đây vì sự sống mà thành phần này sẽ đứng lên và kéo theo thành phần công nhân bị thất nghiệp, bất mãn vì công nhân Trung Cộng ngày một dồn sang, đồng thời tệ nạn xã hội như say sưa rượu chè, tranh giành trai gái, không tôn trọng người bản địa của công nhân Trung Quốc. Tất cả các điểm này nghĩ là nhỏ nhưng tác động đến tính tự tôn dân tộc của lớp trẻ Việt Nam. Đồng thời các tôn giáo, đảng phái, trí thức và mọi thành phần xã hội đều chuyển hướng tập trung vào một mục đích duy nhất là: Bài Trung Giải Cộng bằng những cuộc đấu tranh ôn hòa, khi đó Đảng CSVN chỉ có cách là ... tắt thở .. .. Liệu Đảng còn lấy cớ gì để đàn áp khi nhân dân quyết định hành động để: Giữ Nước? Không cần thiết để suy đoán hay cân lường về hậu quả gì sẽ xảy ra với các vị lãnh đạo. Vì 15 vị trong chính trị bộ cũng đã và đang tiên liệu được điều này. Cũng không cần đặt giả sử vì nó sẽ xảy ra trong tương lai gần .. .. và điểm này sẽ đụng chạm mạnh rồi làm tan vở mối quan hệ Trung- Việt. Như thế, sự lo ngại về sức kháng cự của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam sẽ như thế nào, nếu có một cuộc chiến không may xảy ra, dù là trên biển hay trên bộ? Vì:

- Duy nhất chỉ có quốc gia Hoa Kỳ là có thể cung cấp và tân trang vũ khí, phương tiện kể cả chiến thuật của chiến tranh hiện đại cho Việt Nam để đối đầu với sức mạnh của Trung Cộng hiện nay, điểm này giới quân sự Hà Nội biết rõ như ban ngày, vì mọi yếu điểm của vũ khí và chiến lược hiện có đều đã bị Trung Cộng biết rõ như lòng bàn tay. Xa hơn, trên đường lối ngoại giao để né tránh được viễn ảnh của một cuộc chiến tranh, cũng như thoát ra được quỷ đạo kiềm chế của Trung Cộng, thì duy nhất là cũng chỉ có Hoa Kỳ mới làm được điều này.

Qua phân tích và đưa ra 3 yếu tố căn bản để tạm thời kết luận rằng. Giới cầm quyền Hà Nội đang thật sự "Bí lối- Bế tắc", hay nói theo cách của người đang học môn phái Thiền thì não bộ của 15 vị trong bộ chính trị đang bị chứng: Tán Loạn Tâm, và đang tự hỏi nhau là làm sao trở về dạng: Nhất Tâm. Chà! Bài toán này xem ra rất khó giải, còn khó hơn là đang chơi bài "Tiến Lên" và phải ngồi "tay cuối", mà trong tay cầm 3 con 2, nhưng các tay trên đều chuẩn bị "tới" bài bằng cách đánh "Xảnh". Ố .. là la .. May quá .. khỏi .."thúi hẻo", đang lo "văng tim" ra ngoài thì có cú điện thoại báo là: Thượng Nghị Sĩ Jim Webb đến thăm. Chao ôi! Ngon chi lạ, còn hơn "Mèo mù gặp Cá rán".

Trên truyền thông đã có quá nhiều bình luận và phân tích về chuyến đi của vị Thượng Nghị Sĩ đẹp trai thích ăn nước mắm và đàn bà Việt Nam này, đã hé mở ra một câu hỏi nữa là:

- Liệu tiến trình quan hệ Việt- Mỹ xúc tiến nhanh không, để tránh được hiểm họa có thể là chiến tranh vũ lực ..vv.. xảy ra từ phía Trung Cộng chủ động?

Tạm thời có thể lý giải rằng, không quá nhanh như một số người Việt Nam phi cộng sản mong muốn. Bởi, lãnh đạo cả hai quốc gia Mỹ-Việt đều muốn thực hiện kế hoạch "từ từ lượm hoa rơi". Vì:

Phía Việt Nam: Bộ 3 tam đầu chế "Mạnh-Triết-Dũng" có thể đều đã bị "sập bẫy" của Trung Cộng. Cho nên, mọi xúc tiến trong ngoại giao với Hoa Kỳ không chỉ trong quá khứ, đặc biệt là hiện tại phải hết sức cẩn thận, khéo léo, kéo dài cho hết thới gian đương nhiệm, sau đó "phủi tay", giao cho người kế nhiệm. Khi đó xem như "huề cả làng", hay nói sát nghĩa hơn là chính họ cũng đang chờ tháng 1 năm 2011 tới mau để đại hội Đảng.

Phía Hoa Kỳ: Chuyện Biển Đông và Hoàng Sa- Trường Sa là tham vọng của họ, hay nói đúng hơn, Hoa Kỳ phải chen chân cho bằng được để vào Việt Nam, trước khi bước trên lộ trình Đông Nam Á mà họ đã vạch ra. Tuy nhiên, bài học chiến tranh Việt Nam trước đây đã dạy cho họ một sự khôn ngoan trong từng bước đi, nhất là đối với giới cầm quyền Hà Nội, điểm then chốt và căn bản để mở toang con đường ở đây, là hệ thống Tình báo của CIA chưa bám sâu, mọc rể thành Chân Rết trong giới quân sự Việt Nam, vì thế "dục tốc bất đạt". Bởi, xin bạn đọc cũng nên nhớ cho là từ năm 2000 trở lại đây, số lần gặp gở chính thức hay bán công khai của giới quân sự thuộc 2 quốc gia nhiều hơn, so các cuộc thăm viếng của nguyên thủ hay quốc hội hành pháp.

Ôi! Mọi sự còn dài và hấp dẫn, hồi sau sẽ rõ!

Để kết thúc bài báo này. Xin làm vui lòng bạn đọc bằng một câu chuyện dưới đây về cuộc hội kiến giữa TNS Jim Webb và các lãnh đạo Việt Nam như sau:

Tại Phủ Thủ Tướng, cả 3 ông Nguyễn Tấn Dũng- Nguyễn Minh Triết và Jim Webb đang trò chuyện thân mật. Bổng nhiên, ông Triết lấy cái rờ -mụt -cần -trâu bấm Tivi lên, đúng vào lúc hãng Truyền hình VTV1 đang phát đoạn phim 4 Nhà đấu tranh dân chủ đang nhận tội. Thấy vậy:

Jim Webb: Thủ tục pháp lý của các anh bây giờ nhanh thật, nhưng sao hôm nay các anh này lại có mặt trên Tivi?

Ông Triết: Quý Quốc phải hiểu ý chúng tôi là gì chứ! Nghĩa là chúng tôi sẵn sàng làm bạn thân với quý quốc, nhưng đừng bao giờ đi sâu vào chuyện nhà của chúng tôi.

Jim Webb: Không bao giờ! Đó là chuyện của quý quốc, chỉ cần chúng ta là bạn.

Ông Dũng: Vậy thì hay quá! Mời anh Jim uống trà Móc Câu .. à quên .. trà Móc .. Họng.

Jim Webb: Ngon thật! Lúc nào hai anh qua Mỹ, tôi sẽ mời các anh uống Bẹp .. Xì..

Ông Triết: Không phải! It is Pepsi . No .. No Bẹp .. xì. Anh nói tiếng Anh sai rồi.

Jim Webb: Oh! Your English is very .. Quẹo ..

Ông Dũng: Xin anh Jim nhớ cho. Tôi và anh Triết rất thích ăn Cà Rốt của Hoa Kỳ.

Ông Triết: Vâng, anh Jim cũng nhớ cho là cả hai chúng tôi không thích Cái Gậy.

Jim Webb: Tôi hiểu. Tôi sẽ chuyển lời của các Ngài đến Đại Ca: ÔLALA của tôi.

Vâng! Câu chuyện trên chỉ là "Phịa" thôi. Nhưng tiên đoán về đường hướng của 2 quốc gia Mỹ-Việt sẽ là như thế! Vậy, Hoa Kỳ sẽ giúp ích gì cho Việt Nam trong tương lai? Tầm quan trọng như thế nào? Và sự có mặt của Hoa Kỳ sẽ lợi hay hại cho công cuộc đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam. Tất cả phần nhận định này sẽ được lên khuôn trong số Báo kỳ tới. Cũng cùng một Tác giả dưới tựa đề: "MỸ LÀ KẺ PHẢN BỘI. NHƯNG HÀ NỘI PHẢI CẦN TÊN PHẢN BỘI NÀY".

Trân trọng mời đọc giả tiếp tục theo dõi, và thân ái kính chào quý vị.

Nguyễn Duy Thành

Linh mục Nguyễn Văn Lý bất ổn sức khỏe trong lao tù Cộng Sản


Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406
(Bản tin ngày 28-08-2009)


Ngày 24-08-2009 vừa qua, chị ruột của linh mục Nguyễn Văn Lý là bà Nguyễn Thị Hiểu và một cháu trai gọi linh mục bằng cậu ruột đã đến trại giam Ba Sao, Nam Hà thăm cha. Đây là cuộc thăm viếng sớm hơn thường lệ, vì lẽ ra phải là đầu tháng lẻ.

Linh mục Lý xuất hiện, chân đi hơi cà nhắc nhưng sắc mặt vẫn bình thường, trong bộ đồ tù sọc dưa mà ngài luôn cảm thấy khó chịu. Sau khi hỏi thăm gia đình bè bạn, cha nói ngay về tình hình sức khỏe bản thân, vốn đang bị cao huyết áp (xin xem lại bản tin ngày 13-07-2009). Vị tù nhân lương tâm cho bà chị biết nhiều điều mà trong chuyến thăm ngày 09-07, cha chưa nói:

“Hôm 13-05, đang đi lui đi tới trong căn phòng biệt giam chật hẹp, em tự nhiên thấy máu chảy đầy sàn nhà. Nhìn kỹ thì thấy máu xuất ra từ phần hạ thể, từ bàng quang. Toàn là máu bầm. Em kêu y tá bác sĩ. Họ liền tới xức thuốc và cho uống thuốc cầm máu. Vết thương nay đã lành. Ngày 25-05, em lại bị té trong phòng, lủng một lỗ nhỏ phía sau đầu. Trại cũng lại cho uống thuốc. Hôm 12-07, ba ngày sau chuyến thăm của gia đình, tự nhiên em cảm thấy tay phải và chân phải bị cứng đờ, không cử động được. Trại cũng cho uống thuốc chứ không chích. Thấy chuyện bất thường, ngày 14-07, em đã viết một lá thư, yêu cầu gia đình thăm đầu tháng 08. Vì tay không cử động bình thường, thành ra chữ viết rất nguệch ngoạc. Thấy chẳng có hồi âm, nên ngày 03-08 em viết thêm một lá thư nữa để gia đình biết. Lần này thì chữ viết đẹp hơn, vì phải cố gắng nhiều. Nay thì sức khỏe tạm ổn”. (xin xem hình chụp bức thư).

Bà Hiểu trả lời: “Lá thư ngày 14-07 của cậu, gia đình không nhận được. Còn lá thư viết ngày 03-08 thì mới nhận hôm 22-08. Trước đó, ngày 15-08, cháu Quyên (gọi cha Lý bằng chú, đi tu dòng Đức Bà Đi Viếng tại Huế) khi gặp cha Nguyễn Hữu Giải tại La Vang thì đã được cha cho biết sức khỏe của cậu không ổn và cha đã nhận được tin cấp báo này từ Hà Nội”

Linh mục Lý đáp: “Em mong từ nay được thăm nuôi hàng tháng để kịp thời thông báo về sức khỏe. Chị không đủ sức thì nhờ mấy đứa cháu. Rồi còn Tòa Tổng giám mục Huế nữa, vốn có trách nhiệm chính về em”. Đoạn cha Lý quay sang nói về chuyện khác: “Thời gian gần đây, em có yêu cầu trại để cho em có quyền chia sẻ đồ ăn thuốc uống cho các tù nhân nghèo khổ. Ban đầu trại không cho. Sau đó em tranh đấu: Nếu không cho phép tôi san sẻ thì những món quà gia đình gởi, tôi sẽ không nhận nữa, gởi trả lui hết. Là linh mục, tôi không có thể hưởng một mình được. Lương tâm của tôi không cho phép. Rất nhiều anh em tù nhân túng thiếu thức ăn thuốc uống trong trại này, tôi phải chia sẻ cho họ. Nay thì trại đã bằng lòng! Vậy xin gia đình ráng gởi ra đều đặn, để em có thể giúp cho những bạn tù không ai thăm nuôi giúp đỡ. Họ rất tội nghiệp. Nhà tù CS ra sao thì Chị biết rồi!”

Quay sang viên trung tá công an tên Nam, người đặc trách “quản lý” mình từ bao năm nay, cha Lý nói một cách thẳng thừng: “Các ông giết Đức cha Nguyễn Kim Điền là sai rồi, lộn rồi! Phải giết Nguyễn Văn Lý này mới đúng! Tôi nay như người bị bệnh Sida (Aids), hết thuốc chữa rồi. Các ông bắt tôi kiểm điểm 3 tháng một lần để mong tôi thay đổi tư tưởng! Có gì mà kiểm điểm, mà thay đổi chứ! Tôi kiểm điểm các ông, kiểm điểm nhà nước này thì có. Bao nhiêu điều sai lầm và tội ác, các ông đang phạm ở Tây Nguyên, ở Thái Hà, ở Tam Tòa ... Ngày nào ra khỏi đây, tôi sẽ tới những chỗ đó để hỗ trợ đồng bào, để tố cáo và phản đối tội ác của nhà cầm quyền Cộng sản …”

Kết thúc cuộc nói chuyện dài hai giờ (ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt), bà Hiểu đã để lại cho ông trung tá Nam ba số điện thoại: một của Tòa TGM Huế, một của gia đình ở Quảng Biên, một của cô em họ tại Thừa Thiên, với lời dặn: “Em tôi có chuyện gì thì xin ông báo tin ngay để gia đình và Tòa Giám mục ra gấp. Cha Lý mà chết trong tù thì mấy ông chịu trách nhiệm đó!” Cha Lý cũng xin cho mình 3 số điện thoại ấy, phòng khi ra tù thì có thể liên lạc ngay được.

Trở về Huế, bà Hiểu và người cháu sáng ngày 27-08 lại đến Tòa TGM Huế, nơi bà đã ghé qua chiều ngày 23-08 để lấy bộ sách kinh cho cha Lý nơi linh mục Quản lý Nhà Chung. Bà mong gặp Đức TGM Nguyễn Như Thể để thông báo tình hình. Linh mục Quản lý cho biết Đức TGM đi vắng nên bà hãy đến gặp Đức Giám mục Phụ tá Lê Văn Hồng. Gặp ĐGM Phụ tá, bà Hiểu thẳng thắn nêu ra hai điểm:
    1. Xin Tòa TGM Huế yêu cầu nhà cầm quyền CS không được biệt giam cha Lý nữa. Việc biệt giam là một hình phạt kỷ luật trong nhà tù. Với tình trạng sức khỏe hiện tại, nếu tiếp tục bị biệt giam, cha Lý có thể lâm cơn nguy tử mà không ai biết, không ai cứu kịp.

    2.
    Tòa TGM có trách nhiệm chính đối với cha Lý, con cái của Giáo phận Huế. Gia đình đi thăm là chỉ vì lý do máu mủ thôi!. Với lại gia đình ở quá xa, không thể mỗi tháng đi thăm nuôi một lần. Đức Cha biết rồi đó, Ủy hội Tự do Tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, trong chuyến thăm cha Lý ngày 13-05-2009, đã chê rằng gia đình đi thăm nuôi cha Lý 2 tháng một lần là quá ít. Trong khi đó Tòa TGM mỗi năm chỉ thăm cha Lý một lần duy nhất”
    !?!
Đức Giám mục Phụ tá lắng nghe, ghi nhận ý kiến. Ta hãy chờ xem!

Bà Hiểu cũng cho biết là khi trở về nhà, bà sẽ làm đơn yêu cầu trại giam không được biệt giam linh mục Nguyễn Văn Lý nữa. Ta cũng hãy chờ xem!

Xin Đồng bào và Thân hữu quốc tế tiếp tục quan tâm theo dõi, thông báo và cầu nguyện cho sức khỏe của vị tù nhân lương tâm, biểu tượng đấu tranh bất khuất cho Dân chủ Nhân quyền và Tự do tôn giáo tại VN.

Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406 tường trình theo lời kể của bà Nguyễn Thị Hiểu.

Huế ngày 28-08-2009, lúc 15g30

Thursday, August 27, 2009

Tự hào dân tộc! - Đặng thiên Sơn

Đặng thiên Sơn

Người Việt thường tự hào mình là một dân tộc có trên “Bốn Ngàn Năm Văn Hiến”. Nhưng, hỏi văn hiến là gì? Thì hầu như nhiều người, đặc biệt là thế hệ trẻ không tránh khỏi sự lúng túng khi giải thích về hai chữ này. Vì vậy, ý niệm về văn hiến chỉ là sáo ngữ và trở thành một thứ thông điệp là “nói để mà nói”. Người ta lúng túng có hai lý do. Thứ nhứt, vì không chịu tìm hiểu. Thứ hai, vì ý nghĩa của nó quá bao la, bát ngát. Vậy văn hiến (文 獻)là gì, nội dung ra sao?

Nếu văn hóa và văn minh có nguồn gốc từ phương Tây. Thì tại phương Đông khái niệm về văn hiến được nhắc nhở đến tại Trung Hoa và Việt Nam . Riêng ở Việt Nam , hai chữ văn hiến thường được nói đến từ khi xuất hiện trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi vào năm 1428 qua hai câu:

Như nước Ðại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Theo Chu Hy đời Tống, Trung Hoa giải thích thì văn là “điển tịch dã”. Còn hiến là “hiền dã”. Tức văn chỉ về “khuôn phép, trước tác, sách vở”. Còn hiến chỉ về những “nhân vật hiền tài”. Như vậy, văn hiến là văn hoá, sáng tạo và số lượng hiền tài của đất nước.

Nội dung của văn hiến biểu hiện trong đời sống con người qua các phương diện Văn hóa, Xã hội, Chính trị, Kinh tế. Những biểu hiện này thay đổi liên tục hết thế hệ này tới thế hệ kia theo từng thời kỳ mạnh, yếu của đất nước đã tạo nên lịch sử.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(Bình Ngô Đạo Cáo của Nguyễn Trãi)

Một cá nhân không hiểu lịch sử dân tộc mình sẽ ngại ngùng, bỡ ngỡ trước các dân tộc khác khi được hỏi tới. Điều này, có thể đưa đến sự chối bỏ nguồn gốc và dẫn tới một quyết định mù quáng.

Tại hải ngoại có nhiều người ra đường không dám nhận mình là người VN. Ngược lại, đã không hổ thẹn tự nhận mình là người Tàu, người Nhật, người Đại hàn. Trong khi lịch sử dựng nước, giữ nước của các dân tộc vừa kể không có gì hay ho đáng để tự hào hơn Việt Nam.

Trống Đồng Ngọc Lũ
Muốn tự hào về dân tộc, người ta phải hiểu được những thứ đáng để tự hào. Phải trang bị cho mình sự hiểu biết về lịch sử. Muốn được như vậy, thì phải hiểu kiến thức mỗi cá nhân không ai cho, không ai biếu, không ai tặng mà người ta phải tự mình tìm đến nó.

Là người Việt Nam khi hiểu được ý nghĩa các hoa văn khắc hình chim, gà, hươu và con người trên mặt

Trống Đồng Ngọc Lũ sau thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch tiêu biểu cho sinh hoạt 4 mùa của muôn loài, là một quyển Âm Lịch kỳ diệu thì chúng ta mới hảnh diện được về văn hóa dân tộc.

Nếu biết thành Cổ Loa xây vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch đời vua An Vương Dương có 9 vòng xoáy trôn ốc từ trong ra ngoài với các hào, lũy kiên cố về mặt quân sự là tuyến phòng thủ chống ngoại xâm, về mặt xã hội là nơi cư trú của người dân và về mặt văn hóa là trình độ sáng tạo của con người. Thì thành Cổ Loa xứng đáng là một kiến trúc độc đáo của nhân loại. Bởi vì, đem so sánh với Kim Tự Tháp của Ai Cập xây vào năm 2770 trước Tây lịch tuy có nền kiến trúc văn minh cổ đại, nhưng chỉ là mồ chôn của các vua chúa. Hay Vạn Lý Trường Thành đời nhà Thương do Tần Thủy Hoàng xây vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch là một công trình, nhưng chỉ là con đường dài ngoằn ngoèo băng qua các đỉnh đồi.

Cổ Loa thành xây vào thế kỷ thứ 3 trước
Tây lịch đời vua An Vương Dương
Phải thấy lý tưởng chiến đấu của Hai Bà Trưng, mới tự hào dân tộc VN đã có người phụ nữ lãnh đạo đất nước đầu tiên trên thế giới vào năm 40 sau Tây lịch.

Đem so với nữ hoàng Ai cập Cleopastra nối ngôi vua cha vào năm 51 trước Tây lịch hay đời nhà Đường năm 690 có Võ Tắc Thiên, đời Mãn Thanh năm 1835 có Từ Hy Thái Hậu. Và đối với lịch sử cận đại Anh quốc có nữ hoàng Elizabeth Alexandra Mary, có thủ tướng Margaret Hilda Thatcher; Phi luật Tân có tổng thống Maria Cojuangco Aquino, TT. Macapagal Arroyo và Đức quốc có bà thủ tướng Angela Merkel. Thì những người đàn bà vừa kể, không ai thể hiện được tinh thần quốc gia dân tộc với bốn chữ “ Nợ nước, tình nhà”.

Khi nhận ra được trận thủy chiến của Ngô Quyền vào năm 938 và Trần Hưng Đạo vào năm 1288 trên sông Bạch Đằng với quân Nam Hán, quân Nguyên bằng tầm vong, cọc sắt là sự phối hợp và vận dụng thủy triều một cách khoa học có một không hai của nhân loại, và vào năm 1786 chỉ trong vòng bảy ngày vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Mãn Thanh đông gấp mấy chục lần ra khỏi bờ cõi, mới tự hào mình là dân Việt Nam.

Những chiến công và tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc của tiền nhân vừa kể. So với những trận đánh với vủ khí cận đại khi người Anh ca tụng tướng Bernard Montgomery, người Mỹ ca tụng tướng George Smith Patton, người Pháp ca tụng tướng Charles De Gaule thời đệ nhị thế chiến về “Trận chiến huyền thoại Normandy 1944”,thì những người này vẫn không sánh bằng.

Nhìn lại dân tộc VN , với hơn 1.000 năm bị Tàu đô hộ và 100 năm bị thực dân Pháp cai trị, nhưng bản sắc dân tộc vẫn còn. Chúng ta không mất gốc, không bị đồng hóa và còn xuất sắc hơn nữa là đã có được một tiếng nói riêng độc đáo. Đặc thù này so với các dân tộc Nam Mỹ như: Mễ, Ba Tây, Á Căn Đình v.v… họ chỉ bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đô hộ chưa đầy 100 năm đã mất gốc, tiếng nói không còn. Vậy thì tại sao chúng ta không tự hào về dân tộc của mình?

Hai Bà Trưng
Người Việt tỵ nạn cộng sản nếu không hiểu rõ lịch sử lá cờ vàng ba sọc đỏ, là sự chuyển hóa nối tiếp của lá cờ dân tộc với “quẻ càn” có nền vàng từ năm 1802 đời nhà Nguyễn, chớ không phải là quốc kỳ của thời đệ nhứt, đệ nhị VNCH.

Thì làm sao đủ thuyết phục người nghe, khi muốn triệt hạ lá cờ nền đỏ sao vàng của đảng CSVN bán nước xuất hiện năm 1930, đang áp đặt lên dân tộc Việt Nam.

Người Mỹ không chấp nhận lá cờ “Con Voi Trắng” của đảng Cộng hoà hay “Con lừa ” của đảng Dân chủ là quốc kỳ của mình. Họ chỉ công nhận lá cờ hiện nay có tiểu sử từ 13 ngôi sao (thirteen colonies) đến 50 ngôi sao tượng trưng cho 50 tiểu bang kể từ ngày lập quốc vào năm 1776. Thì phải hiểu người Việt Nam tỵ nạn CS tại hải ngoại không chấp nhận lá cờ máu của đảng CSVN là điều đương nhiên.
Thủy chiến
Việt Cộng gian ác đang ngụy tạo lịch sử dân tộc. Chúng cho rằng vua Hùng có công dựng nước, nhưng người có công giữ nước là Hồ Chí Minh. Đây là một sự man trá trắng trợn không thể tha thứ được. Do đó, kiến tạo niềm tự hào để trả sự thật cho lịch sử là điều cần thiết đối với mọi thế hệ. Đặc biệt là thế hệ trẻ, những người đang trên đường thay thế cha, thay thế anh trong sự nghiệp xây dựng cộng đồng VN hải ngoại và chuẩn bị kiến tạo một nước Việt Nam độc lập, tự do không cộng sản tại quê nhà.

Với quá trình dựng nước và giữ nước qua bao thăng trầm, dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn. Điều này, phải chăng đã cho thấy chúng ta nhờ có truyền thống “mấy ngàn năm văn hiến” ? Nếu thừa nhận và coi đó là tài sản quí báu của cha, ông để lại thì đây không phải là điều chúng ta ngẫng mặt tự hào hay sao?

Đặng thiên Sơn (26/08/09)

Tài liệu tham khảo:

- Việt Nam Văn Minh Sử của Lê Văn Siêu
- Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
- Bách Khoa Toàn Thư (Wikipedia)

Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria phản đối SBS Radio về quảng cáo chương trình ca nhạc Tứ Đại Thiên Vương đến từ Việt Nam

  • Tài liệu từ SBS Radio

  • Bấm vô play để nghe


Diễn văn chào mừng Buổi Ra Mắt DVD "Sự Thật về Hồ CHí Minh" - Nguyễn Thế Phong

Diễn văn chào mừng Buổi Ra Mắt DVD "Sự Thật về Hồ CHí Minh" tại Melbourne ngày 23-08-2009

Nguyễn Thế Phong – CÐNVTD-VIC

Chúng tôi xin được đại diện toàn thể đồng bào, các hội đoàn đoàn thể tại tiểu bang Victoria để hân hoan và hãnh diện chào đón LM. Nguyễn Hữu Lễ, ông Trần Quốc Bảo của Phong Trào Ðòi Trả Tên Sài Gòn nhân dịp ra mắt cuốn DVD phim tài liệu đầu tiên lịch sử: “Sự Thật Về HCM” hôm nay.

Những ai nghiên cứu về lịch sử đều phải công nhận rằng những sự kiện lịch sử và những hệ quả của chúng đều có nguyên do và xuất xứ trước khi những biến cố hay sự kiện này xảy ra. “Nothing is happened in vacuum”. Ngay cả đến những chủ thuyết gây ra những thảm cảnh và điêu tàn cho nhân lọai cũng phải có những lý thuyết gia và những kẻ đi theo chủ thuyết đó đem ra thi hành thì mới có thể có đại họa. Cũng như vậy, như một mầm mống, Hồ Chí Minh đã hiện nguyên hình là nguyên nhân của đại hoạ mà dân tộc và tổ quốc VN đã và đang phải gánh chịu hôm nay và trong cả tương lai nữa. Chính HCM đã là cha đẻ của con quái vật CSVN mà hôm nay cả đất nước và hơn 85 triệu người dân đang quằn quại đưới móng vuốt bạo tàn của nó. Con quái vật CSVN này đã nở sanh ra từ cái quái thai Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản: Vô Tổ Quốc, Vô Gia Ðình, Vô Thần và Vô Nhân Ðạo mà HCM đã chung chạ để đẻ ra.

Thế giới nhơn loại chúng ta đang sống đã trải qua quá nhiều giai đoạn, chủ nghĩa và biến cố đau thương trong lịch sử của mình. Mỗi một lần như thế là có biết bao sanh mạng con người bị tiêu diệt bởi những lý thuyết quái thai và cầm thú. Trong lịch sử cận đại, chúng ta chỉ cần nhớ lại: Ðệ II Thế Chiến với chủ nghĩa phát xít và kỳ thị chủng tộc của Hitler, rồi chủ nghĩa Cộng Sản Liên Xô dưới triều đại của Stalin đã thủ tiêu hàng chục triệu sanh mạng, Cuộc Cách Mạng Văn Hoá ở TQ hàng chục triệu khác, Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất Ðấu Tố ở VN gần 1 triệu người, Cuộc Thảm Sát Tết Mậu Thân hàng trăm ngàn, Cánh Ðồng Chết ở Campuchia khoảng 2 triệu người, Cuộc Vượt Thoát Bằng Ðường Biển Lớn Nhất trong lịch sử của nhân loại sau năm 1975 tại VN hơn 1 triệu người chết, Cuộc Thảm Sát tại Thiên An Môn hàng chục ngàn người, cũng đủ thấy được rằng: hầu như toàn bộ những thảm kịch này đều xuất phát từ một thứ chủ nghĩa: đó là độc tài, kỳ thị, phát xít và ghê tởm hơn cả là Cộng Sản.

Như chúng tôi đã trình bày, những thảm họa này đều có một mầm mống và đến từ một con người nói đúng ra là một con ác thú nào đó như: Hitler, Stalin, Mao Trạch Ðông, Pol Pot và Hồ Chí Minh v.v… Một mẫu số chung là chỉ có khi nào bạo quyền của những con ác quỷ này bị xoá hẳn thì sự thật cũng như tầm vóc tàn bạo và giết chóc của chúng mới được nhơn loại biết đến một cách tường tận và chính xác mà thôi. Ví dụ như chỉ sau khi chế độ Ðức Quốc Xã, Chế Ðộ CS tại Liên Xô, chế độ diệt chủng Pol Pot và Sadam Hussein bị tiêu diệt thì nhân loại mới biết họ đã giết chết là bao nhiêu. Ngày nào mà chế độ tàn dư của những tên bạo chúa và đồ tể này còn là ngày đó những tên lãnh tụ hình người dạ thú này còn được đảng và tay sai của chúng đánh bóng, huyền thoại hoá, tôn thờ và tiếp tục che đậy như Mao Trạch Ðông tại Trung Quốc, Fidel Castro tại Cu Ba, Kim Jong Il tại Bắc Hàn và HCM tại VN mà thôi.

Cổ nhân có câu: “Those who do not learn from history will repeat it”. “Những ai không học bài học lịch sử sẽ tái diễn nó”. Là những nhân chứng và là nạn nhân của một chế độ tàn bạo, vô nhân, vô đạo và vô tổ quốc CSVN, chúng ta có bổn phận đối với tiền nhân, các nạn nhân, các vong nhân, oan hồn uổng tử, con cháu chúng ta và toàn thể nhân loại để nhắc nhở và phân tách cho thế giới và nhân loại thấy và tiếp tục ôn lại những bài học lịch sử đau thương này để đừng bao giờ lập lại nó nữa.

Việc thực hiện những tài liệu sự thật về lịch sử như cuốn DVD Sự Thật Về HCM như thế này không phải chỉ là một việc nên làm của những nhân chứng và nạn nhân mà là còn là một bổn phận thiêng liêng phải làm. Tập thể người Việt tỵ nạn của chúng ta có được cái cái may mắn có Lm Nguyễn Hữu Lễ và ông Trần Quốc Bảo hy sinh đứng ra làm công việc vô cùng hệ trọng, thiết yếu và lịch sử này thay cho chúng ta. Chúng ta phải vui mừng trân quý và cổ suý những nỗ lực tuyệt vời như thế này thay vì “vạch lá tìm sâu” hoặc “bới lộng tìm vết”, thậm chí còn cáo buộc những người thực hiện như thể họ đã phạm một tội tày trời nào đó. “Nhân vô thập toàn”, một tác phẩm đầu tiên như thế này chắc chắn không thể tránh được những thiếu sót. Nhưng thế nào là một tác phẩm hoàn hảo? Một nồi cơm nấu ra còn chưa toàn hảo được nữa huống hồ là một tác phẩm. Cơm nấu ra thế nào cũng có người chê là khô quá, nhão quá, cứng quá hay mềm quá. Việc quan trọng chúng ta hay quên là, trong lúc đói có người kiếm được gạo và nấu cho chúng ta ăn. Họ đã hy sinh giờ giấc, tiền bạc, gia đình và thú vui trong cuộc sống riêng tư của họ và gia đình để nấu lên nồi cơm đầu tiên ấy. Có khen hay chê thì cũng phải có giới hạn để không làm nản lòng những người có tâm huyết hoặc những kẻ muốn tiếp nối việc làm vốn dĩ là xứng đáng và phải lẽ này. Không nên làm cho họ có cảm nghĩ từ “Công” hoá ra “Tội”

BCHCÐNVTD-VIC giống như tuyệt đại đa số đồng bào người Việt tỵ nạn hải ngoại đều trân quý và công nhận ý hướng chân chánh và mục đích chống Cộng rỏ ràng của cuốn phim tài liệu này. Chúng tôi mong rằng qua nỗ lực và thành công của nồi cơm đầu tiên này, những người nghĩ rằng mình có thể nấu cơm ngon hơn, nhiều hơn và toàn hảo hơn để vạch mặt tên đồ tể và tội đồ HCM sẽ bỏ gạo ra, củi ra và công sức ra để đóng góp cho nhơn loại nhiều nồi cơm tinh thần hay hơn hầu phá vỡ những huyền thoại của tên tội đồ phản dân hại nước này.

Kính thưa LM Nguyễn Hữu Lễ, vào giờ này tuần sau, bọn CSVN sẽ tổ chức 2 buổi Ðại Nhạc Hội trá hình để ăn mừng 60 năm ngày Quốc Khánh của CSVN tại Melbourne. Trong khi trong cũng như ngoài nước lòng mọi người đang phẩn uất và sôi sục trước cảnh quốc phá gia vong, rước voi về giày mả tổ, thượng đội hạ đạp và khôn nhà dại chợ của đảng cướp CSVN và bè lũ cầm quyền đối với Trung Quốc trong việc chúng làm áp lực chính phủ Nam Dương phải dẹp trại tỵ nan Galang, thì ngoài này cũng có những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” trong cộng đồng hải ngoại nối giáo cho giặc để đánh phá, chỉ trích và làm nản lòng những nỗ lực của người Việt QG chơn chính và CÐ.

Việc tờ báo điện tử của ÐCSVN lồng lộn chửi rủa và lăng mạ Cha Lễ và những người làm DVD này đã nói lên một điều: Viên đạn chúng ta bắn đi đã ghim trúng vào tim đem của con ác thú. Xin kính chúc mừng Cha.

Việc bọn cộng sản và tay sai phải lén lút 2 ,3 giờ sáng đi dán hơn 500 truyền đơn nặc danh như những con chuột chù khắp 4 thành phố: Footscray, St. Albans, Richmond, và Springvale kêu chủ tịch CÐNVTD-VIC là một tên Tội Ðồ đã nói lên một điều là CÐNVTD-VIC đã quá hữu hiệu trong việc chống lại nhà cầm quyền ác độc CSVN. Xin chúc mừng toàn thể người Việt tỵ nạn chúng ta.

CSVN và những tên nằm vùng tại hải ngoại trong cộng đồng chúng ta giống như những con chó, hoặc rắn rít và các loài bò sát khác. Chúng ta xịt thuốc khử trừ, đánh chúng, tất nhiên chúng sẽ gầm gừ, cắn sủa, phun nọc độc hay tìm cách hại lại chúng ta. Ðặc biệt là khi chúng ta phá vỡ những thần tượng mà chúng đang tôn thờ, dù thần tượng đó đó chỉ còn là một cái xác chết chưa chôn hơn hơn 40 năm rồi như trường hợp tên đồ tể HCM. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta chùn bước hay nương tay đối với bọn chúng. Ngược lại những dấu hiệu vùng vẫy này là dấu hiệu của sự lúng túng, tuyệt vọng, yếu thế, phi chánh nghĩa và của sự bùng lên trước khi tàn lụi của CSVN và bọn tay sai. Chúng ta lại càng phải đoàn kết, quyết tâm và nỗ lực nhiều hơn nữa đối với những dấu hiệu khả quan ấy.

Ngày chủ nhật 30-8-2009 tuần tới đây là ngày bầu cử tân BCH-CÐNVTD-VIC và cũng là ngày chúng ta tổ chức cuộc biểu tình quy mô chống bọn CSVN và tay sai ăn mừng Quốc Khánh 2-9 của chúng tại Melbourne, Crown Cassino. Chúng ta hãy biến việc chúng ta khám phá ra những sự thật bỉ ổi, bán nước hại dân của Hồ Tặc thành những hành động đấu tranh cụ thể qua việc đi bầu thật đông cho tân BCHCÐNVTD tại Victoria và tham gia biểu tình lên án hậu duệ của giặc Hồ là đảng cướp CSVN đang bán nước hại dân vào hai ngày: tối thứ sáu 28-8 vào lúc 6 giờ 30 tối và trưa chủ nhật vào lúc 12.30 tại Crown Casino.

Hoan Hô Lm Nguyễn Hữu Lễ
Ðả đảo HCM
Ðả đảo CSVN bán nước


Đểu Kép - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Sinh ngữ là ngôn ngữ đang được con người viết và nói. Sinh ngữ là ngôn ngữ sống. Sống đồng nghĩa với biến dịch, với thay đổi. Trước 1975 hai chữ “đểu cáng” và “giả mạo” được dùng trong hai trường hợp khác nhau. Ngày nay, do tính biến thiên đồng điệu giữa sinh ngữ và đời sống, đồng bào trong nước gọi hàng hóa giả mạo là hàng đểu. Bằng cấp giả mạo là bằng đểu … Giả là nói và/hoặc làm sai sự thực. Đểu là giả đi kèm thái độ xấc xược, coi thường công luận. Dưới quyền thống trị của CSVN, tất cả những nói và làm của nhà cầm quyền Hà Nội đều vừa giả vừa đểu. Từ đó, người dân cho rằng giả với đểu là cặp bài trùng. Từ đó người dân dùng chữ đểu thay cho chữ giả. Sau đây là vài hành động đểu giả điển hình của chế độ Hà Nội:

Ngày 08/08/2009 thông tấn xã chính thức của CSVN loan báo: Công Ty Đầu Tư Phát Triển Đường Cao Tốc Việt Nam đã ký hợp đồng cho phép Tổng Công Ty Cầu Đường Trung Quốc được quyền triển khai công tác thầu xây cất 1A, thuộc dự án đường cao tốc Bắc Nam, đoạn Saigon-Long Thành-Dầu Dây.

Chỉ trong vòng hơn một năm qua, tại Việt Nam, Trung Quốc đã dồn dập được “trúng thầu” những công tác xây dựng quan trọng: thủy điện, nhiệt điện, xi măng, bauxite, cầu đường v.v… Cứ mỗi lần trúng thầu là nhà thầu Trung Quôc ngang nhiên đưa vào Việt Nam nhiều ngàn công nhân, vừa chính thức vừa nhập lậu. Đi kèm với công nhân Trung Quốc là mùng mền, chăn chiếu cùng vô số vật dụng cá nhân rẽ tiền khác. Đại đa số công nhân Trung Quốc vào Việt Nam là giới lao động chân tay.

Ngày 17/04/2009, trên báo Viet Nam Net của CSVN, ông Lê Quang Trung, phó cục trưởng Cục Việc Làm Bộ Lao Động-Thương Binh-Xã Hội CSVN xác nhận “Quy định của pháp luật Việt Nam là không cho lao động nước ngoài có trình độ phổ thông vào Việt Nam làm những công việc phổ thông”

Các tin tức nêu trên có tác dụng tuyên truyền rằng Việt Nam là quốc gia thịnh vượng, có rất nhiều công ăn việc làm và rằng xã hội Việt Nam đang sung túc, người Việt Nam từ chối làm những công việc lao động chân tay. Những gợi ý vừa kể nhằm vẽ ra một Việt Nam giả. Việt Nam thực nằm ở bản tin sau đây:

Ngày 07/08/2009, báo Al-Watan từ Saudi cho biết: Văn phòng ngoại giao của Saudi tai Bangkok vừa cấp chiếu khán cho phép 12000 (Mười hai ngàn) công nhân Việt Nam vào làm việc tại vương quốc này. Ông Al-Baddah, chủ tịch ủy ban tuyển mộ nhân công Việt Nam trình bày thêm: “Chiếu khán được cấp cho người Việt Nam vào Saudi làm các công việc như: thợ nề, thợ mộc, ngư nghiệp, tài xế xe hạng nặng … Người Việt là dân tộc hiền hòa, ít gây ra tội phạm”

Ngày 13/04/2009, báo Lao Động của CSVN tiết lộ, hiện nay CSVN đã xuất khẩu trên dưới nửa triệu người Việt Nam đi làm lao động ở nước ngoài. Theo chế độ Hà Nội, công việc xuất khẩu lao động mang lại cho Việt Nam hai điều lợi: Một là xóa đói giảm nghèo, hai là giúp phần tăng thu ngoại tệ cho quốc gia. Thực tế đã cho thấy “xuất khẩu lao động” chỉ là tấm màn thô thiển che đậy tội ác buôn người của CSVN. Buôn người ở đây tức là dùng gian mưu buộc phụ nữ phải cung ứng dịch vụ “nô lệ tình dục”, buộc nam công nhân phải chấp nhận lao động khổ sai. Cuối cùng, lao động tình dục lẩn lao động khổ sai đều phải đối mặt với những món nợ khổng lồ ngoài khả năng chi trả của nạn nhân. Ngày 10/03/2009 nhật báo Houston Chronicle, tiểu bang Texas loan tải một vụ lường gạt điển hình trong nhóm tội ác “xuất khẩu lao động” của Hà Nội.

Tại Việt Nam có rất nhiều công ty tuyển dụng công nhân gia nhập chương trình xuất khẩu lao động. Những công ty này làm việc dưới quyền điều động và tổ chức của Cục Quản Lý Lao Động Ngoài Nước. Cơ quan này là một bộ phận của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội. Nói vắn tắt: CSVN là cấp lãnh đạo trực tiếp và cao cấp nhất của toàn bộ chương trình xuất khẩu lao động. Đầu năm 2008, nghe theo quảng cáo của “xuất khẩu lao động”, ông Lưu Hồng Thăng đã thế chấp ngôi nhà của cha mẹ đương sự để có tiền đóng cho CSVN nhằm đổi lấy việc làm tại Hoa Kỳ theo diện “xuất khẩu lao động”. Ông Lưu Hồng Thăng và CSVN ký với nhau một hợp đồng gồm hai điều khoản căn bản:

Điều một: Ông Lưu Hồng Thăng trả cho CSVN mười ngàn (10,000) Mỹ Kim gọi là lệ phí “xuất khẩu lao động”.

Điều hai: CSVN lo liệu để ông Lưu Hồng Thăng đươc làm thợ hàn tại Hoa Kỳ với tiền lương 15 Mỹ Kim mỗi giờ. Thời hạn làm việc là ba mươi (30) tháng.

Trong thực tế hợp đồng xuất khẩu lao động nêu trên được thực hiện như sau: ông Lưu Hồng Thăng đóng đủ 10,000 Mỹ Kim. CSVN hợp đồng kinh doanh với một công ty mô giới lao động tại Texas tên là Coast To Coast Resources.

Ông Lưu Hồng Thăng nhận lương 15 Mỹ Kim mỗi giờ nhưng bị trừ đi 2 Mỹ Kim gọi lệ phí quản lý. Thêm vào đó hàng tháng ông Thăng phải trả 500 Mỹ Kim tiền nhà: ba người một phòng. 85 Mỹ Kim tiền chuyên chở tới sở làm. Điều đáng nói nhất là tháng 02/2009, tức là sau 8 tháng ở Mỹ, thay vì 30 tháng, ông Lưu Hồng Thăng được báo cho biết là phải quay trở về Việt Nam vì visa của ông Thăng là loại visa có số hiệu H-2B, đây là loai visa chỉ có thời hạn 10 tháng. Visa này dành cho công nhân ngoại quốc làm việc tại Mỹ. Dĩ nhiên CSVN thừa biết loại visa H-2B. Nhưng họ vẫn đưa ra con số 30 tháng như một loại mồi nhử nhằm chiếm đoạt 10,000 Mỹ Kim đối với mỗi công nhân muốn đi Mỹ.

Tám tháng lương của ông Thăng trừ đi chi phí ăn, ở, tiền trả cho các loại thuế, chắc chắn số tiền ông Thăng dành dụm được sẽ quá nhỏ so với số nợ 10,000 Mỹ Kim tại Việt Nam. Đó là ý nghĩa lường gạt của chương trình xuất khẩu lao động, một chương trình được long trọng gọi là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Từ hồ sơ Lưu Hồng Thăng, nhìn vào con số 500,000 công nhân Việt Nam đã được Hà Nội xuất khẩu trong các năm qua công luận sẽ hình dung được mức độ trầm trọng của tội ác “xuất khẩu lao động” do CSVN chủ động phạm pháp.

Trên địa bàn thị trường lao động, CS Hà Nội tiến hành chính sách hai mặt:

Mặt một: Dưới bảng hiệu bauxite, bảng hiệu trúng thâu xây dựng, CSVN cho phép công nhân Tàu mà đa phần là binh lính Tàu giả dạng thường dân được tự do kéo vào Việt Nam, cư ngụ từ Bắc chí Nam và độc chiếm thị trường lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động chân tay, gọi một cách hoa mỹ là lao động phổ thông. Sự việc này làm cho thị trường lao động Việt Nam khan hiếm việc làm. Khan hiếm không vì thiếu việc làm mà là vì việc làm đã bị CSVN cống hiến cho công nhân Trung Quốc. Khan hiếm như vậy gọi là khan hiếm giả tạo.

Mặt hai: Nếu mặt một là mặt tạo bế tắc giả - giả khan hiếm việc làm - thì mặt hai là mặt tháo gở bế tắc. Tháo gở bằng cách đưa đẩy công nhân Việt Nam trở thành nạn nhân của tội ác xuất khẩu lao động. Quả thực không còn cách tháo gỡ nào đểu hơn.

Tóm lại, chính sách lao động của CSVN là chính sách hai mặt: lấy cái giả để tạo điều kiện thực hiện cái đểu. Nói rõ hơn, trong lãnh vực lao động cũng như trong mọi lãnh vực khác của sinh hoạt xã hội, CSVN bao giờ cũng đối xử với dân rất đểu. Đó là đểu thứ nhất. Thay vì để cho người dân tự do phản ứng theo kiểu “lấy đểu trả đểu”. CSVN lại dùng hệ thống công an cứng rắn cưởng bách quần chúng phải “trung với đảng”. Điều này hàm ý đòi hỏi nguoi dân lấy “trung” đền đáp đểu. Đó là đểu thứ hai. Hai cái đểu đi cặp với nhau gọi là “đểu kép” vậy.

Đỗ Thái Nhiên



Wednesday, August 26, 2009

Tội ác của csVN trong vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968




TRÍ THỨC THỜI ĐẠI - Tuyết-Lan


Tuyết-Lan

Thời đại nào cũng thế, những người có cấp bằng cao và có khả năng, đều được trọng dụng và tùy theo "nhân phẩm của họ", họ có collabo (tiếng pháp gọi tắt là collabo để chỉ những kẻ cộng tác với Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến) với các chế độ phi nhân hay không? Kết án họ hay chửi bới họ cũng bằng thừa, vì cho đến giờ phút nầy "họ vẫn chưa sáng mắt" ra, nhưng nhờ đó mà họ cũng hưởng được chút "hư danh bánh vẽ" của CSVN ban bố cho. Giá trị của họ là chỉ có vậy thôi ! Tại sao họ không về sống luôn ở Việt Nam nhỉ? Yêu nước, yêu CSVN thì phải về chứ. Sống ở chế độ tư bản làm chi để cho nó bóc lột mình à?

Chúng tôi đăng bài viết dưới đây vì nhận thấy có nhiều chi tiết rất hay mà những người ở Âu Châu chưa hề biết đến.


Bạn thân mến,

Hẳn bạn đã nghe tin ngày 4 tháng 3, CSVN làm lễ ... Tổ Quốc Ghi Công cho 17 Việt ... kìu có công với chế độ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ban tuyển chọn và đề cử gồm có Ủy ban Trung Ương, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ủy Ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại Giao, Hội Liên Lạc người Việt Nam ở nước ngoài (mấy cái Ủy Ban này tên dài quá Bạn ơi!) và Ban lãnh đạo VNNet đã bình bầu và trao giải Vinh danh nước Việt 2006, cho những người có xú danh như sau:

    01. PGS. TS. Trần Nam Bình, (Việt kiều Úc), PGS của trường Đại Học New South Wales, Úc.
    02. TS. Lê Quang Bình, (Việt kiều Mỹ), chuyên viên của Advanced Micro Devices (AMD), Mỹ.
    03. GS. Nguyễn Văn Chuyển, (Việt kều Nhật Bản), GS. Đại Học Phụ Nữ Nhật Bản.
    04. TS. Đỗ Đức Cường, (Việt kiều Mỹ), chuyên gia cao cấp trong ngành Ngân Hàng tại Mỹ. Đại Sứ Thiện Chí Liên Hiệp Quốc, và Cố Vấn cao cấp của Ngân hàng tại Việt Nam.
    05. Trung Dung, (Việt kiều Mỹ), Giám Đốc điều hành V-Home Group, Mỹ.
    06. Bs. Hoàng Anh Dũng, (Việt kiều Bỉ), Bỉ.
    07. BS. Quỳnh Kiều, (Việt kiều Mỹ), phụ nữ "xuất sắc" ở California, Mỹ.
    08. GS. TS. Thái Kim Lân, (Việt kiều Đức), Đại Học Munich, Đức.
    09. GS. TS. Trần Minh Tâm, (Việt kiều Thụy Sĩ), Thụy Sĩ.
    10. Họa Sĩ Dương Văn Thành, (Việt kiều Thụy Điển), ở Thụy Điển.
    11. Linh Mục Nguyễn Đình Thi, (Việt kiều Pháp), Chủ Tịch Hội Huynh Đệ tại Pháp.
    12. GS. TS. Phạm Gia Thụ, Đại Học Canada.
    13. KS. Đỗ Anh Thư, (Việt kiều Mỹ), Hội VNHelp ở Mỹ. TGĐ quỹ Y tế, Giáo dục, Văn hóa của CSVN.
    14. TS. Trương Nguyễn Trân, (Việt kiều Pháp), Giám đốc Nghiên Cứu Danh Dự (!) Trung tâm Vật Lý Lý Thuyết tại Đại Học Bách Khoa Paris, Pháp.
    15. GS. TS. Lê Dũng Tráng, (Việt kiều Pháp), Viện sĩ, Giám Đốc Trung Tâm Toán học của Hàn Lâm Viện Thế Giới tại Ý.
    16. GS. Huỳnh Hữu Tuệ, (Việt kiều Canada), Đại H8 Dc Canada.
    17. Vũ Đức Vượng, GS. (Việt kiều Mỹ), Đại Học ở San Francisco, Mỹ.
Trong số 17 người này, chúng ta thấy có 6 người là Mỹ kiều, 3 người Pháp kiều, 2 Canada kiều, 1 Úc kiều, 1 Nhật kiều, 1 Bỉ kiều, 1 Đức kiều, 1 Thụy Sĩ kiều và 1 Thụy Điển kiều. Điều đáng buồn là về khoản Việt gian này, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ chiếm nhiều nhất: 6 mạng. Cũng dễ hiểu thôi Bạn ạ! Vì rằng người Việt ở Mỹ cũng nhiều hơn ở các nước khác, cơm gạo và thực phẩm ở Mỹ cũng dồi dào hơn ở các nước khác, và ... và Tự Do ở Mỹ cũng nhiều hơn ở các nước khác, nên sau khi định cư hoặc tỵ nạn yên ổn rồi, công thành danh toại rồi, nhà cao cửa rộng rồi, 6 con người Kiều bào sĩ nọ sĩ kia hư hỏng ấy, mới muốn quay về quê hương để thưởng thức chùm khế ngọt, kẻo mai một trút hơi thở trên quê người, không có chùm khế ngọt để dằn bụng, không có con diều biếc để chỉ đường và dẫn độ về Địa ngục gặp cha già HCM!

Trong danh sách 17 người này, nhân vật nữ bác sĩ Quỳnh Kiều cùng chồng là Bs. Kiều Quang Chẩn được báo chí gọi là Song Kiều và nhắc nhở nhiều trong năm qua về những thành tích chói sáng của 2 người là Kiều - vợ chuyên mượn danh nghĩa từ thiện để làm lợi cho bản thân và đem tiền về giúp chế độ. Còn Kiều - chồng thì đút lót Hải Quan VC để tuồn đồ cổ của Việt Nam ra nước ngoài buôn bán trục lợi làm giầu.

Nhân vật nữa cũng nổi cộm bởi thành tích thiện nguyện cứu trẻ mồ côi, cứu thương binh qua những hoạt động làm lợi cho chế độ CSVN là hội VNHelp ôm chân Đảng, đã từng bị báo chí và cộng đồng người Việt ty nạn CS lên án và xa lánh. Điều trớ trêu là vị Giám đốc nữ anh thư của hội này lại là con của một gia đình HO, cựu tù nhân chính trị CSVN, từng bị VC bắt tù đầy và được qua Mỹ trong thành phần tỵ nạn chính trị!!

Bạn đừng vội cười mà phán rằng thành phần đó thiếu gì trên đất Mỹ này. Vâng, chúng ta không phủ nhận điều đó. Thì ra chỉ tại Mỹ no cơm ấm áo, dồi dào Tự Do quá đấy thôi. vẫn tỵ nạn, vẫn vào Quốc Tịch Mỹ, vẫn đưa tay tuyên thệ không theo CS, nhưng vẫn ... mê Cộng. Làm gì được nhau nào? Xem kìa, trong 17 xú danh đó, có tên nào là tỷ phú như những danh sách tư bản Đỏ tỷ phú đô la trong nước như Nguyễn Tấn Dũng, như Võ Văn Kiệt, như Nông Đức Mạnh v...v... chưa? Tại sao những tay tư bản Đỏ đó không nhón tay một chút tài sản của chúng để xóa đói, giảm nghèo, cứu bão lụt, giúp cô nhi quả phụ. Mà đã hơn 30 năm hết chinh chiến rồi, thương binh và cô nhi quả phụ ở đâu ra mà cứu nữa hở Bạn? Hay chính những tỷ phú cán bộ Đỏ, những Việt Kiều đú đởn, những đại gia, những cô gái chân dài, những siêu người mẫu của chế độ đó lại là tác giả của những cô nhi kia?

Bạn thấy không? Hỏi và trả lời cũng là một.


Chắc Bạn sẽ chán nản mà bảo rằng: Thôi, kệ họ. Muốn vinh danh ai thì vinh. Có ai được vinh danh, ca tụng, sùng bái bằng Hồ Chí Minh. Nhưng bây giờ theo thời gian, "thâm cung bí sử'' hết còn bí mật, thì mới hay HCM chính là một tội đồ man rợ, hèn hạ, bán nước cầu vinh, dâm đãng, hãm hại người ái quốc và giết vợ, bỏ con, nghĩa là HCM làm tất cả những tội ác gì có trên thế gian này. Những gì gọi là tội lỗi, y cũng phạm được cả. Thì đã nói y là một con quỷ mà.

Nhưng, này Bạn, không biết 17 người được cộng sản vinh danh kia, có biết câu chuyện của nhà trí thức Trần Đức Thảo, yêu Mác-Xít, từ bỏ kinh đô ánh sáng để về nước, được Bác và Đảng đãi ngộ cho đi chăn dê, thân tàn ma dại cho đến cuối đời không nhỉ? Nhờ Bạn nhắc tuồng cho họ đi.

Riêng tên thứ 17 - Vượn họ Vũ - thì không cần nói đến, chắc Bạn cũng thấy nhờm tởm y rồi phải không? Hôm trước, biểu tình chống VC Tôn Nữ Thị Ninh tại San Jose, thấy bản mặt Việt gian của y khi đẩy mụ Ninh lên xe, mà thấy rằng tự điển Việt Nam chưa định nghĩa đủ hai chữ nhục nhã. Phải định nghĩa nhục nhã là Vượn Vũ! Cũng như báo chí trong nước đã định nghĩa hai chữ chôm chỉa bằng tên của ông nhạc sĩ Bảo Chấn vậy.

Thân mến chào Bạn.

Hẹn Bạn thư sau.

Tuyết-Lan
24.08.2009