Tuesday, August 25, 2009

Đà Nẵng vang bóng một thời - Nguyễn Quý Đại

Nguyễn Quý Đại

Từ thế kỷ 18 thành phố Đà Nẵng thay thế Hội An giữ vai trò quan trọng, là cửa ngõ giao thông về ngoại thương, phát triển kinh tế của miền Trung. Những thương thuyền ngoại quốc từ các nước Âu Châu, Mỹ hay các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ, Macau, Singapore, Manila từng lui tới cảng Đà Nẵng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Về địa danh Đà Nẵng theo tài liệu lịch sử có nhiều danh xưng như: Hàn Cảng, Hiện Cảng … nhưng người ta thường gọi là: Hàn, Tourane, Đà Nẵng

Từ năm 1817 thực dân Pháp từ bỏ ban giao bằng ngôn ngữ, thay thế bằng vũ lực là tàu đồng, súng đại bác với đoàn quân viễn chinh thiện chiến. Năm 1847 vì nhu cầu bành trướng thế lực ở Viễn Đông, tìm thị trường tiêu thụ và khai thác vật liệu rẻ. Việt Nam có bông vải, lụa, đường, gạo, café, cao su, quế gỗ quý. Những quốc gia ở Á Châu như: Ấn Độ, Trung Hoa, Mã Lai, Phi Luật Tân đều bị các nước Tây phương xâm lăng. (triều đình Việt Nam thi hành chính sách bế môn tỏa cảng cấm đạo, tình hình trong nước không ổn định, giặc giã nổi lên khắp nơi, thêm nạn giết giáo sĩ truyền giáo là một cái cớ để Pháp xâm lăng). Ngoại trừ Thái Lan và Nhật Bản còn độc lập. Thái Lan ký hiệp ước thương mại dễ dàng với Anh năm 1826 và Hoa Kỳ năm 1833, với Pháp 1856, khôn khéo ngoại giao với người Tây phương tránh được tai họa xâm lăng, Nhật Bản từ năm 1868 mở đầu công cuộc Minh Trị Duy Tân (Meiji Ishin) Cuộc cải cách nầy đã tạo nên một thời đại mới cho nước Nhật. Minh Trị Thiên Hoàng (Mutsohito) chủ trương canh tân đất nước, theo lối giáo dục, thương mại của Tây phương, Nhật Bản trở thành quốc gia quân chủ lập hiến giàu mạnh

Tóm lược những điểm chính trong biến cố lịch sử (1859-1945)

Đà Nẵng có vị trí chiến lược quan trọng, nhiều lần tàu chiến Pháp vào Đà Nẵng thử sức với quân VN, đại tá Lapierre cho tàu Gloire bắn phá ngày 15.04.1847, ngày 26.09.1856 Lelieur cho tàu Catinat bắn phá các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng. Tiếp theo chính sách sai lầm của vua Tự Đức với thảm kịch xử chém Giám mục Maria Diaz Sanjunjo người Tây Ban Nha ngày 20.07.1857. Nên Pháp lôi kéo quân Tây Ban Nha tham chiến tại Việt Nam.

Liên quân Pháp-Tây Ban Nha vào Sơn Trà mở màn cho cuộc chiến xâm lược Việt Nam, giai đoạn tấn công mở màn từ 01.09.1858 đến năm 1959 Pháp và Tây Ban Nha chiếm vùng đất hữu ngạn sông Hàn, khống chế vịnh Đà Nẵng và sông Hàn được 1 năm sáu tháng hai mươi hai ngày (01.09.1959 đến 23.03.1960) Trong thời gian đánh Đà Nẵng Pháp chia quân vào Nam từ 10.02.1859 đánh lấy thành Gia Định. Sau khi chiếm thắng Gia Định, De Genouilly trở ra Đà Nẵng ngày 20.04.1958, những trận đánh ác liệt xảy ra, đô đốc Genouilly bị bệnh nên phó đề đốc Page lên thay thế ngày 01.11.1859. Bộ Hải quân và thuộc địa Pháp ra lệnh Page tái chiếm Sài Gòn, qua những lần thương thuyết với triều đình Huế không thành công. Page tự động công bố Sài Gòn là hải cảng thương mại tự do ngày 22.02.1860. Vì bận tham chiến với Anh ở Trung Hoa. Page ra lệnh ngày 23.03.1860 rút toàn bộ quân khỏi Đà Nẵng vào Sài Gòn cố thủ, Page đưa quân sang mặt trận bên Trung Hoa. Sau khi giải quyết xong ở Tàu, Pháp tiếp tục quyết tâm xâm lăng Việt Nam, trở lại Gia Định ngày 07.02.1861 chiếm Ba Tỉnh Miền Đông Nam Kỳ. Ngày 25.02.1861 đánh đồn Kỳ Hòa, thành bị vỡ, Nguyễn Tri Phương bị thương, tán lý Nguyễn Duy tử trận, Gia Định bị chiếm đóng, liên quân Pháp Tây Ban Nha chiếm Mỹ Tho, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long. Ngày 11.04.1861 phó đề đốc Léonard Chaener ra nghị định xây dựng thành phố Sài gòn trên vùng đất rộng 2.500 ha

Những cuộc nội chiến ở Bắc kỳ càng ngày thêm phức tạp, phó đề đốc Bonard gởi chiến thuyền ra Đà Nẵng uy hiếp triều đình Huế, trước tình hình rối ren như vậy phải trên bàn thương thuyết, bắt đầu ngày 28.05.1862 các quan đại diện cho triều đình là Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đến Sài Gòn và Louis Bonard đại diện Pháp cùng ký hòa ước Nhâm Tuất ngày 05.06.1862. (gồm 11 điều khoản) Việt Nam chịu nhiều thiệt hại, dù trong có điều trả lại Vĩnh Long. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất triều đình Huế muốn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, nên cử phái đoàn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản đến Paris 13.09.1863. Nhưng chuyến đi vận động ngoại giao của phái đoàn Việt Nam hoàn toàn thất bại, trước tham vọng chiếm Việt Nam làm thuộc địa.

Chính phủ Pháp bổ nhiệm phó đề đốc Bonard làm tư lệnh toàn quyền hành chánh và quân sự. Ngày 15.06.1867 De la Grandière chỉ huy đoàn quân 1200 nguời, 400 lính tập với tàu chiến pháo hạm từ sông Sài Gòn đến chiếm Mỹ Tho, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Sau khi mất ba tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản (1796-1867) tuyệt thực uống thuốc độc tự tử ngày 05.07.1867

Pháp đánh Hà Nội, ngày 20.01.1873 đại uý Francìs Garnier tấn công thành Hà Nội, con trai Phò mã Nguyễn Lâm tử thương, Nguyễn Tri Phương (1800-1873) bị thương, ông nhịn đói chịu đau từ trần 20.02.1873. Pháp tiếp tục đánh chiếm phủ Hoài Đức, Gia Lâm, Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Một tháng sau, F. Garnier bị giết (chặt đầu) ở Cầu Giấy. Trong thời gian nầy đại diện phái đoàn Huế Nguyễn Văn Tường và Philastre cùng ký thỏa ước đầu tiên ngày 05.01.1874 Pháp phải trả lại Ninh Bình, Nam Định, Đến ngày 06.02.1874, Nguyễn Văn Tường và Philastre ký thỏa ước thứ 2, nhiều khoản cho quân Pháp đồn trú ở Hải Phòng đặt một trú sứ Pháp với quân hộ vệ ở Hà Nội. Vua Tự Đức lo ngại các thỏa ước đã ký, nhưng vẫn để Nguyễn Văn Tường vào Sài Gòn cùng Lê Tuấn bàn chuyện ký hoà ước mới.

Hoà ước Giáp Tuất 15.03.1874 gồm có 22 điều khoản, Hoà ước ký xong chánh sứ Lê Tuấn từ trần 17.03.1874, Nguyễn Văn Tường về Huế. Dupré bàn giao chức thống đốc cho phó đề đốc Krantz, về Pháp 16.03.1874

Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ 2 lấy cớ khai thông sông Hồng gặp khó khăn. Đại tá Henri Rivière rời Sài Gòn với đoàn quân 500 người và tàu chiến ngày 26.03.1882 đến Hải Phòng ngày 02.4.1874 và hôm sau tới Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu cử tuần phủ Nguyễn Hữu Xứng đến yều cầu Henri R. cho biết lý do đến Hà Nội. Ngày 04.04 Henri R. đến gặp Hoàng Diệu cho biết đến bảo vệ kiều dân Pháp và yêu cầu Hoàng Diệu bỏ các công sự phòng thủ. Hoàng Diệu không thuận, sáng ngày 25.04 .1882 Henri R. dàn quân trước thành gởi tối hậu thư buộc Hoàng Diệu giao thành đầu hàng trước 8 giờ sáng. Hoàng Diệu quyết tử chiến, nhưng không thể giữ thành được, để tránh thiệt hại ông ra lệnh binh sĩ rút lui, Hoàng Diệu (1828-1882) vào văn miếu viết tờ di biểu gởi về triều đình và thắt cổ tự tử. Triều đình cử Trần Đình Túc tới Hà Nội ngày 10.05.1882 Henri R. tuyên bố trả thành Hà Nội hai bên cùng giải quyết vấn đề địa phương. Giai đoạn nầy Nhà Thanh và Pháp muốn chia hai Bắc Kỳ, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam vì mưu lợi, trong lúc Pháp muốn chiến trọn Bắc Kỳ. Nhưng ngày 10.12.1882 tại Thiên Tân, Bourée và Lý Hồng Chương tạm ước về Bắc Kỳ theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng, Pháp thuộc về phiá nam Sông Hồng. Vì quyền lợi về hầm và tài nguyên Pháp muốn độc quyền chiếm đóng cả Bắc Kỳ, sau đó xoá bỏ tạm ước Thiên Tân ký với Tàu.

Cuối năm 1882 Quốc hội Pháp đồng ý tăng viện trợ cho Henri Revière 750 quân. Henri R. rời Hà Nội 23.03.1883 đến thành Nam Định 25.03. yêu cầu tổng đốc đầu hàng nhưng tổng đốc Võ Trọng Bình không trả lời, ngày 27.03 quân pháp tấn công chiếm thành, giao cho thiếu tá P.Bandens trấn giữ rồi rút quân về Hà Nội. Ngày 19.05 1883 Henri R. hành quân ngoại ô Hà Nội đang bị quân Việt Nam và cờ Đen bao vây. Henri R. chỉ huy vuợt qua khu Cầu Giấy bị bắn chết

Thực dân Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ chuẩn bị đánh kinh thành Huế, phó đề đốc Courbet được lệnh đánh Thuận Hoá ngày 11.8.1883 của bộ Hải quân và Thuộc địa. Pháp đánh Thuận An, ngày 20.08.1883 quân Việt phải rút lui, ngày 21.8 triều đình cử quan thượng bạc Nguyễn Trọng Hợp đến Thuận An đề nghị đình chiến, cuối cùng phái đoàn Việt Nam phải ký hòa ước Quý Mùi 25.08.1883, sau đó hoà ước Giáp Thân, ngày 06.06.1884 thực dân Pháp đặt nền bảo hộ tại Việt Nam. Từ đó là những trang sử đau buồn cho Việt Nam. Dân tộc Việt Nam luôn tranh đấu qua nhiều phòng trào đánh Tây, muốn thoát khỏi vòng nô lệ nên máu xương của dân quân tiếp tục đổ ra trên dòng sông lịch sử, cho đến ngày dành lại độc lập năm 1945

Đà Nẵng là địa danh góp mặt với đầy đủ vẻ bi hùng trong lịch sử, từ thương mại đến ngoại giao, đã biến thành chiến trường đầu tiên máu lửa. Đà Nẵng bị 62 năm làm nhượng địa cho thực dân Pháp. Ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý, tức ngày 01-10-1888, vua Đồng Khánh ký đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp quyền sở hữu hoàn toàn thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và khu Đà Nẵng. Theo đạo dụ này, khu Đà Nẵng gồm 5 xã cắt ra từ huyện Hòa Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương, Nại Hiên Tây. Dụ này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định ngày 02-10-1888. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có diện tích 10.000ha (tương đương với 20.000 mẫu ta). Nhượng địa Đà Nẵng thay đổi theo từng thời gian đã trở thành một thành phố theo mô hình Tây phương, lấy thương mại làm nguồn sống và phát triển, đứng đầu thành phố là Đốc Lý (thị trưởng) có Hội Đồng Thị Xã.

Năm 1902 Hội An vẫn còn là trung tâm thương mại quan trọng, Pháp cho làm con đường sắt kiểu Deceauvillle, được gọi là Tramway de l‘ilôt de l’Observatoire à Faifoo) nối liền Đà Nẵng Hội An hoạt động tới năm 1916 thì bị dẹp bỏ. Nhiều công ty lớn của Pháp đến Đà Nẵng đầu tư phát triển mạnh như: Messageries Maritmes (hàng hải), hãng Chargeurs- Réunis, Sica (hãng rượu), BGI (hãng bia) Esso (Xăng dầu), Eiffel.(cầu đường) ..v.v .... Đông Dương Ngân Hàng (Banque de l‘ Indochine); Pháp Hoa Ngân Hàng (Banque Franco-Chinois), Ngân hàng Nông Tín Bình Dân (Banque de Crédit Populaire Agricole), hệ thống khách sạn, nhà máy, bưu điện. Y tế. Cảng Đà Nẵng mở rộng đào vét sâu hơn, nhiều thương thuyền ngọai quốc có trọng tải lớn cập bến dễ dàng. Tuy nhiên trước năm 1922 ở Đà Nẵng còn dùng đèn khí đá Carbure, đèn manchon, đèn treo Hoa kỳ đốt bằng dầu lửa. Đến năm 1923 Cty SIPEA (Société Industrielle pour les eaux et L‘ Electricité en Asie) trúng thầu khai thác về điện lực đem lại ánh sáng văn minh đầu tiên về điện cho Đà Nẵng. Hệ thống cung cấp nước máy chưa thực hiện, nên phải dùng giếng bơm hay giếng đào

Từ năm 1927 có hãng xe đò của người Việt ra đời cạnh tranh với hãng xe STACA của Pháp. Vì nhu cầu khai thác kinh tế tại Đà Nẵng, Chính quyền Đông Dương cho mở hải cảng và đường hỏa xa năm 1905 có GA chính đường Lagrée (Nguyễn Hoàng ngày nay) vì nhu cầu cho việc chuyển hàng hoá nên Phòng Thương mại làm thêm đường rầy tới bờ sông Hàn, nên người ta thường gọi GA LỚN và GA CHỢ Hàn. Dân số Đà Nẵng năm 1936 khoảng 25.000 người), người Hoa cũng đến buôn bán kinh doanh thành các bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ

Sau thế chiến thứ II. 1939-1945 lịch sử Việt Nam đã bị ảnh hưởng

Nhật đảo chánh Pháp ngày 09.03.1945 tại Đông Dương, Đại sứ Matsumoto Shunichi tuyên bố trao trả độc lập cho VN (?) „châu Á trả về cho người châu Á “Ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, chế độ bảo hộ và thuộc điạ của Pháp cáo chung. Hòa ước Giáp Thân ký ngày 06.06.1884 dưới thời vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884) vô giá trị. Ngày 17.04.1945 thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim

Ngày 20.07.1945 toàn quyền Nhật Tsuchihasshi long trọng trao trả các thành phố nhượng địa mà họ đã chiếm lại của người Pháp, từ đó danh từ Đà Nẵng chính thức thay thế tên gọi Tourane dưới thời thuộc điạ

Ngày 06.8. và 09.8.1945 Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh ngày 14.8.1945.

Ngày 25.08.1945 vua Bảo Đại thoái vị, kết thúc triều đại nhà Nguyễn trị vì qua 143 năm (1802- 1945).

Ngày16.09.1945 quân Pháp núp bóng quân Anh để trở lại Việt Nam

Ngày 13.03.1946 một thỏa hiệp ký kết giữa Pháp-Hoa.Trung Hoa đồng ý để cho Pháp thay thế trong việc giải giới quân Nhật ở Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc.

Ngày 27.3.1946 một lữ đoàn Thủy quân lục chiến Pháp gồm 700 quân đổ bộ lên cảng Đà Nẵng (1)

Ngày 19.12.1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đà Nẵng cũng như nhiều nơi khác nằm trong chiến tranh mới “cuộc chiến không còn chiến tranh thuộc địa mà là cuộc chiến giữa cộng sản và thế giới tự do”. Đà Nẵng có một thời gian ngắn bị đổi là Thái Phiên. Vì nhu cầu của tình hình Việt nam và thế giới, Pháp bắt buộc phải lựa chọn một giải pháp chính trị mới cho Việt Nam và giải pháp đó không gì tốt hơn là chọn cựu hoàng Bảo Đại. Cuối tháng 12.1947, cựu hoàng đến Pháp thương thuyết.

Ngày 05.06.1948 cựu hoàng về vịnh Hạ Long ký kết thỏa ước Hạ Long trên tàu Duguay-Trouin, thừa nhận VN dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau thỏa hiệp nầy quốc trưởng Bảo Đại sang Paris ký thỏa ước Elysée với Tổng thống Pháp là Vincent Auriol. Ngày 08.03.1949 Pháp thừa nhận VN là một quốc gia. Như vậy qua thỏa ước Elysée, Pháp đã giải kết những hoà ước trước đây nhà Nguyễn đã ký kết với Pháp. Thời gian Pháp đô hộ, người dân Đà Nẵng- Quảng Nam luôn đấu tranh chống Pháp qua các phong trào Nghĩa Hội (1885) Phong trào Duy Tân (1905) đến vụ xin xâu chống thuế „Trung Kỳ Dân Biến“ (1908), Ủy ban khởi nghĩa(1916) Việt Nam Quang Phục Hội Trung Kỳ của Thái Phiên, Lâm Nhĩ, Hồ Cảnh Vinh, Phan Thành Tài, Lê Cơ với Trần Cao Vân giúp vua Duy Tân khởi nghĩa dù thất bại, nhưng đã làm thực dân Pháp ăn ngủ không yên

Di tích lịch sử và văn hoá

Ngày 03.01.1950 chính phủ Pháp chính thức trao trả Đà Nẵng thuộc về Việt Nam. Phần lớn thế hệ chúng tôi sinh ra trong thời điểm đó ở Đà Nẵng, đi học, ít chú ý đến biến cố địa đanh, lịch sử của quân dân Việt Nam chống Tây. Kiến thức về lịch sử, địa lý rất hạn hẹp vì chỉ học những giờ Sử điạ ở trường mà thôi. Những thập niên qua với tinh thần trở về nguồn của đồng hương Xứ Quảng, phát hành Đặc san xuân, hàng năm Đại hội liên Trường, ngày giỗ cụ Phan Châu Trinh do Hội ái hữu trường trung học PCT tổ chức, nhờ hệ thống xa lộ thông tin (Information superhighway), tôi có cơ hội liên lạc với các bạn một thời Phan Châu Trinh khắp nơi trên thế giới, làm tôi hồi tưởng lại kỷ niệm về Quảng Nam Đà Nẵng, mái trường xưa

Thời thuộc điạ, người Pháp không thực sự muốn khai hoá dân tộc Việt Nam, giới hạn phát triển các trường Trung và Đại học, trước năm 1936 trường Quốc Học Huế chỉ dạy hết bậc cao tiểu học (trung học đệ nhất cấp) bằng cao tiểu còn gọi là bằng thành chung (Diplôme d’ Etudes Primaires Supérieures) từ năm 1936-1937 trường QH. đổi thành Khải Định bắt đầu mở ban tú tài.

Suốt thời gian bị nhượng địa cho Pháp, Đà Nẵng chỉ có các trường tiểu học dành cho Pháp gọi là École Française và hai trường cho Nam (École des Garçons) và Nữ (École des Jeunes Filles). Tỉnh Quảng Nam đông dân nhất miền Trung không có trường Trung học, những thế hệ trước phải ra học ở Huế, Hà Nội hay Sài Gòn. (năm 1927 Pháp cho mở tú tài bản xứ (baccalauréat local) cho đến năm 1930 được công nhận như tú tài chính quốc (baccalauréat metropolitian).

Sau khi Đà Nẵng được trao trả „độc lập“ do đề nghị của chính quyền, ông Bửu Đài thị trưởng và ông Giám đốc Nha học chánh Trung Việt, ngày 07.08.1952 Thủ hiến Trung Việt ông Lê Quang Thiết, ký công văn số 3214-VP-SV cho phép mở lớp Đệ thất (lớp 6) đầu tiên, khai giảng 15.09.1952 niên học (1952-1953) 50 học sinh tạm thời học chung ở trường Nam tiểu học. Niên khoá (1953-1954) số lớp tăng lên gồm 3 lớp đệ thất và 2 lớp đệ lục, tất cả khoảng 300 học sinh

Ngày 06.05.1954 quyền tổng trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục và Thanh Niên Bộ Giáo Dục ban hành nghị quyết số 95_GD-NĐ. Thành lập các trường trung học công lập đầu tiên miền Trung như: TH Đào Duy Từ (Đồng Hới) TH Nguyễn Hoàng (Quảng Trị), TH Trần Quý Cáp (Hội An) TH Võ Tánh (Nha Trang) TH.Duy Tân (Phan Rang) TH Phan Bội Châu (Phan Thiết) Phan Châu Trinh (Đà Nẵng), có truyền thống giống như các trường Quốc Học Huế, Chu Văn An Hà Nội, Pétrus Ký Sài Gòn.

Thành lập trường trung học công lập đầu tiên tại Đà Nẵng, cố giáo sư toán Bùi Tấn đã đề nghị tên trường là một trong ba danh nhân: Phan Châu Trinh, Trần Cao Vân, Thái Phiên và Hội Đồng giáo sư đa số chọn là Phan Châu Trinh (niên khoá 1954-1955). Mỗi năm số lượng lớp học tăng, phải xây trường mới, đó là khu đất đối diện trường Nam tiểu học, vốn là một vũng sình lầy, nằm trong phạm vi của bốn đoạn đường Lê Lợi, song song với Duy Tân (nay Nguyễn Chí Thanh), đường Nguyễn Hoàng (nay là Hải Phòng), song song với đường Thống Nhất (nay Lê Duẩn)

Ngày 19.05.1961 Bộ trưởng Quốc gia Giáo Dục Trần Hữu Thể ký nghị định số 768-GD/PC/ND chính thức mở rộng lập các trường trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp. Niên khoá 1958-1959 là năm đầu tiên trường Phan Châu Trinh có thêm lớp đệ tam (lớp10) gồm đủ các ban A-B-C; (A khoa học thực nghiệm, B toán Lý, C văn chương và sinh ngữ), học đến lớp đệ nhị thi tú tài phần1, phải ra Huế học tiếp thi tú tài toàn phần.

Ngày 11.09.1962, Bộ trưởng Quốc gia giáo dục Nguyễn Quang Trình ký nghị định số 1448-GD/PC/NĐ các trường trung học đệ nhất cấp thành nhị cấp trong đó có trường trung học Phan Châu Trinh. Hiệu đoàn PCT được giáo sư nhạc Hoàng Bích Sơn sáng tác. Năm 1966 giáo sư Đoàn Văn Toàn dạy vẽ dựng cốt và tạc tượng cụ Phan Châu Trinh tại số 5 Đống Đa Đà Nẵng, do học sinh đóng góp phế liệu bằng đồng, bà Châu Liên con gái cụ Phan và nhà văn Nguyễn Văn Xuân góp ý sửa chữa, hoàn thành kinh phí 37.000 đồng trả cho thợ đúc đồng. Ngày 24.03.1966 khánh thành dựng tượng trước cột cờ sân trường, đó cũng là húy nhật thứ 40 cụ Phan Châu Trinh.

Trường Phan Châu Trinh có cả nam, nữ riêng; lớp chúng tôi không có nữ sinh. Sau nầy có trường nữ trung học Hồng Đức thì trường PCT vắng bóng hồng, dù phượng vĩ còn nở đỏ ở sân trường. Đà Nẵng một thời vang bóng, hồi đầu thế kỷ do sự phát triển của thành phố đông dân hơn.Từ năm 1965 vì chiến tranh người dân từ các quận mất an ninh đã về Đà Nẵng sinh sống, làm sở Mỹ, đời sống sung túc hơn. Nhiều trường Trung học công lập: Thanh Khê, Đông Giang, Nguyễn Trường Tộ, Quốc Gia Nghiã Tử, Nữ trung học Hồng Đức, Văn Hoá Quân Đội, Kỹ thuật. Ngoài ra còn có nhiều trường trung, tiểu học tư thục như Bồ Đề, Sao Mai, Thánh Tâm, Phan Thanh Giản, Tây Hồ, Bán công Nguyễn Công Trứ, Pascal, Thọ Nhơn Nhờ sự vận động nhiều năm của các vị nhân sĩ Đà Nẵng, mùa xuân năm 1974 Viện Đại Học Cộng Đồng được thành lập (chương trình học như của Hoa kỳ)

Trường Phan Châu Trinh không ngừng phát triển, từ nhà trệt những năm sau xây thêm lầu, có thư viện, phòng thí nghiệm, thính đường sinh hoạt văn hóa, sân bóng rổ. Trường trở nên đồ sộ, có uy tín lớn đào tạo nhiều nhân tài hữu ích cho quốc gia và xã hội. Tính đến ngày 29.03.1975, trường Phan Châu Trinh có 68 lớp gồm 42 lớp đệ nhất cấp và 26 lớp đệ nhị cấp. Giới trẻ ham thích thể thao đều biết sân vận động nằm bên cạnh cầu Vồng, có từ năm 1943 “Sport-Tournaìs” sau này gọi sân vận động Chi Lăng

Bảo tàng Chàm Đà Nẵng thành lập từ năm 1915, dưới sự bảo trợ của viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Việt Nam. Kiến trúc mô phỏng theo đường nét kiểu tháp Chàm. Trưng bày hiện vật điêu khắc bằng đá và đất nung (có niên đại từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 15), các hiện vật khai quật từ Quảng Bình đến Bình Định.

Đà Nẵng tiếp xúc văn minh Tây phương đầu tiên, những Giáo sĩ truyền đạo có nhiều cơ hội gieo đức tin Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một nhà Nguyện ở thành Điện Hải, nhà thờ Phú Thượng ở cách xa thị xã 20 km (ngã ba Hoà Khánh đi Bà Nà) xây năm 1876 nơi đó còn có dòng tu kín Phao lô, nhà thờ Chính tòa Đà Nẵng trên đường Độc Lập xây năm 1923, nhà thờ lớn duy nhất được xây dưới thời nhượng địa. Ðến năm 1963 khi Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được Tòa Thánh bổ nhiệm về làm Giám mục Ðà Nẵng tiên khởi (giáo phận mới thành lập).

Làn sóng di cư năm 1954 từ Bắc vào Đà Nẵng có những khu định cư Thanh Bồ, Đức Lợi, Tam Tòa là giáo dân Công Giáo, đã xây dựng thêm nhà thờ. Giáo dân luôn có bổn phận với tổ quốc và dân tộc, trái với dư luận: "ai theo Thiên Chúa là rước Pháp vào và theo Pháp phản quốc." cũng như ngày nay những nhóm khủng bố thường phát xuất từ những người Hồi Giáo cuồng tín, nhưng không phải tất cả tín đồ Hồi Giáo đều là khủng bố. Phúc Âm được rao giảng từ các Thừa sai, Giáo sĩ người Tây phương tới Việt Nam từ thế kỷ thứ 16, không phải thực dân Pháp mang Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Những hiểu lầm oan nghiệt cho Giáo dân làm tay sai cho Tây, nên họ phải sống tập trung với nhau để tự bảo vệ. Trường hợp Giáo dân ở vùng Trà Kiệu (2) thuộc quận Duy Xuyên Quảng Nam, phải đương đầu với phong trào Văn Thân chống Tây. Theo lý thuyết, Đà Nẵng là đất của Tây, nhưng đạo Phật phát triển mạnh có nhiều chùa như :

Chùa Phổ Đà: khởi dựng năm 1927, tổ khai sơn là Hòa thượng Thích Tôn Thắng , chùa được trùng tu vào các năm 1937, 1945, 1983 hệ Chính tông Phật giáo nơi nầy đào tạo nhiều tăng ni nổi tiếng, trước có tên Phật học viện Trung phần , năm 1961 đổi tên là Phổ Đà, điạ chỉ 332 Phan Châu Trinh.

Chùa Tam Bảo: xây từ năm 1953-1963, chùa có 5 tháp cao do thợ Quảng Nam pha màu trước khi nung ngói, tạo ra 5 màu sắc biểu tượng của Phật giáo. Đây là chùa theo phái Nam Tông(từ Ấn Độ sang), trước chùa có 2 cây bồ đề là cây con của bộ đề Đạo tràng (nơi Thích Ca thành Phật), Chùa có 2 tầng tháp nơi cất giữ một phần nhỏ Xá Lợi Phật. Toạ lạc số 327 Phan Châu Trinh

Chùa Pháp Lâm: Năm 1936 do nhóm cư sĩ “An Nam Phật Học” thuộc Chi Hội Đà Nãng đứng ra xây dựng, chùa được trùng tu năm 1970 là trụ sở của tỉnh Hội Phật Giáo. Ngoài ra còn các chùa Từ Vân, Bảo Nghiêm, Từ Tôn và các chùa nổi tiếng ở Ngũ Hành Sơn

Hội Thánh Tin Lành: Năm 1911 các mục sư đến từ Mỹ là: R.A. Jaffray, Paul M. Hoster, G. liloryd Hugles mua đất và năm 1913 xây dựng nhà Thờ bằng lá tại đường Khải Định. Đạo Tin Lành cũng gặp khó khăn với chính quyền Pháp, Pháp sợ ảnh hưởng của Mỹ đến Việt Nam(?). Lúc đầu chỉ có 20 tín đồ trong đó có 2 người thuộc hoàng tộc: Công Tôn Nữ Thị Hầu và Công Tôn Nữ Tú Oanh (cháu nội vua Minh Mạng), mãi đến năm 1922 Hội Thánh được xây lại bằng gạch ngói, mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội trưởng đầu tiên.

Đạo Cao Đài: Năm 1956 đạo Cao Đài khánh thành Trung Hưng Bửu tòa, ra mắt Hội thánh truyền giáo Cao Đài. Sau nầy có các thánh thất như Trung Thành, Trung Đồng, Liên Hoa, Trung Bửu, Trung Tâm Thánh Thất Tịnh

Trước 1975 Đà Nẵng có các rạp Ciné Chợ Cồn (Tân Thanh), Trưng Vương, Li Đô, Kim Châu, Kinh Đô, Kim. Ngoài ra còn có nhà hát Hòa Bình những quán cafe hữu tình như Lộng Ngọc, Quỳnh Châu, Ngọc Anh. Câu lạc bộ Phượng Hoàng, các quán bê thui ở đường Ông Ích Khiêm, Hội Khuyến Học, Hội Việt Mỹ. Nhiều Ty, cơ sở hành chánh lớn của vùng I. Bộ chỉ Huy Quân Đoàn I, sư Đoàn I Không quân, bộ tư lệnh Hải Quân ở Tiên Sa, phi trường Đà Nẵng. Bệnh viện toàn khoa, bệnh viện Duy Tân của Quân đội. bến xe chợ Cồn đi liên tỉnh, bến xe Diên Hồng (công trường con gà cũ) đi Non Nước, Sơn Trà, ở ngã năm Hoàng Diệu có bến xe “Traction?” đi Huế. và đường xe lửa hoạt động giới hạn giữa Huế. Đà Nẵng chỉ có một cầu De Lattre để qua vùng biển Mỹ Khê, ngoài ra còn có chiếc phà qua lại trên sông Hàn.

Đà Nẵng phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên, phía Tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là biển Đông. Cách Hà Nội 764 km, Sài Gòn 964 km. Trước 1975 dân số khoảng nửa triệu người. Năm 2009 dân số tăng lên hơn 867.545 người, diện tích 1.255,5 km² (trong đó có 305 km² của Hoàng Sa), mật độ trung bình 690/ km². Biển 15.000 km². Hiện nay có 6 quận và 2 huyện Hòa Vang và Hoàng Sa. Hệ thống giáo dục có 15 trường đại học, học viện; 17 trường cao đẳng; nhiều trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và hơn 200 trường học phổ thông. Có 17 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, 11 bệnh viện và trung tâm y tế quận huyện, 47 trạm y tế xã phường và trên 900 phòng khám chữa bệnh tư nhân, cùng với sự hình thành của trường Đại học Y Dược và trường Đại học Kỹ thuật Y tế. Cảng Đà Nẵng sâu có 9 cầu cảng dọc theo sông Hàn, sân bay quốc tế, có nhiều xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến, công nghệ cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng (theo tài liệu của thành phố Đà Nẵng).

Sông Hàn dài 204 km, thơ mộng chảy qua Đà Nẵng. Bờ biển dài khoảng 30 km cát trắng mịn, có nhiều bãi tắm đẹp như: Non Nước, Mỹ Khê, Tiên Sa, Thanh Bình, Thanh Khê, Mỹ An, Xuân Thiều, Nam Ô. Chung quanh bán đảo Sơn Trà có nhiều san hô, Ngũ Hành Sơn cách Đà Nẵng khoảng 7 km là một thắng cảnh đẹp, đứng ở Non Nước có thể nhìn thấy xa xa là cù lao Chàm.

Bãi biển Xuân Thiều-Nam Ô nơi Mỹ đổ bộ vào Đà Nẳng ngày 08.03.1965
của nhà văn Võ Văn Dật ở San José sưu tầm
Đà Nẵng nằm giữa vùng kế cận ba di sản văn hoá thế giới: Cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, chính vị trí này đã làm nổi rõ vai trò quan trọng. Đà Nẵng trải qua 703 năm (1306 -2009) gắn liền với các thời kỳ lịch sử. Ngày nay về thăm Đà Nẵng chắc chắn chúng ta phải ngỡ ngàng trước nhiều đổi thay, những con đường xưa, cũng như nhiều trường bị đổi mất tên. Có thêm vài ba cái cầu bắc ngang sông Hàn, nhiều dinh thự, khu nghỉ mát dành cho những giai cấp mới tư bản đỏ sau 1975. Lịch sử Đà Nẵng cùng với lịch sử Việt Nam thay đổi. May mắn thay, tên trường Phan Châu Trinh vẫn trường tồn với thời gian. Tinh thần đấu tranh cho Tự Do và Nhân quyền của cụ Phan vẫn sáng ngời với dân tộc Việt Nam

Tài liệu tham khảo

1. Sau hiệp định Genève (20.07.1954) Hoa Kỳ quyết định ủng hộ VNCH để chận đứng làn sóng cộng sản và Trung cộng. Ngày 08.03.1965, tiểu đòan 3 thuỷ quân lục chiến thuộc lữ đoàn 9 Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ lên bãi biển Xuân Thiều (Nam Ô) thuộc xã Hoà Hiệp, huyện Hoà Vang nay thuộc quận Liên Chiểu Đà Nẵng, cùng ngày tiểu đoàn thứ 2 được không vận từ Nhật đến sân bay Đà Nẵng. Sau đó hơn nửa triệu quân Đồng Minh vào Việt Nam giúp VNCH chống cộng sản. Cuộc chiến kéo dài gần 30 năm khoái lửa, bom đạn tàn phá quê hương, Người Mỹ vì quyền lợi của nước Mỹ nên Hiệp định Paris ký ngày 07.01.1973 Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, bỏ mặc người bạn đồng minh VNCH cho đến ngày bức tử 30.04.1975

Theo dư luận, tuần dương hạm Trịnh Hòa 鄭和 Zhèng Hé/ Cheng Ho đến cảng Đà Nẵng từ 18 đến ngày 22.11.2008 từ đó đã có nhiều vụ căng thẳng xảy ra trong khu vực thềm lục địa biển Đông Việt Nam bị ảnh hưởng, đang vào vụ cá nam mà mấy trăm tàu tại chợ cá Thọ Quang và cảng cá Đà Nẵng phải đậu bến vì lệnh của Tàu Cộng cấm đánh bắt cá ba tháng ở biển Đông? Hải quân Trung Cộng giống như bọn cướp biển, ăn cướp cá của ngư dân, thường gây tai nạn đe dọa ngư dân Việt Nam trong khi đó đảng CSVN chỉ lên tiếng lấy lệ. Dâng biển cho bọn Tàu cộng để thụ hưởng quyền lợi, không chú ý đến quyền lợi dân tộc và đất nước !

2. Theo một số sử gia thì trước khi các linh mục Dòng Tên do Cha Buzomi dòng Phanxicô dẫn đầu, đến Hội An và các vùng phụ cận để chính thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng Trong (1615). Năm 1625 đạo Công Giáo được rao giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam. Một điều khác là sử liệu cũng cho chúng ta biết là nhà thờ Trà Kiệu đã có trước thời 1681 - 1682 đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho các Linh mục thừa sai Hội Truyền Giáo nước ngoài Ba-lê (MEP) (lịch sử giáo xứ Trà Kiệu)

Lịch sử Đà Nẵng - nhà văn Võ Văn Dật (Việt Nam California 2007)
Non nước xứ Quảng - Lê Minh Quốc (nhà xuất bản Trẻ Việt Nam 2002)
Bộ Việt Sử Đại Cương nhà văn Trần Gia Phụng NxB Non nước Toronto
Quảng Nam Trong lịch sử Trần Gia Phụng NxB Non nước Toronto 2003
Án Tích Cộng sản Việt Nam Trần Gia Phụng NxB Non Nước Troronto 2001
Lê Minh Quốc trong Non nước xứ Quảng tập 3 trang 100. Nxb ở Saigon Viet Nam năm 2002

Trích tài liệu về Đà Nẵng

Từ 10/1955 đến 29/3/1975
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập thị xã Đà Nẵng gồm 3 quận với 18 khu phố (tương đương với phường).

- Quận I: gồm 9 khu phố: Xương Bình, Phước Ninh, Thiệu Bình, Hải Châu, Thạch Thang, Nam Dương, Hòa Thuận, Bình Thuận, Nại Hiên.
- Quận II: gồm 10 khu phố: Thạc Gián, Hà Khê, An Khê, Phú Lộc, Phục Đán, Chính Trạch, Xuân Đán, Tam Tòa, Thanh Khê, Xuân Hòa.
- Quận III: gồm 9 khu phố: An Hải, Mân Quang, Cổ Mân, Nam Thọ, Mỹ Khê, Phước Trường, Nại Hiên Đông, Tân Thái, Thượng Nghĩa.

31-7-1962
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra sắc lệnh 162-NV chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam có 9 quận, 1 thị xã, 144 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hội An. Tỉnh Quảng Tín có 6 quận, 1 thị xã, 89 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Tam Kỳ.

Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, chính quyền cách mạng tỉnh Quảng Nam chấp hành Nghị quyết của Khu ủy V, chia Quảng Nam thành hai tỉnh mới để tiện việc tổ chức, chỉ đạo, đối phó với âm mưu của địch.

Phía bắc là tỉnh Quảng Đà gồm 5 huyện (Hòa Vang, Đại Lộc, Thống Nhất, Điện Bàn, Duy Xuyên), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An.
Phía nam là tỉnh Quảng Nam gồm 6 huyện (Quế Sơn, Nam Tam Kỳ, Bắc Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà Sơn).

11-1967
Khu ủy V ra quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà.

6-1-1973
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra nghị định giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã, gồm 12 ủy viên, do một thị trưởng đứng đầu.

- Quận I: gồm 7 phường: Triệu Bình, Xương Bình, Thạch Thang, Hải Châu, Nam Phước, Bình Hiên, Hòa Thuận.
- Quận II: gồm 5 phường: Chính Gián, Thạc Gián, An Khê, Thanh Lộc Đán, Hà Tam Xuân.
- Quận III: gồm 7 phường: Nam Thọ, Mân Quang, Mân Thái, An Hải Tây, Phước Mỹ, Nại Nghĩa, An Hải Bắc.

Đằng sau chuyến thăm Chủ tịch HĐGMVN của Tưởng Thú Nguyễn Tấn Dũng - Song Hà

Đằng sau chuyến thăm Chủ tịch HĐGMVN của Nguyễn Tấn Dũng - những câu hỏi đợi trả lời.

Song Hà

Ngay sau khi Nguyễn Tấn Dũng thăm Giám mục Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN mà hình ảnh được chiếu rộng rãi trên truyền hình nhiều giáo dân khắp nơi đã rất chú ý, nhiều giáo dân hỏi nhau: Như thế có ý nghĩa gì?

Đúng vậy, hình ảnh tươi cười của GM Nhơn với mấy em nhỏ dân tộc đón ông Dũng, nhất là trong chuyến ông đến thăm khu Tân Rai nằm trong dự án bauxite đã làm nhiều người không thể không đặt nhiều câu hỏi.

- Có phải đây là thông điệp mà ông Thủ tướng muốn gửi đến toàn thể dân chúng, nhất là các giáo dân Việt Nam rằng vậy là HĐGMVN đã đồng thuận với cái ‘Chủ trương lớn của Đảng và nhà nước’ về bauxite ở Tây Nguyên, nơi mà GM Nhơn đang đứng chân?

Dự án bauxite đã bị nhiều tầng lớp trí thức, nhân sĩ và những người có lương tâm, yêu thương đất nước lo lắng cho dân tộc phản ứng mạnh mẽ vì mối nguy lâu dài cho đất nước và dân tộc. Khi dự án này được triển khai, Tây Nguyên sẽ chết, an ninh quốc gia bị đặt trong thế ngàn cân treo đầu sợi tóc bằng việc dẫn đội quân xâm lược truyền thống vào chiếm giữ mái nhà Tây Nguyên. Đây là ‘chủ trương lớn của Đảng và nhà nước’ nhưng không phải lòng dân.

Hẳn những thông tin đó, Đức GM Nguyễn Văn Nhơn phải biết, chỉ có những em bé K’hor thì không biết mà thôi. Thật tội nghiệp cho các giáo dân và nhân dân Tây Nguyên, khi ra đến Thái Hà nghe những thông tin về bauxite và những lời cầu nguyện cho họ thì mới kêu trời rằng ‘Chúng tôi sắp chết mà không biết’.

Vậy nếu GM Nguyễn Văn Nhơn cũng ‘đồng thuận’ thì có nghĩa là Ngài đang ‘đồng hành’ cùng các ‘chủ trương của Đảng và Nhà nước’ mà không đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân như tinh thần thư chung của HĐGMVN và Huấn từ của Đức Thánh Cha gần đây.

- Hay ở đây chỉ là chuyện ông Nguyễn Tấn Dũng đi Tây Nguyên, tiện đường ghé thăm ông bạn GM Chủ tịch HĐGMVN?

Chắc chắn là không phải vậy, nếu là người có suy nghĩ sâu sâu một chút, hẳn GM Nguyễn Văn Nhơn sẽ hiểu đằng sau đó là âm mưu gì. Chưa bao giờ có những việc làm liên quan GHCGVN của nhà nước mà không chứa đựng những âm mưu. Việc ông Dũng bất thình lình đến thăm TGM Hà Nội cũng đã là bài học cho các GMVN học được nhiều điều. Đằng sau những lời hứa, là bạo lực, là cảnh sát, dùi cui … là sự đổi trắng thay đen bất chấp sự thật. Sự kiện Tòa Khâm sứ đã diễn ra đúng như vậy. Một sự bất tín, vạn sự bất tin, ai có thể biết được đằng sau nụ cười giả lả của người cộng sản sẽ là những gì.

- Cũng có cách giải thích là Đức GM Nguyễn Văn Nhơn đang trong quá trình đối thoại với nhà nước?

Xin lưu ý rằng, muốn đối thoại, thì điều cần thiết trước hết là hai bên cần phải biết lắng nghe lẫn nhau. Cách mà nhà nước VN xưa nay vẫn dùng với GHCGVN là bịt tai trước những lời nói phải, nhắm mắt trước những gương sáng phải soi. Biết bao lần Hội Đồng GMVN, các Hồng Y, GM lên tiếng về các vấn đề liên quan, nhà nước VN và các cơ quan hữu quan có đếm xỉa đến lần nào những văn bản đó? Thậm chí, họ im lặng và chỉ nhắm lúc sơ hở là lợi dụng tấn công.

Pop Benedict XVI
Huấn từ của Đức Thánh Cha gần đây với HĐGMVN cũng đang được lợi dụng xuyên tạc nhằm nói rằng ‘Giáo Hoàng cũng ủng hộ chính quyền VN’ nhưng những đoạn, những khía cạnh cần thiết thì bị lờ đi.

Vậy có thể đối thoại được không khi một bên là ‘cái đầu gối’???

- Ý kiến khác cho rằng hiện nay, nhà nước đang bằng mọi cách kể cả nhu nhược nhất, hạ thấp mình nhất để đạt được mục đích đưa TGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi VN hoặc ít nhất là ra khỏi Hà Nội, rồi sau đó mới giở bài.

Ai cũng biết, không ai có thể đưa TGMHN ra khỏi Hà Nội ngoài Tòa Thánh Vatican. Nhưng với Vatican thì chính phủ VN chưa có sức mạnh và uy tín để điều khiển. Vậy chỉ còn cách nhờ bàn tay của một số Giám mục trong HĐGMVN để tác động. Với cách này, có thể họ sẽ thành công?

Có thể họ sẽ nâng niu, tâng bốc một số ai đó trong các GMVN, nhất là những người đang mơ màng chiếc ghế Tổng Giám mục Hà Nội và đang ve vuốt chính quyền bằng cách thể hiện ‘sự im lặng đáng sợ’ trong các vấn đề liên quan mà lẽ ra với trách nhiệm và tinh thần mục tử, trái tim buộc họ phải lên tiếng.

Những vị đó nên hiểu điều này, chính nhân cách, tính cách con người làm nên uy tín cho chức vụ và bản thân mình chứ không phải chiếc ghế nâng đỡ một khối thịt thì khối thịt đó tự nhiên có uy tín.

Nếu giả sử có chuyện một ngày nào đó bằng mọi cách để có một vị được điều về làm TGM Hà Nội thay Đức TGM Giuse, thì thử xem dân chúng sẽ có thái độ thế nào với chính những vị được nhà nước ưu ái này, kể cả các GM như GM Hoàng Văn Tiệm - người đã hành động theo cách ‘im lặng là vàng’ hay dù đó là GM Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGM.

Các vị ấy chưa hiểu rằng những vị trí Tổng GM Hà Nội, GM Giáo phận Vinh không còn là chỗ êm ả, không còn là chỗ nghỉ chân cho những ai muốn an vị và tự ru ngủ mình nữa rồi. Giáo dân đã trưởng thành, đã biết ai đang đồng hành, hy sinh vì đoàn chiên và ai đang là những ‘kẻ chăn thuê’ – khi thấy đàn chiên tan tác thì bỏ chạy hoặc im lặng mặc cho đàn chiên của Chúa bị sói dữ ăn thịt.

Vì vậy, chắc chắn những người không đủ khả năng, năng lực để đồng hành cùng dân tộc, hy sinh vì đoàn chiên sẽ tự bị đào thải ở những nơi đó.

Stanislaw Wielgul
Người Công giáo VN ngày nay đã hiểu rằng sau một thời kỳ dài dưới sự cai trị của cộng sản, ngay cả ở VN cũng sẽ không thiếu những Stanislaw Wielgul – Tổng GM Varsava Ba Lan phải từ chức vì đã hợp tác với cộng sản - Giáo hội sẽ còn phải đau thương với hiện tượng đó. Nhưng cũng cần nhớ rằng giáo dân đã hiểu được điều căn bản là họ yêu mến, tin tưởng vào Thiên Chúa, chứ không phải họ tin tưởng, thần thánh hóa vào một cá nhân.

Mới đây, linh mục Trương Bá Cần – Trần Bá Cường, một linh mục có học hành, viết lách nhiều, được nhà nước nâng niu, chăm sóc và là một người nổi tiếng đã chết. Cái chết được báo đài nhà nước loan tin, được tung hứng như là một cán bộ lão thành của đảng đã ‘hi sinh cho sự nghiệp cách mạng tư tưởng và văn hóa’ của đảng. Nhiều đoàn của Thành phố, Thành ủy và các cơ quan đến viếng cho đủ bộ.

Nhưng giáo dân, giáo hội đã tỏ thái độ thế nào thì chắc hẳn mọi người đã biết. Thậm chí, nếu không có ông ‘linh mục đồng chí’ là Phan Khắc Từ cử hành Thánh lễ, thì không biết ông sẽ được an táng theo nghi thức nào. Người ta không hiểu là ông đang muốn nói với Chúa hay đang thanh minh với các giáo dân với câu băng trong phòng tang lễ ‘Chỉ có Thầy biết con yêu mến thầy’.

Lẽ ra, với một linh mục nổi tiếng như vậy, ở các GP nhất là GP Vinh quê hương ông phải được tung hô xưng tụng và có nhiều nghi thức để tỏ lòng kính trọng, tang lễ sẽ hoành tráng xứng đáng sự nổi tiếng của ông mà nhà nước đã cố công tâng bốc.

Nhưng không. Giáo dân, giáo hội đã có thái độ rõ ràng. Cái chết của ông đã là một minh chứng rằng ‘Chiếc áo không làm nên thầy tu’.

- Có phải vì chuyến thăm hữu nghị, tươi cười đó ‘đạt kết quả tốt đẹp’ mà ngay lập tức, các báo chí của nhà nước tung ra những cú đòn nhơ bẩn tiếp tục vu cáo, đánh phá các giáo dân, giáo sĩ Thái Hà, Tam Tòa?

Điều này phải để Đức GM Nguyễn Văn Nhơn trả lời, ngoài Ngài ra chắc không ai có thể trả lời được câu hỏi đó vì kết quả chuyến viếng thăm kia chắc chỉ có ông Thủ tướng và Ngài GM Chủ tịch biết mà thôi.

Đến lúc này ĐGM Chủ tịch rất hiểu ‘sự im lặng không còn là vàng’ nữa.

Song Hà
25/8/2009

Lễ tuyên thệ Ban Đại Diện Cộng Đồng VN Bắc California nhiệm kỳ 5


San Jose (Ý Dân): Trên 800 đồng hương và quan khách đã tham dự lễ tuyên thệ của Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali. được tổ chức tại khu đậu xe của Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng, San Jose vào 1 giờ trưa ngày 23-08-2009 vừa qua.

Trong thành phần quan khách Việt, chúng tôi nhận thấy có hiền tài Nguyễn Thanh Liêm, ông Nguyễn Văn Tần, chủ tịch Ban Chấp Hành và ông Nguyễn Văn Tánh, chủ tịch Hội Đồng Đại Biểu của Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, cựu thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, phi công Lý Tống, các ông Ngô Văn Tiệp, Đỗ Hùng, Lương Văn Ngọ, Đỗ Văn Trảng, Ngô Tấn Thọ cùng đại diện nhiều hội đoàn và cơ quan truyền thông. Về phía quan khách Mỹ có dân biểu tiểu bang Alberto Torrico, bà Stephanie Đào, đại diện dân biểu Zoe Lofren, phó thị trưởng Milpitas Pete Mc Hugh, các nghị viên Sam Ricardo, Nor Campos, Rose Herrera, Ash Kalra, Kansen Chu, bà biện lý Dolores Carr cùng phu quân, cựu thị trưởng Milpitas Jose Esteves, ông Sammy Castillo v..v

Khởi đầu là lễ chào quốc kỳ Mỹ-Việt đã được diễn ra một cách trọng thể do các cựu quân nhân QLVNCH đảm trách.

Sau đó, Ban Đại Diện gồm các thành viên của ban chấp hành và ban giám sát đã đồng loạt giơ tay tuyên thệ trước bàn thờ tổ quốc:
  • Tuyệt đối trung thành với tổ quốc và dân tộc Việt Nam mà biểu tượng là quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ.

  • Không chấp nhận chế độ CSVN.

  • Đặt quyền lợi của Quốc Gia Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng phái, phe nhóm.

  • Bảo vệ và phát huy những phúc lợi cho cộng đồng Việt Nam.

  • Đoàn kết với các cộng đồng Việt Nam quốc gia khắp nơi để cùng tranh đấu sự tự do, nhân quyền cho Việt Nam.
Trong phần phát biểu, ông Nguyễn ngọc Tiên, chủ tịch Ban Chấp Hành đã lên án đảng CSVN qua hành vi bán nước và làm xã hội suy đồi như hiện nay. Ông kêu gọi mọi người đoàn kết để yểm trợ các cuộc đấu tranh đòi hỏi nhân quyền trong nước.

Ông Phan quang Nghiệp, đại diện cho Ban Giám Sát cho biết cố gắng xây dựng cộng đồng Việt Nam vững mạnh để không phụ lòng đồng hương như nghị viên Madison Nguyễn đã làm.

Dịp nầy, dân biểu tiểu bang Albero Torrico đã trao bằng tưởng lệ cho Ban Đại Diện CĐVN/BC.

Sau đó, nhiều vị dân cử Hao Kỳ như bà biện lý Dolores Carr, các nghị viên của Hội Đồng thành phố San Jose gồm có Nor Campos, Sam Ricardo, Kansen Chu, Ash Kalra, Rose Herrera, phó thị trưởng Milpitas Pete Mc Hugh, phó thị trưởng Cupertino, phó thị trưởng Freemont cũng đã lên tiếng chúc mừng Ban Đại Diện CĐVN Bắc Cali.và mong muốn được sự hợp tác chặt chẽ. Nguyễn Văn Tánh, chủ tịch Hội Đồng Đại Biểu đến từ New York và ông Nguyễn Văn Tần , chủ tịch Ban Chấp Hành của cộng đồng Hoa Kỳ đến từ Hoa Thịnh Đốn cũng đã gởi lời chúc mừng đến Ban Đại Diện CĐVN Bắc Cali. Ông Tánh đã kêu gọi mọi người hãy tích cực yểm trợ các cuộc đấu tranh dân chủ ở trong nước. Ông Tần cho biết CSVN gần đây đã đưa ra một danh sách trong đó cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ và Bắc Cali. sẽ tham dự đại hội Việt kiều tại Hà Nội vào tháng 11 tới đây là danh sách ma. Ông minh định lập trường chống Cộng mạnh mẽ của cộng đồng Hoa Kỳ cũng như tại Bắc Cali là không nhìn nhận chế độ độc tài.CSVN.

Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, cựu thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và hiền tài Nguyễn Thanh Liêm dịp nầy đã gởi lời chúc mừng đến Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali. Riêng cựu thiếu tướng Bình cho biết với sự hiện diện của nhiều viên chức Hoa Kỳ ngày hôm nay đã nói lên tầm quan trọng của cộng đồng Việt Nam trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ.

Được biết Ban Đại Diện Cộng Đồng Nhiệm Kỳ 5 với nhiệm kỳ 3 năm (2009-2012) đã được cử tri Việt chọn qua cuộc bỏ phiếu ngày 21-06-2009 vừa qua. Được biết Ban Đại Diện Cộng Đồng Bắc Cali nhiệm kỳ I vào năm 1994 đã do ông Đỗ Hùng làm chủ tịch Ban Chấp Hành.

Dịp nầy, Ngày Hội Cộng Động cũng đã được tổ chức tại đây gồm nhiều gian hàng của các hội đoàn cũng đã thu hút nhiều đồng hương từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều.

Buổi lễ tuyên thệ cho Ban Đại Diện qua phần điều khiển chương trình của hai ông Cao Hiền và Huỳnh Hớn đã kết thúc vào 5 giờ chiều cùng ngày.



Monday, August 24, 2009

NGU DỐT CỦA QUỶ MA - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Ngụy là giả, là sai sự thực. Ngụy biện là kiểu lý luận dùng điều giả để khuất lấp sự thực, lấy điều gian dối để đánh lạc hướng nhân định của công luận. Ngu biện là gì? Thông thường ngu có nghĩa là dốt, là ngây ngô khờ dại, là không hiểu gì cả. Người ngu biện là người viện dẫn sự ngu dốt của chính mình để biện hộ cho những hành động gây thiệt hại cho người khác. Nói rõ hơn: Người ngu biện là người cho rằng sự ngu dốt của một người hiển nhiên là lý lẽ giúp người đó giải trừ được mọi trách nhiệm đối với tội ác do đương sự tạo ra. Sau đây là một trường hợp ngu biện điển hình:

Ông Dương Danh Dy là nhà ngoại giao có nhiều thập niên làm việc cho sứ quán CSVN tại Trung Quốc. Có thể nói được rằng Dương Danh Dy là người đứng hàng đầu trong số những người hiểu biết thấu đáo về quan hệ ngoại giao giữa CSVN và Trung Quốc trong hơn nửa thế kỷ qua. Ngày 02 tháng 07 năm 2009 , nhân một cuộc phỏng vấn của ông Mạc Lâm, phóng viên đài Á Châu Tự Do, ông Dương Danh Dy cho biết: Trong chiến tranh chống Pháp, Trung quốc giúp CSVN bằng cách chuyển tải vũ khí từ nội địa Trung Quốc xâm nhập Việt Bắc. Muốn vậy, Trung Quốc phải xây dựng những tuyến đường chạy quanh co vượt núi băng đồi trên lãnh thổ Việt Nam. Sau này khi xảy ra những tranh chấp về biên giới Việt Hoa, đại diện của Bắc Kinh nói chắc như đinh đóng cột rằng: “Đường của tôi ở đâu thì đất của tôi ở đấy.”

Ông Dương Danh Dy nhận xét: “Tôi xin nói thật, tôi đã từng đi điều tra biên giới trên bộ nhiều lần và tôi thấy đúng là sự ngây ngô khờ dại.”

Ông Dương Danh Dy kết luận: “Thế là mình mất toi mấy chục hecta trở lên. Làm thế nào được! Đấy, lúc đó là trong hoàn cảnh thời chiến. Người ta giúp mình, mình chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện đó, có thể là không nghĩ ra, có thể là dốt, vân vân. Bây giờ muốn trách cứ thế nào thì cũng phải chịu thôi!”

Câu chuyện của ông Dương Danh Dy gồm hai trọng điểm: Một là Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam dựa vào lý luận công trình xây dựng của Trung Quốc tới đâu, lãnh thổ của Trung Quốc mở rộng tới đó. Hai là ông Dương Danh Dy chỉ đề cập tới một hồ sơ mất đất. Trên thực tế, có rất nhiều hồ sơ mất đất. Trên thực tế, dọc theo biên giới Việt Hoa, CSVN đã để rơi vào tay Trung Quốc vô số đất đai của Tổ Tiên.

Sau những mất đất dọc theo biên giới, liệu chừng CSVN có hay không từ bỏ nảo trạng ngu dốt nhằm giúp cho Việt Nam tránh khỏi tai họa“Đường của tôi ở đâu thì đất của tôi ở đấy” ? Thưa rằng mãi cho tới ngày nay, CSVN chẳng những không xa rời sự ngu dốt mà còn làm cho sự ngu dốt kia nhân rộng gấp nhiều lần. Thật vậy, ngày 04/02/2009, tại Hà Nội, thủ tướng CSVN khẳng định: “Việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Chủ trương lớn ở đây là lớn cái ngu, lớn cái “ngây ngô khờ dại”. Bằng vào “chủ trương lớn” vừa kể, CSVN đã cho phép Trung Quốc mang vô số công nhân lao động chân tay vào Việt Nam để khai thác bauxite. Song song với việc khai thác kia là sự kiện Trung Quốc được quyền mở những tuyến đường chuyển tải tài nguyên từ Việt Nam về Trung Quốc.

Ngày 07/07/2009 tin từ Việt nam cho biết: Công ty Kaidi của Trung quốc đã trúng thầu xây dựng nhà máy diện Mạo Khê, tỉnh Quãng Ninh, Bắc phần Việt Nam. Chi phí xây dựng lên tới 500 triệu Mỹ Kim. Khác với Mỹ, Nhật, Đại Hàn v.v, Trung Quốc là quốc gia được miễn trừ thuế kinh doanh khi vào Việt Nam đầu tư. Vì vậy trong mỗi trường hợp dự thầu, Trung Quốc bao giờ cũng rao giá nhận thầu thấp nhất. Và cũng vì vậy Trung Quốc hiển nhiên là quốc gia “độc quyền” trúng thầu tại Việt Nam. Cứ mỗi vụ trúng thầu như vậy là nhiều ngàn dân lao động chân tay từ Trung Quốc lục tục kéo vào Việt Nam với mớ máy móc sản xuất thực sự lỗi thời.

Trước kia, theo Dương Danh Dy, Trung Quốc chỉ cần hô hoán lên rằng “Đường của tôi ở đâu, đất của tôi ở đấy” là đủ lý lẽ để CSVN cúi đầu nhường đất cho Bắc Kinh. Ngày nay, quái tượng bauxite Tây Nguyên cộng với hàng loạt “trúng thầu xây dựng” do Hà nội cống hiến cho Bắc Triều đã tạo cơ hội để Trung Quốc ăn nói hung hản hơn: “Đường của tôi ở đâu, công trình xây dựng của tôi ở đâu, dân của tôi ở đâu, đất của tôi ở đấy!”. Không còn nghi ngờ gì nữa, tầm vóc ngu dốt của CSVN càng tăng trưởng, ngôn ngữ cướp đất của Trung quốc càng ngang ngược và trịch thượng.

Bây giờ hãy trở lại với câu chuyện giữa Dương Danh Dy và Mặc Lâm, phóng viên đài Á Châu Tự Do. Dĩ nhiên những gì Dương Danh Dy phát biểu đều được Hà Nội cho phép. Nói rõ hơn, Hà Nội muốn dùng lời lẽ của Dương Danh Dy để biện hộ cho CSVN về tội bán nước. Thực vậy, trả lời câu hỏi của Mặc Lâm về thái độ quá mềm yếu của CSVN khi đàm phán vấn đề biên giới với Trung Quốc Dương Danh Dy cho rằng: “Bây giờ cũng không thể kết tội ai được, bởi vì nó là chuyện lịch sử rồi. Chúng ta có một số điều hứa. Tôi biết rất rõ những điều hứa này của ta. Ta có những điều hứa trong vấn đề biển Đông. Cái hứa của ta lúc đó thì có những nguyên nhân là do chúng ta bênh Trung Quốc, có những nguyên nhân do chúng ta dốt, chúng ta không hiểu gì cả”

Mặt khác, ngu dốt xuất phát từ chế độ Hà Nội và do Dương Danh Dy minh thị xác nhận không là hồ sơ ngu dốt duy nhất của CSVN. Dư luận còn nhớ: Ngày 08/05/09, tại thành phố Geneva, Thụy Sĩ, Hội Đồng Nhân quyền của LHQ đã nhóm họp với mục đích kiểm điểm vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Vào dịp này, ông Phạm Bình Minh, thứ trưởng ngoại giao của CSVN đã khai trình rằng chính sự ngu dốt là nguyên nhân khiến chế độ Hà Nội chà đạp nhân quyền tại Việt Nam. Nguyên văn lời khai trình kia như sau: “Trình độ nhận thức của bộ phận nhà nước, kể cả trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các qui định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của công ước quốc tế về quyền con người mà đôi khi còn nắm không chắc các qui dịnh của luật pháp và chủ trương chính sách của nhà nước, do vậy có nơi, có lúc còn để xảy ra các vụ vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân.”

Khi bị thẩm vấn về một tội phạm với đầy đủ bằng cớ hiển nhiên, bi can thường tự biện hộ bằng cách viện dẫn rằng đương sự là người bị bệnh tâm thần hoặc rằng đương sự đã hành động dưới tác động của tình huống bất khả kháng. Không ai được phép nhân danh sự ngu dốt để phạm pháp. Đó là nguyên tắc pháp căn hàng đầu của toàn bộ hệ thống luật pháp trong thế giới văn minh. Nó giúp cho luật pháp có hiệu lực cưởng hành. Chế độ Hà nội: nhà cầm quyền tự nhận là đã độc chiếm đỉnh cao trí tuệ của loài người từ rất lâu, nay lại nêu bật tính ngu dốt của chính họ để biện minh cho tội ác bán nước, tội ác chà đạp nhân quyền. Đây là một sự kiện vừa kỳ quái, vừa thiếu tự trọng , vượt ra ngoài khả năng tưởng tượng của mọi người. Tuy nhiên, không phải ở đâu và bất kỳ lúc nào CS Hà Nội cũng khiêm cung trong vị trí ngu dốt. Lịch sử của đảng CSVN đã cho thấy đảng này có biệt tài nhảy múa giữa hai thái cực: bên này địa vị của kẻ cực quyền hách dịch, bên kia là vai trò mù mờ của một nô bộc ngu dốt.

Những khi dọc ngang trong hành động đàn áp đối lập, mua quan bán tước, cướp phá tài nguyên quốc gia, bóc lột tài sản của đồng bào, CSVN công khai tự nhận họ là cha mẹ của nhân dân.

Những khi phải đối mặt với núi tội ác quả tang, tội ác vô phương biện hộ: tội bán nước, tội chà đạp nhân quyền, CSVN lí nhí tự thú họ là kẻ nô bộc ngu dốt.

Không còn nghi ngờ gì nữa: ngu dốt của CSVN là ngu dốt của loài quỷ ma.

Đỗ Thái Nhiên


Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn Giữa Núi Rừng Việt Bắc - Đoàn Trọng Hiếu

Đoàn Trọng Hiếu

(Viết để tưởng nhớ quý chiến hữu đã gục chết trong lao tù Cộng Sản, và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. ....)

Cuối năm 1977, tình hữu nghị anh em xã hội chủ nghĩa giữa Cộng Sản Ta và Cộng Sản Tàu đã trở nên tồi tệ. Đài phát thanh Hà Nội, cái loa tuyên truyền của Cộng Sản Ta đã không còn ra rả phát đi lời tuyên bố của tên Thủ Tướng Đồng “vẩu”.

Trước kia, nào là “tình hữu nghị Việt-Trung muôn đời bất diệt” nào là “tình hữu nghị Việt-Trung như răng với môi, môi hở thì răng lạnh” .v.v..

Vì sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, các tên lãnh đạo Cộng Sản Ta đã ngả theo Nga, mà quên đi cái ơn của Cộng Sản Tàu trong những năm chiến tranh “anh bộ đội cụ Hồ” đã được Cộng Sản Tàu trang bị cho từ chân lên đến đỉnh đầu, từ đôi dép râu làm bằng lốp xe đến cái nón cối đội trên đầu, thậm chí là cả cái bát ăn cơm, anh bộ đội chỉ có duy nhất “cụ Hồ” là của chính anh. Để trừng trị thằng đàn em cứng đầu vong ơn bội nghĩa, Tàu Cộng liền cho tên Miên Cộng Polpốt quậy phá ở biên giới phía Nam. Nhưng tên Miên này không làm nên chuyện, nên Tàu Cộng đã dàn quân dọc biên giới phía Bắc để chuẩn bị cho Cộng Sản Ta bài học số một, và như vậy là răng đã cắn sứt môi. Lo sợ khi Cộng Sản Tàu đánh xuống, anh em tù phía Quốc Gia đang bị giam giữ tại các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ .v.v. sẽ tìm cách trốn sang biên giới phối hợp với lực lượng ly khai của Hoàng Văn Hoan đang được Tàu Cộng ủng hộ, nên gần cuối năm 1977 bọn Việt Cộng đã chuyển anh em tù xuống dần phía Nam đến các trại Vinh Quang hay Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú hoặc các trại Hà Tây hay Nam Hà (Đầm Đùn, Ba Sao) gần Hà Nội.

Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở các trại do quân đội Việt Cộng quản lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dã man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu chuẩn ăn uống thì bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một thìa cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh. Họa hoằn, một đôi ba tháng vào các ngày Lễ Tết thì được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đã không còn kéo cày nổi hay bị chết vì không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống như vậy mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến tình trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ còn da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói.

Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi. Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.

Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:

- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.

Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ. Sáng hôm sau khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó.

Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:

- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..

Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.

Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi”. Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:

Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:

“Rồi một ngày mai không có anh,
em không còn phải nhớ phải mong
- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi
- Cô đơn ngồi khóc một mình
- Không một lần kịp vuốt mắt anh
- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,
nhìn trông theo cánh chim từng đàn,
để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu,
bụi thời gian lấp kín hồn mình,
đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa,
ôi ngày về còn dài bao lâu
- Rồi một ngày mai anh chết đi,
em không còn phải khóc phải thương
- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất,
cô đơn phủ kín đời mình.
- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”-

Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.

Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại, thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.

Chúng bắt đầu xin anh em chép và dạy cho chúng hát nhạc vàng, có tên còn xin đồ ăn và thuốc hút. Những buổi lên lớp do tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị anh em phản kháng bằng cách vỗ tay và cười, đã làm cho hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như lúc hắn khoác lác về tên Phạm Tuân đã bay Mig 21 lên, rồi tắt máy phục kích ở trong mây, đợi B52 đến rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian nghiên cứu bèo hoa dâu để nuôi lợn .v.v. Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng chính tin đồn anh em tù sẽ đi Mỹ, phát ra từ trong đám cán bộ, dân chúng quanh vùng quý tù miền Nam và ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.

Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

- Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế. Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

- Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!

Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.

Đoàn Trọng Hiếu


Ðã Ðến Lúc Cộng Ðồng Việt Nam Hải Ngoại Cần Có Một Lãnh Tụ - Song Hoài


    Một lòng vì nước, vì dân
    Một lòng vì nợ tang bồng năm xưa
    (Xin tặng cho những nhà tranh đấu không mỏi mệt vì tha nhân)
Người Việt lưu vong hay tha hương ra nước ngoài thấm thoát đã 34 năm, thời gian đủ để gầy dựng một thế hệ thứ hai đầy đủ trí tuệ và bản lãnh Việt Nam, lớp tre già măng mọc có đồng bộ nhưng chưa hoàn toàn đồng sàn, sự phân hóa trong cộng đồng làm giới trẻ có cái nhìn thiên kiến đối với lớp người đi trước, chưa có một nhân vật tầm cỡ nào có thể đứng lên đại diện cho sức mạnh cộng đồng người Việt tỵ nạn làm cho các nước có người Việt định cư phải chú ý lắng nghe, thời gian đã chín muồi, đã đến lúc cộng đồng Việt Nam cần có một lãnh tụ để thống nhất tinh thần quốc gia và lãnh đạo cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ cho đồng bào trong nước.

Chưa có một sắc dân nào tại Hoa Kỳ mà có lòng yêu nước hào hùng và kiên trì như cộng đồng người Việt Nam, chưa có một sắc dân nào mà thành tựu rực rở một cách nhanh chóng như cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ. Con số trên 300,000 trí thức trong số 1,5 triệu người Việt, còn nhiều hơn cả nước Việt Nam cộng sản với dân số trên 80 triệu người. Người Việt thành công và góp mặt trên hầu hết các lãnh vực chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả không gian nửa. Ðặc biệt là giáo dục, có rất nhiều giáo sư đại học người Việt có mặt tại các trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ. Nhưng tại sao tiếng nói của cộng đồng Việt Nam ít được chính giới Hoa Kỳ tôn trọng, và những gì mà họ hứa hẹn với ta hoàn toàn có tính cách chiếu lệ. Một thí dụ, trước khi qua Việt Nam tham dự hội nghị OPEC năm 2007, Tổng Thống Bush không mời cộng đồng mà mời 4 đại diện đảng phái và tổ chức đấu tranh vào họp để lắng nghe ý kiến đề nghị. Rồi năm sau, trước khi Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt cộng qua thăm Hoa Kỳ, ông Bush cũng mời vài tổ chức đấu tranh và đảng phái vào họp tại Tòa Bạch Ốc. Cho vui vậy thôi. Có thấy đề nghị về nhân quyền nào của ông Bush được Việt Nam lắng nghe và sửa chữa đâu. Tại sao vậy? Tại vì chúng ta chưa có một lãnh tụ tầm cỡ làm cho Hoa Kỳ phải biết lắng nghe, và áp lực thực sự với Việt cộng.

Ông Bush không thèm mời cộng đồng Việt Nam mà chỉ mời các thành phần kể trên, chứng tỏ ông ta "doesn't care" cộng đồng Việt Nam, và những gì mà chính phủ Hoa Kỳ làm đều là vì quyền lợi của Hoa Kỳ cả. Nói ra xin đừng tự ái. Nên nhớ điều này. Cộng đồng Việt Nam bị phân hóa và có nơi bể làm đôi, ai cũng muốn làm lãnh tụ cả. Tại Hoa Kỳ có hai tổ chức nhất định đòi đại diện cho cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, một tổ chức nằm ở Houston thì không nghe nói có cộng đồng nào tham gia, còn tổ chức kia hiện nay ở New York có khoảng 40 cộng đồng. Chưa thấy hai cộng đồng này làm được điều gì ngoạn mục thuyết phục được chính giới Hoa Kỳ cả. Có hai tổ chức Tổng đại diện cho quân đội hoạt động giống nhau, một ở Houston gọi là Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ không có quân, và một ở San Jose gọi là Tập Thể Cựu Chiến Sĩ tuy có quân nhưng không thấy có hoạt động nào khả dĩ thống nhất anh em quân đội được. Có hai Tổng hội sĩ quan Thủ Ðức, một ở New Jersy có quân và chịu họp hợp nhất, một ở Canada không có quân nhưng tự ái đùng đùng không chịu họp thống nhất tình đồng môn. Ngay trong các hội học sinh trung học, có nơi cũng bể đôi. Tôn giáo thì còn đau lòng hơn nửa, nhiều nơi bị chia đôi, thậm chí chia ba nửa. Ðặc biệt, đã có lúc tại nam California có hai tổ chức kiểu chính phủ cùng song song tồn tại, một của ông Nguyễn Hữu Chánh hoạt động một thời gian khá dài rồi tự rút lui gần đây, và một của ông Ðào Minh Quân hoạt động mổi năm đúng một lần, chỉ vào dịp Tết, đó là lên chúc Tết đồng hương, rồi thôi. Ở Little Saigon, có lúc có đến 03 tổ chức đại diện cho cộng đồng Việt Nam nam California, và một của bà Mai Công hoạt động chuyên về xã hội tại Quận Cam. Người Mỹ địa phương cũng khôn lắm, đi cốc phiếu thì đến ba cộng đồng kia, còn yễm trợ ngân sách hoạt động xã hội thì cho cộng đồng của bà Mai Công. Kẻ viết bài này đã có lúc cùng một thời gian, chạy show phóng sự về tin tức hoạt động của cả ba cộng đồng nói trên, rất đông vui hao.

Thực sự mà nói, chính giới Hoa Kỳ nhiều khi muốn nói chuyện với cộng đồng cũng không biết tìm ra ai là người đại diện thực sự có uy tín đối với cộng đồng để mà bàn việc lớn, mời ông A thì thế nào cũng bị bà B móc, mời đảng C thế nào cũng bị tờ báo D móc. Có nhiều người đã ví von rằng tại Việt Nam ta có truyền thống chia rẻ từ thời lập quốc, có 100 người con lại chia đôi, nửa lên núi theo cha, nửa xuống biển theo mẹ, nhưng dầu xuống biển hay lên núi gì cũng là Việt Nam, lúc quốc biến thì đoàn kết đấu tranh dành lại độc lập dân tộc như Hội Nghị Diên Hồng đời Nhà Trần, cho nên dân tộc Lạc Việt vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, và người Việt lưu vong ra nước ngoài mặc dù có lúc chống nhau, nhưng vẫn mang chung một khát vọng dân tộc trường tồn, tự do dân chủ.

Các tổ chức đấu tranh hay cộng đồng đều là người tỵ nạn, đều muốn đặt tinh thần quốc gia lên hàng đầu và tranh đấu cho tự do dân chủ cho quê hương là mục tiêu chính. Nhưng mạnh ai nấy làm, đôi khi còn dẵm chân lên nhau nửa. Nhưng đặc biệt, mặc dù có bất đồng, nhưng không bất hòa lâu làm trở ngại công cuộc tranh đấu chung. Nhiều khi có việc lớn, thì hai cộng đồng cùng danh xưng người Việt quốc gia tạm ngưng chống nhau, và tạm ngồi lại với nhau, chống cờ máu như vụ Trần Trường tại Bolsa năm 1999. Nhiều khi họ bỏ cả công ăn việc làm để đi biểu tình, tranh đấu, tất cả chỉ vì tha nhân. Người hiểu được việc này thì ít mà chỉ trích thì nhiều.

Tấm lòng của người Việt quốc gia thật bao la, họ chấp nhận mọi chỉ trích để tranh đấu tõ tấm lòng đối với quê hương. Nhưng đa số các cuộc tranh đấu đều rời rạc, khi cần mới có tham mưu vẽ ra kế hoạch, chứ chẳng có chuẩn bị gì trước cả, thấy đâu đánh đấy, nghe tin phái đoàn cộng sản đến đâu thì nơi đó mới lên kế hoạch đối phó, nên luôn ở thế bị động. Chúng ta có hàng ngàn Gia Cát Lượng, nhưng không có một lãnh tụ Ðinh Bộ Lĩnh thống lãnh quần hùng. Tại sao vậy.

Nếu bây giờ có ai mớm ý, cử ông X làm lãnh tụ thì ngay hôm sau sẽ có hàng tá ý kiến bơi móc, bới bèo ra bọ trên internet hay trên báo chí ngay. Cái khó của cộng đồng Việt Nam là ở chỗ này.. Nhân vô thập toàn, không thể lấy khuyết điểm của người này trong quá khứ mà kết luận bản chất được. Ai cãm thấy mình không có tội hảy ném đá người đàn bà này trước, không có ai dám ném đá cả. Nhưng trong cộng đồng ta, hể mà ai mới nổi lên một chút thôi tất sẽ bị người khác kéo xuống. Tình trạng này đang xảy ra trong cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ. Vậy thì đến bao giờ chúng ta mới có lãnh tụ.

Ðã đến lúc chúng ta phải tìm ra một lãnh tụ, dầu có tam cố thảo lư cũng phải tìm cho được, đừng sợ chống đối. Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẫn, vừa đại diện Việt Nam Cộng Hòa vừa lên tiếng kêu gọi cộng đồng và các tổ chức đấu tranh ký vào tuyên cáo lãnh hải Việt Nam đệ trình cho Liên hiệp Quốc trước ngày 13/05/2009, thì lập tức có gần 300 tổ chức đấu tranh, cộng đồng các tiểu bang, đảng phái, tôn giáo, cựu tướng lãnh, cựu dân biểu nghị sĩ, cựu viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, và một số ít nhân sĩ lập tức hưởng ứng. Rõ ràng những nhân vật ký tên này đủ mọi thành phần của một quốc gia. Không phải họ tuyên dương ông Nguyễn Bá Cẩn lên làm lãnh tụ, nhưng mà vì ông Cẩn xuất hiện đúng lúc chúng ta cần người đại diện chính thức khiếu nại vụ biển đông với Liên Hiệp Quốc, thế mà có kẻ còn xuyên tạc nói là làm hộ cho Việt cộng. Rồi hai ngày sau khi ông Nguyễn Bá Cẫn đã nằm xuống, một tờ báo net cũng không tha, quên mất câu nghĩa tử là nghĩa tận của người Á đông, bơi móc ông Cẩn với mục đích chính là "chửi xỏ và làm mất danh dự của các hội đoàn và tổ chức đã tham gia ký tên vào tuyên cáo này nhiều hơn là bơi móc ông Cẩn". Sự kiện này cho chúng ta thấy những kẻ có tâm huyết thường bị đánh phá chụp mũ, với mục đích chính là"Làm Cho Cộng Ðồng Việt Nam Không Thể Nào Có Một Lãnh Ðạo Thực Sự", cũng giống như các cuộc bầu cử dân biểu nghị sĩ quốc hội hay tại California, bất cứ người Việt nào ứng cử cũng đều bị chính truyền thông báo chí của người Việt đánh phá với mục đích chính là "Làm Cho Cộng Ðồng Việt Nam Không Có Ðại Diện Chính Thức Trong Quốc Hội Tiểu Bang Hoặc Liên Bang". Cộng đồng Việt Nam muốn có người lãnh đạo, muốn có đại diện trong các cơ quan chính quyền và quốc hội; và những kẻ phá thối vẫn bới bèo ra bọ để đánh phá với mục đích gì đây thì ai cũng rõ.

Trường hợp lớn nhất mà cộng đồng Việt Nam bầu hoặc tìm ra được một lãnh đạo, rồi vị này bị đánh phá, tự nhiên tất cả chúng ta đều biết được kẻ đánh phá là ai, phục vụ cho ai? Chỉ có Việt cộng mới sợ chúng ta có lãnh tụ nên mới cho tay sai đánh phá hoặc ngăn chận, không cho người Việt quốc gia có người lãnh đạo tranh đấu chống lại bọn chúng. Chẳng lẽ người Việt quốc gia muốn quang phục quê hương lại không muốn có lãnh tụ giương ngọn cờ đại nghĩa à? Việt cộng đã và đang âm mưu chia rẽ cộng đồng và các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, qua nghị quyết 36, vì thế đã cho tay sai ngăn chận, bàn ra không cần lãnh tụ, bôi nhọ các nhà tranh đấu, và rất "ngây thơ cụ" đề nghị cộng đồng chờ chọn .... minh chúa tự nhiên xuất hiện!!! Những điều này đích thị phục vụ cho một âm mưu chia rẽ những nhà đấu tranh với cộng đồng, và làm cho những người có tâm huyết nãn lòng không muốn ra giúp nước. Ðừng lo, ở hải ngoại này, tất cả ai mà nổi tiếng thì trước sau đều bị xuyên tạc hoặc chụp mũ, và đã có một câu nói có thể gọi là rất chính xác để minh chứng cho điều này là "Ai mà nổi tiếng, ai tranh đấu mà không bị chụp mũ thì chưa trưởng thành". Không một lãnh tụ ở cõi thế gian này mà hoàn toàn được (No one is perfect. Nhân vô thập toàn). Bọn phản động cứ ra chiêu bài đánh phá, và chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành vẫn cứ đi.

Sự kiện gần 300 tổ chức, đảng phái, tôn giáo, hội đoàn đấu tranh, mà trong đó có cả nhiều tổ chức cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, chịu ký tên chung trong tuyên cáo lãnh hải, là hi hữu và độc đáo nhất trong lịch sử tỵ nạn của cộng đồng Việt Nam. Ðây rõ ràng nói lên cái khao khát có một lãnh tụ phát ra hiệu lệnh thiên hạ, chứ không phải tại vì có A hoặc ông B. Tổng hợp mạnh nhất tinh thần bất khuất của người Việt hải ngoại để tranh đấu cho sự tồn tại của một quốc gia, là một việc cần phải làm, mặc dù đã 34 năm trôi qua nhưng không quá trễ để có người lãnh đạo cộng đồng.

Tình hình Việt Nam hiện nay đang sôi sục như một hỏa diệm sơn sắp sửa phun lửa, lửa beauxite tây nguyên, lửa đông hải, và lửa bạo quyền đàn áp tôn giáo. Qua vụ bauxite, Việt cộng đã tuyên chiến với giới trí thức Bắc Hà, với các cựu công thần nhà nước. Qua vụ bán biển đông, Việt cộng đã tuyên chiến với giới Luật sư và những người trẻ yêu nước. Qua vụ đàn áp giáo dân Tam Tòa, đánh trọng thương hai vị linh mục tại Ðồng Hới, gây ra phẫn nộ dây chuyền với 500,000 giáo dân biểu tình hoặc hiệp thông cầu nguyện. Việt cộng luôn coi tôn giáo là thuốc phiện, Việt cộng không sợ những cuộc đấu tranh lẽ tẻ, nhưng sợ nhất là tôn giáo nổi lên tử vì đạo, nên tôn giáo bị đàn áp mãnh liệt nhất.

Toàn dân đã và đang sôi sục căm hờn cả Việt cộng lẫn Trung cộng về việc Việt cộng đàn áp tôn giáo, dâng Tây Nguyên và biển đông cho quan thày. Còn Trung cộng thì hầu như nắm toàn bộ kinh tế Việt Nam và tiếp tục khiêu khích biển đông, vạn bất nhất mà chiến tranh xảy ra thì cộng đồng người Việt hải ngoại không thể ngồi yên trước việc Trung cộng xâm lược Việt Nam. Rồi thì mạnh ai nấy quyên tiền trợ giúp chống Trung cộng, và đồng hương vì lòng yêu nước sẳn lòng mở hầu bao mà không bao giờ biết số tiền quyên góp sẽ đi về đâu. Phải có một lãnh tụ mới quyết định được đường lối đúng đắn cho cuộc đấu tranh sắp đến, mà nó có thể sẽ giống hệt như quốc gia và Việt minh cộng sản hiệp lực chống thực dân Pháp trước năm 1954, nay thì biết đâu lại dám rơi vào cái thế bắt buộc phải hiệp lực với ... Việt cộng chống bá quyền Trung cộng (bất cứ một nổ lực nào chống Trung cộng trong lúc bọn khát máu này đánh nhau với đệ tử là Việt cộng, rất dễ bị bọn Việt gian tay sai chụp mũ là bắt tay với Việt cộng). Chỉ có một lãnh tụ sáng suốt, đại diện cho toàn thể đồng hương hải ngoại, đề ra một quyết sách, trưng cầu dân ý, mới giải quyết được vấn nạn đau đầu này, mà không bị lịch sử phê phán là bắt tay với Việt cộng. Không có lãnh đạo thì rất khó thực hiện thành công các cuộc tranh đấu phức tạp như trên (vẫn còn đó kinh nghiệm máu xương việc cộng sản lúc yếu thì kêu gọi quốc gia hợp tác chống Pháp, xong rồi bọn chúng ra tay tiêu diệt các lược lượng quốc gia để độc quyền thống trị dân ta)

Chúng ta hiện nay có hàng ngàn chứ không phải hàng trăm tổ chức hoặc liên minh có cùng mục đích chống độc tài cộng sản đem lại tự do dân chủ cho đồng bào trong nước, mạnh ai nấy ra tuyên cáo, rõ ràng không có sức mạnh tổng hợp. Có nhớ đệ nhất cộng hòa đã kết hợp được quân đội các giáo phái trở thành quân đội quốc gia hay không? Nếu có lãnh tụ thì chắc chắn có thể kết hợp tất cả các hội đoàn thành một sức mạnh tổng thể, cùng một chí hướng, cùng một tinh thần, cùng một kỷ luật giống như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nào.

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là một thí dụ về lãnh tụ cộng đồng Tây Tạng lưu vong, ông đi đến đâu đều được các quốc gia kính trọng. Tại sao chúng ta không có được một lãnh tụ như vậy, trong khi chúng ta đã làm được một điều kỳ diệu là ngăn cản không để lá cờ đỏ khát máu xuất hiện bất cứ nơi nào tại Hoa Kỳ, tại Canada hoặc tại Úc châu. Ðặc biệt hơn nữa là "cộng đồng người Việt quốc gia" tại Pháp hầu như đã "đồng hóa" được cái "cộng đồng người Việt thiên tả" mà Nguyễn Dy Niên, cựu bộ trưởng ngoại giao Việt cộng gọi là "Binh chủng đặc biệt" vốn có cảm tình với Việt cộng trước năm 1975 tại Paris. Sau ngày Việt Nam bị nhuộm đỏ cả nước, đồng bào vượt biên đến Pháp khá nhiều, bọn thiên tả mới sáng mắt ra, rồi lần lần chịu phép, và cờ máu tự nhiên không còn nữa, chỉ thấy rừng cờ vàng xuất hiện trong các cuộc tranh đấu và các ngày lễ lớn. Mặc dù Việt cộng là thành viên của Liên Hiệp Quốc, nhưng tại hầu hết các nước tự do, thì cờ vàng lại làm bá chủ, điều kỳ diệu này chỉ có chúng ta thực hiện được so với các cộng đồng ngoại quốc cùng cảnh ngộ mất nước như chúng ta. Trong cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế hàng năm tại New York, cờ Ðài Loan xuất hiện yếu ớt bên cạnh rừng cờ Trung cộng, trong khi không có một lá cờ máu nào của Việt cộng được phép xuất hiện ngoại trừ rừng cờ vàng của cộng đồng Việt Nam. Chính nghỉa quốc gia đã thắng lớn tại hải ngoại, nơi nào có cờ vàng thì không có cờ đỏ, nơi nào mà cờ đỏ lén lút xuất hiện thì trước sau cũng bị dẹp. Tại sao tinh thần quốc gia lên cao như vậy, mà chúng ta không có lãnh tụ biết phát huy sức mạnh này để giúp nước?

Không thể đòi hỏi một lãnh tụ phải pure, phải hoàn toàn perfect được, vì nhân vô thập toàn mà. Chúng ta chỉ cần có một lãnh tụ có uy tín, có khả năng, và một tình thần quốc gia vững chắc là được rồi. Một tổ chức có uy tín, đại diện thống nhất cho người Việt tại Hoa Kỳ là khả hữu. Nhưng ai là người dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm trọng đại này đây?

Ðã đến lúc các tổ chức cộng đồng, các đảng phái chính trị, các hội đoàn đoàn thể, và các nhân sĩ cần phải ngồi lại với nhau, để tìm hay bầu ra một lãnh tụ. Vị lãnh tụ này sẽ lập ra một ban tham mưu hay một ban chấp hành theo luật lệ sở tại, nếu không tiện mang danh xưng nội các. Nếu chúng có một lãnh tụ có tinh thần quốc gia, có uy tín trong cộng đồng và chính giới Hoa Kỳ, thì sẻ giải quyết được hàng núi công việc của chúng ta tại hải ngoại. Thí dụ kêu gọi toàn thể đồng hương ghi danh và đi bỏ phiếu, đại diện cộng đồng Việt Nam hải ngoại yêu cầu Liên Hiệp Quốc áp lực Hà Nội ngưng đàn áp đồng bào trong nước, kêu gọi liên tục với Liên Hiệp Quốc về vấn đề Trung cộng âm mưu chiến biển đông làm của riêng, lên tiếng kêu gọi các nơi về Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế hàng năm do cộng đồng New York đứng ra tổ chức, kêu gọi không du lịch tại Lâm Ðồng và Ðăk Nông để tránh bị ung thư bauxite, hoặc xin chính quyền tiểu bang trợ cấp sinh hoạt cho các trung tâm sinh hoạt cộng đồng giống như của bà Mai Công ở Quận Cam một năm được cấp hàng trăm ngàn Mỹ kim ... (Hiện nay các tổ chức cộng đồng người Việt quốc gia hầu như không xin fund được, mà chỉ có các hội cao niên mới có chút ít fund từ liên bang).

Có rất nhiều vấn đề cộng đồng mà chỉ có một lãnh tụ xuất sắc và một ban tham mưu tài giỏi mới làm được hoặc giải quyết được. Không thể nói rằng 34 năm qua chúng ta vẫn sống, vẫn làm nhiều việc có ích cho quê hương và đồng bào bên nhà mà, đâu cần có lãnh tụ đâu. Nên nhớ, chúng ta là cộng đồng tỵ nạn, vì tự do nên mới lưu lạc ra xứ người, chúng ta đã từng quyên góp cho kháng chiến, đã từng quyên góp cho thương phế binh, đã từng đi biểu tình "Giương Ngọn Cờ Vàng Hạ Cờ Máu" khắp nơi trên thế giới. Nhưng đấu tranh mà không có lãnh tụ thì sức mạnh kia bị chia năm xẻ bảy vì đánh tùm lum, giống như đánh vào không khí, như những vết cào sướt vô hại trên lưng kẻ thù, còn tổng hợp được sức mạnh sẽ như mủi dao toàn lực đâm thẳng vào tim địch.

Cứ nhìn cộng đồng Do Thái tại Hoa Kỳ mà biết được sức mạnh của họ, tại sao mà Hoa Kỳ phải hết lòng bảo vệ Do Thái tại Trung Ðông, vì người Mỹ gốc Do Thái ảnh hưởng nhiều lãnh vực tài chánh và ngân hàng của Hoa Kỳ, và lãnh đạo cả Hollywood nữa.

Cộng đồng chúng ta mạnh sẽ làm các dân cử địa phương áp lực được chính phủ trung ương thật sự giúp chúng ta, chứ không phải hứa miệng để lấy phiếu trong các kỳ bầu cử. Cộng đồng chúng ta có lãnh đạo uy tín thì chắc chắn cựu Tổng Thống Bush đã phải can thiệp không ít thì nhiều cho các nhà tranh đấu được thả ra khỏi ngục tù cộng sản. Nên nhớ một năm Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam hơn một tỷ đô, viện trợ hoặc huấn luyện cho tất cả các sinh hoạt mang tính quốc gia tại Việt Nam về đủ môi phương diện, kinh tế, văn hoá giáo dục, y tế, hành chánh, quốc hội, và cả quốc phòng nữa. Nội việc giao thương với Hoa Kỳ, nhập siêu của Việt Nam năm 2008 đã lên đến hơn 10 tỷ đô. Hoa Kỳ hiện nay là nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, và Hoa Kỳ là nơi mà Việt Nam xuất cảng nhiều nhất so với các quốc gia khác, có thể áp lực một số vấn đề nhân đạo được chứ?

Chúng tôi xin nêu một thí dụ về sức mạnh của cộng đồng nếu chúng ta có một lãnh tụ có tầm cở, để yêu cầu Tổng Thống Obama áp lực Việt Nam thả Luật sư Lê Thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn Văn Ðài, và Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nếu không thì toàn thể cộng đồng chúng tôi sẽ bỏ phiếu cho đảng cộng hòa vào kỳ bỏ phiếu tới. Nếu chúng ta có một lãnh tụ có khả năng, được cộng đồng thương yêu và tin tưởng, thì khi vị này lên tiếng kêu gọi về một nguyện vọng chính đáng có lợi cho chúng ta, hay cho đồng bào ở quốc nội, thì chắc chắn đồng hương sẽ ũng hộ nguyện vọng này hết mình như đã làm trong quá khứ. Chúng ta sẽ diễn tập một lần về việc "chỉ bỏ phiếu cho một đảng thì sẽ biết hiệu quả ngay". Hãy tưởng tượng nguyên cả đảng dân chủ không có một lá phiếu nào của người Việt vào năm 2010, thì liệu bà Loretta Sanchez hay ông Lou Correa có hộc tốc bay về Washington DC vấn tội ông Obama hay không? Theo tình hình hiện nay, chúng ta chưa thể làm điều này, vì không có một lãnh tụ tầm cở có thể ban hiệu lệnh thiên hạ, nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra người này.

Người làm việc lớn thì thường bỏ qua những tiểu tiết, kẻ làm việc nhỏ thì lại chú ý những tiểu tiết này để chống phá, nên chúng ta chưa có được một lãnh tụ. Nhưng ra ngõ gặp anh hùng là tục ngữ nói về truyền thống bất khuất của dân tộc ta, khi bị trị tự nhiên xuất hiện vị cứu tinh của dân tộc. Canh khuya không dám dang chân ngủ - Vì sợ sơn hà xã tắc xiêu. Hai câu thơ khẩu khí này của Lý Công Uẫn lúc làm chú tiểu trong chùa, sau này trở thành vua, lãnh đạo dân chúng đánh tan quân Tống xâm lược nước ta. Anh hùng xuất thiếu niên, vị lãnh tụ của cộng đồng Việt Nam có thể là lớp người trẻ, cũng có thể là thế hệ thứ nhất, vị này sẽ làm các công việc chắc chắn lớn hơn và không dẫm chân lên các công việc mà các cộng đồng địa phương đang làm, nhưng người này có uy tín thì sẽ có khả năng hợp nhất cộng đồng và đoàn thể lại không còn đấu đá nhau nữa, hợp nhất lại các tổ chức quân đội, không để tại một địa phương mà có đến hai lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6 như tại San Jose nữa. Vị lãnh tụ này chắc sẽ có khả năng hoà giải những bất đồng, và thống nhất sức mạnh tập thể để làm các công việc chung, giống như Ðinh Bộ Lĩnh ngày xưa thu phục 12 sứ quân vậy.

Hãy lấy vụ nộp hồ sơ hải đảo cho Liên Hiệp Quốc tháng 5 vừa rồi mà làm tiền đề cho việc tìm người lãnh đạo. Ðây là một vấn đề serious và có thể, chứ không phải là không tưởng. Hãy nhớ lại gần 50,000 đồng hương già trẻ lớn bé ngồi lại với nhau tay vẫy cờ vàng trong một đêm cao điểm đấu tranh 53 ngày chống cờ máu trong vụ Trần Trường năm 1999 tại Bolsa, Little Saigon, thủ phủ của người Việt lưu vong. Hãy nhớ hàng triệu Mỹ kim mà đồng hương nức lòng quyên góp cho thương phế binh trong những đại nhạc hội gây quỹ hàng năm. Hãy nhớ hàng chục triệu đô la mà đồng hương quyên góp cho kháng chiến, dầu cho thực chất cuộc kháng chiến này dzõm và để lại quá nhiều tai tiếng, nhưng đây là một quyết tâm đoàn kết vô bờ bến, vì dân vì nước của người Việt quốc gia mà nhiều đời sau sẽ còn nhắc nhở.

Bài này chúng tôi viết ra hoàn toàn không đề cao người nào, chỉ trích ai, không lobby ai, chỉ nêu một số thí dụ có thực đã xảy ra trong quá khứ của cộng đồng Việt Nam mà ai cũng biết rõ ràng, mong quý vị đóng góp ý kiến để tìm ra một người lãnh đạo chung, có như thế chúng mới không phải hy sinh nhiều thời gian, nhiều công sức mà chỉ đạt được những kết quả nhỏ nhoi.

Song Hoài

    Trở Về Quê Hương

    Rồi mai đây, ta về quê hương
    Lặng nhìn sông núi tỏ niềm thương
    Ðàn con viễn xứ nay về Tổ
    Dựng lại quê hương, phá ngục tù

    Nước non chinh chiến tự ngàn thu
    Chẳng thấy yên vui chỉ hận thù
    Giặc từ ngoài Bắc vào xâm lấn
    Chồng chất bao nhiêu nợ máu xương

    Rồi mai đây, ta về quê hương
    Cờ vàng ba sọc đỏ yêu thương
    Bay trong nắng ấm tình dân tộc
    Rạng tiếng hoan ca khắp phố phường

    Rồi mai đây, ta về quê hương
    Hòa cùng cây cỏ thở hơi sương
    Nén hương thắp lại mồ chiến sĩ
    Ðể nhớ ơn xưa thuở chiến trường

    Ðể cùng Thương Tiếc bao đời lính
    Vị quốc vong thân để tiếc thương
    Rồi mai đây, ta về quê hương
    Hồn lâng lâng nhẹ gót phong sương

    Cho đời thôi bớt sầu ly xứ
    Trả mộng tang bồng đỡ vấn vương


CŨNG ĐÃ CÓ NGÀY TÀN ... - Lê Phàm Nhân

Lê Phàm Nhân
- Trích đăng từ nguyệt san Con Ong Việt số 106 tháng 8,2009

Barrack Hussein lên ngôi, thấm thoát đã được nửa năm. Lời nói trong khi tranh cử, và việc làm sau khi nhậm chức, đã bắt đầu hiện ra rõ rệt trước mắt cử tri Hoa kỳ và con mắt quan sát khắp năm châu. Tóm tắt mà nói, có hai lãnh vực chính: đối ngoại và đối nội.

Barrack Obama
Về đối ngoại, mới có trong vòng 6 tháng, Barrack Hussein đã đi gần khắp năm châu. Đi để làm hai việc. Một là, đưa đệ nhất phu nhân da đen đầu tiên của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đi du lịch, trình làng, kể cả việc ghé lại Ghana, Phi châu, để chơi trò “Thầy Carnot về thăm làng cũ”, với chi phí khổng lồ do thuế má người dân đài thọ. Thứ hai, đi chu du chỉ nói chuyện “huề vốn”, chứ không hề có thương lượng chiến lược đối ngoại, để củng cố vai trò của đại cường Hoa Kỳ trên chính trường toàn cầu, chuyện mà nhiều nước nhược tiểu bị áp bức đang để mắt ngóng trông. Gọi rằng “đi du lịch”, là vì vậy. Tệ hơn là “nói chuyện huề vốn”, Barrack còn lên tiếng “xin lỗi” nhiều nước, mà giới truyền thông và dân chúng Mỹ lâu nay vẫn gọi là “bad guys”, như Iran, Bắc Hàn, Cuba, Venezuela ...! Nói tóm lại, Barrack đã từ khước vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trên thế giới, để vừa rảnh tay học việc, vừa để quay về chỉ lo chuyện đối nội.

Về đối nội, trọng tâm công tác của Barrack là củng cố quyền hành cho đảng Dân Chủ nói chung, và chiếc ghế Tổng Thống cho mình nói riêng, mong sao ít lắm cũng là một nhiệm kỳ nữa. Phương thức không có chi là khó hiểu: Phân tách kỹ càng, nhận diện rõ mặt các khối cử tri chỉ chuyên đòi hỏi quyền lợi cho phe nhóm họ, đặt quyền lợi cá nhân và phe nhóm lên trên quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ. Rồi Barrack dùng quyền của hành pháp, dùng tài nguyên của quốc gia, thỏa mãn tối đa đòi hỏi của những khối cử tri này, để lấy lòng, để kiếm phiếu, bất chấp sự chống đối của công chúng và dư luận truyền thông. Ví dụ như chuyện “Tea Parties” âm ỷ kéo dài, chống tăng thuế. Ví dụ như chuyện “Health Care Reform”, gây phẫn nộ sâu rộng trong các “townhall meetings”, đang lan tràn khắp nước. Không ngần ngại dẫm lên dư luận, để lấy lòng các khối cử tri đó, miễn sao cho ngày bầu cử lần tới, góp chung lại được trên 50% tổng số phiếu, để tiếp tục cầm quyền, là hoàn thành được mục tiêu chính trị tối hậu.!

Đọc chuyện vạn lý trường chinh bên Tàu, nhớ lại ngày còn bôn ba đó đây, có lần Mao Trạch Đông dừng lại bên suối, uống rượu cùng đồng chí Chu Ân Lai. Mao vỗ bụng đắc chí, hề hà san sẻ với họ Chu giấc mộng chia ba thiên hạ: Âu, Mỹ và ... Hoa! Nửa thế kỷ sau khi họ Mao nhắm mắt lìa đời, Mỹ châu đang lột xác. John F. Kennedy là Tổng Thống sau cùng thuộc đảng Dân Chủ Mỹ, được lịch sử Mỹ nhắc nhớ với câu nói: “Ask not what your country can do for you. Ask what you can do for your country”. Ronald Reagan là Tổng Thống Cộng Hòa được lưỡng đảng Mỹ ca ngợi không tiếc lời, vì đã thắng cuộc chiến tranh lạnh trong thế kỷ thứ 20, xô ngã khối sắt máu khổng lồ Liên bang Sô Viết. Và Ronald Reagan được nhắc nhở với câu nói: “We all love freedom. But freedom is not free. We must be strong to defend freedom”. Đại để, tự do không phải là... tình cho không biếu không. Phải mạnh mới gìn giữ được tự do ...

Ngược dòng lịch sử, nước Mỹ đã tượng hình với những di dân chạy trốn áp bức, từ khắp nơi đổ vào tân lục địa trong thế kỷ thứ 18. Văn minh tứ xứ góp lại, chan hòa lên tài nguyên mầu mỡ của vùng đất mới, cộng với ý chí chống bất công áp bức, đã biến tân lục địa trở thành một đại cường, trong một thời gian nhanh chóng kỷ lục, chỉ có ba thế kỷ. Và quốc gia trẻ trung này đã hãnh diện mang tên là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United States of America), vì văn hóa và kỹ thuật từ bốn phương hợp về ...

Lịch sử loài người là một chuỗi dài những lỉnh kỉnh cá lớn đớp cá bé. Khi bị áp bức, bị dồn vào chân tường, thì con người phải phản ứng, phấn đấu để tự tồn. Từ đó, đã nảy sanh ra nhân kiệt, đã tạo nên được địa linh. Sau đó, nhân kiệt truyền lại cho con cháu, xuống nhiều đời, thì lại trở thành ươn hèn hư đốn, lại sanh ra áp bức, bất mãn. Chu kỳ lẩn quẩn này đã tái diễn nhiều nghìn năm, qua lịch sử thăng trầm của nhiều triều đại vua chúa trong lịch sử Âu Á. Sang thế kỷ mới này, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cũng bắt đầu có dấu hiệu bị chi phối bởi cái vòng thăng trầm lẩn quẩn trên đây, bởi bản chất của con người.

Cuộc tranh cử tháng 11 năm 2008 tại Hoa Kỳ, đã cho thế giới có một dịp quan sát thật gần vào nền dân chủ ở Mỹ: kết quả đã mang lại một nguyên thủ quốc gia gốc Phi châu lần đầu tiên. Bên ngoài nhìn vào, kết quả bầu cử đó rất ngoạn mục, cho dầu có bị ít nhiều hoen ố bởi câu chuyện “Acorn”! Dù có bị tai tiếng, nhưng cũng phải nhìn nhận là, kết quả bầu cử có phần phản ảnh ... lòng dân, qua lá phiếu của cử tri, chứ không đến nỗi như ở Bắc Hàn, ở Libya, ở Cuba, ở Trung cộng, hay ở Việt Nam.

Lòng dân của cử tri Hoa Kỳ bây giờ, không còn là lòng dân trong tinh thần hy sinh cho quốc gia, như qua câu nói trên đây của John Kennedy nữa. Lòng dân Hoa Kỳ bây giờ, cũng không phản ảnh ý thức giá trị của Tự Do, như trong câu nói của Ronald Reagan nữa. Lòng dân Hoa Kỳ bây giờ, là lòng của các cậu ấm cô chiêu, hậu duệ nhiều đời của các nhân kiệt dựng quốc truyền xuống. Đặc biệt, “lòng dân” trong tâm tưởng của giới cử tri đã vào được tân lục địa, không phải vì chối bỏ áp bức, mà vì mạo hiểm mọi cách để vào được đất hứa, để cải thiện đời sống. Trong lòng dân Hoa Kỳ bây giờ, nước Mỹ đã thừa mạnh để tự tồn, việc gì phải bận tâm chuyện tự do của người khác ở đâu đâu, như kiểu ông Reagan. Trong lòng dân Hoa Kỳ bây giờ, câu nói của Ông Kennedy, đã trở thành ... quân tử tầu! Đừng đòi hỏi ta đóng góp cho đất nước. Đất nước này đã thừa mạnh, thừa giàu rồi. Đã đến phiên ta hỏi: Phần của ta đâu, chia chác cho ta hưởng tí ... Trợ cấp xã hội, quyền lợi y-tế tài chính, tự do phá thai, đồng tính, tránh nghĩa vụ quân sự v.v... Một mặt, người ta không thể nói tất cả dân chúng Hoa Kỳ bây giờ đều như vậy. Nhưng mặt khác, sang thế kỷ mới này, rõ ràng là con số đó đã lớn lên, đến một tỉ lệ quá bán. Đủ để đánh bại một ứng viên John McCain với thành tích suốt đời xương máu phục vụ quốc gia, quân đội trên chiến trường, và dày dạn kinh nghiệm đấu tranh trên chính trường. Và lần đầu tiên trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, đủ để nghiêng phần thắng lợi về tay một “con ma nhà họ hứa”, ngoài “nghề hứa” ra, chưa hề có mảy may kinh nghiệm lãnh đạo.

Barrack đã nắm được yếu tố nhân tâm này. Barrack đã hứa thỏa mãn đòi hỏi của cử tri trong khi tranh cử. Nhờ đó, Barrack đã thắng cử. Và Barrack đang làm tiếp mọi việc trong quyền hạn, để tiếp tục thỏa mãn họ, để bắt bù-loong vào chân chiếc ghế hành pháp trong cuộc bầu cử tới. Barrack quả là một tài năng chính trị mới, nhưng không phải là loại chánh khách có lý tưởng quốc gia như Kennedy, hay có lý tưởng tự do như Reagan. Mà Barrack là thiên tài vô địch, trong thủ đoạn chính trị thực tế trần truồng: lấy phiếu để cầm quyền. Quyền hành là tất cả. Hoàn cảnh và kỹ thuật chi tiết ở mỗi quốc gia tuy có khác, nhưng nói chung, thì các thể-chế đang cầm quyền ở Libya, ở Bắc Hàn, ở Iran, ở Trung cộng, ở Nga, ở Hà Nội, cũng rất sở trường về thủ đoạn chính trị bám cứng lấy quyền bính này.

Dưới chánh sách của Barrack, Chú Sam đang bịt mắt che tai với thế sự bên ngoài. Đây là cơ hội bằng vàng, từ thế chiến thứ nhất cho đến nay, mới có một lần, để cho Nga Tàu hoàn toàn rảnh tay “dàn dựng” mọi việc cần thiết, để xây đắp con đường tiến tới hoàn tất giấc mộng lớn của họ: giấc mộng chia nhau quyền bá chủ thiên hạ. Thay vì thiên hạ chia làm ba chân vạc Âu, Mỹ và Hoa, như họ Mao mơ ước trước đây, thì từ đầu tân thế kỷ này, cuộc cờ thế giới đang dần dần thiên về thế ... tứ cực: Âu, Mỹ, Nga, Hoa: Liên Hiệp Âu-châu bên trời Âu. Mỹ và Canada bên tân lục địa. Liên Bang Nga ở Tây Á, Bắc Á và Đông Âu. Và cuối cùng là Tàu cộng, hùng cứ Đông Nam Á.

Tòa Nhà Trắng, với chủ nhân ông Barrack Obama, với chính sách bịt tai che mắt với thế giới bên ngoài, là một cơ hội bằng vàng, một dịp hi hữu hiếm có cho Nga Tầu. Cho nên một mặt, Nga và Tàu cộng đang rất là thân thiện với Mỹ, cầu chúc cho Obama “phúc như Đông Hải, thọ tựa Nam Sơn”... Mặt khác, họ biết rằng cơ hội bằng vàng này, không dễ có lần thứ hai. Cho nên, nói theo kiểu Việt cộng, cả Nga lẫn Trung cộng đều đang “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”!

Obama vừa tuyên thệ, là Vladimir Putin siết ngay gọng kềm ở Bắc Á với các tiểu quốc như Chechnia, Georgia ... vừa trước đây vẫn trông cậy vào sự giúp đỡ của George W. Bush để hy vọng giữ được độc lập của họ. Bên đông âu, Nga cũng đã hung hăng ngay trở lại với Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi ... về vụ màn chắn hỏa tiễn, vụ ống dẫn khí đốt thiên nhiên v.v... mặc dù các nước này, nay đã là hội viên của Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) trong Liên Hiệp Âu châu. Còn nhớ, liền ngay sau khi Liên Bang Sô Viết tan rã năm 1991, Tổng Thống thứ 41 của Mỹ Georges Herbert Bush đã đưa ngoại biên của Hoa Kỳ sang mãi tận Kazakhstan, Uzbekistan, Tajikistan, với lá cờ hoa bay phất phới đó đây. Bây giờ, không chắc Obama có biết những xứ này ở đâu trên bản đồ thế giới ... Xin mạn phép tạm dừng chuyện dài của Liên bang Nga ở vùng tây bắc Á và đông âu lại nơi đây, để nhìn sang vùng Đông Nam Á, nơi có giải đất hình chữ S của chúng ta.

Ở đông nam Á châu, có hai nước lớn, với dân số đông nhất nhì thế giới. Đó là Ấn độ và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, vẫn được gọi ngắn gọn là Trung Hoa Cộng sản, hay Trung Cộng. Ấn độ hiện đang có bang giao tốt đẹp với Pháp Đức, Anh Mỹ ... Ấn độ có vũ khí hạt nhân và hàng không mẫu hạm. Ấn độ ngày nay không còn là miếng mồi hấp dẫn, mà Trung cộng dám chủ quan nhắm đến, như Hiro Hito của quân phiệt Nhật đã một lần chơi bạo trong thế chiến thứù hai giữa thế kỷ trước. Câu chuyện “Colonel Saito” ở Cầu Sông Kwai vẫn còn được nhắc nhở...

Nhiệm kỳ “che tai bịt mắt” với thế sự bên ngoài của đảng dân Chủ Mỹ hiện nay, có lâu lắm cũng chỉ là vài năm, chứ không mãi mãi. Biết vậy, Trung cộng đang thực tế, làm nhanh làm bạo tất cả những gì có thể làm được, để mở rộng biên cương trên đất trên biển, cố thực thi giấc mộng Đại Hán của Mao Xếnh Xáng và di huấn của Đặng Tiểu Bình... Từ Hoa Lục nhìn ra biển đông, tầm mắt của giới lãnh đạo Tầu cộng bị vướng víu bởi các “chốt” Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, vừa đã có khả năng tự vệ hữu hiệu, lại vừa có cái dù che của “Uncle Sam”. Chú Sam này, từ nửa thế kỷ trở lại đây, lúc nào cũng rất lật lọng vì quyền lợi nhất thời và giai đoạn, vì không có sách lược đường dài ... Chú Sam cho thuê chiếc dù che ở bờ biển đông, để giữ cho dầu-sôi lửa-bỏng càng xa biên cương Hạ Uy Di càng tốt, chứ cũng chẳng tử tế gì. Chú Sam chưa quên bài học Pearl Harbor tháng chạp năm 1941.

Người Việt chúng ta cũng không thể nào quên chuyện Henry Kissinger đã bán đứng Nam Việt Nam cho Trung cộng tháng giêng năm 1973 tại Hoà Đàm Ba-Lê, để kéo Tầu cộng vào làm đồng minh, hầu chiến thắng cuộc chiến tranh lạnh. Và ngay năm sau, 1974, Trung cộng đã đưa chiến hạm ra tấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa trên thềm biển đông của Việt Nam, khi mà biển đông lúc bấy giờ đang lúc nhúc tàu bè của hạm đội số 7 Hoa Kỳ! Khốn nạn thật ... Mẹ Việt Nam quằn quại niềm đau thân phận nhược tiểu. Chỉ có con người cộng sản Việt đã xem diễn biến đó là một bước tiến thắng lợi, vì đã đẩy đưa chúng đến gần quyền hành hơn. Quyền bính là tất cả, dù có dâng đất nước của ông cha cho ngoại nhân!

Dưới mắt Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, hướng tiến thuận lợi nhất trong thời gian Barrack bịt mắt che tai này, không còn hướng nào tốt hơn là hướng nam và đông nam. Về hướng đông nam, họ đưa tàu bè binh lính đến củng cố Hoàng Sa Trường Sa, xây phi đạo, lập khu tiếp liệu, cắm tiêu mốc ngang ngược trên biển đông sát hải phận Đà nẵng, bắt bớ ngư thuyền người Việt, giam cầm đánh đập, tịch thu thuyền bè dụng cụ. Về hướng nam, từ trên đi xuống, trước hết là linh đình làm lễ khánh thành địa điểm biên giới mới, có Bộ Trưởng Ung Văn Khiêm của Bắc Bộ Phủ tham dự, đẩy lùi hình ảnh Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc vào ký ức đau thương...

Tiếp tục đi xa hơn về hướng nam, Trung cộng đã xử dụng xa lộ Trường Sơn, đưa đông đảo “công nhân thợ thuyền”(!), máy móc trang cụ xuống mãi cao nguyên Trung Phần, có bộ-đội nhân-dân của cộng sản Bắc Việt an ninh lộ trình, để khai thác quặng nhôm “beauxite” tại công trường Đak-Nông.

Ngang ngược bấy nhiêu chưa đủ, Trung cộng còn cho tàu hải quân xuống cấm tiêu mốc mang bốn chữ chệt “Thổ Địa Giới Tiêu” mãi tận hải phận đảo Côn Sơn, ngoài khơi hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu của Nam Việt ... Chuyện ngang ngược kiểu này, chỉ xảy ra lâu lắm rồi, khi các chiến thuyền Vikings dở trò bạo ngược man rợ ở Bắc Âu. Sang đầu thế kỷ thứ 21, chuyện bạo ngược man rợ lại tái diễn ở hải phận Côn Đảo ngoài khơi Bạc Liêu, khi mà chiếc bóng cao khều đen ngòm của Barrack Hussein Obama vừa che khuất ánh lửa bập bùng cầm trên tay của Nữ Thần Tự Do trên hải cảng Nữu Ước.

Người Việt hải ngoại và sinh viên học sinh trong quốc nội mạnh mẽ lên tiếng phản đối. Nguyễn minh Triết và Nguyễn tấn Dũng đến nay vẫn câm như hến. Chẳng những vậy, còn thừa lệnh quan thầy phương bắc, phụ giúp một tay để “hợp thức hóa” vụ lấn đất chiếm biển này, qua trò Hà Nội đệ trình Liên Hiệp Quốc hai hồ sơ “Xin mở rộng thềm lục địa cho Việt Nam” vào hai ngày 6 và 7 tháng 5 năm 2009, mà thực chất là, tự mình thưa-ông con-ở bụi-này, tự mình trình làng những ranh giới mới mà Lê công Phụng đã thừa lệnh nhượng bộ, khi tên này làm trưởng Phái Đoàn thương thuyết với Trung cộng hai năm trước đây. Sau khi hoàn tất đại công tác bán nước, Phụng đã được tưởng thưởng chức vụ “Đại sứ Toàn Quyền” của Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Mỹ, ngay khi Barrack Obama vừa mới được Đại Hội đảng Dân Chủ Hoa Kỳ chọn làm ứng cử viên chạy đua vào Tòa Nhà Trắng mùa thu năm 2008. Ánh sáng hy vọng ở cuối đường hầm, của những nhóm lửa đấu tranh cho dân chủ, tự do, nhân quyền ở các nước nhỏ Chechnia, Georgia, Tây Tạng, Nepal, Sikkim, Bhoutan, Miến Điện và Việt Nam, ngày càng hắt hiu leo lét...

Từ ngày Obama nhậm chức cho đến nay, truyền thông chỉ ghi nhận được hai “hoạt động ngoại giao” của hành pháp Mỹ. Chuyện thứ nhất, là lời “tuyên bố để đời” của thủ lãnh đại cường Barrack Obama tại Ankara Thổ Nhĩ Kỳ. Ba tháng sau ngày nhậm chức, Obama và đoàn tùy tùng hùng hậu, bay sang Roma họp thượng đỉnh. Trên đường trở về, có ghé qua thủ đô Ankara để thăm viếng quốc gia Hồi giáo Turkey. Đúng ngay vào ngày dừng chân đó, Bắc Hàn đã bất thần phóng thử nghiệm một hỏa tiễn tầm xa ra biển đông, qua đầu Nhật Bản. Nam Hàn và Nhật phản đối quyết liệt. Obama đang họp báo ở Ankara, bỗng nổi hứng phát ngôn với lời lẽ và giọng điệu khàn khàn chát chúa quen thuộc như khi tranh cử ở Chicago Illinois trong năm trước: “Đó là một vi phạm trầm trọng thỏa ước an ninh của Liên Hiệp Quốc. Vi phạm cần phải được trừng trị. Và lời nói phải có giá trị của nó” (Violation must be punished. And words must mean something!). Các quốc gia ở Trung đông lúc này đang khó chịu vì nỗ lực của Iran cố thực hiện vũ khí nguyên tử, nên lời tuyên bố xanh rờn của Obama được tán thưởng nhiệt liệt.

Ở Bình Nhưỡng, lãnh tụ Kim Jong Il nổi khùng, đuổi hết kiểm soát viên Liên Hiệp Quốc ra về, hăm dọa tàu bè hải quân Mỹ đừng tiến gần hải phận Bắc Hàn, và ngang nhiên đe dọa sẽ trả đũa đích đáng nếu Hoa Kỳ có “hành động khiêu khích”. Cả tỉ con mắt khắp nơi nhìn vào Hoa Thịnh Đốn, mong đợi một phản ứng ngoạn mục, tương xứng với lời tuyên bố xanh dờn của Obama ở Ankara. Hillary Clinton được Obama gửi đến trụ sở LHQ ở New York, để cùng Susan Rice (Đại sứ của Obama tại LHQ) cố vận động Hội đồng Bảo An LHQ ra một nghị quyết để cảnh cáo Bắc Hàn. Nhưng hoàn toàn công cốc. Bắc Hàn phây phây. Kim Jong Il thừa thắng xông lên, noi gương anh dũng của Tổng Thống râu xồm Ahmadinejad của Iran, hăm dọa sẽ xóa sổ Mỹ trên bản đồ, nếu Hoa Kỳ kiếm chuyện! Washington vẫn êm ru. Thế giới thấy rõ, “Obama’s words mean nothing”. Từ đó, Obama cụt hứng chuyện đối ngoại, quay lại với các mánh mung kiếm phiếu, hợp với sở trường của chàng hơn. Được báo chí phỏng vấn, Tổng trưởng Ngoại giao Hillary Clinton vớt vát chữa thẹn: “Họ (Bắc hàn) cũng giống như đứa trẻ con bướng bỉnh, lúc nào cũng muốn người ta chú ý đến mình”. Nhân viên ngoại giao cấp thấp của Bình Nhưỡng trả đũa: “Bà già lẩm cẩm này, sao không về đi shopping đi, còn nói năng láp giáp làm gì ...”

Trong bối cảnh thiếu vệ sinh của màn trao đổi chữ nghĩa ngoại giao trật chìa đó, bỗng cựu Tổng Thống Bill Clinton, chồng của Hillary, bay sang Bình Nhưỡng. Bill bắt tay bắt chân, chụp hình với lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Il, vừa mới lóp ngóp ngóc dậy từ giường bệnh. Và Kim cho Bill dắt hai nữ nhân viên của Al Gore về Mỹ. Hai nữ nhân viên này vừa bị tòa án Bắc Hàn kết tội 12 năm khổ sai vì tội “hoạt động gián điệp”, mới hai tháng trước đó. Barrack không bình luận một lời, vì còn chưa hết ngượng với lời tuyên bố tuyên cha ở Ankara. Riêng Hillary, thì câng câng tự đắc, coi đó như là thắng lợi lớn nhất trong sự nghiệp ngoại giao của mình! Ở bề trái, người ta không rõ phú-ông Bill Clinton có đấm mõm nắm xôi nào vào mồm “thằng bờm” Kim Jong Il hay không. Người ta chỉ biết rằng hai nhân vật này đồng-bệnh tương-lân, đồng-khí tương-cầu. Kim rất hâm mộ Bill, vì thành tích chơi “thổi kèn” của Bill trong thư viện của White House khả kính, vào một buổi chiều năm xưa. Ngược lại, Bill lại rất nể nang, trầm trồ thú tiêu khiển kiểu đế vương của Kim: quanh năm chỉ Hennessy X.O., từng “trung đội” gái luân phiên, luôn luôn thay đổi hương sắc, tam cá nguyệt này thì tóc bạch kim bắc âu, lục cá nguyệt kia, thì màu rám nắng mặn mà chắc nịch của quần đảo Carribean ...

Câu chuyện về Barrack, và Hillary vừa kể trên đây, là ví dụ một cái nhìn, về những sinh hoạt mới đây, có thật, của hành pháp và ngoại giao của Mỹ, trong 6 tháng đầu của nhiệm kỳ Obama. Barrack Obama có những dự án chi tiêu khổng lồ, không phải bạc tỉ hay chục tỉ, mà là trăm tỷ, ngàn tỉ (trillions of dollars), hứa hẹn là để ... kích động kinh tế. Ngân sách Chú Sam đang thâm hụt. Chú Sam đang nợ như chúa chổm. Nợ riêng Trung cộng trên dưới 700 tỉ đô la. Cho nên Chú sam há miệng mắc quai, khi Trung cộng tung hoành tác quái ở biển đông. Nhưng không phải Trung cộng muốn làm mưa làm gió thế nào cũng được. Trong tháng 7 năm 2009, di dân người Hán đã đụng độ xung đột với thổ dân địa phương theo đạo Hồi, ở thủ phủ Urumqi, vùng sa mạc Tân Cương ở phía tây. Bắc Kinh cho điều động bộ đội đến đàn áp. Thổ dân người Hồi phản ứng mãnh liệt. Thương tích và tử vong của riêng người Hồi tại đây đã lên đến trên một nghìn sáu trăm người. Tổng thống Trung cộng Hồ cẩm Đào đã phải bỏ ngang hội nghị thượng đỉnh ở Âu châu, trở về Bắc Kinh theo sát diễn tiến.

Theo báo “The Christian Science Monitor”, thì phản ứng mạnh mẽ nhất không đến từ người Hồi ở vùng Urumqi, mà đến từ thủ đô Ankara và nội các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng trưởng Bộ Kỹ Nghệ và Thương Mại Turkey trong tuần qua, đã kêu gọi tẩy chay hàng hóa Trung cộng. Đương kiêm Thủ Tướng Turkey, ông Erdogan đã tuyên bố trên hệ thống truyền hình quốc gia rằng “Nói một cách giản dị nhất, việc đàn áp dã man những người anh em Uighurs của chúng ta ở Urumqi, là tương đương với sự diệt chủng, không còn cách diễn dịch nào khác hơn được nữa”. Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ, ông Abdullah Gul, vừa chính thức thăm viếng thủ phủ Urumqi của Tân Cương chỉ một thời gian ngắn trước khi cuộc xung đột xảy ra vào ngày 5 tháng 7 vừa rồi.

Sau mỗi lần có thiên tai như lũ lụt, động đất, phong ba bão táp, Trung cộng thường làm một công đôi ba việc: cưỡng bách di dân đến các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân cương, hay vùng cao nguyên dọc biên giới Ấn độ, để vừa giải quyết thiên tai, vừa nhân tiện trấn chiếm lãnh thổ. Trước đây, đã có những cuộc nổi dậy đẫm máu của người Tây Tạng chống di dân gốc Hán hống hách trong vùng thung lũng quanh thủ đô Lhassa. Bắc Kinh đã đàn áp thẳng tay, gây nên làn sóng phẫn nộ khắp hoàn vũ. Và bây giờ, trầm trọng hơn nhiều, là cuộc đổ máu đang tiếp diễn vì xung đột giữa người Hán và người Hồi ở Urumqi. Lá quốc kỳ mầu máu của Trung cộng, có 5 ngôi sao vàng, tượng trưng cho 5 sắc dân Hán Mãn Mông Tạng và Hồi. Ngôi sao sau cùng đó, bắt đầu rạn nứt ở Tân Cương ...

Không phải đi đâu, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cũng chỉ gặp có Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, hay Barrack và Hillary! Đi đêm thường, thế nào cũng gặp ma. Và bóng ma lần này, là bóng ma ... Hồi giáo! Bóng ma đã gây kinh hoàng ở Hoa Kỳ, ở Pháp, ở Anh, ở Tây ban Nha, ở Nam Dương, Phi Luật Tân, ở Iraq, ở Pakistan, ở Afghanistan ... To lớn như Phát Xít Đức, hùng mạnh như Quân Phiệt Nhật, khổng lồ tàn bạo như Liên Bang Sô Viết, cũng đã có ngày tàn. Chuyện Tây Tạng, chuyện Việt Nam, đang thật là đen tối, nhưng không phải đã là hoàn toàn vô vọng ...

Lê Phàm Nhân

Lời xin lỗi muộn màng - Ngọc Khánh


William Calley bị đưa ra trước toà án quân sự

Ngọc Khánh

William Calley: Lời xin lỗi muộn màng
Tuần rồi, báo chí trong nước cũng như nước ngoài đồng loạt đưa tin về việc cựu binh trung úy Hoa Kỳ William Calley công khai xin lỗi những nạn nhân của vụ thảm sát Mỹ Lai xảy ra hơn 40 năm trước.

William Calley giờ đây đã 66 tuổi nói rằng ông vô cùng ân hận vì đã góp phần trong chuyện thảm sát ở Mỹ Lai trong chiến tranh Việt Nam trước đây. Lời xin lỗi được người cựu binh này đưa ra ở một câu lạc bộ thuộc thành phố Columbus, tiểu bang Georgia.

Cựu trung úy quân đội Mỹ, William Calley, bằng thái độ chân thành đã nói “Không có ngày nào trôi qua mà tôi không cảm thấy ân hận cho những gì đã xảy ra ngày đó ở Mỹ Lai". Theo mô tả của BBC, giọng cựu binh Mỹ này lạc đi và ông nói tiếp: "Tôi thấy thương xót cho những người VN bị sát hại, cho gia đình họ, cho những người lính Mỹ tham gia vụ việc. Tôi rất xin lỗi”.

William Calley đã từng bị đưa ra tòa và bị kết 22 tội trong cuộc thảm sát thường dân năm 1968 ở Việt Nam. Ông bị kết án chung thân nhưng ngay sau đó được giảm án và chỉ bị 3 năm quản thúc tại gia. Lâu nay ông sống ẩn dật và đã nhiều lần từ chối trả lời phỏng vấn của giới truyền thông về những gì đã diễn ra trong cái ngày định mệnh đó.

Ngày 16 tháng 3 năm 1968, 2 tháng sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, thông tin của tình báo Mỹ cho rằng sau, Tiểu đoàn 48 đã rút lui về ẩn náu tại địa bàn Sơn Mỹ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, cụ thể là thôn Mỹ Lai.

Calley khi đó 25 tuổi, đeo hàm trung úy, nhận lệnh của cấp trên, chỉ huy một đại đội lục quân Hoa Kỳ vào Mỹ Lai để “tìm và tiêu diệt” những du kích cộng sản trong vùng. Mặc dù không tìm thấy du kích nào và không bị tấn công, Calley đã ra lệnh tiến vào làng đốt nhà dân, tập trung dân chúng và xả súng bừa bãi vào họ. Trước tòa án quân sự, Calley thanh minh rằng ông chỉ tuân lệnh thượng cấp khi làm những việc này và ông đã nhận được những thông tin sai lầm.

Theo những báo cáo sau này, có 504 thường dân bị thiệt mạng (phía Mỹ đưa ra con số 347), chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người già, tuổi từ 1 cho tới 82. Một số nhân chứng may mắn sống sót cho hay, trước khi bị bắn chết, nhiều người còn bị tra tấn với mục đích tìm nơi trú ẩn của Viêt Cộng, phụ nữ bị hãm hiếp .v.v...


Những người phụ nữ này bị giết
ngay sau khi bức ảnh được chụp

Ảnh của Ronald L. Haeberle
Sự việc bị che giấu và Lầu Năm Góc cho rằng những người bị giết là Việt Cộng. Sự thật chỉ bị phanh phui hơn một năm sau đó khi nhà báo Seymour Hersh bằng cuộc điều tra độc lập của mình đưa ra những hình ảnh kinh hoàng của vụ thảm sát.

Sự thật được phơi bày đã làm rúng động nước Mỹ và làm thay đổi cái nhìn cũng như sự ủng hộ cuộc chiến của người dân Mỹ. Phong trào phản chiến của người dân Mỹ tăng lên làm cục diện cuộc chiến ngày càng thay đổi bất lợi cho phía Mỹ.

41 năm đã qua đi. Lời xin lỗi dù quá muộn của William Calley cũng giúp trả lại sự thật, đem lại sự thanh thản cho những linh hồn ở Mỹ Lai và phần nào an ủi những người còn sống hay thân nhân của họ. Thái độ chân thành của ông đã cứu vớt phần nào nhân cách không chỉ cho ông mà còn cho những đồng đội của ông, ngày hôm đó ở Mỹ Lai.

Muộn vẫn hơn là không! Lời xin lỗi trong bất kỳ trường hợp nào vẫn có những giá trị của nó.

Và dù sao, linh hồn của những nạn nhân Mỹ Lai cũng còn nhận được một lời xin lỗi, của một người ngoại quốc, của một kẻ thù. Còn khoảng 50.000 oan hồn bị giết trong Cải Cách Ruộng Đất nhằm "tiêu diệt giai cấp địa chủ" ở miền Bắc, hàng chục ngàn người khác bị đấu tố, hàng ngàn người bỏ mạng trong các hố chôn tập thể ở Huế trong cuộc "Tổng Tấn Công Mậu Thân" năm 1968, hàng ngàn người bị bỏ tù về Nhân Văn Giai Phẩm hay những vụ án "chống đảng", gia đình cũng như con cái họ bị phân biệt đối xử cả chục năm sau đó, những người bị cướp bóc tài sản, nhà cửa trong cuộc "Cải tạo Tư bản Tư thương" sau năm 1975.v.v. đã chờ đợi từ nửa thế kỷ nay cho một lời xin lỗi.

Cải cách ruộng đất

Mậu Thân 1968
Một lời xin lỗi không phải từ kẻ thù, không phải từ một người khác chủng tộc mà từ chính những người đồng hương, đồng chí, những người máu đỏ da vàng mà sao khó khăn đến thế!

Bài viết sử dụng số liệu từ Wikipedia.

Ngọc Khánh