Saturday, August 15, 2009

Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ? - Mai Thanh Truyết

    Vén Lên Màn Bí Mật Tại ViệT Nam:
    Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ?
Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
Trong hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản biện là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy rẫy trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi Châu … những nơi có dấu chân TC khai thác các công trình quặng mỏ hay những công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.

Cộng sản Việt Nam cũng như Trung Cộng (TC) cũng khpông thể nào chối cãi được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Trung hoa dù dưới dạng công nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mảnh đất quê hương của mình mà cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên.

Những khu biệt lập nầy có thể nói rằng do TC hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có người “lạ” nào hay cán bộ, công an Việt Nam có thể bén mãn đến được, mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý.

Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi, tạo nên một luồn sóng phẫn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền công nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi được.

Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và gần đây nhứt tại thành phố Alger, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức cá nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự hống hách, ức hiếp của người Hán trên mảnh đất quê hương của người bản xứ.

Trờ lại Việt Nam, riêng tại hai vùng hiện đang là điểm nóng ở Việt Nam; đó là Tân Rai ở Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nấy hiện đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ hơn một năm nay dưới sự đồng thuận của cs VN. Sau khi không thể bưng bít được từ hơn 6 tháng nay, cs VIỆT NAM đã phải bạch hoá công bố hai công trình trên mặc dù đã ký kết với TC từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào qua quá nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiểm hoạ từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự nếu để cho TC khai thác hai vùng nầy.

Nhưng trầm trọng hơn cả là trong việc nhường bước cho TC khai thác, cs VIỆT NAM để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (?) (mà bây giờ đã biến thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng?) trong việc hợp tác với TC. Và đây cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm Việt Nam không tiếng súng của TC.

Ngay từ giờ phút nầy (8/2009), đã có sự hiện diện của trên 570 công nhân TC ở Tân Rai và trên 300 ở Nhân Cơ. Đây là những con số do chính Ủy Ban nhân dân ở hai tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự chắc phải cao hơn nhiều.

Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự TC ở hai địa điểm trên là, tại sao họ có mặt hơn một năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc chuẩn bị mặt bằng cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su v.v… mà chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung quanh? Đây là một tiến độ côngb trình rất chậm so với số lượng nhân công hiện có và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường.

Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai thác quặng mỏ bauxite hay không?

Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác quặng mỏ bauxite chỉ là để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm chính của họ là DiệnĐiểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác?

Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của bài viết, người viết xin lần lượt tạo dựng ra nhiều giả thuyết qua các thông tin có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC trên mảnh đất quê hương Việt Nam.

Việc khai thác quặng mỏ Uranium

Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của núi lửa hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao so với các vùng đất tự nhiên khác. Và sác xuất có quặng mỏ Uranium cũng rất cao.

Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất đồng vị (isotope) Uranium: Uranium 235 và Uranium 238. U 238 được xem như là đồng vị nặng vì có 3 electron nhiều hơn U 235 . Chính U 235 mới đích thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi.

Việc khai thác gồm:

· Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235;

· Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện hay làm giàu (enrich) để đạt được nồng độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau.

Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tác vật lý, và dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom nguyên tử, ít nhứt, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối với các nồng độ thấp hơn, tuỳ thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.

Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc

Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn còn hoạt động. CS VIỆT NAM dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn về áp suất hay nhiệt độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các valve an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai nạn.

Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài.

Câu hỏi được đặt ra nơi đây là, tại sao người Pháp cho lấp đặt Trung Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ?

Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm nầy?

Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm gần nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn nguyên liệu phóng xạ tại chỗ?

Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngũi của Nhât Bổn vào thế chiến thứ hai, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng Bolloven nầy.

Nhưng tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không?

Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên Trung phần

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.

Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên.

Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc bấy giờ không cho phép.

Ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite.

Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể ly trích và khai thác được hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ quốc phòng và quân sự.

Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:

· Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra ở TQ. TC với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên vào nơi đây từ 6 tháng qua?

· Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê mướn trong vòng 50 năm?

Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật giữa cs VN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam.

Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và Điểm chính là việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất phóng xạ Uranium để làm tăng lợi khí “cường quốc” của Hán tộc.

Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam.

Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium

Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đem đến sự hủy diệt thảm thực vật ở miền Cao nguyên nầy, nhưng đứng về hiệu quả kinh tế, phát triển quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm nhiều ưu thế hơn cả. Lý do là trong vòng 10 năm nữa Việt Nam sẽ đưa vào hoạt động hai nhà máy phát điện nguyên tử tại Ninh Thuận, cho nên việc khai thác Uranium nầy có thể là nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhà máy, và Việt Nam có được tính chủ động không tùy thuộc vào nước ngoài để có thể bị áp lực của các quốc gia cung cấp nguyên liệu phóng xạ trên.

Thêm một điểm cần lưu ý là, nếu Việt Nam chủ động và làm chủ được nguồn nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên thương trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng sẽ được nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong các mặc cả trong nhiều lãnh vực nhứt là quốc phòng đối với những quốc gia khác trên thế giới.

Thay lời kết

Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất cao. Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những người lính dưới dạng công nhân ở hai nơi nầy.

Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội và hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê hương?

Một điều không thể chối cãi được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng.

Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa lục địa, và nhứt là lợi dụng tình trạng còn lõng lẽo của Hội Quốc liên, tiền thân của Liên Hiệp quốc thời bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội vàng chiếm đóng quốc gia Tây Turquistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng như chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Tiếp theo sau, chính sách Hán hóa bắt đầu thực hiện bằng cách cho người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần lần đồng hóa bằng những cuộc hôn nhân dị chủng. Hồ Cẩm Đào, ngày nay vẫn tiếp tục chương trình trên và kết quả hiện tại là dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương mình, và dân Tân Cương chỉ còn chiếm 42% trên tổng số tại nơi đây.

Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong “tầm bắn” của TC trong chính sách nầy trong một tương lai không xa.

Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu cứu vãn miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao.

Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và kinh tế của thế giới để đình chỉ việc khai thác trên.

Nếu không, TC, một khi làm chủ được nguyền nguyên liệu nầy sẽ mọc “thêm râu thêm cánh” và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của TC càng được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của TC mà biên giới gốm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nam Bắc Hàn v.v…

Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu nầy lọt vào tay TC. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có tranh chấp.

Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo hậu thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điềiukiện tối cần thiết trong lúc nầy. Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn với Ấn Độ, một đối lực ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn Độ cũng vừa có một quyết định sáng suốt trước hiễm hoại TC là chấm dứt hợp đồng xây dựng đường ống dẫn dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và Vân Nam (TQ). Đây là bước ngăn chặn có hiệu quả nhứt trước sự bành trướng của TC.

Sư kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất cần thiết trong lúc nầy vì chính đảng Cộng sản Việt Nam đã bất lực một khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong lúc họ có khả ngăn chặn từ lúc đầu.

Lịch sử Việt Nam sẽ không quên tội ác kể trên!

Mai Thanh Truyết
08/2009

Ghi chú: Tin giờ chót, Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, Ông Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi trường & Tài nguyên vừa công bố ngày 4 tháng 8 là Việt Nam quyết định thăm dò và khai thác quặng mỏ Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng 8.000 tấn quặng oxid uranium U3O8. Việc khai thác nầy chia làm hai đợt cho đến 2020.. Đối với một số địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm Đồng nhưng không nói cụ thể như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk Nông cũng không được nhắc tới. Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ vì còn nằm dưới chiêu bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC?

Và Ông cũng cho biết là đã ký Biên bàn ghi nhớ (Memorendum of Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên.

Mai Thanh Truyết

Một mẫu người trái sự thật, trái đạo lý - Chu Văn



Chu Văn


(Radio Veritas Asia 15/08/2009) - Kính thưa quí vị, các bạn thân mến. Cuốn phim tài liệu có tựa đề "Sự thật về Hồ Chí Minh" do "Phong trào Quốc Dân Ðòi Trả tên Sài Gòn" thực hiện, đã được rộng rãi giới thiệu với người Việt hải ngoại và nhanh chóng phổ biến "chui" tại Việt nam.

Tải xuống để phổ biến:
Với nhiều người Việt nam trong nước hiện nay, đặc biệt là giới trẻ, hình tượng "yêu nước, nhân bản và nhứt là đạo đức" của ông Hồ Chí Minh, được đảng cộng sản Việt nam nhào nặn, đã được phơi bày. Sự thật cho thấy đó chỉ là một hình tượng giả tạo. Ngày nay, nhiều chi tiết trong cuộc đời của ông Hồ Chí Minh đã được tiết lộ.

Theo tài liệu của Ðảng cộng sản Việt nam thì thân phụ ông Hồ chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc là một nhà ái quốc, đã từ quan vì chống triều đình. Thật ra, sử liệu cho thấy Ông Nguyễn Sinh Sắc không từ chức, mà bị cách chức vì say rượu đánh chết một nông dân tên là Tạ Ðức Quang. Lúc ấy ông mang tên là Nguyễn Sinh Huy, nhưng từ năm 1898 cải danh thành Nguyễn Sinh Sắc. Án mạng xảy ra vào tháng 5 năm 1909. Tuy, theo sự điều tra của Sở Mật Thám thì ông chỉ mang tội ngộ sát, vì say rượu, nhưng Hội đồng nhiếp chính ở Huế quyết định cách chức ông. Sau đó ông phải vào Lộc Ninh làm giám thị cho một đồn điền cao su để kiếm sống.

"Nguyễn Ái Quốc" cũng không phải là tên riêng của ông Hồ Chí Minh, mà là tên chung của một số nhà ái quốc ở Pháp lúc ấy. Trong số này có các ông Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh. Lúc ấy ông Hồ mới tới Pháp, lại còn trẻ chưa có thành tích gì khiến mật vụ Pháp chú ý theo dõi. Vì thế các bậc đàn anh thường để cho ông ta thay mặt, đứng tên trên các văn kiện hay bài báo do họ soạn thảo chung, hoặc riêng. Ngay chính ông Hồ trong tập hồi ký viết dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, nhan đề "Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" cũng xác nhận, nguyên văn trang 46 như sau:

"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo."

Nhưng điều cần đưa ra ánh sáng ở đây chính là tác giả của cuốn "những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch"

Năm 1997, tức cách nay hơn 11 năm, nhà văn Vũ Thư Hiên đã viết trong tác phẩm hồi ký "Ðêm giữa ban ngày" rằng:

"đến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn "Những Mẫu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch" là chính Hồ Chí Minh." Là bởi vì ngay năm 1976, nghĩa là chỉ một năm sau khi toàn thắng và chiếm được cả nước, những người cộng sản đã chủ quan cho rằng nay đã toàn thắng, chẳng còn gì phải sợ, phải giấu nữa, nên họ đã ngang nhiên xác nhận điều đó trong cuốn "Những Sự Kiện Lịch Sử Ðảng Cộng Sản".

Rồi 11 năm sau, tức năm 1987, một cán bộ Cộng sản là Hà Minh Ðức cũng viết hụych tọet ra rằng cuốn sách nói trên là tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh. Cuốn sách của Hà Minh Ðức còn được đề tựa bởi Nguyễn Khánh Toàn, là người đã từng sống và làm việc với ông Hồ ở Nga trong nhiều năm, biết rõ về ông Hồ.

Sở dĩ ông Hồ Chính Minh đã có thể trơ trẽn đến độ viết sách tự đề cao mình, tự xưng mình là "người khiêm tốn nhường ấy", tự gán cho mình tước hiệu "Cha Già Dân Tộc" một cách lố lăng như thế là vì nhu cầu cấp bách để tự cứu lấy sinh mạng chính trị của mình. Lúc cuốn sách xuất bản lần đầu tiên là vào mùa xuân năm 1948. Như vậy ông ta đã cưu mang và viết nó trong lúc chiến cuộc sôi động nhất giữa quân Pháp và Việt Minh. Quân của ông Hồ chịu những tổn thất kinh khủng. Ðã có lúc ông suýt bị bắt sống ở Việt Bắc. Ông ta thấy rõ nguyên do tại sao không chỉ có Thực Dân Pháp, mà cả các chính phủ Anh, Mỹ đều chống Việt Minh. Anh đã giúp Pháp trở lại Ðông Dương sau thế chiến II. Mỹ đã viện trợ dồi dào về tài chính cho Pháp tiếp tục chiến tranh chống Việt Minh. Chỉ vì họ biết ông là Công Sản. Mà theo ý họ, đã là cộng sản thì là tay sai Quốc Tế III, hay Quốc Tế Cộng Sản, tức Liên Xô.

Chính ông Hồ đã gián tiếp thú nhận điều đó khi viết trong cuốn sách mỏng nói trên rằng:

"Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Ðệ Tam Quốc Tế, của Liên Xô... Ðế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô. Vì vậy nhà cầm quyền Anh coi ông là kẻ thù số một và cố bắt ông cho bằng được."

Một trong những điều lố lăng nhứt của tác giả cuốn "Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" là tự tôn mình lên làm "Cha Già Dân Tộc". Thật vậy, ở cuối cuốn sách, tác giả viết:

"Nhân dân Việt Nam muôn người như một nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh với lòng dân Việt Nam kính mến, tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh.

"Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha Già Hồ Chí Minh."

"Nhân dân gọi Hồ Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam."

Thật ra ông Hồ Chí Minh có phải là "con người trung thành nhất của tổ quốc Việt nam", nghĩa là một con người thật sự yêu nước, thương nòi, có tinh thần dân tộc thật sự không, hay ông chỉ là một tín đồ của chủ nghĩa cộng sản?

Theo đúng thuyết Cộng Sản, của Mác cũng như của Lênin, thì người cộng sản tranh đấu đánh đổ các nước tư bản, đế quốc để lập nên một chế độ đại đồng trong đó không còn quốc gia nữa. Nhưng theo sách lược giai đoạn của Lênin, thì muốn đi tới mục tiêu cuối cùng đó, phải chia cuộc đấu tranh ra làm nhiều giai đoạn. Và trong một giai đoạn nào đó, Quốc Tế Cộng Sản cần phải lợi dụng lòng yêu nước của các dân tộc bị trị để đánh đế quốc, và tiêu diệt tư sản. Khi qua giai đoạn đó rồi, thì sẽ tiến lên giai đoạn hủy bỏ các quốc gia cùng với các giai cấp để chỉ còn lại giai cấp vô sản toàn thế giới mà thôi.

Như vậy, tóm lại những người cộng sản như ông Hồ nói là chiến đấu chống thực dân, đế quốc, không phải vì chủ nghĩa dân tộc, mà vì chủ nghĩa cộng sản, vì thế giới đại đồng hoang tưởng.

Những sự kiện lịch sử chứng minh điều đó. Nếu bảo ông Hồ và đảng cộng sản của ông chiến đấu vì dân vì nước, vì chủ nghĩa dân tộc, thì tại sao các ông lại giết vô số nhà ái quốc? Nếu bảo chiến đấu để đánh đuổi thực dân, giành độc lập, thì tại sao sau hiệp ước Élysée do Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ký với cựu hoàng Bảo Ðại ngày 08-03-1949 và được Quốc Hội Pháp phê chuẩn đầu năm 1950 trao trả độc lập cho Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, các ông vẫn tiếp tục chiến tranh, đẩy hàng trăm ngàn người vào chỗ chết? Như vậy là thương dân, vì dân ư? Ðộc lập đã có rồi cơ mà? Tại sao khi đã chiếm được nửa nước, với hiệp định Genève, năm 1954, các ông liền áp dụng đúng những chính sách của một nước Cộng Sản, như Trung Cộng, như Liên Xô và các nước Ðông Âu. Cũng hợp tác xã, cũng đánh tư sản, cũng cải cách ruộng đất. Chỉ nguyên cuộc cải cách ruộng đất này đã giết gần 200 ngàn người. Tài liệu lịch sử kinh tế của chính các ông đã xác nhận con số người bị giết là 172,008. Nhưng nhiều nguồn tin khác nói đến nửa triệu. Cải cách bằng bạo lực, khủng bố kinh khủng như vậy rõ ràng mang dấu ấn của chủ nghĩa cách mạng giai cấp bằng bạo lực của Mác, Lê, không thể nào bảo là cuộc cải cách vì dân tộc được.

Hơn nữa, bằng chứng rành rành cho thấy chính ông Hồ đã viết đơn xin Staline chỉ thị về việc tiến hành cuộc cải cách đẩm máu ấy.

Trong tập III của hồi ức của mình, chủ tịch Khrutshchev của Liên xô đã viết về Hồ Chí Minh như sau:

"Các bạn phải tôn kính người này (tức Hồ Chí Minh), hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản, đã dành cho nó tất cả sức lực và khả năng của mình."

Với những khổ đau triền miên mà dân tộc Việt nam đã gánh chịu
dưới ách cộng sản do Hồ Chí Minh áp đặt, người ta chỉ có thể
so sánh ông với hình tượng gian hùng của một Tào Tháo mà thôi.
Trong tập I, Khrutshchev viết: "giờ đây nhân dân Việt nam đang đổ máu và hiến sinh mạng vì phong trào cộng sản thế giới".

Như vậy, nếu nói ông Hồ có công thì phải nói ông ta có công với Quốc Tế Cộng Sản, chứ không có công mà chỉ có tội với nhân dân Việt Nam mà thôi.

Không độc ác như Staline, không khát máu như Mao Trạch Ðông, không tàn bạo như Polpot, không dã man như Hitler, nhưng chắc chắn với những khổ đau triền miên mà dân tộc Việt nam đã gánh chịu dưới ách cộng sản do Hồ Chí Minh áp đặt, người ta chỉ có thể so sánh ông với hình tượng gian hùng của một Tào Tháo mà thôi. Với những con người như thế thì mọi phương tiện đều tốt miễn là họ đạt được mục đích của mình. Ðưa những mẩu người như thế ra để tôn thờ, để học tập và noi theo thì không gì "trái sự thật, trái đạo lý" cho bằng. Muốn biết điều đó có trái với đạo lý hay không thì chỉ cần nhìn vào đám "quần chúng tự phát", phường "xã hội đen" sát cánh bên cạnh công an cảnh sát để hành hung dân lành trong vụ Tam Tòa vừa qua. Ðó là phó bản trung thành của một Hình Tượng Vô Ðạo được tôn thờ như một mẫu gương để học tập và noi theo.

Chu Văn, Radio Veritas

Thư Ngỏ của Đỗ Văn Phúc Về vụ kiện của bà Nancy Bùi (Triều Giang)

Đỗ Văn Phúc
Ngày 14 tháng 8 năm 2009

Kính gửi quý đồng hương, quý chiến hữu, quý bạn đồng tù, quý cơ quan truyền thông,

Kính thưa quý vị,

Sau khi nhóm bạn truyền thông ở Hoa Thịnh Đốn lập ra Quỹ Pháp Lý để yểm trợ trong vụ bà Nancy Bùi kiện tôi tại toà án Hạt Travis, Texas; đã có nhiều thân hữu gửi thư hay điện thoại thăm hỏi và lên tiếng ủng hộ. Đồng thời cũng có những vị do thiếu tin tức, nên đã phân vân, thắc mắc, nên tôi xin được trình bày như sau:

Trước hết, tôi xin tự giới thiệu sơ về bản thân:

Tôi là một quân nhân có gần 10 năm quân vụ, giải ngũ với cấp độ tàn phế 70%. Sau 1975, tôi đã trải qua 10 năm tù khổ sai ở các trại khắc nghiệt nhất.

Đến Hoa Kỳ năm 1990, tôi đã tham gia hoạt động cộng đồng. Được bầu làm Hội trưởng Hội Cựu Chiến Sĩ Austin từ 1992; là Ủy viên Thường Vụ Hội đồng Tư vấn Cộng Đồng Austin từ 2004. Tôi đã tham gia tích cực cùng các hội đoàn khác vào hầu hết các cuộc đấu tranh, các biến cố chính trị lớn tại thành phố, Tiểu bang, Liên Bang. Đã 3 lần đọc tham luận tại các Hội nghị Quốc tế về Việt Nam do Trường Đại Học Texas tổ chức hàng năm. Tôi đã hoạt động rất sát với thanh niên sinh viên trong tiểu bang Texas. Sáu lần được giới thiệu và phỏng vấn trên các đài truyền hình Mỹ Việt: Fox, PBS, News8Austin, ACTV, SBTN.

Trong hai mươi năm qua, tôi cộng tác với khoảng hơn 40 chục tờ báo và các diễn đàn online với các bài viết tham luận chính trị mà đối tượng chính là đảng Cộng Sản Việt Nam. Đôi lần có lên tiếng về những kẻ thời cơ, trở cờ khi họ có những hành vi cụ thể.

I. - Quan điểm của tôi:

1.
- Là một người tỵ nạn Cộng Sản, nếu không góp phần vào cuộc đấu tranh chung để giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam, thì không nên tiếp tay bằng cách này cách khác (chính trị, kinh tế, văn hoá …) cho chế độ CS. Đối với người bình thường, tôi tôn trọng quyền tự do của họ mà không hề lên tiếng đả kích việc du lịch và làm ăn ở Việt Nam. Tuy nhiên, đối với những vị đang giữ vai trò lãnh đạo, thì việc làm ăn đó là trái ngược với tư cách lãnh đạo cộng đồng tỵ nạn. Chế độ CS ở Việt Nam là chế độ độc tài, đầy nghi kỵ và thù hằn đối với những ai khác quan điểm với chúng. Vì thế, những người lãnh đạo trong cộng đồng tỵ nạn khó mà về Việt Nam một cách dễ dãi, an toàn; nói chi đến việc tổ chức làm ăn quy mô.

2. - Từ hàng chục năm nay, con em chúng ta tại Mỹ đã bị tiêm nhiễm bởi cách nhìn sai lệch về lịch sử Việt Nam do truyền thông khuynh tả của Mỹ và sách giáo khoa tại các trường Trung và Đại Học. Do đó, chúng ta phải tìm cách hướng dẫn con em chúng ta theo cách nhìn chính xác của chúng ta. Không thể để vai trò này lọt vào tay những kẻ có quan điểm đối nghịch và lập trường mù mờ.

II. - Sau đây là các sự kiện:

Dựa trên các tài liệu từ các trang web, tin từ đài phát thanh RFA, và thu âm lời bà Nancy Bùi trong phần phỏng vấn của một ký giả vào giữa năm 2008, thì:

1. - Bà Nancy Bùi, tức ký giả Triều Giang từng là Tổng thư ký của báo Ngày Nay (Houston), vượt biển đến Hoa Kỳ từ khoảng 1978. Bà đã về Việt Nam tìm cách đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau từ khi Hoa Kỳ chưa bỏ lệnh cấm vận. Theo một trang web của Trung Tâm Đầu Tư thành Hồ, bà là Giám đốc Công ty Khải Hoàn tại số 123, đường Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp, Sài Gòn. Bên gia đình vợ cũ của chồng hiện nay của bà có đồn điền cà phê ở Ban Mê Thuột. Vì thế bà đã nhập cảng cà phê qua Mỹ bán từ đầu thập niên này.

Năm 2003, bà Nancy đã liên lạc với công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn A&B của CSVN để đưa cà phê qua danh nghĩa của công ty Triumph của bà.

Năm 2004, bà tiếp tục chuyển hàng cho công ty Bamboo O, có trụ sở tại Sài Gòn.

2. - Khoảng đầu thập niên 2000, bà đại diện công ty Mỹ Pacifica Solutions để về Việt Nam tuyển mộ nhân viên, và có phát biểu tại một hội thảo tin học ở Sài Gòn (xem trang web Diễn Đàn Tin Học).

3. - Giữa năm 2007, Hội Bảo Tồn Văn Hoá và Lịch Sử Người Mỹ Gốc Việt mà bà Nancy là Hội trưởng đã tổ chức đêm dạ tiệc để vinh danh Trịnh Hội, người mà chỉ trong hai tháng trước đó đã bị Cộng đồng VN lên án vì cấu kết với văn công Việt Cộng.

4. - Sau đó, người Hội phó của bà là Luật sư Trần Mộng Vinh đã viết cho tôi lá thư ngày 27 tháng 2, 2008 nói rằng cán binh VC chiến đấu cho tổ quốc, trong khi Quân Lực VNCH thì được dạy để giết đồng bào vì không chịu đối thoại với họ. Đồng thời, trong một lá thư gửi ông Châu Kim Khánh, Trưởng ban Tổ chức Quốc Hận 30-04-2008, ông Vinh cũng yêu cầu không được đề cập đến chính trị trong buổi sinh hoạt; vì ông và Hội Bảo Tồn Văn Hoá sẽ không tham dự nếu có nói đến chính trị.

5. - Trong những năm vừa qua, bà Nancy đã đưa Hội Bảo Tồn vào hoạt động trong giới sinh viên. Họ đang có những chương trình hướng dẫn Văn Hoá và Lịch sử cho sinh viên Đại Học Texas ở Austin.

Từ những sự kiện nêu trên, tôi đã viết bài nêu lên những nghi vấn của tôi về các hành vi chính trị của bà Nancy và ông Trần Vinh đăng trên nhiều báo, diễn đàn và trong cuốn sách Nanh Hùm Nọc Rắn của tôi in đầu năm 2009. Chắc chắn là tôi không hề nói bà Nancy là Cộng Sản.

Tháng 5 vừa qua, bà Nancy đệ đơn kiện tôi tại toà Travis County tội vu khống bà Nancy là Cộng Sản. Toà đã không gửi giấy gọi cho tôi theo thể lệ hành chánh (bưu điện có bảo đảm, hay do Cảnh sát County chuyển), do đó, tôi không có mặt trong phiên toà và bị xử khiếm diện một cách thiếu công bằng. Hiện tôi đã thuê luật sư để theo đuổi vụ kiện.

Ngày 1 tháng 9 sắp tới, chúng tôi sẽ ra trước Toà trình bày lý do để xin toà xử lại vụ án. Chúng tôi chưa tiện nêu lên chi tiết vì sẽ có ảnh hưởng đến việc xét xử của Chánh Án.

Vì là một người lao động bình thường, tôi không đủ khả năng tài chánh đương đầu với một người rất giàu có; bạn hữu của tôi trong giới truyền thông phải lên tiếng kêu gọi sự hỗ trợ của đồng hương người Việt Quốc Gia tị nạn Cộng Sản.

Tôi xin cám ơn quý vị đã quan tâm và yểm trợ.

Quý vị muốn tham khảo tài liệu, xin mời vào trang web sau:
www.michaelpdo.com/Tailieu.htm

Trân trọng
Đỗ Văn Phúc

Việt Nam Dụ Vịt Kiều Nuôi Đảng - Phạm Trần


VIỆT NAM: DỤ VIỆT KIỀU NUÔI ĐẢNG


Phạm Trần

Hoa Thịnh Đốn: - Vào lúc niềm tin vào đảng của một số không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút nghiêm trọng nhất từ trước tới nay, Bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam tung ra kế họach tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) vào tháng 11/2009 tại Hà Nội để dụ Việt kiều tiêm thuốc hồi sinh nuôi đảng.

Nhà nước CSVN cho biết Hội nghị này dự trù quy tụ 1000 người kể cả 300 người trong nước và 650 đại biểu kiều bào, tất nhiên phải là thành phần có cảm tình hay ủng hộ đảng CSVN ở nước ngoài.

Theo chỉ thị từ Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao Hà Nội, các đối tượng sau đây sẽ được móc nối về nước tham dự Hội nghị:

- “Lãnh đạo và những người hoạt động trong các hội đoàn hướng về đất nước: hội người Việt Nam, hội doanh nghiệp, hữu nghị, câu lạc bộ, các tổ chức từ thiện, nhân đạo NGO (Non-Government Organizations, Phi Chính phủ), giới, ngành nghề.

- Trí thức, chuyên gia, doanh nhân kiều bào làm ăn thành đạt, Thanh niên, sinh viên, tài năng trẻ.

- Cá nhân tiêu biểu hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật, thể dục thể thao, xã hội, tôn giáo.

-Những nngười hoạt động trong lĩnh vực truyền thông.

Những nhân vật mới nổi hoạt động trong chính quyền địa phương; những nhân vật cao cấp trong chế độ cũ có tinh thần dân tộc, muốn tham gia Hội nghị trong tinh thần xây dựng và hòa hợp dân tộc.”

MỤC TIÊU HỘI NGHỊ

Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao - Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cho Báo chí trong nước biết: “ Hội nghị sẽ có những hội thảo chuyên đề về 4 lĩnh vực: Đại đoàn kết dân tộc, Phát triển và bảo tồn bản sắc văn hoá Việt Nam, Tri thức kiều bào với việc phát triển kinh tế Việt Nam và Doanh nhân kiều bào đối với sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.”

Chi tiết hơn, trong Thư gửi Ban Lãnh đạo Hội người Việt Nam tại Pháp, Tòa Đại sứ Hà Nội tại Paris đã không ngần ngại nói rõ kế hoạch khai thác tiềm năng và trí tuệ Việt kiều của Hội nghị này, đó là:

1. “Xây dựng Cộng đồng Người Việt Nam Ở Nước Ngòai (NVNONN) đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về quê hương, đất nước”, nội dung: Các chính sách, biện pháp hỗ trợ cộng đồng tăng cường đoàn kết và nâng cao vị trí trong xã hội sở tại. Xây dựng và phát triển các tổ chức hội đoàn tích cực trong cộng đồng NVNONNN, khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động từ thiện, nhân đạo hướng về quê hương, đất nước. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh với các hoạt động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng và đất nước. Công tác tuyên truyền, vận động thế hệ trẻ kiều bào hướng về quê hương, đất nước.

2. “Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồngg NVNONN”, nội dung: Chính sách và biện pháp giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong cộng đồng; đẩy mạnh công tác tiếng Việt trong cộng đồng NVNONN. Phát huy vai trò là cầu nối, quảng bá hình ảnh và văn hóa Việt Nam với thế giới. Chính sách và biện pháp tăng cường công tác thông tin đối với cộng đồng NVNONN.

3. “Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp chấn hưng đất nước”, nội dung: đánh giá tiềm năng, thế mạnh kinh tế của doanh nghiệp, doanh nhân kiều bào; phát huy vai trò cầu nối cho kinh tế trong nước với thế giới của doanh nghiệp, doanh nhân kiều bào; các chính sách thu hút đầu tư, tài chính, kiều hối, kinh doanh dịch vụ … Kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô; dự báo chiến lược; các biện pháp đồi phó với các tác động tiêu cực của khủng hỏang kinh tế thế giới đồi với kinh tế Việt Nam.”

Ngoài ra Nguyễn Thanh Sơn cũng không giấu diếm dự kiến thầm kín của đảng khi tuyên bố tại Hà Nội ngày 02/06/2009 rằng: “Đây không chỉ là diễn đàn cho kiều bào ta trên khắp thế giới được bày tỏ quan điểm với Lãnh đạo Đảng, Nhà nước mà còn để trao đổi với nhau về những tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của mình để có ý kiến đóng góp thiết thực nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao tiềm năng chất xám của kiều bào ở nước ngoài, hy vọng thông qua Hội nghị NVNONN toàn thế giới lần thứ nhất này, sẽ có những bài phát biểu, tham luận, những chuyển giao công nghệ quý báu từ trí thức kiều bào, các nhà khoa học người Việt ở các quốc gia tiên tiến trên toàn thế giới nhằm góp phần thực hiện thành công những chương trình phát triển kinh tế của đất nước.”

Vẫn theo Báo chí trong nước, Sơn còn cho biết: “ Các đại biểu kiều bào sẽ được Ban tổ chức đài thọ toàn bộ kinh phí ăn ở, đi lại trong thời gian tham dự Hội nghị. Đây là cố gắng rất lớn của Đảng và Chính phủ với mong muốn đưa tinh thần đại đoàn kết dân tộc đến với tất cả kiều bào và có những hội nghị thực sự biểu dương sức mạnh tri thức của NVNONN.”

Nhưng từ trước tới nay, người Việt ở nước ngoài đã có thái độ ra sao với đảng và nhà nước CSVN, Sơn khoe: “ Các chính sách đối với kiều bào như: Luật quốc tịch, Luật cư trú đi lại, chính sách nhà ở, đầu tư, Những quy định về chế độ hồi hương, thăm thân, những thuận lợi trong việc chuyển kiều hối về nước ... cũng đáp ứng được sự mong mỏi và đem lại niềm tin rất lớn cho bà con. Lượng kiều bào trở về quê hương ngày càng đông trong thời gian gần đây, cho thấy bà con ngày càng gắn bó với quê hương, mong muốn xây dựng một cộng đồng vững mạnh.”

Sơn còn nói thêm: “Sự đoàn kết nhất trí hướng về quê hương, đất nước và niềm tin tưởng ngày càng lớn hơn vào sự lãnh đạo, quan tâm của Đảng và nhà nước với kiều bào góp phần cô lập, đẩy lùi sự hung hãn của các thế lực thù địch ở bên ngoài cũng như trong cộng đồng NVNONN.”

TẠI SAO PHẢI TỔ CHỨC

Nếu đã thành công “vẻ vang” như thế thì cần gì phải bỏ tiền ra tổ chức Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài để mưu tìm sự ủng hộ tinh thần và vật chất của những người muốn làm ăn hay giúp đỡ đảng CSVN ?

Có mấy lý do để giải thích:

Thứ nhất, kể từ khi đảng CSVN tung ra Nghị quyết 36-NQ/TW: "Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", ngày 26 tháng 3 năm 2004, nhà nước Việt Nam tiếp tục thất bại ê chề trong công tác chủ động sinh họat của người Việt Nam ở nước ngoài (NVONN) , kể cả số công nhân lao động của Hà Nội tự ý ở lại nước ngoài sau khi Liên bang Sô Viết sụp đổ năm 1992, hay được gửi đi lao động ở nước ngòai sau năm 1975.

Thứ nhì, tuy số tiền của NVONN, đa số là người Việt tị nạn Cộng sản, gửi về giúp cho gia đình hàng năm từ 4 đến 6 tỷ Mỹ kim, nhưng số người Việt bỏ tiền ra đầu tư vào Việt Nam hay trở về Việt Nam sinh sống vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay, dù cho đảng CSVN đã thay đổi Luật Quốc tịch, chủ trương Miễn thị thực và giản dị hóa các thủ tục mua nhà, tậu đất đối với NVONN.

Theo một báo cáo trong nước cho đến nay, có khoảng 3.000 dự án của NVONN đầu tư về nước với tổng vốn gần 2 tỷ Mỹ kim nhưng phần đông vào các lĩnh vực dịch vụ như Du lịch, Nhà đất hay Cơ sở làm ăn nhỏ.

Thứ ba, con số Trí thức 300 ngàn người, phần lớn thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tỵ nạn mà đảng và nhà nước CSVN rất thèm muốn đã tiếp tục lạnh nhạt trước mánh khóe mồi chài muốn họ mang “chất xám” về giúp nước nên đảng CSVN, trong mấy năm gần đây đã bỏ tiền ra tổ chức vài Hội nghị, hay lập ra Câu Lạc Bộ Khoa học-Kỹ thuật Việt kiều (CLB KHKTVK) ở Sài Gòn tháng 12/2005 để câu khách mà vẫn bị bỏ rơi.

Lý do đơn gỉan vì đảng CSVN vẫn chỉ muốn rút ruột NVONN, trong khi giới Lãnh đạo vẫn chưa gột tẩy được mặc cảm thua kém, không chịu học hỏi và tiếp tục nghênh ngang, hống hách với chiếc “nón Cối đảng viên” để nghi kỵ người Việt ở nước ngòai trở về, dù có nhiều trí thức ở tuổi cuối đời muốn thật lòng cống hiến khả năng để nâng cao đời sống cho người dân trong nước.

Thứ tư, cho dù Nghị quyết 36 chủ trương “luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, hay như họ minh thị trong Điều I, Chương II của Nghị quyết 36 rằng: “Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai” , nhưng đảng CSVN đã chứng minh họ không bao giờ muốn “hòa giải” với người Việt bỏ nước ra đi sau biến cố 1975 mà chỉ muốn NVONN tự ý bồng bế nhau về đứng xếp hàng sau cán bộ để “hòa hợp” vào chế độ. Nói cách khác là phải chấp nhận quyền cai trị độc tài, độc tôn, phản dân chủ của một nhà nước tiếp tục bám lấy Chủ nghĩa lỗi thời Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.

Thứ năm, về công tác thông tin – tuyên truyền thì đảng CSVN đã hòan tòan bị các Cơ quan truyền thông của người Việt tị nạn chôn vùi không ngóc đầu lên nổi. Chủ trương đem sách, báo trong nước ra phổ biến ở nước ngoài không thành công; kế hoạch phủ sóng Truyền hình và Truyền thanh trong các Cộng đồng người Việt cũng thất bại.

Ngay cả chuyện đem lá cờ Đỏ Sao Vàng của đảng để cạnh tranh với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa ở nước ngoài cũng bị phủ nhận, hoặc có làm cũng chỉ lén lút nên nỗ lực phô trương thế lực của Ban Tuyên giáo đã hoàn toàn thất bại ở nước ngoài.

Ngoài ra cũng phải kể đến các Cuộc biểu tình của NVONN chống những cán bộ cầm đầu đảng và nhà nước đi ra nước ngoài ở khắp nơi, nhất là tại những quốc gia có đông người Việt tỵ nạn Cộng sản như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp, Úc, Tân Tây Lan v.v...

MỤC TIÊU CHÍNH TRỊ

Ngoài những lý do đã có chứng minh nêu trên, cũng cần nói đến lý do thầm kín của việc Tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) tháng 11/2009.

Trước tiên là sự ra đời tại Hà Nội ngày 10/08/2009 của Tổ chức gọi là “Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài” do Hà Nội thành lập.

Theo tin của Báo Điện tử đảng CSVN: “Đăng ký tham dự Đại hội có gần 300 doanh nhân, doanh nghiệp kiều bào đến từ gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ; hơn 40 đại biểu của các cơ quan trung ương và địa phương; gần 80 đại diện lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp trong nước.”

Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao nói rằng: “Việc thành lập Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài hôm nay là cột mốc đầu tiên rất quan trọng trên con đường xây dựng một mạng lưới đại đoàn kết, tập hợp doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới, hướng tới một cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài hùng mạnh, có vị thế xứng đáng, góp phần làm rạng danh dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế và đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.”

Theo báo của đảng thì “Hiệp hội là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân VNONN nhằm huy động năng lực của cá nhân và tập thể doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp, cộng đồng và của đất nước Việt Nam.”

Như vậy là rõ như ban ngày Tổ chức này sẽ được đảng và nhà nước CSVN sử dụng để giúp đảng tồn tại về mặt kinh tế.

Bằng chứng đã viết trong Điều lệ của Hội như sau:

Điều 2. Tôn chỉ, mục đích:

1. Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, nhằm huy động năng lực của cá nhân và tập thể doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp, cộng đồng và của đất nước Việt Nam.

2. Tạo môi trường để hợp tác và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, doanh nhân, các hiệp hội trong và ngoài nước nhờ đó thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3. Liên kết, phối hợp và hỗ trợ các hội viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi góp phần vào sự ổn định, phát triển và thành đạt của các hội viên trong các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ tại Việt Nam và ở nước ngoài.

Điều 3. Tư cách pháp nhân:

1. Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài (Hiệp hội) có tư cách pháp nhân, có con dấu, logô, tài sản và tài khoản riêng.

2. Hiệp hội đặt trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và có các chi hội, chi nhánh văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

Điều 4. Nguyên tắc và phạm vi hoạt động:

1. Hiệp hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ về tài chính, tuân thủ luật pháp Việt Nam.

2. Hiệp hội có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và tại các nước có người Việt Nam sinh sống và làm việc. Hoạt động của Hiệp hội chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành khác về lĩnh vực có liên quan.

3. Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài hội là thành viên tập thể của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Thứ hai là do nhu cầu khẩn trương của tình chính trị ở trong nước. Hội nghị NVNONN được tổ chức để thu hút sự chú ý của người Việt trong và ngoài nước vào lúc đảng CSVN chuẩn bị Đại hội đảng kỳ thứ XI, dự trù vào trung tuần tháng 1/2011, và đang phải đối phó với tình trạng suy thoái tư tưởng nghiêm trọng trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên.

Kề từ Hội nghị 9 của Ban Chấp hành Trung ương đảng X tổ chức đầu tháng 1/2009, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng và các cấp lãnh đạo đảng đã thay phiên nhau báo động về tình trạng “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” đang lan rộng trong nội bộ đảng.

Các lời báo động này đã để lộ ra một tình trạng chia rẽ, mất tin tưởng vào đường lối chính trị tiếp tục kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh của đảng.

Tình hình này xem ra đang ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của đảng trên nhiều lĩnh vực, nhưng quan trọng nhất là sự hoài nghi, mất tin tưởng của nhân dân và không ít đảng viên về thái độ khiếp nhược trước hành động bành trướng chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa trên đất liền và ở biển Đông và việc đảng CSVN nhượng quyền khai thác Bauxite cho Bắc Kinh tại Tây Nguyên.

Vi vậy, bất kỳ việc gì nhằm giảm đi áp lực nội bộ để lấy lại niềm tin trong nhân dân vào lúc này như việc tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài cũng có lợi cho đảng CSVN.

Vấn đề đặt ra là liệu dư âm của Hội nghị bù nhìn này sẽ tồn tại được bao lâu ?

Phạm Trần
(08/09)


Friday, August 14, 2009

Thông Cáo Báo Chí Quan Trọng Của Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria - Úc châu

Thông Cáo Báo Chí Quan Trọng
Của Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria
    V/v: Dân Biểu Nghị Viện Victoria Luke Donnellan Yêu Cầu Bộ Trưởng Ðặc Trách "người Tiêu Thụ Sự Vụ" Ðiều Tra Về Hai Buổi Văn Nghệ Gây Quỹ Tại Melbourne Vào 2 Ngày 28 Và 30 Tháng 8 Năm 2009
Luke Donnellan
State Member for Narre Warren North
Parliamentary Secretary to the Premier
Tại phiên họp của quốc hội tiểu bang Victoria ngày 12-08-2009 vừa qua, Dân biểu Luke Donnellan, đại diện cho đơn vị Narre Warren North đã báo cho Hạ Viện Quốc Hội Tiểu Bang Victoria biết rằng ông đã chính thức yêu cầu ông Bộ Trưởng đặc trách "Cơ quan Người Tiêu Thụ Sự Vụ Victoria" (Minister for Consumer Affairs) mở cuộc điều tra về tính cách hợp pháp của các buổi đại nhạc hội gây quỹ cho trẻ em nghèo tại VN do hai công ty Ausvina International Productions và MK Communications tổ chức tại Crown Casino Melbourne vào 2 ngày 28 và 30 tháng 8 năm 2009 tới đây.

Dân biểu Donnellan cho biết văn phòng ông đã điều tra sơ khởi để xem hai công ty này đã có giấy phép gây quỹ tại Victoria hay không?, và ai là chủ nhân của hai danh xưng này trên danh sách có đăng bộ với Bộ Tư Pháp tiểu bang NSW hoặc Victoria. Kết quả cho thấy, hai danh xưng của công ty này không có nằm trong danh sách đăng ký gây quỹ tại Victoria và tên hai công ty này cũng không có trong danh sách đăng bạ ABN của Úc Châu.

Ông cũng cho biết thêm rằng ông đã liên lạc với Cộng Ðồng Người Việt về chi tiết của hai công ty này, nhưng Cộng Ðồng VN cũng không biết gì về tính cách hợp pháp của các công ty này.

Dân biểu Luke Donnellan tuyên bố rằng ông rất quan ngại rằng những người mua vé đi xem văn nghệ tin tưởng rằng tiền họ bỏ ra là giúp cho các trẻ em nghèo sẽ không hề tới tay những trẻ em đó vì lý lịch và công ty những người tổ chức hai buổi văn nghệ này không rõ ràng, không đăng bộ minh bạch và đúng theo luật pháp đòi hỏi.

Ông kết luận rằng, chính ông đã chứng kiến Cộng Ðồng Người Việt tại Victoria đóng góp một cách độ lượng trên 200 ngàn đồng cho các nạn nhân của cuộc hoả hoạn vừa qua tại Victoria. Ông không muốn sự độ luợng của họ bị lợi dụng.

Nguyễn Thế Phong
Chủ tich Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria (Melbourne- Úc châu)
“Cộng Ðồng Người Việt Tự Do tại Victoria hoan nghênh và ủng hộ việc làm này của dân biểu Luke Donnellan tại Quốc Hôi Victoria. Chúng tôi hy vọng ông Bộ Trưởng Cơ quan Người Tiêu Thụ Sự Vụ Victoria sẽ khẩn cấp và tích cực điều tra về tư cách pháp nhân cũng như tính cách gây quỹ hợp pháp của 2 công ty này tại Victoria” Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch CÐNVTD-VIC tuyên bố.

Ông Chủ tịch CÐNVTD-VIC cũng nói thêm rằng nếu cuộc điều tra của Consumer Affairs Victoria cho thấy các công ty này đã không đăng bộ với chính phủ Victoria để gây quỹ hay với Sở Thuế Vụ Úc Châu để đóng thuế thì chính Bộ Di Trú Úc Châu cũng nên xét lại việc cấp visa cho các ca sĩ ngoại quốc sang Úc trình diễn với tư cách gây quỹ từ thiện. Ông Phong cho biết: “Chúng tôi thiết nghĩ trước khi cấp chiếu khán nhập cảnh cho các ca sĩ hay nghệ sĩ ngoại quốc vào Úc hát gây quỹ từ thiện, Bộ Di Trú Úc Châu nên yêu cầu người hay công ty tổ chức văn nghệ phải chứng minh:
    1. Tư cách pháp nhân (legally registered entity) của người hay công ty tổ chức.
    2. Người hay công ty tổ chức có đăng ký ABN và đóng thuế với Sở Thuế Vụ.
    3. Có chính thức đăng ký và có giấy phép gây quỹ từ thiện do chính quyền Tiểu Bang hay Lãnh Thổ cấp.
Trước khi cấp chiếu khán cho các nghệ sĩ này vào Úc hầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu thụ Úc Châu”.

Mọi chi tiết về thông báo này xin quý vị vui lòng liên lạc với ông Nguyễn Thế Phong điện thoại số: 0411 756 552.



Priest facing online sex grooming charge

By Andrew Drummond, AAP
August 14, 2009, 5:23 pm
Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/5813867/priest-facing-online-sex-grooming-charge/

Robert MacGregor Fuller
The Catholic Church has suspended a Sydney priest facing serious criminal charges of grooming a child for sex.

Robert MacGregor Fuller, 54, allegedly used a webcam to show himself masturbating during online chat sessions with a police officer who was posing as a 13-year-old girl.

A priest at All Saints church at Liverpool, in Sydney's southwest, for some six years, Fuller was arrested on Thursday afternoon in the car park of Parramatta pool where it is alleged he planned to meet the teenage girl for sex.

He was subsequently charged with grooming and procuring a child under the age of 16 and faced Parramatta Local Court on Friday.

"This is a clear abuse of a position of authority within the church, particularly as the defendant is in a position of having unvetted access to (children)," police prosecutor Sergeant Kai Peninkilampi told the court.

Police allege between July 21 and August 13 Fuller had 13 online chat sessions with an officer masquerading as a 13-year-old girl.

"During these communications, the accused masturbated on webcamera ... on other occasions he instructed and encouraged (the girl) to masturbate herself with her fingers. He also arranged meeting (the girl) for the purpose of engaging in sexually explicit acts," police facts before the court said.

Fuller's face was captured by webcam during five of the online conversations, police said.

In applying for bail, Fuller's solicitor Greg Walsh called evidence from another Sydney priest who has known the accused for several years.

Father Terry Bell, currently acting in the position of bishop for the Western Sydney diocese, said Fuller worked hard and had a "very good reputation in the community", adding he was "shocked" when he heard the allegations.

Fr Bell offered $25,000 of church money as bail and accommodation at a church-owned property at Terrigal in support of Fuller's bid to be released on bail.

Dressed in denim jeans and a zip-up tracksuit top, Fuller sat quietly in the dock of the court during the proceedings.

Mr Walsh said there was no suggestion in the facts that any child "before this alleged behaviour, has been put at risk or preyed upon by this man".

Labelling the charges as "serious", Magistrate Peter Miszalski granted Fuller bail, requiring that he report to police three times a week, surrender his passport, not use the internet, and not be in proximity to children or attend places such as schools, the movies and sports grounds.

The church was required to lodge $25,000 cash as part of the bail conditions.

By Andrew Drummond, AAP
August 14, 2009, 5:23 pm
Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/5813867/priest-facing-online-sex-grooming-charge/
Fuller is due to next appear in the same court on October 8.

The Archdiocese of Sydney on Friday said Fuller was "immediately stood down from his ministry" and would remain so pending the outcome of the court proceedings.

"This is appalling and distressing news," Sydney Archbishop Cardinal George Pell said in a statement.

"I share the concern and alarm of parishioners, and particularly of parents and the school community.

"I can assure them that the safety of children in our parishes and schools is paramount, and the Archdiocese will co-operate fully with the police in relation to this and any other investigation into abuse at anytime."

Thursday, August 13, 2009

Philippines phản đối hồ sơ của csVN


Philippines gửi đơn bác bỏ lên LHQ kiến nghị hồ sơ ghi tên ký chủ quyền thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia vào phút chót.

Nguồn tin báo chí Philippines cho hay các đơn kiến nghị về hồ sơ ghi tên riêng của Việt Nam và Palau, cùng kiến nghị về ghi tên chung của Việt Nam và Malaysia vừa được nộp hôm 04/08 thông qua cơ quan ngoại giao của Philippines tại New York.

Chỉ còn vài ngày nữa là hết thời hạn 90 ngày cho các nước đâm đơn kiện, tính từ hạn nộp hồ sơ ngày 13/05.

Trước đó truyền thông Việt Nam đã loan tin Philippines tuyên bố ủng hộ đơn của Việt Nam và Malaysia ngay sau khi hai nước này nộp báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa LHQ hôm 06/05.

Chưa rõ tại sao có sự thay đổi quan điểm này, nhưng một số bình luận viên cho rằng có thể̉ do áp lực của dư luận bên trong nước cũng như ảnh hưởng từ bên ngoài, như từ Trung Quốc.

Cần nhắc lại chi tiết, rằng chỉ 24 tiếng đồng hồ sau khi Malaysia và Việt Nam nộp đơn chung, Trung Quốc đã chính thức phản đối.

Đại diện Thường trực của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc gửi công hàm cho Tổng thư ký Ban Ki-moon, yêu cầu Ủy ban không xem xét hồ sơ của Việt Nam và Malaysia.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Triều Húc tuyên bố hồ sơ của Việt Nam là "xâm phạm trắng trợn chủ quyền Trung Quốc" và nói hồ sơ này "bất hợp pháp và không có giá trị".

Về phần mình, hôm 08/05 Việt Nam cũng gửi công hàm phản đối báo cáo của Trung Quốc và Malaysia có hành động tương tự hôm 20/05.

Công hàm do đại diện Việt Nam tại LHQ gửi cho Tổng thư ký Ban ki-moon viết Hoàng Sa và Trường Sa là "một phần lãnh thổ Việt Nam". Việt Nam cho rằng nội dung công hàm của phía Trung Quốc và bản đồ kèm theo công hàm đó đã "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông".

Theo nguyên tắc, các nước đều có thể nộp đơn đòi hỏi yêu sách của mình.

Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ (Commission on the Limits of the Continental Shelf - CLCS) sẽ xem xét các báo cáo và trong trường hợp có tranh chấp sẽ dựa trên công pháp quốc tế để ra ý kiến.

Được biết tại phiên họp của Liên Hiệp Quốc tại New York từ 10/08 đến 11/09, các hồ sơ của Malaysia và Việt Nam sẽ được mang ra xem xét.

Yêu sách của Philippines

Phản đối của Philippines đối với hồ sơ của Việt Nam chủ yếu liên quan tới phần biển chung quanh quần đảo Trường Sa (Philippines gọi là Kalayaan), và các đảo ở đây, tám trong số đó Philippines tuyên bố chủ quyền.

Đối với Malaysia, Philippines đang tranh giành Sabah, phía bắc đảo Borneo.

Manila chính thức coi Sabah thuộc lãnh thổ của mình từ năm 1962.

Tuy nhiên, kiến nghị của Philippines không đi vào chi tiết các tuyên bố chủ quyền mà chỉ nói nước này phản đối vì "hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia ... không chỉ chồng lấn khu vực với Philippines mà còn gây tranh cãi từ các tuyên bố chủ quyền trong khu vực bao gồm bắc Borneo".

Philippines yêu cầu LHQ "không cân nhắc hồ sơ chung của Malaysia và Việt Nam cho tới khi và chỉ chừng nào các bên liên quan thảo luận và giải quyết xong tranh chấp".

Lý do Manila phản đối báo cáo riêng về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam cũng là do khu vực Việt Nam tuyên bố chủ quyền chồng lấn với khu vực mà Philippines coi là của mình.

Hiện Việt Nam và Malaysia chưa có phản ứng gì về kiến nghị của Philippines.

Source: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/08/090812_philippines_vietmalay_claim.shtml


HƯỚNG TIẾN CHIẾN LƯỢC GIẢI PHÓNG CỦA GHCGVN - Hồng Lĩnh

Hồng Lĩnh

CSVN:Từ kẻ cướp võ trang tới du đãng kẻ cuớp võ trang

Chỉ trong vòng hai năm chưa hết chu kỳ. Thái Hà và Tam Tòa trở thành hai địa bàn của hai đột biến đánh thức toàn dân xứ Việt qua tiếng mời gọi trong đêm tối: «Đồng bào ơi! Hãy chỗi dậy mà đi» và tạo ra hai nặng lòng riêng mang cho GHCGVN cũng như khí thế mới cho cánh quân Người Việt Hải Ngoại hồ hỏi tiến lên.

Qua hai đột biến nhiệm mầu nầy, GHCGVN đã hiên ngang đứng dậy như một lực lượng có tổ chức công khai chống lại tàn dư quốc tế CS là bạo tàn CSVN để tạo hạnh phúc cũng như công lý cho toàn dân nước Việt.

Phong trào Quốc Tế CS là một tình cờ của lịch sử. Một tình cờ chẳng ai mong muốn và vỏn vẹn giống kiếp con ve sầu của hỏa ngục. Sau một chiều dài lịch sử 74 năm chuyên vào tàn phá và giết chóc, nay nó đã nằm tròn quay trong sọt rác tanh hôi của lịch sử. Nhưng sự tình cờ ấy đã gây ra không biết bao nhiêu tai họa với tội ác tày trời cho nhân loại và để lại cho Việt Nam một cái quái thai khủng khiếp mang nhãn hiệu màu máu CSVN.

Từ khi phong trào ấy sụp đổ tại cái nôi Liên Bang Xô Viết cho tới hôm nay, CSVN chỉ còn hiện diện như một tàn dư nấp bóng bọn Hán. Đối ngoại chúng là con dế và con dun cúi đầu quỳ lạy trước xâm lăng của Hán. Đối nội chúng hung hãn tập trung cố thủ và ăn cướp của toàn dân và các tôn giáo nói chung và GHCGVN nói riêng hầu tồn tại.

Sau các thí nghiệm chủ thuyết tàn bạo chỉ mang lại các thất bại trời giáng về chiến lược, nhất là chiến lược tiến nhanh và tiến mạnh lên XHCN, tàn dư CSVN bị cụt lối, nên phải vớt vát tung ra một số chiến thuật múa rối về kinh tế hầu thu hút hay chiến thuật «Quần Chúng Tự Phát» để gây tang thương cho hàng giáo phầm và Giáo dân.

Chúng lượm lại các rắn rít một thời của phong kiến cổ hủ và xem như là quốc sách để hù họa và cướp bóc ngưòi dân nói chung và GHCGVN nói riêng. Một chuyển mình tử kẻ cướp võ trang sang thế du đảng võ trang. Bước đầu thí nghiệm áp dụng quốc sách ấy chỉ gây ra xú uế tại Thái Hà và nay gây ra đổ máu cho các linh mục và Giáo dân vô tội tại Tam Tòa.

Thần Quyền đã gửi tín hiệu cho dân Việt ?

CSVN thật sự đã tuột dù chiến lược và nay phải lui về cái tận cùng chiến thuật khai thác thói đời của du đảng trần truồng. Nhưng thắng hay bại là do chiến lược và chiến lược của chúng đã tan tành như thế. Còn màn chiến thuật « Quần Chúng Tự Phát » phải tiêu vong vì tính chất điêu vong của nó. Theo nguyên tắc của Tôn Tử Tây phương Clausewitz, khi chiến lược bị khiếm khuyết, các ưu thế chiến thuật phải được dùng để bổ khuyết sự khiếm khuyềt của chiến lược. Nhưng chiến thuật « Quần Chúng Tự Phát » xem như là chiến thuật tối hậu qúa tồi tàn và vô vọng trước cả 500’ 000 Giáo dân địa phận Vinh nguyện cầu, để có thề đóng vai trò bổ túc ấy. Sự kiện nầy phải được xem như là một tín hiệu. Một tín hiệu do một Thần Quyền cao cả, giữa đêm tối của dân tộc và rũ rời của hầu như tất cả các tổ chức tại quốc nội ngoài tổ chức GHCGVN, gửi đi báo hiệu một bình mimh đang tiến lên cho giống việt và cho GHCGVN.

Nếu ai để ý quan sát với nhiều tưởng tượng, thời phải thấy ngay điềm báo nầy: Sau 300 năm được tôi luyện trong nước mắt và máu, tiếp theo một chiều dài lịch sử giữa gươm đao CSVN với tiếng hát nguyện cầu: «Mẹ ơi đoái thương đất nước Việt Nam. Trời u ám, cộng sản hung tàn ….», Có lẽ Mẹ Maria đã nghe tiếng đàn con kêu cứu và đang trên bước đầu đưa tay trực tiếp can thiệp giải phóng cho đất nuớc sùng kính Mẹ. Tuy tại Việt Nam Mẹ không gửi cho Việt Nam một thông điệp như đã gửi tại Fatima cho nhân loại (Bí mật Fatima, gửi vào trưa ngày 13/07/1917 truớc khi CS Nga chưa thành công 04/11/1917), báo tin: «Mẹ sẽ cứu nuớc Nga …» . Lời báo tin nhiệm mầu ấy đã thành sự thực và nay tại Nga, cái nôi của chủ thuyết CS đã nỗ tan tành và CS quốc tế cũng đã mất giống. Nếu không có bàn tay nhiệm mầu can thiệp. Thời không có thể có được như vậy vì không tốn một viên đạn. Khi CS Nga có đủ khả năng tiêu diệt trái đất.

Khác với Nga như đã kể tên, tại Việt Nam có lẽ Mẹ đang hành động và không báo tin trước giờ can thiệp của Mẹ. Nhưng sư kiện chọn Thái Hà làm thí điểm, gửi đám tiền quân Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, không thể được xem là một ngẫu nhiên như bao người đã ngỡ. Vì đây từ lâu đã có đền thờ của Mẹ và các mộn đệ của Thánh An Phong Xô. Một cộng đoàn có sứ mệnh nối kết Mẹ với đàn con. Và cũng tại nơi đây, bạo lực cũng như côn đồ của bạo lực đã phải lui quân với hai tên chỉ huy đùng đùng sát khí là Nguyễn Thế Thảo và Nguyễn Đức Nhanh.

Trong cuộc chiến đấu chống cộng sản vô thần, GHCG qua Giáo Hoàng Pie XI vào năm1937 đã ra thư luân lưu « Divini Redemptoris » minh bạch kết án ý thức hệ cộng sản. Trong thư luân lưu ấy Pie XI tuyên bố ngài là thủ lãnh của những người chống cộng. Ngài lập lại các kêt án chứa đựng trong hai thư luân lưu Quanta Cura (1864) và Quadragesimo Anno (1931). Vào năm 1949,tât cả những ai là cộng sản tự động bị vạ tuyêt thông do nghị định của tòa thánh. Nhưng mãi sau nầy Hội Đồng Âu-Châu, tập hợp của 47 quôc gia tại Âu-Châu, mới kết án cộng sản qua hai nghị quyết 1096 (1999) 1481(2006). Sự kiện nầy nói lên tính chất tiên phong của GHCG trong việc chống trả cộng sản.

Dựa theo các sự kiện vừa kể trên, trong những lúc ngặt nghèo hay vào giờ sinh tử, GHCGVN đi tiên phong đòi công lý và hạnh phúc cho toàn dân Việt thời không có gì là ngoại lệ.

Các điều động và chuẩn bị chiến lược của GHCGVN trong việc đối đầu với CSVN

Trên tuyến di chuyển phòng thủ cạn cùng, CSVN tập trung vào chiếm tư hữu hay sở hữu để chuyển sang tư hữu của đảng viên. Cùng lúc chúng cố đẩy tương lai của đất nuớc, tuổi trẽ ngày nay, vào giáo dục ngu dân và thụt lùi cũng như xa hoa trụy lạc hưởng thụ, để tạo cho Việt Nam mai sau một thế hệ mất hết niềm tin và không còn ý chí đối kháng và chỉ biêt đóng vai trò tôi mọi cũng như chịu khâm phục truớc cai trị của đảng CSVN.

Để đối đầu với CSVN trong ván bài ấy, GHCGVN chọn chiến lược di chuyển trên tuyến ngược chiều với tuyến di chuyển của CSVN. GHCGVN, qua hai biến cố Thái Hà và Tam Tòa, gửi thông cáo xác nhận sự tuyệt đối của quyền tư hữu nói chung và quyền sở hữu của GHCGVN trên các đất đai mà CSVN tuyên bố đã tuyên bố là thuộc sở hữu nhà nước, bình phong cho đàng viên đàng CSVN. Song song với các tuyên bố ấy và sát cánh với các đàn anh, tuổi trẻ CGVN, khác hẵn với bọn trẻ vô thần, tiến lên cầu nguyện hiệp thông vời hai vùng khổ hạnh: Thái Hà và Tam Tòa.

Nếu tương lai của đất nước và của GHCGVN nằm trong tay giới trẻ, thời những khuôn mặt non trẻ nầy đang lên đường với niềm tin và ý chí mạnh dạn nói lên khát vọng công lý cho quê hương. Sự điều động nầy đã được GHCGVN chuẩn bị trong trong thầm lặng của bao năm tháng vừa qua để có kết qủa ngày hôm nay. Một chuẩn bị hành lý tin thần mà GHCGVN đặt làm trọng tâm. Một ván bài chiến lược quan trọng sẽ góp phần chiến thắng của công lý và hòa bình cho dân Việt.

Trong lúc GHCGVN đang bị CSVN chận tại phạm trù phát triển qua sự cấm đoán một nền giáo giục tư thục do Giáo Hội đàm nhiệm. GHCGVN phải xoay xở quay sang mở các khóa huấn luyện huynh trưởng cho phong trào thanh thiếu nhi của GH.

Các Đức cha ước mong rằng: trong vòng 5 năm các giáo phận sẽ có những đội ngũ huynh trưởng vững mạnh để có thể truyền đạt những kỹ năng và kiến thức căn bản về đời sống đức tin cho các em thiếu nhi, và rồi các em có thể hăng hái kể chuyện vanh vách về Chúa Giêsu cho bạn bè.

Trong khóa huấn luyện, quý cha, quý sơ và ban huấn luyện không chỉ trao cho đoàn sinh các kiến thức về nhân bản, giáo lý, Kinh Thánh và các kỹ năng sinh hoạt, tổ chức mà còn đem lại niềm vui và sự sống của Chúa cho họ qua những những giờ lên lớp, sinh hoạt vui chơi, đêm lửa thiêng, Chầu Thánh Thể và Thánh lễ. Thời gian khóa huấn luyện đã trở thành thời gian các học viên có được những kỷ niệm đẹp đẽ và những cảm nghiệm đức tin sâu xa.

Mong sao các huynh trưởng trở nên những chiến sĩ đức tin, hăng hái tập cho các em thiếu nhi mến Chúa tha thiết qua các việc cầu nguyện, hi sinh, vâng lời, học hỏi lời Chúa, làm việc tông đồ và kết hợp với Chúa nhờ rước lễ hằng ngày. Hi vọng rằng: nhờ ơn Chúa và nỗ lực của mọi người, GHCGVN sẽ gặt hái đuợc nhiều hoa trái tốt.

Những trái tốt nầy là một trong các chuẩn bị chiến lược mà GHCGVN phải hoàn thành, trong vai trò của cánh tiền quân Mẹ dùng để can thiệp cứu dân Việt Nam cũng như GHCGVN. Nhưng chiến dịch hãy còn dài. Đường đi sẽ còn lắm nhiều lệ úa và niềm đau. Nhưng GHCGVN sẽ chu toàn sứ mệnh, để đàn em bé đuợc vui cười tung tăng cạnh các Thánh đường, trong tiếng chiều buông, nhạc về thanh bình cầu Chúa ban ơn lành. Những đau khổ dành cho dân Việt trong qúa khứ có mục đích giao cho xứ sờ nầy một sứ mệnh huy hoàng tại Á Đông.

Hồng Lĩnh


THÓI HÁO DANH VÀ VĨ CUỒNG CỦA TRÍ THỨC - Vương Trí Nhàn

Vương Trí Nhàn

Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Bài viết Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị gợi tôi nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.

Nhìn người bằng ... chức danh

Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương ... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì” .(1)

Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thủy tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng

Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.

Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng ( me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới, ví dụ một người đề nghị ta cần mượn của Liên Xô (hồi đó còn Liên xô ) tên lửa vượt đại châu để bắn vào bắc cực khiến trục trái đất lệch thêm mười độ sao cho VN thay đổi vĩ độ và trở thành một nước ôn đới (vì tác giả “đề án” này tin rằng chỉ có khí hậu ôn đới mới thích hợp với một tốc độ vũ bão, giúp nước ta đuổi kịp và vượt xa các nước tiên tiến trên thế giới).

Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.
Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố đế, trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

*****
Ghi chú:

(1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11
(2) Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố SG, 2000, tr.82-87
Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ... trong giới trí thức vừa được Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn. Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cái căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y“ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.


MỘT CÁI NHÌN KHÁCH QUAN VỀ DVD ‘SỰ THẬTVỀ HỒ CHÍ MINH’ - Sơn Tùng



Sơn Tùng

Trước khi được xem “Sự Thật Về Hồ Chí Minh”, tôi đã đọc nhiều bài phê bình và chỉ trích, nghe nhiều tiếng khen và lời chê về DVD này.

Tôi đã phải xem lại lần thứ hai để được nhìn tường tận hơn, được nghe chính xác hơn trước khi có vài ý kiến.

Trước hết phải khen về phần kỹ thuật. Hình ảnh trong sáng, âm thanh nghe rõ, trừ vài khuyết điểm về ráp nối. DVD dài gần 2 giờ (1 giờ 50 phút) nhưng xem không thấy dài.

Về nội dung cũng có nhiều điều đáng khen. Nhóm thực hiện đã mất nhiều công sưu tầm những hình ảnh, phim, tài liệu liên quan đến Hồ Chí Minh - từ ngày bỏ nước ra đi “tìm kế sinh nhai” (1911) cho đến lúc chết (1969) và những tài liệu khác về tội ác của cộng sản. Có những hình ảnh, tài liệu đã được nhiều người biết, có những cái ít người biết hay chưa được thấy bao giờ. Ngoài ra còn có cả hình ảnh, tài liệu về người cha của Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Sắc, hay Huy). Nói chung, hình ảnh rất phong phú.

Những người được mời đóng góp ý kiến về Hồ Chí Minh và cộng sản cũng khá nhiều, cả người Việt và không phải người Việt, người phía “bên này” cũng như người phía “bên kia”: sử gia, học giả, ký giả, nhà văn, nhà tu, cựu đảng viên cộng sản, sinh viên ... Họ đã nói về mọi điều liên quan đến Hồ Chí Minh, từ chuyện gian dối về ngày sinh, ngày chết, đến chuyện có nhiều vợ và giết vợ, chuyện viết sách tự tâng bốc mình, chuyện ám hại những ngưBi quốc gia, vân vân.

Đây là một DVD tài liệu nhằm mục đích tuyên truyền đấu tranh nên phần diễn giải, hay thuyết giảng, rất quan trọng. Cùng một hình ảnh, một khúc phim, người ta có thể diễn giải khác nhau, tùy trình độ, tùy tài năng, tùy mục đích. Dân gian có câu “không sợ chiêm bao mà sợ thầy bàn” là vậy.

Mục đích của DVD này, như đã được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, người chủ trương thực hiện, nói rõ là để “đánh đổ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh”. Vậy thì để đạt được mục tiêu này, “thầy bàn” phải là người có trình độ cao, có biệt tài về văn chương và sắc bén trong lãnh vực tuyên truyền. Nhưng đây lại là phần bị nhiều chỉ trích nhất. Trong số ấy, xin đan cử một vài ý kiến.

Sau khi trích dẫn lời diễn giải tiếp theo đoạn phim về chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” do HCM cho phát động tại miền Bắc từ 1953 đến 1956 (nói rằng “Cuộc cách mạng được gọi là long trời lở đất được chấm dứt vào mùa thu năm 1956, với 170 ngàn người bị đấu tố đến chết, đảng Cộng sản đã chịu nhận sai lầm và tiến hành sai”), Bà Nguyễn Thị Bé Bảy đã dựa vào cuốn biên khảo “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” của Học giả Hoàng Văn Chí để cho rằng số người chết trong cuộc “Cải cách ruộng đất” lớn hơn nhiều so với con số 170 ngàn do cộng sản đưa ra, và “sửa sai không có nghĩa là Cộng sản Việt Nam chịu nhận sai lầm của họ trong Cải Cách Ruộng Đất”.

Nhận xét của Bà Nguyễn Thị Bé Bảy là xác đáng. Theo nhiều người am hiểu về phong trào “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc thì con số 172 ngàn người chết do CSVN nhìn nhận thấp hơn nhiều so với số nạn nhân thực sự. Mặt khác, Cộng sản Hà Nội “sửa sai” chỉ là một trò bịp sau khi đã tiêu diệt hết “đối tượng”, những “kẻ thù giai cấp”. Với mục đích xóa tội và để xoa dịu sự căm phẫn trong dân chúng, họ đưa ra vài con dê tế thần để chịu trách nhiệm và chỉ bị “đánh khẽ lên mu bàn tay” về tội ác tày trời giết chết mấy trăm ngàn người dân lành!

Lời diễn giải trong DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” đã giúp CSVN xác nhận con số nạn nhân của tội ác Cải Cách Ruộng Đất “chỉ có 170 ngàn” (con số CSVN đưa ra là 172,008), và cũng biện hộ giùm cho CSVN rằng chiến dịch “đấu tố” man rợ là một sai lB Am của vài người trong giới lãnh đạo đảng. Và, Hồ Chí Minh vô tội!

“Thầy bàn”, thay vì buộc tội chính phạm Hồ Chí Minh, đã đánh tháo cho ông ta.

Về vụ thảm sát hơn ba ngàn người tại Huế trong cuộc “tổng công kích” Tết Mậu Thân, Bà Nguyễn Thị Bé Bảy cũng dẫn chứng lời diễn giải trong DVD (hỏi rằng “Ai? Bằng cách nào và tại sao đã giết mấy ngàn người ở Huế?), và bà nói rằng ngày nay mọi người đều biết CSVN là chính phạm trong tội ác kinh tởm này và tòng phạm là những kẻ tay sai nằm vùng tại Huế. Tại sao không chỉ đích danh bọn chúng mà lại còn đặt câu hỏi?

Bà Nguyễn Thị Bé Bảy cũng có lý trong nhận xét này. Vụ thảm sát tại Huế đã xảy ra trong lúc cộng sản tạm chiếm giữ thành phố này, và xảy ra trước mắt nhiều nhân chứng, kể cả Linh mục Phan Văn Lợi, người đã kể lại vụ thảm sát trong chính DVD, dù Cha đang còn ở tại Việt Nam. Vậy mà còn hỏi “ai” là thủ phạm thì thật là điều khó hiểu. Thật ra, đây là câu hỏi được nêu lên để sau đó các nhân chứng và các học giả trả lời. Nhưng, chính là vai trò của người viết lời diễn giải lên tiếng sau cùng để buộc tội đích danh HCM.

Theo định nghĩa của Tòa án Hình sự Quốc tế về tội ác chống nhân loại và tội diệt chủng thì chính phạm là kẻ nắm quyền lãnh đạo và kẻ đã ra lệnh để thi hành tội ác. Vụ “tổng công kích” Tết Mậu Thân đã xảy ra lúc Hồ Chí Minh còn tại quyền và do chính ông ta ra lệnh. Do đó ông ta là chính phạm. Người viết lời diễn giải đã bỏ lỡ cơ hội để vạch tội Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, có nhiều người cho rằng DVD thiếu những lời diễn giải sắc bén để làm nổi bật HCM không phải là một nhà ái quốc như đã được CSVN tô vẽ. Với rất nhiều tài liệu chứng minh, đây là điều quan trọng nhất để “đánh đổ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh”.

Vẫn biết trong một phim tài liệu, nên tránh sự phóng đại cũng như những lời lẽ tuyên truyền thấp kém, nhưng những lời bình luận sắc bén, kết tội đanh thép là vũ khí hữu hiệu để đánh gục kẻ thù, là sức mạnh ngôn từ để thuyết phục quần chúng.

Một thiếu sót lớn khiến nhiều người ngạc nhiên là không thấy nói đến những trại tù “cải tạo” dã man ở miền Bắc (như Lý Bá Sơ) và những trại “học tập cải tạo” trên khắp nước sau khi CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, xua quân đánh chiếm miền Nam năm 1975. Những trại tù khổ sai tàn bạo này là rập khuôn của “gulag” tại Liên Sô, và là một tội ác lớn của CSVN, một chi nhánh của cộng sản quốc tế. Cũng không thấy phỏng vấn một nhân chứng nào nhân danh cựu tù nhân chính trị trong khi có những người được nói nhiều lần về nhiều vấn đề khác nhau, và có vài người mà sự xuất hiện trong DVD chỉ gây phản tác dụng.

Tuy nhiên, ngoài những khuyết điểm như trên, DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” là một thành tựu đáng khen, mà nếu được sửa chữa và phổ biến rộng rãi ở Việt Nam sẽ là một đòn nặng đánh vào việc thần thánh hóa và thờ cúng HCM mà CSVN đã và đang ra sức thi hành. Mặt khác, khi nói đến DVD này thì không thể không nói đến “Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn” do Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phát động ở hải ngoại từ vài năm nay vì DVD này được cho biết là một dự án của “Phong trào” và sẽ được dùng để vận động dân chúng trong nước tham gia.

Ngay từ lúc “Phong trào” này được ra mắt ở hải ngoại, một số người đã nói rằng việc làm này của Cha Lễ sẽ “không đi đến đâu” vì đã phạm những sai lầm quan trọng. Trước hết là không thể gây nên một “phong trào quốc dân” ở trong nước từ hải ngoại. Thứ hai, việc “đòi trả tên Sài Gòn” là một sai lầm về chiến lược. Trong lúc mục đích của cuộc đấu tranh ở trong và ngoài nước hiện nay là loại bỏ chế độ cộng sản độc tài, kêu gọi đòi trả tên Sài Gòn chẳng khác nào công nhận chế độ ấy với tất cả quyền lực và sự “chính thống” của nó, làm cho lạc hướng công cuộc đấu tranh. Thứ ba, đòi trả tên Sài Gòn từ hải ngoại là một sai lầm về luật pháp quốc tế. Việc đặt tên một thành phố là quyền hành chánh của chính quyền một nước. Những người Việt ở hải ngoại, tuy mang máu huyết Việt Nam, nhưng đang là công dân một nước khác (Mỹ, Canada, Pháp, Úc, vân vân). Họ không có tư cách gì để đòi đổi tên một thành phố tại Việt Nam. Cũng giống như trước đây, người Nga lưu vong không thể đòi trả tên Petersburg tại Liên Sô. Sau khi chế độ cộng sản tại Nga sụp đổ, những Leningrad, Stalingrad ... cũng tự nhiên biến mất theo, không cần ai đòi trả tên.

Tôi không tin rằng Lm Nguyễn Hữu Lễ không biết điều ấy. Nhưng, tại sao Cha vẫn làm? Cha Lễ có thể trả lời. Trên thực tế, có một số người ủng hộ việc làm của Cha Lễ, và cũng có một số người chống đối ông, giống như những việc ông đã làm từ ngày ra hải ngoại. Từ vụ Bùi Đình Thi đến vụ “Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo” và “Ủy Ban Quốc Tế Tự Do Tôn giáo”, kể cả khi Cha ấn hành cuốn hồi ký “Tôi Phải Sống”.

Và nay, người ta cũng đang tranh cãi về DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh”. Nhiều người khen, nhưng cũng có lắm kẻ chê, thậm chí chỉ trích gay gắt và đặt câu hỏi về mục đích của nó. Thật ra, điều ấy không lạ với những ai từng dấn thân là m một điều gì đó vì lý tưởng, vì công ích, hay vì cộng đồng. Những phê bình, chỉ trích có khi xây dựng, có khi vì ác ý hay chỉ nhằm mục đích phá hoại. Những tranh cãi chung quanh DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” cũng đã vượt ra ngoài phạm vi xây dựng. Có những bài phê bình đã biến thành lăng mạ cá nhân. Ngược lại, cũng có những ủng hộ đã trở thành phỉ báng.

Trong khi chúng ta đối xử lịch sự, có văn hóa với kẻ thù tại sao không thể đối xử lịch sự, có văn hóa với những người không đồng quan điểm với mình?

Trước khi kết thúc bài này, tôi muốn nói lên chút cảm nghĩ riêng khi xem DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh”. Ngay phần mở đầu, tôi đã ngạc nhiên và cảm động khi thấy hình ảnh chính mình đang cầm chiếc xẻng cùng vài yếu nhân Hoa Kỳ và quốc tế vỡ những miếng đất đầu tiên để xây dựng Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản tại Thủ đô Washington, cùng với bức tranh của Kiến trúc sư Bùi Dương Liêm được dùng trong buổi gây quỹ đầu tiên năm 2003. Tôi hãnh diện biết bao khi thấy việc làm của chúng tôi đã “đi vào lịch sử”. Niềm hãnh diện không phải cho cá nhân mình mà cho nhóm thân hữu trong Ủy Ban Yểm Trợ đã gắn bó với nhau suốt 5 năm, và hãnh diện cho cả cBng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đã đóng góp vào việc xây dựng tượng đài này. Việc làm âm thầm ấy nay đã trở thành lịch sử với lễ khánh thành trọng thể và những lời phát biểu của Tổng Thống George W. Bush, hùng hồn nói lên tội ác của cộng sản đối với nhân loại và vinh danh hơn 100 triện nạn nhân của tội ác ấy, trong đó có khoảng một triệu người Việt Nam.

Tôi chỉ hơi tiếc DVD không có khúc phim Đêm Nguyện Cầu tại tượng đài trong ngày khánh thành với giọng trầm hùng của Nhà báo Đào Trường Phúc đọc bản cáo trạng buộc tội Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoạn phim ấy sẽ gây ấn tượng mạnh cho người xem và góp phần vào mục đích “đánh đổ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh”.

Đang viết bài này, tôi được đọc bài “Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý”, phản ứng đầu tiên từ Hà-nội về DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh”, trên báo điện tử của Trung ương Đảng CSVN, với câu mở đầu như sau:

“Bộ phim được tung ra vào đúng dịp cuộc vận động ‘Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’ đang được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đồng bào trong nước vC3 nước ngoài đồng thời cũng là dịp toàn Đảng, toàn dân ta đang kỷ niệm 40 năm thực hiện bản di chúc lịch sử của Người. Mục đích của những người làm phim đã rõ ràng, đó là thông qua việc xuyên tạc, bôi nhọ Hồ Chí Minh, họ hy vọng có thể làm suy yếu, đi đến làm sụp đổ Đảng Cộng Sản Việt Nam, thay đổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.”

Tiếp theo chỉ là những luận điệu xưa cũ rỗng tuếch vừa bịp bợm vừa đe dọa đã được dùng từ những ngày còn ở hang Pác Bó, chứng tỏ Đảng Cộng Sản VN đã không thay đổi gì cả sau hA 1n nửa thế kỷ gây tội ác, dù mồm nói “đổi mới”. CSVN vẫn tin rằng sẽ ngồi trên đầu trên cổ dân tộc VN muôn năm nhờ dựa trên lừa dối và đàn áp. Đó là một bạo quyền phản dân, hại nước.

Vậy thì, thay vì đòi trả tên Sài-gòn, một việc sẽ “không đi đến đâu” nếu Đảng CSVN vẫn còn thống trị, hãy cùng nhau góp sức đập tan cái hang ổ lừa dối và bạo lực. Cái tên Sài Gòn chỉ là một âm thanh nghe êm đềm trong tâm tưởng một số người và không ai biết chắc nguồn gốc từ đâu, nhưng nguồn gốc của những thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam thì mọi=2 0người đều biết: Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Sinh Coong, tức Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc và hàng chục cái tên giả khác.

Đập tan huyền thoại giả trá về HCM thì đồng ý, nhưng gắn việc ấy vào chuyện đòi trả tên Sài Gòn thì nên xét lại.

Sơn Tùng
(Tháng 8, 2009)

HÃY CHỜ XEM NHỮNG AI TRONG DANH SÁCH 650 NGƯỜI ! - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Cộng sản Việt Nam sẽ tổ chức đại hội ‘hòa giải hòa hợp’ núp dưới tên ‘Hội nghị người Việt ở nước ngoài’ từ 19 đến ngày 24 tháng 11 năm 2009 tại Hà Nội, quy tụ 1000 người gồm 350 là thành phần đảng viên cán bộ nhà nước tại nội địa và 650 người từ nước ngoài về tham dự. Con số 650 người nước ngoài chia ra như sau: 200 (Mỹ Châu), 300 (Âu và Phi Châu) và 150 (Á và Úc Châu). Riêng tại Pháp con số được xác định rõ ràng là 60 người ! (*). Thành phần nhân sự của các cơ quan ngoại giao, tình báo cộng sản ở ngoại quốc về dự đại hội trong dịp nầy có thể lên quá hàng trăm, như vậy số người Việt hải ngoại còn lại có thể tính trên dưới 500 người. Chúng ta bàn đến chuyện của trên dưới 500 người nầy.

Đây là một đại hội công khai do chính đảng cộng sản mời từng cá nhân một. Như vậy cơ hội nầy, thành phần nằm vùng, cò mồi đón gió, hoà giải hòa hợp và những tay phản bội cộng đồng bấy lâu ẩn mặt trong bóng tối nay sẽ bị xuất đầu lộ diện để về Việt Nam tham dự theo lệnh của chủ. Một khi đảng cộng sản đưa ra con số 650 người nước ngoài về tham dự tức là những người nầy đã được bộ chính trị trung ương chọn lựa dựa theo tiêu chuẩn chính trị, lòng trung thành và khả năng hoạt động, và dĩ nhiên, đã có những trao đổi thuận thảo trước với nhau khi lên danh sách chính thức (mặc dù trong văn bản gởi Ban Lãnh Đạo Hội Người Việt tại Pháp, tòa đại sứ Việt cộng Paris kêu gọi giới thiệu, đề cử). Vậy những kẻ có tên trong danh sách không thể bảo rằng bất ngờ hoặc do tài năng, đức độ cũng như tinh thần yêu nước để được Hà Nội ghé mắt đến, mà họ chỉ là những kẻ ‘ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản’, phá hoại cộng đồng. Qua đại hội, phần tử nầy bắt buộc phải xuất đầu lộ diện theo kế hoạch của đảng cộng sản Việt Nam. Trong số 650 (đúng ra thì trên dưới 500) người cũng có mặt một vài nhân vật được mời thuộc hàng nhân viên cao cấp của chính quyền VNCH cũng như QLVNCH trước kia, nay đã mất gốc, lão hóa, đói rách, đang cần tiền và chút danh hão thì đành phải chạy theo kẻ thù !

Một điều thật hy hữu bất ngờ đối với người Viết hải ngoại, bỗng nhiên vì một cái bánh vẽ của Hà Nội, 650 người chạy theo kẻ thù cộng sản sẽ phải lộ diện. Nhớ đó người Việt Tỵ Nạn cộng sản, người Việt Tự Do nhờ đại hội nầy mới nhận ra được ai là kẻ đã phản bội cộng đồng, ai là kẻ nối giào cho giặc. Rồi đây, chỉ còn hơn hai tháng nữa, những ông chủ tịch cộng đồng, chủ tịch đảng, chủ tịch đoàn thể, giám đốc truyền thông báo chí, giám đốc ngân hàng, thương mãi, tiệm chạp phô…sẽ khăn gói lên đường về Hà Nội để ‘nhất trí’ thì làn ranh quốc cộng ở nước ngoài nhờ đó sẽ được rõ ràng minh bạch ; ai là người hiên ngang đứng dưới cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đò, ai là kẻ bấy lâu nay chui rúc trong bóng tối, đội quan thây cộng sản lên đầu để phá hoại cộng đồng.

Qua văn thư post kèm theo ở dưới bài viết, chúng ta thử tìm hiểu mục đích của cộng sản Việt Nam khi chuẩn bị tổ chức rình rang ‘Hội nghị người Việt ở nước ngoài’ tại Hà Nội trong thàng 11 nầy:

Đối với quốc tế: Đây là một dịp chứng tỏ cho thế giới hình thức mở cửa của chế độ, một ‘Hội Nghị Diên Hồng’ thứ hai trong lịch sử để thu góp ý kiến của người Việt trên khắp năm châu nhằm xây dựng một xã hội chủ nghĩa càng ngày càng tốt đẹp do dảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đối với Mỹ: Ngầm báo cho Mỹ biết rằng, cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Mỹ đã phục tùng Hà Nội, đại diện của 200 đảng phái đoàn thể có mặt trên Mỹ và Canada là một bằng chứng hùng hồn rằng, các cộng đồng Việt Nam tại Mỹ Châu đã chấp nhận hòa giải hòa hợp với cộng sản và nay công khai ra mặt về nguồn ngồi chung với đảng để thảo luận hầu tìm một tương lai chính trị cho đất nước.

Đối với Tàu cộng: Chứng tỏ một thành công rất lớn của nô bộc Việt Nam khi chúng thu tóm được thành phần ngoan cố chống đối mẫu quốc (Tàu cộng) ở nước ngoài. Đây xem như quà biếu quan thầy Tàu cộng để xác nhận tinh thần gắn bó như ‘môi với răng’ giữa hai nước, đồng thời để chứng tỏ khả năng của đảng cộng sản Việt Nam thật xứng đáng để đuợc phép giữ nguyên ngai vàng một tỉnh nhỏ khi đất nước Việt Nam trở thành vùng đất của Trung quốc vĩ đại !!!

Đối với quốc nội: Chứng tỏ cho giới trẻ, các tôn giáo, các phong trào tranh đấu trong nước biết rằng, 650 đại diện đảng phái, các cộng đồng, các tổ chức đoàn thể trên thế giới (gồm 94 nước, theo tuyên truyền của cộng sản) đã về hội họp và nhất trí hợp tác với nhà nước thì giới trẻ, các tín hữu, các lãnh đạo tôn giáo không còn lý do gì hô hào sinh viên, tín hữu, Phật tử xuống đường biểu tình chống đối nhà nước nữa !

Đối với tập thể người Việt hải ngoại: Chúng cười vào lỗ mũi người Việt hải ngoại rằng bấy lâu nay những người chống cộng đã ôm ấp, nâng niu, nuôi dưỡng kẻ thù trong tay áo mà không hay hoặc ra mặt bạch hóa thủ đoạn ‘hòa giải hòa hợp’ của chúng để bước qua những giai đoạn kế tiếp. Khi phổ biến danh sách 650 người lãnh đạo trong cộng đồng người Việt hải ngoại đã phục vụ chế độ cộng sản có nghĩa là chúng cho thành phần nầy công khai ra mặt để đối đầu với trận chiến ý thức hệ giữa tự do và cộng sản đã vào giai đoạn chót.

Đối với thành phần nằm vùng, cò mồi và hòa giải hòa hợp: Đánh giá (kiểm điểm) việc làm và thành quả các công tác kiều vận cũng như địch vận của những người bấy lâu nay hưởng ân huệ của đảng (tiền bạc, hứa hẹn …). Khen thưởng, ban huy chương và phát bằng công dân danh dự cho những người đã tận tụy phục vụ chế độ từ trước đến nay.

Cơ hội nầy 650 người nước ngoài được sẽ được huấn luyện cấp tốc những điểu sau:

- Trở về phải đảo ngược thế cờ tranh đấu của tập thể người chống cộng sản hải ngoại thành khối người Việt yêu chuộng hòa bình, xóa bỏ hận thù và sẳn sàng nối vòng tay lớn hòa giải hòa hợp với cộng sản.
- Xóa vết tích Cờ Vàng Quốc Gia và dựng lại cờ đỏ sao vàng trên những vùng nào có người Việt tỵ nạn.
- Cổ võ người Việt tựư do nước ngoài cũng như ngoại quốc mang tiền của về đầu tư nuôi chế độ dưới chiêu bài xây dựng tổ quốc quê hương.

Bù lại những phần thưởng dành cho thành phần nầy:

- Được xã hội ưu đãi về chủ quyền nhà cửa (không đất), buôn bán thương mãi, di chuyển cũng như về VN không cần giấy phép, chiếu khán … và ăn chơi du hí.
- Được ưu tiên mang hai quốc tịch và trở thành công dân ưu tú của xã hội chủ nghĩa.
- Được tuyển chọn để ứng cử đại biểu quốc hội trong nhiệm kỳ sắp đến. (*)
- Đựợc chấp thuận cho phép tham chánh ào những chức vụ nhỏ với mục đích làm cảnh, ngồi chơi xơi nước và đưa tay ‘Nhất Trí’ để lãnh tiền !

Những tóm tắt trên đây để nhắc nhở cộng đồng người Việt hải ngoại lưu ý và ghi nhận tên tuổi những ‘danh nhân’ về tham dự đại hội hầu chuẩn bị các biện pháp để đối phó.

Trong bài viết trước đây: ‘Bị Đẩy Vào Đường Cùng CSVN Sẽ Tìm Một Lối Thoát’ trong phần cuối tôi có đề cập đến âm mưu mở rộng ‘Hòa Hợp Hòa Giải’ do chính Hà Nội chủ xướng để tìm một lối thoát để cứu vớt chế độ trên đà tuột dốc (Xin xem bài viết đã post trên trang nhà ngày 17.06.2009).

Cuối cùng, khi nhắc đến vấn đề người Việt hải ngoại được cộng sản cho phép về làm Đại Biểu Nhân Dân thì người ta nhớ lại trong khóa bầu cử quốc hội vừa qua, một danh sách gồm trên chục người, đa số ở Mỹ (tại Pháp thì có hai ba người gì đó) đã nạp đơn về Việt Nam ứng cử. Nhưng xui cho những vị nầy, hồ sơ đã được đảng tuyển chọn, ứng cử viên chuẩn bị khăn gói lên đường thì danh sách những người nầy bị đa số ủy viên trong bộ chính trị thân Tàu cộng phản đối và bắt buộc hũy bỏ vào phút chót ! Lần nầy chắc chắn những người nầy thì dĩ nhiên sẽ có mặt không thiếu một ai. Bây giờ thì quá sớm, một khi danh sách được phổ biến, cộng đồng người Việt nước ngoài sẽ ngã ngửa ra ‘họ là ai ?’ !

*****

* Đính kèm dưới đây tài liệu lấy từ TinParis