Wednesday, August 5, 2009

Nước mắt cho Mai Cồ Giắc Sần trong nước và vấn đề giáo dục của CSVN - Phan Trần

Phan Trần

Một số tuổi trẻ của thủ đô Hà Nội đã xụt xùi nhỏ lệ trước cái chết của MJ, trong khi mắt lại ráo hoảnh đối với sự tồn vong của tổ quốc, cũng như đối với biết bao thảm trạng khổ đau của người dân. Ðiều này đã chứng tỏ là vấn đề giáo dục của CSVN đã ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và suy tư của một thế hệ thanh niên.

Trong giới trẻ VN ngày nay, bao nhiêu phần còn coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất, và còn quan tâm tới vấn đề đạo lý đạo đức?

Một khảo sát của Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn thuộc Ðại học Sư phạm của Sàigòn, được tờ Việt Báo điện tử của CSVN phổ biến ngày 14/7/09, cho thấy:

"41% sinh viên không thích sống cao thượng, thiếu hy sinh vì cộng đồng; 36% sinh viên đồng tình rằng làm việc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt; 32% sinh viên chấp nhận hành vi vô ơn, không xem đó là chuyện phi đạo đức; 28% sinh viên có tư tưởng trả thù, báo oán."

Nội dung bản khảo sát này của Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn cùng với hình ảnh người trẻ VN, đầm đìa nước mắt khóc thương MJ đã phản ảnh rõ nét về hậu quả của chính sách giáo dục ngu dân của nhà cầm quyền Hà Nộị Không cần phải lục lọi tìm kiếm những tài liệu liên quan tới vấn đề giáo dục của CSVN, chỉ cần liếc qua vài trang báo điện tử của CSVN về một số tin tức liên quan tới giáo dục và thi cử, cũng quá đủ để thấy được sự thật nàỵ

- Ðối với học sinh, sinh viên:

Dưới đây là một vài nhận xét của những người chấm thị Theo tờ Xã Luận ngày 12/06/09: "Chúng tôi bắt gặp vô vàn các bài văn hạn chế, yếu kém. Chữ viết cẩu thả, trình bầy tệ hại, sai chính tả, câu văn què cụt, diễn đạt ý tứ sai lạc. Thí dụ "Lỗ Tấn sinh năm 1985, mất năm 1963" hay "Tô Hoài sinh năm 1920, quê Nghệ An, năm 1960 ông có 200 bài thơ và ÐẠT KỶ LUẬT (kỷ lục) nhà thơ VN".

Còn trên tờ Dân Trí, thì: "Về kiến thức văn học, càng tệ hại hơn, khi có một em viết Bình Ngô Ðại Cáo là của Lý Thường Kiệt" và: "kiến thức về lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn hoá dân tộc của sinh viên ngày nay đang ở mức "báo động đỏ". Một bộ phận sinh viên đang dần lãng quên các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc"

- Ðối với giới thầy cô:

Ngày 09/01/2007, trong mục "Ai là triệu phú" trên đài truyền hình VTV3 Hà Nội, cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Ðại học Sư phạm Thái Bình, khi được hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn, đã trả lời Tự Lực Văn Ðoàn là một gánh hát cải lương, và Nhất Linh là một kép hát; và nhờ một đồng nghiệp mách cho biết Hoàng Ðạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh và Thạch Lam. Kiến thức của hai giảng sư đại học Sư phạm là như thế đấy!

Tin trên tờ Tuổi Trẻ ngày 14/07/09 cho biết: "Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở Dăkman tỉnh Komtum Bùi Công Nam cùng hai giáo viên khác đánh một giáo viên đến phải nhập viện". Còn tờ Việt Báo ngày 15/6/09 loan tin là 8 cán bộ giảng viên trong đó có cả Tiến sĩ của Học viện Tài chánh đánh bạc ngay trong trường.

Với kiến thức và tư cách của thầy cô như vậy mà học sinh sinh viên không ngu mới là điều lạ!

- Về thi cử:

Vấn đề gian lận trong việc thi cử hầu như là chuyện bình thường không những đối với thí sinh mà còn với cả giám khảo nữa. Vì thế mới có cảnh theo như tờ Việt Báo đưa tin: "Chiều ngày 29/05/08 Thứ trưởng Bành Tiến Long cùng đoàn thanh tra bộ Giáo Dục/ Ðào Tạo đã chứng kiến cảnh "phao" rải trắng phía sau phòng thi ở Thanh Hóa "Phao" cũng xuất hiện nhiều ở Hà Tây, Ninh Bình, Hà Nội v.v....". Còn tờ Pháp Luật ngày 18/06/09 cho biết "nhiều trường Trung học phổ thông ở Huế đỗ tốt nghiệp 100%, và số ra ngày 19/06/09, thì: "17 trường Trung học Phổ thông ở Saigon tốt nghiệp 100%", trong khi đó, thực tế cho thấy "hơn 99% điểm Khối A Ðại học Kỹ thuật Công nghệ dưới điểm trung bình" theo như tờ Việt Báo loan tin ngày 23/07/09. Về môn Toán của Ðại học Lạc Hồng, 99.41% dưới điểm 5, nghĩa là chỉ có 16 người trong tổng số 2711 thí sinh có số điểm trên 5. Ðối với Ðại học Ðà Lạt, hầu hết các môn thi đều có điểm dưới 5, tỷ lệ này chiếm 95%. Ðó là theo những tin tức trên tờ Tuổi Trẻ những ngày 22 và 23 tháng 7 năm 2009. Còn theo tờ Vietnam Media ngày 09/07/09 tại trường Ðại học Luật "đa số thí sinh đều hoảng về môn Sử". Về đề thi, tờ Dân Trí ngày 19/07/09 trích lời Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải là: "Lịch sử thi cử ở VN trong 15 năm nay, năm nào cũng có đề thi sai ở cấp huyện, cấp tỉnh và cấp bo^.. Chu+a bao giờ những người ra đề sai nhận rằng là đề sai". Năm nay đề thi Vật lý cũng lại saị

- Về đào tạo Tiến sĩ:

Tờ Ðại Ðoàn Kết ngày 22/07/09 đã viết một câu quá ngắn, nhưng lại rất nhiều ý nghĩa: "Quá nhiều tiến sĩ giấy". Còn tờ Tổ Quốc ngày 15/07/09 trích lời PTT kiêm Bộ trưởng Giáo Dục/Ðào Tạo Nguyễn Thiện Nhân như sau: "Có lần tôi gặp hiệu trưởng của một trường đại học có uy tín về đào tạo tiến sĩ, tôi có hỏi, trong luận án tiến sĩ của nghiên cứu viên ở trường có gì mới lạ không, vị hiệu trưởng trả lời là không có gì mới cả, vì những cái mới thì thế giới đã làm hết rồi!". Tiến sĩ của CSVN là thế đó. Ấy là chưa kể loại tiến sĩ mua bằng cấp, tiến sĩ thuê người làm luận án, và một số "chuẩn" tiến sĩ đi Pháp để lấy bằng tiến sĩ đã bị đuổi về vì không thông hiểu Pháp ngữ như tin tức được loan tải mấy năm trước đâỵ

Thực trạng giáo dục của CSVN như thế cũng không có chi lạ, vì đó là "ý đồ" của CSVN trong chiều hướng giáo dục ngu dân, ngõ hầu triệt tiêu được tinh thần yêu nước thương nòi của người dân, để chúng dễ dàng duy trì được quyền và lợi, và lại cũng dễ dàng thi hành bổn phận đầy tớ đối với quan thầỵ

"Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau", một câu hát rất mộc mạc bình dị nhưng lại chuyên chở một ý nghĩa vô cùng trọng đại: học sinh, sinh viên chính là tài nguyên quý báu của quốc giạ Hôm nay là học sinh, sinh viên, ngày mai sẽ là những người điều hành đất nước, sẽ là những người lãnh đạo quốc giạ Tổ quốc và dân tộc Việt Nam trông đợi được gì ở đa số giới trẻ VN ngày nay dưới chính sách giáo dục của CSVN!.

Ðể có một tương lai tươi sáng cho tổ quốc và dân tộc VN, chỉ có một cách duy nhất là chế độ và đảng CSVN này phải bị thay thế.

Vậy thôi!

Phan Trần

Monday, August 3, 2009

Hãy Gọi Nước Tàu Là Trung Cộng, Đừng Gọi Là Trung Quốc - Kim Khôi

    Không Tán Trợ Tham Vọng Bành Trướng Của Hán Tộc:
    Hãy Gọi Nước Tàu Là Trung Hoa, Đừng Gọi Là Trung Quốc

    Kim Khôi (Hiến Chương 2000), Cập Nhựt 2009/07/26
(Lời mở đầu: Bản tính của người Việt “Quốc Gia” (từ nầy để chỉ người Việt Nam sống ở Miền Nam trước đây, đặc biệt là người Việt đang tỵ nạn Cộng sản tại Hải Ngoại) là Giàu Tình Cảm và Dễ Dãi.

Vì giàu tình cảm nên chúng ta đã chống Cộng theo một cách thức rất trái khoáy: Vừa chống lại tập đoàn cầm quyền trong nước – với mục đích giải thể chế độ Cộng sản - vừa ồ ạt gởi tiền về để nuôi dưỡng chế độ (theo thống kê của giới hữu trách CSVN thì năm 2007 Việt Kiều gởi về đến 6 tỉ usd theo đường chính thức !). Đó là chưa kể có rất nhiều người Việt tại Hải Ngoại tình nguyện xin đi “đổ vỏ ốc” (chữ của Đỗ Văn Phúc) để đảng/nhà nước rảnh tay thi hành các biện pháp kềm kẹp dân chúng, vơ vét tài sản quốc gia, ăn chận tiền viện trợ, tiền vay của nước ngoài, và, để giai cấp thống trị có thì giờ ăn tiêu phung phí số tiền vơ vét kia mà khỏi phải bận tâm gì đến sự bất hạnh, nỗi cùng cực của những người già yếu bệnh tật. Vì dễ dãi nên Hải Ngoại “tiếp thu” vô điều kiện những sản phẩm “văn học, nghệ thuật” từ trong nước, rõ nét nhất là việc dùng từ ngữ. Các phương tiện truyền thông, báo chí … Hải Ngoại có khuynh hướng bắt chước cách dùng từ ngữ trong nước, bất luận đúng sai, nên hay không nên, chỉ cần mới là được ! Những từ “động thái” (hành động + thái độ) được dùng để thay thế cho từ “hành động” mặc dù nó không chính xác, “nội hàm” dùng thay cho “nội dung” (không cần thiết phải thay !), “chí ít” thay cho “ít nhất” (không chính xác: ít nhất / nhiều nhất , chí ít = đến ít (?) / chí nhiều (? !). Thảm hại hơn cả là dùng từ “chất lượng” (phẩm chất + định lượng / số lượng) để thay thế cho từ “phẩm chất”. Cách dùng từ “chất lượng” như vậy vừa thể hiện sự dốt nát, vừa nói lên sự thiếu tự tin, ưa bắt chước. Lại có những trường hợp dùng từ ngữ vô ý thức đến độ phải đau lòng như khi chính những sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (đã từng bị VC bỏ tù) hoặc gia đình họ, sau khi ra Hải Ngoại kể lại chuyện cũ vẫn còn dùng nhóm chữ “hồi mới giải phóng” (giải phóng ai ?). Đã được giải phóng sao còn bỏ nước ra đi ?), hay “ngụy quân”, “ngụy quyền” (tự mình sỉ mạ mình mà không hay !). Không đơn giản như mấy trường hợp trên, việc dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa lại mang một ý nghĩa chính trị. Hiện nay Hải Ngoại vẫn đang tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc” ngay trong thời điểm làn sóng phẫn nộ đang dâng cao trong lòng người Việt tại năm châu bốn bể khi hay tin Trung Hoa, vào ngày 06/12/2007, hợp thức hoá hành động xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ta. Vậy chúng ta có nên xét lại thói quen dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa hay không ?. Cách gọi như vậy có cần thiết và thích đáng không ?. Có nên cải bỏ thói quen bất lợi đó không ?. Đó là lý do có bài viết nầy. Tôi vẫn biết thay đổi một thói quen không phải là dễ dàng gì, mà lại là thói quen có từ cả ngàn năm rồi thì càng khó khăn vô cùng, nên tôi rất đắn đo khi định viết bài nầy. Thế nhưng đứng trước hiện trạng đất nước đang bị Trung Hoa dùng mọi thủ đoạn để lấn chiếm, lại gặp phải tập đoàn cầm quyền Hà Nội vừa hèn nhát, vừa ngu muội đang tâm chịu cúi đầu làm nô lệ cho Bắc kinh, sẵn sàng bán biển, bán đất của Tổ Tiên cho kẻ thù truyền kiếp Bắc phương, và còn nhiều nhượng bộ thảm hại hơn nữa … miễn sao bọn chúng được Trung Hoa hứa bảo đảm cho chúng giữ được độc quyền cai trị đất nước. Vì thế tôi quyết định viết bài nầy, xem như đốt đóm lửa của một que diêm hầu mong quý vị thức giả, những ai còn quan tâm đến tiền đồ của Dân Tộc Việt tiếp tay, thêm sức thổi bùng ngọn lửa yêu nước đang ngầm cháy trong trái tim của mỗi người dân Việt, may ra có xoay chuyển được tình thế, cứu vãn được đất nước thoát cơn nguy biến !. Với khả năng rất hạn hẹp, chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, kính mong các bậc trưởng thượng, quý vị thức giả châm chước và chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm tạ trước.

Hiện nay trên thế giới có vào khoảng 184 nước. Mỗi nước đều được đặt cho một cái tên, trước hết là để thể hiện ý nghĩa mà dân tộc của nước đó muốn nói lên, thứ đến là để bày tỏ chế độ chính trị hiện hành, cuối cùng là để phân biệt với các nước khác hầu tiện việc giao dịch trong các sinh hoạt trong cộng đồng các khu vực hay trong cộng đồng quốc tế. Như vậy việc đặt tên cho một nước là cần thiết và tất yếu. Tên của một nước lại có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh chính trị của nước hay dân tộc đó, chính vì thế một nước có thể có nhiều cái tên cũ mới khác nhau, và do đó, cũng có thể được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau – Ví dụ Thái Lan, Xiêm La, Xiêm; Mỹ, Hoa Kỳ; Đại Hàn, Cao Ly, Triều Tiên; Tàu, Trung Hoa, Trung quốc … – Tuy nhiên trên giấy tờ hành chánh, mỗi nước chỉ có một tên có giá trị pháp lý và được cộng đồng thế giới công nhận. Trong bài nầy chúng ta quan tâm đến việc dùng tên của một nước trên thực tế, nghĩa là dùng theo thói quen hay trên các phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở …

Như trên đã trình bày, trên thực tế một nước có thể được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau. Việc gọi tên một nước cũng khá rắc rối vì nước nào cũng dùng ngôn ngữ và chữ viết riêng của nước mình để gọi tên nước mình, mà trên thế giới hiện nay có khá nhiều thứ tiếng nói và chữ viết được xem là phổ thông. Để thuận tiện cho việc gọi hay viết tên các nước trong cộng đồng thế giới, từ lâu người ta đã đồng thuận “la tinh hoá” tên của nước đó, đồng thời tên của một nước được chấp nhận viết hay gọi bằng Anh hay Pháp ngữ là hai thứ chữ tương đối phổ biến trong việc giao dịch quốc tế. Nhờ sự “la tinh hoá” nầy mà các văn thư chính thức và báo chí có thể viết và gọi tên các nước một cách tương đối thuận tiện hơn. Tôi nói “tương đối” vì trên thực tế mỗi nước khi viết hay gọi tên của một nước khác đều dùng ngôn ngữ và chữ viết của chính nước mình – dù tên nước đó đã được “pháp hoá” hay “anh hoá” – để cho dân chúng trong nước có thể đọc và hiểu được. Do tình trạng trên, một nước có thể dùng cả hai dạng: Dạng “phiên âm” và dạng chính thức để gọi tên một nước khác.

Để rõ ràng hơn chúng ta có thể dùng việc gọi và viết tên một nước của người Việt chúng ta, tức dùng chữ /tiếng Việt để gọi và viết tên các nước khác. Từ lâu người Việt chúng ta có thói quen dùng dạng “phiên âm” để viết và gọi tên một số nước quen thuộc như Anh-Cát-Lợi, Pháp-Lang-Sa, Cao-Ly, Ấn-Độ, Ma-Rốc … đó là do ảnh hưởng của Trung Hoa trong việc họ “phiên âm” tên của những nước nầy để dùng cho thuận tiện. Lại nữa cũng do tình trạng ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, nên người Việt chúng ta lại còn có thói quen dùng từ hán việt “QUỐC” đặt sau tên của một số nước quen thuộc (sau khi đã được tỉnh lược hay “biến dạng”) để gọi nước đó, ví dụ: Mỹ quốc, Pháp quốc, Anh quốc, Hồi quốc, Hàn quốc … Như vậy việc dùng chữ “quốc” đặt sau tên của một nước để gọi nước đó là rất bình thường. Thế thì tại sao trong bài nầy chúng tôi lại đặt vấn đề “Nên gọi nước Tàu là Trung Hoa hay Trung quốc” ? Đó có phải là “vẽ rắn thêm chân” hay “chẻ sợi tóc làm tư” hay không ?. Chúng tôi xin thưa là KHÔNG, trái lại đây là một vấn đề cần được xem xét lại. Lý do chúng tôi sẽ xin trình bày như sau:

Tuy chúng ta thường dùng chữ “quốc” để viết và gọi một số nước quen thuộc như Lào quốc, Anh quốc, Ý quốc … thế nhưng khi dùng chữ “quốc” đặt sau chữ “Trung” để gọi nước Trung Hoa (hay Tàu) là Trung Quốc nó lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác những trường hợp trên. Vấn đề nầy nó đã bắt rễ từ quá khứ xa xăm, cho nên muốn lý giải cho rõ ràng cần phải điểm qua một chút về lịch sử Trung Hoa, và sự ảnh hưởng của Trung Hoa đối với Việt Nam từ trước đến nay.

Như chúng ta biết, qua những khảo cứu mới nhất đã xác định người Hoa không phải là dân bản xứ trên lục địa Trung Hoa ngày nay, kể cả nơi mà Trung Hoa thường cho là địa bàn phát tích của người “Hán” là vùng bình nguyên hợp bởi các sông Hoàng Hà, sông Vị, sông Hoài, sông Hán. Nguồn gốc của họ là một giống dân du mục từ miền tây bắc tràn xuống. Sinh kế của giống dân nầy là chăn nuôi và săn bắn nên họ chuyên dùng vũ lực và chiến đấu rất giỏi. Khi tràn xuống đến vùng bình nguyên tạo thành do các sông Hoàng Hà, sông Hoài, Sông Hán thì họ nhận thấy vùng nầy đất đai màu mở nên đã đánh đuổi các thổ dân đã định canh định cư ở đây lâu đời, chiếm đất dựng nên nước Trung hoa thời cổ đại. Quá trình phát triển của nước Trung Hoa ngay thời bấy giờ đã là một quá trình chiến tranh xâm lược, bành trướng, thôn tính và đồng hoá các dân tộc khác.

Tương truyền rằng họ lập quốc từ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, nhưng mãi đến đời vua Nghiêu mới xưng danh hiệu. Vua Nghiêu có họ Đào Đường nên lấy quốc hiệu là Đường. Vua Thuấn kế nghiệp vua Nghiêu đóng đô ở Bồ Bản thuộc đạo Hà Đông, tỉnh Sơn Tây, lấy quốc hiệu là Ngu. Đến đời nhà Thương (1766 – 1122 trước TL) họ xưng là “Trung Quốc” vì tự cho mình là nước văn minh nhất ở trung tâm thế giới. Từ “Trung Quốc” được tìm thấy trong các thư tịch cỗ như Thượng Thư, Kinh Thi. Trong Kinh Thi có câu “Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy tứ phương* nghĩa là lấy ân huệ của Trung Quốc để an định bốn phương.

(*) Cội Nguồn Việt Tộc, Phạm Trần Anh, trang 48.
“Trung quốc” là nước có nền văn minh cao nhất mệnh danh là văn minh Hoa Hạ. Chính hai chữ Hoa Hạ đã biểu lộ tính tự cao, tự đại của giống dân nầy, vì theo Hán tự Hoa có nghĩa là tinh hoa, rực rỡ, thịnh vượng và Hạ là to lớn, nước ở giữa. (Cũng có thuyết cho rằng Hoa Hạ là vùng đất có núi Hoa, sông Hạ tức sông Hán, nơi “phát sinh” giống dân nầy, nhưng thuyết nầy ngày nay không còn đứng vững nữa vì nhờ các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đã giúp cho các môn Nhân chủng học, khảo cổ học … xác định là nguồn gốc của người Hoa không phải phát xuất từ vùng đất nầy).

Với bản chất kiêu căng đó, họ cho rằng Trung Quốc là nước văn minh nhất nằm ở trung tâm thế giới, còn tất cả các nước khác ở chung quanh đều là man-di-mọi-rợ, vì thế Trung Quốc được giao cho trọng trách thay trời cai trị và khai hoá thiên hạ. Họ chủ trương “Dĩ Hạ biến Di” (lấy nền văn minh Hoa Hạ để khai hoá các dân tộc mọi rợ). Địa bàn do giống dân nầy cư ngụ gọi là Trung Hoa (nước có nền văn minh rực rỡ và cường thịnh nằm ở trung tâm), cư dân gọi là Hoa nhân (người Hoa). Sự thực vùng đất mà vương triều nhà Thương trực tiếp cai trị chỉ là vùng đất hẹp gần kinh đô gồm phía đông tỉnh Sơn Tây, phía tây tỉnh Sơn Đông, phía nam tỉnh Hồ Bắc và phía bắc tỉnh Hồ Nam được gọi là “Trung Nguyên” còn các vùng chung quanh đều do các chư hầu cai quản, phần lớn là dân bản địa đã bị đồng hoá sống chung với người Hoa.

Nhà Chu tiếp nối nhà Thương đại diện cho vương quyền của người Hoa, có thiên mệnh cai quản và giáo hoá thiên hạ, nên vương triều ở Trung Nguyên được xưng là Thiên Triều, hoàng đế là Thiên Tử để phân biệt với vua và triều đình các nước chư hầu. Lối xưng hô trịch thượng nầy trở thành truyền thống và sau khi nhà Tần thống nhất đất nước không còn tình trạng cát cứ của các nước chư hầu nữa thì lối xưng hô nầy được áp dụng đối với các thuộc quốc như Việt Nam, Triều Tiên … về sau nầy. Đến thời Chiến Quốc nhà Chu đã suy yếu nhiều, các nước chư hầu lớn thôn tính các nước nhỏ (nước phụ dung) và gây chiến tranh với nhau để xưng Bá dưới danh nghĩa “Tôn Chu diệt di” (Tôn phù nhà Chu, tiêu diệt mọi rợ) nghĩa là vẫn theo đuổi chủ trương xâm lăng, tiêu diệt các dân tộc khác để bành trướng đất đai.

Cuối thời Chiến Quốc, Tần Thỉ Hoàng gồm thâu lục quốc, thống nhất “thiên hạ”, lập nên một quốc gia theo chế độ trung ương tập quyền chuyên chế. Về mặt địa lý đất nước nầy đã được mở rộng về phía tây và phía nam: Phía tây đến tận Lũng Tây, phía Nam bao gồm cả vùng Hoa nam hiện nay. Tần Thỉ Hoàng cũng thống nhất chữ viết, đơn vị đo lường, kích thước đường sá, xe cộ trong toàn cõi đế quốc do ông cai trị nhờ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hoá cho các triền đại về sau. Vì Tần Thỉ Hoàng quá bạo ngược nên nhà Tần chỉ kéo dài đến đời thứ hai là Tần Nhị Thế thì bị Hạng Võ rồi Lưu Bang tiêu diệt.

Lưu Bang lập nên nhà Hán, tuy vẫn theo chế độ trung ương tập quyền và thừa hưởng những kết quả cải cách của Tần Thỉ Hoàng nhưng đã khôn khéo giảm nhẹ thuế khoá, bồi dưỡng sức dân, tạo nên cảnh an cư lạc nghiệp nên đất nước được phát triển về mọi mặt từ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … Có thể nói đây là triều đại đầu tiên xây dựng nên một nước Trung Hoa thống nhất, ổn định, cường thịnh và phát triển. Về phía Tây, địa giới của nhà Hán bao gồm cả Mông Cổ và Tân Cương. Họ đã mở ra con đường tơ lụa để giao thương với Tây Phương. Vì cả vùng Trung và Đông Á đều được hưởng sự thái bình trong một thời gian dài nên được các sử gia Tây Phương gọi là Thái Bình Trung Hoa (Pax Sinica) tương đương với thái bình La Mã (Pax Romana). Chính do thời đại phát triển rực rỡ đó nên người Hoa tự xưng là “Hán Tộc”, một sắc dân đông đảo nhất của Trung hoa, nắm quyền cai quản các sắc dân khác đã bị đồng hoá trong quá trình bành trướng lãnh thổ. Và cũng từ đó, chữ viết của họ được gọi là Hán tự.

Hán triều tiếp tục dùng vũ lực xâm chiếm các nước nhỏ yếu chung quanh để mở mang bờ cõi theo chủ nghĩa Đại Hán. Vẫn với não trạng tự tôn cố hữu, Hán tộc tự cho mình là giống dân cao quí nhất, văn minh nhất trong thiên hạ được trời giao cho trách nhiệm giáo hoá các giống dân khác. Người Hán rất kỳ thị chủng tộc, khinh khi tất cả các dân tộc sống chung quanh, gán cho các giống nầy những cái tên thật thấp hèn để thỏa mản bản chất kiêu ngạo của họ. Họ gọi người sống ở phía đông là Di (Triều Tiên, Nhật Bản), phía tây là Nhung (Thổ Phồn, Tây Hạ), phía Nam là Man (người Việt, người Choang ở Quảng Tây, người Mân ở Phúc Kiến) phía bắc là Địch (Hung Nô, Kim, Khiết Đan, Hồ, Đột Quyết). Để thể hiện thái độ khinh thị nầy, trong chữ Hán có kèn theo các bộ “khuyển” (chó), bộ “trãi” (trĩ, loài sâu bọ), bộ “mã” (ngựa) để gọi những giống dân sống chung quanh. Các triều đại về sau, kể cả chính quyền Trung Hoa hiện nay vẫn theo đuổi chính sách nhất quán của nhà Hán là “Đại nhất thống thiên hạ” để lấn chiến đất đai. Chủ nghĩa nầy ngày nay thường gọi là “Chủ nghĩa Đại Hán”, còn chính quyền Hà Nội trong thời gian xung đột với Trung Hoa thì gọi là “Chủ nghĩa sô-vanh nước lớn” hay “Chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc”.

Sự thật Hán tộc không phải là một dân tộc thượng đẳng được trời giao cho nhiệm vụ cai quản và giáo hoá các giống dân khác như họ tự tôn xưng, “Trung Quốc” cũng không phải là một nước hùng cường bách chiến bách thắng mà họ cũng bị chi phối bởi định luật “thịnh suy” như tất cả các dân tộc hay quốc gia khác. Qua quá trình lịch sử ta thấy dưới đời nhà Tống, Trung Hoa đã bị nước Liêu và Kim liên tiếp quấy nhiễu. Năm 1126 quân Kim đánh chiếm kinh đô Khai Phong, bắt vua Tống Huy Tông, tiêu diệt Bắc Tống. Về sau Tống Cao Tông phục nghiệp đóng đô ở Lâm An gọi là Nam Tống. Sau đó Trung Hoa bị người Mông cổ xâm lăng lập nên nhà Nguyên, cai trị Trung Hoa gần một trăm năm (1271 – 1368). Đến thế kỷ 17 Trung Hoa bị người Mãn Châu xâm lăng. Năm 1644 người Mãn Châu chiếm Trung Hoa lập nên nhà Thanh, cai trị 267 năm (1644 – 1911). Điều trớ trêu là hai dân tộc Mông Cổ và Mãn Châu tuy đã chiến thắng, chiếm đóng và cai trị Trung Hoa trong một thời gian khá dài, nhưng vì căn bản văn hoá thấp (không được như Việt tộc chúng ta) lại quá sùng bái nền văn minh tại Trung nguyên, nên bị nền văn minh của Trung Hoa âm thầm đồng hoá. Khi đế quốc Mông Cổ cũng như Mãn Châu bị tan rả, chẳng những hai dân tộc nầy bị hán hoá mà cả đất nước của họ cũng bị sát nhập vào Trung Hoa dưới sự cai trị của người Hán.

Tệ hại nhất là vào hậu bán thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 Trung Hoa bị các nước Tây Phương lấn áp phải ký các hiệp ước Nam Kinh 1842 và hiệp ước Thiên Tân 1854 dành cho người Tây Phương quá nhiều đặc quyền. Nước Trung hoa bấy giờ ngày càng suy yếu mặc sức cho người Tây Phương xâu xé, khinh khi, nhục mạ (như cấm người Hoa và chó vào các công viên của Tây Phương ngay trên đất Trung Hoa chẳng hạn). Thêm vào đó cuôïc chiến tranh Trung Nhật năm 1894 -1895 đã làm cho người Trung hoa càng thêm mất mặt khi hạm đội Bắc Hải bị hạm đội của Nhật Bản tiêu diệt. Năm 1932 Nhật chiếm Mãn Châu, Nội Mông, ngày 07/7/1937 Nhật dựng lên vụ Lư Câu Kiều để khai chiến với Trung Hoa và chiếm thêm nhiều đất đai thuộc miền duyên hải và phong tỏa bờ biển Trung Hoa. Mãi đến tháng 8/1945 khi thế chiến thứ 2 chấm dứt, Nhật mới rút quân khỏi Trung Hoa. Trong thời gian chiếm đóng, người Nhật đã ngược đãi và nhục mạ người Hoa bằng mọi cách kể cả gọi người Hoa là “Cẩu Hán” không khác gì người Hán gọi các dân tộc thiểu số phía tây là “Khuyển Nhung” trong các thế kỷ trước. Trong thời kỳ bị ngoại nhân cai trị bởi những dân tộc bị người Hán khinh bỉ từ lâu nay, cũng có rất nhiều người Hán tự nguyện làm tay sai cho chế độ đương quyền, hãm hại người đồng tộc. Điều đó chứng tỏ rằng người Hán cũng hèn kém, tồi tệ, xu thời, dễ biến chất… chứ không phải là một dân tộc “thượng đẳng” như họ đã tự phong !

Nước Tàu quá suy yếu và lạc hậu so với các nước Tây Phương, kể cả Nhật Bản đã sớm biết canh tân. Uy lực của “thiên triều” không còn nữa, chủ trương “Đại Nhất thống thiên hạ” truyền thống từ nhiều thế kỷ trước không còn điều kiện để thực hiện. Hai nước Triều Tiên, Việt Nam từ lâu bị lệ thuộc Nước Tàu nay bị Nhật Bản và Pháp cai trị, ảnh hưởng của Nước Tàu bị phai nhạt nhiều. Đây là thời kỳ duy nhất trong lịch sử Nước Tàu mà chủ nghĩa Đại Hán bị gián đoạn. Sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch, thống nhất toàn nước Tàu dưới chế độ Cộng sản, cái não trạng thực dân Đại Hán chẳng những được phục hồi mà lại có phần phát huy mạnh mẽ hơn. Nhà cầm quyền Trung Cộng cố ý cổ xúy chủ nghĩa quốc gia cực đoan để dân chúng thỏa mãn tự ái dân tộc, trả mối thù bị người Tây Phương và Nhật Bản chiếm đóng, xâu xé nhưng lý do chính được khéo léo che đậy là để cho nhân dân Tàu không thấy thực trạng bị kềm kẹp và nghèo khổ, sẵn sàng chấp nhận sự cai trị độc tài, hà khắc, bất nhân của tập đoàn Trung Nam Hải.

Đó là xét về đất nước và con người Tàu, còn về phương diện văn hoá thì ngày nay khoa học kỹthuật đã chứng minh được rằng nền văn minh Nước Tàu không phải do chỉ người Hoa tạo lập mà có sự đóng góp tích cực của dân tộc bản xứ đã định cư lâu đời tại địa bàn Nước Tàu ngày nay, nếu không muốn nói là người Hán đã cướp đoạt các thành quả văn hoá của người bản xứ - sau khi thôn tính đất đai và tiêu hủy mọi di tích văn hoá của các dân tộc bị bại trận - đem về nhào nặn lại rồi lớn tiếng rêu rao là do Hán tộc tạo dựng rồi đem “giáo hoá” các dân tộc bị trị để đồng hoá họ.

Minh chứng thứ nhất là các di vật thuộc thời kỳ đồ đá cũ (như rìu có vai) phát xuất từ Hoà Bình, Bắc Việt. Ngày nay được các nhà bác học về các môn khảo cổ gọi là nền văn hoá Hoà Bình có niên đại cổ nhất, sau đó do hiện tượng “biển tiến” khoảng từ 18.000 đến 8.000 năm, nền văn hoá nầy được các cư dân miền bắc Việt Nam mang lên phía bắc mà “hậu duệ” của nó được tìm thấy ở Ngưỡng Thiều thuộc tỉnh Thiểm Tây.

Minh chứng thứ hai là Cây Lúa Nước. Về cây lúa nước, trong quyển “Eden in the East” của Stephen Oppenheimer cũng đã chứng minh được rằng nguồn gốc của Cây Lúa Nước được tìm thấy sớm nhất ở Đông Nam Á mà các di vật được phát hiện rải rác ở vùng Bắc Việt, Bắc Lào và Bắc Thái Lan. Thêm vào đó những nghiên cứu về Nước Tàu còn xác định là thực phẩm chính của người “Hán” vào đời nhà Thương là lúa mì, lúa tắc chớ không có gạo, mãi đến đời nhà Hán họ mới ăn gạo. [Do sự kiện nầy, có giả thuyết cho rằng “Thần Nông” (vị thần dạy dân làm ruộng) là nhân vật người Việt thời cổ đại đã dạy cho dân Việt cách trồng lúa nước, đã bị Nước Tàu chiếm đoạt làm ông tổ của dân tộc mình cũng có lý !].

Minh chứng thứ ba là Trống Đồng. Tiến sĩ W.G. Solheim II là vị học giả có uy tín nhất về việc nghiên cứu và phân loại Trống Đồng, đã kết luận là Trống Đồng Ngọc Lũ là loại trống đồng lớn nhất, đẹp nhất và cũ nhất. Hiện nay các nhà khảo cỗ học nổi tiếng trên thế giới đều công nhận là Trống Đồng Ngọc Lũ, thuộc nền văn hoá Đông Sơn, phần đất ở Bắc Việt ngày nay, là loại trống đồng tiêu biểu nhất. Nước Tàu – với não trạng tự tôn cố hữu - đã cho tổ chức hội nghị Nam Ninh tháng 8/1980 để cố giành nền văn hoá trống đồng về cho mình nhưng đã thất bại ê chề vì không được các nhà khảo cổ học hàng đầu của thế giới công nhận.*

(* Quý vị muốn rõ hơn về các vấn đề nầy, xin đọc thêm các quyển “Tìm về nguồn gốc VĂN MINH VIỆT NAM dưới ánh sáng của khoa học” của GS Cung Đình Thanh và Cội nguồn Việt Tộc” của Phạm Trần Anh).

Xét về quốc hiệu của nước Tàu. Theo truyền thuyết thì Đế Nghiêu có họ Đào Đường (Đào Đường thị) nên lấy quốc hiệu là Đường. Vua Thuấn dời đô về Bồ Bản (Sơn Tây) đổi quốc hiệu là Ngu (Đế Thuấn họ Hữu Ngu). Các triều đại tiếp theo là Hạ, Thương, Chu, Tần đều lấy tên đất được phong làm quốc hiệu. Triều Hán , Lưu Bang được Hạng Võ phong danh hiệu là Hán vương nên lấy quốc hiệu là Hán. Các quốc hiệu Đường, Nguyên không rõ lai lịch. Triều Tống, Triêïu Khuông Dẫn lấy châu Tống, nơi được phong làm Tiết độ sứ làm quốc hiệu. Triều Minh Chu Nguyên Chương lấy 2 chữ “Nhật, Nguyệt” trong câu : “Sơn hà yểm hữu Trung Hoa địa, nhật nguyệt trùng khai đại tống thiên(*)” (nghĩa là sơn hà bỗng có đất Tàu, nhật nguyệt ghép lại trời bừng sáng) ghép lại thành chữ Minh. Khi nhà Kim thôn tính Nước Tàu đổi quốc hiệu là Thanh vì năm 1626 Hoàng Thái Cực lên ngôi hoàng đế sợ dùng quốc hiệu là Kim sẽ bị người Hán chống đối, nên lấy chữ Thanh là từ đồng vận với Kim. Sau khi cách mạng Tân Hợi thành công, Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng Thống và đổi quốc hiệu là Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 01 tháng 10 năm 1949, sau khi chiếm toàn Hoa Lục, Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập nước Cộng sản lấy quốc hiệu là Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa.

(*) Đàm Thiên Thuyết Địa Luận Nhân, Ngô Bạch, trang 86

Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử, từ thời tối cổ cho đến đời nhà Thanh, các chế độ quân chủ chuyên chế đều lấy tên triều đại làm quốc hiệu, chứ không hề dùng chữ Trung Hoa để làm quốc hiệu bao giờ. Chỉ đến sau khi cách mạng Tân Hợi thành công lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, thành lập một nước cộng hoà, từ Trung Hoa mới được dùng làm quốc hiệu dưới danh xưng “Trung Hoa Dân Quốc”, sau đó từ Trung Hoa lại được dùng làm quốc hiệu trong “Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa” dưới chế độ cộng sản. Còn từ “Trung Quốc” chưa bao giờ được dùng làm quốc hiệu để chỉ nước Tàu, kể cả các thời nước nầy bị qua phân như thời Tam Quốc (Ngụy, Thục, Ngô), thời đại nhiễu nhương từ đời nhà Tấn đến Nam Bắc Triều (Tấn, “Lưu” Tống, Tề, Lương, Tần) mãi đến nhà Tùy. Từ “Trung Quốc” được xuất hiện lần đầu tiên dưới thời nhà Thương, đây chỉ là lối thậm xưng của người Hán để tự đề cao dân tộc và đất nước mình. Với bản chất kiêu ngạo, hiếu chiến, người Hán tự cho mình là dân tộc siêu đẳng, đất nước mình là một đất nước lớn nhất, hùng mạnh nhất và văn minh nhất nằm ở trung tâm thế giới, còn các nước khác chỉ là những nước nhược tiểu, yếu hèn, các dân tộc khác đều là man di mọi rợ, nên người Hán được trời giao cho trọng trách đi chinh phục, cai trị và giáo hoá thiên hạ ! Với não trạng độc tôn Đại Hán đó, họ đề ra chủ trương “Đại nhất thống thiên hạ” để bành trướng đất đai, luôn luôn gây hấn với các nước lân cận, tìm mọi cơ hội để đánh chiếm đất đai của nước khác. Nếu thời cơ chưa thuận tiện cho việc phát động chiến tranh để xâm lăng thì người Hán dùng những phương thức “hoà bình” như gây áp lực, lũng đoạn chính quyền hay mua chuộc giới cầm quyền lân bang để tìm cách lấn đất, lấn biển (như đang áp dụng đối với Việt Nam ngày nay). Chủ trương “Đại nhất thống thiên hạ” là nền tảng của chính sách xâm lăng, bành trướng của đế quốc Trung Hoa được người Hán theo đuổi từ thời mới lập quốc cho đến ngày nay.

Trong sự giao dịch giữa các nước với nhau, từ “Trung Quốc” ngoài người Hán dùng để tự tôn xưng đất nước mình, nhiều lắm thì được lưu hành ở các nước đồng văn như Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam chứ những nước dùng văn tự khác chữ Hán chắc không có mấy người biết đến từ nầy. Đối với thế giới Tây Phương từ “Trung Quốc” lại càng xa lạ hơn. Người Tây Phương biết đến nước Tàu vào triều Tần (Qin) nên họ gọi Nước Tàu là “Sin” theo cách phiên âm chữ Tần của Hoa ngữ [có thuyết cho rằng Tây Phương giao dịch với Nước Tàu từ đời nhà Thương vì cách đọc chữ Thương (Shang) của người Tàu gần giống vời chữ “sin” hơn là chữ Tần]. Về sau chữ “Sin” được viết thành Chine trong tiếng Pháp và China trong tiếng Anh. Ngày nay mọi giao dịch trên thế giới đều dùng Anh hay Pháp ngữ vì thế các phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở và các giao dịch bình thường của hầu hết các nước, khi dùng dưới dạng “la tinh hoá”, - kể cả Đại Hàn và Nhật - đều dùng từ Chine (Pháp) hay China (Anh) để chỉ nước Tàu, chỉ những giấy tờ quan trọng thuộc lãnh vực ngoại giao hay luật pháp mới dùng đủ quốc hiệu của Nước Tàu là People’s Republic of China hay République Populaire de Chine (Côïng Hoà Nhân Dân Trung Hoa).

Mặc dầu Nước Tàu có chung biên giới với 14 nước là : Afghanistan, Ấn Độ, Bhutan, Cao Ly (Đại Hàn), Kazakhstan, Kyrgizstan, Lào, Myama, Mông Cổ, Nepal, Nga, Pakistan, Tajikistan, và Việt Nam nhưng chỉ có Đại Hàn và Việt Nam là nước vừa có chung biên giới với Nước Tàu, vừa chịu ảnh hưởng về văn hoá và chính trị của Nước Tàu nhiều nhất nên có lẽ chỉ hai nước nầy thường dùng từ “Trung Quốc” để gọi hay viết về nước Tàu. Tuy nhiên theo một số sử liệu thì trong quá khứ Cao Ly (Đại Hàn) thường gọi Trung Hoa là “Thượng Quốc” hay “Đại Quốc” hơn là “Trung Quốc”. Ngày nay chỉ Bắc Hàn mới gọi Trung Hoa là “Trung Quốc”, Nam Hàn dùng từ Trung Hoa (Junghwa, Chunghwa (ÉTƯ ; -Nïƒ) hay China để gọi nước Tàu. Còn nước Nhật tuy cũng là đồng văn và có chịu ảnh hưởng ít nhiều từ văn hoá Trung hoa nhưng nhờ cách biệt Trung Hoa bởi eo biển Nhật Bản nên ít bị sự chi phối của nước nầy. Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay, Nhật Bản đã phát triển vượt cả Trung Hoa về mọi mặt, từng là nước đã xâm lăng Trung Hoa nên Nhật Bản không chịu ảnh hưởng gì của Trung Hoa cả. Nhật Bản thường gọi nước Tàu là Chuka (Trung Hoa).

Rốt lại chỉ có người Việt chúng ta là có thói quen ưa dùng chữ “Trung Quốc” để chỉ nước Trung Hoa. Thói quen nầy mang nặng dấu ấn lich sử.

Như chúng ta đã biết, theo Việt sử thì trước làn sóng xâm lăng liên tục và hung bạo của “Hán tộc”, các bộ lạc Việt định cư tại phía Nam sông Dương Tử phần thì bị đồng hoá, phần thì chạy dần về phương Nam nếu không muốn bị “Hán tộc” tiêu diệt. Trong các bộ lạc Việt tộc nầy có Lạc Việt đã lập nên nước Văn Lang ở vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay. Đến đời nhà Triệu nước ta có quốc hiệu là Nam Việt. Năm 111 trước Tây lịch, vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem quân đánh nhà Triệu, chiếm Nam Việt rồi cải tên là Giao Chỉ bộ, từ đó dân Việt bị nước Tàu cai trị gần một ngàn năm ! Với chính sách cai trị hà khắc và chủ trương đồng hoá của Hán tộc, nhất là sự cai trị nầy bắt đầu từ đời nhà Hán, một thời đại mà nước Trung Hoa rất hùng mạnh về mọi phương diện như đã đề cập ở trên - thế mà Tổ Tiên ta vẫn giữ được bản sắc dân tộc đã là một kỳ công hi hữu - thì vấn đề người Việt dùng từ “Trung Quốc” để gọi nước Tàu giống như một người Hoa chẳng những là một điều tất nhiên mà còn có thể được xem như một phương thức dùng cái “mặt nổi” để che đậy cái ý đồ “bất phục tùng” của Tổ Tiên ta ! Đáng tiếc là qua một thời gian dài đằng đẳng cả một ngàn năm, sự xưng hô nầy đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt lúc bấy giờ đến nổi nó trở thành thói quen không còn ai để ý đến lối xưng hô mang tính cách lệ thuộc nầy nữa. Đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, giành lại nền độc lập, tự chủ cho dân Việt vào năm 939, và những triều đại tiếp nối, kể cả hai triều Lý, Trần là những triều đại mà Nho giáo không đóng vai trò độc tôn, nhưng tất cả các lãnh vực khác từ chề độ cai trị, tổ chức hành chánh, quân đội, thi cử … đều còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Hoa, nên thói quen dùng từ “Trung Quốc” để chỉ nước Tàu hẳn vẫn được duy trì. Sang các triều Lê Nguyễn - Đặc biệt là vua Lê Thánh Tông hết sức sùng bái Tống Nho để củng cố uy tín và vương quyền của mình – chế độ cai trị ở Việt Nam hoàn toàn rập khuôn Trung Hoa về mọi phương diện. Nước ta lại là một nước nhỏ yếu sát nách một anh khổng lồ vừa tự cao tự đại, vừa hung hản, vừa tham lam, không lúc nào từ bỏ ý định thôn tính các lân bang nên các vị vua phải dùng đường lối ngoại giao mềm mỏng với “thiên triều” để bảo vệ sự tự chủ, mà cách dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa là một cách thể hiện đường lối ngoại giao khôn khéo đó. Từ đời Tự Đức trở về sau, tuy bị Pháp cai trị, nhưng ảnh hưởng về văn hoá của Tàu đối với nước ta vẫn còn sâu đậm, cách xưng hô tôn sùng gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” vẫn được duy trì. Tóm lại trong suốt quá trình lịch sử từ khi có nước Văn Lang cho đến cuối triều Nguyễn, Việt Nam ta luôn luôn bị áp lực của nước Tàu khổng lồ sát nách nên đã tự xem mình là một nước nhỏ lệ thuộc vào Trung Hoa, phải xưng tụng Trung Hoa là “Trung Quốc”.

Khi chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt, phong trào độc lập tự chủ sự được Hoa Kỳ và các nước Tây Phương cổ xúy, đáng lý ra Việt Nam phải cởi bỏ được mặc cảm lệ thuộc Tàu, thành lập một quốc gia Việt Nam thực sự độc lập tự chủ. Thế nhưng do vận nước còn lận đận, do sự bất hạnh của dân tộc, ta lại rơi vào tay của Hồ Chí Minh và tập đoàn cộïng sản bất tài cai trị. Như ta đã biết Hồ Chí Minh không những là cán bộ của Cộng sản Đệ tam Quốc tế mà còn hoạt động ở đất Tàu rất lâu nên quen biết và chịu ảnh hưởng của giới lãnh đạo đảng Côïng sản Trung Hoa khá nhiều, nhất là Mao trạch Đông. Khi có thời cơ về nước cầm quyền, Hồ Chí Minh đã dựa hoàn toàn vào Trung cộng để kháng Pháp, tinh thần lệ thuộc vào Trung Hoa lại được tiếp diễn !

Tệ hơn các triều đại thời quân chủ cố bảo vệ sự độc lập tự chủ, chỉ lệ thuộc Tàu về hình thức qua đường lối ngoại giao, Hồ Chí Minh và bọn hậu duệ đặt quyền lợi của tập đoàn cai trị và của đảng Cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi của Quốc Gia Dân tộc nên tự nguyện cúi đầu làm nô lệ cho Trung Cộng. Khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp dưới chiêu bài là đánh đuổi thực dân để giành độc lập nhưng thực chất là thi hành lệnh của Đệ Tam Quốc tế gây chiến tranh với các nước phương tây để mở rộng thuộc địa cho Liên Bang Xô Viết, vì thế Hồ Chí Minh và đồng bọn không quan tâm đến sự thiệt hại của Tổ Quốc Việt Nam. Ngoài việc Hồ Chí Minh sai Phạm Văn Đồng gởi công hàm ngoại giao ngày 24 tháng 9 năm 1958 để bán đứng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng, tập đoàn Hà Nội còn để cho Trung Hoa làm nhiều việc rất phương hại đến nền an ninh, quốc phòng như : Đồng thuận cho Trung Hoa thiết lập đường hỏa xa nối dài từ đất Tàu, xuyên qua Ải Nam Quan, đi sâu vào đất Việt Nam trên 3 km - theo tiêu chuẩn mới, có chiều rộng giống như đường sắt của Trung Cộng - nói là để “thuận tiện cho việc vận chuyển đồ viện trợ cho Việt Nam”. Hậu quả là sau nầy Tàu đã dựa vào đoạn đường sắt ấy làm bằng chứng để lấn chiếm đất của ta khiến Viêt cộng phải ngậm miệng. Hà Nội cũng giao cho Cục đồ bản của Trung Hoa in bản đồ quân sự có tỉ lệ 1/10000, tỉ lệ 1/50000 nên Trung Hoa đã nắm rõ hết các đặc điểm địa hình của Việt Nam, lại để cho 300 ngàn quân Trung cộng sang đóng khắp vùng trung và thượng du Bắc Việt nên trong cuộc chiến tranh Hoa Việt năm 1979 , Tàu cộng đã dễ dàng chiến cứ các vị trí chiến lược quan trọng thuộc biên giới Việt Nam ngay khi khai chiến ... Sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, tập đoàn cầm quyền Hà Nội quay sang quỳ lụy Trung cộng để được bảo vệ sự độc quyền cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Từ cổ chí kim, chưa có khi nào mà giới cầm quyền của nước ta lại chịu làm nô lệ một cách hết sức hèn hạ như tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay. Ngoài việc cắt đất, nhường biển cho Trung cộng qua các hiệp ước bất bình đẳng và đầy khuất tất năm 1999, 2000, Hà Nội còn để cho Trung cộng tự tung tự tác với nhiều sự kiện rất khó coi như : để cho Giang Trạch Dân đến tắm biển Mỹ Khê – Mà do một tay Mỹ gà mờ nào đã đặt cho một cái tên thật vô lý là “China Beach” – trong chuyến công du Việt Nam, như tắm tại hồ nhà mình ; để cho hải quân Trung Cộng tha hồ bắn giết, bắt bớ và hà hiếp ngư dân Việt Nam ; theo lệnh Trung cộng cấm sinh viên học sinh Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng khi chúng hợp thức hoá sự xâm lăng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và gần đây để cho các nam nữ thanh niên Trung Hoa , với thái độ ngang nhiên và hống hách, cầm cờ Trung cộng đi theo bảo vệ cuộc rước đuốc Olympic tại Sài Gòn vào ngày 29/04/2008 vừa qua. Do sự luồn cúi hèn hạ đó mà tập đoàn cầm quyền Hà Nội từ thời Hồ Chí Minh đến nay vẫn chỉ thị cho báo chí và các phương tiện truyền thông, kể cả các giấy tờ giao dịch với Trung Hoa đều nhất nhất dùng từ “Tung Quốc” thay vì dùng từ Trung Hoa, để lấy điểm với Trung Nam Hải.

Nói một cách trung thực thì dưới thời VNCH, báo chí, sách vở chúng ta cũng thường dùng từ “Trung Quốc” khi đề cập đến nước Trung Hoa, nhưng đó là chỉ do thói quen hay vì những liên hệ thuộc lãnh vực văn hoá, lịch sử được lưu truyền từ bao đời trước chứ không do chủ trương chịu nô lệ Tàu như ở miền Bắc !

Đối với Trung Hoa việc dùng từ “Trung Quốc” để gọi nước mình ngày nay là có ý đồ chính trị chứ không chỉ có tính cách lịch sử. Như trên chúng ta đã biết, nước Trung Hoa là một nước lớn, đất rộng dân đông, có nền văn hoá cao và rất hùng mạnh về quân sự ; Hán tộc lại là một dân tộc có đầu óc rất tự tôn, kỳ thị chủng tộc, có não trạng thực dân “Đại nhất thống thiên hạ”, luôn luôn theo đuổi tham vọng bành trướng đất đai và thế lực. Sau thời gian bị Tây Phương, Nhật bản xâu xé và khinh bỉ, khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ Hoa lục tuyên bố thành lập nước Trung Hoa độc lập theo thể chế cộng sản, lòng tự ái dân tộc được vực dậy. Mao Trạch Đông đã khôn khéo kích thích tinh thần quốc gia cực đoan của nhân dân Trung Hoa hầu che đậy sự cai trị độc đoán, tàn bạo và những thất bại về chính trị của chế độ cộng sản. Não trạng bành trướng lại được tái lập và có cơ hội thực hiện. Chính sách Đại Hán được áp dụng triệt để : Trung Cộng muốn chiếm toàn nước Mông cổ nhưng bị Nga sô can thiệp nên chỉ chiếm được vùng Nội Mông. Chiếm lại toàn bộ vùng Tân Cương và đe doạ các nước Hồi giáo vùng Trung Á. Năm 1950 Trung cộng xua quân chiếm Tây Tạng, triệt hạ các tu viện, giải thể Phật giáo Tây Tạng và đang tiến hành kế hoạch xoá bỏ nền văn hoá truyền thống của Tây Tạng, đưa một số rất đông người Hán lên định cư tại đây để lấn áp dân Tây Tạng hầu sớm đồng hoá dân tộc hiền hoà nầy. Trung Cộng cũng đã xua quân lấn chiếm hàng ngàn cây số vuông tại vùng biên giới phía bắc của Ấn Độ. Yểm trợ cho quân du kích Maoist lũng đoạn chính quyền vương quốc Népal. Chiếm một phần lãnh thổ phía đông bắc Tajikistan. Nhưng nạn nhân dai dẳng nhất và hiện nay là miếng mồi ngon nhất màTrung Hoa rất thèm thuồng chính là Việt Nam. Vì nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng : Là cửa ngõ tiến vào Đông Nam Á, bờ biển có nhiều vịnh thiên nhiên rất có giá trị về mặt quân sự, có một thềm lục địa rộng lớn về phía đông với nhiều mỏ dầu khí và nhiều hải sản, là hải đạo quan trọng trong việc giao thương và tiếp tế dầu khí, hàng hoá cho vùng bắc Á. Chính vì lý do nêu trên nên giới cầm quyền của Trung Cộng đang dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, áp lực, khống chế tập đoàn cầm quyền Việt Nam đương đại để thủ lợi tối đa. Hậu quả của chủ trương nầy là bọn chóp bu Việt cộng chấp nhận cúi đầu xin làm nô lệ cho Trung Cộng, bán đứng đất đai của Cha Ông để tiếp tục được giữ độc quyền cai trị như đã trình bày ở đoạn trên.

Mặc dầu các công ước quốc tế qui định rằng mọi quốc gia dù lớn dù nhỏ đều có quyền bình đẳng như nhau, các quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác, và khuyến cáo nên dùng lề lối thương thuyết để giải quyết mọi tranh chấp về đất đai, nếu có, chứ không được dùng vũ lực để áp đảo đối phương, và mặc dù Trung Hoa là một trong 5 hội viên thường trực của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, thế nhưng Trung Cộng không cần quan tâm đến những qui định nầy, luôn luôn dùng vũ lực để lấn chiếm đất đai của các nước lân cận, hoặc dùng những phương cách mờ ám để lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải của các nước khác, rồi lại dùng thái độ kẻ cả của nước lớn giải thích lấp liếm. Trong gần nữa thế kỷ vừa qua, Trung Cộng đã nhiều lần công bố rằng lãnh thổ Trung Hoa bao trùm cả vùng Đông Nam Á và đã nhiều lần đưa ra các chứng cớ giả mạo để chứng minh rằng từ xa xưa những vùng đất đó đã từng là lãnh thổ của tổ tiên họ. Điều đó chứng tỏ rằng Trung Cộng công khai bày tỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ trong vùng Đông Nam Á và còn dòm ngó đến các nước tiếp cận với khu vực trên. Tham vọng của Trung Cộng hiện nay đang đe doạ tình hình an ninh chẳng những của các nước Đông Nam Á mà còn đe doạ cả tình hình an ninh toàn thế giới. Với sự phát triển khá nhanh về kinh tế và với tiềm năng quân sự lớn trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, và với lợi thế là hội viên thường trực của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Trung Cộng đang dùng những phương cách quỉ mị, mờ ám để dụ dỗ, tán trợ lôi kéo các nước kém mở mang có chế độ độc tài, quân phiệt về phe với mình để gây uy thế hầu lũng đoạn thế giới, tạo sự bất ổn thường xuyên trên trường quốc tế để thủ lợi. Bất chấp luật lệ quốc tế, bất chấp các tiêu chuẩn đạo đức của thời đại văn minh được qui định trong các công ước quốc tế mà Trung Cộng đã long trong ký kết, Trung Cộng đang dùng những phương thức lạc hậu thời trung cổ để thực hiện giấc mơ làm chủ thế giới của mình ! Là một nước đất rộng vào hàng thứ ba, thứ tư của thế giới, có dân số đông nhất hoàn cầu, có nền kinh tế đang phát triển nhanh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao và có tiềm năng quân sự đáng kể, đang nuôi một tham vọng vô bờ bến là “Đại Nhất Thống Thiên Hạ” mà lại có thói quen rất nguy hiểm là chuyên dùng vũ lực đểù áp chế kẻ khác, Trung Cộng thật sự là một tai hoạ đối với nhân loại trong tương lai !

Ngày xưa khi kiến thức về điạ lý còn bị hạn chế do phương tiện di chuyển khó khăn, Hán tộc, với sự tự cao tự đại đã lầm tưởng mình là nước văn minh nhất, hùng cường nhất nằm ở “trung tâm của thiên hạ” nên đã tự xưng là “Trung Quốc”. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹthuật, Trung Cộng biết rõ là không có một nước nào là nằm ở trung tâm thế giới về mặt địa lý, thế mà họ vẫn tự xưng nước mình là “Trung Quốc” hẳn có một dụng ý ! Dụng ý đó là họ tự cho Trung Hoa là trung tâm quyền lực của thế giới ! Trung Cộng đang từng bước cố làm hiển lộ cái vị thế “Trung Quốc” của Trung Hoa mà Việt Nam là nạn nhân trực tiếp đầu tiên !

Qua phần trình bày trên, chúng tôi đã nhắc lại cho quí vị thấy rằng tham vọng thôn tính/đồng hoá Việt Nam của Trung Hoa là một chủ trương liên tục và bất di bất dịch. Chúng tôi cũng nhắc nhở cho quí vị thấy rằng Việt Nam ta đang còn vận bỉ nên đất nước bị một lũ vô tài bất tướng, vừa dốt, vừa tham lại vừa hèn thống trị. Bọn chúng chỉ biết quyền lợi của cá nhân và của ác đảng Cộng sản mà không lý gì đến Quốc Gia Dân tộc mặc dầu hàng ngày vẫn dùng chiêu bài “yêu nước”, “yêu Tổ Quốc” để lừa mị dân. Chúng tôi cũng giới thiệu cho quí vị thấy nguồn gốc của từ “Trung Quốc”, ý nghĩa của nó qua các thời kỳ lịch sử và ẩn ý chính trị của từ nầy với tham vọng quyền lực của giới cầm quyền Trung Cộng hiện nay. Chúng tôi cũng đã lượt qua cho quí vị thấy lý do tại sao Tổ Tiên ta chấp nhận đến trở thành thói quen dùng từ “Trung Quốc” để tôn xưng Trung Hoa và cũng chỉ rõ ý đồ hèn hạ của tập đoàn cầm quyền trong nước đã và đang ru ngủ dân chúng tiếp tục thói quen gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” để lấy lòng nhà cầm quyền Trung Hoa. Và… vừa qua, khi Trung Cộng hợp thức hoá việc xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người Việt Nam trên khắp năm châu bốn bể đã phản ứng một cách gay gắt, quyết liệt trước hành động xâm lăng trắng trợn nầy. Đủ thấy tinh thần yêu nước của đồng bào ta vẫn nồng nàn, vẫn tha thiết… Đủ thấy mối thù truyền kiếp của dân tộc ta đối với bọn xâm lăng phương bắc không hề bị phai nhạt ! Đủ thấy người Việt chúng ta không bao giờ quên cái nhục bị Trung Cộng chèn ép, lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải của ta hiện nay. Đủ thấy chúng ta không bao giờ tha thứ cho lũ chóp bu của đảng Cộng sản Việt Nam về tội phản quốc, bán biển bán đất của tiền nhân để lại cho Trung Cộng.

Với những lý do trên đây, chúng tôi đề nghị người VN chúng ta, đặc biệt là đống bào đang sống ở Hải Ngoại, hãy xét lại có nên tiếp tục dùng từ “Trung Quốc để gọi nước Trung Hoa hay không ? Sau đây là những lý cớ để xem xét:

    1. Chữ “quốc” trong từ “Trung Quốc” nó không mang một ý nghĩa bình thường như là một chữ ghép được đặt sau tên một nước để gọi nước đó như Mỹ quốc, Áo quốc… mà nó mang một ý nghĩa chỉ vị trí, có tính cách địa lý : “Trung Quốc” là nước ở trung tâm, hàm ý là “nước ở trung tâm thế giới”. Nhưng ngày nay chúng ta biết rõ rằng trái đất hình cầu nên không có nơi nào là trung tâm cả, không có nước nào nằm ở “trung tâm thế giới” cả.

    2. Từ “Trung Quốc” mang dấu ấn lịch sử : Từ ngàn năm xưa Tổ Tiên người Việt đã dùng như vậy thì nay cứ tiếp tục dùng. Lý cớ nầy không đứng vững vì chúng ta biết vì hoàn cảnh đặc biệt, Tổ Tiên ta bị bắt buộc phải dùng như vậy. Ngày nay hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, bối cảnh thế giới cũng đã khác trước, chúng ta không còn bị áp đặt phải dùng từ “Trung Quốc” như xưa nữa.

    3. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta chống cộng nhưng từ “Trung Quốc” vẫn được dùng để chỉ Trung Hoa, nên nay không có gì cần xem xét lại cả ! Luận cứ nầy chỉ đúng một phần vì lúc đó mặc dầu chúng ta vẫn chống cộng nhưng Trung Cộng không là một đe doạ trực tiếp đối với Việt Nam Cộng Hoà cho mãi đến khi chúng xua quân xâm lăng Hoàng Sa. Hơn nữa cách gọi nầy chỉ là do thói quen, nay cục diện thế giới thay đổi, chúng ta cũng cần thay đổi cách dùng cho hợp lý hơn.

    4. Từ Hồ Chí Minh đến nay, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam chịu làm nô lệ cho Trung Hoa để trục lợi cho tập đoàn cầm quyền nên đã tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc”. Đồng bào trong nước sống dưới ách kìm kẹp của đảng Cộng sản tất nhiên phải làm theo những gì mà đảng và nhà nước muốn. Chúng ta không chấp nhận sự cai trị của Việt Cộng (tức Cộng sản Việt Nam) đã bỏ nước ra đi tìm tự do. Hiện tại chúng ta không bị đảng và nhà nước Việt cộng khống chế, vậy chúng ta cần gì phải làm theo những gì mà đảng và nhà nước Việt cộng muốn ?

    5. Vì tính “dễ dãi”, nghe thấy các phương tiện truyền thông và báo chí trong nước dùng từ “Trung Quốc” để chỉ Trung Hoa nên chúng ta dùng theo ! Đây là một thực tế, nhưng là một thực tế đáng tội nghiệp ! Người Việt sống ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 từng hãnh diện là kẻ được truyền thừa di sản văn hoá dân tộc Việt : Nếp sống, âm nhạc, cách dùng từ ngữ…không bị lai căn bởi ảnh hưởng của Trung Cộng, vậy thì nay người Việt Quốc Gia sống ở Hải Ngoại có còn giữ được bản chất đó không ? Có còn hãnh diện là kẻ thừa kế nền văn hoá dân tộc không ? Tại sao chúng ta lại nhất nhất bắt chước những gì trong nước dùng ? Hay giới trí thức, giới cầm bút tại Hải Ngoại không đủ khả năng sáng tạo ? Chúng ta không quá khích, không chống Cộng theo cảm tính, biết chắt lọc những cái hay cái tốt để dùng, nhưng chúng ta phải có bản sắc riêng, không “dễ dãi” bắt chước càn dở như vậy được. Vấn nạn nầy xin nhường lại cho quí vị có trách nhiệm trả lời !

    6. Tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh đang có tham vọng “Đại Nhất Thống Thiên Hạ”, muốn đặt cả thế giới dưới sự cại quản của Trung Hoa. Họ dùng từ “Trung Quốc” để ngầm chỉ Trung Hoa là trung tâm quyền lực của thế giới, là “cái rốn của vũ trụ”. Nay chúng ta dùng từ “Trung Quốc” để chỉ nước Trung Hoa là vô tình tán trợ tham vọng ngông cuồng của tập đoàn Trung Nam Hải mà nạn nhân đầu tiên chính là Việt Nam ta !

    7. Tên gọi chính thức của nước Trung Hoa được chính chính phủ Trung Hoa công bố vào ngày 01/10/1949 là “Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc”, gọi theo cách Việt Nam là “ Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa”. Nếu tỉnh lược thì gọi là Trung Hoa. Vã lại từ “Trung Quốc” chưa bao giờ được dùng làm quốc hiệu của Trung Hoa cả, vậy tại sao chúng ta không dùng từ Trung Hoa mà lại dùng từ “Trung Quốc” ? Chúng ta đâu phải là người Hoa hay dân nô lệ của Trung Hoa mà bắt chước cách gọi tự tôn đó của họ ?

Tóm lại, qua các biện giải trên, chúng tôi đề nghị từ nay người Việt tại Hải Ngoại không nên gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” nữa. Đề nghị giới cầm bút, quí vị làm công tác truyền thông, báo chí cố gắng sửa cái thói quen không mấy hay ho nầy. Người xưa thường dùng thành ngữ : “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, để chỉ tình trạng bất nhất khi thực hiện một việc gì. Chúng ta phản đối, lên án Trung Cộng lấn chiếm đất đai của chúng ta mà chúng ta lại đi bắt chước Việt cộng tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc” e có trái khuấy lắm không !

Vã lại chúng ta vẫn đang theo đuổi cuộc chiến đấu để giải thể chế độ Cộng sản độc hại hầu cứu đất nước thoát khỏi nạn trì trệ, tham ô nhũng lạm, ô nhiểm môi trường, cứu dân tộc thoát khỏi tình trạng phá sản về luân lý, đạo đức, giáo dục … nên cần có một chiến tuyến vững, một hậu phương mạnh. Hải Ngoại có đủ điều kiện để đảm trách nhiệm vụ nầy. Chúng ta phải biết suy nghĩ đúng, vì tư tưởng sẽ dẫn dắt hành động. Trước hết chúng ta cần điều chỉnh thói quen, không gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” nữa, để thể hiện tính độc lập không những đối với trong nước mà còn đối với quá khứ, và cũng chứng tỏ rằng việc chống tham vọng bành trướng của Trung Cộng là một việc làm có ý thức chứ không phải một phản ứng nhất thời theo “phong trào”. Đây tuy là một việc làm đơn giản, có vẻ nhỏ nhặt, nhưng rất quan trọng, vì là điểm khởi đầu, điểm then chốt ! Một khi Hải Ngoại tuyệt đối không dùng từ “Trung Quốc” để “gọi” nước và người Trung Hoa nữa thì sẽ khiến cho quốc nội suy tư về thái độ nầy, sẽ “ngộ” và dần dần tìm cách gở cái ách nô lệ tinh thần mà tập đoàn cầm quyền Hà Nội cố ý tròng vào cổ của họ. Quốc nội sẽ tin tưởng quyết tâm của Hải Ngoại, sẽ ý thức được vai trò và tiềm lực của mình. Quốc nội sẽ tiếp tay với Hải Ngoại. Ban đầu chỉ là để phản đối hành động xâm lăng của Trung Cộng bằng hình thức “tiêu cực” và vô hại nhất, lần lần sẽ phát triển đến chỗ lơ là đối với các lệnh lạc (bất tuân xã hội dân sự) mà đảng/nhà nước Việt cộng không có đủ lý cớ để đàn áp. Ngược lại nếu người Việt Hải Ngoại không từ bỏ nổi thói quen đơn giản là "không gọi Trung Hoa là Trung Quốc nữa” thì chẳng những chủ trương chống tham vọng bành trướng của Trung Hoa chỉ là phong trào, có tính cách nhất thời, sẽ mai một theo thời gian mà cả hoài bảo giải thể chế độ Cộng Sản tại Quốc Nội mãi mãi chỉ là hoài bảo mà thôi !

Kim Khôi

Tài liệu tham khảo:

- Cung Đình Thanh. Tìm về nguồn gốc Văn Minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học. NXB Tư Tưởng, Sydney, Australia, 2003.
- Phạm Trần Anh. Cội Nguồn Việt Tộc. Việt Nam, 2004.
- Ngô Bạch. Đàm Thiên, Thuyết Địa, Luận Nhân.(Trương Huyền lược dịch). NXB Mũi Cà Mâu, 1997.
- Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. NSB Miền Nam, 1971.
- Lịch sử Trung Hoa. Tự điển mở Wikipedia.

Sunday, August 2, 2009

Hãy Chận Đứng Cuộc Chiến Mới Ở Việt Nam

    Hãy Chận Đứng Cuộc Chiến Mới Ở Việt Nam: Cộng Sản Đang Tấn Công Các Linh Mục Công Giáo!
Source: http://www.catholic.org/international/international_story.php?id=34174#email_this

Nguyên tác tiếng Anh, bản dịch của Trần-Quốc-Việt
Xin vui lòng phổ biến rộng rãi.

Các tín đồ Công Giáo Việt Nam đang tràn ra ngoài đường để phản đối Phỉ Quyền Cộng Sản đã tấn công các Linh Mục Công Giáo và khủng bố những ai tin theo đức tin Công Giáo. Họ có được sự ủng hộ của tín đồ Thiên Chúa Giáo trên thế giới không?
Các tín đồ Công Giáo Việt Nam đang tràn ra
ngoài đường để phản đối Phỉ Quyền Cộng Sản
đã tấn công các Linh Mục Công Giáo và khủng
bố những ai tin theo đức tin Công Giáo. Họ có
được sự ủng hộ của tín đồ Thiên Chúa Giáo trên
thế giới không?
HANOI (Catholic Online) – Những bản tin gởi ra từ những cuộc biểu tình từ trong nước Việt Nam Cộng Sản là thực tế, mà một số ít người biết trong khi chúng ta đã lầm lẫn nghĩ rằng chúng ta đã được sang mắt ra, đó là sự hiện hữu của ma qủy. Cuộc chiến này đòi hỏi thế giới phải có phản ứng cấp thời và hữu hiệu. Chiến Tranh Việt Nam Mới đang diễn ra bởi kẻ thù của sự sống, của tự do và của chân lý giải phóng đang tấn công các Linh Mục Việt Nam!

Cái cặn bã còn xót lại của cái tư tưởng phi nhân đạo mang đầy tai vạ cho nhân loại gọi là Tư Tưởng Mao Trạch Đông giờ đây đã xoay nòng súng giận dữ vào đức tin Thiên Chúa Giáo là sự nhân đạo chân chính và cũng là kẻ thù vĩ đại nhất của Cộng Sản. Sự viên mãn của Đức Tin Thiên Chúa Giáo, với sự hệ thống phát triển xã hội duy nhất của sự hiện thực những điều mới mẻ và nhân đạo chân thực để khả dĩ soi đường cho phong trào xã hội mới, đó là Đức Tin Công Giáo. Đó là lý do tại sao bọn tôi mọi của Sa Tăng và cũng là những kẻ truyền nhiễm những ý thức hệ phi nhân đạo như Marxism đã chủ ý tấn công và khủng bố Giáo Hội Công Giáo bằng cách tấn công những người chủ chăn để làm tan vỡ đàn chiên. (Zech 13:7)

Những kẻ theo chủ nghiã Marxist chưa hề chết, chúng chỉ tái sinh lại. Kẻ sáng lập và bọn theo đuôi tự nhận là con người mới được tạo nên bởi Đảng Viên Cộng Sản đang thao tác và điều khiển guồng máy chính trị và kinh tế, chúng luôn luôn thay đổi luận điệu tuyên truyền và cương quyết bám víu vào luận điệu dối trá xảo quyệt đã cũ kỹ. Trong thời đại mới Đức Giáo Hoàng Benedict đã đặt tên cho chúng thật chính xác là “Nền chuyên chính của chủ nghĩa tương đối”, Cộng Sản chối bỏ tất cả mọi sự thật đã được phơi bày, và một lần nữa, chúng đã tìm lại con đường cũ.

Cho đến ngày hôm nay ở Việt Nam, bọn Việt Gian Cộng Phỉ vẫn chưa từng thay đổi như lời tuyên truyền xảo quyệt của chúng. Chủ Nghĩa Marxism, và bản chất ma qủy của nó. Cái ý thức hệ chống lại sự sống, chống lại tự do, và chống lại nhân loại của cách mạng văn hóa của bạo chúa Mao Trạch Đông , liên tục đẩy mạnh sách lược của chúng trong những quốc gia đỡ đầu cho bạo lực. Kẻ thù vĩ đại nhất của chúng vẫn chỉ là chiến sĩ vô địch của chân lý tự do, đó là Giáo Hội Công Giáo và thông điệp tuyên xưng chân lý giải phóng nhân loại trong Chúa Ky Tô.

Chiến Tranh mới đã bùng nổ ở Việt Nam. Tuy nhiên, thế giới đã không để ý nhiều đến chuyện này. Đoàn quân của ý thức hệ phi nhân đạo của cái gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông đang ào ạt tấn công các Linh Mục Công Giáo. Như bạn đã thấy, Những Giáo Hội nào tuyên xưng rằng con đường duy nhất để tiến tới nhân bản mới là phải qua sự sống, sự chết, sự phục sinh và lên trời của Chúa Giê Su Ky Tô, con người mới, là con người mà cái thể chất nhân bản thánh thiện của ngài bộc lộ ra một nhân bản mới và qua sự chết để chuộc tội nhân loại của ngài để khả dĩ những ai chấp nhận và sống theo đức tin đó thì có thể vượt thắng được sự cám dỗ bởi tội lỗi, vẫn là hiểm họa vĩ đại đối với sự gian trá của cái ý thức hệ phỉnh phờ của chủ nghĩa Vô Thần Marxism, và bản sao ma qủy của chúng là tư tưởng Mao Trạch Đông.

Nguồn tin mới nhất từ chế độ Phỉ Quyền Cộng Sản Việt Nam cho biết chúng đã bắt giữ bẩy tín đồ Công Giáo với lý do bất chính sau khi công an Cộng Sản đã có hành vi vô pháp luật khi chúng tấn công các tín đồ Công Giáo ở nhà thờ ở Tam Tòa sẽ bị đem ra xét xử trước phiên toà phi công lý (kangaroo court). Họ bị bắt không được tại ngoại hầu tra là điều hiển nhiên cho thấy Phỉ Quyền Cộng Sản đã vi phạm không những chỉ về luật tự nhiên mà rõ ràng không chối cãi được là chúng đã vi phạm cả luật quốc tế. Bản tin Asia cho biết rằng một vị Linh Mục Việt Nam đã bị công an của Phỉ Quyền Cộng Sản đánh đập tàn bạo trong khi ông đang giúp đỡ các tín đồ ngoan đạo cầu nguyện cho những người bị bắt giữ phi công lý, đã cám ơn Thượng Đế đã cho ông còn sống sót sau khi bị đánh đập tàn bạo.

Sự tức giận của cộng đồng thế giới ở đâu? Sự tức giận của Hoa Kỳ ở đâu? Chúng tôi yêu cầu độc giả khắp nơi trên thế giới hãy xoay chuyển làn sóng này. Hãy cầu nguyện cho những tín hữu đang bị khủng bố ở Việt Nam. Sau đó, theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, đấu tranh cứng rắn với tập đoàn Cộng Phỉ Việt Nam và bắt buộc chúng phải tôn trọng tất cả những quyền làm người và phải tuân hành theo luật tự nhiên và luật quy luật quốc tế.

Linh Mục của chúng ta đã bị tất công và đánh đập tàn bạo! Hãy trực diện với thảm họa là chuyện này đã thường xuyên xảy ra. Đúng vậy, ông Tertullian, sử gia của Giáo Hội đã nói rằng: “máu của các thánh tử vì đạo là hột giống của Giáo Hội!”. Thế nhưng, chúng ta vẫn phải làm tất cả những gì có thể làm trong phạm vi quyền lực của chúng ta để chận đứng những hành vi tấn công của ma qủy đối với các Linh Mục Việt Nam, và chống lại chân lý là điều có thể giải phóng nhân loại, thong điệp của Kinh Thánh của Chúa Giê Su.

Trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến những hành vi thù nghịch đối với Thiên Chúa Giáo đã gia tăng đến mực độ trở thành hiểm họa toàn cầu. Catholic Online vô cùng quan tâm đến vấn đề gia tăng sự bất dung dị đối với Thiên Chúa Giáo nhắm thẳng vào những tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo, và đặc biệt là các tín đồ Công Giáo nào đã hay là sẽ không chịu khuất phục, không từ bỏ đức tin trong lòng mình, và họ bảo vệ phẩm cách của mọi con người chống lại bất kể sự tấn công nào dù là ý thức hệ của Marxist hay Mao Trạch Đông hay chủ nghiã nhân bản thế tục và nền văn hóa của sự chết đã gia tăng trong xã hội Tây Phương đang trên chiều hướng suy thoái.

“Ám ảnh Thiên Chúa Giáo” là danh từ Đức Giáo Hoàng dùng để giải thích về sự gia tăng ý tưởng chống Thiên Chúa Giáo trong thời đại chúng ta. Sự kiện này đang lan rộng trong các cộng đồng Tây Phương, trong các Cộng Đồng Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới. Và bây giờ thì nó xuất hiện với khuynh hướng bạo tàn ở Việt Nam. Là cơ quan thông tín quốc tế chúng tôi thường xuyên báo cáo về hậu qủa sự việc này mỗi khi xảy ra.

Điều này rất hiển nhiên và sự phô diễn quyền lực nguy hiểm đã nhận ra trong việc Cộng Phỉ Việt Nam trực tiếp tấn công tiêu diệt tín đồ Công Giáo và các Linh Mục Việt Nam. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể làm để chấm dứt hành vi này của Phỉ Quyền Cộng Sản Việt Nam. Chúng ta phải chận đứng cuộc chiến mới ở Việt Nam!

Trong vài năm vừa qua chúng ta đã chứng kiến sự tấn công ác độc chống lại Thiên Chúa Giáo ở Iraq, hành vi thù nghịch chống lại Thiên Chúa Giáo lan tràn khắp nơi ở Trung Đông, những cuộc tấn công chống Thiên Chúa Giáo ở Á Châu, và đặc biệt là cuộc bạo động trí mạng ở Ấn Độ. Chúng ta đã thấy sự “Ám Ảnh Thiên Chúa Giáo” đầy ác độc này lan tràn tới không biết bao nhiêu chỗ tuy ít lộ liễu nhưng cái ý thức hệ xảo quyệt chống đối Thiên Chúa Giáo kích động rất nhiều những ý thức hệ khác như đối nghịch với sự sống, đối nghịch với gia đình và đối nghịch với tự do của xã hội Tây Phương đang trên đà suy thoái

Thật đáng buồn khi chúng ta đã không vùng lên như chúng ta có thể hay nên làm khi các tín hữu của chúng ta bị tấn công ở Iraq. Hay chúng ta đã chẳng có một phản ứng gì khi chúng tàn sát các tín hữu của chúng ta ở Ấn Độ! Chúng ta đã hành động qúa kém cỏi để thật sự phô bày sự nguy hiểm đối với Thiên Chúa Giáo trên mảnh đất mà Chúa Giê Su đã đi qua, chúng ta, những người Thiên Chúa Giáo đã thất bại trong việc canh phòng của mình.

Bây giờ chúng ta có thêm một cơ hội nữa. Mỉa mai thay nó đã xảy ra trên một một quốc gia mà nhiều người trong chúng ta, đặc biệt là người Mỹ, vẫn còn nhớ đến với sự hối tiếc, không cần biết chúng ta đứng về phía nào trong sự bại trận ở Chiến Tranh Việt Nam. Đó là chuyện xảy ra trong dĩ vãng, và đây là chuyện trong hiện tại. Một cuộc chiến mới đang được phất động ở Việt Nam. Chúng tấn công các Linh Mục Công Giáo và đang tìm cách ngăn chận tiếng nói của cuộc giải phóng thật sự của Giáo Hội Công Giáo, và lần này chúng ta không được thất bại.

Hãy vùng lên và bảo vệ tín hữu của chúng ta ở Việt Nam. Phải chận đứng cuộc chiến mới ở Việt Nam.

Phó tế Deacon Keith Fournier thỉnh cầu quý vị hãy giúp đỡ và tiếp tay với chúng tôi trong sứ mệnh sống còn này bằng cách gởi bài viết này đến than bằng quyến thuộc và hàng xóm của qúy vị và lien kết web site (www.catholic.com) vào website, blog hay social network của quý vị. Hãy loan truyền đi khắp nơi, CHÚNG TA HÃNH DIỆN LÀM NGƯỜI CÔNG GIÁO.

****
    Stop the New Vietnam War: Attacks on Catholic Priests!
By Deacon Keith Fournier
7/31/2009

Catholic Online (www.catholic.org)
Source: http://www.catholic.org/international/international_story.php?id=34174#email_this

There is a new “Vietnam War” underway. The enemies of life, freedom and true liberation are attacking Catholic priests in Vietnam!
Catholic Christians are pouring into the Streets of Vietnam protesting the attacks on Catholic Priests and the persecution of those who follow the ancient faith. Will they receive the support of their brethren throughout the world?Catholic Christians are pouring into the Streets of Vietnam protesting the attacks on Catholic Priests and the persecution of those who follow the ancient faith. Will they receive the support of their brethren throughout the world?
HANOI (Catholic Online) – The news out of Vietnam demonstrates a reality which few acknowledge these days when we mistakenly think we have become so “enlightened”, the existence of evil. It demands immediate global responsive action. There is a new “Vietnam War” underway. The enemies of life, freedom and true liberation are attacking Catholic priests in Vietnam!

The leftover remnant of the discredited and inhuman ideology of Maoism is now turning its ire against what has always been its greatest enemy, the only true humanism, the Christian faith. The fullness of that Christian faith, with the only systematic social development of the implications of that new and true humanism which can inform a new social movement, is the Catholic faith. That is why the denizens of death and the carriers of such a discredited ideology as Marxism have decided to strike against the Catholic Church by striking its shepherds and trying to scatter the sheep. (Zech 13:7)

Old Marxists never die, they just recreate themselves. Claiming, as their founders did, that the new man (or new woman) can somehow be created through a Statist manipulation of the political and economic order, they keep morphing into new expressions and pushing their old lies. In an age which has become what Pope Benedict rightly labeled a “dictatorship of relativism”, rejecting all truth claims, they are finding traction once again.

Yet, in Vietnam, they have not changed all that much in their message or their means. Marxism, and its evil clone, the anti-life, anti-freedom and anti-human ideology of the cultural revolution of the former tyrant, the Chairman Mao Zedong, continue to enforce their agenda through State sponsored violence. Their greatest enemy is still the only champion of true freedom, the Catholic Church and the message which she proclaims of true human liberation in Jesus Christ.

There is a new Vietnam War breaking out. However, the world is paying little or no attention. The storm troopers of the inhuman ideology of Maoism are attacking Catholic priests. You see, any Church that proclaims that the only way to a new humanity is through the life, death, resurrection and ascension of Jesus Christ, the New Man, who in his Sacred humanity reveals the new humanity and through his atoning death made it possible for all men and women to receive and live it by overcoming the separation caused by sin, is the still the greatest threat to the lies of the counterfeit ideology of atheistic Marxism and, its evil clone, Maoism.

Just recently, it was announced by the tyrant regime ruling Vietnam that seven Catholics who were wrongfully arrested after the illegal police action against the Catholics of the Church at Tam Toa will be prosecuted in a kangaroo court proceeding. They are being held without bail in a flagrant violation of not only the Natural law but clear and unquestionable mandates found in the international law. Asia news reports below that one of the priests, who was violently attacked while helping the faithful to pray for those wrongfully arrested, has, thank God, survived the brutal attack.

Where is the outrage in the international community? Where is the outrage in the United States of America? We ask our readers throughout the world to turn the tide. Pray for our persecuted brethren in Vietnam. Then, following the clear teaching of our Church, stand in solidarity with them and demand that they be afforded the full human rights that must be theirs in accordance with the Natural Law and the dictates of international law.

Our priests are being attacked! Let’s be honest, it is becoming a frequent reality. Yes, in the words of the great early Church historian Tertullian, “the blood of the martyrs is the seed of the church!” However, we must do everything within our power to stop this evil attack against them, and against the truth which alone can liberate all men and women, the message of the Gospel of Jesus Christ.

Over the last few years we have witnessed the growing hostility toward Christians as it reaches a global danger zone. Catholic Online is deeply concerned over the growing intolerance directed toward faithful Christians and, in particular, Catholics who have not and will not compromise on the heart of the Christian faith and their defense of the dignity of every human person against every kind of attack be it Marxist or Maoist ideology or the secular humanism and culture of death found increasingly in the decline of the West.

“Christianophobia” is a word coined by the Holy See to explain this growing anti-Christian sentiment in our age. It is spreading in the European community, in America and throughout the entire world. It is now showing its violent propensities in Vietnam. As an international news source we report on its effects regularly.

It’s most obvious and dangerous manifestation is found in the direct pogrom against Catholic Christians and their priests in Vietnam. We must do everything we can to bring it to an end. We must stop the new War in Vietnam!

Over the last few years we have witnessed the evil inflicted against Christians in Iraq, the anti-Christian hostility spreading throughout the entire Middle East, the attacks against Christians in Asia and, in particular, the deadly violence in India. We have seen this evil “Christianophobia” spread into countless other places through the less blatant but still insidious anti-Christian ideology fueling so much of the anti-life, anti-family and anti- freedom ideologies of the declining West.

Sadly, we did not rise up the way we could or should when our brethren were attacked in Iraq. Nor did we act when they killed our brethren in India! We have done little to truly expose the dangers faced by Christians in the land where Jesus walked. In short, we Christians have failed in our watch.

We have another chance now. Ironically it comes in the Nation which so many of us, particularly Americans, still remember with regret, no matter which “side” of the failed Vietnam War we stood on, the Nation of Vietnam. That was then and this is now. There is a new Vietnam War being waged. They are attacking Catholic priests and seeking to silence the voice of authentic liberation, the Catholic Church. We must not fail this time.

Rise up and defend our brethren in Vietnam. Stop the New War in Vietnam!
_______________

Deacon Keith Fournier asks that you join with us and help in this vital mission by sending this article to your family, friends, and neighbors and adding our link (www.catholic.org) to your own website, blog or social network. Let us broadcast, we are PROUD TO BE CATHOLIC!



Saturday, August 1, 2009

Vịnh Tiến Sĩ Giấy - Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/02/1909.

Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.

Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ giải nguyên ở trường Nam Ðịnh.

Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên người ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên Yên Ðỗ và làm quan dưới triều Tự Ðức.

Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.

Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên
    Vịnh Tiến Sĩ Giấy

    Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò,
    Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
    Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
    Giấy má nhà bay đáng mấy xu ?
    Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
    Bảng vàng bia đá vẩn nghìn thu.
    Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
    Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.

    Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
    Cũng gọi ông nghè có kém ai.
    Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, (2)
    Nét son điểm rõ mặt văn khôi. (3)
    Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ?
    Cái giá khoa danh thế mới hời. (4)
    Ghế tréo, lọng xanh, ngồi bảnh chọe,
    Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.

    Nguyễn Khuyến
1. hoa man: người thợ làm nghề hàng mã.
2. giáp bảng: bảng đề tên từ học vị tiến sĩ (thi đình) hay cử nhân (thi hương) trở lên. Trái với ất bảng đề tên những người đỗ phó bảng (thi đình) hay tú tài (thi hương).
3. văn khôi: đầu làng văn, chỉ người đỗ đạc cao.

TAM TÒA? CHUYỆN NHỎ! - Nguyễn Ngọc Tỉnh


Nguyễn Ngọc Tỉnh

Người người hiệp thông

Sau khi gửi thư đề ngày 21-07-2009 cấp báo về việc trên 20 giáo dân thuộc giáo xứ Tam Toà, Quảng Bình đã bị Công an Quảng Bình đánh đập tàn nhẫn và đang bị giam giữ, Toà Giám mục Giáo phận Vinh đã nhận được rất nhiều thư hiệp thông đến từ khắp nơi trong nước và cả từ nước ngoài. Người đầu tiên gửi thư hiệp thông là cha Phạm Văn Phương, giáo xứ Ngọc Xá, giáo phận Bắc Ninh, kế đến là cha Phạm Trung Thành, Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế. Tiếp theo sau là nhiều linh mục cũng như giáo dân. Đặc biệt có luật sự Lê Trần Luật, luật sư của anh chị em Thái Hà hiện đang gặp nhiều khó khăn, cũng biên thư hiệp thông và tuyên bố sẵn sàng giúp nếu anh chị em tín hữu Tam Toà cần sự “hỗ trợ pháp lý” (23-07-2009). Còn trong giới sinh viên, ngay sau khi hay tin anh Giu-se Nguyễn Văn Thông, Trưởng ban Đại diện Sinh viên Công Giáo địa phận Vinh tại Hà Nội bị bắt ngày 26-07-2009 thì ngày 27-07-2009 Hội Sinh viên Công Giáo Tổng Giáo Phận Hà Nội đã ra thông báo khẩn kêu gọi các bạn sinh viên hiệp thông cầu nguyện và ra tuyên cáo yêu cầu chính quyền trả tự do cho anh Thông. Còn ở hải ngoại, hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hiệp Truyền Thông Công Giáo ngày 25-07-2009 thì cùng ngày, cha Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch Liên đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã có thư hiệp thông gửi đức cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGM/VN nhân vụ Tam Toà. Và thư hiệp thông mới nhất là của đức cha Osca Solis thuộc Uỷ Ban Á châu Thái Bình Dương của Giáo phận Los Angeles, Hoa Kỳ gửi cha Nguyễn Thanh Liêm.
Lãnh đạo giáo phận Vinh

May cho Tam Toà là từ năm 2006 Tam Toà thuộc giáo phận Vinh (nếu còn thuộc giáo phận Huế, chẳng biết Tam Toà có được số phận may mắn hơn đan viện Thiên An hay không?). Người đứng đầu giáo phận Vinh là đức cha Phao-lô Ma-ri-a Cao Đình Thuyên, vị cao tuổi nhất trong các giám mục đương chức đã nổi tiếng từ vụ Thái Hà với lời tuyên bố đanh thép: “Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh”. Tuy đang ở nước ngoài, nhưng qua lá thư đề ngày 22-07-2009 viết tại Hoa Kỳ “gửi cha Tổng Đại Diện, quý cha, quý tu sĩ, chủng sinh và toàn thể anh chị em, cách riêng giáo dân Tam Toà, nhất là những anh chị em bị đánh đập và bắt giữ”, ngài tỏ ra an tâm, vì như lời ngài nói: “Tôi tin tưởng vào sự khôn ngoan và nhiệt thành của quý cha với gần 500 ngàn giáo dân giáo phận Vinh”. Khi cùng một số linh mục Vinh đến thăm Thái Hà, những lời tuyên bố cũng như cách làm của đức cha Thuyên cho thấy ngài đã có một chọn lựa dứt khoát: Đoàn kết mới đem lại sức mạnh, và tình đoàn kết phải được thể hiện qua việc làm, đúng như lời thánh Gia-cô-bê: đức tin không đi đôi với việc làm là đức tin chết. Nay nổ ra vụ Tam Toà, một địa điểm trong giáo phận của đức cha Thuyên, ngài viết: “Tôi an tâm hơn khi biết quý cha cùng tất cả anh chị em đang cùng ‘một lòng một ý’ làm nên sức mạnh của những người tin Chúa, và đang hết mình vì giáo phận trong tình hiệp thông và liên đới.” Và cứ nhìn những gì đã diễn ra trong giáo phận Vinh trong vụ Tam Toà cũng thấy đức giám mục Vinh có lý để an tâm: 7 giờ sáng Chúa nhật 26-07 vừa qua, tất cả các tín hữu Công Giáo đều tập trung về một trong 18 nhà thờ giáo hạt để cầu nguyện với con số tổng cộng trên 200.000. Các linh mục một lòng đoàn kết, cho thấy các ngài là những mục tử cương quyết cùng nhau bảo vệ đoàn chiên.

Sự im lặng đáng sợ

Trong khi ở trong nước cũng như từ nước ngoài, các tín hữu bày tỏ tình hiệp thông với Tam Toà như vừa nói ở trên, thì ở trong nước các giám mục hoàn toàn im hơi lặng tiếng, khiến nhiều người ngạc nhiên. Thật ra thì nếu nhìn lại các sự việc đã diễn ra trong những năm gần đây, ta sẽ không ngạc nhiên trước sự im lặng của các ngài, khi xảy ra vụ cha Nguyễn Văn Lý chẳng hạn. Chắc hẳn sự im lặng của các giám mục đã khiến Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nghĩ mình có lý do để tuyên bố với hãng CNN Hoa Kỳ: “HĐGM/VN và Toà Thánh Va-ti-can cũng đồng tình và ủng hộ việc xét xử linh mục Nguyễn Văn Lý” (Tuổi Trẻ ngày 07-07-2007). Ngay ngày hôm sau, 08-07-2007 đức cha Nguyễn Văn Hoà, Chủ Tịch HĐGM/VN đã phản ứng ngay. Ngài viết: “Câu trả lời của cụ Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết ‘HĐGM/VN và Toà Thánh Va-ti-can cũng đồng tình với chúng tôi’ là không đúng sự thật.”

Giả sử Chủ tịch Nước nói như thế này: “Ông linh mục Nguyễn Văn Lý vi phạm luật pháp Việt Nam thì bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, và bản án 8 năm tù giam là thoả đáng, bằng cớ là trong số các vị giám mục là lãnh đạo của ông linh mục Lý, không có vị nào lên tiếng phản đối hết”. Trong giả thuyết đó, chẳng biết đức cha Chủ tịch HĐGM/VN sẽ phản ứng như thế nào?.

Trở lại vụ Thái Hà

Vụ Thái Hà nổ ra ngay trước Hội nghị các giám mục tại Xuân Lộc. HĐGM/VN đã nhận được thư ông Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch UBND/Tp Hà Nội tố cáo “Toà Tổng giám mục Hà Nội mà đứng đầu là Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt và Nhà thờ Thái Hà, mà đứng đầu là linh mục Vũ Khởi Phụng cùng các giáo sỹ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Ngọc Nam Phong … đã kích động, lôi kéo giáo sỹ, giáo dân hoạt động tôn giáo trái pháp luật và có những hành vi vi phạm pháp luật, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn Thành phố”, văn thư đề ngày 23-07-2008. Trong văn thư trả lời đề ngày 25-09-2008, đức cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGM/VN trả lời rằng các vị nói trên “Không làm bất cứ điều gì ngược lại giáo luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo.” Lời thanh minh chỉ có bấy nhiêu. Hoá ra Đức Cha Chủ tịch HĐGM/VN không biết hay không nhớ tài liệu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chỉ cách Đại hội tại Xuân lộc có 6 năm, đó là lá thư ngỏ gửi lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà Nước Việt Nam nhân Hội nghị thường niên của HĐGM tại Hà Nội từ ngày 7 đến ngày 12-10-2002 trong đó các giám mục phản đối cơ chế xin-cho của chế độ. Và tội tầy đình của đức cha Ngô Quang Kiệt Tổng Giám mục Hà Nội là đã công khái phản bác cơ chế xin-cho đó trong cuộc họp với UBND Tp Hà Nội ngày 20-09-2008.

Một chút tưởng tượng

Nếu sau lời tuyên bố đức cha Ngô Quang Kiệt không làm bất cứ điều gì ngược lại giáo luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo, mà đức cha Chủ tịch HĐGM/VN nói thêm: “Khi phản đối cơ chế xin-cho, đức cha Ngô Quang Kiệt đã lấy lại lập trường của HĐGM/VN sau Hội nghị 2002 trong thư chung đã gửi các cơ quan luật pháp vào thời điểm nói trên”. Nếu có được một lời khẳng định như thế, mọi sự sẽ hoàn toàn khác so với những gì chúng ta chứng kiến thời gian vừa qua.

Thư ngỏ của HĐGM/VN năm 2002 vừa nói hoàn toàn đi theo nguyên tắc đồng hành với Dân Tộc của thư chung năm 1980. Nhưng nay nhìn lại, ta có cảm tưởng HĐGM/VN chỉ muốn đưa ra những nguyên tắc trừu tượng mà thôi chứ không đi vào thực tế, vì khi nổ ra những vấn đề xã hội như tham nhũng, dân oan, và gần đây nhất là vụ bauxite Tây Nguyên thì không thấy động tĩnh gì từ phía HĐGM, trong khi người người đều mạnh mẽ lên tiếng trước hiểm hoạ khôn lường đe doạ đến sự tồn vong của Dân Tộc.

Những vấn đề lớn

Có vẻ như khi nổ ra vấn đề bauxite, các giám mục Việt Nam đang bận tâm lo chuẩn bị cho chuyến đi “ad limina” nên phải tránh mọi động thái khiến Nhà Nước kiếm cớ gây khó dễ. Nay đi về bình an rồi thì lại phải lo nhiều chuyện lớn khác: nào là chuẩn bị mừng Năm Thánh 2010 kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, nào là ứng xử ra sao cho hợp với hoàn cảnh, vì cuối năm nay Chủ tịch Nước thăm Toà Thánh Va-ti-can, đưa quan hệ Việt Nam – Va-ti-can lên một tầm cao mới, biết đâu là thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường, và biết đâu Giáo Hội Việt Nam sẽ được vui mừng tiếp đón Đức Thánh Cha nhân chuyến công du của ngài sang Nam Triều Tiên vào năm 2011 ?. Bên cạnh những chuyện đại sự như thế, nhà thờ và nhà dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đâu có là gì, Tam Toà cũng thế, chỉ là chuyện nhỏ … Chẳng biết có phải đây là lý do khiến các giám mục Việt Nam giữ miệng làm thinh như ta đang chứng kiến.

Vài suy nghĩ

Hồi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Va-ti-can, có người bảo: sắp có bang giao giữa Toà Thánh và Việt Nam rồi. Tôi nói với mấy người bạn: Cứ chờ đi. Hồi Hội nghị Pa-ri, phải mất 6 tháng mới thoả thuận được về hình thù của cái bàn hội nghị, thì nay các phái đoàn của Toà Thánh cứ việc đi đi về về mòn cả dép, chưa chắc gì đã có bang giao. Điều này xem ra đúng. Mà giả như nay mai có một vị sứ thần Toà Thánh ở Hà Nội, thì ta cũng chớ vội mừng: thử hỏi tại thủ đô Hà Nội, ông đại sứ của cường quốc số 1 là Hoa Kỳ, đã làm được gì để chính quyền cộng sản Việt Nam bớt độc tài, thối nát ?. Còn chuyện đức giáo hoàng sang Việt Nam, thì trong hoàn cảnh bình thường, có người tín hữu nào lại không mong điều đó. Nhưng trong hoàn cảnh thực tế, có lẽ mơ điều đó chỉ là mơ chuyện hão huyền. Và giả như để có được một cuộc viếng thăm như thế, cái giá phải trả là ngậm miệng làm thinh mặc cho các nhà đấu tranh cho dân chủ cứ nối tiếp nhau vào tù, mặc cho chuyện khai thác Tây Nguyên cứ việc tiếp tục, dù chẳng lợi lộc gì về kinh tế, môi trường bị huỷ hoại, an ninh quốc phòng bị xâm phạm, nguy cơ tiếp nối “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu” là không tránh khỏi, mặc cho ngư dân ở nhà thì chết đói, mà ra biển thì bị tàu Trung Quốc tấn công, v.v… Cái giá phải trả thật là quá cao so với niềm vui được đón tiếp đức giáo hoàng. Điều ta còn phải lo âu là nếu lãnh đạo tôn giáo vì muốn yên thân lo việc đạo mà nhắm mắt làm ngơ cho bạo quyền mặc sức lộng hành, phỉ báng sự thật, bóp chết tự do, chà đạp công lý, thì liệu đạo Chúa Ki-tô trên đất nước này có còn là men trong bột, là muối cho đời nữa chăng ?

Kết luận

Là công dân Việt Nam, tôi thấm thía nỗi đau của người nông dân bị cướp đất, của ngư dân phải ở nhà nhịn đói, không dám đi ra biển, của những trí thức muốn xây dựng đất nước, nhưng chỉ vì dám nghĩ khác đảng cộng sản mà phải vào tù. Là tín hữu Chúa Ki-tô, tôi xót xa khi thấy anh chị em đồng đạo ở Thái Hà, ở Tam Toà bị bách hại. Nhất là tôi thất vọng trước vẻ thờ ơ lạnh lùng của những bậc cha mẹ của tôi trong đời sống đức tin. Nhưng tôi an tâm vững chí khi nhớ lại lời ông Moóc-đo-khai nói với hoàng hậu Ét-te:
    “Đến lúc này mà con vẫn cứ ngậm miệng làm thinh thì người tín hữu sẽ nhận được sự trợ giúp và giải cứu từ một nơi khác” (Et 4,14).
Sài-gòn, ngày 31 tháng 07 năm 2009
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh
pascaltinh@gmail.com

Đại hội bất thường của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu - tiểu bang Queensland - Hoàng Nguyên

Hoàng Nguyên

Kính thưa quý vị,

Chiều hôm qua, Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu, tiểu Bang Queensland đã triệu tập một đại hội bất thường để điều chỉnh phần danh xưng trong bảng điều lệ Anh ngữ. Mặc dù danh xưng tiếng Việt của CĐ là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu- Tiểu Bang Queensland nhưng trước đây danh xưng này không có ghi trong văn bản Anh ngữ, nay đại hội quyết định ghi thêm vào.

Việc tổ chức một đại hội bất thường ắt phải có lý do. Bạch Phượng của bản đài tường thuật như sau:

"BS Bùi Trọng Cường cho biết trong tình hình hiện nay, với nghị quyết 36, cộng sản VN đang tìm đủ mọi cách để lủng đoạn cơ chế CĐ NVTDUC như tạo ra những tranh chấp, lập ra những cộng đồng khác, v.v. nhằm gây xáo trộn và hoang mang cho đồng hương.

Cũng theo BS Bùi Trọng Cường, để ngăn chận âm mưu tiếm danh “cộng đồng”, các BCH CĐ NVTDUC liên bang và tiểu bang đã có ý kiến là đăng ký cả danh xưng tiếng Việt với cơ quan thẩm quyền tại mỗi tiểu bang. "

Kính thưa quý vị,

Theo lời tường thuật trên, chống trả nghị quyết 36 là lý do sâu xa, còn mục đích trước mắt là ngăn ngừa sự tiếm danh. Vậy tại sao trong thời điểm này lại cần một đại hội bất thường để ngăn ngừa sự tiếm danh?. Thưa quý vị, không biết có liên quan đến việc lo ngại sự tiếm danh hay không, nhưng gần đây có một hiện tượng đáng nhắc lại.

Kính thưa quý vị,

Theo chúng tôi được biết thì trong tháng qua, ở tiểu bang New South Wales (Sydney) có một tổ chức được ra đời mệnh danh là "Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Úc Châu". Thắc mắc mà đa số chúng ta muốn biết là tại sao Úc Châu, tiểu Bang NewSouth Wales đã có Cộng Đồng rồi, đó là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu - tiểu bang New South Wales, và CĐ này là một bộ phận của cơ chế CĐ liên bang, sinh hoạt chặt chẽ từ bấy lâu nay, mà bây giờ lại có thêm một số người muốn lập ra một CĐ khác?. Như vậy có lẽ những người chủ xướng tổ chức CĐ mới này cảm thấy không thỏa mãn với sinh hoạt hay điều lệ của CĐ sẵn có chăng?. Câu trả lời nằm trong bức thư ngỏ cua ông Võ văn Trung, thay mặt Ban Điều Hành Lâm Thời của tổ chức mang danh Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Úc Châu. Bức thư có đoạn như sau:

"Trong suốt thời gian dài trên 3 thập niên qua, đã có biết bao nhiêu Cộng đồng, Hội đoàn và Đoàn thể của người Việt được thành lập ra nhưng đa số đều hoạt động với tính cách kỷ niệm nhiều hơn là đấu tranh mang lại tự do, dân chủ cho toàn dân Việt Nam." (hết trích)

Kính thưa quý vị,

Thì ra quý vị chủ trương CĐ "Tỵ Nạn" ấy cảm thấy là CĐ NV Tự Do ÚC (và cả các đoàn thể khác) đấu tranh chưa đủ mạnh để mang lại tự do, dân chủ cho toàn dân VN. Mỗi người có một quan điểm khác nhau, cũng cùng là nửa ly nước, có người thấy đó là nửa ly nước đầy, có người thấy là nửa ly nước bị vơi. Trước việc một tổ chức mới được thành lập với danh xưng Cộng Đồng, chúng tôi xin được đưa một quan niệm về vai trò của Cộng Đồng.

CĐ của chúng ta chống Cộng và đó là lập trường. Song vai trò của CĐ không chỉ là đấu tranh chính trị mà còn là phát triển về mặt xã hội, bảo tồn văn hóa như giúp đỡ đồng hương trong quá trình hội nhập, tổ chức những sinh hoạt mang tính dân tộc vân vân. Do đó, trên chiều sâu nền tảng, CĐ là một tổ chức xã hội có lập trường chính trị chứ không phải là một tổ chức chính trị.

Nói như vậy không có nghĩa là CĐ NVTD ÚC không có những mũi tấn công chính trị vào VC một cách mạnh mẽ, một bằng chứng điển hình là trận đánh mà CĐ đã đẩy lùi chương trình VTV 4 của VC. Ngăn chận sự xâm nhập của VC đúng là trách nhiệm một phần của CĐ, nhưng việc vươn cánh tay dài về đấu tranh cho quốc nội mà bắt CĐ bao thầu luôn thì e là hơi quá tầm cho một cơ cấu mang nặng tính xã hội.

Về phương diện đấu tranh, trong ba thập niên qua, ở hải ngoại nói chung, và Úc châu nói riêng, đã có nhiều phong trào, lực lượng, đảng phái, liên minh chính trị. Đó là những mũi dùi đấu tranh cho tự do dân chủ cho VN. Mục đích chính, nếu không nói là duy nhất, của những tổ chức này là đấu tranh chính trị.

Đứng trên quan điểm vừa nói, chúng ta sẽ thấy CĐ NV TD ÚC là nửa ly nước đầy, hay dễ dãi hơn một chút, CĐ NV TD ÚC là một ly nước gần đầy, nghĩa là đã làm nhiệm vụ một cách tương đối tốt đẹp, so cùng các CĐ bạn ở hải ngoại. Còn theo quan điểm của các vị chủ trương CĐ "Tỵ Nạn" thì CĐ của quý vị ấy dường như bao thầu luôn vai trò của các phong trào, lực lượng, liên minh, đảng phái chính trị.

Kính thưa quý vị,

Nhân tiện đây, chúng tôi xin có vài hàng bàn về hai chữ nhóm chữ, một là "Cộng Đồng Người Việt Tự Do" và hai là "Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn".

Cả hai tính từ Tự Do và Tỵ Nạn đều có ý nghĩa chính trị, nhưng chữ Tự Do rộng nghĩa hơn. Tuy không có con số thống kê chính thức nhưng chúng ta đều biết có rất nhiều người Việt sống ở Úc, ở hải ngoại, yêu tự do, chống độc tài CS, mà không có tư cách tỵ nạn chính trị chính thức. Chẳng hạn như những người đi rời VN theo diện đoàn tụ gia đình. Điểm chính để phân biệt chúng ta và VC là chúng ta yêu tự do, chống độc tài, còn VC là độc tài, VC kềm kẹp tự do của đồng bào. Cho dù không sang Úc trong tư cách tỵ nạn, hễ yêu tự do, chống độc tài thì cùng đứng chung dưới một lập trường của người Việt Tự Do.

Nếu một mai VC đổi tên, bỏ mất chữ CS, nhưng vẫn độc tài, thì chính nghĩa của hai chữ Tự Do vẫn soi sáng lập trường của CĐ chúng ta.

Kính thưa quý vị,

Trong một đoạn khác, bức thư ngỏ của ông Võ văn Trung cũng có ghi như sau:

"CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN ÚC CHÂU cũng nhận định rằng, nếu tập thể người Việt tỵ nạn chân chính không có những hành động cụ thể hơn nữa về văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam tại hải ngoại, nơi chúng ta đang sinh sống thì e rằng thế hệ kế tiếp của chúng ta sẽ bị mai một và đồng hóa như những người bản địa trên khắp thế giới." (hết trích)

Một lần nữa, đây cũng là vấn đề cái nhìn về nửa ly nước.

Kính thưa quý vị,

Việc một tổ chức mang danh Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Úc Châu ra đời đã tạo nên một số sự bàn tán. Một số dư luận phản đối, một số khác thì cho rằng phản đối sự thành lập tổ chức CĐ NV Tỵ Nạn là không biết tôn trọng quyền tự do lập của người khác. Về pháp lý, quả thật một nhóm năm bảy người nào cũng có quyền lập hội và cũng có quyền sử dụng hai chữ Cộng Đồng trong danh xưng. Song về tình, về mặt truyền thống, Úc châu xưa nay đã có một cơ cấu CĐ nổi tiếng là bền chắc, nên việc lập ra một CĐ khác quả không hay bằng việc tham gia vào CĐ sẵn có và hướng sinh hoạt của CĐ này theo chiều hướng mong muốn.

Sự e dè của BS Bùi Trọng Cường là "cộng sản VN đang tìm đủ mọi cách để lũng đoạn cơ chế CĐ NVTD ÚC như tạo ra những tranh chấp, lập ra những cộng đồng khác, v.v. nhằm gây xáo trộn và hoang mang cho đồng hương" thật không phải là không có lý.

Hoàng Nguyên
hoang4eb@gmail.com