Friday, May 1, 2009

HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA


HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA

QUỐC HỘI LẬP HIẾN
Chung quyết trong phiên họp
Ngày 18 tháng 3 năm 1967


LỜI MỞ ÐẦU

Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Ðộc Lập Tự Do Dân Chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.

Chúng tôi một trăm mười bảy (117) Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến đại diện nhân dân Việt Nam, sau khi thảo luận, chầp thuận Bản Hiến Pháp sau đây:

* * *
    CHƯƠNG I: ÐIỀU KHOẢN CĂN BẢN
ÐIỀU 1

1. VIỆT NAM là một nước CỘNG HÒA, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
2. Chủ quyền Quốc Gia thuộc về toàn dân.

ÐIỀU 2

1. Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân.
2. Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái.

Ðồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc.

3. Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc.

ÐIỀU 3

Ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự Do, Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội.

ÐIỀU 4

1. Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức.

2. Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ.

ÐIỀU 5

1. Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.

2. Việt Nam Cộng Hòa cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phần xay dựng nền an ninh và hòa bình thế giới.
    CHƯƠNG II: QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN
ÐIỀU 6

1. Quốc Gia tôn trọng nhân phẩm.

2. Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản và danh dự của mọi công dân.

ÐIỀU 7

1. Quốc Gia tôn trọng và bảo vệ quyền an toàn cá nhân và quyền biện hộ.

2. Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ nếu không có mệnh lệnh hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền luật định, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp.

3. Bị can và thân nhân phải được thông báo tội trạng trong thờ hạn luật định. Mọi sự câu lưu phải đặt dưới quyền kiểm soát của cơ quan Tư Pháp.

4. Không ai có thể bị tra tấn, đe dọa hay cưỡng bách thú tội. Sự nhận tội vì tra tấn. Ðe dọa hay cưỡng bách không được coi là bằng chứng buộc tội.

5. Bị can phải được xét xử công khai và mau chóng.

6. Bị can có quyền được luật sư biện hộ dự kiến trong moi giai đoạn thẩm vấn kể cả trong cuộc điều tra sơ vấn.

7. Bị can về các tội Tiểu Hình, chưa có tiền án quá ba (3) tháng tù về các tội phạm cố ý, có thể được tại ngoại hầu tra nếu có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can về các tội tiểu hình. Có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn, nếu có thai trên ba (3) tháng.

8. Bị can được suy đoán là vô tội cho đến khi bản án xác nhận tội trạng trở thành nhất định.

Sự nghi vấn có lợi cho bị can

9. Bị can bị bắt giữ oan ức, sau khi được tuyên bố vô tội, có quyền đòi Quốc Gia bồi thường thiệt hại trong những điều kiện luật định.

10. Không ai có thể bị câu thúc thân thể vì thiếu nợ.

ÐIỀU 8

1. Ðời tư, nhà cửa và thư tín của công dân phải được tôn trọng.

2. Không ai được quyền xâm nhập, khám xét nơi cư trú và tịch thâu đồ vật của người dân, trừ khi có lệnh của Tòa Aùn hoặc cần bảo vệ an ninh và trật tự công cộng trong phạm vi luật định.

3. Luật pháp bảo vệ tánh cách riêng tư của thư tín, những hạn chế, nếu có phải do một (1) đạo luật qui định.

ÐIỀU 9

1. Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và không trái với thuần phong mỹ tục.

2. Quốc Gia không thừa nhận một tôn giáo nào là Quốc Giáo. Quốc Gia vô tư đối với sự phát triển của các tôn giáo.

ÐIỀU 10

1. Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục.

2. Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí.

3. Nền giáo dục Ðại Học được tự trị.

4. Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.

5. Quốc Gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật.

ÐIỀU 11

1. Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.

2. Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.

ÐIỀU 12

1. Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục.

2. Chế độ kiểm duyệt không được chấp nhận, ngoại trừ các bộ môn điện ảnh và kịch trường.

3. Một đạo luật sẽ ấn định qui chế báo chí.

ÐIỀU 13

1. Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp và lập hội trong phạm vi luật định.

2. Mọi công dân đều có quyền bầu cử , ứng cử và tham gia công vụ trên căn bản bình đẳng theo điều kiện và thể thức luật định.

3. Quốc Gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp.

ÐIỀU 14

Mọi công dân đều có quyền tự do cư trú, đi lại, xuất ngoại và hồi hương, ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do y tế, an ninh và quốc phòng.

ÐIỀU 15

1. Mọi công dân đều có quyền, có bổn phận làm việc và được hưởng thù lao tương xứng để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.

2. Quốc Gia nỗ lực tạo công việc làm cho mọi công dân.

ÐIỀU 16

Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được tôn trọng trong phạm vi và thể thức luật định.

ÐIỀU 17

1. Quốc Gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc Gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đình, săn sóc sản phụ và thai nhi.

2. Hôn nhân được đặt căn bản trên sự ưng thuận, sự bình đẳng và sự hợp tác giữa vợ chồng.

3. Quốc Gia tán trợ sự thuần nhất gia đình.

ÐIỀU 18

1. Quốc Gia nỗ lực thiết lập chế độ an ninh xã hội.

2. Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập chế độ cứu trợ xã hội và y tế công cộng.

3. Quốc Gia có nhiệm vụ nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử.

ÐIỀU 19

1. Quốc Gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.

2. Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân.

3. Sở hữu chủ các tài sản bị truất hữu hoặc trưng dụng vì lý do công ích phải được bồi thường nhanh chóng và thoả đáng theo thời giá.

ÐIỀU 20

1. Quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh được công nhận nhưng không được hành xử để nắm giữ độc quyền, độc chiếm hay thao túng thị trường.

2. Quốc Gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác kinh tế có tánh cách tương trợ.

3. Quốc Gia đặc biệt nâng đỡ những thành phần xã hội yếu kém về kinh tế.

ÐIỀU 21

Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.

ÐIỀU 22

Trên nguyên tắc quân bình giữa nghĩa vụ và quyền lợi, công nhân có quyền cử đại biểu tham gia quản trị xí nghiệp, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến lương bổng và điều kiện làm việc trong phạm vi và thể thức luật định.

ÐIỀU 23

1. Quân Nhân đắc cử vào các chức vụ dân cử, hay tham chánh tại cấp bậc trung ương phải được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương, tuỳ theo sự lựa chọn của đương sự.

2. Quân Nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái.

ÐIỀU 24

1. Quốc Gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam.

2. Quốc Gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số.

3. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số.

ÐIỀU 25

Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Hòa.

ÐIỀU 26

Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Hiến Pháp và tôn trọng luật pháp.

ÐIỀU 27

Mọi công dân đều có nghĩa vụ thi hành quân dịch theo luật định.

ÐIỀU 28

Mọi công dân đều có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định.

ÐIỀU 29

Mọi sự hạn chế các quyền công dân căn bản phải được qui định bởi một đạo luật có ấn định rõ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tánh cách thiết yếu của các quyền công dân căn bản vẫn không được vi phạm.
    CHƯƠNG III: LẬP PHÁP
ÐIỀU 30

Quyền Lập Pháp được quốc dân ủy nhiệm cho Quốc Hội.

Quốc Hội gồm hai viện:

- Hạ Nghị Viện.
- Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 31

Hạ Nghị Viện gồm từ một trăm (100) đến hai trăm (200) Dân Biểu.

1. Dân Biểu được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức đơn danh, trong từng đơn vị lớn nhất là tỉnh.

2. Nhiệm kỳ Dân Biểu là bốn (4) năm. Dân Biểu có thể được tái cử.

3. Cuộc bầu cử tân Hạ Nghị Viện sẽ được kết thúc chậm nhất là một (1) tháng trước khi pháp nhiệm cũ chấm dứt.

ÐIỀU 32

Ðược quyền ứng cử Dân Biểu những công dân:

1. Có Việt tịch từ khi mới sanh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất bảy (7) năm, hoặc đã thủ đắc hoặc hồi phục Việt tịch ít nhất năm (5) năm tính đến ngày bầu cử.

2. Ðủ hai mươi lăm (25) tuổi tính đến ngày bầu cử.

3. Ðược hưởng các quyền công dân.

4. Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.

5. Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Dân Biểu.

ÐIỀU 33

Thượng Nghị Viện gồm từ ba mươi (30) đến sáu mươi (60) Nghị Sĩ.

1. Nghị Sĩ được cử tri đoàn toàn quốc bầu lên trong một cuộc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức Liên Danh đa số. Mỗi Liên Danh gồm từ một phần sáu (1/6) đến một phần ba (1/3) tổng số Nghị Sĩ.

2. Nhiệm kỳ Nghị Sĩ là sáu (6) năm, mỗi ba (3) năm bầu lại phân nửa (1/2). Nghị Sĩ có thể được tái cử.

3. Các Nghị Sĩ trong pháp nhiệm đầu tiên sẽ được chia làm hai nhóm đều nhau, theo thể thức rút thăm. Nhóm thứ nhất có nhiệm kỳ sáu (6) năm, nhóm thứ hai có nhiệm kỳ ba (3) năm.

4. Cuộc bầu cử các tân Nghị Sĩ phải được tổ chức chậm nhất là một (1) tháng trước khi phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ chấm dứt pháp nhiệm.

ÐIỀU 34

Ðược quyền ứng cử Nghị Sĩ những công dân đủ ba mươi (30) tuổi tính đến ngày bầu cử, hội đủ các điều kiện dự liệu trong đạo luật bầu cử Nghị Sĩ và các điều kiện qui định ở Ðiều 32.

ÐIỀU 35

1. Trong trường hợp khống khuyết Dân Biểu vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức trong hạn ba (3) tháng, nếu sự khống khuyết xảy ra trên hai (2) năm trước ngày chấm dứt pháp nhiệm.

2. Trong trường hợp khô&ng khuyết Nghị Sĩ vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức chung với cuộc bầu cử phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ gần nhất.

ÐIỀU 36

Các thể thức và điều kiện ứng cử, bầu cử Dân Biểu và Nghị Sĩ, kể cả Dân Biểu đồng bào Thiểu số, sẽ do những đạo luật quy định.

ÐIỀU 37

1. Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ vì những sự phát biểu và biểu quyết tại Quốc Hội.

2. Trong suốt thời gian pháp nhiệm, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ, nếu không có sự chấp thuận của ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ.

3. Trong trường hợp quả tang phạm pháp, sự truy tố hay bắt giam sẽ được đình chỉ nếu có sự yêu cầu của Viện sở quan.

4. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền bảo mật về xuất xứ các tài liệu trình bày trước Quốc Hội.

5. Dân Biểu và Nghị Sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác.

6. Dân Biểu và Nghị Sĩ có thể phụ trách giảng huấn tại các trường đại học và cao đẳng kỹ thuật.

7. Dân Biểu, Nghị Sĩ và người hôn phối không thể tham dự những cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền.

ÐIỀU 38

1. Trong trường hợp can tội phản quốc hay các trọng tội khác, Dân Biểu hay Nghị Sĩ có thể bị Viện sở quan truất quyền.

2. Sự truất quyền phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ đề nghị.

3. Quyết định truất quyền phải được ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ chấp thuận.

4. Ðương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truất quyền.

ÐIỀU 39

Quốc Hội có thẩm quyền:

1. Biểu quyết các đạo luật.

2. Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

3. Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa.

4. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh.

5. Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chánh sách Quốc Gia.

6. Trong phạm vi mỗi viện, quyết định hợp thức hóa sự đắc cử của các Dân Biểu hay Nghị Sĩ.

ÐIỀU 40

1. Mỗi viện với một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ có quyền yêu cầu Thủ Tướng hay các nhân viên chính phủ ra trước Viện sở quan để trả lời các câu chất vấn về sự thi hành chánh sách quốc gia.

2. Chủ tịch Ủy Ban của mỗi viện có quyền yêu cầu các nhân viên chánh phủ tham dự các phiên họp của Uûy Ban để trình bày về các vấn đề liên quan đến Bộ sở quan.

ÐIỀU 41

Thượng Nghị Viện có quyền mở cuộc điều tra về sự thi hành chánh sách quốc gia và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất trình các tài liệu cần thiết cho cuộc điều tra này.

ÐIỀU 42

1. Quốc Hội có quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chánh phủ với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.

2. Nếu Tổng Thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực.

3. Trong trường hợp Tổng Thống khước từ, Quốc Hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Sự khuyến cáo sau này của Quốc Hội có hiệu lực kể từ ngày chung quyết.

ÐIỀU 43

1. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các dự án luật.

2. Tổng Thống có quyền đề nghị các dự thảo luật.

3. Các dự án luật và dự thảo luật, gọi chung là dự luật phải được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện.

4. Trong mọi trường hợp Hạ Nghị Viện chấp thuận hoặc bác bỏ một dự luật. Viện này đều chuyển dự luật sang văn phòng Thượng Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn.

5. Nếu Thượng Nghị Viện đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được chuyển sang Tổng Thống để ban hành hoặc sẽ bị bác bỏ.

6. Nếu Thượng Nghị Viện không đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được gởi về văn phòng Hạ Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn, kèm theo quyết nghị có viện dẫn lý do.

7. Trong trường hợp sau này, Hạ Nghị Viện có quyền chung quyết dự luật với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu.

8. Nếu Hạ Nghị Viện không hội đủ đa số hai phần ba (2/3) nói trên, quan điểm của Thượng Nghị Viện được coi là chung quyết.

9. Thời gian thảo luận và biểu quyết một dự luật tại Thượng Nghị Viện chỉ có thể bằng phân nửa (1/2) thời gian thảo luận và biểu quyết tại Hạ Nghị Viện. Thời gian thảo luận và chung quyết một dự luật tại Hạ Nghị Viện chỉ có thể gấp đôi thời gian thảo luận và biểu quyết tại Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 44

1. Các dự luật được Quốc Hội chung quyết sẽ được chuyển sang Tổng Thống trong thời hạn ba (3) ngày tròn.

2. Thời gian ban hành là mười lăm (15) ngày tròn kể từ ngày Tổng Thống tiếp nhận dự luật.

3. Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc Hội thẩm định, thời hạn ban hành là bảy (7) ngày tròn.

4. Nếu Tổng Thống không ban hành trong các thời hạn kể trên, dự luật đã được Quốc Hội biểu quyết đương nhiên thành luật và sẽ được Chủ Tịch Thượng Nghị Viện ban hành.

ÐIỀU 45

1. Trong thời hạn ban hành, Tổng Thống có quyền gởi thông điệp có viện dẫn lý do yêu cầu Quốc Hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản của dự luật.

2. Trong trường hợp này, Quốc Hội sẽ họp khoáng đại lưỡng viện để chung quyết dự luật vớ đa số quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nếu Quốc Hội chung quyết bác bỏ lời yêu cầu phúc nghị của Tổng Thống, dự luật đương nhiên thành luật và được chuyển sang Tổng Thống để ban hành.

ÐIỀU 46

1. Dự thảo ngân sách được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện trước ngày ba mươi tháng chín (30-09).

2. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các khoản chi mới nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.

3. Hạ Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi tháng mười một (30-11) và chuyển bản văn đã được chấp thuận đến văn phòng Thượng Nghị Viện chậm nhất là ngày một tháng mười hai (1-12).

4. Thượng Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi mốt tháng mười hai (31-12).

5. Trong thời hạn nói trên, nếu Thượng Nghị Viện yêu cầu Hạ Nghị Viện phúc nghị một hay nhiều điều khoản trong dự thảo ngân sách, thủ tục qui định tại điều 43 phải được áp dụng. Trường hợp này Tổng Thống có quyền ký sắc luật cho thi hành từng phần ngân sách tương đương với một phần mười hai (1/12) ngân sách thuộc tài khoá trước cho đến khi Hạ Nghị Viện chung quyết xong dự thảo ngân sách.

ÐIỀU 47

1. Mỗi Viện họp những khóa thường lệ và những khóa bất thường.

2. Hằng năm mỗi viện họp hai khóa thường lệ. Một khóa họp bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Tư dương lịch, một khóa họp bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không thể lâu quá chín mươi (90) ngày. Tuy nhiên Hạ Nghị Viện có thể triển hạn khóa họp để chung quyết dự thảo ngân sách.

3. Mỗi viện có thể triệu tập các khóa họp bất thường khi có sự yêu cầu của Tổng Thống hoặc một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ. Nế khóa họp bất thường do Tổng Thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp do Tổng Thống ấn định.

ÐIỀU48

1. Quốc Hội họp công khai trừ khi quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ hiện diện yêu cầu họp kín.

2. Trong các phiên họp công khai, biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các tài liệu trình bày tại Quốc Hội sẽ được đăng trên Công Báo.

ÐIỀU 49

1. Mỗi viện bầu Chủ Tịch và các nhân viên văn phòng.

2. Mỗi viện thành lập các Uûy Ban thường trực và các Ủy Ban đặc biệt.

3. Mỗi viện trọn quyền ấn định nội quy.

4. Văn phòng hai (2) viện ấn định thủ tục liên lạc và sinh hoạt giữa hai (2) viện.

ÐIỀU 50

1. Chủ Tịch Thượng Nghị Viện triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng đại lưỡng viện.

2. Trường hợp Chủ Tịch Thượng Nghị Viện bị ngăn trở, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện sẽ thay thế Chủ Tịch Thượng Nghị Viện trong nhiệm vụ này.
    CHƯƠNG IV: HÀNH PHÁP
ÐIỀU 51

Quyền Hành Pháp được Quốc Dân ủy nhiệm cho Tổng Thống

ÐIỀU 52

1. Tổng Thống và Phó Tổng Thống cùng đứng chung một liên danh, được cử tri toàn quốc bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.

2. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống là bốn (4) năm. Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể được tái cử một lần.

3. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống chấm dứt đúng mười hai (12) giờ trưa
ngày cuối cùng tháng thứ bốn mươi tám (48) kể từ ngày nhậm chức và nhiệm kỳ của tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống bắt đầu từ lức ấy.

4. Cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống được tổ chức vào ngày chúa nhật bốn (4) tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng Thống tại chức chấm dứt.

ÐIỀU 53

Ðược quyền ứng cử Tổng Thống hoạc Phó Tổng Thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây:

1. Có Việt tịch từ khi mới sanh ra và liên tục cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam ít nhất mười (10) năm tính đến ngày bầu cử.

Thời gian công cán và lưu vong chánh trị tại ngoại quốc được kể như thời gian cư ngụ tại nước nhà.

2. Ðủ ba mươi lăm (35) tuổi tính đến ngày bầu cử.

3. Ðược hưởng các quyền công dân.

4. Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.

5. Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 54

1. Tối cao Pháp viện lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức của cuộc bầu cử và tuyên bố kết quả.

2. Các ứng cử viên được hưởng đồng đều phương tiện trong cuộc vận động tuyển cử.

3. Một đạo luật sẽ qui định thể thức ứng cử và bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 55

Khi nhậm chức, Tổng Thống tuyên thệ trước quốc dân với sự chứng kiến của Tối cao Pháp viện và Quốc Hội: “Tôi long trọng tuyên thệ trước quốc dân sẽ bảo vệ Tổ Quốc, tôn trọng Hiến Pháp, phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc và tận lực làm tròn nhiệm vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa”.

ÐIỀU 56

1. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ trong những trường hợp:

a. Mệnh chung.

b. Từ chức.

c. Bị truất quyền.

d. Bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc Hội xác nhận với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa.

2. Trong trường hợp nhiệm vụ của Tổng Thống chấm dứt trên một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ.

Tổng Thống trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống cho nhiệm kỳ mới.

3. Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng Thống chấm dứt dưới một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống đến hết nhiệm kỳ, ngoại trừ trường hợp Tổng Thống bị truất quyền.

4. Nếu vì một lý do gì Phó Tổng Thống không thể đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 57

Tổng Thống ban hành các đạo luật trong thời hạn qui định ở điều 44.

ÐIỀU 58

1. Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng; theo đề nghị của Thủ Tướng, Tổng Thống bổ nhiệm các nhân viên Chánh Phủ.

2. Tổng Thống có quyền cải tổ toàn bộ hay một phần Chánh Phủ, hoặc tự ý, hoặc sau khi có khuyến cáo của Quốc Hội.

ÐIỀU 59

1. Tổng Thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng Nghị Viện:

a. Các trưởng nhiệm sở ngoại giao.

b. Viện Trưởng các viện Ðại Học.

2. Tổng Thống thay mặt Quốc Gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao.

3. Tổng Thống ký kết và sau khi được Quốc Hội phê chuẩn, ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

ÐIỀU 60

Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

ÐIỀU 61

1. Tổng Tống ban các loại huy chương.

2. Tổng Thống có quyền ân xá và ân giảm hình phạt các phạm nhân.

ÐIỀU 62

1. Tổng Thống hoạch định chánh sách quốc gia.

2. Tổng Thống chủ tọa Hội Ðồng Tổng Trưởng.

ÐIỀU 63

1. Tổng Thống tiếp xúc với Quốc Hội bằng thông điệp. Vào mỗi khóa họp thường lệ và mỗi khi thấy cần, Tổng Thống thông báo cho Quốc Hội biết tình hình quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chánh Phủ.

2. Thủ Tướng và các nhân viên Chánh Phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc Hội hoặc của các Ủy Ban để trình bày và giải thích về các vấn đề liên quan đến chánh sách quốc gia và sự thi hành chánh sách quốc gia.

ÐIỀU 64

1. Trong các trường hợp đặc biệt, Tổng Thống có thể ký sắc luật tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn lãnh thổ.

2. Quốc Hội phải được triệu tập chậm nhất mười hai (12) ngày kể từ ngày ban hành sắc luật để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bải bỏ.

3. Trong trường hợp Quốc Hội bải bỏ hoặc sửa đổi sắc luật của Tổng Thống, các tình trạng đặc biệt đã được ban hành sẽ chấm dứt hoặc thay đổi hiệu lực.

ÐIỀU 65

Trong tình trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử được, với sự chấp thuận của hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ, Tổng Thống có quyền lưu nhiệm một số các cơ quan dân cử và bổ nhiệm một số tỉnh trưởng.

ÐIỀU 66

1. Phó Tổng Thống là Chủ tịch hội đồng văn hóa giáo dục, hội đồng kinh tế xã hội và hội đồng các Sắc Tộc thiểu số.

2. Phó Tổng Thống không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào trong Chánh phủ.

ÐIỀU 67

1. Thủ Tướng điều khiển Chánh Phủ và các cơ cấu hành chánh quốc gia.

2. Thủ Tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chánh sách quốc gia trước Tổng Thống.

ÐIỀU 68

1. Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các nhân viên Chánh Phủ không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào thuộc lãnh vực tư, dù có thù lao hay không.

2. Trong mọi trường hợp người hôn phối của các vị này không được tham dự các cuộc đấu thầu hoặc kết ước với các cơ quan công quyền.

ÐIỀU 69

1. Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia có nhiệm vụ:

- Nghiên cứ các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng.

- Ðề nghị các biện pháp thích ứng để duy trì an ninh quốc gia.

- Ðề nghị tuyên bố tình trạng bắo động, giới nghiêm, khẩn trương hoặc chiến tranh.

- Ðề nghị tuyên chiến hay nghị hòa.

2. Tổng Thống là Chủ Tịch Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia.

ÐIỀU 70

1. Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.

2. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành nền hành chánh địa phương.

ÐIỀU 71

1. Các cơ quan quyết định và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành các tập thể địa phương phân quyền sẽ do cử tri bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.

2. Riêng ở cấp xã, xã trưởng có thể do hội đồng xã bầu lên trong số các hội viên hội đồng xã.

ÐIỀU 72

Các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền là:

- Xã trưởng ở cấp xã.
- Tỉnh trưởng ở cấp tỉnh.
- Thị trưởng ở cấp thị xãÐô trưởng ở thủ đô.

ÐIỀU 74

Chánh Phủ bổ nhiệm bên cạnh các Ðô Trưởng, Thị Trưởng, Xã Trưởng hai (2) viên chức có nhiệm vụ phụ tá về hành chánh và an ninh cùng các nhân viên hành chánh khác.

ÐIỀU 75

Nhân viên các cơ quan quyết nghị và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền có thể bị Tổng Thống giải nhiệm trong trường hợp vi phạm Hiến Pháp, luật pháp quốc gia hay chánh sách quốc gia.
    CHƯƠNG V: TƯ PHÁP
ÐIỀU 76

1. Quyền Tư Pháp độc lập, được ủy nhiệm cho Tối Cao Pháp Viện và được hành xử bởi các Thẩm Phán xử án.

2. Một đạo kuật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành ngành Tư Pháp.

ÐIỀU 77

Mọi Tòa Án phải do một đạo luật thiết lập với một thành phần Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố chuyên nghiệp và theo một thủ tục tôn trọng quyền biện hộ.

ÐIỀU 78

1. Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố được phân nhiệm rõ rệt và có qui chế riêng biệt.

2. Thẩm Phán xử án quyết định theo lương tâm và pháp luật dưới sự kiểm soát của Tối Cao Pháp Viện.

3. Thẩm Phán công tố theo dõi sự áp dụng luật pháp để bảo vệ trật tự công cộng dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp.

ÐIỀU 79

Thẩm Phán xử án chỉ có thể bị giải nhiệm trong trường hợp bị kết án, vi phạm kỷ luật hay bất lực về tinh thần hoặc thể chất.

ÐIỀU 80

1. Tối Cao Pháp Viện gồm từ chín (9) đến mười lăm (15) Thẩm Phán. Tối Cao Pháp Viện do Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống bổ nhiệm theo một danh sách ba mươi (30) người do Thẩm Phán Ðoàn, Công Tố Ðoàn và Luật Sư Ðoàn bầu lên.

2. Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện phải là những Thẩm Phán hay Luật Sư đã hành nghề ít nhất mười (10) năm trong ngành Tư Pháp.

3. Nhiệm kỳ của Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là sáu (6) năm.

4. Thành phần cử tri thuộc Thẩm Phán Ðoàn, Công Tố Ðoàn và Luật Sư Ðoàn phải đồng đều.

5. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Tối Cao Pháp Viện.

ÐIỀU 81

1. Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền giải thích Hiến Pháp, phán quyết về tánh cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tánh cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định và quyết định hành chánh.

2. Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chánh thể Cộng Hòa.

3. Trong trường hợp này, Tối Cao Pháp Viện sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập Pháp hoặc Hành Pháp có thể tham dự để trình bày quan điểm.

4. Những quyết định của Tối Cao Pháp Viện tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ đa số ba phần tư (3/4) tổng số Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện.

ÐIỀU 82

Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm.

ÐIỀU 83

Tối Cao Pháp Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư Pháp.

ÐIỀU 84

1. Hội Ðồng Thẩm Phán có nhiệm vụ:

- Ðề nghị bổ nhiệm, thăng thưởng, thuyên chuyển và chế tài về kỷ luật các Thẩm Phán xử án.

- Cố vấn Tối Cao Pháp Viện về các vấn đề liên quan đến ngành Tư Pháp.

3. Hội Ðồng Thẩm Phán gồm các Thẩm Phán xử án do các Thẩm Phán xử án bầu lên.

4. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Thẩm Phán.
    CHƯƠNG VI: CÁC ÐỊNH CHẾ ÐẶC BIỆT
Ðặc Biệt Pháp Viện

ÐIỀU 85

Ðặc Biệt Pháp Viện có thẩm quyền truất quyền Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ Trưởng, các Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và các Giám Sát Viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.

ÐIỀU 86

1. Ðặc Biệt Pháp Viện do Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện giữ chức Chánh Thẩm và gồm năm (5) Dân Biểu và năm (5) Nghị Sĩ.

2. Khi Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện là bị can, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện giữ chức Chánh Thẩm.

ÐIỀU 87

1. Ðề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên. Quyết định khởi tố phải được đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.

Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống đề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên.

Quyết định khởi tố phải được đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.

2. Ðương sự phải đình chỉ nhiệm vụ từ khi Quốc Hội biểu quyết truy tố đến khi Ðặc Biệt Pháp Viện phán quyết.

3. Ðặc Biệt Pháp Viện phán quyết truất quyền theo đa số ba phần tư (3/4) tổng số nhân viên. Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống phán quyết truất quyền theo đa số bốn phần năm (4/5) tổng số nhân viên.

4. Ðương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truy tố.

5. Sau khi bị truất quyền, đương sự có thể bị truy tố trước các tòa án có thẩm quyền.

6. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức, điều hành và thủ tục trước Ðặc Biệt Pháp Viện Giám Sát Viện.

ÐIỀU 88

Giám Sát Viện có thẩm quyền:

1. Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.

2. Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh.

3. Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Dân Biểu, Nghị Sỉ, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện.

4. Riêng đối với Chủ Tịch Giám Sát.

5. Viện và các Giám Sát Viên, việc kiểm kê tài sản do Tối Cao Pháp Viện đảm trách.

ÐIỀU 89

1. Giám Sát Viện có quyền đề nghị các biện pháp chế tài về kỷ luật đối với nhân viên phạm lỗi hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước tòa án có thẩm quyền.

2. Giám Sát Viện có quyền công bố kết quả cuộc điều tra.

ÐIỀU 90

1. Giám Sát Viện gồm từ chín (9) đến mười tám (18) Giám Sát viên, một phần ba (1/3) do Quốc Hội, một phần ba (1/3) do Tổng Thống và một phần ba (1/3) do Tối Cao Pháp Viện chỉ định.

2. Giám Sát viên được hưởng những quyền hạn và bảo đảm cần thiết để thi hành nhiệm vụ.

ÐIỀU 91

Giám Sát Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chức nội bộ và quản trị ngành giám sát.

Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Giám Sát Viện.

Hội Ðồng Quân Lực

ÐIỀU 92

1. Hội Ðồng Quân Lực cố vấn Tổng Thống về các vấn đề liên quan đến Quân Lực, đặc biệt là việc thăng thưởng, thuyên chuyển và trừng phạt quân nhân các cấp.

2. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Quân Lực.

Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục

ÐIỀU 93

1. Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục có nhiệm vụ cố vấn Chánh Phủ soạn thảo và thực thi chánh sách văn hóa giáo dục.

Một Lâm Viện Quốc Gia sẽ được thành lập.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật liên quan đến văn hóa giáo dục có thể được Hội Ðồng tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 94

1. Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục gồm:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức văn hóa giáo dục công và tư, các hiệp hội phụ huynh học sinh đề cử.

2. Nhiệm kỳ của Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục.

Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội

ÐIỀU 95

1. Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về những vấn đề kinh tế và xã hội.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật kinh tế và xã hội có thể được Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 96

1. Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội gồm:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức công kỹ nghệ, thương mại, nghiệp đoàn, các hiệp hội có tánh cách kinh tế và xã hội đề cử.

2. Nhiệm kỳ Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội.

Hội Ðồng các Sắc Tộc

ÐIỀU 97

1. Hội Ðồng các Sắc Tộc có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội Ðồng các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 98

1. Hội Ðồng các Sắc Tộc gồm có:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các Sắc Tộc Thiểu Số đề cử.

2. Nhiệm kỳ Hội Ðồng các Sắc Tộc là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng các Sắc Tộc.
    CHƯƠNG VII: CHÁNH ÐẢNG VÀ ÐỐI LẬP
ÐIỀU 99

1. Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2. Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

ÐIỀU 100

Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

ÐIỀU 101

Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

ÐIỀU 102

Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.
    CHƯƠNG VIII: TU CHÍNH HIẾN PHÁP
ÐIỀU 103

1. Tổng Thống, quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay quá bán (1/2) tổng số Nghị Sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến Pháp.

2. Ðề nghị phải viện dẫn lý do và được đệ nạp tại văn phòng Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 104

Một Ủy Ban lưỡng Viện sẽ được thành lập để nghiên cứu về đề nghị tu chính Hiến Pháp và thuyết trình trong những phiên họp khoáng đại lưỡng Viện.

ÐIỀU 105

Quyết định tu chính Hiến Pháp phải hội đủ hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.

ÐIỀU 106

Tổng Thống ban hành đạo luật tu chính Hiến Pháp theo thủ tục quy định ở Ðiều 44.

ÐIỀU 107

Không thể huỷ bỏ hoặc tu chính điều một (1) và điều này của Hiến Pháp.
    CHƯƠNG IX: ÐIỀU KHOẢN CHUYỂN TIẾP
ÐIỀU 108

Hiến Pháp bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày ban hành và Ước Pháp tạm thời ngày mười chín tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm (19.06.1965) đương nhiên hết hiệu lực.

ÐIỀU 109

Trong thời gian chuyển tiếp, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đại diện Quốc Dân trong phạm vi lập pháp.

1. Soạn thảo và chung quyết:

- Các đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.

- Cá đạo luật tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện.

- Các quy chế chánh đảng và báo chí.

2. Phê chuẩn các Hiệp Ước.

ÐIỀU 110

Kể từ khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đảm nhiệm quyền Lập Pháp cho đến khi Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được triệu tập.

ÐIỀU 111

Trong thời gian chuyển tiếp, Uûy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Uûy Ban Hành Pháp Trung Ương lưu nhiệm cho đến khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.

ÐIỀU 112

Trong thời gian chuyển tiếp, các Tòa Aùn hiện hành vẫn tiếp tục hành xử quyền Tư Pháp cho đến khi các định chế Tư Pháp qui định trong Hiến Pháp này được thành lập.

ÐIỀU 113

Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) sẽ lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức và tuyên bố kết quả cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1).

ÐIỀU 114

Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống có thể bổ nhiệm các Tỉnh Trưởng.

ÐIỀU 115

Cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải được tổ chức chậm nhất sáu (6) tháng kể từ ngày ban hành Hiến Pháp này.

ÐIỀU 116

Cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp, việc tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát.
    Chủ Tịch Ủy Ban Thảo Hiến
    ÐINH THÀNH CHÂU
Viện phải được thực hiện chậm nhất là mười hai (12) tháng kể từ ngày Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.

ÐIỀU 117

Các cơ cấu khác do Hiến Pháp qui định phải được thiết lập chậm nhất là hai (2) năm kể từ ngày Quốc Hội pháp nìệm một (1) được thành lập.

Bản Văn Hiến Pháp này đã được Quốc Hội chung quyết trong phiên họp ngày 18 tháng ba năm 1967.
    Sài gòn, ngày 18 tháng 3 năm 1967
    Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến
    PHAN KHẮC SỬU



Thursday, April 30, 2009

Tinh Thần Học Hỏi - Phạm Văn Bản

Phạm Văn Bản
    Nuôi tâm sinh thiên tài
    Nuôi trí sinh nhân tài
    Nuôi thân sinh nô tài
Người thanh niên cách mạng Lý Ðông A (1920-46) từng nhắn gởi thanh niên Việt Nam chúng ta về tinh thần học hỏi, rèn luyện bản thân để thành người hữu dụng, ích nước lợi dân. Tinh thần học hỏi đó là những đức tính cần thiết cho mỗi người thanh niên hôm nay, trang bị cho mình trên hành trình đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ của Việt Nam.

Khi tự nguyện dấn thân và phục vụ cho lý tưởng, người thanh niên phải trực diện với bao trở ngại khó khăn, với bao nỗi gian nan nguy hiểm vì rằng, “lửa thử vàng gian nan thử sức!”

Với sức sống, sức mạnh của người thanh niên thì niềm tin và lòng trung thành yêu thương dân nước là một điều chưa đủ, chưa giúp ích nước lợi dân, chưa giúp chúng ta vượt qua bao trở lực đang chờ đón. Chúng ta cần phải có một trình độ nhận thức, một khả năng hữu hiệu sao cho tương xứng, một hoạt động thích hợp với vai trò của mình, với công tác mà mình được giao phó và nhận trách nhiệm để mình hoàn thành.

Vậy muốn đáp ứng hay thỏa mãn những điều kiện về trình độ và khả năng của người thanh niên nói trên, ngoài vấn đề học hỏi ra thì không còn gì khác hơn để bàn luận.

Người thanh niên muốn làm bất cứ việc gì, muốn việc đó đạt kết qủa tốt đẹp ra sao… xin hãy bắt đầu bằng cách học hỏi. Mặt khác, bạn muốn trở thành một người cán bộ Tiên Rồng phục vụ tốt trong tổ chức cộng đồng, bạn lại càng không thể thoát khỏi qui luật huấn luyện và đào tạo hiển nhiên ấy.

Không một ai trong chúng ta, từ khi vừa lọt lòng mẹ chào đời mà đã biết hết mọi sự, biết tương lai ra sao, làm gì… Biết mình trở thành nhân tài, lãnh tụ… hay lại thành tên giặc nước hoặc kẻ sát nhân xấu xa?

Xét một vài trường hợp ngoại lệ, có thể một hài nhi do hoàn cảnh hay trường hợp được cấu tạo đặc biệt (thiên phú) và sinh ra có khối óc thông minh. Nhưng người ấy, nếu không được phát giác, không được rèn luyện, thì dù có bộ óc vạn năng người ấy cũng chỉ là kẻ bình thường suốt đời mà thôi, như Tổ Tiên từng dạy:

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi

Viên ngọc tự nó cũng chỉ là viên đá. Nếu không được tìm ra, mang về bỏ công gọt dũa trở thành một viên ngọc quí. Thì muôn đời vẫn chỉ là cục đá tầm thường, như bao cục đá trơ trẽn nằm bên lề đường, ngổn ngang bên sườn núi, hay vất vưởng trong lòng sông.

Như thế, người thanh niên dù có bộ óc siêu việt mà không học hỏi, không rèn luyện, không thu nhận kiến thức mới thì cũng như viên đá kia chẳng dũa chẳng mài, và chỉ là một kẻ vô dụng.

Có nhiều phương pháp học hỏi, ngoài hệ thống học đường, thì người thanh niên còn có nhiều môi trường khác để giúp chúng ta học hỏi:

1. Tự Học

Tự học hỏi, nói cách khác, tự rèn luyện bản thân về hai phương diện Trí Dục và Đức Dục.

a. Về Trí Dục: Mỗi cá nhân có một trình độ và hoàn cảnh khác nhau. Người có trình độ cao thì thu nhận hiểu biết nhanh hơn người với trình độ thấp. Người ở vị trí hoàn cảnh này cần học hỏi khác hơn người có vị trí hoàn cảnh khác.

Ví dụ: Một thanh niên mới bắt đầu cuộc sống sinh hoạt trong cộng đồng, chắc hẳn cần học hỏi nhiều hơn những thanh niên đã từng hoạt động cộng đồng lâu măm. Người phụ trách văn phòng cần chú tâm trau dồi kiến thức, phương pháp tổ chức, xắp xếp hồ sơ, soạn thảo và phổ biến công văn, thư tín… Trái lại, người có nhiệm vụ thường xuyên công tác bên ngoài, phải học hỏi phương pháp vận động đại chúng, kỹ thuật trình bày quan điểm, thuyết phục người đối thoại…

b. Về Đức Dục: Người thanh niên cần đặt vấn đề đạo đức vào hàng ưu tiên học hỏi, nghiên cứu đầu hạng của mình.

Biết bao cán bộ trung kiên và tài giỏi hoạt động trong tổ chức cộng đồng, nhưng chỉ vì thiếu kém đạo đức đã gây ra tác hại cho tổ chức mình, và mang lại hậu qủa thân bại danh liệt, làm ảnh hưởng xấu cho bao anh em thành viên khác.

Ðể trau dồi đạo đức, người thanh niên, nhất là thuộc hàng ngũ cán bộ cách mạng phải diệt trừ những căn bệnh nan giải, như sau:

b1. Bệnh Tự Cao Tự Đại

Có những người cán bộ trong đấu tranh và thực hành công tác tổ chức đã tạo nhiều thành tích khả quan, được anh em đề bạt lên giữ chức vụ điều hành. Nhưng rồi họ tưởng rằng đã vượt trên khả năng của mọi người mà họ thay đổi tác phong hành xử. Từ đó, sinh ra chứng phách lối kiêu căng, xem trời bằng vung, nhìn anh em mình bằng nửa con mắt. Họ đối xử với mọi người, kể cả những thành viên đã từng cộng tác lại được họ coi như hàng tay chân, thuộc hạ chớ chẳng còn tình nghĩa anh em như trước! Những việc cắt cử thành viên tới cách sắp xếp công tác nhất nhất họ đều làm theo ý mình, họ bất chấp những phản ứng hay phê bình xây dựng của tổ chức, của anh em. Nếu có ai góp ý, hay có lời khuyên nhủ thì họ lại nổi giận lôi đình, tìm cách ngụy biện hay chống trả bằng lời lẽ thô thiển, thiếu lịch sự, thiếu lễ độ… và chỉ bằng tính cách so đo hơn thua. Đó là “động ắt mòn!” Chiếc xe hoạt động quá mức cũng phải hao mòn! Huống nữa là hành xử theo lối “động tâm” mà thiếu “bình tâm” của con người gọi là động ắt mòn.

Có biết đâu, hễ núi cao thì còn có núi cao hơn, người có tài thì còn kẻ khác có tài cao hơn.

Có biết đâu, bệnh tự cao tự đại mang lại hậu qủa tạo cho người thanh niên ấy xa lìa đại chúng nhân dân, làm mất lòng anh em cùng chí hướng đang cộng tác với mình… cuối cùng họ làm tan vỡ tổ chức.

Phải biết rằng người thanh niên cán bộ, cho dù tài giỏi tới đâu, cho dù trình độ siêu việt, cho dù kiến thức vượt bậc vẫn không thể đơn phương làm được công cuộc cách mạng, nếu thiếu những người cộng tác, thiếu đại chúng nhân dân ủng hộ, tham gia.

Bệnh tự cao tự đại, còn làm cho người cán bộ coi thường kẻ thù. Họ chỉ nhìn thấy khuyết điểm của địch, rồi nảy sinh tự mãn, phế bỏ tinh thần học hỏi rèn luyện bản thân, dẫn mình vào bước đường thoái hóa và thất bại.

b2. Bệnh Tự Ti Mặc Cảm

Tự ti mặc cảm là con bệnh tự cho mình là thua kém người khác mà sinh ra do dự, nhút nhát, thụ động, không dám quyết định về bất cứ vấn đề gì. Ðang khi thi hành công tác, họ lại không có sáng kiến nên thành qủa thâu đạt cũng nhỏ nhoi, nhiều khi thất bại. Vì không tiên liệu, không lượng định được phương hướng để chiến thắng kẻ thù, họ chỉ thấy địch mạnh ta yếu, lực lượng địch đông đảo mà của ta thì ít ỏi nên đâm ra khiếp nhược, sợ giặc mà bỏ chạy.

Nên nhớ rằng tất cả mọi tổ chức đấu tranh đã phải khởi sự bằng nhóm người nhỏ bé, dần dà con số mới tăng theo thời gian và hoạt động để tạo ra thành tích, thành lực lượng hùng mạnh, có “dấu chỉ” để thành công. Kết qủa việc tổ chức thành công phải do nhiều yếu tố như lãnh đạo, tổ chức, đào tạo cán bộ, vận động đại chúng đóng góp, yểm trợ.

Nếu cho rằng ngày hôm nay chúng ta thực sự kém người, nhưng trong tương lai bằng nhờ vào tinh thần học hỏi rèn luyện bản thân liên tục thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt hơn người.

Vậy phải dứt bỏ căn bệnh tự ti mặc cảm, người thanh niên mới có tinh thần cầu tiến, hoàn thành công tác được giao phó, đáp ứng nhu cầu đóng góp theo vai trò và khả năng của mình.

2. Học Hỏi Trong Các Lớp Huấn Luyện Và Những Buổi Hội Thảo

Các tổ chức thường có những lớp huấn luyện định kỳ cho cán bộ các cấp, các ngành nhằm mục đích đào tạo chuyên viên có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu công tác. Các tổ chức cũng có những phiên họp thường xuyên, hay bất thường để tổng kết tình hình công tác, phổ biến đường hướng chủ trương, và đề ra những công tác kế tiếp.

Ðây cũng là những dịp tốt cho người cán bộ học hỏi, nâng cao trình độ nhận thức của mình. Cũng là cơ hội để chúng ta gặp gỡ tìm ra những người bạn bè cùng chí hướng, hầu kiểm thảo, nhận định tình hình địch bạn, trao đổi rút tỉa những kinh nghiệm thành bại trong công tác.

Người thanh niên không nên và không thể thiếu vắng với những dịp học hỏi quí báu đang sẵn có trong cộng đồng, hoặc trên diễn đàn của nhiều tổ chức.

3. Học Hỏi Từ Đại Chúng

Trên đường công tác đấu tranh, người thanh niên phải luôn luôn hòa mình với đại chúng để lắng nghe dư luận của họ, thành khẩn đón nhận những ý kiến, những phê bình xây dựng. Nên nhớ rằng trong tập thể đại chúng có nhiều người tài giỏi, mà vì lý do này hay lý do khác họ chưa gia nhập vào hàng ngũ của tổ chức chúng ta. Phải tìm cách chúng ta đến với họ, nếu như chưa thuyết phục được họ gia nhập vào tổ chức, thì cũng học hỏi được nơi họ nhiều điều bổ ích cho công tác của tổ chức chúng ta.

Không một tổ chức nào, nhất là tổ chức cách mạng mà có thể thành công nếu không tranh thủ được đại chúng hưởng ứng tham gia, không thu phục được nhân tâm.

4. Học Hỏi Từ Tiền Nhân

Trong suốt chiều dài lịch sử, có biết bao bài học thành bại của tiền nhân để soi sáng cho chúng ta trên con đường đấu tranh phục quốc.

Một Ðinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận để dẹp tan 12 sứ quân thống nhất sơn hà. Một Lê Lợi trải qua bao năm nằm gai nếm mật mới đánh đuổi được giặc Minh. Một Trần Hưng Ðạo qua hội nghị Diên Hồng phá tan đại quân Nguyên Mông từng chiến thắng toàn cầu Âu Á. Một Trần Bình Trọng bất khuất hiên ngang “ta làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc”…

Mặt khác lại có, một Lê Chiêu Thống hèn nhát “cõng rắn cắn gà nhà!” Một Khải Ðịnh cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp! Một Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản rước quan thày Trung Quốc vào bán đất bán biển, dẫn đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ là những chứng tích lịch sử rõ ràng trước mắt, mà người thanh niên chúng ta thời nay không thể quên để học hỏi từ sách vở, từ những lời tường thuật của những bậc lão thành, các nhà học gỉa hay các chứng nhân lịch sử hiện tại.

Trước những sự kiện ngạo mạn của chủ tịch Hồ Chí Minh vịnh thơ nhạo báng tổ tiên tiền nhân và so tài với đức thánh Trần Hưng Đạo, thì người thanh niên Lý Đông A ngày đó đã đưa ra một nhận định, “Người mình thường xấc xược mỗi khi nhắc tới tổ tiên!” Và có lẽ câu nói này đã nghiệm ứng với những người Cộng Sản, bởi từ khởi thủy lập đảng họ đã không đặt ra “Tinh Thần Học Hỏi” như ý nghĩa trọng đại của bài viết này.

Vậy công cuộc Diệt Cộng Cứu Nước ngày nay rất cam go, khó khăn và nguy hiểm. Chúng ta phải thực tế nhìn nhận rằng Cộng Sản có lối ngụy biện tinh vi, lừa bịp được dân chúng trắng trợn, và từng lừa đảo được nhiều người, nhiều lần. Người Cộng Sản lại có những thủ đoạn sắt máu, dùng bạo lực làm khiếp đảm các đối thủ. Muốn chiến thắng giặc cộng, muốn giải cứu dân nước, người thanh niên Việt Nam chúng ta cần học hỏi, rèn luyện bản thân thường xuyên và liên tục, đạt tài năng trong Tinh Thần Học Hỏi.

Phạm Văn Bản


KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN - Nguyễn Văn Phán

KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi ! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

Trung Tá Nguyễn Văn Phán
TQLC

Lễ Thượng Kỳ tại OHIO


Tại Thủ-Đô Columbus tiểu ban OHIO, sáng ngày thứ Tư 29 tháng 4 năm 2009 11:00 AM

Dù dân số người Việt tại tiểu ban Ohio chỉ có trên dưới 20 ngàn người. ! Nhưng qua sự tranh đấu mãnh liệt của Ủy ban Cờ Vàng tại tiểu ban này, Thượng viện của tiểu ban đã thông qua Đạo-Luật #55 . (HB#55 . Không phải nghị-quyết = resolution). Chính thức công nhận Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ là biểu tượng lá cờ chính thức cho cộng đồng Ngưới Việt tại Ohio. Trong bài diễn văn do Thống Đốc tiểu ban OHIO Ted Strickland đọc, ông có nhấn mạnh rằng cờ Vàng 3 Sọc Đỏ còn phải được xem là: "THE FLAG OF THE NATION OF VIETNAM". Đây là một lời phát ngôn rất quan trọng và đầy ý nghĩa từ một Thống đốc của một tiểu bang!

Buổi lễ thượng kỳ Việt Nam được long trọng cử hành trước toà nhà Capitol thủ-phủ của tiểu ban Ohio. Hiện diện trong buổi lễ này ngoài cộng đồng người Việt tại thành-phố Columbus, còn có các cộng đồng người Việt từ xa đến như Toronto Canada, Công đồng tiểu ban Michigan, và các cộng đồng người Việt tại các thành phố trong tiểu ban Như Cinncinnati, Dayton, Cleveland và Akron.

Ngoài ra còn có sự hiện diện của NT KQ Nguyễn Xuân Vinh, trong bài diển văn ngắn trong buồi ăn trưa ngay bên dưới toà nhà Capitol.

Riêng NT KQ Phạm Ngoc Tụng và chị Loan (Mrs. Tụng) là những thành viên địa phương, rất hăng say trong việc vận động cho HB#55 và việc tổ chức cho buổi lể ngày hôm nay.

Sau đây là vài hình ảnh trong buổi lễ thượng kỳ tại Columbus OHIO: (photo by Tấn Phạm & Lợi Đặng. Click on the photo for full size) PQK



Wednesday, April 29, 2009

Thông Báo về Biểu Tình tại Genève

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 29.4.2009
Thông báo về cuộc Biểu tình đòi hỏi nhân quyền, dân chủ,
tự do tôn giáo trước LHQ ở Genève ngày 8.5.2009

PARIS, ngày 29.4.2009 (QUÊ MẸ) - Đồng bào khắp năm châu đã nồng nhiệt đáp ứng bản Thông cáo báo chí phát hành ngày 10.4.2009 của Cơ sở Quê Mẹ:

Hành động cho Dân chủ Việt Nam và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam kêu gọi tham dự cuộc biểu tình ngày 8.5.2009 tại Place des Nations - Công trường LHQ - trước trụ sở LHQ tại Genève, vào lúc Phái đoàn Hà Nội phải phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ ở Điện Quốc Liên về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam cùng sự tuân thủ các Công ước LHQ mà Hà Nội đã ký kết, như Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị là một.

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam xin ngỏ lời thâm tạ sự hưởng ứng nồng nhiệt của Đồng bào hải ngoại, quý vị Nhân sĩ, Lãnh đạo Tôn giáo, các Đoàn thể, Đảng phái, Cộng đồng Người Việt Tự do ở hải ngoại, cùng các cơ quan truyền thông, báo chí đã hưởng ứng tham gia qua điện thoại gọi về trụ sở của chúng tôi tại Paris hay qua điện thư E.mail quyết tâm biểu dương ý chí đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo trên quê hương đất Việt, không để cho Phái đoàn Hà Nội tiếp tục dối gạt Hội đồng Nhân quyền LHQ và công luận thế giới như Hà Nội vẫn làm thường năm tại Genève.

Nay xin được thông báo diễn tiến cùng các điều cần thiết sau đây:

- Do việc phái đoàn Hà Nội phải phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ vào lúc 14 giờ 30 ngày 8.5.2009, nên Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam đã xin phép với nhà chức trách Thụy sĩ ở thành phố Genève được phép biểu tình trước Công trường LHQ từ 8 giờ sáng cho đến chiều ngày 8.5.2009. Mục đích để cho báo chí, truyền thông quốc tế thấy rõ ý chí của Người Việt Tự do ở hải ngoại nói thay cho nhân dân trong nước không có tiếng nói trên lĩnh vực nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo. Đặc biệt, là công xa của các phái đoàn chính phủ trên thế giới vào phó hội LHQ ở Điện Quốc liên chạy ngang Công trường LHQ sẽ chứng kiến cuộc biểu tình của người Việt Tự do.

- Nhân cơ may có mặt đại diện của các cộng đồng người Việt đến từ Hoa Kỳ, Úc châu, Đức, Hòa Lan, Pháp và Bắc Âu, nên sau cuộc biểu tình sẽ có cuộc gặp gỡ trao đổi vào lúc 18 giờ ngày 8.5.2009 tại một hội trường gần Điện Quốc Liên để Ban tổ chức trình bày diễn tiến buổi phúc trình của Phái đoàn Hà Nội và sự chất vấn của các phái đoàn chính phủ trong thế giới trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, đồng thời đúc kết kinh nghiệm đấu tranh quốc tế cho việc kết liên của người Việt khắp năm châu cho công tác Quốc tế vận trong tương lai. Địa điểm hội trường sẽ xin thông báo sau.

- Thành phần Ban tổ chức gồm có:

Trưởng ban Tổ chức liên hệ với Nhà chức trách Thụy sĩ và LHQ: Ông Võ Văn Ái.

Trưởng ban Điều hành Nghi lễ các tôn giáo:
Thượng tọa Thích Viên Lý, Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Trưởng ban Điều hành Chương trình ngày biểu tình 8.5.09 (giới thiệu các tổ chức, hội đoàn, tôn giáo, đảng phái, chào cờ, mặc niệm):
Thượng tọa Thích Giác Đẳng/GHPGVNTN, và Ông Lưu Phát Tấn/Cộng đồng Việt Nam Tỵ nạn Cộng sản tại Hòa Lan.

Trưởng ban Thiết kế Bàn thờ Tổ quốc và phụ trách âm thanh tại cuộc biểu tình:
Cộng đồng Việt Nam Tị nạn Cộng sản tại Hòa Lan.

Trưởng ban An ninh Trật tự:
- Ông Trần Minh Răn, Tổ chức Phục Hưng Việt Nam
- Ông Nguyễn Quốc Nam, Liên Minh Dân chủ Việt Nam
- Ông Nguyễn Bắc Ninh, Đại Việt Cách Mạng Đảng
- Ông Nguyễn Mạnh Hà, Đảng Thăng Tiến.

Trưởng ban Báo chí, Truyền thông và Liên lạc:
- Chị Ỷ Lan/Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam, và Thượng tọa Thích Giác Đẳng/GHPGVNTN.

Trưởng ban Tiếp tân:
- Chị Nguyễn thị Lý, Liên hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức
- Chị Lê Nhất Hiền, Hội Phụ nữ Việt Nam Tự do Đức quốc.

Trưởng ban Văn nghệ Đấu tranh:
- Chị Nguyệt Ánh, Phong trào Hưng Ca Việt Nam

Trưởng ban Y tế:
- Bác sĩ Nguyễn Quốc Nam
- Bác sĩ Đoàn Trần Đức và hai Chị Duyên, Hạnh.

Trưởng ban Ẩm thực: Chị Ca Dao và chị Lợi

Trưởng ban Phim ảnh:
-Ông Trần Di Nhơn, Liên hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức và ông Đông, Paris.

Ban Tổ chức sẽ được bổ sung thêm theo nhu cầu của ngày biểu tình.

- Do việc Ban Tổ chức không có cơ sở tại Genève, nên không thể lo việc đưa đón các vị khách đến từ xa. Vậy xin quý vị vui lòng sử dụng Taxi để đến Công trường LHQ theo bản đồ dưới đây. Công trường LHQ nơi tổ chức biểu tình cách xa phi trường hay nhà ga xe lửa Genève chừng 10 phút taxi.

Nếu có khó khăn gì, xin liên lạc với chị Ỷ Lan số điện thoại cầm tay là +336 11 89 86 81, hoặc Thượng tọa Thích Giác Đẳng số điện thoại cầm tay là + 1 281 216 3588

- Ban Tổ chức hoan nghênh việc tham gia biểu tình và phát biểu tại cuộc biểu tình ngày 8.5.2009 của tất cả quý vị Nhân sĩ, Lãnh đạo Tôn giáo, các Đoàn thể, Đảng phái, Cộng đồng Người Việt Tự do ở hải ngoại.

Để tiện việc sắp xếp chương trình, xin quý vị vui lòng liên lạc đến số điện thoại của chị Ỷ Lan +336 11 89 86 81, hoặc số điện thoại +316 23 14 14 79 của ông Lưu Phát Tấn.

Hẹn nhau mồng 8 tháng 5

Nhân quyền mở mặt Trăm năm một lần !

Biểu tình: 8 giờ sáng thứ Sáu ngày 8.5.2009 tại Place des Nations/Công trường LHQ thành phố Genève để biểu dương khí thế uy dũng của Con dân Nước Việt trước chế độ độc tài toàn trị Cộng sản Việt Nam.

Trước ngày 8.5.2009, mọi liên hệ, hỗ trợ, hỏi thăm tin tức, kính xin liên lạc về:

Quê Mẹ/Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam

B.P. 60063

94472 Boissy Saint Léger - France

Tel : Paris +331 45 98 30 85 – Fax Paris +331 45 98 32 61

E-mail : queme@free.fr

Dưới đây là bản đồ đi đến Place des Nations / Công trường LHQ.



Các tổ chức hưởng ứng Lời kêu gọi của Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam biểu tình ngày 8.5.2009 tại LHQ Genève và đã liên lạc về Paris với chúng tôi nhằm cộng tác thực hiện cuộc biều tình gồm có

- Văn phòng Liên lạc các Hội đoàn và Cộng đồng Người Việt Tự do tại Pháp

- Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất/Hoa Kỳ

- Tổ chức Phục Hưng Việt Nam

- Liên Minh Dân chủ Việt Nam

- Đại Việt Cách Mạng Đảng

- Hội Phụ Nữ Việt Nam Tự Do Đức Quốc

- Cộng đồng Việt Nam Tị nạn Cộng sản tại Hòa Lan

- Liên Hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức

- Hội Người Việt Tỵ nạn Frankfurt và vùng Phụ cận

- Tập thể Cựu Chiến sĩ VNCH tại Đức quốc

- Hội Văn hóa Người Việt Tự do / Pháp

- Cộng đồng Người Việt Quốc gia Tự do / Pháp

- Hội Hải quân và Hàng Hải

- Văn phòng Liên Đới Xã hội

- Tổ chức Quốc tế Yểm trợ Cao trào Nhân bản / Hoa Kỳ

- Phong trào Hưng Ca / Hoa Kỳ

- Vietnam Sydney Radio và Khối 1706 Yểm Trợ Tranh Đấu Cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam/Úc châu

- Thanh Niên Cờ Vàng / Hoa Kỳ

- Đảng Thăng Tiến

Cùng nhiều vị nhân sĩ khắp các châu lục.

Ánh Nến Lung Linh - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

(Trình bày trong Lễ Thắp Nến tối Thứ Bảy 25-4-2009 Tưởng niệm ngày Quốc Hận Do Hội Cựu Sinh viên Sĩ quan trừ bị Thủ Đức Toronto tổ chức)

    Kính thưa quý vị Quan khách,
    Kính thưa các bậc trưởng thượng,
    Thưa anh chị em,
Trước hết, tôi xin cảm ơn ban Tổ chức đã mời tôi phát biểu tối hôm nay. Để đỡ mất thời giờ, tôi xin vào đề ngay.

Thưa quý vị,

Một nhà hiền triết Pháp đã nói: “Con người là một cây sậy biết suy nghĩ.” Quả vậy, con người không phải là một thực thể vật chất thuần tuý, mà con người còn có phần tư tưởng, phần tinh thần và cả phần tâm linh nữa. Từ xưa cho đến nay, từ đông sang tây, con người có nhiều niềm tin khác nhau, nhiều tôn giáo khác nhau, với nhiều nghi thức và nghi lễ khác nhau.

Trong bất cứ nghi thức hay nghi lễ nào, con người cũng đều thắp nến, và dường như ánh sáng ngọn nến lung linh huyền diệu giúp con người dễ hiệp thông với những đối tượng mà con người đang suy tưởng. Chính trong ý nghĩa đó, hôm nay chúng ta, dù theo những tôn giáo khác nhau, cùng hội họp nơi đây, làm lễ thắp nến để tưởng niệm những chiến sĩ anh dũng, đã chiến đấu chống cộng sản trong cuộc chiến trước năm 1975, đồng thời hiệp thông với những chiến sĩ đang tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ hiện nay ở trong nước.

Thưa quý vị,

Vào năm 1954, ngoài hiệp định Genève (20-7-1954) là hiệp định đình chiến, chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, hội nghị Genève còn thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Không một nước nào ký tên vào bản tuyên bố nầy. Bản tuyên bố nầy gồm 13 điều, trong đó điều 7 đưa ra một giải pháp chính trị là hai bên sẽ tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước. Dựa vào điều 7, Bắc Việt nhiều lần đề nghị Nam Việt tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956.

Tại Nam Việt, sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm chuyển chính thể QGVN thành chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955 do ông làm thổng thống. Chính phủ VNCH bác bỏ đề nghị tổ chức tuyển cử của VNDCCH, vì chính phủ QGVN, tiền thân của VNCH, không ký vào hiệp định Genève và vì bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 không có chữ ký của các phái đoàn, thì không bắt buộc phải thi hành.

Dựa vào sự từ chối của VNCH, Đại hội 3 đảng Lao Động, tại Hà Nội (từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960) quyết định “giải phóng” miền Nam bằng võ lực. Sau đó, CSBV bắt đầu gởi quân tấn công miền Nam.

Vì Bắc Việt chủ trương xâm lăng Nam Việt, không lẽ Nam Việt ngồi yên chờ chết, nên Nam Việt phải động binh để tự vệ. Không ai thích chiến tranh cả, nhưng nếu những thanh niên Việt Nam lúc đó, trong đó có một số quý vị đang ngồi ở đây, không gia nhập quân đội, thì lấy ai chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ miền Nam?

Phải sơ lược như thế để thấy rằng ngay từ đầu, Bắc Việt cộng sản hiếu chiến gây hấn và Nam Việt, vì lý do tự vệ chính đáng, không còn chọn lựa nào khác là phải chiến đấu để tự bảo vệ mình, bảo vệ tự do dân chủ ở miền Nam.

Để tăng cường áp lực đối với miền Nam, Bắc Việt bí mật cầu viện Liên Xô, nhất là cầu viện Trung Quốc. Những tài liệu mới tiết lộ gần đây cho thấy hầu như hằng năm, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh để báo cáo, và xin Trung Quốc tăng viện. Việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc là một thảm họa cho dân tộc Việt Nam, kể cả vụ bauxite ở Tây nguyên ngày nay.

Xin lưu ý quý vị rằng từ năm 1939, Mao Trạch Đông đã đưa ra chủ trương rằng Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Quốc. (Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, không đề tên tác giả, 1979, tr. 16.) Hồ Chí Minh, lúc đó có mặt ở Trung Quốc, biết rõ chủ trương nầy của Mao Trạch Đông, nhưng vẫn cầu viện Trung Quốc từ năm 1950. Trung Quốc gởi các phái đoàn cố vấn chính trị và quân sự sang điều khiển Việt Minh. Dựa trên báo cáo của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã đề ra chiến lược Trường Sơn từ năm 1953. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, tr. 68.)

Như thế, rõ ràng đầu nguồn chiến tranh, đầu nguồn tội lỗi phản quốc, đầu nguồn bán nước, chính là Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Trong khi đó, những chiến sĩ VNCH là những người đã hy sinh xương máu, chiến đấu để bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam Việt Nam. Quân lực VNCH chiến đấu vì sự sống còn của VNCH, của tự do dân chủ. Quân lực VNCH, trong đó có quý vị đang ngồi ở đây, chiến đấu vì quyền lợi tối thượng của quốc gia, của dân tộc.

Quân lực VNCH không chiến đấu vì một cá nhân, vì một lãnh tụ hay một đảng phái chính trị như những cán binh cộng sản Bắc Việt chiến đấu cho đảng Lao Động tức đảng CSVN. Quân lực VNCH cũng không chiến đấu cho quyền lợi của ngoại bang như các cán binh Bắc Việt chiến đấu cho Liên Xô, cho Trung Quốc. Khoảng thập niên 60, Lê Duẫn đã tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), tr. 422, phần chú thích.)

Trên bình diện quốc tế, cần phải nhấn mạnh là chính sự chiến đấu của Quân lực VNCH nếu không chận đứng, cũng đã làm chậm lại sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản xuống Đông Nam Á (ĐNÁ), nên các nước ĐNÁ có thời giờ chuẩn bị phòng thủ và không bị nhuộm đỏ. Cũng nhờ thế, các nước ĐNÁ mới có cơ hội phát triển đất nước như ngày nay.

Do những quyết định từ bên ngoài, do những thay đổi chiến lược trong chiến tranh lạnh trên thế giới, CSBV tạm thời chiến thắng năm 1975. Tuy nhiên, chúng ta thua một trận, nhưng chưa phải là chúng ta thua cuộc chiến. Cuộc chiến quốc-cộng cho đến nay vẫn tiếp tục, dù đã chuyển qua một hình thái mới, và một điều đáng mừng là trong hình thái mới nầy, chủ nghĩa dân tộc chân chính đang dần dần thắng thế trở lại.

Kính thưa quý vị,

Trong suốt cuộc chiến vừa qua, nhiều chiến sĩ đã hy sinh trong khi chiến đấu bảo vệ VNCH, bảo vệ tự do dân chủ, và bảo vệ sự sống còn của chính chúng ta. Họ đã ra đi và không bao giờ trở lại, như một nhà thơ ngày xưa đã nhận xét:

“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Thơ Vương Hàn

(Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.)

Hôm nay, chúng ta tập họp nơi đây, trước ánh nến lung linh huyền diệu, trong giây phút bồi hồi xúc động, lắng lòng hướng về quê hương, chúng ta tưởng nhớ những anh hùng đã nằm xuống, đồng thời chúng ta cùng vinh danh những chiến sĩ đang tranh đấu cho dân chủ tự do ở trong nước, những tù nhân lương tâm đang bị bạo quyền cộng sản giam giữ.

Tuy nhiên, thưa quý vị, tưởng nhớ và vinh danh cũng chưa đủ. Chúng ta cần phải suy nghĩ và phải tự hỏi chúng ta đã làm gì và sẽ làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của những đồng đội đã nằm xuống và những chiến sĩ đang bị đọa dày trong ngục tù cộng sản?

Một cựu quân nhân ở trong nước, anh Nguyễn Cung Thưong ở Sài Gòn, đã sáng tác một bài thơ như hét lên “Hãy gửi súng cho tao”. Trong hoàn cảnh hiện tại, thực sự chỉ có những người trong nước mới đứng lên chống bạo quyền cộng sản trong nước, nên Nguyễn Cung Thương mới đòi “gửi súng cho tao”. Rất tiếc, ở hải ngoại chúng ta không có điều kiện võ trang để tiếp sức cho anh em trong nước. Tuy nhiên, không lẽ chúng ta quên đi những đồng đội của chúng ta đã hy sinh trước năm 1975? Không lẽ chúng ta làm ngơ trước những người đang bị cộng sản đọa đày?

Kính thưa quý vị,

Tin tức trong các tháng vừa qua cho thấy rõ ràng đất nước chúng ta đang lâm nguy. Sau khi nhượng đất, nhượng biển, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang khiếp nhược nhượng luôn cao nguyên Nam Trung Phần cho Trung Quốc, để Trung Quốc khai thác bauxite. Việc khai thác nầy chẳng những nguy hiểm về môi sinh, tàn phá núi rừng, mà còn nguy hiểm về lâu về dài trên phương diện an ninh quốc phòng cho Việt Nam.

Vì tất cả những lẽ đó, tuy không còn có thể võ trang như trước đây, chúng ta hãy tiếp tục cuộc chiến đấu bằng con đường khác. Thiết thực nhất, hiện nay chúng ta hãy hết lòng yểm trợ công cuộc tranh đấu dân chủ, dân quyền ở trong nước, và tranh đấu chống lại vụ bauxite ở Tây nguyên.

Chắc chắn cuộc chiến đấu nầy thật khó khăn, lâu dài, nhưng mỗi người một ít, mỗi ngày một ít, rồi có lúc lịch sử sẽ chuyển mình, phong trào tự do dân chủ sẽ đi đến thành công, còn hơn là chỉ ngồi nguyền rủa bóng tối, để suốt đời bị bóng tối bao phủ. Quý vị nhớ cho rằng một đám cháy có thể bắt đầu chỉ từ một que diêm. Một cuộc cách mạng cũng có thể bắt nguồn từ những vận động cá nhân, cùng nhau tạo dựng phong trào, cùng nhau góp gió thành bảo. Lịch sử cho thấy cuối cùng chính nghĩa sẽ chiến thắng. Lịch sử Việt Nam cũng cho thấy cuối cùng

    “Nam quốc sơn hà nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.”
    Lý Thường Kiệt

    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận ở sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Thiết thực yểm trợ phong trào dân chủ trong nước, vận động và tiếp tay người trong nuớc đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, chận đứng cuộc xâm lăng chậm chạp nhưng nguy hiểm theo kiểu tằm ăn dâu (tàm thực) của Trung Quốc, là chúng ta thiết thực đền đáp công ơn những chiến sĩ VNCH đã hy sinh trước năm 1975 và những nhà tranh đấu cho tự do dân chủ đang chiến đấu ở trong nước.

Và như thế, ánh nến lung linh tối hôm nay mới thật sự đầy đủ ý nghĩa. Xin Hồn thiêng sông núi phò hộ cho cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam và chứng giám cho tấm lòng thành kính và biết ơn của những người tham dự buổi thắp nến tối hôm nay. Trân trọng cảm tạ quý vị đã lắng nghe và kính chào quý vị.

Trần Gia Phụng
Toronto, 25-4-2009


TỔ QUỐC – DANH DỰ – TRÁCH NHIỆM - Nguyễn Duy Thành

Nguyễn Duy Thành
    Tổ quốc
Có được dải đất cong cong như hình chữ S nằm hiền hòa bên biển nước trong xanh hôm nay. Thì sinh mệnh của Việt Tộc phải trải qua những cuộc trường chinh cam go đầy máu lửa. Cũng nằm trong chiều dài lịch sử đầy tràn biến động đó. Một cuộc chiến tranh mang tính Ý Thức Hệ đã xảy ra trong bạo lực.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến kết thúc . Kết thúc như lời thơ của Thanh Nam trăn trở:
    Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
    Cờ còn nước đánh phải đành thua
    Hay như tiếng lòng than thở của Song Nhị:
    Canh bạc đã về tay Bạo Chúa
    Tình người Đạo nghĩa đã nhường ngôi
Mới đó thôi mà đã 34 năm rồi ! Ba Mươi Bốn năm. Một thời gian không dài so với dòng lịch sử chinh chiến của quê hương. Nhưng với một phần ba của Thế kỷ đã đi qua. Rất đủ cho người đời hôm nay hay hậu nhân mai sau có cái nhìn ý nghĩa về chân Lý của thế hệ Cha Ông.

Thưa Bạn đọc.
Đặc biệt Bạn đọc trẻ tại Quốc nội Việt Nam.

Tất cả đã trở thành Lịch sử. Bóng tối của chiến tranh đã đi qua, đó đây trên các nẻo đường của Quê hương Việt Nam, cây cối đã xanh màu trở lại nhưng tương lai của con người vẫn còn vàng úa. Khắp nơi trên đường phố Hà Nội hay Sài gòn, hàng ngàn cánh tay của Dân Oan đang đưa lên để đòi công chính. Và e ngại rằng ! một ngày không xa, màu xanh cây cối của đất nước và ước mơ của con người Việt Nam sẽ mãi vàng úa, và lụi tàn dưới bước chân dày xéo của dòng người Đại Hán Phương Bắc đang ào ạt tiến vào Tây Nguyên.

Một sự thật đau lòng đang xảy ra trên Tổ Quốc chúng ta. Bạn đọc nghĩ gì ?

Nhìn lại dòng Lịch sử đã đi qua và biết được hiện trạng của quê hương hôm nay. Chúng ta mới khẳng định được cái công lao và sứ mạng bảo vệ Miền Nam được tự do-dân chủ và phú cường của Người Lính: Việt Nam Cộng Hòa.

Muốn hiểu hết được ý nghĩa nói trên thì chỉ cần một phút thôi ! Bạn đọc sẽ nhớ lại dòng lịch sử của 34 năm về trước. Khi những người Bộ đội Bắc Việt đưa cao khẩu hiệu “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” quyết sống chết để giải phóng Miền Nam và đem lại sự hòa bình cho đất nước. Một thứ hòa bình mà Nhà Báo Phan Nhật Nam đã chua chát:

-“Một thứ Hòa Bình quái dị, đắng như thuốc mà quê hương trong cơn thập tử phải uống vào”.

Đúng vậy ! Câu nói này chỉ phát ra sau một ngày Hiệp Định Paris được ký kết, nó như một thông điệp xám, một tiên đoán buồn, một phân ưu cho một Nửa Tổ Quốc. Một chế độ tự do và dân chủ bị cưỡng bức đi vào một tương lai tăm tối, và chỉ còn là hoài niệm của bao người. Người tránh đấu cho tự do.

Quả thật như thế ! trải qua 34 năm. Dưới chế độ đương thời. Ngay cả những người dồn hơi cao cổ thét to khẩu hiệu – Không Có Gì Quý hơn Độc Lập Tự Do ! Chính họ vẫn không được độc lập tìm cho mình một nhân tài, để tự do bỏ phiếu cho người lãnh đạo Quốc gia mà họ muốn. Giản đơn như thế mà vẫn không có được ! Từ đó. Ai đã từng sống trong Chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới hiểu ra hết cái chân lý. Có khi trở thành một nguyên lý của thể chế Cộng Hòa là: Chính Quyền do Dân Cử và vì dân mà phục vụ. Rất có thể ! Chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tuyệt đối hoàn hảo. Nhưng rất đầy đủ về Quan điểm và Khuynh hướng chính trị yêu nước. Để cho những người lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải noi gương theo. Và phải chăng cũng vì thế ! Gần Ba Triệu con dân Việt Nam đang lưu vong đều đồng niệm: Việt Nam Cộng Hòa là Tổ quốc của tôi.
    Danh dự
Tự ngàn xưa. Tiền nhân truân chuyên vất vả lắm mới tạo nên được giang sơn hùng vĩ như ngày nay. Giang sơn này đã kết tinh và hun đúc nên một dân tộc mang tính chí nhân quật cường. Đó là Dân Tộc Việt Nam. Cho nên trong dòng sử xanh của Việt Tộc. Lời của Nguyễn Trãi đã khẳng định về danh dự của Quốc gia và nhân phẩm của Con Người như một Thiên Cổ Hùng Văn:
    Như nước Đại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Song hào kiệt thời nào cũng có
Thế mà !

Hơn 60 năm dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam . Danh dự của Quốc gia và thể diện của Con người chỉ tóm gọn trong một câu nói ngắn ngủi của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt:

- Cầm cái Passport Việt Nam đi qua nhiều nước. Nhìn quốc gia người ta mà tôi thấy mình nhục nhã!

Phải ! Không nhục làm sao khi hàng chục chị em phụ nữ Việt Nam phải bị cởi lột trần truồng cho một người đàn ôngTrung Quốc - Đài Loan hay Đại Hàn ngắm nhìn để chọn vợ !

Không nhục làm sao ! Khi chính nhân viên Đại Sứ Quán Việt Nam ở Châu Phi buôn lậu Sừng Tê Giác.

Không nhục làm sao ! Khi chính Phi công Hàng Không Việt Nam ăn cắp và chuyên chở hàng lậu bị nước Nhật lên án.

Không nhục làm sao ! Khi Ngư dân Việt Nam bị Trung Cộng bắn chết ngay trên lãnh hải của đất nước mình.

Không nhục làm sao ! Khi anh chị em công nhân lao động bần hàn đang thất nghiệp, thì giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam mở cửa cho công nhân Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên đào hầm bới mỏ. Phải chăng anh chị em người Việt không biết lao động chân tay !

Làm sao nói hết tất cả nỗi nhục của người dân Việt Nam !

Từ đó. Người ta mới thấm thía nhận ra được sự danh dự của một Quốc gia và thể diện Con người. Qua câu nói của người Lãnh đạo Quốc Gia và cũng là người đứng đầu đại diện cho Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng tuyên bố:
    - “Nếu tôi tiến, thì đồng bào hãy tiến theo tôi. Nếu tôi bỏ chạy, thì đồng bào hãy bắn chết tôi”
Và Danh dự của Quốc gia cũng như phẩm chất của người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã được Người khí khái khẳng định với Ngoại Bang trước giờ lâm chung:
    - “Tôi mới là Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Chứ, không phải các ông ở Tòa Đại Sứ Mỹ. Tôi sẽ lập lại trật tự của đất nước tôi”
Danh Dự là như thế đó !
    Trách nhiệm
Nhìn lại Lịch sử Cổ đại đến Cận đại của Đông sử hay Tây sử. Thì sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Nam chứng minh hùng hồn một điểm. Chưa có một Quân đội của một Quốc gia nào trên thế giới có số lượng Tướng Lãnh và Binh Sĩ đã tuẫn tiết theo lý tưởng nhiều như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử cận đại Việt Nam ghi nhận. Họ đã vì Tổ Quốc -Danh Dự – Trách Nhiệm mà Quyên sinh.

Thưa Bạn đọc Hải Ngoại. Bạn đọc Quốc Nội.
Hiện nay.

Tổ Quốc Việt Nam chúng ta đang lâm nguy. Lâm vào nguy cơ Hán Hóa của Trung Cộng dưới nhiều hình thức. Mấy hôm nay. Các cơ quan Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại cho phát đi một đoạn Phim về cuộc chiến trước đây tại Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai Quân đội Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc.

Các Bạn có đau lòng không ? Khi thấy hơn 100 người lính Bộ đội Cộng Sản Việt Nam mình trần thân trụi với những vũ khí thô sơ, không có tàu bè che chắn. Nhưng họ vẫn dũng cảm đứng dàn hàng ngang trên các gầm đá giữa biển khơi, chơi vơi và cô đơn giữa một đoàn Chiến Hạm tối tân của Trung Cộng đang bao vây chặt họ. Những tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lên sau những tiếng hô “Tả Tả” và “Sát Sát” nghĩa là “Đánh Đánh” và “Giết đi Giết đi”. Những tiếng la hét, cầu cứu vang lên ... và chỉ trong 26 giây đồng hồ. Hơn Một Trăm người Bộ Đội. Hơn Một Trăm con dân nước Việt chúng ta nằm xuống, nằm xuống như những tấm bia dành cho người tập bắn súng. Chỉ có biển khơi mới nghe lời trăn trối của Họ !

- Tại sao hôm qua Họ phải chết trên những gầm đá kia ?
- Tại sao hôm nay những gầm đá kia phải dâng nhường cho Trung Cộng ?

Đau đớn hơn ! Chính những thước Phim đó được Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc làm tài liệu để đào tạo lính Hải Quân. Họ đào tạo cách giết người Việt Nam sao cho nhanh chóng hơn ! Sao cho man rợ hơn!

Bạn trẻ ở Quốc Nội Việt Nam hãy xem thước phim đó để đánh thức lòng tự ái dân tộc của mình. Đây là lúc tốt nhất. Thời điểm hợp lý nhất. Để bạn đặt TỔ QUỐC- DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM của người Việt Nam lên hàng Tối Thượng. Như Lý Tưởng cao đẹp của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Nhân ngày 30 tháng 4. Xin gởi đôi dòng suy tư và tưởng niệm đến cùng bạn đọc. Trân trọng Kính chúc Quý vị có một ngày Tưởng Niệm đầy ý nghĩa trong tình Việt Nam.

Kính chào
Hậu sinh
Nguyễn Duy Thành

Tuổi trẻ Việt Nam - Lê Nguyễn Huy Trần


Lê Nguyễn Huy Trần

Nhiều người cứ trách rằng thế hệ trẻ Việt Nam thời nay có lối sống buông thả về đạo đức, tư cách, và nhân phẩm. Tôi không phủ định cách nhận xét ấy vì chính bản thân tôi cũng thấy buồn khi những phong tục tập quán và giá trị con Rồng cháu Tiên được xem là niềm tự hào dân tộc ngày càng bị mai một dần, thay vào đó là một nền văn hóa thực dụng.

Tuy nhiên, tôi cũng muốn đưa ra một số nguyên nhân và luận điểm dẫn đến vấn nạn thiếu ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong nước qua cái nhìn hạn hẹp của chính tôi. Tâm nguyện của tôi qua bài viết này không phải để bào chữa cho cái nhìn lãnh đạm của tuổi trẻ về hiện tình đất nước mà là mong tìm thấy sự đồng cảm từ các bậc cha ông lão thành, đồng thời có thể giúp các bản trẻ thấu hiểu được sự việc để biết mình cần phải làm gì cho đất nước ngày hôm nay.

Quan hệ nhà nước – xã hội – gia đình đóng một vai trò quan trọng đến cách suy nghĩ và nhận thức của giới trẻ. Một đất nước văn minh sẽ khai thông được tư tuởng và sức sáng tạo trong con người. Nhưng ngược lại, nếu các bạn trẻ được giáo dục và đào tạo dưới một bộ máy “độc quyền, độc Đảng” như Việt Nam hiện nay thì quả thực rất khó có thể tự giác học hỏi những điều mới lạ và hữu hiệu để góp phần xây dựng Tổ quốc. Một chính quyền bạo lực với các ban lãnh đạo thi nhau tham nhũng, đàn áp người dân vô tội, không cho họ lấy một cơ hội “hé răng” than trách nửa lời. Một nhà nước thối nát tận gốc rễ: tự do ngôn luận không có, tự do báo chí không tồn tại, phi dân chủ, vô tôn giáo, và mất nhân quyền. Một xã hội bất công bao gồm các tầng lớp được phân hóa rõ rệt khi có người thì “giàu nứt vách đổ tưởng”, còn người nghèo tận cùng thì chỉ biết nằm chờ chết.

Vậy làm sao gọi là nước “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa” và rồi đặt hết trách nhiệm lên vai của thanh thiếu niên Việt Nam cho một đất nước phát triển trong khi lớp trẻ này sinh ra sau ngày nhà nước bại hoại ấy được thành lập. Bây giờ con người đang sống trong thế kỷ hai mươi mốt – thời đại mà nền kinh tế của một nước là yếu tố chính quyết định sức mạnh và sự phồn vinh của nước ấy đối với những nước khác trên thế giới. Cho nên nhu cầu của con người cũng vì thế mà tăng lên. Ai ai cũng muốn có một cuộc sống đầy đủ về mọi mặt: vật chất lẫn tinh thần, và luôn mang trong người những tham vọng đạt chức danh ông này hay bà nọ để đời.

Thế hệ trẻ Việt Nam đang sống trong thị trường thời mở cửa thì càng bị lôi cuốn với ý nghĩ: một người thật sự thành công chỉ khi nào có địa vị vững vàng trong xã hội. Họ chỉ nhìn vào hình ảnh những người đi trước đã bất chấp mọi thủ đoạn hèn hạ để tiến thân mà không hề hay biết rằng chính họ đang biến bản thân mình trở thành những con người thiếu đạo nghĩa khi nối gót theo các vị tiền bối ấy. Về mối liên hệ với gia đình, giới trẻ cũng không tìm được tiếng nói đồng thuận từ người thân vì khoảng cách giữa cha mẹ và con cái ngày càng bị nới rộng.

Hầu hết các bậc phụ huynh cứ mãi lăn lộn kiếm tiền ngoài xã hội mà quên mất nhiệm vụ cao cả của một người cha, người mẹ. Điều tôi muốn nói ở đây là họ vẫn dành tình thương cho con cái, luôn mong muốn con mình trở thành một người có ích cho xã hội; thế nhưng, do cuộc sống bận rộn hay vì những ngăn cách khác, họ lại thiếu quan tâm đến ý thích, ước mơ cũng như thiếu chia sẻ về thắc mắc của con cái. Đó là một thiếu sót lớn ở cái xã hội mất luân lý này. Chỉ có cha mẹ mới là tác nhân đắc lực trực tiếp giúp trẻ hoàn thiện tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức. Nếu như thế hệ 8X, 9X chỉ biết đến trường để bị đầu độc tư tưởng “Bác Hồ là vị cha già dân tộc” hay “Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng” ngay từ thuở nhỏ thì làm sao dễ dàng xóa bỏ được những vết mực dơ đã gieo vào nhiều đầu óc non nớt như trang giấy trắng tinh kia.

Có ai chỉ cho họ dám lên tiếng chống đối Đảng khi thấy đường lối của Đảng là sai? Có ai nói cho họ nghe những sự thật trong quá khứ mà Đảng và nhà nước đã cố tình giấu nhẹm hơn ba thập niên qua? Có ai dạy cho họ phải biết bảo vệ những người dân lành đang bị áp bức bởi công an là kẻ đại diện cho pháp luật? Có ai khuyên nhủ họ cần nhận biết và cảnh tỉnh vận mệnh đất nước đang “ngàn cân treo sợi tóc”? Các bạn trẻ không thể tự tìm hiểu những điều cần phải biết trong khi thông tin truyền thông đại chúng bị gò bó trong khuôn khổ Đảng nói dân nghe. Dù có một số ít hiểu rõ hiện trạng đất nước thì họ cũng không dám để lộ ra tư tưởng mà theo Đảng gọi là “phản động” cho người khác thấy bởi họ sợ liên luỵ đến gia đình và người thân. Họ không can đảm trao đổi cách nghĩ của mình về các vấn đề xã hội “nhạy cảm” với bạn bè đồng trang lứa vì nó như một đề tài xa lạ trong cuộc sống hằng ngày của sinh viên.

Hôm trước, tôi có dịp trò chuyện với một vài người bạn trong nước để hiểu xem các bạn ấy có nhận định gì về tình hình xã hội hiện nay trên đất nước Việt Nam. Có người cho rằng dân Việt Nam nhìn chung là “thụ động và sống lệ thuộc”. Ai cũng chỉ biết “vâng lời” theo nề nếp Đảng Cộng Sản đặt ra để được yên thân. Vì thế nếu có kẻ tìm cách bức ra khỏi lối sống ấy thì được xem là “sâu” tuy “sâu chưa chắc đã hại”. Tôi thấy nếu đã gọi là sâu bọ thì cần phải được loại bỏ nhưng có đáng không khi những người đó không muốn tương lai bị lệ thuộc theo cách sắp xếp của nhà cầm quyền Cộng Sản.

Người khác thì nghĩ “ai cũng làm việc vì bản thân” và khó thay đổi được thực trạng này thì làm sao ý thức đoàn kết dân tộc được đề cao. Vài người còn lại không mấy quan tâm đến hiện tình đau thương của đất nước, con người Việt Nam mà chỉ chú ý “nền kinh tế vừa lạm phát, vừa đình trệ” có ảnh hưởng thế nào đến công ăn việc làm. Qua mấy cuộc nói chuyện ngắn ngủi ấy, tôi cảm thấy rằng xã hội Việt Nam đang nuôi dưỡng thanh thiếu niên trở thành những người công dân chấp nhận sống dưới bóng đen Cộng Sản bởi họ tuyệt đối tin vào luồng thông tin phi thực tế của bộ chính trị đảng hay tiếp nhận các phim ảnh thiếu tính giáo dục được đưa từ ngoài vào. Khi đất nước Việt Nam mở cửa và hội nhập với những nước khác thì cũng chính là lúc tệ nạn xã hội gia tăng. Ngoài học hỏi những điểm tốt từ các nước bạn, giới trẻ cũng không tránh khỏi ảnh hưởng xấu như bạo lực trong học đường, bất mãn và phản kháng thầy cô, quan hệ bạn bè cởi mở đến mức khó chấp nhận, v.v…

Bên cạnh đó, cách mạng công nghệ kỹ thuật cũng được áp dụng rộng rãi nhưng thiếu kiểm soát làm nhiều bạn trẻ bỏ quá nhiều thời gian vào việc truy cập bậy bạ trên internet hay mê muội game online đến nỗi vô tình quên đi cuộc sống thực tại, quên đi việc học hành, quên đi nghĩa vụ một người chủ tương lai của đất nước. Mấy năm trước nhà nước cho thi hành chính sách xoá nạn mù chữ và tôi không thất vọng khi thấy số lượng sinh viên Đại học tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ khoảng hai trăm ngàn sinh viên học Đại học vào năm 1990, nhưng đến năm 2005 thì con số đã chiếm đến hơn một triệu tư. Thế nhưng nhà nước lại không tích cực giải quyết nạn thất nghiệp lan tràn trên khắp mọi miền nên nhiều sinh viên ra trường không kiếm được việc làm phù hợp với bằng cấp của mình.

Nếu tuổi trẻ Việt Nam đang bước vào giai đoạn tự lập như một người lớn thực thụ mà không kiếm nổi một bữa “cơm lành, canh ngọt” thì thử hỏi sức lực đâu mà nghĩ đến vận nguy nước nhà. Họ sẽ chán nản và phó mặc cho số phận đưa đẩy. Cuộc đời lại lắm trớ trêu khi nhiều kẻ vô học được gắn mác “con ông cháu cha” lại phè phởn với những cuộc ăn chơi trác táng, lại ngạo nghễ trên nỗi đau nhân loại. Đấy là những thành phần làm ô uế một tập thể chung khiến mọi người có cái nhìn thiếu thiện cảm về tuổi trẻ Việt Nam. Nhiều người cho rằng tôi đang bênh vực cho thế hệ thanh thiếu niên theo luận điệu cố hữu mà ai cũng biết. Vậy có ai thực sự thông cảm với những gì thế hệ “mắt không thấy, tai không nghe” này phải gánh chịu từ bao biến cố ngày xưa?

Tôi hi vọng người lớn hãy yêu thương và dìu dắt chúng tôi, vạch ra những sai sót và thiếu bản chất sự thật chứ đừng vội trách chúng tôi không xứng đáng là lực lượng thay đổi tương lai đất nước. Nếu giới trẻ được sự hướng dẫn tận tình của những bậc trưởng bối thì tôi tin rằng các bạn ấy sẽ tích cực tiếp thu những lời dạy bổ ích đó.

Tôi đã từng nằm trong hoàn cảnh tù túng dưới bộ máy chính quyền ĐCSVN nên tôi cảm nhận được nỗi bức xúc và sự nặng nề của nhiều người phải cam chịu sống im lặng từng ngày. Thật lòng tôi rất muốn gởi tâm tình của một người con yêu nước đến các bạn trẻ Việt Nam, những người chưa thấy rõ bộ mặt đê hèn và trơ tráo của Đảng ta. Tôi biết nhiều bạn trẻ cũng đang cố gắng chèo lái con thuyền của mình trên đại dương đầy sóng gió cạnh tranh, đầy khó khăn cản trở để hướng đến một chân trời mới. Ai cũng có khát vọng và ấp ủ những hoài bão riêng. Lúc còn ngồi trên chiếc ghế nhà trường, nếu các bạn chỉ biết quyết tâm học thật giỏi mà không màng đến thế sự thì cũng giống như tôi trước kia vậy.

Đến khi bước chân vào đời, các bạn bắt đầu nhận ra sự chèn ép bất công trong lòng xã hội. Có khi nào các bạn tự hỏi những điều oái oăm ấy là do đâu? Các bạn sẽ không tìm được câu trả lời thích đáng nếu các bạn chưa bao giờ biết đến hàng ngàn nỗi đau chua xót xảy ra với đồng bào Việt Nam trong thời gian gần đây. Tôi ghê tởm cái cách nhồi sọ tinh vi thuyết Chủ Nghĩa Cộng Sản và cách che giấu ma mãnh của Đảng đã làm các bạn không thể hiểu rõ thực trạng màn trời chiếu đất của nước nhà trong lúc này. Các bạn không học về biến cố thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế (1968) được xem là nỗi kinh hoàng truyền kiếp bởi vụ giết người hàng loạt, chôn sống tập thể của quân đội Bắc Việt còn tàn độc hơn thời Hít-le. Các bạn không được nghe kể về sự xâm lăng của Trung Cộng khi đánh chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974 hay chiến tranh biên giới Việt – Trung vào năm 1979 đã hi sinh biết bao nhiêu chiến sĩ hải quân. Các bạn không được biết chuyện nhà cầm quyền Hà Nội toan phá bỏ những mộ bia của các thuyền nhân năm xưa đi vượt biên tỵ nạn trên đảo Pulau Galang, Nam Dương hay ở một số nơi khác chỉ vì họ muốn che đậy tội lỗi đối với những linh hồn không được siêu thoát sau cuộc chiến.

Các bạn không thấy được chính quyền Cộng Sản thẳng tay đàn áp và bỏ tù những nhà đấu tranh dân chủ như LM Nguyễn Văn Lý, LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Thị Công Nhân, v.v… chỉ vì họ dám đứng lên tranh đấu đòi nhân quyền. Các bạn không ngờ đến việc ĐCSVN đang chứa chấp bọn bá quyền xâm lược Tàu dưới chiêu bài hợp tác khai thác quặng nhôm với Trung Quốc trên vùng Tây Nguyên. Đã có rất nhiều bài viết phân tích về mối nguy hại nghiêm trọng cho môi trường nếu kế hoạch bauxite này được đưa vào hoạt động. Nó không đơn giản chỉ tác hại về kinh tế mà còn cả phương diện xã hội, đời sống, và chính trị khi sự diệt vong của một đất nước đang ở mức báo động. Nhiều dư luận đã lên tiếng phản đối dự án ngu ngốc này của ĐCS nhưng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn phớt lờ tất cả để tiếp tục nối giáo cho giặc. Thật ra, các nhà lãnh đạo nước CHXHCNVN chỉ là bọn bù nhìn đang bị quản thúc dưới tay đàn anh Trung Cộng. Các bạn là những người sáng suốt phải nhìn thấu được điều này và cần biết nên làm gì để hoàn thành sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc.

Đảng cầm quyền Việt Nam đang bóp chết mọi hi vọng và ước mơ của thế hệ chúng ta khi dập tắt những cuộc HSSV biểu tình chống sự xâm lấn của giặc Tàu. Thành phần buôn dân bán nước này cần phải được triệt hạ trước khi chúng dâng hiến toàn bộ giang sơn Việt Nam cho bọn bành trướng Trung Cộng. Tình thế nguy ngập của nước nhà không cho phép tuổi trẻ Việt Nam ngồi yên chịu đựng cái nhục quốc thể. Bây giờ là thời điểm để mỗi người chúng ta góp một bàn tay đấu tranh cho quê hương thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang. Bọn xâm lược Tàu Cộng đã không cho chúng ta quyền tự trị trên mảnh đất Việt Nam thân yêu. Vì thế chúng ta không thể dễ dàng khuất phục cho bọn chúng cai trị dân tộc Việt Nam ta – một dân tộc ngàn đời hiển danh quật cường.

Các bạn đừng phí phạm thời gian cho các cuộc tụ tập vui chơi vô bổ mà hãy dành giây phút vàng bạc đó để tìm hiểu sự thật về tất cả tội ác của chế độ Cộng Sản đã gây ra, về những uẩn khúc lịch sử đang chờ các bạn làm sáng tỏ. Hãy mạnh dạn nói lên những suy nghĩ và ước nguyện của các bạn cho một tương lai nước Việt giàu mạnh. Hãy chia sẽ những tâm tư và trăn trở của các bạn với những bạn trẻ khác để ý thức dân tộc được nâng cao. Hãy chấm dứt sự si mê ngu muội mà Đảng CSVN đang cố tình nhồi nhét vào não bộ các bạn. Chúng ta biết tìm tòi và học hỏi để hướng đến chân – thiện – mỹ chứ không nên chịu sự sai khiến của đám lãnh đạo nhà nước ngu si và bảo thủ. Các bạn không thể tự chủ trên một đất nước không có dân chủ.

Các bạn không thể tồn tại trong một xã hội không có công bằng. Đất nước Việt Nam đang cần các bạn. Một mình tôi không thể làm gì, một nhóm người lẻ tẻ cũng không đủ khả năng giải cứu non sông, nhưng cùng với toàn dân Việt Nam trên khắp năm châu bốn bể, chúng ta sẽ xây dựng lại một quê hương tự do, ấm no và thanh bình.

Hỡi tuổi trẻ Việt Nam, chúng ta hãy cùng nhau đứng dậy!

Lê Nguyễn Huy Trần


Tuesday, April 28, 2009

Thơ Mời Tham Dự Ngày Quốc Hận 30-04-2975 Tại Paris

THƠ MỜI

THAM DỰ NGÀY "QUỐC HẬN 30-4-75
"TRƯỚC SỨ QUÁN HÀNỘI"
TẠI PARIS
Ngày thứ năm 30.4.2009 lúc 17h00

Trung thành với truyền thống tranh đấu bất biến, và lập trường chống cộng, đúng với tinh thần "Quốc Hận 30-4-75" của Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn và Người Việt Tự Do tại Pháp, đã đề ra kể từ ngày thành lập (1977) đến nay.
  • Ban Tổ chức " NGÀY QUỐC HẬN 30-4-75", năm 2009
Trân trọng kính mời Quý Đồng Hương tham dự cuộc biểu tình được tổ chức từ 17 giờ đến 20 giờ chiều Thứ Năm 30-4-2009, tại góc đường Boileau và Boulevard Exelmans , Quận 16 Paris (Métro Exelmans)

Sự hiện diện của Quý Vị nói lên tinh thần bất khuất, kiên trì giữ vững phương hướng chính nghĩa của Người Việt Hải Ngoại trong đấu tranh giải thoát Đồng Bào Quốc Nội khỏi ách cộng sản hầu mang lại Dân Chủ, Tự Do, Hanh Phúc và Thanh Bình, Thịnh Vượng cho Quê Hương yêu dấu .

Paris ngày 15 tháng 4 năm 2009
TM. Ban Tổ chức,

Cựu TTK VPLL, ông Trần Hồng
Cựu TTK VPLL, ông Nguyễn Tường Long (CT/UBBVCNQGVN)
Cựu TTK VPLL, ông Lai Thế Hùng (CT/CĐNVQG-Âu Châu))
Cựu TTK VPLL, ông Dương Văn Lơi (CT/Hội TNCT & NN CSVN)
Dược sĩ Phạm Đăng Lý CT/ Hiệp Hội Cử Tri gốc Á Châu

*
* *


Đỉnh Cao Trí Tuệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Lê Nguyễn Huy Trần

Lê Nguyễn Huy Trần

Trí tuệ của một con người gồm có sự hiểu biết thông thái, tư duy sáng tạo và ý thức bản thân; là ba yếu tố chủ đạo phân định giữa loài người và giống thú. Thế nhưng đối với những người lãnh đạo nhà nước Việt Nam thì ba yếu tố trên không hề tồn tại.

Trí tuệ của Đảng Cộng Sản được định nghĩa bằng bạo quyền, khủng bố, áp bức, bóc lột, xảo trá, lường gạt, bưng bô, bán nước, phản bội dân tộc, giết hại đồng bào. Bất cứ một hiệp định hay dự án nối giáo cho giặc ngoại bang nào cũng được Đảng tuyên truyền là “đỉnh cao trí tuệ” của nhà nước. Ngày hôm nay nhìn hàng triệu người dân oan đang phải gánh chịu muôn ngàn nỗi đau đớn đến từng thớ thịt, buốt cả tim gan vì những “kế hoạch to lớn” của nhà cầm quyền Cộng Sản, tuổi trẻ chúng tôi không nén được nỗi bực tức cho chế độ độc tài Đảng trị và sự ngậm ngùi cho những số phận nghiệt ngã kia.

Có lẽ bộ não của mấy kẻ thất học trong Bộ chính trị được nhào nặn bằng đất sét hay xi-măng nên họ không đủ trình độ để nhận biết rằng ngọn giáo nối cho giặc Tàu ấy chuẩn bị đâm ngược lại chính bản thân họ. Những tội ác ĐCS đã gây nên trong khoảng thời gian cai trị trên đất nước Việt Nam sẽ bị nguyền rủa mãi cho đến những thế hệ mai sau.

Bắt đầu từ sự kiện hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Đây là cuộc chiến xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Tàu Cộng sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương. Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa đã vô cớ cho chiến hạm đến đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã dũng cảm chiến đấu tới cùng để bảo vệ toàn vẹn lãnh hải. Nhiều thuỷ thủ Việt Nam, trong đó có hạm trưởng Nguỵ Văn Thà của HQ-10, đã ngã xuống trong trận hải chiến này nhưng nhà nước XHCNVN không bao giờ tưởng nhớ đến sự hy sinh anh dũng của các anh.

Trái lại, họ dễ dàng để cho giặc Tàu tàn phá những bia chủ quyền, xóa sạch những di tích lịch sử và mộ bia của ngư dân Việt trên quần đảo này. Nhân bản tối thiếu của chính quyền Cộng Sản đã lụn bại quá độ khi đồng tình với lũ ác bá Trung Cộng không để hương hồn của những người đã khuất được yên nghỉ nơi chín suối. Ngày hôm nay lại tiếp tục xảy ra tranh chấp lãnh hãi chỉ vì bản công hàm bán nước do thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký ngày 14/9/1958

Tuy nhiên bản công hàm xác định hải phận này không nói rõ chủ quyền của Trung Quốc ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Cộng đã ngang nhiên dựa vào nó để chiếm cứ hai hòn đảo này mà bất chấp luật quốc tế về biển. Bộ chính trị quốc phòng Việt Nam đã làm gì để ngăn chặn sự cướp đoạt trắng trợn này của Trung Cộng? Họ chẳng có biện pháp nào ngoài hai chữ “câm lặng” thể hiện đỉnh cao trí tuệ của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh hành động dâng hiến đất đai của tổ tông cho quân cướp nước là một việc làm sáng suốt.

Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu bán Ải Nam Quan, rồi thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm và những thắng cảnh thiên nhiên cũng đã mất. Nếu các cán bộ Trung ương này cứ mãi lập chiến công bán nước thì dải đất Việt Nam sẽ không còn mềm mại hình chữ S. Và một ngày không xa, toàn bộ giang sơn gấm vóc chẳng còn thuộc về con Rồng cháu Tiên nữa khi giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi. Thật nhục nhã cho cái mà Đảng và nhà nước gọi là “đỉnh cao trí tuệ”.

Tiếp đến là chiến tranh biên giới Việt – Trung xảy ra vào năm 1979 khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kịch liệt phản đối quan niệm của Tàu Cộng về chủ nghĩa bành trướng ở Liên Xô sẽ nguy hại đến các nước cộng sản trong khu vực Châu Á và vì thế mà không tham gia vào khối liên minh chống Liên Xô. Ngày 17/2/1979, quân đội Trung Cộng bắt đầu tiến đánh tuyến biên giới phía Bắc nước Việt như thể “dạy cho Việt Nam một bài học” theo lời Đặng Tiểu Bình vì cái tội cãi lời đàn anh.

Tuy cuộc chiến này chỉ diễn ra trong vòng một tháng nhưng rất quyết liệt. Những hành vi man rợ của giặc Tàu lấy dao chẻ củi và dùng cọc tre đánh chết hàng trăm trẻ em, phụ nữ rồi quăng xuống giếng nước. Hậu quả là quan hệ hai nước Việt – Trung trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Không còn khoảng viện trợ từ Trung Quốc, nền kinh tế và vấn đề ngoại giao của Việt Nam lúc bấy giờ bị tổn hại nặng nề. Dù vậy, tinh thần vì thể diện quốc gia của các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới này sẽ mãi được ghi nhớ trong lòng mỗi người dân mang dòng máu Lạc Việt.

Thế nhưng Đảng Cộng Sản lại cho xây dựng những nghĩa trang với những dòng chữ “nhớ ơn liệt sĩ Trung Quốc” hay “Nhân dân Việt Nam ghi công liệt sĩ người Trung Quốc” trên khắp đất nước. Quả là một chuyện khôi hài mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Có thể chế nào lại khua trống thổi kèn biểu dương quân thù đã từng đô hộ đất nước của mình một ngàn năm?

Có chính quyền nào lại dựng đài tưởng niệm kẻ xâm lăng giết hại đồng bào của mình? Có nhà nước nào lại kính trọng dâng những vòng hoa tưởng nhớ công lao của kẻ địch trong khi xương máu các vị anh hùng dân tộc thì bị chìm vào quên lãng? Thật sự tôi không biết phải dùng từ ngữ nào để diễn tả cái đạo đức tồi bại của ĐCS cho phải phép. Vẫn chưa hết, hiện nay có một cuốn sách ca ngợi những chiến công hiển hách của Tàu Cộng trong chiến tranh biên giới Việt – Trung được phát hành trên nước ta. Đó là cuốn “Ma Chiến Hữu” của tác giả Mạc Ngôn ở Trung Quốc do Trần Trung Hỷ dịch thuật.

Tại sao ĐCS cho phép xuất bản? Cho dù tác phẩm này có giá trị văn học đến thế nào đi chăng nữa thì làm sao chúng ta có thể chấp nhận cho nó lưu hành trên thị trường khi mà nó chà đạp lên lòng tự trọng dân tộc và vong linh của các liệt sĩ đã ngã xuống cho quê hương. Đỉnh cao trí tuệ của Đảng là hèn nhát quỳ lạy dưới chân Tàu Cộng mặc cho niềm kiêu hãnh của dân tộc bị bôi nhọ hay sao. “Một cách suy nghĩ khác về chiến tranh” nào nữa nếu không là vì gìn giữ non sông và bảo tồn nòi giống. “Một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng” tuyệt vời đến mức độ nào đây khi cái thuyết chủ nghĩa ấy chỉ biết đày đọa người dân đến chốn bần hàn cơ cực, ngay cả chén cơm ăn cũng không kiếm nổi. Ôi trí tuệ của Đảng ta!

Nhà cầm quyền Cộng Sản còn tiếp tục vươn đến những đỉnh cao bạo tàn khác nữa chứ không chỉ dừng lại ở đó. Chính quyền địa phương ở nhiều nơi đã dùng quyền lực chiếm đất đai của các giáo hội bất hợp pháp để dùng vào mục đích riêng.

Công an thì thẳng tay đàn áp người dân vô tội khi họ lên tiếng chống đối sự cướp giật ngang ngược của bè lũ lãnh đạo. Tiêu biểu là vụ cướp đất giáo xứ Thái Hà đã gây nên làn sóng phẫn uất trước thái độ lộng hành của nhà nước. Thời đại này là thời đại gì mà cảnh sát, dân phòng, thanh tra xây dựng giăng hào rào dây thép gai xung quanh địa phận nhà thờ Thái Hà vào đêm tối. Hành động lén lút đó chứng tỏ chúng là bọn cướp.

Xót xa thay cho các giáo dân Thái Hà hiền lành hằng ngày chỉ biết cầu xin Đức Mẹ ban phước lành. Những tiếng thét gào đau đớn của các con chiên trước giáo đường xé toạch màn đêm. Những câu kinh cầu nguyện se sắt trái tim những tu sĩ nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Một thánh địa tôn nghiêm đến thế mà chính quyền cũng không để yên. Họ còn đe dọa bỏ tù các tín đồ không một tấc sắt trong tay nếu có hành động không tuân thủ luật pháp. Nhà nước Pháp quyền Việt Nam chỉ biết xài luật rừng rú chứ có luật lệ gì khi tín ngưỡng tôn giáo bị cấm đoán và nhân quyền thì hoàn toàn không có.

Ai nói ĐCS của dân, cho dân, và vì dân? Ngày nay Đảng ức hiếp dân, đánh đập dân, và sát hại dân. Xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản đã thật sự đảo điên, không còn luân lý. Tất cả những ai còn lương tâm với vận mệnh đất nước xin hãy đứng lên đòi lại công lý cho giáo xứ Thái Hà. Đó cũng là chính là lối thoát khỏi màn đêm tăm tối do ĐCS bủa vây, tự cứu lấy bản thân, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn. Cám ơn những vị luật sư như LS Lê Trần Luật, LS Huỳnh Văn Đông đã không ngại nhà cầm quyền Việt Nam hạch sách để đứng lên tranh đấu cho sự thật và công lý. Tuổi trẻ chúng tôi tin tưởng rằng không một thế lực độc đoán nào có thể chiến thắng được công bằng, bình đẳng và chân lý.

Thêm một chủ trương lớn của Đảng là dự án khai thác Bauxite đã được đưa vào hoạt động. Hàng ngàn mẫu đất trên vùng Tây Nguyên đã bị san bằng cháy đỏ đau thương. Những lá cờ in chữ Tàu cắm rợp trời xung quanh khu vực khai thác như thể đó là lãnh thổ của bọn Trung Cộng bành trướng. Tôi không cần thiết phải nói đến những tác hại về kinh tế, chính trị và môi trường trong việc khai thác quặng vì hầu hết mọi người đều có thể tìm đọc những bài viết phân tích cụ thể ở trên mạng. Vấn đề tôi muốn đề cập đến ở đây là việc di tản dân cư Tây Nguyên đi chỗ khác. Từ xưa đến nay những người lao động chân chính này chủ yếu dựa vào canh tác cà phê, chè, điều, cao su là nguồn thu nhập chính của họ. Đời sống của họ sẽ ra sao khi đến vùng đất mới? Văn hóa Tây Nguyên có thể nào bảo tồn được nữa?

Họ sẽ phải bắt đầu từ đâu và làm gì để sinh nhai? Nhà nước Cộng Sản không những không tạo công ăn việc làm cho người dân mà còn phá hoại công ăn việc làm rồi đẩy họ vào bước đường cùng. Ngày xưa khi miền Bắc thống trị toàn đất nước sau ngày 30/4/1975, người dân miền Nam vượt biên đi tìm xứ sở tự do thì ĐCS bảo là phản bội Tổ quốc. Ngày nay khi chính quyền ép dân phải rời bỏ nơi tổ tiên ông bà thì ĐCS có cho những người dân này là kẻ phản đồ?

Các vị lãnh đạo Đảng gây tổn hại đến phong tục truyền thống, triệt hạ dòng giống, đưa quê hương đến bờ vực thẳm diệt vong. Chính bè lũ này mới là tội đồ ngàn đời của dân tộc bởi những chính sách buôn dân bán nước của họ. Sau hàng loạt tai tiếng như vụ PCI, vụ Lãnh sự quán Việt Nam đã bán hộ chiếu cho mọi người, vụ phi công, tiếp viên hàng không và nhân viên Vietnam Airlines đã tổ chức ăn cắp hàng cao cấp để vận chuyển về Việt Nam tiêu thụ, v.v…thì dân Nhật Bản đã nhận xét chính quyền CSVN chỉ đáng được xem là “giòi bọ”. Nhục nhã thay khi chính chế độ ấy lại đang đại diện cho đất nước Việt Nam trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng này.

Trí tuệ con người Việt Nam trong mắt thế giới chỉ biết ăn bám, trộm cắp, xảo biện thế sao? Ai đã làm tuổi trẻ chúng tôi không còn tự tin ngẩng mặt nhìn đời? Ai đã huỷ hoại niềm tự hào lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến của nước Việt Nam chúng tôi? Đau lắm khi nước mắt mẹ Việt Nam tuôn tràn nhìn đàn con thơ dại có tội tình gì mà phải chịu biết bao bi luỵ và khổ ải.

Sau ba mươi bốn năm chính thức cầm quyền, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã làm được những gì cho nhân dân với cái đỉnh cao trí tuệ ấy. Đó là hình ảnh những đứa trẻ bán vé số với đôi bàn chân trần phải lang thang khắp hang cùng ngõ tận trong chiều đông buốt giá. Là những người nghèo mạt không được xã hội trọng dụng, phải vất vưởng nơi sân ga hay công viên khi không có chổ trú thân qua đêm. Là nhiều gia đình tự tử chỉ vì không đủ tiền mua gạo trong những ngày Tết Kỷ Sửu. Là các công trình xây dựng cầu đường bị sập do sự bòn rút, cắt xén vật liệu của các cán bộ cấp cao.

Là ăn chận của công bỏ túi riêng đến hàng chục triệu Mỹ kim trong khi dân chết mặc dân. Là sự khiếp nhược trước Tàu Cộng tàn ác đến cả thai nhi cũng có thể nấu canh ăn bổ dưỡng khí huyết. Là biết bao phụ nữ Việt Nam bị bán ra ngoại quốc, làm dâu nơi xứ người trong tủi hờn, nhục thể. Là thanh niên thiếu ý thức sa vào cảnh nghiện ngập, hút sách. Là dân oan lên tiếng phản đối chính quyền cướp đất, cướp nhà một cách bất hợp pháp thì bị kết tội gây rối trật tự. Là làn sóng học sinh và sinh viên xuống đường biểu tình chống Tàu Cộng sang xâm lược lại bị chính quyền CSVN đàn áp, bắt bớ. Là những tai ương gieo xuống cuộc sống của hơn tám mưới triệu dân vì chủ nghĩa Cộng Sản. Vậy thì tại sao tuổi trẻ chúng ta chỉ biết nhìn cam chịu mà không hành động? Chúng ta không phải là những kẻ nô lệ phục dịch cho ngoại bang.

Chúng ta không thể ngồi yên cho bạo lực giết chết tương lai của tuổi trẻ Việt Nam. Chúng ta có quyền làm những con người chân chính và hiên ngang sải bước trên mảnh đất Việt Nam. Chúng ta hãy cất lên tiếng nói đòi nhân quyền cho dân tộc mà ĐCS đã ngang nhiên tước đoạt hơn ba mươi năm. Chúng ta phải tranh đấu cho quê hương và dành lấy những gì thuộc về chúng ta. Những cánh chim yêu nước Việt Nam trên toàn thế giới hãy dang rộng đôi cánh yêu thương, hãy nối tiếp từng đàn đùm bọc, hãy vì một tương lai tự do, và hãy hướng về tổ ấm cội nguồn vì nơi đó chúng ta mới là tuổi trẻ Việt Nam.

Lê Nguyễn Huy Trần


"ĐÁNH TRÂU" BẤT BẠO ĐỘNG, "ĐÂU TRÁNH" CỦNG CỐ ĐỘC TÀI - Trương Minh Hòa

Trương Minh Hòa

Sau ngày 30 tháng 4 nam 1975, kẻ thù mới của đảng Cộng Sản Việt Nam là tập thể những người bỏ nước ra đi tìm tự do, tập hợp lại thành một lực lượng chống Cộng toàn cầu, ảnh hưởng mạnh nhất tại các nước dân chủ hùng mạnh nhất thế giới. Những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, may mắn thoát khỏi "thiên đàng Cộng Sản" cùng nhau, hạ quyết tâm ban hành chính sách "cấm vận ngoại giao" bất thành văn cho đến ngày nay, làm bạt vía kinh hồn những tên "vừa ăn cướp vừa lên lớp dạy đời" sau những chuyến "tham quan và hữu nghị ăn mày" các nước "tư bản phản động" bằng "HẬU MÔN" mà cảm thấy "phấn khởi hồ hởi" liếm gót, hít địt "bọn đế quốc tư bản phản động" để kiếm chút "bơ thừa sữa cặn" mà lòng "phơi phới một niềm vui".

Do đó, chính tên thủ tướng mà dân chúng "tưởng thú" Phạm Văn Đồng bực tức nguyền rủa theo tiếng Việt trong sáng: "bọn đĩ điếm du côn" nhằm ngăn chận những người Việt nào tìm đường vượt biển, vượt biên, mà chắc chắn là để gia nhập vào "lực lượng chống Cộng" hải ngoại. Sau nầy, từ khi Liên Sô và toàn bộ các nước Cộng đảng Đông Âu sụp đổ, vì nhu cầu tồn tại, nên đảng cướp Việt Cộng đổi giọng: "khúc ruột nghìn dậm nối liền" để thu tiền, vừa triệt hạ luôn tư cách tỵ nạn chính trị, nếu quay về theo diện TAM DU: "du lịch, du hý, du dâm" và cũng vừa tước bỏ khí giới của người bỏ nước ra đi vì hai chữ "tự do" qua chiêu bài: "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Tuy nhiên cái thứ "vũ khí lạc hậu lỗi thời" nầy tỏ ra không có "hiệu ứng nhà kín" trong lãnh vực tuyên truyền, kể từ khi câu nói của thượng tá Tám Hà đã trở thành tục ngữ: "Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm". Do đó, nhằm trang bị thứ vũ khí mới, qua sách lược ru ngũ qua bải bản cũ bên Tàu, thời Hán-Sở tranh hùng với: "tiếng sáo Trương Lương" đánh động tình yêu quê hương, được bọn gián điệp nằm vùng phát động với: quê hương là chùm khế ngọt, cây đa đầu làng, bến đò cũ người xưa ..... nhưng cũng đã bị vô hiệu hóa, khi lòi ra cái nhản hiệu cầu chứng "cờ đỏ sao vàng" được xuất khẩu sang các đại lý nằm vùng với các cơ quan truyền thông, trung tâm văn nghệ: "xanh vỏ đỏ lòng", rõ ràng là: "made in Việt Cộng".

"Ai bể mánh mà không hề bị lột mặt?
Ai trở cờ mà không đón gió bao giờ?
Dậy mà đi, dậy mà đi ..."

Cho nên kế hoạch "trường kỳ" tấn công vào người Việt hải ngoại luôn nằm trong sách lược của Việt Cộng, chúng ra sức biến một tổ chức kháng chiến giả, 10 ngàn kháng chiến quân ma, chiến khu dỏm, là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh thành một tổ chức chính trị nhằm "giải phóng hải ngoại, bàn giao trong vòng trật tự" như Mặt Trận Giải Phóng của đám Nguyễn Hữu Thọ trước 1975 ở miền Nam, là "giải phóng lộn địa chỉ", là thứ PHÂN của đảng Cộng Sản, nên sau nầy bị vứt xuống "ao cá Bác Hồ" khi "cách mạng thành công để giết người, cướp của"; đây là bài học cho những người còn u mê tin vào băng đảng Việt Tân qua lối "đấu tranh ruồi bu" từ trong và ngoài nước. Ngày nay Mặt Trận Hoàng Cơ Minh đã "quá độ" sang thành "cánh tay nối dài của đảng Cộng Sản VN tại hải ngoại", và họ uyển chuyển trong thứ vũ khí ru ngủ mới, theo công thức cũ: "đấu tranh bất bạo động để tháo gở độc tài" nhưng công thức của bài thuốc an thần có chứa độc chất hiện rõ trong công thức (formular): "đảng Cộng Sản Việt Nam là thành phần dân tộc, Hồ Chí Minh là người có công với đất nước".

Băng đảng Việt Tân hợp cùng Việt kiều, Việt Cộng phổ biến bài thuốc "bất bạo động" cũ, có pha CÀ RI, rập khuôn theo lối đấu tranh của Ghandi, thành công vì thực dân Anh có tính cởi mở, nếu áp dụng vào thực dân Pháp thì bị tù đày, an trí như nhà cách mạng Phan Bội Châu, thất bại như Phan Chu Trinh ..... do đó bài thuốc ru ngủ có pha cà ri không thể thuyết phục được mọi người tỵ nạn, vì đối với bọn cướp thì phải có cảnh sát với vũ khí, cái còng ... chớ "bắt cướp bất bạo động" để bắt cướp, là giúp cho chúng càng lộng hành, gây thêm tội ác.

Đảng siêu cướp Cộng Sản vốn gian ác tham, không bao giờ chịu từ bỏ quyền lực để "dân chủ đa nguyên" ngoại trừ đánh cho chúng tan tác. Tại Nga, Đông Âu, nếu" tháo gở độc tài theo lối bất bạo động" thì làm sao có thể lật nhào Cộng Sản? Và nhà tù lao cải có thêm thành phần "lao động là vinh quang" bị chụp mũ phản động, phá rối trật tự trị an, cấu kết với các thế lực thù nghịch ... Những cuộc xuống đường có "năng động cách mạng" ở Pháp năm 1789 làm sụp đổ vương quyền Louis 16, những người Nga, Đông Âu rần rộ ra đường quyết: "đập tan mọi xích xiềng, giành lấy chính quyền về tay nhân dân" đã thành công, chớ bất bạo động thì làm sao tháo gỡ độc tài? Cũng như không đi làm, thì lấy đâu ra tiền mà xây nhà, mua xe? Không thèm học mà đòi có bằng tiến sĩ ở các nước dân chủ, ngoại trừ ở Việt Nam thì "nhỏ không học, lớn bằng tiến sĩ" hay là "nhỏ chống Mỹ, lớn thành tiến sĩ" đầy đường .....

Băng đảng Việt Tân cố gắng "triển khai" và quảng cáo bài thuốc ngủ hiệu "cờ đỏ sao vàng", cho người len lỏi bán sỉ cho vài tôn giáo, khai thác yếu tố "từ bi, bao dung" để bán thuốc ngủ có pha cà ri; trong khi đó thì tôn giáo là kẻ thù của vô thần, Karl Marx thẳng thừng: "tôn giáo là thuộc phiện". Bất cứ tôn giáo nào cũng dạy con người "làm lành lánh dữ" nên lòng thương yêu là chủ tâm trong các tôn giáo, nhằm đưa đến thế giới hòa bình, an lạc. Tuy nhiên tôn giáo nào cũng "chống lại ma quỷ", được ghi nhận qua các huyền thoại của những vị khai sáng, ngày nay nhất là quỷ đỏ vô thần, là thứ quỷ vô cùng nguy hiểm, trà trộn trong các tôn giáo, rồi dùng tôn giáo để triệt tôn giáo, thật là tinh vi.

Do đó tôn giáo còn thêm chức năng TRỪ TÀ để bảo vệ đạo, trước sự đe dọa, cám dỗ của ma quỷ chung quanh. Lợi dụng "mặt yếu" khoan dung, từ bi của các tôn giáo, bọn quỷ đỏ vô thần Cộng Sản tấn kích và khai triển "đấu tranh bất bạo động" và được bọn MA-LAI Việt Tân cổ võ, nên gần đây mới có toa thuốc ru ngủ mới "là BIỂU TÌNH TẠI GIA, thật là nguy hiểm vô cùng; nếu khai triển thêm thì cũng có cả: biểu tình tại đồng ruộng, biểu tình tại hãng, biểu tình tại quán cà phê, biểu tình tại nhà hàng, dân chơi cũng" biểu tình tại động đĩ", người lái xe thì biểu tình tại xe, người bịnh biểu tình tại giường, học sinh, sinh viên biểu tình tại lớp, ngay cả những người đã "gĩa từ gác trọ" cũng có có khả năng bày tỏ lập trường chính trị "biểu tình tại nghĩa địa".... tức là biểu tình "xuất phát từ lòng người" và được lái sang "bất bạo động" một cách sáng tạo lẫn tối tạo mà kẻ thù Cộng Sản hợp cùng tay sai Việt Tân phát động rần rộ. Nếu ngày xưa, trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam, toàn dân cùng nhau "đánh đuổi Tàu tại gia", hội nghị Diên Hồng cũng "họp tại gia", thì ngày nay đất nước Việt Nam trở thành huyện của Trung Hoa từ thời lập quốc, chớ nào còn tới tay Việt Cộng để bán. Nhưng trong thời binh lửa, khi mà giặc Cộng đánh phá, lúc "quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách" đang cần người chống đỡ sơn hà, thì cũng có một số:

"Thanh niên sức mạnh sơn hà.
Không lo diệt giặc ở nhà tu thân"

Đó là những người "chống Cộng tại gia" mà hiu hiu tự đắc: "TẠI GIA đừng tưởng là TA DẠI nhé!", Rồi những người chống Cộng tại gia nầy cũng xưng là CƯ SĨ, sau nầy ra hải ngoại cất chùa bằng tiền bá tánh, giàu hơn KỸ SƯ rất nhiều.

Cũng nằm trong bài thuốc ngủ có pha cà ri, ngục khỉ Nguyễn Chí Thiện khuyên người Việt tỵ nạn hãy vào hội trường mà "phát biểu" với những tên Việt Cộng, chớ đừng biểu tình, dùng biện pháp nầy làm cho chúng "ăn năn" và tiếp tục "ăn tiền" nhiều thêm, khi các HIỀN HUYNH của Nguyễn Chí Thiện vẫn hạ quyết tâm "bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa như bảo vệ con ngươi trong tròng mắt". Rồi sau nầy, nếu nhà "đánh trâu" Nguyễn Chí Thiện thành công trong việc "dắt tay người Việt hải ngoại đi theo tấm bản chỉ đường trong đấu tranh bất bạo động" thì người Việt hải ngoại đỡ khổ lắm, khỏi mất công đi biển tình chống những đoàn văn công, những tên đầu lãnh đảng cướp, văn công .... chỉ cần "BIỂU TÌNH TẠI NHÀ" hay "Biểu tình tại giường ngủ" là thế nào Việt Cộng cũng khoái chí đấy.

Nếu ngày Quốc hận 30 tháng 4 hàng năm được "triển khai" theo sách vở của Ghandi và được Việt Tân rao giảng, quảng cáo: "đấu tranh bất bạo động để tháo gỡ độc tài", thì người tỵ nạn cũng dám "chống Cộng tại gia", nếu có "bức xúc" những đau buồn ngày tang dân tộc, hãy cùng với anh em Hoàng Cơ Định, các cơ sở đảng Việt Tân, cùng nhau "xuống đường" để DIỄN HÀNH CHO TỰ DO và luôn tiện đồng ca bài: "Như có bác Hồ Trong ngày vui đại thắng" là Việt Cộng đỡ lắm, không cần huy động lực lượng để bảo vệ các sứ quán, trước những "âm mưu biểu tình trước cửa của những thế lực phản động ở nước ngoài" hàng năm đến đây để hỏi tội bọn sát nhân.

Khi đa số cùng "nhất trí" biểu tình tại gia, hay tại nơi làm việc, sinh hoạt và nhất là giới tu sĩ, có trình độ giác ngộ cao, cũng dám BIỂU TÌNH TẠI TÂM, như Phật TứcTâm, Chúa hiện diện ở trong lòng ... là coi như Việt Cộng thành công, từng bước tiến công, để "giải phóng hải ngoại" và yên tâm là người dân trong nước, các tôn giáo chỉ biểu tình tại TÂM thôi, là lối BIỂU TÌNH CAO CẤP, cũng đủ để tạo được nền "dân chủ đa nguyên TẠI TÂM", còn thực tế thì đảng Cộng Sản vẫn "thanh tâm trường cai trị". Tại miền Nam trước 1975, nhóm Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, đâu có "chống chính phủ tại gia, hay tại chùa" mà kéo xuống đường, mang cả bàn thờ Phật, làm rung rinh cả miền Trung năm 1966; nếu biểu tình tại gia, thì hòa thượng Thích Quảng Đức cũng dám "tự thiêu tại tâm" chớ không chết đâu. Tại hải ngoại, nếu thiền sư Thích Nhất Hạnh phát huy lối "biểu tình phản chiên khuynh tả tại gia" thì miền Nam đỡ khổ biết mấy .... còn nhiều thứ TẠI GIA khác đã xảy ra trong lịch sử dân tộc.

Khai triển thêm chuyện "tháo gỡ độc tài" theo kiểu Việt Tân được Việt Cộng chỉ đạo và tác động vào thành phần Việt Kiều TAM DU, vốn sợ Việt Cộng như sợ cọp khi về nước và ngay tại nước tự do cũng ngán lắm, họ rất "hồ hởi phấn khởi" biểu tình tại gia cũng vừa phát huy TỨ KHOÁI, cũng tại gia luôn .... để bày tỏ lập trường tỵ nạn chính trị TẠI GIA mà lòng vơi đi phần nào nỗi buồn quốc hận", thì việc tháo gỡ độc tài trở thành "hỗ trợ cho giặc Cộng" thêm bền vững, tiếp tục đè đầu cỡi cổ dân chúng bằng BẠO LỰC, chớ Việt Cộng không bao giờ đàn áp dân bằng biện pháp BẤT BẠO ĐỘNG cả.

Trương Minh Hòa
28.4.2009