Monday, October 27, 2008

Trò hề tại khách sạn Ramada

Trần Thanh

Cuộc họp báo tại khách sạn Ramada do ông Thiện tổ chức là một trò hề. Nhiều người tham gia và phát biểu là băng đảng của ông ta. Người duy nhất "được phép" phát biểu 20 phút là bà Hoàng Dược Thảo, chủ bút tờ báo Sài Gòn Nhỏ tại quận Cam. Tuy nhiên, bà Thảo chỉ mới nói được khoảng ba phút thì bị cái đám băng đảng bát nháo, cá mè một lứa la ó, phản đối nên bà đã chấm dứt và bỏ ra về sớm. Bà Thảo đã phát biểu những gì? Bà nói rằng bà không chú ý đến những yếu tố chính trị và tình báo. Ðiều duy nhất bà ta muốn biết là:- Ông Thiện có phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề hay không? Tiếp theo bà Thảo đưa ra một đề nghị: - Bà đọc lại lá thơ mà ông Thiện "đã viết"(?) bằng tiếng Pháp gởi cho tòa đại sứ Anh năm 1979 và yêu cầu ông Thiện viết lại tại chỗ, trước sự chứng kiến của nhiều người. Nói gọn, đây là hình thức "đọc chính tả". Tuy nhiên, ÔNG THIỆN ÐÃ TỪ CHỐI lời đề nghị của bà Thảo. Ðây là yếu tố hết sức quan trọng mà theo sự đánh giá của một số người hiểu biết về pháp luật thì họ cho rằng ông Thiện đã thua và bà Thảo đã thắng! Một cuộc so găng hết sức ngắn gọn chỉ trong vòng năm phút, cú nốc ao đã được thực hiện, người thắng lại là một phụ nữ chân yếu tay mềm!!!

NHẬN XÉT:

1. Lời đề nghị của bà Thảo hết sức đơn giản, chỉ là "đọc chính tả" lá thơ bằng tiếng Pháp, nếu ông Thiện đồng ý thì thời gian chỉ mất tối đa là mười phút. (Cứ cho là bà Thảo đọc thật chậm, mỗi câu lập lại ba lần và cậu học trò Thiện ngồi vểnh tai nghe, cắm đầu viết nắn nót cho trúng chính tả) Bà Thảo là người đã từng học trường Pháp từ hồi nhỏ cho nên trình độ Pháp văn của bà chắc chắn không đến nỗi tệ và ta có thể tin tưởng là bà phát âm đúng giọng để ông Thiện có thể nghe hiểu và viết. Tuy nhiên ông Thiện ÐÃ TỪ CHỐI. Cây ngay không sợ chết đứng, vàng thiệt không sợ lửa. Tại sao ông Thiện lại từ chối? Ðiều này làm cho công chúng có thể suy luận rằng:

- Ông Thiện dốt Pháp văn nên không dám chấp nhận cuộc thách đấu! Trong cuộc phỏng vấn với bà Bút Vàng hồi ngày 2 tháng 10 năm 2008, ông Thiện đã khoe rằng ông đã đọc nhiều tiểu thuyết bằng nguyên tác tiếng Pháp, ví dụ như "Ba chàng ngự lâm pháo thủ", "Hai mươi năm sau" ..v..v.. Ðây là những tác phẩm nổi tiếng mà sau năm 1954, người dân tại miền Nam có dịp được thưởng thức qua tài dịch thuật của dịch giả Hà Mai Anh. Một người học ngoại ngữ mà có đủ trình độ để đọc tiểu thuyết chắc hẳn phải là trình độ rất khá, vậy thì việc viết chính tả một lá thơ là chuyện rất dễ như ăn kẹo. Nhất là lá thơ đó được xem như do "chính ông Thiện đã từng viết"?! Do đó, ông Thiện từ chối cuộc thách đấu là coi như ông Thiện đã thua! Ông thua thì người ta có quyền kết luận rằng ông là thằng nói láo!

2. Từ chuyện nói láo là "giỏi Pháp văn" (đọc được tiểu thuyết Pháp), bị thua trước sự chứng kiến của hàng trăm người trong cuộc họp báo thì người ta có thể suy luận ra là những chuyện khác, ông Thiện cũng nói láo! Tất cả những gì mà ông đã từng tiết lộ qua "tiểu sử" của ông đều là láo vì rất nhiều sự kiện mâu thuẫn nhau, ví dụ như năm sinh, ngày ra vào tù, đột nhập vào tòa đại sứ Anh, trình độ học vấn, dạy học môn sử ở ngôi "trường" chỉ có .... một lớp(!), "sáng tác" tập thơ Vô Ðề ..v..v.. Ngạn ngữ Pháp có câu: "Kẻ nào ăn cắp một quả trứng thì sẽ ăn cắp cả con bò!" Câu này rất chí lý nếu ta liên tưởng đến trường hợp ông Thiện!

3. Bà Thảo là người rất can đảm và có trí. (Khác với tên hề Lý Tống là kẻ hữu dõng vô mưu, chỉ có sự liều mạng mà không có trí) Bà đã dám đi vào hang hùm ổ rắn để chất vấn kẻ gian. Bà ta chỉ xuất một chiêu duy nhất, nhanh gọn nhưng đánh đúng vào tử huyệt của đối thủ, sau đó bà ra về sớm, mặc cho cả đám băng đảng tha hồ tâng bốc lẫn nhau và tung hô "chiến thắng"!

Toàn bộ cuộc họp báo nếu chỉ nhìn bề ngoài thì người ta thấy đó là những "chiến thắng vang dội" của nhóm bè đảng của ông Thiện. Mỗi khi ông Thiện phát biểu một điều gì thì cái đám lâu la lại tung hô vạn tuế vang dội! Ðó chỉ là một trò hề vì có sự thiên vị quá rõ ràng, không cho bà Thảo được nói đủ 20 phút theo như ông Thiện đã hứa!

4. Tất cả những "bằng chứng" mà ông Thiện đưa ra cũng chỉ là trò hề. Cái mà bà Thảo cần là tuồng chữ viết tay ngay tại chỗ và sau đó đưa cho bà Thảo để bà ta thuê CHUYÊN VIÊN GIẢO NGHIỆM. Bà có quyền thực hiện một cuộc giảo nghiệm chữ viết riêng cho phía mình. Cuộc giảo nghiệm chữ viết của ông Thiện không đáng tin tưởng vì những giả thuyết trong công chúng:

- Tài liệu đã bị GIẢ MẠO NGAY TỪ ÐẦU
- Không hề có chuyện ông Thiện đột nhập vào tòa đại sứ Anh ngày 16 tháng 7 năm 1979
- Tác giả Vô Danh bị công an bắt ==> công an bắt ông Vô Danh chép lại tập thơ Vô Ðề ==> sau khi chép xong, ông Vô Danh bị thủ tiêu ==> ông Thiện được công an tuyển chọn và yêu cầu chép lại tập thơ với tuồng chữ của ông ==> tập thơ với tuồng chữ của ông Thiện được chuyển ra hải ngoại mà nhiều người tin là ...."bản gốc"! ==> tòa đại sứ Anh "trả lại" tập thơ (?) nhưng lại đi lòng vòng qua tay nhiều người, trong đó có ông Ðinh Quang Anh Thái, cuối cùng mới tới tay ông Thiện!
- Báo Văn Nghệ Tiền Phong đang giữ bản gốc. Bản chép tay "gốc" được tòa đại sứ Anh trao trả qua tay ông Ðinh quang Anh Thái chỉ là bản giả mạo.

Như vậy thì "giảo nghiệm" chữ viết cũng là vô ích vì sự gian lận đã được chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ đầu! Ðó là lý do vì sao Thiện đã hồ hởi phấn khởi tuyên bố hắn đã phải trả cho chuyên viên giảo nghiệm 1800 đô la! Ðám cò mồi vỗ tay vang dội!

Do đó mà bọn lưu manh đã chắc thắng, đòi cá độ 200 ngàn đô la!!! Ðúng là một lũ lưu manh, đểu cáng, mất dạy!!! Tên hề Lý Tống đã công khai lộ mặt là một tên thảo khấu lý-tống-tiền, đòi cá độ 200 ngàn! Giả sử như bà Thảo có dư 200 ngàn đô, cũng không dại dột gì đem cúng cho cái băng đảng núp dưới lớp áo "người quốc gia chống cộng"! Chẳng thà đem tiền đó cho những người Mỹ homeless, những người dân oan ở trong nước, hoặc những nhà đấu tranh cho dân chủ ....

5. Bợm già mắc bẫy cò ke. Theo câu tục ngữ này, bợm già là tên trùm lưu manh, cực kỳ xảo quyệt, chuyên đi lừa gạt thiên hạ và lừa đảo những cú rất lớn. Ấy vậy mà một hôm hắn đã bị sập một cái bẫy hết sức đơn giản là cái bẫy rập cò ke! Ông trời có mắt!

Bà Thảo báo trước cho Thiện và băng đảng biết là bà sẽ đến họp báo để "giảo nghiệm chữ viết". Thiện và bọn đàn em tưởng thật, vội vàng đi lên San Francisco nhờ giảo nghiệm những tài liệu ... "gốc" (?) Bọn chúng hí hửng và nắm chắc phần thắng nên đã lớn tiếng đòi cá độ 200 ngàn đô! (Một hình thức trấn lột tiền của bọn xã hội đen). Khi đến họp, bà Thảo có đem theo cái máy chiếu slide làm cho Thiện chột dạ. Và thật bất ngờ là bà Thảo đề nghị "đọc chính tả"! Ðúng ra cũng không hoàn toàn là đọc chính tả. Chúng ta ai cũng còn nhớ lúc học tiểu học có môn "đọc chính tả", thầy cô giáo đọc cho chúng ta chép lại những đoạn văn mà chúng ta hoàn toàn KHÔNG BIẾT TRƯỚC NỘI DUNG. Ðằng này bà Thảo đọc cho Thiện viết lại cái lá thơ do "chính Thiện đã viết"(?). Nếu ông Thiện thực sự là tác giả và thực sự là người có trình độ Pháp ngữ giỏi thì sợ đếch gì mà không dám viết? Có viết mười bài chính tả như vậy cũng đếch có sợ mà lại là cơ hội bằng vàng, chứng minh mình là "thứ thiệt", chính nghĩa sáng ngời! Nhưng Thiện đã chối phăng, chối bai bải thì đúng là ông ta đã tự đút đầu vào sợi giây thòng lọng của cái bẫy rập cò ke rất đơn giản!!!

Do đó, mục đích chính của bà Thảo là "giảo nghiệm" trình độ Pháp văn của ông Thiện chớ không phải là giảo nghiệm chữ viết! Nên nhớ, bà Thảo học trường Pháp từ hồi nhỏ, trình độ Pháp ngữ của bà không tệ đâu, dư sức làm cô giáo chấm bài viết chính tả của cậu học trò Nguyễn Chí Thiện!

6. Cuộc "họp báo" do Thiện tổ chức giống cái tòa án của việt cộng BỊT MIỆNG CHA LÝ ở trong nước. Băng đảng của hắn tràn ngập trong phòng, lại còn có cái màn đọc tiểu sử lý lịch của "nhục sĩ" Nguyễn Chí Thiện, y như đọc tiểu sử của "bác" Hồ! Thật là hề quá! Khi bà Thảo lên tiếng nói thì đồng bọn đã la ó, phản đối y như cái chợ! Bọn chúng tưởng là làm như vậy là cứu nguy được cho "đại ca" nhưng thật ra là làm hại chính Thiện và bọn chúng. Lại còn cái màn đòi cá độ 200 ngàn đô la để uy hiếp tinh thần bà Thảo, thật đúng là tuồng hề trấn lột do bọn côn đồ đóng!

7. Ông Thiện là nhân vật của cộng đồng (public figure). Trong suốt 13 năm nay, những hành động và những lời nói bất nhất của ông đã gây cho dư luận nhiều thắc mắc. Ðặc biệt là có sự khác biệt quá lớn giữa tập thơ Vô Ðề và cuộc đời thực của ông. Lập trường chính trị của ông cũng hoàn toàn khác với những gì được mô tả trong Vô Ðề. Và còn rất nhiều hàng trăm điều mờ ám, bí ẩn khác .... Do đó công chúng có quyền đặt dấu hỏi. Nên nhớ đây là xứ tự do, người dân có quyền đặt câu hỏi với tổng thống Mỹ nếu cần, chớ không riêng gì cá nhân ông Thiện.

8. Việc ông Thiện và đồng bọn đòi thưa kiện chỉ là một trò hề. Ai đời kẻ gian lại đòi kiện người ngay! Cứ chờ đấy, thời gian sẽ trả lời xem ai ngay ai gian! Một khi chế độ cộng sản bị sụp đổ, màn bí mật sẽ hé mở. Lúc ấy toàn bộ băng đảng Việt Tân sẽ phải ra tòa để trả lời về những tội ác mà bọn chúng đã giết hại và lường gạt đồng bào. Tội ác lường gạt đồng bào gần 30 triệu đô la trong thập niên 1980 để nuôi 10 ngàn "kháng chiến quân" ma vẫn còn đó, đồng bào chưa quên đâu! Những nghi vấn về những vụ giết hại các nhà báo Hoài Ðiệp Tử, Ðạm Phong, vợ chồng ký giả Lê Triết, đồng bào vẫn chưa quên. Công chúng cũng đã thấy rõ những vụ lừa bịp, xúi dục, dụ dỗ đồng bào về du lịch Việt Nam và các dịch vụ "từ thiện" nhằm nuôi béo việt cộng, để củng cố cái chế độ của bọn việt gian cộng sản và những nỗ lực đi đêm của bọn chó săn, cò mồi chính trị, khoác áo người "quốc gia" nhằm tiến đến hòa hợp hòa giải với việt cộng ..v..v..

9. Một tên hề trong cuộc họp báo đã nêu câu hỏi:

- Nghe nói ông Thiện đã khen bà Thảo là người đẹp, không biết ông có làm điều gì cho bà ấy mích lòng hay không? Ông có đá lông nheo với bà Thảo hay không? Bà ta có liếc mắt đưa tình với ông rồi bị ông từ chối hay không?

Ông Thiện đã hùng hổ trả lời:

- Tôi chưa bao giờ khen bà Thảo là người đẹp và tôi cũng chưa bao giờ khen người đàn bà nào là đẹp hết!

Ông còn dẫn chứng là có mấy "hiền huynh" của ông làm chứng. Bè đảng của ông Thiện bây giờ còn bày đặt đẻ ra cái trò thối là xưng hô với nhau là "sư huynh", "hiền huynh"! Phan Nhật Nam đã gọi Trần Phong Vũ là "Trần huynh". Ôi sao mà giống bọn thảo khấu trong truyện Thủy Hử đến thế!

Bà Thảo không phải là hoa hậu nhưng chắc chắn phải đẹp hơn .... Thị Nở! Ông trời cũng khéo sắp đặt: hễ có anh Chí Phèo "đẹp giai" thì ngay lập tức có một Thị Nở sánh vai tức thì! Xứng đôi vừa lứa quá!

10. Trong buổi họp báo, Thiện đã "chứng minh" trình độ Pháp văn của mình bằng cách đọc thật lớn và trôi chảy một lá thơ bằng tiếng Pháp. Ðây chỉ là trò hề. Một người có trình độ trung bình cũng có thể làm được như vậy. Cầm đọc một lá thơ đâu có gì là khó. Ấy là chưa kể nếu ông ta có phát âm tiếng Pháp lộn qua tiếng ... Cam Pu Chia cũng mấy ai biết gì! Cái đám lâu la của ông lại vỗ tay vang dội, khen: "Gớm bác Thiện giỏi tiếng Pháp quá!"

Quan trọng nhất là nói được tiếng Pháp trôi chảy, không có sự chuẩn bị trước, trong một cuộc thảo luận về một đề tài nào đó. Trình độ viết cũng phải tương đương như vậy: viết được một bài luận văn ngắn, khoảng hơn một trang giấy trong vòng 30 phút. Như vậy mới có thể gọi là "giỏi tiếng Pháp". Còn loại tiếng Pháp mà "Uẩy me xừ, loong toong điếc nơ pa luyn nét" trong truyện ngắn "Mò Sâm Banh" của nhà văn Nam Cao thì có gì mà đem ra khoe!

KẾT LUẬN:

Cuộc họp báo của ông Thiện chỉ là một trò hề. Nó đã nói lên đầy đủ cái bản chất của ông và băng đảng của ông ta. Bọn chúng đã cậy đông hiếp yếu, uy hiếp tinh thần một phụ nữ đơn thương độc mã đến dự cuộc "họp báo". Quan trọng nhất là ông Thiện đã dại dột từ chối sự thách đố "viết chính tả"! Cái mặt nạ của ông đã rớt!

Tôi đã từng nghe những người lớn kể chuyện ở ngoài bắc có đền thờ Ðức Thánh Trần chuyên trị loại quỷ Phạm Nhan. Mỗi khi có một người nào bị quỷ Phạm Nhan nhập vào người thì người nhà dắt người bệnh đó đến đền thờ Ðức Thánh Trần. Khi vừa đến cổng đền thờ thì con quỷ rất sợ hãi, không dám bước vào, miệng la bai bải: "Con chừa rồi, con chừa rồi. Con khỏi bệnh rồi, cho con về nhà!"

Có tật mới giật mình. Nếu không phải là quỷ Phạm Nhan thì tại sao lại sợ bùa của Ðức Thánh Trần? (viết chính tả). Cuối cùng, tôi xin giới thiệu một trích đoạn trong bài thơ "Ðiệp viên họp báo" của thi sĩ Hồ Công Tâm, đăng trên báo điện tử Hồn Việt UK ngày 25 tháng 10 năm 2008:
.....................
    Là tác giả bức thư tiếng Pháp
    Đọc chép thôi (!) chó ngáp không xong!
    Thiện từ chối, nói lòng vòng
    Tiếng Tây bà vốn học trong trường đầm!
    Thiện ú ớ, ngậm câm, giả điếc
    Rằng tiếng Tây, tôi biết… thua bà
    Thiện trường làng, mới lớp ba
    Đích-tê tiếng Phú-Lang-Sa đâu rành!
    Trước tai mắt đàn anh đàn chị
    Hạt Máu Thơ bí rị chết trân
    Hôm nay trước mặt ba quân
    Thiện xin chấp nhận đội quần Đào Nương
    Hồ Công Tâm
Trần Thanh
Ngày 26 tháng 10 năm 2008


Nhân Ngày Giỗ Lần Thứ 29, Nhắc Lại Thân Thế và Sự Nghiệp của Nhà Cách Mạng Trần Văn Tuyên (1913 - 1976)

* LS Trần Văn Tuyên: Người Suốt Đời Tranh Đấu Cho Tự Do, Dân Chủ Việt-Nam.

* LS Trần Văn Tuyên, Một Con Người Đa Dạng, Nổi Tiếng Trong Nhiều Địa Hạt Từ Văn Nghệ, Giáo Dục, Thanh Niên Sang Đến Chính Trị.

* Sự Liên Hệ Giữa Ông Tuyên Và Tướng Võ Nguyên Giáp Ra Sao?

* Giai Thoại Giữa Ông Tuyên Và Các Bạn Cũ Phía Bên Kia Ở Hội Nghị Genève 1954

* Ông Tuyên Đã Chết Trong Lao Tù Cộng Sản Ra Sao?

Nguyễn Quốc Khải (Hoa-Thịnh-Đốn , 21.10.2005)

LGT - Nhân dịp ngày giỗ lần thứ 29 của cố Luật sư Trần Văn Tuyên, từng là phó thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, trưởng khối dân biểu đối lập ở Hạ Viện VHCH, một nhà cách mạng, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, một nhà văn, nhà báo, một nhà giáo, một huynh trưởng Hướng Đạo. LS Tuyên là một người bền bỉ tranh đấu cho tự do, dân chủ của đất nước và nhân quyền cho mọi người Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Khải trong ban biên tập Ngày Nay hiện cư ngụ trên vùng Hoa Thịnh Đốn viết về cuộc đời của ông Tuyên trong bài dưới đây.

Trước ngày 30-4-1975, LS Tuyên dù có nhiều phương tiện để xuất ngoại đã chọn ở lại và ông đã chết trong trại tù Hà Tây (Bắc Việt) hôm 26-10-1976. Luật sư Trần Văn Tuyên có 7 người con hiện tất cả đều ở hải ngoại. Người con trưởng là LS Trần Tử Huyền, cũng là nhà báo Linh Chi hiện ở vùng Bắc California. Trưởng nữ là bà Trần Đạm Phương, được biết nhiều trong các cuộc tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam cũng như cho sự tự do của thân phụ lúc ông bị giam giữ tại Việt Nam. Ba người con trai cuối, các ông Trần Tử Thanh, Trần Vọng Quốc (trên vùng Hoa Thịnh Đốn) và Trần Tử Miễn (ở Pháp) đang theo hướng đi của thân phụ, hoạt động chính trị và tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Trọng Kim, chủ nhiệm, chủ bút Ngày Nay cũng là người trong gia đình LS Tuyên, từng giúp ông Tuyên trong việc liên lạc với báo chí ngoại quốc từ đầu thập niên 60 tới lúc mất miền Nam.

Trong quá trình tranh đấu của dân tộc Việt-Nam chống ngoại xâm, chống độc tài, phong kiến và bất công trong thời kỳ cận đại, có một nhà cách mạng trong hàng ngũ quốc gia mà ít sách báo nói đến một cách đầy đủ đó là cố LS Trần Văn Tuyên mà cách đây gần một phần tư thế kỷ đã vĩnh viễn ra đi. Nhân ngày giỗ lần thứ 29 sắp tới, chúng ta nhắc lại thân thế và sự nghiệp của ông để tưởng nhớ đến một người đã một đời tranh đấu cho dân tộc trong một giai đoạn lịch sử đau thương đầy máu và nước mắt của đất nước mà các thế lực ngoại bang từ thực dân, quân phiệt, đến cộng sản quốc tế đã không ngừng xâu xé. Các cường quyền này đã lợi dụng sự dại dột, nông cạn và chia rẽ của chúng ta để giết hại chính chúng ta, cả ở hai miền Nam Bắc.

Hoạt Động Thanh Niên và Văn Hóa

LS Trần-Văn-Tuyên sanh ngày 1.9.1913 tại Tuyên Quang, tốt nghiệp trường Bưởi tại Hà-nội vào khoảng 1930. Ông là một học sinh xuất sắc thi đậu hai bằng trung học và tú-tài cùng một năm. Trong thời gian học tại trường Bưởi, LS Tuyên đã đoạt giải nhất về cuộc thi hùng biện tiếng Pháp dành cho các học sinh trên toàn quốc. Lúc đầu LS Tuyên dự định học ngành Y-Khoa. Sau đó vì ngành này quá tốn kém, ông chuyển qua học trường Đại-Học Luật Khoa tại Hà-Nội và tốt nghiệp cử nhân Luật vào năm 1943. LS Tuyên tham gia phong-trào Hướng Đạo (H.Đ.) từ năm 1931. Ba năm sau ông thành lập thiếu đoàn Đại La tại Hà-Nội. Ông Bùi Diễm, cựu Đại Sứ của Việt-Nam Cộng Hòa (VNCH) tại Hoa-Kỳ, đã gia nhập đơn vị này. LS Tuyên và ô. Diễm từ đó đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Cuộc đời của hai người tiếp tục gắn bó với nhau qua bao nhiêu biến-cố của đất nước trong năm thập niên kế tiếp. Vào năm 1945, LS Tuyên cùng với các ông Mai-Liệu, Phan Xuân Thiện, BS Nguyễn Tường Bách [1] thành lập Quốc-Gia Thanh-Niên Đoàn để chống lại thực dân Pháp và chủ nghĩa Cộng Sản. Ngoại trừ BS Nguyễn-Tường-Bách, những người lãnh đạo Quốc Gia Thanh Niên Đoàn đều là các cựu huynh trưởng H.Đ. Vào ngày 12.6.1945, LS Tuyên giữ chức giám-đốc trường Huấn-Luyện Đoàn Trưởng Thanh-Niên Xã-Hội Miền Bắc [2].

LS Trần-Văn-Tuyên là một trong những sáng lập viên của phong trào truyền bá quốc ngữ và Hội Bình Dân Giáo-Dục vào thập niên 30 để giảm thiểu nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa, ý thức dân chủ, hiểu biết về quyền công dân của một nước độc lập, chống lại một nền giáo dục nô lệ mà "chế độ thực dân muốn giới hạn tối đa cho một vài thành phần ân sủng" [3]. LS Tuyên là giáo-sư dậy về Việt Văn, Pháp văn và toán tại trường trung học tư-thục Văn-Lang và Thăng-Long tại Hà-Nội cùng với một số đồng nghiệp như các ông Võ-Nguyên-Giáp, Hoàng-Minh-Giám, Phan-Anh, Phan-Mỹ và Đặng-Thai-Mai. LS Trần-Văn-Tuyên mở văn phòng luật sư tại Saigon cùng với hai đồng nghiệp Vũ-Văn-Huyền và Nguyễn-Văn-Huệ vào năm 1957. Ông là một trong những sáng lập viên vào năm 1958 của hội Bách-Khoa Tự-Điển cùng với các ông Đào-Văn-Tập và Đào-Đăng-Vỹ. Nhóm này được mệnh danh là Nhóm Bách-Khoa Tự-Điển Nguyễn Du. Ngoài việc hành nghề luật sư, LS Tuyên còn giảng dậy tại các trường đại-học Đà-Lạt, Huế, Vạn-Hạnh, Chiến-Tranh Chính Trị và Cao Đẳng Quốc Phòng từ năm 1965 trở về sau.

Tác phẩm văn chương đầu tay của LS Tuyên là cuốn tiểu thuyết "Hiu Quạnh" xuất bản năm 1944. Sau đó là cuốn tiểu luận "Đế Quốc Đỏ" (1957), tùy bút "Tỉnh Mộng" (1957), Hồi Ký Hội-Nghị Genève (1954, 1964), tiểu luận "Chánh Đảng" (1967), tập truyện ngắn "Người Khách Lạ" (1968) [4]. Bản thảo "Khổng-Tử " dịch từ tiếng Trung-Hoa bị chính quyền của Tổng Thống Ngô-Đình-Diệm tịch thâu vào năm 1960 rồi mất tích luôn. Ngoài ra LS Tuyên còn xuất bản hai cuốn sách "Lịch-Sử Việt-Nam" (1964) và "Cách-Mạng Đi Về Đâu" (1967) nhưng không thấy ghi trong tạp khảo văn hóa "Việt-Nam Gấm Hoa" của ô. Thái-Văn-Kiểm. Trong các năm 1967-1968, ông đã cho đăng trên nhật báo Quyết-Tiến xuất bản tại Saigon nhiều bài nghiên-cứu về tình-hình kinh-tế và chính-trị của hai miền Bắc và Nam rút từ tập khảo-luận nhan đề "Vận-Mệnh Việt-Nam". Rất tiếc là trong số sách đã xuất bản, gia đình của LS Tuyên chỉ tìm lại được cuốn "Hồi-Ký Hiệp-Định Genève 1954" và tập truyện ngắn "Người Khách Lạ". Lối hành văn của LS Tuyên trong các truyện ngắn này rất giản dị, nội dung mộc mạc, nhưng luôn luôn bao hàm một triết lý về lòng người và tình đời. Nếu tin rằng văn tức là người, thì khó mà hiểu được rằng qua bộ mặt nghiêm nghị của LS Tuyên, chúng ta có thể tìm thấy được hai con người vừa đơn giản vừa phức tạp. Đơn giản ở chỗ không đòi hỏi một đời sống vật chất xa hoa, nhưng quí trọng sự hồn-nhiên trong sáng, tôn thờ di sản của tiền nhân, thiết tha yêu quê hương dân tộc, phức tạp ở chỗ muốn có một cái gì tuyệt đối về tinh thần.

"Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng ngồi đợi khách.
Nhưng Cách Mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?".


Đây là hai câu cuối cùng của truyện ngắn "Người Khách Lạ" [5], viết xong vào ngày 30.10.1965, mở đầu cho tuyển tập mang cùng một nhan đề. LS Tuyên đi tìm một người khách lạ mang tên là Cách-Mạng vào giữa thập niên 60. Người đó chỉ thấy hiện lên trong giấc mơ, mà không đến với mình trong thực tại.

LS. Trần-Văn-Tuyên bắt đầu sự nghiệp bằng nghề ký giả. Cùng với ô. Võ-Nguyên-Gíáp, LS Tuyên xuất bản tờ báo chui và in truyền đơn để chống lại chế độ thực dân. Bà vợ đầu tiên của ông là bà Trần Thị Phúc [6] giúp chồng phát hành tờ báo và đi giải truyền đơn trong thành phố Hà-Nội [7]. LS Tuyên là người chủ xướng tờ báo Sao Trắng của Việt-Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) vào năm 1942. Sau này ông còn là một ký giả cộng tác với nhiều tờ báo trong nước như Thời-Luận, Chính-Luận, Quyết-Tiến, Đại Dân-Tộc, Tin Sáng, v.v. trong khoảng 1958-1975 dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Chính Nghiã, XYZ, Trần Côn, v.v. Trong thập niên 40, LS Tuyên còn dùng bút hiệu Trần-Vĩnh-Phúc. Ngoài tiếng mẹ đẻ, ông còn rất thông thạo một số ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng-Đông và tiếng Quan Thoại. Ngoài các báo Việt ngữ, LS Tuyên còn viết bài cho một số báo Pháp là Le Monde, l''''Express, France - Asie, v.v.

Hoạt Động Chính Trị

Ô. Thái Văn Kiểm trong cuốn Việt-Nam Gấm Hoa đã viết trong bài Tưởng Niệm Liệt Sĩ Trần-Văn-Tuyên như sau: "LS Trần-Văn-Tuyên đã hiên ngang đi vào lịch sử bằng cửa lớn. Người đã nêu cao tinh thần bất khuất của Nguyễn-Thái-Học. Người đã viết lịch sử với máu đỏ lòng son". "Với kinh nghiệm bản thân, ông thấu hiểu thế nào là nghèo khổ, đói khát, thế nào là bất công xã hội, thế nào là áp bức, ngục tù. Vì những lý do đó mà ông đã hy sinh cả cuộc đời để tranh đấu cho Tự-Do, Dân-Chủ, Công Bằng Xã-Hội và An Sinh cho dân tộc Việt-Nam" [8].

Giai Đoạn Chống Pháp

LS Tuyên bắt đầu sự nghiệp chính trị với sự gia nhập Việt-Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) vào năm 1929 lúc 16 tuổi, một năm trước khi xẩy ra vụ khởi nghĩa Yên-Bái. Ông tham gia cuộc tranh đấu dành độc lập cho đất nước cùng với những nhà cách mạng như Nguyễn-Hải-Thần, Nguyễn-Tường-Tam, bị mật vụ Pháp bắt bỏ tù vào năm 1943 vì tội phá rối trị an, hoạt động chính trị chống sự đô hộ của người Pháp. LS Tuyên tham chính lần đầu tiên với chức vụ Tri Huyện Hải-Dương, Bắc Việt vào năm 1944. Khi có vụ tổng khởi nghĩa vào năm 1945, chính cán bộ thuộc Việt-Nam Độc-Lập Đồng-Minh Hội (Việt-Minh) đã mật báo cho ông biết trước để thoát khỏi một vụ mưu sát do Việt-Minh chủ-trương vì dân chúng trong huyện Thanh-Miên, tỉnh Hải-Dương và những người cán-bộ này kính phục tài đức của ông. Đến năm 1946, LS Tuyên tham gia chính-phủ liên hiệp do ô. Hồ-Chí-Minh làm Thủ Tướng, với chức vụ Đổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao do ô. Nguyễn-Tường-Tam làm Tổng-Trưởng. Một năm sau ông cùng với các lãnh tụ VNQDĐ khác như Nguyễn-Tường Tam, Nguyễn Hải-Thần, Vũ Hồng Khanh,v.v. trốn qua Trung-Hoa vì Việt-Minh chủ-trương liên kết với chính quyền thực dân Pháp để diệt trừ các phần tử quốc-gia. Ô. Jean Sainteny, Cao-Ủy Lâm-Thời của chính-quyền thực dân Pháp thời đó đã tiết lộ: "Hồ-Chí-Minh cần dựa vào sự giúp đỡ của nước Pháp một cách hiển nhiên để củng cố địa vị và diệt trừ các đảng đối lập" [9]. Sau khi Việt-Minh rút ra khỏi Hà-Nội, LS Tuyên trở về Việt-Nam năm 1948, tiếp tục tranh đấu dành độc lập cho đất nước, tìm một giải pháp không cộng-sản cho một quốc-gia Việt-Nam. Tiếp theo cuộc hội đàm giữa chính quyền thực dân Pháp và vua Bảo-Đại tại Vịnh Hạ Long vào ngày 6.12.1947, LS Tuyên và ô. Lưu-Đức-Trung được vua Bảo-Đại lúc đó đang lưu trú ở Hồng-Kông cử đi tiếp xúc với các nhân sĩ trong nước để thành lập một chính-phủ quốc-gia. LS Tuyên giữ chức vụ Tổng-Trưởng Thông-Tin vào năm 1949 trong nội-các của Tướng Nguyễn-Văn-Xuân, sau đó tham gia vào nội các Trần-Văn-Hữu (1949-1951) với chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ-Tướng. Khi tham gia hội-nghị Pau để thương lượng với chính quyền Pháp trao trả chủ quyền cho Việt-Nam, LS Tuyên đã quyết liệt phản đối sự vi phạm trắng trợn các thỏa ước Pháp đã ký kết. LS Tuyên đã thẳng thắn nói với Cao-Ủy Pháp là Tướng De Lattre de Tassigny rằng ông ta không có quyền can thiệp vào nội bộ Việt-Nam và yêu cầu ông này rời khỏi phòng họp nội-các của chính-phủ Việt-Nam. Tướng De Lattre de Tassigny tức giận ra lệnh trục xuất LS Tuyên ra khỏi Việt-Nam. LS Tuyên đã tuyên bố:

"Không một người Pháp nào có quyền trục xuất một người Việt-Nam ra khỏi nước Việt-Nam" [10].

Sau đó LS Tuyên rút ra khỏi nội các Trần-Văn-Hữu. Khi biết tin mật vụ Pháp đang đi lùng bắt để trục xuất ra khỏi nước và lưu đầy đi qua Mã đảo (Madagasca), ông trốn vào khu bưng biền Tây-Ninh, liên kết với các giáo phái Cao-Đài và các đảng phái quốc-gia như Đại-Việt, VNQDĐ, Việt-Nam Phục-Quốc Hội, Dân-Xã Đảng và một số các nhà trí-thức để lập một mặt trận liên kết chống lại cả Pháp lẫn Cộng-Sản. Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia ra đời vào năm 1953. Năm sau, Mặt-Trận Liên-Minh Tổ-Quốc, bao gồm cả hai lực lượng Hòa-Hảo và Bình-Xuyên, được thành-lập.

Bên Lề Hội Nghị Geneva

Năm 1954, sau khi Pháp thua trận Điện-Biên-Phủ, LS Trần-Văn-Tuyên được cử làm Ủy Viên trong phái đoàn Quốc-Gia Việt-Nam (QGVN) tại hội Nghị Genève. Lúc đầu phái đoàn QGVN do Ngoại Trưởng Nguyễn-Quốc-Định cầm đầu, sau đó là BS Trần-Văn-Đỗ. Trong phái đoàn QGVN có hai cựu huynh trưởng H.Đ. là Trần-Văn-Tuyên và Cung-Giũ-Nguyên. Ở bên trong phòng họp phái đoàn QGVN đã phản đối việc chia đôi đất nước dù chỉ là tạm thời để chờ một cuộc tổng tuyển cử ở cả hai miền vào năm 1956. Ở bên ngoài, ô. Võ-Thành-Minh thổi sáo bên bờ hồ Leman kêu gọi chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ Việt-Nam [11]. Ô. Võ-Thành-Minh đã một lần bị Việt-Minh bắt vì bị nghi là gián-điệp khi ô. Võ-Thành-Minh đi xe đạp từ bắc vào nam để kêu gọi hoà-bình. Nhờ sự can thiệp của hai bạn Hướng Đạo cũ là các ông Hoàng-Đạo-Thúy và Tạ-Quang-Bửu, ô. Võ-Thành-Minh đã được thả ra. Chán Việt-Minh, ô. Võ-Thành-Minh vượt tuyến qua sống trong vùng quốc-gia. Năm 1949 thất vọng với phe quốc-gia, ô. Võ-Thành-Minh bỏ ra ngoại-quốc. Người ta được biết rằng các ông Tạ-Quang-Bửu, Trần-Văn-Tuyên và Võ-Thành-Minh đã từng sinh-hoạt trong cùng Tráng-Đoàn Lam-Sơn tại Hà-Nội. Ô. Võ-Thành-Minh tuyệt thực đòi hai phe Việt-Nam phải đến gặp mình để hòa-giải. LS Tuyên đã đến thăm ô. Võ-Thành-Minh bên hồ Leman, nhưng ô. Võ-Thành-Minh từ chối tiếp chuyện vì không có sự hiện diện của phái đoàn Dân-Chủ Cộng-Hòa Việt-Nam (DCCHVN). Khi được tin đất nước Việt-Nam sắp bị chia cắt, ô. Võ-Thành-Minh vào Trụ sở Vạn-Quốc định tự vẫn nhưng được cứu thoát. Sau đó ô. Võ-Thành-Minh bị trục xuất ra khỏi Thụy Sĩ [12].

Hội Nghị Genève cũng là nơi chứng kiến một cuộc hội ngộ của hai cựu huynh trưởng H.Đ. Việt-Nam một lần cuối cùng trong đời là LS Trần-Văn-Tuyên và KS Tạ-Quang-Bửu. Thông thường, nhân-viên của hai phái đoàn Việt-Nam không muốn nhìn mặt nhau. Tuy nhiên trong các phiên họp thâu hẹp của các Ủy-Ban Quân-Sự, các đại biểu QGVN và DCCHVN đã lịch sự chào nhau. Riêng các ông Tuyên, Bửu và Hoàng-Nguyên" [13]. có lẽ vì tình anh em Hướng Đạo cũ đã dám bắt tay nhau và chào hỏi nhau dù rằng chỉ nói có một hai lời " [14]. Ngồi đối diện nhau trong bàn hội nghị vì chính-kiến khác biệt, tuy nhiên trong những phút riêng tư họ vẫn trao đổi một vài câu chuyện với nhau. Ô. Bửu lúc đó là Thứ Trưởng Quốc- Phòng của Chính-Phủ Cộng-Sản nói với LS Tuyên rằng "Anh Giáp (Tướng Võ Nguyên Giáp) thường tâm sự với tôi là đời anh có một hối hận rất lớn đó là đã để cho anh Tuyên vào Nam..." [15]. KS Bửu [16] lớn hơn LS Tuyên có ba tuổi. Một người sinh ở Nghệ An. Người kia sinh ở Tuyên-Quang. Cả hai đều xuất thân từ hai hai gia đình nho-giáo. Cả hai đều là học sinh xuất sắc, thông minh vượt bực. Cả hai là huynh trưởng H.Đ. tham gia vào việc khai sinh và phát triển phong-trào giáo dục thanh thiếu niên này từ thời kỳ phôi thai. Cả hai đã trở thành các vị đại trí thức thời đó, thành thạo nhiều ngoại ngữ. Cả hai cùng có một đời sống thanh bạch dù cả hai dư phương tiện để sống xa hoa. Về phương diện nghề nghiệp, ô. Bửu là một kỹ-sư điện, Ô. Tuyên trở thành luật-sư. Cả hai cùng giữ những chức vụ quan-trọng trong guồng máy chính-quyền [17]. Cả hai cùng liêm chính và cương trực, cùng yêu nước thương nòi, cùng làm cách mạng, nhưng mỗi người làm cách mạng một cách khác nhau. Một người chọn con đường cách-mạng vô-sản chuyên-chính. Người kia chọn con đuờng cách-mạng tư-sản với chủ trương "Dân-Tộc Độc-Lập, Dân-Quyền Tự Do, Dân-Sinh Hạnh-Phúc". Cả hai cùng tin rằng con đường của mình đi sẽ mang lại cho đất nước một nền độc-lập, dân-chủ, tự-do và no ấm.

Hơn 20 năm sau Hội-Nghị Genève, LS Trần-Văn-Tuyên chết đột ngột vào ngày 26.10.1976 trong khi bị giam cầm bởi những người làm cách-mạng vô-sản. Một thập niên về sau, KS Tạ-Quang-Bửu mất ngày 21.8.1986 trong hoàn cảnh nghèo khổ và bạc đãi của chế độ vô-sản [18]. Chỉ bốn tháng sau đó, vào cuối năm 1986, ô. Nguyễn-Văn-Linh Tổng-Bí-Thư của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam (CSVN) phát động chương-trình cải tổ kinh-tế "Đổi Mới", mặc nhiên chấm dứt cuộc Cách-Mạng Vô-Sản, nhằm ngăn chặn nạn đói đang làn tràn tại Việt-Nam và trở thành trầm-trọng vào năm 1985, do sự thất bại của chính sách Nông-Trường Tập-Thể. Đất nước độc-lập, Nam Bắc thống-nhất, nhưng đa số người dân Việt-Nam còn thiếu tự-do và hạnh-phúc.

Thời Đệ Nhất Cộng-Hòa

Hội nghị Genève chấm dứt. Trở về nước LS Tuyên thành lập Mặt Trận Quốc-Gia Liên-Hiệp vào năm 1955 để vận động xây dựng một chế độ dân chủ thực sự cho miền Nam. Ông là người đầu tiên vào năm 1958 kêu gọi Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm dân chủ hóa chính quyền, chống bất công xã-hội, thiết lập các quyền tự do căn bản (ngôn luận, báo chí, lập hội,...). Trong những năm đầu sau khi về nước chấp chánh, ô. Ngô-Đình-Diệm đã được lòng dân vì những tiến bộ đạt được trong các lãnh vực kinh tế và xã hội. Trong những năm kế tiếp, chính sách thiếu sáng suốt của ông, sản phẩm của một chế độ độc-tài và phong-kiến, đã đưa miền Nam Việt-Nam dần dần đến chỗ suy sụp về mặt xã-hội, kinh-tế và xáo trộn về chính-trị. Được Tổng-Thống Diệm mời vào làm Bộ Ngoại Giao sau khi BS Trần-Văn-Đỗ từ chức, nhưng LS Tuyên đã khước từ vì quan niệm rằng mình không thể hợp tác với một quan lại của triều-đình Huế mà lại truất phế vua. Ô. Diệm đã một lần được Vua Bảo-Đại định mời lập chính-phủ vào thời 1945. Sau khi lực lượng viễn chinh Nhật vào ngày 9.3.1945 đảo chính Pháp, tấn công vào các nơi trú quân của Pháp, bắt nhốt các binh-lính và các viên chức Pháp, Nhật buộc vua Bảo-Đại ly-khai chế-độ bảo-hộ của Pháp và tuyên bố nước Việt-Nam độc-lập trong Khối Đại-Đông Á của Nhật. Ô. Ngô-Đình- Diệm, một người thân Nhật, được chọn làm Thủ-Tướng. Nhưng vào phút chót, Nhật đổi ý và chỉ định ô.Trần-Trọng-Kim, một sử gia, không biết về chính trị, ra lập nội-các vì ô. Trần-Trọng-Kim ôn-hòa và dễ bảo hơn ô. Diệm [19]. Vào năm 1954, được sự ủng-hộ của Hoa-Kỳ, ô. Diệm đã được Vua Bảo-Đại mời về nước chấp chánh. Ngày 23.10.1955, qua một cuộc trưng cầu dân ý, ô. Diệm truất-phế vua Bảo-Đại và lên làm Tổng-Thống.

Trong những năm 1955-58, tình trạng tài chánh của gia-đình rất eo hẹp, LS Tuyên phải đi dậy học ở một số trường tư ở Saigon để mưu sinh như trường Hoàng-Việt, Thăng-Long và Phước Truyền. Cũng trong khoảng thời gian đó, ông bị công-an bắt cóc đôi ba lần ngay ngoài đường phố. Có lần xe hơi của ông do tài xế lái, đang trên đường đi đến trường học của các con, thì bị hai xe khác đi kèm ép sát hai bên để bắt ngưng lại. Ông chỉ kịp nhắn lại với các con vài lời trước khi bị lôi đi. Trong giữa thập niên 50 cho đến cuối năm 1963 tại "miền Nam Tự-Do" đã xẩy ra những cảnh bắt cóc người giữa thanh thiên bạch nhật như vậy. Ô. Nguyễn-Hữu-Chung, cựu Dân-Biểu trong khối Đối-Lập châm biếm : "Thời ô. Diệm, ô. Nhu, con thằn lằn ban đêm không dám tắc lưỡi" [20]. Mặc dầu vậy, tháng 4.1959, LS Tuyên cùng với 17 nhà chính trị độc-lập nổi tiếng của miền Nam như các ông Lê-Ngọc-Chân, Trần-Văn-Đỗ, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Phan Khắc-Sửu, Nguyễn-Bảo-Toàn, Trần-Văn-Văn, Nguyễn Lưu Viên họp tại khách sạn Caravelle, Saigon thành lập nhóm Tự-Do Tiến-Bộ [21] và thảo ra một văn thư gửi cho Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm để kêu gọi ông dân-chủ hóa guồng máy chính-trị của miền Nam, thừa nhận đối lập, tôn-trọng dân quyền. Văn thư phản đối chính-sách độc-tài đàn áp các đảng phái quốc gia đối lập của chính-phủ đương thời [22]. Vì lý do đó, sau vụ đảo chánh hụt của Đại-Tá Nhẩy Dù Nguyễn-Chánh-Thi vào ngày 11.11.1960, LS Trần-Văn-Tuyên và nhóm Tự-Do Tiến-Bộ bị nghi ngờ dính líu vào vụ đảo chánh và bị bắt giam. Một số bị đưa ra Côn Đảo, trong đó có cụ Phan-Khắc-Sửu, một số bị giam tại Trại Võ-Tánh của Tổng-Nha Cảnh-Sát Quốc-Gia, trong đó có LS Tuyên [23].

Thời Đệ Nhị Cộng-Hòa

Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, chính phủ của Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm bị lật đổ, Chế-độ Đệ Nhất Cộng-Hòa chấm dứt. LS Tuyên được thả về. Trong những năm đầu của nền Đệ Nhị Cộng-Hòa, với chức vụ Tổng-Thư-Ký, LS Tuyên tổ chức lại xứ bộ VNQDĐ Miền Nam. Cùng trong năm đó LS Tuyên được bầu làm Chủ-Tịch Hội-Đồng Dân-Chính (1963) và là một đại biểu trong Hội-Đồng Soạn Thảo Hiến-Pháp (1964). LS Tuyên tham gia vào chính phủ dân sự cuối cùng của Miền Nam (1965) với chức vụ Phó Thủ Tướng Đặc Trách về Kế Hoạch trong nội các của BS Phan-Huy-Quát với Tướng Nguyễn-Văn-Thiệu làm Tổng Trưởng Quốc Phòng. Đây là chính-phủ dân-sự duy nhất của miền Nam sau khi Tổng-Thống Diệm bị lật đổ. Chính-phủ của BS Quát được thành lập trùng hợp với việc các toán quân Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bờ biển Đa -Nẵng vào ngày 8.3.1965 mà không có sự thỏa thuận trước của chính-phủ Quát. LS Tuyên và Thủ-Tướng Phan Huy Quát chủ trương chống lại việc mang quân Mỹ vào Việt-Nam nên chỉ sau 4 tháng cầm quyền, nội các Phan-Huy-Quát bị phe quân nhân của Tướng Nguyễn-Văn-Thiệu, với hậu thuẫn của Hoa-Kỳ, lật đổ vào tháng 6.1965 [24].

Trong thời gian ngắn ngủi làm Phó Thủ Tướng trong nội các Phan Huy Quát, LS Tuyên đã công du qua 10 nước Phi Châu và Toà Thánh La-Mã. Phái đoàn Việt-Nam do LS Tuyên lãnh đạo đã được đón tiếp trọng thể ở mọi nơi. Đức Giáo Hoàng Joan Paul VI đã không hạn chế giờ giấc để tiếp chuyện riêng với LS Tuyên. Tổng Thống Houary Boumedienne của Algeria đã tuyên bố: "Tôi đang tiếp một chiến sĩ cách mạng cùng chí hướng chống thực dân Pháp với tôi trước đây chứ không phải tiếp một Phó Thủ-Tướng của một nước. Do đó sẽ không có vấn đề giới hạn giờ giấc và nghi lễ." Quốc Vương Haile Selassie của Ethiopia đã tiếp kiến LS Tuyên ba giờ liền thay vì chỉ có 30 phút như đã dự tính trước. Sau chuyến công du trở về, Phái đoàn Việt-Nam đã hoàn trả lại cho công quỹ gần 50 ngàn đô la [25].

Trong 11 năm cuối cùng của cuộc đời, LS Tuyên tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền. Ông sáng lập và làm chủ-tịch Hội Quốc-Tế Bảo Vệ Nhân Quyền, chi Nhánh Việt-Nam (1967). Cùng năm đó LS Tuyên tham gia vào Hội Luật-Gia Quốc-Tế có trụ sở tại Genève. Ông còn làm Luật Sư Cố Vấn cho Tổng-Liên Đoàn Lao-Công Việt-Nam. Năm 1971, LS Tuyên ra tranh cử chức Dân-Biểu quận 3, Saigon. Cuộc tranh cử vào Hạ-Viện của ông trong thời Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng có nhiều điều đáng nhớ. Dấu hiệu tranh cử của LS Tuyên là cây thông, một biểu tượng cho tính cương trực và lòng yêu chuộng tự do. Bích-chương và truyền đơn tranh cử của LS Tuyên chỉ vọn vẹn có dăm ba chữ. Ông tuyệt đối không chấp thuận bất cứ hình thức mua phiếu nào. Việc vận động tranh cử cũng được hạn chế thí dụ như không được phép phát truyền đơn lẻ tẻ từng nhà. Tuy nhiên LS Tuyên đã được sự đắc cử và giữ chức Dân Biểu Quận Ba từ năm 1971 cho đến 30.4.1975 và được bầu làm trưởng khối Dân-Tộc Xã-Hội trong Hạ-Viện, đối lập với các chính phủ quân-sự. Các Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn-Văn-Thiệu đã từng mời LS Tuyên giữ chức Đại-Sứ tại Anh quốc, nhưng vì tình hình quốc nội thời đó sôi bỏng ông quyết định ở lại trong nước dù đã được chính-phủ Anh chấp thuận. Vào ngày 26.4.1975, trong khi lưỡng viện quốc-hội còn đang bỏ phiếu trao quyền hành-pháp cho Tướng Dương-Văn-Minh để thành lập chính-phủ lâm-thời thì LS Tuyên đã được Tướng Minh mời giữ chức vụ Đại-Diện Việt-Nam tại Liên-Hiệp-Quốc, nhưng trong hoàn cảnh dầu sâu lửa bỏng trong nước, ông cũng đã khước từ lời mời đó.

Từ Hiệp Định Paris 1972/1973 Tới Chiến Dịch Hồ Chí Minh 1975

LS Trần-Văn-Tuyên đã từng giữ nhiều chức vụ trong các tổ-chức hành-pháp quan trọng hơn chức-cụ dân-biểu. Khi được hỏi, LS Tuyên giải thích rằng quyết định tranh cử vào quốc-hội nhằm mục đích để tạo một cái thế đối-lập hợp-hiến hợp-pháp với chính-phủ quân-nhân và để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh chính-trị công khai với Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam (MTGPMN) mà ông tiên đoán rằng dù muốn hay không tình hình đất nước đòi hỏi một giải pháp chính trị mà phe quốc-gia bị áp lực phải công nhận vai trò của MTGPMN trong chính trường của miền Nam. Nhận định rằng chính sách của các chính-phủ quân-nhân trong thời-gian 1965-1975 đưa đất nước đến chỗ bất ổn và tình trạng này của Miền-Nam trong năm năm cuối càng trở nên trầm-trọng hơn. Trong khi đó tại Hoa-Kỳ, phong-trào phản-chiến càng ngày càng lan rộng với con số thương vong của binh-sĩ Mỹ càng ngày càng cao. Bốn năm sau khi thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào bờ biển Đà-Nẵng, chính sách của Hoa-Kỳ đã hoàn toàn thay đổi với quyết định rút quân ra khỏi Việt-Nam bằng mọi giá. Vào năm 1969, lần đầu tiên số binh sĩ Hoa-Kỳ không tăng lên mà còn giảm đi 60,000 người, xuống còn còn 480,000 người [26]. Sau đó việc giảm quân số tiếp tục. LS Tuyên tin-tưởng rằng giải pháp trung lập hóa miền Nam là một giải-pháp thực tiễn, khôn ngoan và khả thi ở thời điểm đó để cứu vớt tình thế, mở đường cho quân Mỹ rút khỏi miền Nam, tránh sự tàn phá thêm của chiến tranh, tái lập hòa-bình cho Việt-Nam.

Ngày 28.1.1973 Hiệp-Định Paris được ký-kết đòi hỏi thành lập tại miền Nam Việt-Nam một chính phủ liên-hiệp gồm ba thành phần: chính-phủ VNCH, chính phủ Cách-Mạng Lâm Thời của Mặt Trận GPMN và lực lượng thứ ba [27]. Hai năm sau (1975) giải pháp trung-lập của Pháp mang ra thử nhưng đã quá trễ. Ngày 28.4.1975, sau khi đi dự lễ nhậm chức Tổng-Thống của Tướng Dương-Văn-Minh tại Dinh Độc-Lập trở về với tư cách Trưởng Khối Đối Lập của Hạ Viện, LS Tuyên đã nói với một người đồng chí của mình như sau: "Lá bài trung-lập của Trần-Văn-Hữu không thành, Pháp đã thất bại. Con cờ Dương-Văn-Minh chỉ là ngày giờ! Chuyện lỡ rồi, bàn cờ đã bị xóa. Chúng ta đã thua trận! Chúng ta là nạn nhân của các siêu cường vì chúng ta ngu dại! Thật đáng tiếc" [28]. Đây không phải là lần đầu tiên LS Tuyên chứng tỏ sự hiểu biết về chính trị và thời cuộc. Vào năm 1970, Tướng Nguyễn-Cao-Kỳ ngỏ ý muốn được giới thiệu ra tranh cử chức tổng-thống, LS Tuyên đã tuyên bố: "Đây là một trò chơi dân chủ. Mỹ sẽ đưa Nguyễn-Văn-Thiệu lên làm tổng-thống" [29].

Trong mùa xuân 1972, ba sư-đoàn CSBV đã thử lửa trong cuộc tấn công vào Kontum từ tháng 4.1972 đến tháng 7.1972 [30] cùng một lượt với cuộc tấn công đại quy mô vào Quảng-Trị và An-Lộc với tổng-cộng thêm chín sư-đoàn ở hai mặt trận này, một cuộc trắc nghiệm đầu tiên về kế-hoạch Việt-Nam hóa chiến-tranh, trong khi cuộc hoà-đàm ở Paris đang tiếp diễn [31]. Năm 1974, nhắc lại chiến-lược của Tướng Võ-Nguyên-Giáp là ưu-tiên dành quyền kiểm-soát Cao-Nguyên, LS Tuyên báo-động các giới chức quân-sự là Cộng-Sản Bắc-Việt (CSBV) có thể sẽ đánh Ban-Mê-Thuột. Quả thật, trận chiến then chốt này thực tế xẩy ra vào 4.3.1975 – 3.4.1975 trong chiến dịch Tây-Nguyên [32] mở đầu cho sự suy sụp toàn bộ của miền Nam Việt-Nam vào ngày 30.4.1975. Vào những năm 1952-1954, LS Tuyên đã làm cố vấn về cả hai phương diện chính-trị và quân-sự cho Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc và tướng Trình Minh Thế với chức Đại Tá Quân Hàm. LS Tuyên được cử vào trong Ủy-Ban Quân-Sự của phái-đoàn QGVN tại Hội-Nghị Genève 1954 cũng vì sự hiểu biết quân-sự của mình. Cuốn sách "Hồi-Ký Hội-Nghị Genève 1954" của LS Tuyên đã trình bầy rất đầy đủ về thế trận, vị trí đóng quân và tiến quân của các phe liên hệ.

Tình Bạn Với Tướng Võ Nguyên Giáp

Ô. Võ Nguyên Giáp, xấp xỉ tuổi của LS Tuyên, sinh vào năm 1912 tại làng An Xã, tỉnh Quảng-Bình, một vùng nghèo nhất nước dưới thời Pháp đô-hộ. Ô. Giáp bắt đầu học tại trường Quốc-Học Huế vào năm 1924, cùng trường với các ông Hồ-Chí-Minh và Ngô-Đình-Diệm. Sau khi đậu tú-tài ở Huế, ô. Giáp ra Hà-Nội, học một năm tại trường Trung-Học Albert Sarraut, rồi sau đó theo học trường Đại-Học Luật Khoa Hà-Nội và tốt nghiệp cử nhân vào năm 1937. Sau đó Tướng Giáp tiếp tục học thêm một năm cao-học [33]. Trong khoảng đầu thập niên 40, ô. Võ-Nguyên-Giáp và người bạn đồng nghiệp Trần-Văn-Tuyên cùng dậy học tại trường Tư-Thục Thăng-Long. Ô. Giáp chuyên dậy về sử-ký và địa-dư, nhưng lại ham mê đọc sách về quân-sự. Hai người rất thân nhau vì cùng theo học ngành luật khoa, cùng lý-tưởng chống thực-dân Pháp. Gia-đình của hai người cũng rất thân nhau, nhưng ô. Giáp không bao giờ mê hoặc được LS Tuyên về chủ-thuyết vô-sản của Karl Marx. Có một lần ô. Bùi-Diễm đưa cho LS Tuyên coi cuốn sách Tư-Bản Luận do ô. Giáp cho mượn, LS Tuyên có nói với ô. Bùi Diễm: "Khó nghe lắm đấy. Chú đọc thì cứ đọc. Cần gì thì anh giảng cho chú nghe" [34]. Trong lần cuối cùng gập gỡ nhau nhân hội-nghị sơ bộ với Pháp khai mạc vào ngày 19.4.1946 tại trường Yersin, Đà-Lạt để chuẩn bị cho hội nghị Fontainebleau, Tướng Giáp thuộc phái đoàn Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa (Việt-Minh) còn kêu gọi LS Tuyên trở về hợp-tác với ô. Hồ-Chí-Minh. Sau khi bị từ khước Tướng Giáp còn nói với LS Tuyên một câu bằng Pháp ngữ nguyên văn như sau : "Alors, tu restes toujours mon ami ". (Dù sao anh cũng sẽ mãi mãi là bạn của tôi). LS Tuyên và Tướng Giáp vẫn kính mến nhau mặc dù hai người ở hai chiến tuyến khác nhau. LS Tuyên đã nhắc lại kỷ-niệm đó với một ký giả của tờ báo the Korea Herald trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9.1972 [35].

LS Tuyên hi-vọng một ngày nào đó sẽ được tiếp Tướng Giáp tại căn biệt-thự trắng thuê tại 198 đường Hồng-Thập-Tự, trước vườn hoa Tao-Đàn, Saigon. Ước mong đó không bao-giờ thành. Tướng Giáp không bao giờ bước chân tới căn nhà trắng của LS Tuyên. Nhưng ông đã nhờ người tới địa chỉ đó để liên-lạc với LS Tuyên. Trong những năm 1954-1956, sau khi Việt-Nam bị chia cắt ra làm hai miền, Tướng Giáp vẫn liên-lạc với LS Tuyên qua một vài sĩ-quan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đình-Chiến. Có lần LS Tuyên nhận được cành đào của Tướng Giáp gửi từ Hà-Nội vào tặng gia-đình ông nhân một dịp tết. Sau khi Miền Nam thất thủ, Tướng Giáp cử một sĩ-quan cao cấp vào Saigon đưa thư đề nghị LS Tuyên viết thư cho Bộ Chính-Trị tại Hà-Nội để khỏi đi học tập cải tạo. LS Tuyên đã cám ơn Tướng Giáp nhưng không chấp thuận đề nghị của ông. Ít lâu sau, theo lệnh của nhà nước LS Tuyên đi trình diện để học tập cải tạo và không bao giờ trở lại căn nhà 198 đường Hồng-Thập-Tự nữa.

Sinh ở Đây Thì Chết Cũng ở Đây

Vào năm chót của nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, LS Tuyên được bầu làm Thủ-Lãnh Luật-Sư Đoàn của Tòa Thượng-Thẩm Saigon (1975). Trong những giờ phút cuối cùng các luật sư đến xin giấy giới thiệu để di tản ra ngoại quốc, LS Tuyên sẵn sàng ký cho họ, nhưng cũng nói với các đồng nghiệp là mình quyết định ở lại. Bà Trần-Đạm-Phương theo chồng sống tại Mỹ đã được ít lâu, vào ngày 29.4.1975 điện thoại về để thuyết phục cha dời Viêt-Nam. LS Tuyên đã trả lời: "Thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng minh". Khi ô. Bùi Ngọc Lâm, một đồng chí, cùng hai người con trai của LS Tuyên là Trần Tử Thanh và Trần-Vọng Quốc đến trao công điện của bộ Ngoại Giao Hoa-Kỳ xác nhận đã dành đủ chỗ cho cả gia-đình di tản, LS Tuyên đã khẳng định rằng mình "...không phải là người đi làm bồi cho Mỹ. Sinh ở đây thì chết cũng ở đây..." Tuy nhiên LS Tuyên cho phép các con được tự do quyết định theo ý muốn của mỗi người.

Ngày17.6.1975, nhà cầm quyền Hà-Nội đã bắt LS Tuyên vào "trại cải-tạo" tại Long-Thành. Khi bị bắt buộc viết bản tự kiểm thảo, LS Tuyên vỏn vẹn chỉ viết có mấy hàng chữ dưới đây:

"Tôi không có tội gì với tổ quốc và đồng bào của tôi cả. Nếu có tội thì đó chỉ là tội chống cộng sản, chống thực dân, chống độc tài và bất công"

Khi những hàng chữ này lọt ra ngoài lãnh thổ VN và xuất hiện trên các báo chí ngoại quốc, Ký giả Theodore Jacqueney trên trang nhất của tờ báo New York Times ra ngày 17.9.1976 đã gọi LS Tuyên là "Solzhenitsyn của Quần Đảo Ngục Tù Việt Nam" (Solzhenitsyn of Vietnam''''s Gulag Archipelago). Đến ngày 5.10.1975, nhà cầm quyền Hà-Nội đã đưa LS Tuyên về một trại giam ở Thủ Đức. Đến tháng 4.1976 LS Tuyên được di chuyển bằng máy bay ra miền bắc và bị giam trong trại Hà Tây sau này đổi tên là Hà Sơn Bình. LS Tuyên chết đột ngột trong trại giam này vào ngày 26.10.1976. Khi qua Pháp vào tháng 6.1977 để xin viện trợ, Thủ Tướng Phạm-Văn-Đồng tuyên bố là ô. Trần-Văn-Tuyên vẫn sống và khoẻ mạnh vì sợ công luận thế giới. Năm 1977, Hội Ân Xá Quốc Tế tuyên xưng LS Tuyên là một tù nhân lương tâm. Đến ngày 19.5.1978, tòa Đại Sứ Hà-Nội tại Hòa-Lan chính thức trả lời các tổ chức nhân quyền quốc tế là ô. Trần-Văn-Tuyên đã chết vì băng huyết ở trong não bộ. Trong số những người chứng kiến và đã mô tả cái chết đột ngột của LS Tuyên đã di tản khỏi Việt-Nam và đã sống ở hải ngoại là các ông Phan Vỹ, Thái-Văn-Kiểm [36], BS Trần Vỹ [37] và BS Nguyễn-Văn-Ái [38].

Kết-Luận

LS Trần-Văn-Tuyên đã dành cả cuộc đời của mình để tranh-đấu cho nền độc-lập của đất nước và quyền tự do và hạnh-phúc của dân-tộc. Một cuộc tranh-đấu bền bỉ, mãnh-liệt, nhưng lại ôn hòa dựa trên căn bản dân quyền và nhân quyền, lấy ngòi bút, tiếng nói, diễn đàn quốc-hội và luật-pháp làm công cụ để đấu-tranh. Chỉ tiếc rằng khi chết đi, ước mộng của ông chưa thành. Sự ra đi của LS Tuyên là một mất mát to lớn cho tổ quốc Việt-Nam. Ông đã để lại trong lòng mọi người, cả bạn lẫn thù, một niềm tôn-kính sâu sa. Ông đã đi vào lòng đất mẹ do sự chọn lựa của chính mình, đã đi theo Nguyễn-Thái-Học và để lại tấm gương oai hùng muôn đời cho các thế-hệ mai sau. Tác giả xin mượn lời nhắn-nhủ của chính LS Trần Văn-Tuyên viết trong Hồi-Ký Hội-Nghị Genève 1954 để kết thúc bài tiểu-sử này:

"Nhắc lại quãng lịch-sử quá khứ ... tôi mong các bạn nhớ bài học lịch-sử để hiểu sự việc ngày nay và chuẩn bị công-việc ngày mai, để sẵn sàng ứng phó với những biến cố lịch-sử ".

Nguyễn Quốc Khải

Chú thích:

[1] Nguyễn Tường Bách là em của nhà văn Nguyễn Tường Tam, bút hiệu là Nhất Linh trong nhóm Tự-Lực Văn-Đoàn.

[2] Chính-Đạo Vũ Ngự Chiêu, "Việt Nam Niên-Biểu 1939-1975", Văn-Hóa, 1996. Cũng theo tài liệu này, vua Bảo Đại vào ngày 15.6.1945 xuống dụ thành lập Hội-Đồng Thanh-Niên, chỉ định ô. Hoàng-Đạo-Thúy làm chủ-Tịch, ô. Trần-Duy-Hưng và ô. Tạ-Quang-Bửu làm Phó Chủ-Tịch.

[3] Nguyễn-Ngọc-Bích, "Trần-Văn-Tuyên và Lý Tưởng Nhân Quyền ở Việt-Nam", diễn văn đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên tại George Mason University, Law School, Virginia, 1996.

[4] Hương-Giang Thái-Văn-Kiểm, "Việt-Nam Gấm Hoa", Làng Văn, Canada, 1997.

[5] Trần-Văn-Tuyên, "Người Khách La", Sáng Tạo, Saigon, 1968.

[6] Bà Trần-Thị-Phúc mất năm 1959 tại Saigon. Bà Phạm-Thị-Côn là người vợ thứ hai của LS Tuyên.

[7] Paul Hendrickson, "The Living and the Dead - Robert McNamara and Five Lives of a Lost War", Alfred A. Knopf Publisher, New York, 1996.

[8] Viện Vận-Động Dân-Chủ Cho Việt-Nam, "Tiểu-Sử Trần-Văn-Tuyên", Washington D.C., Mùa Đông 1988.

[9] Jean Sainteny, "Histoire d''''une Paix Manquée", Amiot-Dumont, Paris 1954 (t. 171).

[10] Theodore Jacqueney, "They Are Us, Were We Vietnamese", WorldView April 1977.

[11] Ô. Võ-Thành-Minh bị mất tích trong biến cố Tết Mậu Thân, 1968 tại miền Trung.

[12] Trần-Văn-Tuyên, "Hồi Ký Hội-Nghị Genève 1954", Nhà Xuất Bản Chim Đàn, Saigon, 1954.

[13] Ô. Hoàng-Nguyên làm thông-dịch-viên cho phái-đoàn Dân-Chủ Cộng-Hòa Việt-Nam.

[14] Xin xem xuất xứ ở chú-thích 10.

[15] Bùi-Ngọc-Lâm, Bút Ký "30 Năm Với Lãnh-Tụ Cách-Mạng Trần-Văn-Tuyên", Đặc San Vận-Động Dân Chủ Cho Việt-Nam, Washington, D.C., 1988.

[16] Tôn Thất Thiện, "Anh Tạ Quang Bửu ", Bạch Mã, Cypress - California, 1996.

[17] Ô. Ta Quang Bửu (1910-1986) từng giữ chức vụ Thiếu tướng Quân đäi Nhân Dân, Thứ trưởng Quốc Phòng và Bộ-Trưởng Bộ Đại-Học.

[18] Thành Tín Bùi Tín, "Hoa Xuyên Tuyết", Nhà Xuất Bản Nhân Quyền, Saigon Press, Irvine, California 1991.

[19] Stanley Karnow, "Vietnam : A History" , Penguin Books, New York 1997.

[20] Nguyễn-Hữu-Chung, "Nhớ Anh Trần-Văn-Tuyên", Báo Tiếng-Chuông, Montreal, Canada 5.1997.

[21] Báo chí gọi là nhóm Caravelle.

[22] Ô. Bùi-Diễm có mặt trong buổi họp ở khách-sạn Caravelle, tham dự vào việc soạn thảo nhưng không ký vào lá-thư gửi Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm.

[23] Trái với một số tài liệu đã viết sai rằng LS Tuyên bị đầy ra Côn-Đảo.

[24] Bui Diem with David Chanoff, "In the Jaw of History", Houghton Mifflin Company, Boston 1987.

[25] Xin xem xuất xứ liệt kê ở chú-thích số 15.

[26] Xin xem xuất xứ ở chú thích 19.

[27] Tiziano Terzani, "Giai-Phong - The Fall and Liberation of Saigon", St. Martin''''s Press, New York 1976.

[28] Xin xem xuất xứ liệt kê ở chú-thích số 15.

[29] Trích trong diễn-văn của ô. Tạ-Quang-Trung đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên Tuyên được tổ chức tại George Mason University Law School, Virginia, 1996.

[30] Lý-Tòng-Bá, "Hồi-Ký 25 Năm Khói Lửa, của Một Tướng Cầm Quân Tại Mặt Trận", 1996.

[31] Xin xem xuất xứ ở chú thích 24.

[32] Văn-Tiến-Dũng, "Our Great Spring Victory - An Account of the Liberation of South Vietnam", Monthly Review Press, New York 1977.

[33] Vo-Nguyen-Giap, "The Military Art of People War, Selected Writings of General Vo-Nguyen-Giap", edited by Russell Stetler, Monthly Review Press, New York 1970.

[34] Trích trong diễn văn của ô.Bùi-Diễm đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên được tổ chức tại George Mason University, Law School, Virginia, 1996.

[35] Korea Herald, September 27, 1972.

[36] Xin coi chú-thích số 9.

[37] P.V. Tran, "Prisonner Politique Au Viet-Nam,1975-1979" , Editions L''''Harmattan, Paris, 1990.

[38] Văn-Uyên (Nguyễn-Văn-Ái), "Luật Sư Trần-Văn-Tuyên - Tấm Gương Bất Khuất", trong Thư Mục Y Giới.




Sunday, October 26, 2008

Nguyễn Chí Thiện KHÔNG LÀ Tác Giả Tập Thơ Vô Ðề


Nhận Thức

Cuối cùng, ngày "họp báo" của Nguyễn Chí Thiện với sự chất vấn từ bà Hoàng Dược Thảo chủ nhiệm nhật báo Sài Gòn Nhỏ đã xảy ra. Sự việc nghiêm chỉnh với hai mươi phút đối chất giữa hai nhân vật đã không thực hiện được vì Nguyễn Chí Thiện đã không làm được hai điều:

1. Trả lời bằng chứng tỏ khả năng Pháp Văn trong việc viết Pháp Văn để chứng tỏ trình độ. Khi viết Pháp Văn phải có trình độ văn phạm vững vàng. Các học giả, thức giả sau đó, có bản văn để so chiếu với bài viết của tác giả tập thơ Vô Ðề. Nghi vấn khả năng Pháp Văn của Nguyễn Chí Thiện đã rõ ràng:

Nguyễn Chí Thiện không có khả văn viết trôi chẩy Pháp Văn. Không như tác giả tập thơ Vô Ðề, tác giả thông thạo Pháp Văn rất chuẩn.

2. Sự đòi hỏi của bà Hoàng Dược Thảo đến Nguyễn Chí Thiện trước khi đến họp là "yêu cầu không được la ó" trong khi bà Hoàng Dược Thảo hỏi, đã không được đáp ứng. Như vậy, rõ ràng nhân vật Nguyễn Chí Thiện "họp báo" chỉ để là la ó và không trả lời các sự yêu cầu chính đáng. Như hai thí dụ điển hình trên. Sự kiện này đã đủ để chứng tỏ Nguyễn Chí Thiện không là tác giả tập thơ Vô Ðề. Các cuộc "họp báo" hay "trưng bày" bằng cớ sau đó nữa cũng chỉ là các trò hề "cả vú lấp miệng em", chỉ càng tỏ rõ Nguyễn Chí Thiện đã dùng "nhân chứng" (người ngoài) để cố tình đánh lạc hướng điểm chính: Nguyễn Chí Thiện không là tác giả tập thơ Vô Ðe^`. Vì bao bảo đảm từ nơi đương sự đã không thành hình như trong cam kết.

Nhận Thức


Tôi tham dự cuộc họp báo của NCT ngày 25/10/2008


Người Cali


Tôi có đi tham dự cuộc họp báo của ông Nguyễn Chí Thiện vào chiều Thứ Bảy 25/10/2008. Đúng như ông Ly Hao đã viết, đó là một cuộc họp chợ hơn là một cuộc họp báo. Phe nhóm ông NCT ngồi đầy phòng, nên ông ấy cứ yên tâm thong thả đi ra đi vào, trong khi chờ đợi bà Hoàng Được Thảo, chủ nhiệm báo Sàigòn Nhỏ, đến phòng họp, mà không sợ bị ai hạch hỏi.

Nếu ông Nguyễn Chí Thiện thật lòng muốn chứng minh mình chính là tác giả tập thơ Vô Đề thì giải pháp của bà Hoàng Dược Thảo đưa ra thật rất đứng đắn, vừa ngắn vừa gọn.

Nếu ông NCT chấp nhận giải pháp đó thì tất cả mọi sự thắc mắc, nghi kỵ từ mấy năm nay đều được giải tỏa: Người ta đồn ông Thiện không biết tiếng Pháp - (lẽ dĩ nhiên không biết viết, chứ còn nói thì… dân Mễ qua Mỹ chừng một năm đã nói được tiếng Mỹ rành rọt, huống chi NCT đã bịp được tụi Pháp và đã qua Pháp ở đến mấy năm với Bùi Tín và Vũ Thư Hiên.

Nếu ông chấp nhận viết (và viết correct) lại cái thư (bằng Pháp văn) khi đưa vào Tòa Đại Sứ Anh do bà Hoàng Dược Thảo đọc thì không ai còn thắc mắc gì nữa. Ông đã viết được tiếng Pháp của một người có học và chúng ta cũng có thể so sánh chữ viết của ông ấy với bản văn bà Hoàng Dược Thảo đang cầm trên tay. Khổ nỗi tiếng Pháp nói có thể courant, nhưng viết thì sẽ bị rất nhiều lỗi nếu là người thất học, hay chỉ biết học thuộc lòng như con vẹt.

Vậy thì chẳng cần 20 phút, mà chỉ cần chưa đầy 5 phút, bà Hoàng Dược Thảo đã chứng minh được cái vụ "chôm" tên tuổi của NCT.

Mặc dù sau đó ông ấy có đọc một cái thư bằng tiếng Pháp, nói rằng tác giả Cruel Avril viết gửi cho ông, nhưng việc này đã hại cho ông nhiều hơn nữa vì giọng đọc của ông thì đúng là của một kẻ chỉ mới học đến lớp ba trường làng, accent thì đúng là của những người thất học (không được học tiếng Pháp ở trường lớp đàng hoàng) hay là đã được Việt Cộng răng đen mã tấu cấp tốc dạy cho trong thời gian ở chung nhà với Bùi Tín vào năm 1996 tại Pháp.

Hình như vì thấy hố, nên sau đó bà Bút Vàng đã đưa lên Net một cuộc nói chuyện mà bà nói là của ông NCT và bà. Nghe ông Thiện uốn giọng, tập nói tiếng Pháp theo người học kiểu "auditeur libre" (?!) của trường trung học Pháp ở Hà Nội (Trung học mà có auditeur libre (?) chắc chỉ có ở xứ Cộng Sản). Thấy vở kịch của Bút Vàng và Nguyễn Chí Thiện thật là đáng thương, chứ không phải vụng về nữa. Đáng thương vì "càng cãi càng thua, càng thua nên càng cãi"! Nó quả hơn sự vụng về, vì vở kịch đó chỉ đẩy thêm cho ông Nguyễn Chí Thiện lún sâu xuống vũng bùn của sự dối trá!

Người Cali


  • [ 1] Điệp viên họp báo

Tru tắt tiếng, Vàng ra gác cổng
Vẫy đuôi mừng, há họng sủa nhăng
Nhật Nam, Lý Tống,... một băng
Mấy ông "nổ tượng" nhận xằng ngậm tăm!
Nguyễn Chí Thiện đòi hăm thưa kiện
Hai trăm ngàn, nói chuyện ruồi bu
Tiếng Tây, tiếng Mỹ, tiếng U
Đánh vần, thằng ngọng "gà rù mắc mưa"!
Lũ băng đảng đẩy đưa, thậm thụt
Cho Đào Nương 10 phút mong manh!
Đầm xòe lên giọng lô-canh
Đích-tê đích-tiếc thách anh Hỏa Lò
Là tác giả bức thư tiếng Pháp
Đọc chép thôi (!) chó ngáp không xong!
Thiện từ chối, nói lòng vòng
Tiếng Tây bà vốn học trong trường đầm!
Thiện ú ớ, ngậm câm, giả điếc
Rằng tiếng Tây, tôi biết… thua bà
Thiện trường làng, mới lớp ba
Đích-tê tiếng Phú-Lang-Sa đâu rành!
Trước tai mắt đàn anh đàn chị
Hạt Máu Thơ bí rị chết trân
Hôm nay trước mặt ba quân
Thiện xin chấp nhận đội quần Đào Nương.

October 25, 2008
Hồ Công Tâm




  • [2] Họp tổ dân phố
Tổ dân phố Việt Tân kiểm thảo
Chứ phải đâu họp báo như vầy?!
Gà nhà chúng nó vỗ tay!
Khác phe, chúng đả kích ngay tức thì
Trò sách động như ri mới quái
Xứ văn minh nào phải rừng xanh
Như thời đấu tố, họp hành
54 Việt Cộng vào thành tiếp thu!
Chúng la ó kẻ thù, đấu tố
Hai trăm ngàn cá độ ăn thua!
Làm như sẵn có tiền chùa
Máu mê cá độ ăn lùa, thua dông!
Điều quan trọng: Thiện không dám nhận
Cho đối phương phỏng vấn tiếng Tây
Pháp văn khảo hạch rõ ngay
Chôm thơ đích thị thằng này thằng gian!

October 25, 2008
Hồ Công Tâm

Thư ngỏ của Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH tiểu bang Nam Úc gửi BS Bùi Trọng Cường


THƯ NGỎ

Của Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tiểu bang Nam Úc
    v/v Bác sĩ Bùi trọng Cường và Taste Vietnam
Kính thưa quý vị,

Từ đầu năm nay, khi Bác sĩ Bùi trọng Cường, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu, tiểu bang Queensland, bỗng dưng phổ biến một Thư Ngỏ tuyên bố rằng "trong hơn thập niên qua, Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tiểu bang Qld, đã không đóng góp gì cho công đồng", anh em cựu quân nhân QLVNCH chúng tôi tại Nam Úc đã bắt đầu có những dấu hỏi về các mưu toan và khuynh hướng chính trị của Chủ tịch Cộng Đồng này.

Đến đầu tháng 10/2008 vừa qua, Bác sĩ Bùi trọng Cường đã cùng với các đảng viên của Việt Tân Cải Cách "đi đêm" với cán bộ Cộng Sản Việt Nam đội lốt du sinh để âm mưu làm tan vỡ kế hoạch biểu tình chống đối buổi Taste Vietnam mà BS BT Cường và Ban chấp hành CĐNVTD UC/Qld đã đồng ý trước đó với các hội đoàn, đoàn thể ở Brisbane.

Gặp sự chống đối mạnh mẽ của đồng hương và các hội đoàn, đoàn thể ở địa phương, Bác sĩ Bùi trọng Cường đã toan tính dùng diễn đàn của cuộc biểu tình chống Nguyễn tấn Dũng ở Canberra hôm 13/10/2008 để biện minh cho hành động "đi đêm" này. Tuy nhiên, Ban tổ chức cuộc biểu tình chống Nguyễn tấn Dũng đã sáng suốt và nhanh chóng "mời" BS BT Cường rời diễn đàn trong nỗi ê chề, nhục nhã.

Trước những sự kiện đó, và sau khi đọc các Thư Ngỏ của các chiến hữu của chúng tôi thuộc các tổ chức sau đây:
    - Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH, tiểu bang Qld,
    - Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH, tiểu bang Qld,
    - Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tiểu bang Qld;
    - Tập Thể Cựu chiến sĩ QLVNCH, Đức Quốc;
và của:
    - Ban Phát Thanh Việt ngữ đài 4EB-FM, Brisbane;
    - Đoàn Thanh Thiếu Niên Cư An Tư Nguy, Queensland,
Hội Cựu Quân Nhan QLVNCH, tiểu bang Nam Úc tuyên bố:
    - Phản đối thái độ tấn công các chiến hữu thuộc Hội CQN QLVNCH/ Qld một cách vô cớ và hàm hồ của Bác sĩ Bùi trọng Cường;

    - Lên án trước công luận hành động thỏa hiệp, đi đêm với cán bộ du sinh CSVN của BS Bùi trọng Cường trong vu. Taste Vietnam vừa qua;

    - Hoàn toàn ủng hộ các chiến hữu thuộc những tổ chức QLVNCH nêu trên về lập trường dứt khoát không đối thoại, không hòa hợp hòa giải với bất cứ tổ chức nào của CSVN, dầu chính thức hay ngụy tạo.

    - Tiếp tục đề cao cảnh giác trước những âm mưu của Cộng Sản Việt Nam nhằm phân hóa Cộng Đồng và tập thể Cựu quân nhân QLVNCH tại hải ngoại;

    - Yêu cầu chiến hữu Nguyễn hưng Đạo, Chủ Tịch Tổng Hội CQN QLVNCH, liên bang Úc Châu, phải bày tỏ lập trường là có hỗ trợ hay không các chiến hữu ở Queensland.
Adelaide , ngày 26 tháng 10 năm 2008.
TM Ban Chấp Hành Hội CQN QLVNCH, tiểu bang Nam Úc,

Nguyễn văn Tây
(Chủ Tịch)



Chuyện tình Hòa thượng Thích Phước Huệ...


Một ngày đặc biệt 25 tháng 8 1944,
Quốc hội Nga trao độc lập cho Abkhazia và Nam Ossetia,


Chuyện tình Hòa thượng Thích Phước Huệ...

Phan Văn Song

1. Ngày 25 tháng 8 năm 2008: nhắc lại tội ác của 64 năm trước

Một chuyện lạ đang xảy ra tại Pháp. Tổng thống Sarkozy đi thăm một cái làng nhỏ bé ở vùng Touraine, cạnh thành phố Tours, nơi có nhiều lâu đài cổ kín của thời Phục hưng. Làng ấy tên là Maillé (Indre et Loire). Ngày 25 tháng 8 năm 1944, quân đội đồng minh chiến thắng đang tiến thẳng vào Paris và giải phóng toàn bộ Paris, bắt sống Tướng Von Cholitz toàn quyền Paris và Tổng tư lệnh quân Đức trấn thủ Paris, thì ở cách Paris khoảng trên 300 cây số, một nhóm tàn quân Đức khoảng 80 quân nhân trên đường rút quân đến gần làng Maillé, có một vị sĩ quan Đức bị quân du kích Pháp bắn sẻ chết. Điên tiết các quân nhân Đức vào làng và mở một cuộc tàn sát dân làng để trả thù, càng khủng khiếp hơn là cuộc tàn sát man dại, không cần bố ráp, lựa chọn đàn ông, đàn bà trẻ con, riêng rẻ như mọi khi. Nhưng đây là một cuộc giết chóc điên loạn, bừa bãi: bằng dao, đâm, chém cắt cổ, bá súng đập đầu, bắn... gặp đâu giết đó: đàn ông (rất ít), trái lại toàn đàn bà, ông già, bà cả, trẻ con,… 124 mạng. Những người may mắn sống sót do hoặc là vắng mặt, hoặc là trốn được trong những nơi trú ẩn khó tìm.

Maillé bị bỏ quên từ 64 năm nay, có lẽ vì kỷ lục của sự dã man không bằng Oradour sur Glane, vi khổng điển hình bằng Oradour sur Glane. Oradour sur Glane, một làng vùng Limousin, ngày 10 tháng 6 năm 1944, quân đội Đức vì cần thanh toán trả thù đã giết 648 người. Rất dã man là có 500 đàn bà và trẻ em, vì trốn núp trong một nhà thờ, đã bị nhốt trong nhà thờ ấy, và bị hỏa thiêu với nhà thờ, Làng Oradour sur Glane bị đốt gọn. Ngày nay, làng Oradour sur Glane cũ hoang tàn vẫn được giữ nguyên vẹn, làng mới và những kiến trúc mới được xây dựng cạnh làng cũ điêu tàn. Oradour sur Glane vẫn được nhắc nhở và các nạn nhân được nhắc nhở hằng năm. Maillé bị bỏ quên, vì số nạn nhân và sự tàn phá dã man không bằng Oradour sur Glane. Mailé bị bỏ quên vì ngày bị nạn trùng với ngày Paris là thủ đô được giải phóng và hằng năm, vì dân Pháp kỷ niệm ngày chiến thắng và ngày vui thiên hạ quên không ai nghĩ đến ngày của cái buồn.

Nhưng có một người không quên. Đó là ông Thẩm phán (Procureur) của Thành phố Dortmund Đức.

Có lẽ vì những quân nhân Đức bấy giờ gốc gác ở Dortmund nên ông giở lại hồ sơ và quyết tâm tìm ra sự thật. Dĩ nhiên dân chúng Pháp vùng Touraine và những người sống sót sau chiến tranh vẫn không quên các nạn nhân của Đệ nhị Thế chiến. Một tấm bia vẫn được dựng lên với tên những người nạn nhân để “không quên và làm bổn phận phải nhớ”. Cả nước Pháp ngày nay, ở mỗi làng đều có những đài tử sĩ khắc tên những con em của làng mình đã chết vì tổ quốc, cũng như có những tấm bia kỷ niệm những nạn nhân dân sự bị bắn, bị giết, bị tàn sát do quân đội chiếm đóng Đức. Dĩ nhiên mỗi năm từ những ngày đầu tháng 6 trở đi mỗi làng mỗi tỉnh đều có những cuộc truy điệu những vị anh hùng con em của địa phương mình. Và Maillé cũng vẫn nhớ đến những nạn nhân mình. Nhưng năm nay, cả nước Pháp nhớ đến Maillé và là lễ truy điệu các nạn nhân của cuộc tàn sát dã man kia. Tổng thống Sarkozy đến chủ tọa buổi lễ. Và đặc biệt là sự có mặt của ông Thẩm phán Ulrich Maas của thành phố Dortmund. Nước Pháp có thể quên, sau 64 năm, nước Pháp có thể tha thứ những quân nhân trong chiến tranh làm càn làm bậy, xem đó là những cái xấu của chế độ Nazie. Nhưng nước Đức vì danh dự không quên truy tố những kẻ sát nhân, mặc dù họ là những người Đức, những tội phạm phải được đem ra xét xử trước Tòa án. Công lý chỉ hết hiệu lực khi đã được xử. Mọi tội phạm phải được xét xử, đó là công lý.

Ở Việt Nam, Huế vào mùa Tết năm Mậu Thân 1968, quân đội Bắc Việt sau khi xâm chiếm thành phố Huế đã giết hại trên 5000 thường dân có cả đàn bà và trẻ con. Và ngày nay Huế không có một tấm bia với tên tuổi các nạn nhân. Các hung thủ còn sống hay đã chết vẫn không một ai điều tra không một ai hỏi tội. Việt Nam thật là một nước lạc hậu, vì Việt Nam không có công lý. Các hung thủ tội phạm giết người ung dung sống tự do, hay chết an lành, vô tộ, không có một Ulrich Maas để lập một hồ sơ điều tra. Chừng nào người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trưởng thành để nhận trách nhiệm đem công lý xét xử những tội phạm của mình?

2. Đâu là Pháp thuyết quốc tế?

Cũng ngày 25/8/2008 Quốc hội Nga (Douma) bỏ phiếu thông qua đạo luật nhìn nhận hai nước Abkhazia và Nam Ossetia độc lập. Nên nhớ Abkhazia và Nam Ossetia là 2 phần đất thuộc lãnh thổ của Georgia, một cựu Cộng hòa Xô viết thuộc Liên bang Xô viết trở thành Quốc gia độc lập năm 1991, sau khi bức tường Bá Linh sụp đỗ. Gorbatchev là người đã nhìn nhận những biên giới ngày nay của Georgia. Bộ trưởng Ngoại giao của Gorbatchev từ 1985 đến 1990, Edouard Chevardnadzé là công dân Georgia. Chevardnadzé ba lần làm Tổng thống Georgia. Chính Chevardnadzé là người đã ký chấp nhận quyền tự trị cho dân tộc Abkhazia và Nam Ossetia. Nhưng Abkhazia và Nam Ossetia tiếp tục khiêu khích chánh quyền trung ương Tbilissi, thủ đô Georgia, tiếp tục đòi độc lập và trở về với Nga. Nga tiếp tục khiêu khích bằng cách cấp thông hành Nga cho dân Abkhases và dân Ossetes. Dĩ nhiên Tổng thống đương nhiệm Mikhail Saakhasvili vấp phải cạm bẫy của Nga là đã tấn công Nam Ossetia. Nhưng Nga đã đập tan thành phố Gori (nơi sanh của Staline) và đã đem quân xâm lăng lãnh thổ Georgia.

Ngày 26 tháng 8, Tổng thống Menvedev của Nga đã ký sắc lệnh tuyên bố trao độc lập cho Abkhazia và Nam Ossetia. Mỹ, Anh Pháp Đức la làng không nhìn nhận hành động của Nga. Georgia mất lãnh thổ, Âu Tây và Mỹ mất mặt. Chiến tranh lạnh trở lại? Bức màn sắt mới sẽ sụp xuống phía Đông Âu châu?. Khu vực Balkan, vùng Caucase lò lửa của Âu châu trước đệ nhứt Thế chiến đang sôi động trở lại. Đế quốc Nga, Đế quốc Hồi giáo Ottoman, Đế quốc Áo Hung, Đế quốc Anh, Pháp, Phổ… trước 1914, có khác chi với Đế quốc Nga, khối Hồi giáo quá khích Al Queda, Liên Âu, Otan... của 2008? Các nước cựu Công sản Đông Âu nghĩ thế nào về thái độ của Nga ngày nay. Những nước như Ukrainia, Belarussia? và các nước Baltic? và Ba Lan? và Tiệp...? Chưa kể đến những cựu Cộng hòa Xô viết Hồi giáo. Từ Azerbejzan đến Tiljikistan, từ biển Caspien đến biên giới Tàu? Cũng nên nhớ tất cả năm nước cựu Cộng hòa Xô viết Hồi giáo đều nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và là cựu thuộc địa của Đế quốc Ottoman tức là Thổ Nhĩ Kỳ.

Việc nhận hai nước Abkhazia và Nam Ossetia là hai quốc gia độc lập sẽ là một tiền lệ mở đầu cho những hỗn loạn sau nầy. Rồi đây UNO, Liên Hiệp Quốc cũng chẳng khác chi Société des Nations Hội Liên Quốc của trước Đệ nhứt Thế chiến. Thiên hạ đang thay phiên nhau vẽ lại bản đồ thế giới. Tại sao Nga, Tàu đang trên đà phát triển sức mạnh kinh tế và quân sự không tìm cách thay đổi các đường biên giới với các đàn em láng giềng. Ai cấm Tàu ngày mai tuyên bố tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam độc lập vì có người nói tiếng Hoa cư ngụ. Ai cấm ngày mai vì Quảng Ninh độc lâp, Vịnh Hạ Long sẽ thuộc vào Tàu và Vịnh Bắc Việt sẽ là Vịnh Nam Hoa? Trường Sa Hoàng Sa đã là Tây Sa và Nam Sa rồi, sá gì ba cái lẻ tẻ.

3. Mạt Pháp hay Hòa thượng ma?

Cũng những ngày nầy ở Úc châu trong cộng đồng Việt Nam Phật giáo đang xảy ra một xì căng đan.

Có một vị Hòa thượng pháp danh Thích Phước…, đã bị một nữ tín hữu tố cáo (trên Sài gòn Nhỏ, tác giả Tuấn Phan) là đã ăn nằm với cô nàng từ 15 năm nay, dưới danh nghĩa “Hòa thượng đi qua Mỹ nhập thất mỗi năm 2 lần, mỗi lần 1 đến 2 tháng” để tránh tai tiếng. Cuộc tình khắng khích đó trong suốt thời gian vị Hòa thượng trụ trì và mở mang cơ sở tự viện ở Úc. Cô nàng ở Mỹ, chàng Hòa thượng ở Úc châu thỉnh thoảng, chàng nghỉ gõ mõ tụng kinh, tạm cởi áo cà sa, khoác T- Shirt, sơ-mi, quần cụt hoặc quần tây dài, bay qua Mỹ, đội nón che đầu lún phún trọc, đi du hí “xả xui” với nàng. Câu chuyện đổ vỡ vì chàng vui duyên mới, không còn giữ mặn nồng với nàng nữa làm nàng nỗi cơn tam bành, máu Hoạn Thư bốc hơi, nên gởi thơ cho bá tánh để khui hết sự thật Một thứ sự thật của con người sinh học bình thường, khác với đời sống con người Phật tử đã nguyện xuất gia. Nghĩ thiệt xui cho chàng đã ngã mặn mà còn chụp hình làm kỷ niệm.

Nhưng sở dĩ tôi kể ra đây là trong cái không khí xì căng đan như vậy vẫn có vài người nghĩ rằng vì các vị ấy là chức sắc, như bên công giáo La-mã, đó là người có chức thánh, không nên nói sự thật ra hay làm to chuyện làm gì. Nên xử lý êm thấm trong nội bộ vẫn tốt đẹp hơn, tránh bị kẻ xấu lợi dụng khoét to ra thêm. Vả lại, Hòa thượng đã ban hành 2 thông bạch theo đó Hòa thượng rút lui vì lý do sức khỏe, không lãnh đạo Giáo hội nữa. Ông Hòa thượng “ngã ngựa” theo đàn bà, so what? Có sao đâu!. That's it thế là xong!

Còn danh dự của Giáo hội? Danh dự của Phật tử xưa nay đến Chùa để tu hành, hoàn toàn không ngờ người lãnh đạo tinh thần của mình như vậy? Về mặt đời, ông là người bội bạc. Về mặt đạo, ông là người vi phạm nặng nề, gia trọng, luật đạo.

Tại sao ông không công khai đời sống cá nhân của ông vì điều đó rất bình thường?

Giờ đây, tôi xin gợi ý riêng với Hòa thượng Phước…, ông hãy trả áo mão lại cho Chùa, qua Mỹ công khai sống với nàng và yêu cầu nàng rút lại hồ sơ quan hệ trước đây giữa 2 người và đưa ra lời xin lỗi Hòa thượng. Một cách giải quyết đẹp tình trọn đạo!

Hòa thượng nghĩ sao?

4. Nghĩ gì bây giờ ?

Đến đây, tôi phải nói quả thật dân Việt Nam ta vẫn chưa trưởng thành. Tết Mậu Thân họ giết người như thế, khóc đã, rồi thôi. Không kiện, không tố cáo, thằng thua, phe ta chỉ biết chưởi. Còn phe kia, phe thắng trận, có một bọn giết người như vậy cũng nín khe. Vì im lặng là vàng? Mỹ nó cũng có hung thủ, nhưng vì nó có công lý nên tên Đại Úy Calley, Đại đội trưởng Đại đội Charlie, thủ phạm giết các dân làng ở Mỹ lai, về nước bị ra Tòa và ở tù. Cái văn minh là chỗ có công lý đó. Thẩm phán Ulrich Maas tiếp tục điều tra để tìm cho được tông tích các hung thủ giết người ở Maillé. Còn Việt Nam, hễ thấy người lớn (có tước vị) mặc dù làm càng thì cũng thôi vì cả nễ. Vị Hòa thượng Thích Phước … trụ trì một ngôi Chùa lớn,… thôi như vậy chuyện đã lỡ rồi, không nên để thành xì căng đan, nhân danh đoàn kết cho sức mạnh cộng đồng. Nga nó lớn nó làm ngang không ai dám nói nhân danh hòa bình và tình đoàn kết các dân tộc. Việt cộng ngày xưa giết 500,000 người về Cải cách Ruộng đất cũng nhân danh đoàn kết Công Nông chống Cường Hào Ác Bá. Việt cộng lập vụ án Nhân Văn Giai Phẩm cũng nhân danh cải tạo tư tưởng.

Tôn Giáo, Giáo hội, tín đồ là lớn hơn tất cả. Các chức sắc chỉ là những con người. Con người té ngã là chuyện phải có. Phải làm sáng tỏ, phải cho mọi người biết. Các Linh mục bên Mỹ làm bậy, ấu dâm, các tín đồ Mỹ làm lớn chuyện, đuổi các linh mục ra khỏi nhà thờ và Ông Giáo hoàng khi qua Mỹ đã phải xin lỗi các tín đồ Thiên chúa Giáo La Mã Mỹ.

Xì căng đan đối với tôi không phải là chuyện Hòa Thượng Thích Phước … có người yêu rồi bỏ người yêu, vui duyên mới. Cái xì căng đan là ngày nay không ai muốn nói và xử chìm xuồng dấu nhẹm vụ nầy. Bổn phận Nhà Chùa là phải tôn trọng tín đồ đã đóng góp xây dựng nhà Chùa. Cho nên làm sáng tỏ là tôn trọng Công lý.

Chuyện thời sự của Người, nhưng đó cũng là những bài học cho chúng ta.

26 tháng 8 năm 2008
Phan Văn Song




Vụ tư tình vụng trộm của Huề thượng Phước Huệ với nữ Phật tử Diệu Đức


Vụ tư tình vụng trộm của Huề thượng Phước Huệ với nữ Phật tử Diệu Đức Xét theo luật pháp Việt Nam thời xưa

Nguyễn văn Trần

Trong xã hội Việt Nam thời xưa, luật pháp và đạo đức có mối liên hệ mật thiết với nhau vì đạo đức là nền tảng của luật pháp. Mọi vi phạm đạo đức đều bị luật pháp trừng phạt rất nặng nề. Chánh quyền quân chủ đặt nặng vấn đề gìn giữ kỷ cương xã hội và bảo vệ đạo đức đối với gia đình. Cá nhân không phải chỉ có nhiệm vụ pháp lý đối với nhà vua, mà còn có nhiệm vụ pháp lý đối với gia đình nữa.

Theo lễ giáo thời xưa ở Việt Nam thì “nam nữ thọ thọ bất thân” nên nam và nữ nếu không phải vợ chồng thì không được phép gần nhau. Thậm chí bắt tay nhau hoặc trao một vật gì trực tiếp làm đụng chạm tay chân hay thân thể đều bị cấm kỵ. Việc lập gia đình cho con cái phải do cha mẹ định đoạt. Nam nữ tuyệt đối không có quyền tự do luyến ái. Theo lễ giáo, kỷ cương đó, thì vụ tư tình vụng trộm của Huề thượng Phước Huệ với nữ Phật tử Diệu Đức quả là hành động vi phạm lễ giáo nghiêm trọng, mà vi phạm lễ giáo chính là vi phạm luật pháp.

Vậy chúng ta thử lược thuật vụ tư tình vụng trộm của Huề thượng Phước Huệ với nữ Phật tử Diệu Đức, nêu lên những hành động của hai người để xem xét theo luật pháp Việt Nam thời xưa. Hành động phạm pháp này bị xử phạt thì hình phạt sẽ như thế nào?

Cùng hành động này ngày nay có vi phạm luật pháp không?

Sơ lược vụ tư tình vụng trộm

Huề thượng Phước Huệ là viện chủ Phước Huệ tổ đình tọa lạc tại vùng Sydney. Bà Diệu Đức ở Californie, Huê kỳ. Mười lăm năm trước, bà được một vị tu sĩ xuất gia thuộc hệ phái Phước Huệ giới thiệu qua chùa Phước Huệ ở Úc để chửa bệnh.

Đến chùa, bà gặp Huề thượng Phước Huệ và được Huề thưọng nhận ra vì đã để ý bà từ thuở bà 13, 15 tuổi. Huề thượng nói rõ với bà nay gặp bà ở đây, “bà không chạy khỏi tay Huề thượng ”.

Sau đó, bà trở về Mỹ. Huề thượng qua Mỹ sống chung với bà, mỗi năm 2 lần, mỗi lần 1 tháng hoặc hơn. Mỗi lần Huề thượng qua, bà mướn nhà riêng để hai người sống chung. Có khi đưa nhau đi chơi xa và ở Hotel. Vụ tư tình vụng trộm này, chồng của bà biết và đã một lần can thiệp, yêu cầu Huề thượng hãy ngưng vụ tư tình này. Chồng của bà và bà, theo lời của bà, ly thân, chưa ly dị nên vẫn sống chung một nhà. Hai người có 2 con nay đã lớn.

Vụ tư tình vụng trộm này kéo dài 15 năm (3/2008).

Qua vụ tư tình của Huề thượng Phước Huệ với nữ Phật tử Diệu Đức, chúng ta có thể ghi lại mấy điều quan trọng:

- Gặp nhau, hai người tư tình vụng trộm, không chấp hành một lễ tục nào hết.

- Bà Diệu Đức có chồng và con cái.

- Hai người tư tình bên ngoài nhà của họ.

Sự trừng phạt hành động phạm pháp trên đây của Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức theo luật nhà Lê.

Trong bộ Quốc Triều Hình Luật của nhà Lê có những điều luật liên hệ đến việc nam nữ lấy nhau không không theo những lễ tục:

1. Điều 401: “Kẻ phạm gian với vợ cả của người thì bị kết án lưu hay tử, nếu người nữ đồng phạm là vợ lẻ thì gian phu được xử nhẹ đi một bực. Người sang cả phạm tội thì bị xử khác.

Trong mọi trường hợp, gian phu đều phải nộp tiền như luật định. Người vợ cả hay vợ lẻ phạm gian đều bị kết án lưu, điền sản giao về nhà chồng. Nếu các nữ đồng phạm là vợ cả hay vợ lẻ chưa cưới thì tất cả được xử nhẹ đi một bực.”

2. Điều 405: “Kẻ thông gian với vợ cả của người thì bị đánh 60 trượng, biếm 2 tư và phải nộp tiền tạ nhiều ít theo thứ bực cao thấp, nếu hai bên sang hèn cách nhau xa thì xử khác”.

Vua Lê Thánh Tông, còn sai các quan làm ra một số điều luật tập hợp lại dưới nhan đề Thiên Nam Dư Hạ Tập. Trong tập sách này, có nhiều điều liên quan đến tội phạm gian và thông dâm.

Đến năm Hồng Đức thứ 20 (1489), nhà Lê lại ban hành 10 điều luật qui định tội gian thông. Chúng tôi trích dẫn vài điều liên quan đến vụ tư tình này.

1. Điều 1: “Nam nữ đồng tình thông dâm với nhau thì bị đánh 50 roi, người nữ phạm bị bắt làm tỳ của nhà nước, người nam phạm bị kết án đồ làm đồn điền binh sung vào vệ quân Hoài Nhơn” (Qui Nhơn ngày nay)

2. Điều 2: “Kẻ tìm cách phạm gian với vợ của người thì bị đánh 100 trượng, thích vào mặt 8 chữ, và kết án lưu Viễn Châu.”

3. Điều 10: “Nam nữ nói chuyện với nhau ban đêm thì bị kết án đồ.”

Án xử Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức theo luật lệ nhà Lê.

Nếu xét xử Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức theo điều 401 của Quốc Triều Hình Luật về tội phạm gian với vợ cả của người bởi Huề thượng đã chủ động chinh phục bà Diệu Đức ( tôi đã để ý đến em hồi em 13, 15 tuổi. Nay gặp tôi ở đây, em không chạy khỏi tay tôi đâu ) thì Huề thượng phải bị kết án lưu hay tử và còn phải nộp tiền phạt. Về phần bà Diệu Đức, vợ cả, bị kết án lưu, tài sản giao về cho nhà chồng.

Theo điều 405, thì Huề thượng bị phạt 60 trượng, biếm 2 tư (Huề thượng bị hạ xuống còn Đại Đức) và phải nộp tiền tạ. Trong trường hợp này, tiền tạ phải nhiều theo gia thế và địa vị xã hội của bà Diệu Đức.

Nếu vụ tư tình vụng trộm này được xử theo một số điều của bộ Thiên Nam Dư Hạ Tập, thì điều 1 phạt mỗi người “50 roi”, Huề thượng bị kết án đồ làm đồn điền binh sung vào vệ quân Hoài Nhơn ; bà Diệu Đức bị bắt “làm tỳ của nhà nước” về tội “nam nữ đồng tình thông dâm với nhau”.

Theo điều 2, vì đã chủ động phạm gian với vợ cả của người (em không chạy khỏi tay tôi đâu), Huề thượng bị đánh 100 trượng, thích vào mặt 8 chữ, kết án lưu Viễn Châu.

Theo điều 10, cả hai người đều bị kết án đồ về tội “nam nữ nói chuyện với nhau ban đêm”.

Theo luật nhà Lê, tội gian và thông gian có một sự khác nhau nhỏ: gian chỉ tội gian dâm và thông gian chỉ sự quan hệ thân mật. Bị khép tội gian thì bản án là lưu hay tử, còn bị khép tội thông gian thì chỉ bị đánh 60 trượng và biếm 2 tư.

Trường hợp của Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức bị ghép cả 2 về tội gian và thông gian.

Án xử Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức theo luật nhà Nguyễn

Luật nhà Nguyễn hay Hoàng Việt Luật Lệ bị nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sao chép gần giống luật nhà Thanh, mà luật nhà Thanh lại lấy nguyên bản của luật nhà Minh. Riêng luật nhà Lê không giống luật Trung Hoa.

Tuy nhiên, theo giáo sư Nguyễn ngọc Huy thì luật nhà Nguyễn có nhiều điểm mà luật nhà Minh không có.

Ngoài ra, về sau, nhà Nguyễn có sửa đổi nhiều so với luật nhà Minh và nhà Thanh.

Về tội trạng của Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức, áp dụng luật nhà Nguyễn thì điều qui định về tội “hòa gian và điêu gian” như sau: “Phạm tội hòa gian thì đánh 80 trượng, nếu trong vụ hòa gian, nữ phạm gian có chồng thì hình phạt là 80 trượng; phạm tội điều gian thì đánh 100 trượng”.

Điều kế tiếp: “Trong tội hòa gian và điêu gian, nam và nữ phạm tội đều bị trừng phạt y như nhau.”

Chú thích:

Hòa gian là nam nữ đều đồng ý tư tình với nhau. Điêu gian là họ cùng dẫn nhau đến một chổ khác để ái ân, tránh dư luận.

Theo đây, Huề thượng Phước Huệ và Phật tử Diệu Đức, cả hai đều bị mỗi người 100 trượng về tội điêu gian.

Năm 1837, vua Minh Mạng ban hành một điều luật về tội phạm gian theo đó, nếu trong vụ phạm gian, nữ phạm là đàn bà có chồng mà không có con thì 2 người nam nữ phạm gian đều bị xử giảo nhưng bị giam chung thân chớ không đem thắt cổ, còn nếu nữ phạm gian có chồng và có con thì hai người nam nữ phạm gian đều bị án giảo và bị hành quyết.

Nếu áp dụng sắc lệnh của vua Minh mạng thì Huề thượng Phước Huệ và nữ Phật tử Diệu Đức đều bị án giảo và thi hành bản án .

Luật nhà Nguyễn có ghi rỏ đàn bà bị phạt trượng, không được chuộc mà phải chịu đòn, nhưng khi thi hành thì đánh bằng roi (nhỏ hơn trượng).

Luật nhà Lê cũng nhẹ tay đối với nữ phạm nhân, như cùng tội trạng, phụ nữ bị kết án nhẹ hơn đàn ông. Đây là đặc điểm của luật pháp Việt Nam quí trọng người phụ nữ.

Đối với luật pháp ngày nay

Trước luật pháp ngày nay, nhất là ở Tây phương, vụ Huề thượng Phước Huệ với nữ phật tử Diệu Đức không thể bị truy tố như thời xưa ở Việt Nam.

Nhưng về mặt đạo lý, vụ tư tình vụng trộm này chẳng lẽ lại không bị phê phán?

Vậy đâu là đạo lý? Cả sau cổng chùa?

Ngày nay trên khắp lục địa, những giá trị cổ truyền đều bị sụp đổ, và trong một hoang tưởng người ta nghĩ rằng một xã hội mới đã tái tạo cuộc sống.

Sau biến cố tháng 5/1968, một lớp thanh niên xuất hiện, chối bỏ cái xã hội hậu chiến được biểu hiện qua cuộc chiến của Mỹ ở Đông Nam Á và cuộc đàn áp đẩm máu của Liên xô đối với các “nước anh em”.

Nhưng xa hơn những sự kiện này là thói tục xã hội, gia đình, mọi tương quan quyền lực kể cả trong gia đình đều bị xét lại. Có khi bằng cả bạo loạn. Âm nhạc loạn động, luyến ái tự do và lạm dụng ma túy lên ngôi.

Những thân thể nảy lửa phơi bày tự nhiên khiêu khích, phát họa những đường nét hứa hẹn tự do luyến ái. Thanh niên giờ đây sống không còn bị một thứ ngăn cấm nào ràng buộc.

Tất cả đều hô to khẩu hiệu “quyền hưởng lạc thú” và “tự do yêu”.

Riêng phụ nữ, thuốc ngừa thai và tình dục tự do trở thành một thứ quyền (tự do) trong nữ quyền.

Ở Việt Nam, biến cố 5/1968 không mấy ảnh hưởng.

Ngày nay những giá trị đạo lý nền tảng bị sụp đổ do sự tàn phá có hệ thống của chánh sách cộng sản cai trị.

Phật giáo truyền thống bị Phật giáo nhà nước thao túng cho quyền lợi của chế độ, với công an làm thầy chùa

Phật giáo hải ngoại không bị áp lực cộng sản phải có nhiệm vụ duy trì và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Giới tu sĩ xuất gia phải là tấm gương sáng về đạo hạnh làm giá trị qui chiếu cho đồng bào phật tử .

Trường hợp Huề thượng Phước Huệ là một thực tế mà cộng đồng phật tử nên suy nghĩ và cùng nhau tìm giải pháp. Trước nhứt người Phật tử phải thấy mình thật lòng bảo vệ đạo và bảo vệ chùa; Giữ cho chùa luôn luôn là nơi thanh tịnh, tôn nghiêm, hành động của các thầy luôn luôn trong sáng.

Để thật sự kết thúc những trang đen tối vừa qua, xảy ra ở chùa Phước Huệ do Huề thượng Phước Huệ gây ra, Phật tử thử đề nghị với Huề thượng Phước Huệ tổ chức một đại lễ sám hối để Huề thượng Phước Huệ phơi bày ra trước cộng đồng Phật tử tất cả những việc làm sai trái của ông với tư cách một tu sĩ xuất gia năm 16 tuổi. Cả với sự tham dự để cùng sám hối của nữ Phật tử Diệu Đức. Tại sao không làm được? Đồ tể biết buông dao còn thành Phật kia mà!

Sau đại lễ sám hối, Huề thượng Phước Huệ hôm qua không còn nữa.

Một Đại lão Huề thượng Phước Huệ khác với thân tâm an lạc xuất hiện giữa một cộng đồng phật tử tràn dâng sự kính trọng.

Bởi người xưa nói “Người làm cho Đạo lớn, Đạo không làm cho người lớn”!



Ghi chú

Nguyễn Ngọc Huy, Mối tình vụng trộm giữa Kim Trọng với Thúy Kiều xét theo luật pháp thời xưa, di cảo, Nguyễn Ngọc Huy Fondation và Mekong Tỵ nạn, Huê Kỳ, 1996.

Nguyễn Ngọc Huy, Le Code de LÊ, Paris, 1969 (Thư viện Cujas, ParisV)

P.L.F. Philastre, Le Code Annamite Bản dịch Hoàng Việt Luật Lệ, Paris,

1909, Thư viện Cujas, Paris V

Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn văn Tài, Lê Triều Hình Luật, Văn Hóa, Hà Nội, 1997

Nguyễn văn Trần

Saturday, October 25, 2008

Chuyện dài CA SĨ HẢI NGOẠI về Việt Nam hát hò


Phạm Phong Dinh

Gần đây có nhiều thân hữu và độc giả đề nghị chúng tôi viết một vài bài về hiện tượng ca sĩ Việt Nam ở hải ngoại về nước và ca sĩ từ Việt Nam ra hải ngoại trình diễn. Ðây là một vấn đề khá nhạy cảm, vì nó động chạm đến nỗi niềm ấp ủ riêng trong lòng của từng người.

Hầu như bất cứ một người nào trở về Việt Nam đều trang bị sẵn cho mình 1001 lý do chính đáng nhất không chê vào đâu được, để khi có người nào chạm vào thì có cái để mà trưng ra làm bằng cớ và phản ... pháo. Nào là "quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con diều biếc", "ta" về Việt Nam ăn khế ngọt (bởi khế Mỹ chua thấy bà) và thả diều thì có gì sai? "Ta" về Việt Nam là "ta" thực hiện cái nhân quyền thiêng liêng của nước Mỹ ban bố cho ta, còn ai bẻ vào đâu được.

Chính những kẻ nói này nói nọ, phê bình "ta" chuyện về Việt Nam để hoàn thành những hoài bão và tâm nguyện, những kẻ ấy mới là những kẻ không chịu "thực thi" nhân quyền. Ðất nước này, tức ở hải ngoại, là nơi tự do, là những free countries, "ta" muốn làm gì thì ta làm, ai làm gì được nhau thì cứ bảo.

Vấn đề đi đi về về giữa hải ngoại và Việt Nam của ca sĩ xoành xoạch như đi chợ, đã trở thành một cuốn truyện dài với nhiều tình tiết hấp dẫn, đại khái giống như cái mục Xe Cán Chó-Chó đụng Xe, tuy tầm phào bá láp nhưng độc giả rất thích tìm hiểu.

Người ta muốn biết những khuôn mặt nào đã xé rào nhảy về Việt Nam kiếm ăn, những người ca sĩ nào vẫn còn nuôi trong tim lý tưởng quốc gia chân chính. Trong thời gian qua chúng tôi có nhặt nhạnh được chút ít tin tức về chuyện dài ca sĩ, xin được viết ra đây mấy hàng cho quý độc giả thân mến, coi như mua vui cũng được một vài trống canh.

Nhưng càng viết thì càng thấy buồn, vì những nhân vật trong bài viết này đa số đều là những tai to mặt lớn trong vườn hoa văn nghệ Việt Nam hải ngoại, với những cái tên từ lâu nhận được rất nhiều sự thương mến của người Việt tị nạn lưu vong.

Sự đời nghĩ cũng có nhiều chuyện buồn cười. Ngày xưa, cũng chính rất nhiều trong số này, trong lúc chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn đang đổ máu xương chống ngăn làn sóng cộng sản xâm lược cho đến giờ thứ hai lăm, thậm chí sang đến giờ thứ bốn mươi tám, tức vài ngày sau ngày 30.4.1975, chính những con người vô loại này đã xách đít chạy trước rất sớm. Lúc ấy thê thảm lắm, quý độc giả cứ xem lại những cuốn phim tài liệu về di tản thì rõ, nước mắt nước mũi cứ là chàm ngoàm, đu bám trên những sợi dây thừng bên hông tàu trông rất rùng rợn, hay tranh nhau leo lên những bức tường vào tòa đại sứ Mỹ với những hàng dây thép gai nhìn vô cùng lạnh gáy. Ôi, cái tình yêu nước của những con người ấy sao mà nó cao cả và thiêng liêng lắm vậy. Thà chết ở xứ người, thà chịu không có cà pháo mắm tôm ăn, chứ không chịu đội chung bầu trời với vẹm cộng.

Giờ đây, sau ba mươi năm, những con người này xênh xang áo gấm về làng cũng trước nhất hơn ai hết, sẵn lòng qụy lụy nâng bi vẹm với bất cứ giá nào để được về chúng ban cho mấy trái khế ngọt mà xơi. Ô là là, bây giờ thì tha hồ xơi cà pháo với mắm tôm chính gốc Việt Nam bằng thích nhé.

Hai trong số những ca sĩ quốc gia hải ngoại về đầu quân cho vẹm cộng sớm nhất là Hương Lan và Elvis Phương hơn một thập niên qua thì ai cũng đã biết hết rồi. Công cuộc làm ăn của Hương Lan và Elvis Phương ở "quê hương" coi bộ rất khấm khá, nên cô cậu phải giữ rịt lấy, như những con thú nhà ôm chặt lấy khúc xương của chủ quẳng cho.

Theo Elvis Phương, thì nếu những ca sĩ về Việt Nam chịu chăm chỉ đi hát ở các phòng trà thì sẽ có cuộc sống dư dả. Nguồn tin quốc nội cho biết rằng cứ mỗi một phùa hát ở phòng trà, mỗi ca sĩ bợ nhẹ một ngàn đô la. Nếu hát trên live show, thì cứ hai bản cũng được một nghìn. Bản thân Elvis Phương luôn có một lịch trình đi hát đầy kín, đến nỗi bà vợ của Phương cũng kêu trời, có lẽ sợ chồng đi hát nhiều quá có ngày ngã lăn đùng ra bất đắc kỳ tử chăng, bởi anh ta đã một lần đi mổ tim rồi. Lần này tim vỡ như xác hoa tigone là chết chắc. Elvis Phương đang cư ngụ trong một ngôi biệt thự ở làng "Việt Kiều" trong khu vực An Phú Ðông, thuộc tỉnh Gia Ðịnh ngày trước thì phải. Hàng xóm của Phương có ca sĩ Anh Quý, Hương Lan và Ái Vân.

Hương Lan vừa đi hát vừa trông coi một nhà hàng ở quận Bình Thạnh. Ngoài ra nàng còn mở thêm trại nuôi cá, vườn cây ăn trái ở tỉnh Bình Phước (tức Bình Long và Phước Long). Có tin cho rằng, khi về già, Hương Lan sẽ về sống ở đấy.

Trường hợp Ái Vân, ngày xưa, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nàng đang là cán bộ văn nghệ thuộc tầm cỡ nghệ sĩ nhân dân của Hà Nội ở Ðông Ðức, đã chạy sang xin tị nạn chính trị bên Tây Ðức. Ðối với vẹm, đó là cái tội phản đảng, có lẽ sẽ bị tru di tam tộc. Nhưng giờ đây nàng vẫn cứ ung dung sinh sống tại Việt Nam, thế là thế nào. Câu trả lời thì đến một đứa bé cũng biết.

Những ca sĩ hải ngoại chạy về Việt Nam đa số thuộc về thế hệ "già", cái thế hệ bôn tẩu ra nước ngoài trong những ngày lửa loạn cuối cùng ở Sài Gòn, hay trong những lần vượt biển sóng gió đi tìm tự do. Thời gian trôi qua, những nếp nhăn dần hằn đậm trên mặt, giọng hát đã dần tàn tạ, không nhanh chân về nước kiếm chác chút ít trước khi vĩnh viễn lùi vào bóng tối của sự lãng quên, thì còn đợi lúc nào nữa. Những giọng ca gọi là hàng đầu, những gì gọi là vượt không gian và thời gian như Lệ Thu, Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Duy Quang, Lê Uyên, Thái Châu, Julie, Giao Linh, v.v.. đều đã có mặt ở quê nhà.

Ðó là chưa nói đến ông cụ Phạm Duy, bởi nhiều người đã nói nhiều về cụ rồi. Một trong vài danh ngôn xanh dờn mà cụ để lại cho đời là "Tôi có chống cộng đâu, tôi chỉ chống gậy". Có lẽ đó là lá bùa hộ mệnh giúp cụ được thung dung về lại Việt Nam và khiến cho Hà Nội hài lòng. Ngoài ra cụ còn cấm những người chống cộng hải ngoại không được hát nhạc của cụ nữa, chắc không muốn vẹm nghe lại những điệu nhạc hùng tráng và những lời lẽ "chống gậy" rất đanh thép của cụ dành cho chúng, làm chúng ngứa ngáy, không khéo chúng tống xuất cha con cụ trở ra ngoại quốc thì khốn cả lũ. Cụ Phạm Duy đi về đã đành, cụ còn kéo theo cả một lô một lốc con cái nhà cụ theo. Nào là Duy Quang, Duy Cường, rồi Duy Minh. Nào Thái Thảo, Thái Hiền. Thậm chí cô cựu dâu nhà họ Phạm là Julie cũng xách gói về.

Ôi, người người cùng về, nhà nhà cùng về. Duy Quang đã tìm thấy hạnh phúc với một người vợ trẻ ở quê nhà. Trông tấm hình Duy Quang đứng bên cô dâu, làm gợi nhớ đến kép lão Michael Douglas bên nàng Catherine Zeta-Jones, còn nước nôi gì nữa.

Một nhân vật thuộc dạng quái chiêu không thể không nhắc đến là Chế Linh. Anh ta đã về Việt Nam cùng phái đoàn văn hóa UNICEF trong chương trình văn hóa thế giới và trình diễn ở Hà Nội. Danh chính ngôn thuận như thế, Chế Linh sợ đếch gì vẹm cộng. Thế mà anh ta đã xun xoe nói những lời bợ đỡ chúng, khiến cho những tên nói láo nhất cũng phải đỏ mặt xấu hổ. Lúc mới sang định cư ở Toronto, Gia Nã Ðại, trong dạng tị nạn cộng sản được mấy năm, tình yêu nước còn bồng bột, Chế Linh đã tình nguyện đóng vai một người tù của chế độ nằm trong một cái cũi giam diễn hành trên đường phố Toronto, để tố cáo chế độ tàn bạo của Hà Nội vẹm. Theo phái đoàn UNICEF vào Việt Nam, Chế Linh cứ hát hò cho người dân Hà Nội nghe trong tư cách một sứ giả của Liên Hiệp Quốc, anh không có điều gì phải sợ cộng sản hết. Anh không cần phải nịnh bợ chúng, để chúng quên đi cái cũi tù của anh. Cùng lắm, nếu vẹm có nhốt anh trở vào cũi, thì anh sẽ trở thành anh hùng dân tộc. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng người Việt toàn thế giới sẽ tích cực tranh đấu đòi vẹm thả anh ra. Lúc đó, Chế Linh sẽ trở về hải ngoại trong ánh vinh quang. Thật đáng tiếc, Chế Linh không có được tầm vóc đó.

Lê Uyên, cái tên gợi đến cuộc tình thơ mộng và lãng mạn của đôi tài danh Lê Uyên-Phương cũng đã về hát trong chương trình Duyên Dáng Việt Nam. Ngày xưa đôi uyên ương này rất thích trầm mình trong những cõi tình ái rong rêu. Lê Uyên đã cho biết rằng nàng sẽ về nước sinh sống luôn, sẽ mua nhà ở Ðà Lạt, một nơi chốn gợi nhiều kỷ niệm êm đềm của một thời vang bóng. Lê Uyên cũng dự định mở một nhà hàng, là sở trường làm ăn của nàng.

Nói đến nhà hàng ăn với uống thì không thể nhắc đến "nữ hoàng sầu muộn" Giao Linh. Nàng vốn là dân Gia Nã Ðại cư ngụ ở thành phố Toronto, như trường hợp Chế Linh. Chẳng rõ ngày xưa, Giao Linh đã mang cái biệt hiệu kỳ dị này là từ cái chuyện gì, quý độc giả kính mến có biết thì xin nói cho, thật cảm tạ.

Nó cũng tương đương với cái danh hiệu "sầu nữ" của bà Út Bạch Lan, bởi giọng ca thê thiết nức nở và cuộc đời tình ái đầy tan vỡ của nàng. Về Việt Nam, Giao Linh thường theo các đoàn lưu diễn hát ở những tỉnh, và cũng có góp mặt trong những chương trình Bước Chân Hoàn Vũ. Hiện nay thì Giao Linh đang làm chủ nhân của một quán cơm tấm kiêm luôn quán phở ở đường Lê Văn Duyệt cũ, công việc làm ăn cũng phát đạt. Có lẽ nên cải danh cho nàng thành "nữ hoàng hớn hở" chăng. Cũng chuyện ăn uống, Duy Quang đang trông coi quán Phở 24, chẳng rõ 24 tượng trưng cho cái gì và hách xì xằng mở luôn phòng trà Tình Ca. Ngoài ra, Duy Quang cũng là một trong những cột trụ của những buổi nhạc hội Duyên Dáng Việt Nam.

Lệ Thu, tiếng hát cùng thời với những Giao Linh, Thanh Thúy, một giọng hát quý còn hơn cả vàng, thường làm chúng ta ngất ngây với những bài nhạc nhắc nhớ về Hà Nội và Miền Bắc thời tiền chiến, thời gian qua nàng đã có mặt trong những nhạc hội Bước Chân Hoàn Vũ ở Việt Nam. Ðức Huy có một phòng thu âm và hài lòng với những show trình diễn người ta mời. Nhạc sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Tùng Giang năm, bảy năm trước đây di tản về Việt Nam, anh đã tìm thấy được một tình yêu đích thực với một cô gái rất trẻ. Nàng từng hứa sẽ trọn đời chăm sóc người chồng già nay đau mai ốm. Nhưng gần đây, tình yêu ấy đã vỗ cánh bay xa, Tùng Giang ngậm ngùi trở qua Mỹ với đứa con thơ và căn bệnh ngặt nghèo đang hành hạ thân thể anh. Lúc tình đời đi xuống như thế thì Tùng Giang mới nhận thấy cái tấm lòng của tình người hải ngoại trong một sự ấp ủ và bao dung. Nhiều bạn bè, thân hữu, khán giả ái mộ anh đã tìm đến ân cần giúp đỡ anh, Tùng Giang lại lên tinh thần và nuôi dưỡng một hy vọng để sống.

Những giọng ca hàng đầu vượt thời gian như Khánh Hà và Tuấn Ngọc cũng tìm thấy những cơ hội làm ăn ở Việt Nam, nên cũng nhanh chân xách gói chạy hộc tốc về. Kẻo thôi bọn đi trước chúng nó cười vào mũi, rằng trâu chậm uống nước đục. Hai con người thuộc một gia đình dòng dõi văn nghệ gộc này năm 2007 đã xuất hiện trong một đại nhạc hội, mẹ ơi, mang cái tên chỉ nghe thôi đã ớn lạnh, là Nối Vòng Tay Lớn. Những tay ký giả kịch tràng quốc nội đã viết những hàng bốc thơm Khánh Hà như sau: "Không ai nghĩ, sau ngần ấy năm Khánh Hà vẫn còn có nhiều khán giả, đặc biệt là những khán giả trẻ. Sức hút giọng ca đã thực sự chinh phục khán giả bỏ tiền ra mua vé xem cô diễn".

Khánh Hà và Tuấn Ngọc
Trông thấy những con trâu về trước đang nhai cỏ non và húp nước béo tưng bừng, nhộn nhịp không thể tả nổi, những con trâu còn chưa về Việt Nam nôn nao xốn xang quá đi. Có nguồn tin cho rằng, giọng ca vàng Ý Lan cũng có ý định về nước trình diễn, nhưng khổ nỗi lịch trình diễn ở hải ngoại cũng đã bận tối tăm mặt mũi lắm rồi, nên nàng "đành" hoãn việc ấy lại một thời gian. Hiện Ý Lan đang rất tích cực hoạt động trong lĩnh vực giúp phụ nữ phòng căn bệnh ung thư vú, mà nó rất phổ biến trong hạn tuổi từ 50 trở lên. Ðây là một căn bệnh gây khủng khiếp cho toàn thế giới, nó chiếm đến 10% số phụ nữ trong hạn tuổi đó. Có nghĩa là cứ một trong mười người phụ nữ sẽ vướng chứng bệnh này. Ý Lan cũng đã từng trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần và đã vượt thoát được căn bệnh. Nàng hiểu rõ tâm trạng lo sợ của người đứng bên bờ vực thẳm, nên muốn san sẻ những thông tin hữu ích giúp người phụ nữ Việt Nam sớm biết trước để thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Hiện nay, có những chương trình giúp người phụ nữ theo dõi được tình trạng sức khỏe của mình. Tại Canada, cứ hai năm một lần, phụ nữ trên 50 tuổi được chụp mammogram miễn phí. Chẳng những thế mà các cơ quan y tế nhiều tỉnh bang còn ân cần gởi thơ đến tận nhà mời đi chụp nữa.

Nguyễn Hưng, một khuôn mặt thuộc thế hệ trước 1975 được bà Thu Dung, giám đốc trung tâm băng nhạc Rạng Ðông ở Việt Nam thực hiện một chương trình live show trong tháng 12.2007 vừa qua. Nguyễn Hưng, một nghệ sĩ thuộc lò Thúy Nga, chỉ chuyên nhảy nhót và hát những bản tình ca vô thưởng vô phạt, nên vẹm cộng chẳng làm khó dễ gì anh, sẵn lòng cho anh về nước nhảy nhót cho công chúng xem. Thuộc dạng nhảy nhót, đôi vợ chồng Linda Trang Ðài-Tommy Ngô đã về nước từ khuya. Nhạc nhảy và gào ở trong nước hiện nay khá nhiều, nên Trang Ðài và Tommy Ngô tha hồ mà nhảy và gào.

Dường như để cảnh cáo những nghệ sĩ xuất hiện trong những chương trình nhạc hội chống cộng, mà những người viết trong nước gọi là "nhạy cảm về chính trị", bà Rạng Ðộng đã nhắn nhe với những ai đang ôm mộng về ăn khế, thả diều và hát hò, rằng những ca sĩ muốn về Việt Nam, rất đơn giản, là đừng tham gia đến những nhạc hội chống đối lại vẹm cộng. Có phải chăng vẹm cộng muốn dần tách rời nghệ sĩ với những chương trình nhạc hội có tinh thần quốc gia dân tộc và chống cộng cương quyết như của Trung Tâm Asia chẳng hạn.

Người nghệ sĩ hải ngoại nên xem đó là những lời đe dọa và khủng bố tinh thần, nó nằm trong chính sách trấn áp tư tưởng của chúng.

Hà Nội, thông qua bọn nô bút và cai thầu văn nghệ đã coi thường trình độ chính trị của nghệ sĩ hải ngoại quá đi. Chỉ mới có hơn một tá lớp nghệ sĩ già xun xoe về nước, mà chúng cứ tưởng giới nghệ sĩ hải ngoại sẽ sẵn sàng chạy theo và chịu quy hàng. Tình hình hoạt động nghệ thuật ở hải ngoại đang có chiều hướng khả quan, các nghệ sĩ bận rộn đi trình diễn ở khắp tiểu bang, sang đến Canada, Úc, Nhật, châu Âu, thậm chí có trường hợp "xù show" vì nhiều lý do. Nhiều phòng trà lớn vẫn là nơi đón nhận những tài năng ca nhạc. Ca sĩ hải ngoại muốn hát nhạc gì thì hát, phần nhiều là những bài nhạc tình, nhạc lính cũ của ngày xưa. Sự thắng thế của nhạc Miền Nam ở toàn cõi Việt Nam ngày nay đang là một vấn đề xốn nhức của ngành văn hóa cộng sản. Công chúng thích nghe nhạc Miền Nam, thường được biết là Nhạc Vàng, thậm chí thế hệ trẻ ở Miền Bắc cũng nghe và nghêu ngao hát Nhạc Vàng. Những người về nước cho biết, hiện nay ở bất cứ đâu, ở những nơi công cộng, hàng quán, tiệm cà phê, trên xe đò liên tỉnh, người ta mở nhạc Miền Nam công khai, luôn cả nhạc lính của Trần Thiện Thanh. Thời gian là một sàng lọc và là một bằng chứng hùng hồn nhất trả lời cho câu hỏi Ai Thắng Ai trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và cả trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Anh khoe anh giỏi anh tài, thì anh cứ bảo bọn nhạc nô đặt nhạc cho nó hay hay lên, âm điệu bổng trầm du dương nhiều vào, lời nhạc trau chuốt lên như những vần thơ, như những áng văn thêu hoa dệt gấm đi, thì công chúng sẽ lắng nghe nhạc của các anh. Anh mà làm được như thế thì chúng tôi xin tình nguyện đi bằng hai tay cho anh coi.

Trong chiều hướng gọi là phi chính trị đó, những nghệ sĩ không hay ít có những hoạt động ca hát chống cộng như Kim Anh, Carol Kim được cho về nước. Kim Anh đi vào lòng khán giả hải ngoại với những bản tình ca lãng mạn Trung Hoa, đặc biệt tên nàng gắn liền với Mùa Thu Lá Bay. Carol Kim, một ca sĩ nhạc tình cảm kiêm nhạc kích động quen thuộc của thập niên 1960, 1970, một cái tên cùng thời với những Phương Tâm, Mai Lệ Huyền trong thể loại nhạc vui và kích động. Liệu nàng có sánh nổi với những ca sĩ trẻ hơ hớ trong cùng dạng nhạc này ở trong nước hay không, hoặc nàng sẽ chỉ tìm về với những bài tình ca nhẹ nhàng? Những cái tên quen thuộc như Phương Dung, Trang Thanh Lan, Phương Hồng Ngọc và cả nhạc sĩ Từ Công Phụng đang chờ đợi sự "duyệt xét" của những tòa đại sứ Việt cộng ở Hoa Kỳ và đang xin giấy phép hoạt động từ Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ở Việt Nam. Ðây là một nguồn tin do các thợ viết vẹm tung ra trên các diễn đàn internet trong bản tin nhạc Việt, mức độ khả tín còn đang trong vòng được nghiên cứu và phối ... kiểm.

Tuy nhiên, đối với Phương Dung nếu quả đúng như thế thì có phiền phức đấy, vì nàng chuyên hát nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa, nàng rất hãnh diện khoe cái thành tích ấy mỗi lần lên sân khấu. Cho về bên nớ, có lẽ vẹm nên buộc nàng hát những nhạc "bộ đội", đại khái như Cô Gái Sài Gòn Ði Tải Ðạn, Tiếng Chày Trên Sóc Bombo bụp bùm bum, ô hô, nên chăng. Các ông bà bầu show ở Việt Nam đang khuyên những nghệ sĩ lỡ vướng vào chuyện chính trị hãy sớm làm đơn giải trình cho ngành văn hóa, thì vẫn được vẹm cứu xét cho về Việt Nam theo nguyện vọng.

Nói giải trình cho nhẹ một chút, chứ tình thực nó ở dạng những tờ tự thú trước bình minh, rằng chúng em lỡ dại, mong quý anh tha cho, chúng em xin cắn cỏ ngậm vành.

Thế hệ nghệ sĩ sau thời điểm 1975 mà đã thành danh ở hải ngoại nhờ vào lòng thương mến của công chúng như Hoài Linh, Mạnh Ðình, Gia Huy, Phi Nhung, Thành Lễ, Nhật Hạ cũng đã về Việt Nam trong nhiều năm qua. Rồi đây, có lẽ cái danh sách những con vẹt về nước hót sẽ được bổ sung thêm, tuy không nhiều. Với những người nghệ sĩ đã quay lưng lại với chính cái nhãn hiệu tị nạn chính trị của mình để khoác lên chiếc mặt nạ che giấu cảm xúc thật của họ trước cặp mắt cú diều của vẹm cộng, từ giây phút ấy tiếng hát của họ đã trở nên những âm thanh vô hồn. Cứ mỗi lần nhìn tất cả những con người đó hát trên sân khấu, dẫu là loại nhạc gì, tình ca hay tình lính, hẳn công chúng sẽ không còn tìm thấy được cảm xúc thật của mình hòa theo cùng được nữa.

Bởi những tiếng hát ấy không xuất phát từ con tim thổn thức của mình mà chỉ là những chiếc máy hát, những chiếc máy có những cái khe để người ta bỏ những đồng tiền vào.

Ðối với những người nghệ sĩ Việt Nam chân chính ở hải ngoại mà cho đến thời điểm này vẫn còn khẳng khái ấp ủ tấm lòng son với chính nghĩa quốc gia, gìn giữ những giá trị nhân bản và truyền thống văn hóa của dân tộc, vẫn giữ lòng cương cường không chịu khuất phục trước bạo quyền Hà Nội, chúng ta xin được nghiêng mình cúi đầu giở nón trân trọng bày tỏ sự kính phục và yêu mến.

Những tiếng hát này mới là những sợi dây tơ rung lên những cảm xúc thực sự, và chính là những giọng hát vượt không gian và thời gian.

Phạm Phong Dinh