Sunday, October 19, 2008

Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 74 tại Bogota, Colombie đồng thanh thông qua Quyết Nghị về Việt Nam


Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 74 tại Bogota, Colombie đồng thanh thông qua Quyết Nghị về Việt Nam

Như chúng tôi đã đưa tin, Quyết Nghị về Việt Nam do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại soạn thảo và đề nghị, đã được Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế họp Đại Hội Thế Giới kỳ thứ 74 tại Bogota, thủ đô Colombie (Colombia), đồng thanh biểu quyết chấp thuận. Đại Hội Bogota 2008 là nghị hội và diễn đàn cho các đại diện của một vạn nhà cầm bút sinh hoạt trong gần 150 Trung tâm Văn Bút có trụ sở trên hơn 100 nước. Qua Quyết Nghị về Việt Nam, Hiệp Hội các Nhà Văn thế giới một lần nữa tố cáo, lên án và phản kháng nhà cầm quyền cộng sản độc tài ở Việt Nam tiếp tục trấn áp tàn nhẫn những người tranh đấu bênh vực Nhân Quyền, đòi hỏi Tự Do Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội bằng ngòi bút và tiếng nói. Nạn nhân bao gồm nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, luật sư, giáo chức, sinh viên, tu sĩ và cả giới nông dân, công nhân cùng cựu quân nhân của chế độ. Họ là những người đã từ chối im lặng, dũng cảm bày tỏ sự đối kháng, không chịu khuất phục trước bạo quyền. Họ không muốn bị lừa dối hay mua chuộc để trở thành đồng lõa với tội ác áp bức bất công, tham ô nhũng lạm trên quê hương thân yêu của họ.

Theo nguồn tin, Dự thảo Quyết Nghị về Việt Nam đã được Ủy Ban VBQT Bênh Vực Nhà Văn bị ngược đãi và cầm tù (International PEN CODEP/WIPC) ở Luân Đốn tiếp nhận ngay từ cuối tháng 6 năm 2008. Sau khi phối kiểm và trao đổi ý kiến với Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại, Ủy Ban PEN CODEP/WIPC đã chuẩn y và phổ biến Dự thảo Quyết Nghị về Việt Nam cùng với hàng chục Dự thảo Quyết Nghị khác đến tất cả các Trung tâm thành viên VBQT trước khi Đại Hội Bogota được khai mạc. Từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 9, có một số tin tức mới về Việt Nam chưa được ghi trong Dự thảo. Dù vậy, Ủy Ban VBQT CODEP/WIPC cũng phổ biến được hai bản Thông cáo/Kháng Nghị thư trong khi chờ chính thức công bố tất cả các Quyết Nghị của Đại Hội kỳ thứ 74. Nhắc lại, trong Thông cáo/Kháng Nghị thư phổ biến toàn cầu ngày 13 tháng 8 năm 2008, Ủy Ban VBQT CODEP/WIPC chào mừng luật sư nhân quyền Bùi Kim Thành được phóng thích khỏi bệnh viện tâm thần Biên Hòa, nhưng phản đối việc bà có thể đã bị công an áp lực bằng những sự sách nhiễu và đe dọa cực kỳ nghiêm trọng đến nỗi bà bị buộc phải sống lưu vong để lánh nạn. (Bản Tin LHNQVN-TS ngày 13 tháng 8 năm 2008).

Tiếp theo, trong Thông cáo/Kháng Nghị thư ngày 23 tháng 9 năm 2008, Ủy Ban VBQT CODEP/WIPC đòi phóng thích tất cả các nhà tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền bị giam nhốt độc đoán, sau khi được báo nguy về một cuộc leo thang đàn áp những người bất đồng chính kiến, dân chủ đối kháng trong mấy tuần vừa qua. Đặc biệt Ủy Ban nêu tên nhà báo Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, đồng sáng lập Câu lạc bộ Nhà Báo Tự Do bị kết án 2 năm 6 tháng tù ngày 10 tháng 9; nhà văn và nhà thơ Nguyễn Xuân Nghĩa, thành viên sáng lập Khối 8604, bị bắt ngày 11 tháng 9; bà Lê Thị Kim Thu, phóng viên thời sự và nhiếp ảnh với chuyên đề phong trào Dân Oan, bị bắt từ ngày 14 tháng 8; nhà văn Phạm Văn Trội, cựu chiến binh CS, cộng tác với tạp chí bị cấm Tự Do Dân Chủ, bị bắt ngày 10 tháng 9; nhà thơ trào phúng Nguyễn Văn Túc, nông dân tranh đấu bênh vực Nhân Quyền, bị bắt ngày 10 tháng 9; sinh viên Ngô Quỳnh, nhà văn, bị bắt ngày 10 tháng 9; nhà thơ Trần Đức Thạch, cựu chiến binh CS, bị bắt ngày 10 tháng 9 để thẩm vấn rồi được tạm tha, nhưng sau đó bị bắt lại; cũng như bà Phạm Thanh Nghiên, nhà báo và nhà văn, bị bắt lần cuối cùng ngày 17 tháng 9. (Bản Tin LHNQVN-TS ngày 23 tháng 9 năm 2008).

Dưới đây là toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam. Bản tiếng Pháp và tiếng Anh do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại soạn thảo còn bản tiếng Tây Ban Nha do Văn Bút Quốc Tế phiên dịch sau khi Quyết Nghị được Đại Hội chấp thuận.

(Nguồn tin: nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt, thành viên đại diện Văn Bút Quốc Tế tại các Khóa Họp Hội Đồng Nhân Quyền LHQ, hội viên Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại, Trung tâm Nhà Văn Việt Nam lưu vong và Trung tâm Âu Châu Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Tài liệu: LHNQVN-TS).


Genève ngày 17 tháng 10 năm 2008

Llên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland

Bản chuyển dịch ra tiếng Việt của LHNQVN-TS

Quyết Nghị về Việt Nam do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại (Centre PEN Suisse Romand) đề nghị, với sự tán trợ của Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Ý Thoại và Réto-Romanche .

Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế, họp Đại Hội Thế Giới kỳ thứ 74 tại thành phố Bogota, nước Colombie/Colombia, từ ngày 17 đến 22 tháng 9 năm 2008,

Phiền trách rằng kể từ Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 73 ở Dakar, nước Sénégal, tình cảnh những nhà văn, nhà báo độc lập và những nhà hoạt động bênh vực quyền tự do phát biểu ở Việt Nam càng tệ hại thêm. Tất cả những nhà văn từng bị giam nhốt được phóng thích trong những năm gần đây tiếp tục bị áp đặt quản chế hành chánh. Nhiều người phải bị hành hung và sách nhiễu nghiệt ngã. Những vụ công kích cường bạo, giam cầm độc đoán, xét xử không công minh và những vụ án tù bất công đã được ghi nhận. Không có sự tôn trọng quyền bị cáo được bàu chữa và sự độc lập của thẩm phán;

Sửng sốt và công phẫn trước những điều kiện sống vô nhân đạo trong các trại tù lao công cưỡng bách, nơi mà tù nhân ngôn luận và lương tâm bị biệt giam hoặc cấm cố. Nuôi dưỡng không đầy đủ, thiếu săn sóc thuốc men và vệ sinh, họ còn bị tù thường phạm hành hung, sỉ nhục và hăm dọa. Trong số nạn nhân có nữ văn sĩ Trần Khải Thanh Thủy, từng trải qua chín tháng tù trong lúc bà mắc bệnh lao phổi nặng và tiểu đường. Bây giờ được phóng thích, bà còn mang những vết thẹo rất rõ trên mặt và trên chân bà, hậu quả của những sự ngược đãi, đối xử tệ hại trong trại giam;

Phản đối sự tái giam giữ tại bệnh viện tâm thần bà Bùi Kim Thành, luật sư nhân quyền và nhà đối kháng sử dụng Internet, từ đầu tháng 3 đến tháng 7 năm 2008, vì những bài bà viết chỉ trích (chế độ). Bà từng bị nhốt tại bệnh viện tâm thần từ tháng 11 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007 mà không hề bị buộc tội, chỉ vì bênh vực miễn phí cho hàng trăm Dân Oan (Nạn nhân Bất công), là những phụ nữ vô gia cư và nữ nông dân bị (cán bộ đảng cộng sản) lạm quyền, cưỡng chiếm đất đai (tài sản) của họ. Trong thời gian bị giam nhốt, bà Bùi Kim Thành bị đánh đập hung bạo và bị chích thuốc chưa biết thuốc gì;

Rất khó chịu vì sự tiếp tục giam cầm trong các trại lao công cưỡng bách nhiều nhà văn nhà báo và nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet. Chỉ vì hành sử ôn hòa quyền tự do phát biểu và lập hội mà những người đó bị kết án tù nặng nề kèm theo biện pháp quản chế hành chánh tại những phiên tòa xét xử không công minh. Tội duy nhứt của họ là viết những bài tố cáo tham nhũng, lạm dụng quyền thế (đảng cộng sản) và những vụ vi phạm nhân quyền, hoặc phản đối sự đàn áp những tiếng nói dân chủ bất đồng chính kiến và thuận cho các đài vô tuyến truyền thanh ngoại quốc phỏng vấn. Trong số những tù nhân ngôn luận và lương tâm đó có:

- Linh mục Nguyễn Văn Lý, chủ biên tạp chí Tự Do Ngôn Luận (bất hợp pháp đối với chế độ cộng sản), bị kết án 8 năm tù. Bốn cộng sự viên cũng bị kết án: hai ông Nguyễn Phong, 6 năm tù và Nguyễn Bình Thành, 5 năm tù; cô Hoàng Thị Anh Đào, 2 năm tù treo và bà Lê Thị Lệ Hằng, 18 tháng tù treo;

- Luật sư nhân quyền Lê Thị Công Nhân, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, 3 năm tù;

- Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài, chủ biên tạp chí Tự Do và Dân Chủ (bất hợp pháp đối với chế độ cộng sản), bị kết án 4 năm tù;

- Luật sư nhân quyền Trần Quốc Hiền, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 5 năm tù;

- Bác sĩ Lê Nguyên Sang, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 4 năm tù;

- Luật sư nhân quyền Nguyễn Bắc Truyền, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 3 năm và 6 tháng tù;

- Nhà báo Huỳnh Nguyên Đạo, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 2 năm và 6 tháng tù;

- Ông Trương Quốc Huy, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 6 năm tù;

- Ông Vũ Hoàng Hải, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 5 năm tù;

- Ông Nguyễn Ngọc Quang, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 3 năm tù;

- Ông Phạm Bá Hải, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị kết án 2 năm tù;

- Nhà báo Trương Minh Đức, bị kết án 5 năm tù. Tình trạng sức khỏe rất xấu;

Thương tiếc nhà trí thức Phật giáo thế danh Lê Đình Nhân, Hòa Thượng Thích Huyền Quang, vừa viên tịch ngày 5 tháng 7 năm 2008, hưởng thọ 89 tuổi sau khi bị áp đặt quản chế tại chùa từ năm 1982;

Lo ngại cho sức khỏe của nhà trí thức Phật giáo thế danh Đặng Phúc Tuệ, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, 80 tuổi, bị áp đặt quản chế tại chùa từ năm 2003;

Kinh ngạc trước cuộc trấn áp các nhà báo độc lập hồi tháng tư và tháng năm 2008, đặc biệt là vụ bắt giam ông Nguyễn Hoàng Hải, bút hiệu Điếu Cày (một trong những người sáng lập Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do), ông Nguyễn Văn Hải và ông Nguyễn Viết Chiến, phóng viên điều tra của các nhựt báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên;

Được báo động về những thứ ‘’tòa án của nhân dân’’ bất hợp pháp. Tại đó, các nhà văn và nhà báo độc lập bị tố cáo, khiển trách và sỉ nhục bởi một đám đông hiềm thù do cán bộ đảng cộng sản và công an tổ chức. Trong số nạn nhân có ông Lê Thanh Tùng, cựu chiến binh, nhà báo và dân chủ đối kháng bị ‘’đấu tố’’ hồi tháng 4 năm 2008. Ông Lê Thanh Tùng bị buộc tội phản quốc vì đã viết và phổ biến trên Internet nhiều bài báo về tình trạng nhân quyền và nền dân chủ, cùng tập tự truyện về đời ông với tựa đề ‘’Hồi Ký của cựu chiến binh tình nguyện quân đội nhân dân Việt Nam’’.

Thúc giục chính phủ CHXHCNVN

1. Phóng thích tức khắc và vô điều kiện tất cả những nhà văn, nhà báo và trí thức độc lập hiện còn bị giam cầm vì đã hành sử quyền họ được tự do phát biểu:

2. Chấm dứt tất cả những vụ hành hung, sách nhiễu và hăm dọa đối với các nhà văn, nhà báo và trí thức độc lập;

3. Cải thiện tình trạng giam cầm tại các nhà tù và trại giam tập trung, để cho những tù nhân đau yếu được vào bệnh viện, được săn sóc, điều trị thích hợp và được gia đình thân nhân thăm nom dễ dàng;

4. Bải bỏ kiểm duyệt và đình chỉ mọi hạn chế độc đoán đối với quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do sáng tạo và xuất bản.

Résolution sur le Viet Nam soumise par le Centre Suisse Romand et appuyée par le Centre Suisse Italien et Réto-Romanche.

L’Assemblée des Délégués de PEN International réunie à son 74ème Congrès Mondial à Bogota, Colombie, du 17 au 22 septembre 2008

Déplore que depuis le 73ème Congrès du PEN International à Dakar, au Sénégal, la situation des écrivains, journalistes indépendants et défenseurs de la liberté d’expression au Vietnam s’est encore détériorée. Tous les écrivains en prison relâchés au cours des récentes années continuent à être soumis à la détention administrative. Certains ont été sujets à des agressions physiques et de fréquents harcèlements. Nouvelles agressions violentes et arrestations arbitraires, nouveaux procès inéquitables et nouvelles peines de prison injustes ont été enregistrés, avec le non-respect des droits de la défense et de l’indépendance des juges;

Choquée et indignée par les conditions de vie inhumaines dans les camps de travaux forcés où sont détenus les prisonniers d’opinion, en isolement et/ou au secret. Mal nourries et privées de soins médicaux et d’hygiène, ils ont été agressés, humiliés et menacés par des internés de droit commun. Parmi les victimes: l’écrivaine Tran Khai Thanh Thuy qui avait passé neuf mois en prison, tout en souffrant de tuberculose avancée et de diabète. Maintenant relâchée, elle porte encore des cicatrices très visibles sur son visage et sa jambe comme une conséquence des mauvais traitements en prison;

Proteste contre la réinternement à l’hôpital psychiatrique de Bui Kim Thanh, avocate des droits humains et cyberdissidente, du début mars au juillet 2008, pour ses écrits critiques. Elle y avait déjà été détenue du novembre 2006 au juillet 2007 sans inculpation pour avoir défendu gratuitement des centaines de Dan Oan (Victimes de l’injustice), des paysannes arbitrairement dépossédées de leur terre. Durant son incarcération, elle était violemment agressée et injectée avec des médicaments inconnus. Elle avait été relâchée sans aucune inculpation;

Profondément troublée par l’emprisonnement dans les camps de travaux forcés des écrivains, journalistes et cyberdissidents, condamnés à des lourdes peines de prison assorties de détention administrative au terme des procès inéquitables pour avoir exercé de façon pacifique leur droit à la liberté d’expression et d’association. Leur seuls crimes ont été d’écrire des articles sur la corruption, l’abus de pouvoir et les atteintes aux droits humains, ou de protester contre la répression des voix dissidentes et d’accorder des interviews à des radios à l’étranger. Parmi ces personnes emprisonnées pour leurs écrits critiques, se sont retrouvées

- Nguyen Van Ly, prêtre et, rédacteur de la revue clandestine Tu Do Ngon Luan (Liberté d’Opinion), condamné à 8 ans de prison de prison. Ses collaborateurs Nguyen Phong et Nguyen Binh Thanh, condamnés respectivement à 6 et 5 ans de prison; Hoang Thi Anh Dao (f), et Le Thi Le Hang (f), condamnées respectivement à 2 ans et 18 mois de prison en sursis;

- Le Thi Cong Nhan (f), avocate des droits humains et cyberdissidente, condamnée à 3 ans de prison;

- Nguyen Van Dai, avocat des droits humains, cyberdissident et rédacteur de la revue clandestine Tu Do Dan Chu (Liberté et Démocratie), condamné à 4 ans de prison;

- Tran Quoc Hien, avocat des droits humains et cyberdissident, condamné à 5 ans de prison;

- Le Nguyen Sang, médecin et cyberdissident, condamné à 4 ans de prison;

- Nguyen Bac Truyen, avocat des droits humains et cyberdissident, condamné à 3 ans et 6 mois de prison;

- Huynh Nguyen Dao, journaliste et cyberdissident, condamné à 2 ans et 6 mois de prison;

- Truong Quoc Huy, Vu Hoang Hai, Nguyen Ngoc Quang et Pham Ba Hai, cyberdissidents, condamnés respectivement à 6, 5, 3 et 2 ans de prison;

- Truong Minh Duc, journaliste, condamné à 5 ans de prison, en très mauvaise santé;

Pleure la mort du moine et intellectuel bouddhiste Le Dinh Nhan (Vén. Thich Huyen Quang) le 5 juillet 2008, à 89 ans, après avoir été maintenu en résidence surveillée depuis 1982;

Craint pour la santé fragile du moine et intellectuel bouddhiste Dang Phuc Tue (Vén. Thich Quang Do) 80 ans, toujours maintenu en résidence surveillée depuis 2003;

Consternée par les récentes attaques menées à l’encontre des journalistes indépendants, en avril et en mai 2008, en particulier les arrestations de Nguyen Hoang Hai (blogueur Dieu Cay), Nguyen Van Hai et Nguyen Viet Chien, respectivement des reporters d’enquête des quotidiens Tuoi Tre (Jeunesse) et Thanh Nien (Jeunes Gens);

Alarmée par les ‘’tribunaux du peuple’’ illégaux où les écrivains et journalistes indépendants sont dénoncés, blâmés et humiliés par une foule hostile organisée par les cadres du Parti et les policiers de sécurité publique. Parmi ces victimes: Le Thanh Tung, vétéran, journaliste et cyberdissident, ‘’jugé’’ le 25 avril 2008. Il a été accusé de traître pour avoir écrit et publié en ligne plusieurs articles sur la situation des droits humains et sur la démocratie, et un compte-rendu de sa vie, intitulé ‘’Mémoires d’un Ancien Combattant Volontaire dans l’Armée populaire vietnamienne’’.

Demande instamment au gouvernement de la République Socialiste du Viet Nam de

1. relâcher sans délai et sans condition tous les écrivains, journalistes et intellectuels indépendants actuellement détenus pour avoir exercé leur droit à la liberté d’expression;

2. cesser toutes les attaques, tous les harcèlements et menaces d’arrêter à l’encontre des écrivains, journalistes et intellectuels indépendants;

3. améliorer les conditions de vie carcérale dans les prisons et camps, permettre aux prisonniers en mauvaise santé d’être hospitalisés, de recevoir des soins médicaux adéquats et faciliter les visites de leurs familles; et

4. abolir la censure et lever toutes restrictions arbitraires sur la liberté d’expression, la liberté de la presse, la liberté d’association et la liberté de créer et de publier.
--------------------------

Resolution on Viet Nam submitted by the Suisse Romand Centre and seconded by the Swiss Italien and Reto-romansh Centre.

The Assembly of Delegates of International PEN, meeting at its 74th Congress in Bogota, Colombia, 17-22 September 2008

Deplores that since the 73rd International PEN Congress in Dakar, Senegal, the situation of independent writers, journalists and defenders of freedom of expression in Viet Nam has further deteriorated. All writers released from prison in recent years continue to be placed under administrative detention. Some have been subjected to physical attacks and relentless harassment. New violent assaults, arbitrary arrests, unfair trials and unjust prison sentences have been recorded, with no respect for the rights of the defence and the independence of judges;

Shocked and indignant about the inhuman living conditions in labour camps, where prisoners of opinion are held in solitary confinement and/or incommunicado. Undernourished, deprived of medical care and hygiene, they have been attacked, humiliated and threatened by common law detainees. Among the victims: writer Tran Khai Thanh Thuy (f), who spent nine months in prison whilst suffering from tuberculosis and diabetes. Now released, she still bears noticeable scars on her face and leg as a result of ill-treatment in prison.

Protests the internment in a psychiatric hospital for her critical writings of Bui Kim Thanh (f), human rights lawyer and Internet writer, from early March to July 2008. She was previously held without charge in psychiatric detention from November 2006 to July 2007 for defending free of charge hundreds of Dan Oan (victims of injustice), women peasants arbitrarily dispossessed of their land. During her incarceration she was violently beaten and forcibly injected of unknown medication.

Deeply disturbed by the ongoing detention in forced labour camps of independent writers and journalists, condemned to heavy prison sentences at unfair trials followed by administrative detention for the peaceful exercise of their right to freedom of expression and association. Their only ‘crime’ has been to write articles about corruption, the abuse of authority and human rights violations, or to speak out against the repression of dissenting voices, and to grant interviews to the overseas media. Those detained for their critical writings include:

- Nguyen Van Ly, priest, editor of the clandestine review Tu Do Ngon Luan (Freedom of Opinion), sentenced to 8 years’ imprisonment. His co-editors Nguyen Phong and Nguyen Binh Thanh, sentenced respectively to 6 and 5 years’ imprisonment; Hoang Thi Anh Dao (f) and Le Thi Le Hang (f) sentenced respectively to 2 years and 18 months’ suspended imprisonment;

- Le Thi Cong Nhan (f), human rights lawyer and Internet writer, sentenced to 3 years’ imprisonment. - Nguyen Van Dai, human rights lawyer, Internet writer and editor of the underground review Tu Do Dan Chu (Freedom and Democracy), sentenced to 4 years’ imprisonment;

- Tran Quoc Hien, human rights lawyer and Internet writer, sentenced to 5 years’ imprisonment;

- Le Nguyen Sang, physician and Internet writer, sentenced to 4 years’ imprisonment;

- Nguyen Bac Truyen, human rights lawyer and Internet writer, sentenced to 3 years and 6 months’ imprisonment;

- Huynh Nguyen Dao, journalist and Internet writer, sentenced to 2 years and 6 months’ imprisonment;

- Truong Quoc Huy, Vu Hoang Hai, Nguyen Ngoc Quang and Pham Ba Hai, Internet writers, sentenced respectively to 6, 5, 3 and 2 years’ imprisonment;

- Truong Minh Duc, journalist, sentenced to 5 years’ imprisonment, in very poor health;

Mourns the death of Buddhist monk and intellectual Le Dinh Nhan (Ven. Thich Huyen Quang), on 5 July 2008 at the age of 89 after being held under house arrest since 1982;

Fears for the fragile health of fellow Buddhist monk Dang Phuc Tue (Ven. Thich Quang Do), aged 80, who has been held under house arrest since 2003;

Appalled at the recent crackdown of independent journalists, in April and May 2008, particularly the arrests of journalist Nguyen Hoang Hai (pen-name Dieu Cay), Nguyen Van Hai and Nguyen Viet Chien, respectively investigative reporters of the newspapers Tuoi Tre (Youth) and Thanh Nien (Young People);

Alarmed by illegal ‘”people’s tribunals’’ where independent writers and journalists are denounced, blamed and humiliated by a hostile crowd organized by Party cadres and public security policemen. Among these victims: Le Thanh Tung, veteran journalist and Internet writer, ‘’tried’’ on 25 April 2008. He was accused of being a traitor for writing and publishing online several articles on the situation of human rights and democracy, and an account of his life, entitled ‘’Memoir of a Former Volunteer Fighter in the Vietnamese People’s Army’’.

Urges the Socialist Republic of Viet Nam’s government to:

1. release immediately and unconditionally all independent writers, journalists, and intellectuals currently detained for having exercised their right to freedom of expression;

2. cease all attacks, harassment and threats of arrest against those independent writers, journalists, and intellectuals;

3. improve conditions of detention in prisons and in camps, to allow sick prisoners to be hospitalized, to receive adequate medical care and to facilitate family visits ;

4. abolish censorship and lift all arbitrary restrictions on freedom of expression, freedom of press, freedom of association and freedom to create and to publish.
-----------------------------

La Asamblea de Delegados de PEN Internacional, reunida en su LXXIV Congreso en Bogotá, Colombia, del 17 al 22 de septiembre de 2008:

Califica de deplorable el hecho de que la situación de los escritores independientes, los periodistas y los defensores de la libertad de expresión en Vietnam haya empeorado aun más desde que se realizó el LXXIII Congreso de PEN Internacional en Dakar, Senegal. Todos los escritores que han salido de prisión estos últimos años aún son víctimas de detenciones administrativas. En algunos casos, se los ha sometido a agresiones físicas y acosos incesantes. Se han registrado nuevos ataques violentos, arrestos arbitrarios, juicios injustos y condenas a prisión infundadas, sin respeto alguno por los derechos de la defensa y la independencia de los jueces.

Paralizada e indignada por las condiciones de vida inhumanas de los campos de trabajo forzoso, donde los prisioneros de opinión están incomunicados en celdas especiales. Además de sufrir problemas de desnutrición, de falta de higiene y de atención médica, han sido víctimas de ataques y humillaciones por parte de individuos detenidos por cometer delitos ordinarios. Las víctimas incluyen: a la escritora Tran Khai Thanh Thuy (f), que pasó nueve meses en prisión con tuberculosis y diabetes. Ahora está libre, pero aún conserva cicatrices visibles en la cara y en las piernas derivadas del maltrato que recibió en prisión.

Objeta la reinternación psiquiátrica de Bui Kim Thanh (f), abogada especialista en derechos humanos y escritora por Internet, a causa de sus críticas, desde principios de marzo hasta julio de 2008. Desde noviembre de 2006 hasta julio de 2007, estuvo detenida en un hospital psiquiátrico, sin que se le imputaran cargos, por defender a cientos de Dan Oan (víctimas de injusticias) inocentes, campesinas despojadas de sus tierras en forma arbitraria. Durante su encarcelación, recibió violentas golpizas y le inyectaron medicamentos desconocidos por la fuerza.

Profundamente perturbada por la continua detención de escritores y periodistas independientes en campos de trabajo forzoso, quienes recibieron largas condenas en prisión tras juicios injustos, seguidas de una detención administrativa por ejercer, de un modo pacífico, su derecho a la libertad de expresión y asociación. Su único "delito" ha sido escribir artículos sobre corrupción, abuso de autoridad y violaciones a los derechos humanos, expresar su opinión en contra de la represión de voces disidentes o conceder entrevistas a medios extranjeros. Los detenidos por escribir críticas son:

- Nguyen Van Ly, sacerdote, editor de la publicación clandestina Tu Do Ngon Luan (Libertad de opinión), condenado a 8 años de prisión. Sus coeditores Nguyen Phong y Nguyen Binh Thanh, condenados a 6 y 5 años de prisión, respectivamente; y Hoang Thi Anh Dao (f) y Le Thi Le Hang (f), condenadas a 2 años y 18 meses de prisión en suspenso, respectivamente.

- Le Thi Cong Nhan (f), abogada especialista en derechos humanos y escritora por Internet, condenada a 3 años de prisión.

- Nguyen Van Dai, abogado especialista en derechos humanos, escritor por Internet y editor de la publicación clandestina Tu Do Dan Chu (Libertad y democracia), condenado a 4 años de prisión.

- Tran Quoc Hien, abogado especialista en derechos humanos y escritor por Internet, condenado a 5 años de prisión.

- Le Nguyen Sang, médico y escritor por Internet, condenado a 4 años de prisión.

- Nguyen Bac Truyen, abogado especialista en derechos humanos y escritor por Internet, condenado a 3 años y 6 meses de prisión.

- Huynh Nguyen Dao, periodista y escritor por Internet, condenado a 2 años y 6 meses de prisión.

- Truong Quoc Huy, Vu Hoang Hai, Nguyen Ngoc Quang y Pham Ba Hai, escritores por Internet, condenados a 6, 5, 3 y 2 años de prisión, respectivamente.

- Truong Minh Duc, periodista, condenado a 5 años de prisión pese a sus graves problemas de salud.

Lamenta la muerte del monje budista e intelectual Le Dinh Nhan (Ven. Thich Huyen Quang) el 5 de julio de 2008, a la edad de 89 años, tras su arresto domiciliario desde 1982.

Teme por el delicado estado de salud del monje budista Dang Phuc Tue (Ven. Thich Quang Do), de 80 años de edad, que se encuentra en prisión domiciliaria desde 2003.

Expresa su consternación por la reciente ofensiva contra periodistas independientes en abril y en mayo de 2008, en especial, por los arrestos del periodista Nguyen Hoang Hai (seudónimo: Dieu Cay) y de Nguyen Van Hai y Nguyen Viet Chien, reporteros de investigación de los periódicos Tuoi Tre (Juventud) y Thanh Nien (Jóvenes), respectivamente.

Alarmada por la existencia de "tribunales populares" ilegales en los que una multitud hostil denuncia, acusa y humilla a escritores y periodistas independientes, bajo la supervisión de funcionarios políticos del Partido y fuerzas policiales públicas. Algunas de estas víctimas son: Le Thanh Tung, periodista veterano y escritor por Internet, "enjuiciado" el 25 de abril de 2008. Fue acusado de traición por escribir y publicar en Internet varios artículos sobre la situación de los derechos humanos y la democracia, así como un relato de su vida, "Memorias de un ex combatiente voluntario en el Ejército Popular de Vietnam".

Insta al Gobierno de la República Socialista de Vietnam a:

1. liberar de inmediato y sin condiciones a todos los intelectuales, escritores y periodistas independientes actualmente detenidos por haber ejercido su derecho a la libertad de expresión.

2. cesar todo tipo de ataques, acosos y amenazas de arresto a intelectuales, escritores y periodistas independientes.

3. mejorar las condiciones de detención en prisiones y campamentos, permitir la internación de prisioneros enfermos, proporcionarles atención médica adecuada y facilitar las visitas de familiares.

4. abolir la censura y levantar todo tipo de restricciones arbitrarias en contra de la libertad de expresión, la libertad de prensa, la libertad de asociación y la libertad de creación y publicación.



Nguyễn Chí Thiện hay đảng Việt Tân họp báo?

Tuấn Phan

Thưa quý vị quan tâm, Sở dĩ tôi đặt nghi vấn về cuộc họp báo ngày 25-10-2008 sắp tới đây của Nguyễn Chí Thiện bởi vì kinh nghiệm từ cuộc họp báo của Thủ tướng VC Phan Văn Khải tại Seattle hồi năm 2005 cho thấy đối với VC: “Phương tiện nào cũng tốt miễn đạt cứu cánh!”.

Các thức giả NVQG hải ngọai đã phanh phui sự thật, khẳng định Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ Vô Đề. Có người còn đi xa hơn, kết luận Nguyễn Chí Thiện là một điệp viên VC do Hà Nội phái ra hải ngọai, giao cho đảng Việt Tân lo liệu.

Từng ngày qua trên các diễn đàn điện tử giống như các “phiên tòa”, những người tham gia diễn đàn có vai trò cử tọa hoặc là nguyên cáo, hoặc công tố, hoặc luật sư của hai đều thấy rõ bên “bị cáo” Nguyễn Chí Thiện đưa ra các phản chứng quá yếu ớt, không đủ thuyết phục “bồi thẩm đòan” bỏ qua nghi án Nguyễn Chí Thiện chính là kẻ đạo thơ (ăn cắp) tập thơ Vô Đề. Tới ngày hôm nay, sau hơn cả tháng trời đứng trước “vành móng ngựa”, Nguyễn Chí Thiện và băng đảng Việt Tân bị dồn vào thế cùng, phải mở cuộc họp báo.

Không ai tin Nguyễn Chí Thiện họp báo khi VC ở Hà Nội chưa bật đèn xanh cho tay sai đảng Việt Tân – thực hiện theo kế họach của VC. Cuộc họp báo này cũng có thể sẽ bất thành ngay sau lúc khai diễn, không khác gì cuộc họp báo của Thủ Tướng CSVN Phan Văn Khải tại Seattle vào tháng 6 -2005. Xin nhắc lại, buổi họp báo này dự trù có nhiều nhà báo quốc tế đến dự khiến phía VC đâm ra lo ngại vì Phan Văn Khải có thể câm họng hay ú ớ trước những câu hỏi gút mắc liên quan Việt Nam của các nhà báo quốc tế. Thế là phía VC dàn dựng một màn kịch action cứu nguy Phan Văn Khải do tay sai Việt Tân thực hiện.

Cán bộ Việt Tân là Hùynh Quốc Bình đóng vai ký giả, mở đầu cuộc họp báo bằng những câu chất vấn Phan Văn Khải một cách gay gắt và vô lễ. Phan Vă n Khải phải bấm bụng nghe tên cán bộ đảng Việt Tân Hùynh Quốc Bình lớn tiếng với ông ta để ông ta có cớ nóng giận, ra lệnh nhân viên an ninh tống cổ tên ký giả côn đồ này ra khỏi phòng họp. Còn màn chót là tên ký giả “giả hiệu” Hùynh Quốc Bình phản ứng mạnh mẽ, cố ý làm ồn ào, mất trật tự trong phòng họp giúp cho Thủ Tướng VC Phan Văn Khải có lý do hợp tình hợp lý tuyên bố chấm dứt luôn cuộc họp báo để thóat hiểm.

Ký giả quốc tế ấm ức ra về, mất dịp chất vấn Phan Văn Khải mà họ đâu có hiểu đây là kịch bản của VC nhằm giải vây cho Thủ Tướng VC, do tên cán bộ Việt Tân Hùynh Quốc Bình đóng vai ký giả du côn, chịu đựng sự chê bai nặng nề của dư luận nhưng đã xuất sắc hòan thành nhiệm vụ.

Cuối bài, xin hỏi tại sao NVQG không tổ chức họp báo thay vì Nguyễn Chí Thiện? Một tổ chức NVQG có uy tín sẽ tình nguyện đảm đương cuộc họp báo. Trước tiên, tổ chức NVQG tạm gọi là Ủy Ban bắt đầu sưu tập các tài liệu chứng cớ có giá trị liên quan Nguyễn Chí Thiện.

Sau đó, Ủy Ban mở cuộc họp báo, mời đồng hương, các vị thức giả NVQG và Nguyễn Chí Thiện tham dự. Ủy Ban công bố các tài liệu chứng cớ đáp ứng các nghi vấn về Nguyễn Chí Thiện ở từng khía cạnh đời tư, thơ văn, tù tội, bệnh tật v.v… Nếu có mặt tại cuộc họp báo mà Nguyễn Chí Thiện và phe nhóm không phản chứng được các chứng cớ này thì xem như các cáo buộc của NVQG hải ngọai là đúng. Ủy Ban sẽ ra một thông cáo báo chí phổ biến rộng rãi ở hải ngọai về kết quả cuộc họp báo, trong đó xác định con người thật của Nguyễn Chí Thiện để cộng đồng NVQG khắp nơi sẽ có thái độ thích nghi sau khi biết rõ Nguyễn Chí Thiện là…ai?

Trân trọng,
Tuấn Phan


Thời Đại Văn Minh Đồ Giấy


Trương Minh Hòa


Tiến trình lịch sử loài người trải qua những thời kỳ đồ đá, đồ đồng, sắt,... Cộng Sản chiếm được bất cứ nơi nào, trong dân chúng phát sinh ra thời "chà đồ nhôm"...và thời nay là "đồ giả" nhan nhản từ sản phẩm, con người với "mặt giả, vú giả, mũi giả ...", ngoài ra còn có "giả nhân, giả nghĩa", trong sinh hoạt có "giả danh, kháng chiến giả, chống Cộng giả ..."

Khác với tiến trình lịch sử loài người, thì loài Khỉ, từ hàng triệu triệu năm, biết bao loài khỉ vẫn là khỉ, tức là "cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ"; nhưng chỉ có loài khỉ Cộng Sản là giống khỉ "tiên tiến, đỉnh cao trí tuệ loài khỉ" thì rụng lông, biến mất đuôi, để có nét giống như con người, tuy nhiên đầu óc vẫn còn ảnh hưởng di truyền thú vật, đó là thứ nòi "mặt người óc khỉ", nên loài khỉ nầy tỏ ra tất tàn ác với loài người; tính từ sau tháng 10 năm 1917 khi mà con khỉ "râu cằm" Lenin làm cuộc "cách mạng khỉ" tại Liên Sô, thì nhiều nơi trên thế giới, nhiều bầy khỉ đã "đứng dậy" dùng bạo lực, cộng thêm "thú tánh dã man" nên đám khỉ nầy đã ra tay tàn sát hơn 100 con người, bắt hàng tỷ người làm nô lệ phục vụ cho khỉ, chúng đã cướp đoạt không biết bao nhiều tài sản và hiện nay bầy khỉ Cộng Sản vẫn còn tiếp tục tàn sát, bức hại, bóc lột tàn tệ con người ở Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Cu Ba. Hiện nay ở Nam Mỹ có con khỉ lạc đàn Chavez đang cố gắng khôi phụ "vương quốc khỉ" và được một số bầy khỉ còn sót lại sau thời kỳ "mạt khỉ" ủng hộ. Bản chất của giống khỉ Cộng Sản nầy không yêu thương gì loài người, nên bầy khỉ ở Việt Nam mới đem con người đi bán làm lao nô, phụ nữ bán cho các động mãi dâm (nô lệ tình dục). Hầu hết các loài khỉ đều thích ăn chuối, nhưng loài khỉ Cộng Sản là thích ăn tiền, vàng, ăn hối lộ, ăn bẩn, ăn sát đáy quần chúng, ăn tiền từ thiện, cấp viện ... ăn hết cả đất nước Việt Nam mà không bao giờ no. Loài Cộng khỉ thật man rợ, tham lam vô lường, đó là mối đại họa cho nhân loại, khi mà khỉ cai trị người.

Nói về nền văn minh nhân loại, thì sản phẩm giấy mới là chìa khóa cho tất cả những thành công, không có giấy là không thể phát triển; bằng chứng là nếu các phát minh không được ghi lại bằng giấy, thì không thể có được nền văn minh ngày nay, tất cả những gì mà đời trước làm bị quên lãng và biến mất sau thời gian thịnh hành. Giấy cũng là mặt hàng chiến lược, Trung Hoa tự nhận là trung tâm vũ trụ, nơi phát minh đầu tiên, từ 106 sau Tây Lịch, nhưng cái thứ giấy nầy chưa thành hình, chỉ là những miếng tre, dùng để viết chữ, lưu trữ văn kiện, chiếu chỉ vua mà thôi. Hán Tộc có truyền thống "lấy của người làm của mình", thế là trong kỳ khai mạc Thế Giận Hội Bắc Kinh ngày 8 tháng 8 năm 2008, có màng trình diễn phát minh giấy, lập tức bị vài nơi phản đối là Bắc Kinh mạo nhận tác quyền. Dù vấn đề giấy chưa chắc là do người Tàu phát minh đầu tiên; nhưng chắc như bắp là người Trung Hoa là đất phát minh đầu tiên ra chuyện mê tín, dị đoan với thứ "giấy tiền, vàng bạc, đồ mã ...", là thương nghiệp khá phát triển từ nước Tàu, lan ra các nước bị xâm lược, ngày nay có mặt tại hải ngoại; giấy tiền vàng bạc nầy được người sống đốt cúng cho người chết, làm hành trang, của cải vật chất từ thế gian mang xuống âm phủ để lo lót cho Diêm Vương, hầu những kẻ gây ra nhiều tội lỗi TRÀN DÂNG, chốn TRẦN GIAN được "tiêu diêu nơi miền địa ngục", nhờ tiền hối lộ nầy các tay "ngưu đầu mã diện" không áp dụng cực hành, hàng năm còn được cho lên trần gian "holiday" vào rằm tháng 7 âm lịch.

Nếu trong kỳ lễ thế vận 2008 nầy, Trung Cộng biểu diễn màn "làm mì sợi" như các tay đầy bếp người Trung Hoa thực hiện trong các màn "nấu ăn" trên truyền hình, thì chắc chắn con cháu của Marco Polo lên tiếng phản đối là ăn cắp tác quyền làm mì Ý, gọi là Spaghettey. Nguyên đại đồ giấy kéo dài hàng mấy ngàn năm qua, đóng góp rất nhiều vào nền văn minh nhân loại, nhưng giấy cũng tác hại rất nhiều, là vũ khí cực kỳ lợi hại. Ngày xưa, giấy là mặt hàng "xa xỉ" dành cho vua, quan để viết chiếu chỉ, lịnh lạc, nên khi dân nhìn thấy giấy của vua là thường có vấn đề gì, được ban thưởng là tốt, nhưng chiếu chỉ kết tội phản nghịch là coi như ba họ đi đứt. Nhân loại càng tiến bộ, thì vai trò của giấy càng quan trọng hơn, giấy dùng để in sách, báo, tiền, giấy đi cầu, gói đồ, thương nghiệp cần giấy in quảng cáo, luật sư có giấy "hù" khi được thân chủ trả tiền, dù biết đó là trái với lương tâm ... người dân nghèo ở Việt Nam còn dùng giấy nhật trình của các tờ báo quốc doanh để làm công tác "vệ sinh phòng dịch tể" ở Ao Cá Bác Hồ, vò giấy để hút thuốc, như câu dè của dân sau 1975, dựa vào lời tuyên bố của Khỉ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945:

"Độc lập tự do.
Hút thuốc giấy vò.
Bồ lúa phải đo.
Vợ cán bộ mặc quần so.
Vợ dân để L.... cho ho".

Người Việt Nam cũng đã biết sử dụng công trình phát huy văn minh "đồ giấy" nên những tác phẩm văn thơ, sử, địa được tồn tại, lưu truyền đến ngày nay; giấy đi liền với mực, nếu không thì giấy chỉ dùng để" chùi đít, gói đồ ...", nên tục ngữ có câu: "bút sa gà chết"; hình như người xưa, muốn chứng minh sự chân thật trong các khế ước nên khi ký giấy xong là vặn cổ con gà.

Loài khỉ Việt Cộng cũng có hai mặt dùng giấy, chúng ép loài người "lao động, học tập theo gương con khỉ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại", nên giấy dùng để xuất bản các loại tuyên truyền phẩm về khỉ tổ Karl Marx, khỉ tịch Hồ Chí Minh, báo chí, văn thơ của các "văn khỉ, thi khỉ" như Tố Hữu, Nguyễn Tuân ..... ngay cả các "nhạc khỉ" như Trần Tiến, Bảo Chấn, Trần Long Ẩn ... cũng cần giấy để viết nhạc "ca tụng khỉ, chính sách khỉ, chủ trương khỉ, đường lối khỉ". Giống khỉ Cộng Sản Việt Nam, xuất phát từ hang động Pác Pó, nhờ thời cơ và được hai bầy khỉ lớn ở Trung Hoa và Liên Sô ủng hộ mạnh, bỏ hang động về thành, mặc áo người, giả dạng làm "cách mạng", khỉ Cộng thành công, mà loài khỉ gọi là "cướp chánh quyền" từ năm 1954 ở miền Bắc, thì những giấy mực về văn minh, khoa học, văn hóa, văn chương, lịch sử ... do loài người làm ra, bị loài khỉ tiêu hủy, thay thế bằng "khỉ thư" gọi là chủ khỉ nghĩa Marx Lenin. Những học trò nào thấm nhuần văn hóa loài người, thuộc thành phần "trí, phú, địa, hào" bị thanh trừng ra khỏi học đường, bị đưa vào Nam chết. Sau 1975, loài khỉ Việt Cộng lại chiếm được đất của con người, chúng bèn lấy nhiều tên khỉ đặt cho nơi con người cư ngụ, tên con khỉ chúa Hồ Chí Minh được thế thủ đô Saigon, nhiều con đường mang tên các vị anh hùng dân tộc bị thay tên những con khỉ đựt, cái, khỉ khủng bố như: Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Lê Duẫn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Trổi, Võ Thị Sáu ... sau năm 1975, con cái của con người thuộc thành phần" quân nhân cán chính miền Nam" bị đuổi ra khỏi trường học, đó là chủ trương "học tài thi lý lịch, hồng hơn chuyên", tức là học sinh nào xuất phát từ "con người" là coi như không hội đủ tiêu chuẩn "loài khỉ", tức là không có "chế độ" học hành; rồi họ bị đảng Cộng khỉ đưa đi sang Miên để nhờ đám khỉ, có gốc từ bầy "khỉ lớn Bắc Kinh" là Khmer Đỏ giết dùm và những sách vở do con người làm ra, đều bi loài khỉ đốt bỏ mà còn cho là" tàn dư văn hóa đồi trụy".

Có thể nói là hai lần bầy khỉ của con khỉ lãnh tụ Hồ Chí Minh chiếm đóng miền Bắc 1954 và miền Nam 1975, loài khỉ nầy đã: "đốt sách, giết học trò", nên nhân tài không có, sách vở, tài liệu cũng bị đốt sạch thì làm sao khá nổi. Bầy Cộng khỉ Việt Nam có lập ra những nơi "đào tạo văn hóa, tư tưởng khỉ" là trường "chính khỉ học" Nguyễn Ái Quốc và Viện Nghiên Cứu "Khỉ Học" Marx Lenin, từng được con khỉ-xạo Hoàng Minh Chính làm viện khỉ trưởng ... hai cái "khỉ viện" nầy đào tạo ra nhiều thế hệ khỉ, gọi là "cán khỉ" nên chúng tiếp tục làm khỉ ở Việt Nam, mang trò khỉ sang "biểu diễn" ở nhiều nước, nhất là mấy con khỉ đựt mặc weston, thất cà vạt như Phan Văn Khải (có biệt là Phan Văn KHỈ), Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .... sau khi ăn phải cục bơ "thừa" và uống phải "bình sữa cặn" của Mỹ nên "khỉ dã nhân" nầy nhảy múa như: "con khỉ ngồi trên bàn"; đó là thứ "khỉ ăn bơ" nên động cỡn, nhảy múa loạn cào cào, giống như "khỉ ăn ớt" vậy. Thời buổi tại Việt Nam là "người suy, khỉ lộng" nên khỉ mặc áo thầy chùa, linh mục ... khuynh đảo nhà thờ, chùa; đó là giới "TU KHỈ", được đồng loại khỉ Bắc Bộ Phủ cấp Hộ Chiếu, cho phép xuất ngoại, di dân sang các nước tự do để làm công tác tôn giáo vận, thu tiền, phá rối, lập cơ sở. Giới TĂNG KHỈ, LINH KHỈ đã bị loài người tiến bộ "phát hiện" tại hải ngoại nên những trò "khỉ" từ thiện, giúp người nghèo, xây dựng nhà thờ, chùa .... đã bị lộ, thế là các thứ "tu khỉ" đành phải chạy dài.

Thế giới văn minh xài giấy rất nhiều, hàng năm mỗi đầu ngữ nhận ít nhất là 5 ký lô giấy từ quảng cáo, giao dịch, nhất là học trò xài giấy nhiều hơn. Nếu không có giấy, thì nhân loại không tiến nổi, nhưng giấy cũng là tại họa khi hàng tháng, những người nhận được những tờ giấy" bill" trả tiền bảo hiểm, điện, nước, điện thoại ... nhất là giấy hầu tòa, giấy phạt chạy xe quá tốc độ .... là coi như hao thêm "giấy bạc". Trong xã hội loài khỉ ở Trung Cộng, Việt Nam hay Liên Sô, Đông Âu trước đây, con người rất sợ những tời giấy do đám khỉ có súng gởi tới, hay cho khỉ cầm súng đến tận nơi, đó là cái "giấy mời của công an, ủy ban nhân dân" lên cơ quan khỉ làm việc, nhất là những người có của, toát mồ hôi hột, có người ngất xỉu khi được đám khỉ "cầm tờ giấy" đọc lịnh tịch thu toàn bộ tài sản. Sau 1975, quân nhân cán chính, sau nhiều năm tù đày, nhận giấy ra trại do loài khỉ cấp, là "chính sách KHOAN DÙI" trước sau như một của bầy Cộng Khỉ, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi; tức là "trước nhốt, sau bỏ tù". Cái giấy ra trại tù lại trở thành "cơ sở" cho giấy thông hành để được sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO, thoát khỏi cái chuồng khỉ lớn do bầy khỉ Việt Cộng lập ra để hành hạ con người. Thời con khỉ tịch Hồ Chí Minh còn nhảy múa ở động Bắc Bộ Phủ, nói nói rằng: "Mỹ thua về Mỹ, anh em binh sĩ về đâu?". Sau năm 1975, bầy Cộng khỉ Việt Nam đã làm sai lời dạy "cực kỳ quí báu" của Hồ Chủ Khỉ, dám hỗn láo gọi là "Ngụy Quân" thay vì là "binh sĩ". Rồi sau nhiều năm bị tù đày do bầy khỉ hành hạ, trả thù, hàng trăm ngàn "chiến sĩ, công chức Việt Nam Cộng Hòa" cùng gia đình đã qua Mỹ sống hết, trả lời cho con khỉ tịch Hồ Chí Minh biết "đi về đâu?".

Giấy càng thông dụng, thì rừng bị tàn phá để làm giấy, thế là trận chiến tranh giấy đã và đang đến hồi gây cấn qua hai phe: các nhà kinh tế và lực lượng bảo vệ môi sinh. Trận chiến "giấy" lan rộng trên toàn cầu, không đổ máu, nhưng "hao nước bọt" và tốn công biểu tình, nhưng vẫn chưa ngã ngũ. Trận chiến giấy tác động vào chính trường, là đề tài của các đảng phái tranh cử, nhằm thu phục lá phiếu của giới "yêu rừng", không muốn trái đất nóng dần do đốn nhiều rừng. Giấy lại được tái biến chế, là chương trình "recycle" ở nhiều nước văn minh, nhưng cũng giúp cho nhiều người dân nghèo kiếm được tiền tạm sinh sống bằng bới đống rác lấy giấy phế thải. Loài khỉ Việt Cộng trước đây cũng rất là" bảo vệ môi sinh" nên chúng có ban hành nhiều biện pháp bảo vệ rừng, lý do là khỉ thì phải cần rừng để trốn, dùng làm nơi đặt súng pháo kích, khủng bố khu đông dân cư của loài người:

"Đốn cây khô, đào mồ chiến sĩ.
Đốn cây tươi, rước Mỹ vào nhà.
Đốn nhánh chà, dở nhà cán bộ"

Loài khỉ hung hăng: "Giặc khỉ từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào" được con khỉ chúa Hồ Chí Minh xúi giục "đốt cháy cả Trường Sơn", nếu không có khỉ tấn công, khủng bố, thì Hoa Kỳ đâu có đem thuốc khai hoang rải xuống những cánh rừng của các "sư đoàn chánh qui Bắc Khỉ" ẩn trú. Sau cuộc chiến, chất độc đã tan hết từ lâu, thế mà bầy khỉ Bắc Bộ Phủ cứ mang ra kiện mấy lần, đều bị thua cả. Sau khi chiếm miền Nam, bầy khỉ về thành, nhảy múa trên bàn, thế là chúng nào thương rừng như trước đây, nên rừng càng ngày càng bị tàn phá, khiến nhiều loại thú hiếm có nguy cơ diệt chủng. Do việc đốn cây "qui mô" từ nhà nước, cán bộ đảng viên nên ngày nay mới có hai chữ "lâm tặc" để nói thứ giặc đốn cây nầy.

Mặt trận giấy thu hút toàn cầu, khi loại giấy "hiếm quí" xuất phát từ Hoa Kỳ, có in câu "The God We Trust", loài người và ngay cả loài khỉ Trung Cộng, Việt Cộng cũng đều "yêu giấy bạc Mỹ hơn cả con ngươi trong tròng mắt", bầy khỉ Việt Cộng mê tiền giấy hơn cả mê "chủ khỉ nghĩa Marx Lenin", thế mà miệng vẫn luôn luôn: "tuyệt đối trung thành với chủ khỉ nghĩa Marx Lenin", vì đó là cái "gốc khỉ nhớ nguồn". Hiện nay, hơn 300 con khỉ ở động Bắc Bộ Phủ đã tom góp hàng trăm tỷ Mỹ Kim và chúng vẫn tiếp tục:

"Vơ, vơ vét mãi, bàn tay không ngừng nghỉ.
Cho cán giàu, bạc triệu, tỷ Mỹ Kim.
Cho hầu bao phình lớn mới hả lòng.
Là chính sách trước sau như một"

Giấy bạc in hình con khỉ chúa Hồ Chí Minh, càng ngày càng tỏ ra "lạc hậu, phản động và mất giá", là "Khỉ bản vị", nên làm sao so với tiền của con người làm ra. Khỉ bản vị Việt Nam lại được "thầy khỉ" Trung Cộng in giả, mang vào thị trường, làm phá sản thêm giá trị, dù "ngân hàng nhà khỉ Việt Nam" có qua Úc nhờ in bằng nhựa Polymer, nhưng cũng thất bại. Giấy bạc chính là vũ khí "vô địch" hơn cả bom nguyên tử, nếu muốn có bom nguyên tử, thì ĐẦU TIÊN cũng phải có TIỀN ĐÂU. Nhất là thứ giấy bạc có bảo chứng, do con người làm ra ở Mỹ, hay các bản vị khác như Euro ... còn tiền khỉ là đồng Yan của Trung Cộng cũng không có giá trị. Đó là sự phân biệt rõ ràng giữa khỉ và loài người, chớ khỉ và người đều giống nhau về tướng tá, ăn mặc. Khi giấy tiền Đô La Mỹ khủng hoảng là thế giới cũng ảnh hưởng là chuyện khó tránh khỏi.

Thời đại đồ giấy đa dạng, trong nước có thứ "bằng cấp giấy" với cái nguồn gốc: "dốt như chuyên tu, ngu như tại chức". Nên nơi chuồng khỉ Bắc Bộ phủ là nơi "sản xuất" ra thế hệ tiến sĩ Cầu Muối, kỹ sư Cầu Chữ Y, bác sĩ Viện đại học y khoa Chánh Hưng, dược sĩ trường Gò Vấp, cử nhân viện điều nghiên Gò Dầu Hạ .... đào tạo ra nhiều hàn lâm, hàn rừng nhan nhản khắp nơi, chen vai cùng với anh hùng đánh Tây, đánh Mỹ, dũng sĩ tham ô, cá nhân xuất sắc tham nhũng, móc ruột công trình nên thời "giấy có mộc đỏ" trở thành cái "mốt thời thượng". Hải ngoại cũng có nhiều tiến sĩ giấy giả, văn bằng giả, nhất là cái gọi là ĐẠI HỌC NHÂN VĂN HẢI NGOẠI, lập lờ đánh lận con đen, là tay "chơi bài ba lá" trong giới KHOẢN BA bằng cấp, khoe KHOA BẢNG, qua cái danh xưng: "Trung Tân văn Hóa Nguyễn Trường Tộ" (nếu Nguyễn Trường Tộ còn sống, chắc là đã ra thông báo phản đối về vụ TIẾM DANH, cũng như giáo chỉ số 9 của huề thượng Quảng Độ, vạch mặt những kẻ tiếm danh giáo hội của các Tiệm Phật ở hải ngoại vậy); tuy nhiên, nếu cái "Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ" nầy lấy tên là: "TRUNG TÂM VĂN HÓA ÔNG NGHÈ THÁNG TÁM" thì "đảm bảo" là trúng phốc, không ai khiếu nại, thắc mắc. Cái TỔ CHỨC có vẻ văn hóa nầy, TỨC CHỖ nầy là cái "đầu câu giao lưu, giao liên văn hóa" do nhà giáo sư thần học Nguyễn Đăng Trúc, là thứ Ốc mươn hồn, núp bóng Thiên Chúa để làm ra cái cơ cấu "cung cấp giấy lộn" qua cái gọi là:

- Tủ sách Độc Hại (đại học) mập mờ, có thể không từ chối lưu trữ cải sách của loài Khỉ Cộng Việt Nam để làm "khỉ viện" nhằm tuyên truyền, bàn tay nối dài của Ban Văn Hóa Tư Tưởng ở ngay trong hậu phương người tỵ nạn- Thực hiện công trình NGƯU KIẾN (nghiên cứu) những thứ không cần thiết, có khi là những tài liệu đầu độc từ các" khỉ thư" của khỉ Cộng

- Cổ võ đối thoại: là cách để hòa hợp hòa giải, bắt tay, quan hệ hữu cơ với "văn khỉ, thi khỉ, tiến khỉ" từ trong nước

- Tạo cơ hội gặp gở với các "văn nghệ khỉ, tiến khỉ" từ động khỉ Bắc Bộ Phủ. Cái Viện Đại Học Nhân Văn nầy trở thành mối "độc hại" khi mà những "đỉnh cao trí tệ nòi khỉ" là thứ "văn nghệ khỉ, khoa bảng khỉ" từ trong nước được mời giảng dạy, làm thầy "con cháu của loài người" thì quả là "đổi đời ở hải ngoại" như câu:

"Năm đồng đổi lấy năm xu.
Thằng khôn đi học, thằng ngu dạy đời"

Viện "độc hại" nhân văn của giáo sư thần học Nguyễn Đăng Trúc nầy có khả năng cấp phát những "bằng cấp giấy" là lò "xuất khẩu" những: "ông nghè tháng tám" như thiệt, để những người mê bằng cấp treo đầy cả phòng khách, khi cần cũng "photocophy" hay xin cái "trung tâm văn hóa Ông Nghè Tháng Tám" in thêm, để treo nhà bếp, toilet cho có vẻ đây là "trí thức"

"Cũng bằng, cũng cấp đại học đây.
Cũng là trí thức chẳng kém ai."

Nhưng mà:

"Mộc đỏ, nhân văn, bằng hải ngoại.
Tưởng là đồ thật, hóa đồ chơi".

Cái mảnh bằng từ "trung tâm văn hóa Ông Nghè Tháng Tám" nầy do "ráo xu" thần ( ó thể là Thiền Tiếp Hiện của Nhất Vẹm?) Nguyễn Đăng Trúc "chủ trì" cấp có thể giúp ích gì cho những người muốn có chút danh gì với "hãng xưởng"?. Chắc là mảnh bằng xuất phát từ "trung tâm văn hóa Ông Nghè Tháng Tám" có thể xin job clean, quét dọn, hầu bàn, bán hàng nhưng nhà thờ thì đã có các linh mục được giáo hội đào tạo, làm sao mà xin được, dù có được "giáo sư thần học" chứng nhận là "đậu bằng tiến sĩ giấy ưu hạng". Tuy nhiên, những người nào "tốt nghiệp" từ Trung Tâm Văn Hóa Ông Nghè Tháng Tám có thể về Việt Nam để trở thành "trí khỉ" được đảng Khỉ công nhận, khi thấy các văn bằng giấy tốt nghiệp ở nước ngoài.

Thời đại "giấy" vẫn thịnh hành, dù đã có phát minh ra máy computor, lưu trữ tài liệu, giảm bớt các tờ báo giấy. Tuy nhiên thứ giấy bạc, nhất là giấy bạc Mỹ Kim, Euro là không bao giờ bị lên án là "lạc hậu, lỗi thời, phản động", dù các đảng khỉ luôn la ó, giáo dục bầy khỉ: "bọn tư bản lạc hậu, lỗi thời, phản động". Giấy bạc của bầy khỉ Việt Nam, có in hình con khỉ chúa Hồ Chí Minh có giá trị thua cả giấy đi cầu, nên người dân trong nước có khuynh hướng dự trữ đồng Mỹ Kim, vàng và nếu túng lắm thì mua giấy đi cầu để làm của, cũng còn lên giá hơn đồng bạc Việt Nam do bầy khỉ phát hành.

Trương Minh Hòa


Saturday, October 18, 2008

Bài Học Phạm Xuân Ẩn

Đại Dương

Vai trò tình báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết đến sau ngày 30-4-75. Trước đó, Cơ quan An ninh VNCH và CIA hầu như không biết gì về hoạt động gián điệp của Ẩn. Làng báo thủ đô Sài Gòn thường lấy tin từ Ẩn cũng không một chút nghi ngờ.

Dựa vào yếu tố nào mà Phạm Xuân Ẩn đã hoàn thành nhiệm vụ tình báo chiến lược trong lòng VNCH?

Thứ nhất, tâm lý "đèn nhà ai nấy sáng" của dân chúng Miền Nam khiến cho hoạt động của Ẩn được bảo mật tuyệt đối. Chúng ta không muốn xoi mói vào công việc hoặc vi phạm quyền tự do cá nhân của nhau. Chúng ta phó mặc tình trạng an ninh quốc gia cho các cơ quan hữu trách. Phải chăng đó là thái độ vô trách nhiệm của công dân ?

Thứ hai, tâm lý "vọng ngoại" khiến chúng ta tin rằng Ẩn là người của CIA. Và những tin tức do Ẩn cung cấp xuất phát từ Hoa Thịnh Đốn. Ẩn do Mỹ đào tạo và sử dụng thì CIA là cái chắc. Tin do hắn cung cấp làm sao sai được. Khỏi lo, cứ phổ biến thả giàn. Sự quen biết rộng rãi của Ẩn khi cùng các phóng viên ngoại quốc săn in giới chức Mỹ đến Việt Nam càng thêm xác tín vai trò CIA của ông ta. Chớ chơi dại mà chạm vào "ông CIA" có ngày vỡ mặt. Thế là, viên chức cao cấp VNCH, làng báo Sài Gòn thi nhau moi tin từ "nhân vật thạo tin" Phạm Xuân Ẩn. Chiêu "cáo mượn oai hùm" được Ẩn sử dụng thuần thục.

Thứ ba, tâm lý "cạnh tranh" khiến cho phóng viên ngoại quốc cố sức moi móc cho bằng được những tin tức của "phía bên kia". Ẩn là người cung cấp loại đó. Không những thông tín viên báo Times mà hầu hết các nhà báo ngoại quốc đến Sài Gòn đều tìm gặp Ẩn để săn tin liên quan đến "phía bên kia". Trung Ương Cục Miền Nam của Cộng Sản mớm cho Ẩn những tin tức mới toanh chưa hề phổ biến trên hệ thống truyền thanh của cộng sản trước đó khiến cho mấy tay phóng viên ngoại quốc cứ mê tít thò lò. Họ tưởng Ẩn đã mua được các tin tức có giá tri.. Nhưng sự thực đó là những bản tin do Trung Ương Cục chế tạo. Tại Sài Gòn là thủ đô VNCH, có rất nhiều trạm chuyển tin mà sau 1975 cộng sản "biểu dương" là "địa chỉ đỏ" (nơi nuôi, giấu cán bộ CS hoạt động). Do đó, Ẩn chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn cũng nhận được đầy đủ chỉ thị của Hà Nội.

Thứ tư, viên chức VNCH và Mỹ muốn dùng Ẩn như nhân vật trung gian để chuyển đạt cho "đồng minh" những thông điệp bán chính thức. Nhưng Ẩn lại là đài chặn bắt làn sóng để truyền về Trung Ương Cục Miền Nam của Cộng Sản. Chủ trương của VNCH và Mỹ cùng các xích mích được Trung Ương Cục nghiên cứu cẩn thận. Chiến lược chiến thuật của cộng sản được điều chỉnh thích đáng. Xích mích giữa VNCH và Mỹ được kích thích thành hiềm khích qua trung gian Phạm Xuân Ẩn.

Trong các cuộc phỏng vấn của hệ thống truyền thông cộng sản sau 30-4-75, Ẩn nói rất ít về vai trò của mình tại Sài Gòn, đúng với bản tính kín đáo. Tuy nhiên có 3 điều tác hại to lớn đối với cuộc chiến tranh Việt Nam.

1. Những nhà soạn thảo chính sách, người thực hiện và dư luận Hoa Kỳ thực sự đã hiểu khá sai lạc về cuộc chiến Việt Nam. Điển hình là những điều cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara trình bày trong cuốn "In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam" xuất bản năm 1995. McNamara thú nhận không những bản thân mà nhiều nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã không am tường về mưu đồ của cộng sản quốc tế; không rõ quyết tâm của đảng cộng sản Việt Nam; mù tịt về con người và đất nước Việt Nam. Hậu quả, Hoa Thịnh Đốn coi cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam là "chiến tranh giải phóng dân tộc" và Hồ Chí Minh là "người quốc gia yêu nước". Giở lại chồng báo cũ của Hoa Kỳ và thế giới trong những thập niên 1950-1970 chúng ta cũng thấy dư luận sai lầm tương tự.

2. Dân chúng miền Nam hiểu lơ mơ về bản chất thực sự của chủ nghiã Mác-Lênin. Nó được truyền đạt qua giới khoa bảng bằng các hình dung từ đẹp đẽ song song với hình ảnh cán binh cộng sản nửa người nửa ngợm do bộ máy thông tin (dân sự) và tâm lý chiến (quân sự) VNCH thêu dệt nên khiến cho dân chúng nuôi cảm tình với lý tưởng cộng sản. Bản chất của chủ nghĩa xã hội, thủ đoạn của cộng sản đã không được mô tả, phân tích tường tận, giải thích sâu rộng. Thông tin, tâm lý chiến chỉ tập trung vào việc biêu riếu sự thất học, dáng dấp quê mùa của đảng viên cộng sản mà quên rằng 80% người Việt Nam là nông dân.

3. Dư luận thế giới, kể cả VNCH, phân biệt cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là 2 thực thể độc lập. Bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Quốc Tế cộng sản và tay sai Bắc Bộ Phủ lại biến thành chiến tranh giải phóng. Cơ quan Việt Tấn Xã với bao nhiêu bằng cấp, tiếng nói chính thức của VNCH; báo chí chống cộng của miền Nam; phóng viên ngoại quốc dạn dày kinh nghiệm cũng bị cộng sản bịp đến sói đầu. Trong cuộc chiến tranh ý thức hệ, cộng sản đã thắng chúng ta trên mặt trận tư tưởng. Họ đẩy chúng ta vào thế mất chính nghĩa, làm cho tinh thần bạc nhược, mất ý chí chiến đấu.

Khi khối cộng còn mạnh, cộng sản Việt Nam không mấy quan tâm đến sức đối kháng của người Việt hải ngọai. Thời đó, Bắc Bộ Phủ chỉ muốn giao dịch trong khối cộng. Họ muốn dồn mọi nỗ lực để tiêu diệt tên đế quốc đầu sỏ là Hoa Kỳ. Do đó, mạng lưới tình báo cộng sản Việt Nam tại Hoa Kỳ chỉ tập trung vào việc vận động dư luận Mỹ và thu thập tin tức. Họ chỉ dùng cộng đồng Việt Nam hải ngoại như phương tiện cho các hoạt động chống Mỹ.

Họ không có kế hoạch chống cộng đồng. Họ cho rằng khi toàn cầu bị nhuộm đỏ thì sự chống đối của người Việt hải ngoại tất phải tiêu vong. Ngày 31-1-78, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey (cưới gái Việt khi phục vụ tại VNCH); Trương Đình Hùng (con trai Trương Đình Dzu) cưới gái Mỹ. Sau đó toà phạt mỗi tên 15 năm tù về tội làm gián điệp. Đinh Bá Thi, đại sứ cộng sản tại Liên Hiệp Quốc, bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Sau đó chết trong một tai nạn xe hơi ở Phan Thiết làm cho người ta ngờ đến vụ thanh toán.

Nhưng khi khối cộng tan rã, chỗ dựa mất, viện trợ không còn khiến cho Bắc Bộ Phủ phải tính đường giao thương với khối tư bản để tồn tại. Sự chống đối của người Việt hải ngoại làm cho cộng sản Việt Nam khó lòng thực hiện trót lọt mọi kế họach. Tiêu diệt sức chống đối của người Việt hải ngoại là ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao của Bắc Bộ Phủ. Cần phải chuyển hướng dư luận của người Việt hải ngoại từ chống đối sang yểm trợ cho nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam. Nhiều Phạm Xuân Ẩn khác đã được tạo ra để đáp ứng nhu cầu.

Mô hình Phạm Xuân Ẩn phải thuộc loại người có thành tích chống cộng (để dư luận không nghi ngờ), hiểu biết rành rẽ về kỹ thuật truyền thông, am tường hoạt động chính trị, giao thiệp rộng rãi trong giới truyền thông thế giớị Tin mật từ Bắc Bộ Phủ được tung ra qua nhân vật thạo tin để tạo uy tín. Phân tích, bình luận kèm theo với lập luận có lợi cho chính sách của cộng sản Việt Nam. Trước đây, người Việt hải ngoại quyết tâm lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam, vì đó là thảm họa của đất nước và dân tộc. Ngày nay, nhiều người chỉ nghĩ đến giải pháp dân chủ hóa chế độ do đảng cộng sản chủ trương. Chúng ta từng chê đảng viên cộng sản bất lực nhưng giờ đây lại tin rằng chỉ có họ mới làm nên lịch sử. Đến lúc nào chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý yểm trợ cho đường lối, chính sách đảng cộng sản?

Ai đang thủ diễn vai trò Phạm Xuân Ẩn tại hải ngoại? Chúng ta rút tỉa được gì qua bài học cũ? Chúng ta sẽ hành động như thế nào để khỏi đi vào vết xe cũ?

Đại Dương


Kẻ nằm vùng: Phạm Xuân Ẩn

Vi Anh

Trường hợp các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo Quốc gia tham gia mặt trận Việt Minh trong đó có Cộng sản để chống Pháp giành độc lập cho nước nhà Việt Nam, bị Cộng sản ám hại, thủ tiêu để Cộng sản độc chiếm quyền hành quốc gia là một bài học tập thể về Cộng sản. Người Quốc gia thua vì không thể hành động vô đạo đức, vô lương tâm như Cộng sản, lấy phương pháp bá đạo lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Thí dụ trường hợp Cộng sản nhờ phục Đức Huỳnh Giáo chủ về Miền Tây dàn xếp xung đột giữa Cộng sản và Phật Giáo Hoà Hảo, lợi dụng lời mời hội họp để ám hại Ngài. Một bài học để đời, khiến nhiều thế hệ người Việt Quốc gia chống Cộng tới cùng, chống Cộng hết mình. Chống suốt hai thời Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng hoà, sau khi Saigòn sụp đổ, di tản chiến thuật ra hải ngoại vẫn tiếp chống Cộng.

Trường hợp Ông Phạm Xuân Ẩn, nhà báo ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, bán mạng làm gián điệp cho Cộng sản Hà nội, đã qua đời, thọ 78 tuổi, phải ôm hận xuống Âm phủ là một bài học cá nhân về Cộng sản. Qua những nhà báo Pháp, Mỹ, độc lập và từng thâm giao với Ông Ẩn khi còn làm cho làng báo Anh Mỹ ở Saigòn và sau Chiến tranh Việt Nam trở lại thăm Ông Ẩn ở Sàigòn, cho biết Ông Ẩn rất thất vọng, bất mãn, cay đắng trước những tồi tệ, tham nhũng của chế độ Cộng sản, và thú thật lý tưởng của Ông theo suốt đời bị phản bội.

Nhưng đã dính với Cộng sản rồi khó mà thoát thân cho toàn mạng. Không phải riêng với Ông Ẩn thời Cộng sản mới bắt đầu chiếm được nửa nước. Mà thời bây giờ Cộng sản đã tóm thâu tất cả quyền hành và toàn bộ đất nước. Họ có đầy đủ phương tiện và thế lực để chiêu dụ và bắt hồn lẫn xác những người lỡ dính với họ. Yếu bóng vía, thiếu kinh nghiệm Cộng sản, tưởng chơi với Cộng sản Hà nội cũng giống như chơi với người Việt Quốc gia, chơi với dân Tây Phương là sẽ mắc mồi Cộng sản. Lúc đó "cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra". Lịch duyệt, cảnh giác như Ông Ẩn làm gián điệp cho Cộng sản suốt Chiến tranh Việt Nam mà không bị lộ kia, giờ chót còn không lối thoát khỏi Cộng sản, chớ đừng nói cỡ những người trẻ Việt ăn học cao ở Tây Phương, chưa biết Cộng sản thực sự là gì.

Ba nhận định trên có thể chứng nghiệm qua trường hợp Ông Phạm Xuân Ẩn. Là một người đi du học ở Mỹ về trong thời Mỹ mới vào, Ông có quá nhiều cơ may để thành đạt trong chế độ mới ở Miền Nam. Thế mà Ông Ẩn không thoát được "tổ chức" dù người đầu mối của Ông đã bị chánh quyền mới của Miền Nam bắt. Và trớ trêu nhứt, chính nhân vật có thế lực an ninh cao nhứt của Việt Nam Cộng Hòa, Bác sĩ Trần KTuyến là người đã vô tình cứu Ông Ẩn và mở đường và tạo vỏ bọc cho Ông Ẩn thi hành điệp vụ - điệp vụ phục vụ cho Cộng sản Hà nội.

Theo ký giả Dan Southerland, vốn là bạn đồng nghiệp trong báo Chistian Science Monitor, Time, nay là Phó Giám đốc Chương trình của Đài Phát Thanh RFA, nói sau khi biết Ông Ẩn đã qua đời. Đến thăm Ông Ẩn hai lần mới được gặp xưa là người làm chung với Ông Ẩn trong báo chí. Ẩn vận động giúp cho Bác sĩ Trần Kim Tuyến di tản ngày 29 tháng tư, là điều có thật và thuần ơn nghĩa vì Bác sĩ Tuyến đã cứu Ẩn trước kia. Dan Sotherland chính là người mà ông Phạm Xuân Ẩn nhờ giúp tìm cách đưa bác sĩ Tuyến rời Việt Nam vào ngày 29 tháng 4. Ông Southerland nói đó là vấn đề thuần ơn nghĩa, "lý do sâu xa là khi ông Phạm Xuân Ẩn đi học báo chí ở Hoa Kỳ trở về Việt Nam năm 1959 trong một tâm trạng hết sức lo lắng vì người chỉ huy trực tiếp của ông đã bị chính quyền VNCH bắt. Thời gian trước và sau năm 1960, chính phủ ông Ngô Đình Diệm truy quét hầu hết các phần tử Việt minh cộng sản cài lại miền Nam. Ông Ẩn đã trốn trong nhà cả tháng trời và sau đó nhờ mối quan hệ gia đình, bắt liên lạc được với bác sĩ Trần Kim Tuyến, lúc đó đang là giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị của chính phủ ông Diệm, tức là cơ quan mật vụ của chế độ, có trụ sở ngay trong dinh Độc Lập. Nhờ mới du học về báo chí ở Hoa Kỳ (Đại học Cộng đồng OCC và Fullerton) về, ông Phạm Xuân Ẩn được bác sĩ Tuyến bố trí phụ trách các ký giả nước ngoài làm việc cho Việt Nam Thông Tấn Xã. Nhờ vỏ bọc này và nhiệm vụ phù hợp, ông Ẩn dần dần xây dựng niềm tin và phát triển hoạt động, chuyển qua làm việc cho hãng thông tấn Reuters, nhật báo The Christian Science Monitor và rồi tuần san Time. "Nếu không có vỏ bọc đó và sự quen biết với Bác sĩ Tuyến thời Đệ nhứt và thân thiện thời Đệ nhị Cộng Hoà, Ông Ẩn khó mà trở thành một gián điệp như Hà nội đã đánh bóng.”

Nhưng sự thật, theo nhà báo Southerland quen biết và thân thiện với Ông Ẩn từ rất lâu "về một nghĩa nào đó Ông Ẩn ít nhất có thể cung cấp thông tin cho Hà Nội về một số việc, chẳng hạn như cách suy nghĩ, lý luận của người Mỹ. Đó là khả năng lớn nhất của ông Ẩn. Ông ta có thể cảm nhận sự thật. Nhiều người Việt Nam tôi biết, người miền Nam Việt Nam, rất thông minh, rất luận lý, thường cho là nước Mỹ rất hùng mạnh có thể làm tất cả mọi sự. Nếu Mỹ muốn chiến thắng thì họ đã có thể thắng ngay lập tức. Ông Ẩn lại có một cái nhìn rõ nét hơn về những điểm yếu của phía Hoa Kỳ, về hệ thống hoạt động, về mối tương quan kiểm tra chồng chéo nhưng hữu hiệu giữa Hành pháp và Lập pháp. Kiến thức đó dĩ nhiên là giúp ích Hà Nội rất nhiều, vốn không có chuyên viên đầy đủ kiến thức về đối phương như ông Ẩn." Theo Ông Southerland, chính sự thân thiện đã khiến Bác sĩ Trần kim Tuyến thời Đệ nhị Cộng Hoà dù không còn làm tình báo nhưng quảng giao trong chánh quyền, đã vô tình nói lại một số chiến lược của Mỹ thời Bác sĩ Tuyến còn làm trùm tình báo Việt Nam và giúp cho Ông Ẩn có thêm dữ kiện so sánh để phân tích và báo cáo tình hình cho Hà nội.

Theo Thông tấn xã Pháp AFP viết sau khi ông Ẩn chết 1 ngày, rằng sau khi Sàigòn rơi vào tay Cộng sản ngày 30 tháng năm 1975, Cộng sản Hà Nội thoạt tiên định đưa Ông tham gia cùng những nhân vật nằm vùng chưa bị lộ diện chạy sang Hoa Kỳ tỵ nạn để tiếp tục hoạt động gián điệp. Nhưng rồi họ nghi ngờ, đổi ý. Họ xét lại quan điểm, lập trường của Ông vì Ông làm gián điệp đơn tuyến cho họ, quá lâu ở Miền Nam trong lòng địch. Họ móc lại hồ sơ Ông đã góp phần giúp đỡ một số người như trường hợp ký giả Robert Sam Anson, đồng nghiệp ở tuần báo Time, bị Cộng sản bắt bên Kampuchia. Hà nội nghi là Ông Ẩn đã vận động để Mặt trận Giải phóng và phe Khmer Đỏ thả. Và trường hợp bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị thời đệ nhất Cộng hòa, Hà nội nghi là Ông Ẩn đã dàn xếp với nhà báo Mỹ để được rước đi ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Rốt cuộc cộng sản Hà nội chỉ đưa những cán bộ tình báo khác mà chưa lộ diện theo các đợt di tản, vượt biên, ODP v.v... sang Mỹ để tiếp tục làm gián điệp.

Từ đó, Ông Ẩn coi như bị Cộng sản Hà nội thực sự "quản thúc tại gia" ở một biệt thự tại Quận 3. Ai thăm cũng phải có sự đồng ý của "tổ chức." Ông Ẩn không thể thoát ra ngoài "tổ chức" Cộng sản được dù đã thất vọng ê chề và bất mãn tột độ đối với chế độ Cộng sản Hà nội vì cảm thấy bị phản bội trắng trợn. Nhưng bên ngoài Cộng sản Hà nội đánh bóng Ông như một James Bond tại thế, một gián điệp toàn vẹn, báo cáo tình báo của Ông được Hồ Chí Minh và Tướng Võ Nguyên Giáp khen khi đọc như đang ở ngay trong Phòng Tình Hình Chiến tranh của Bộ Quốc Phòng Mỹ. Khi Cộng sản khen là coi chừng, sắp có tai họa lớn đó.

Trong cô đơn, thất vọng và bất mãn, Ông Ẩn chỉ còn một ít cơ hội hiếm hoi, liều mạng bộc lộ với một vài nhà báo Tây Phương bạn cũ được Cộng sản cho gặp với ý đồ dùng bài viết để kiểm soát tư tưởng Ông Ẩn hay đánh bóng cho ngành gián điệp của Cộng sản Hà nội. Trong những dịp hiếm hoi này, trong chỗ tín cẩn riêng tư với nhau (lương tâm con người và nhà báo chân chính không cho phép tiết lộ những gì được dặn giữ kín khi nguồn tin còn sống và có thể gây hại cho đương sự), nên một số tiết lộ về Ông Ẩn là những gì về thất vọng của Ông Ẩn chỉ nói phớt qua thôi và được giữ kín đến sau khi Ông Ẩn chết mới tiết lộ rõ ràng như vụ Bác sĩ Tuyến. Năm ngoái, ông Ẩn tâm tình với nhà báo Dan Southerland đến thăm Ông Ẩn hai lần mới được gặp. Rằng "Họ, tức những người ngoài Bắc vào tham nhũng tệ hại hơn nhiều lắm, ông vỡ mộng vì đã hỗ trợ họ hết sức mình, để rồi họ hành xử không xứng đáng khi chiến thắng."

Cũng trong thời gian năm ngoái, Ông Ẩn còn đắng cay hơn khi tâm sự với nhà báo của tờ New York Times ghi lại trong bài viết về ông Ẩn như một điệp viên trọn vẹn, trong một bài dài 10 ngàn chữ. Ông Ẩn nói đã đau đớn thấy lý tưởng suốt đời Ông theo đuổi bị phản bội. Ông "tự khẳng định là chưa thể chết được. Lý do: Không có chỗ nào giành cho ông cả. Địa ngục chỉ dành cho những tên bợm bãi, mà Việt Nam đang còn quá nhiều, nên chật chỗ rồi." Với một nhà báo Pháp cũng thân lâu đời với Ông Ẩn, Ông Ẩn cũng nói nội dung tương tự.

Sai lầm, hối hận, thất vọng, bất mãn và bất lực của Ông Ẩn đến chết không thoát được tổ chức Cộng sản là một bài học cho lớp trẻ Việt Nam có ăn học nhiều mà ít kinh nghiệm về Cộng sản. Xe trước đổ, xe sau phải tránh. Kể cũng có ích, lời khuyên của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm. Ông Ẩn làm việc "bán mạng" cho Cộng sản Hà nội mà sau cùng vẫn ôm hận Cộng sản xuống âm ty. Huống hồ gì lớp trẻ ở Mỹ là những người mỏ trắng, bị Cộng sản chiêu dụ công khai bằng Nghị quyết 36 là thí dụ đường mật rẻ tiền, "ấn tượng" không đẹp là "khúc ruột ngàn dặm của quê hương." Trường hợp Phạm Xuân Ẩn đáng cho lớp trẻ ở hải ngoại có ăn học nhiều chuyên môn mà thiếu kinh nghiệm Cộng sản suy gẫm.
Có những người nổi tiếng trong cộng đồng mà lập trường quốc gia không vững vàng cũng bị cộng sản mua chuộc, cam tâm làm tay sai cho chúng. Mà đã dính vào cộng sản rồi thì khó lòng mà gỡ ra được, như trường hợp Phạm Xuân Ẩn nói trên.

Vi Anh

Chủ tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng Hà Thúc Ký vừa qua đời



Ông Hà Thúc Ký sinh năm Canh Thân (1920) tại làng La Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình khoa bảng ( 3 anh em họ Hà cùng đỗ cử nhân một khoa trên tổng số 11 cử nhân tại tỉnh Thừa Thiên, ngày xưa)...ông là con út trong gia đình có 8 anh chị em.

- Sau khi đỗ Tú Tài, ông ra Hà Nội học Đại học và đỗ kỹ sư Thủy Lâm, phục vụ tại Cà Mau (1944)

- Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, ông trở ra Hà Nội hoạt động trong tổ chức Đại Việt Quốc Dân Đảng do Trương Tử Anh sáng lập (1939), cùng thời với các ông Đặng Văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tiến Hỷ, Bùi Diễm, Nguyễn Tất Ứng...

- Năm 1946, ông được Đảng cử về Huế tiếp tục hoạt động trong bí mật, rồi tham gia kháng chiến chống Pháp (mặt trận đường số 9 Lào). Sau đó, ông rời bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về hợp tác với cụ Trần Văn Lý (Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ, 1947) Ông trở lại ngành Thuỷ Lâm và làm Hạt Trưởng hạt Thủy Lâm ở Huế

- Năm 1953, ông vào Sài Gòn và được bầu vào Hội Đồng Chủ Tịch Trung Ương Đảng Bộ Đại Việt QDĐ (gồm có BS Nguyễn Tôn Hoàn, BS Nguyễn Đình Luyện, KS Hà Thúc Ký). Hội Đồng nầy thay thế Đảng Trưởng Trương Tử Anh mất tích để lãnh đạo Đảng. Từ 1953-1954, ông hoạt động trong Phong trào đại Đoàn Kết và Hoà Bình gồm có Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Bình Xuyên (Chủ Tịch: BS Nguyễn Tôn Hoàn, Phó CT: BS Nguyễn Xuân Chữ và Ông Ngô Đình Nhu;
Tổng Thư Ký: Ông Lê Phùng Thời)

- Năm 1955, vì bất đồng chính kiến với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và vì có liên quan đến vụ chiến khu Ba Lòng (Đại Việt) tại Quảng Trị, ông bị kết án 20 năm tù (vắng mặt), sau đó bị bắt tại Sài Gòn 11/1958 và bị biệt giam cho đến sau ngày 1/11/1963 mới được ra khỏi tù.

- 12/1963, ông được Trung Tứơng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, mời tham gia Hội Đồng Nhân Sĩ (40 ngừơi) và Hội Đồng nầy chính thức ra mắt ngày 9/01/1964.

- Ngày 09/02/1964, sau vụ chỉnh lý 30/1/1964, ông được mời tham gia chính phủ Nguyễn Khánh, giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ. Nhưng chỉ 01 tháng 20 ngày sau, vào ngày 04/04/1964, ông từ chức vì bất đồng ý kiến với Tướng Nguyễn Khánh...

- Tháng 5/1965, ông công bố Tuyên Ngôn 9 điểm, chủ trương chống Cộng, đòi thực hiện đại đoàn kết quốc gia, đòi cải cách về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội,v.v...Sau đó là các cuộc biểu tình do sinh viên Đại Việt tổ chức tại Quảng Tín, Thừa Thiên, Quảng Trị, Sóc Trăng, Tây Ninh...để ủng hộ Tuyên Ngôn nầy.

- 25/12/1965, Đảng Đại Việt Cách Mạng họp tại Sài Gòn đã bầu ông Hà Thúc Ký làm Tổng Bí Thư, ông Trần Việt Sơn (Tức Trần Ngọc Lập) làm Dệ I Phó TBT và ông Hoàng Xuân Tửu làm Đệ II Phó TBT.

-Tháng 9/1966, sau vụ biến động Miền Trung, một số đảng viên Đại Việt đắc cử vào Quốc Hội Lập Hiến góp phần xây dựng Hiến Pháp 01 tháng 04 năm 1967, đặc biệt đưa vai trò chính đảng và đối lập chính trị lên hàng quan trọng trong sinh hoạt chính trị của chế độ dân chủ.

- Tháng 9/1967, Ông Hà Th1uc Ký ứng cử Tổng Thống VNCH...Tuy thất cử nhưng trong cuộc bầu cử Dân Biểu, Nghị Sĩ năm 1967, một số đảng viên Đại Việt CM đã vào được Quốc Hội (lưỡng viện) và có tiếng nói trong nghị trường.

- 1968, sau Tết Mậu Thân, để đối phó với Cộng Sản, ông vận động 6 đảng lớn có thực lực là Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh), Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký), Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (tức Dân Xã Hoà Hảo: Trình Quốc Khánh), Nhân Xã Cách Mạng Đảng (tức Đảng Nhân Xã: Trương Công Cừu), Lực Lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn Gia Hiến) và Lực Lượng Tự Do Dân Chủ (Nguyễn Văn Hứơng) gọi là mặt Trân Quốc Gia, Dân Chủ, Xã Hội mục đích đoàn kết các chính đảng chống Cộng và hậu thuẫn cho chính phủ. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là Chủ Tịch Chủ Tịch Đoàn của Mặt Trận nầy.

- 1969, trong thời gian có hội nghị tại Paris về VN, Ông Hà Thúc Ký đã cầm đầu một phái đoàn gồm đủ mọi thành phần chính trị, xuất ngoại yết kiến Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ VI cũng như gặp gỡ các nhà lãnh đạo các quốc gia Á, Âu, Mỹ để vận động cho Miền Nam VN một nền hoà bình công chính.

- Năm 1972, ông Hà Thúc Ký đã cùng GS Nguyễn Ngọc Huy và Ông Trần Quốc Bửu thành lập Mặt Trận "Tự Quyết" để có tiếng nói đấu tranh trứơc tình hình mới nhất là sau đợt tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) của Cộng Sản Bắc Việt vào Quảng Trị, Bình Long, Kontum...

- Năm 1974, sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu tu chính luật "Quy Chế Chính Đảng", ông Hà Thúc Ký đã nạp đơn tại Tối Cao Pháp Viện kiện Tổng Thống Thiệu vi hiến ...

- Sau ngày 30/4/1975, ông đã vượt biển qua định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, tiếp tục tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.

- 1990, Ông đã thành lập Mặt Trận Việt Nam Tự Do kết hợp nhiều nhân sĩ, trí thức, chính đảng tại Hoa Kỳ ...

- 1992, ông đã hợp tác với BS Nguyễn Tôn Hoàn tái lập tổ chức Đại Việt Quốc Dân Đảng (cả hai vị là Đồng Chủ Tịch), nhưng sau đó, ông đã rút lui (1994) để trở về với tổ chức Đại Việt Cách Mạng. Ngày 24/11/1965, ông đã được Đại Hội ĐVCM họp tại Houston (TX), bầu làm Chủ Tịch Đảng, liên tiếp mấy nhiệm kỳ cho đến 2006, vì lý do sức khoẻ, ông tuyên bố rút lui và uỷ quyền cho ông Bùi Diễm đứng ra triệu tập Đại Hội lần thứ 6 để thành lập Tân Ban Chấp Hành. Hiện nay, Ông Bùi Diễm là Chủ Tịch BCH Trung Ương Đại Việt Cách Mạng Đảng thay thế Ông Hà Thúc Ký.

- Ông Hà Thúc Ký qua đời lúc 12:10 chiều ngày 16/10/2008 (18 tháng 9 Mậu Tý) tại bện viện Holy Cross, thành phố Maryland, Hoa Kỳ, thọ 89 tuổi.

(bản tiểu sử nầy do Gs Nguyễn Lý-Tưởng thực hiện)

Cuối năm 1978, Việt Cộng đã thiết lập tòa án quân sự để xét xử vụ âm mưu khởi nghĩa Mậu Ngọ tại trụ sở Trường Đại Học Sư Phạm Huế, nơi đồng chí Trần Ngọc Quờn tốt nghiệp và dạy học. Các đồng chí Phan Ngọc Lương, Phạm Lự, Tống Châu Khang, Trần Ngọc Quờn và các anh chị em khác đều rất khí phách, hiên ngang khi ra trước tòa án. Đặc biệt là đồng chí Phan Ngọc Lương đã vạch tội bọn Cộng Sản đối với dân tộc và dõng dạc tuyên bố "Cộng Sản là kẻ thù của Đại Việt nói riêng và của nhân dân Việt Nam nói chung." Cuối cùng Việt Cộng tuyên án tử hình các đồng chí Phan Ngọc Lương, Phạm Lự, Tống Châu Khang, Trần Ngọc Quờn, Huỳnh Lai, Nguyễn Ngọc Con, Phan Thiên Linh. Riêng nữ đồng chí Bùi Thị Cặn, người đặt chất nổ tại phòng Thông Tin Văn Hóa Huế thì đã cắn lưỡi tự tử tại lao xá Thừa Thiên để khỏi phải khai tên các đồng chí khi bị lũ công an Việt Cộng tra tấn dã man.

Ngoài ra, sự có mặt của một bộ phận đầu não của Đảng trong đó có đồng chí Chủ Tịch Đảng Hà Thúc Ký ở hải ngoại là yếu tố cơ bản để anh chị em đồng chí trong nước giữ vững niềm tin đồng thời cũng là nỗi lo lắng của Cộng Sản về một địch thủ đáng quan tâm trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Đảng đã có mặt tiên phong trong các cuộc vận động cho nhân quyền từ Hoa Thịnh Đốn đến Paris, Anh Quốc, Châu Âu, Nhật Bản, Thái Lan v.v..., dưới nhiều hình thức đấu tranh có tính cách ngoại vi như Mặt Trận Việt Nam Tự Do mà mục đích là đào tạo các hạt nhân cách mạng, kết nạp thêm đồng chí, tuyên truyền lý tưởng Quốc Gia, tổ chức các thành phần thanh niên, trí thức trong các cơ sở ngoại vi của Đảng với mục đích trẻ trung hóa guồng máy lãnh đạo Đảng và để chuẩn bị thế đấu tranh cho các thành phần lãnh đạo các cơ sở Đảng còn ở trong nước hay đang tìm ra hải ngoại.

Từ năm 1978 trở đi ở Hoa Kỳ đã có những hoạt động lẻ tẻ nhằm thăm dò xúc tiến việc thống nhất Đại Việt Quốc Dân Đảng và ngày 28-5-1988 đã có một cuộc họp giữa các đồng chí lãnh đạo cao cấp như các đồng chí Hà Thúc Ký, Bùi Diễm, Nguyễn Ngọc Huy, Đặng Văn Sung, Cung Đình Quỳ, Nguyễn Tôn Hoàn để quyết định từng bước thống nhất Đại Việt. Các nỗ lực trong thời gian sau đó, cụ thể là các cuộc họp trong năm 1993, công tác truyền thông như sự ra đời của Tạp Chí Đại Việt với các cây bút nòng cốt là các đồng chí Đại Việt Cách Mạng Đảng cũng không soi sáng triển vọng tốt đẹp cho sự kết hợp Đại Việt vì nhiều khác biệt do lịch sử tạo nên.

Kể từ năm 1990, các cán bộ của Đảng đã ra đi trong các diện vượt biên, đoàn tụ gia đình hay tị nạn chính trị (cựu tù nhân chính trị) đã lần lượt móc nối lại với Trung Ương ở Hoa Kỳ để rồi dần dần tổ chức lại các cơ sở Đảng theo từng địa phương cư ngụ. Đồng chí Hà Thúc Ký liên tục đi khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, sang Âu Châu nỗ lực xây dựng thêm nhiều cơ sở mới cùng sự phối hợp công tác của nhiều anh em đồng chí cũ.

Đầu năm 1995, do những khác biệt trong đường lối làm việc nên Đại Việt Cách Mạng Đảng đã chấm dứt sự cộng tác với Tân Đại Việt qua tổ chức Đại Việt Quốc Dân Đảng tái hình thành trong giai đoạn 1993-1994.

Ngày 30-4-1995, Tạp Chí Cách Mạng số 1 ra đời, diễn đàn dân chủ của Đảng, nhằm nói lên lập trường và quan điểm đấu tranh chính nghĩa của người quốc gia, chuẩn bị cho sinh hoạt mới của Đảng. Ngày 28-5-1995, trong Hội Nghị Trù Bị tổ chức tại Virginia, Hoa Kỳ, Trung Ương Đảng đã thảo luận việc tổ chức Đại Hội Toàn Đảng Kỳ III vào dịp Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) năm 1995 của Hoa Kỳ tại thành phố Houston, Texas. Sau hội nghị này, Nội San Sinh Tồn do Tổng Bộ Thường Vụ thực hiện cũng đã được ấn hành nhằm phản ảnh các sinh hoạt nội bộ của Đảng.

Trong hai ngày 24 và 25 tháng 11 năm 1995, hơn một trăm đồng chí đại biểu cho các cơ sở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, các quốc gia Âu Châu, đã về tham dự Đại Hội Toàn Đảng Kỳ III tổ chức tại khách sạn Plazza Inn nằm về hướng bắc thành phố Houston.

Trong thời gian tiền Đại Hội, ngày 23-11-95, các Đại Biểu đã duyệt xét chương trình nghị sự và các đề án công tác cần thảo luận góp ý. Trong hai ngày kế tiếp các Đại Biểu đã hoàn thành các công tác như sau:

1. Suy cử Đồng Chí Hà Thúc Ký trong chức vụ Chủ Tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng.

2. Đ/c Chủ Tịch Đảng thông báo trước Đại Hội về việc mời Đ/c Bùi Diễm trong Chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Và Giám Sát Trung Ương cùng một số Đ/c cao niên trong các chức vụ Ủy viên.

3. Đ/c Chủ Tịch Đảng đề cử một danh sách Ban Chấp Hành Trung Ương nhiệm kỳ 1995-1999 và Đại Hội đã biểu quyết chấp thuận.

4. Thảo luận và thông qua Đảng Quy, Cương Lĩnh, Tuyên Cáo Báo Chí; đề cử Ban Chấp Hành Trung Ương nhiệm kỳ 1995-1999, Hội Đồng Cố Vấn và Giám Sát Trung Ương; duyệt định một số đề án công tác liên quan đến việc phát triển cơ sở, xây dựng cộng đồng, công tác tài chánh, giới trẻ, quốc nội v.v...

Sự có mặt của ba thế hệ đảng viên trong Đảng gồm các đồng chí tiền bối lão thành trong giai đoạn 1939-1945, bên cạnh các đồng chí trung niên giai đoạn 1965-1975 cùng các đồng chí trẻ trong giai đoạn 1985-1995 chứng tỏ truyền thống cách mạng của Đảng được tiếp nối liên tục từ những bậc đàn anh đi trước đến các tầng lớp con em theo sau trong chủ đích xây dựng một nước Việt Nam Nhân Bản, Dân Chủ và Thịnh Vượng theo tinh thần cách mạng của ngọn đuốc Trương Tử Anh và chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn bất diệt.

Sự nghiệp lớn lao đó đòi hỏi nhiều hy sinh và nỗ lực tối đa của mọi tầng lớp cán bộ, đảng viên Đại Việt trong giai đoạn lịch sử mới.

Trích từ: daiviet.org
    CÁO PHÓ

    Gia đình chúng tôi trân trọng báo tin cùng Thân Bằng Quyến Thuộc và Bạn Hữu xa gần:
    Chồng, Cha, Ông của chúng tôi là :

    Cụ HÀ THÚC KÝ

    đã từ trần ngày 16 tháng 10 năm 2008 (nhằm ngày 18 tháng 9 âm lịch năm Mậu Tý) tại Bệnh viện Holy Cross, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ, hưởng thọ 89 tuổi.

    Linh cửu được quàn tại Hines-Rinaldi Funeral Home, 11800 New Hampshire Avenue, MD 20904.

    Điện thoại (301) 622-2290.

    Tang lễ sẽ được cử hành từ 2 đến 5 giờ chiều (PM) ngày Thứ Bảy 25 tháng 10 năm 2008.

    Bà Quả Phụ: HÀ THÚC KÝ nhũ danh TÔN NỮ OANH

    Trưởng Nam: HÀ THUC TRÍ, Vợ và Con

    Thứ Nam: HÀ THÚC KHÁNH, Vợ và Các Con

    Thứ Nam: HÀ THÚC TUẤN

    Thứ Nam: HÀ THÚC HIỀN

    Trưởng Nữ: HÀ LỆ THÚY

    Thứ Nữ: HÀ DIỆP HƯƠNG, Chồng và Các Con

    Thứ Nữ: HÀ NGUYỆT THU, Chồng và Con

    TANG GIA ĐỒNG KHẤP BÁO
    CÁO PHÓ NẦY THAY THẾ THIỆP TANG
    XIN MIỄN PHÚNG ĐIẾU

Đồng bào Úc châu biểu tình phản đối VC Nguyễn tấn Dũng tại Canberra và Melbourne

Ngọn lửa đấu tranh bừng sáng Úc châu
http://www.vietland.net

Vào lúc 10.30 sáng thứ hai 13/10/2008, gần 2000 đồng hương từ khắp các tiểu bang đã quy tụ trước tiền đình quốc hội Úc ở Canberra để biểu tình phản đối thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân chuyến công du hai ngày của ông tại Úc châu để xin tiền viện trợ ngoại bang. Rừng cờ vàng ba sọc đỏ phất phới bay trong gió cùng với những biểu ngữ lên án nhà cầm quyền CSVN chà đạp tự do dân chủ nhân quyền, dâng hiến đất đai của tổ tiên cho quan Thầy Trung quốc là nói lên quyết tâm của người Việt tỵ nạn CS kiên trì đấu tranh vạch mặt tội ác và sự lừa đảo của CSVN trước quốc tế. Đồng thời cũng đệ đạt lên chính phủ Úc nguyện vọng chính đáng của người dân Úc gốc Việt, yêu cầu họ phải áp lực CSVN thực thi dân chủ nhân quyền để được nhận viện trợ.

Sau phần nghi lễ chào cờ mặc niệm và chào mừng quan khách, ông Lê Công, Phó Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu tuyên bố khai mạc. Ông Công cho biết mục đích của cuộc biểu tình này không phải là để phản đối chính phủ Úc trong việc viện trợ nhân đạo” xoá đói giảm nghèo” cho Việt Nam mà là yêu cầu chính phủ Úc phải dùng sự viện trợ này để áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền và phải chấm dứt những hành động khủng bố đàn áp người dân để được nhận viện trợ.

Thượng nghị sĩ Garry Humphry cũng đồng quan điểm trên. Ông nói: “Chúng ta không chấp nhận viện trợ cho CSVN nếu những vi phạm về nhân quyền không có sự cải thiện và chấm dứt”. Ông cũng cho biết, ông sẽ đưa ra tất cả những yêu cầu của cuộc biểu tình hôm nay tại cuộc họp tại quốc hội trong vài phút để buộc Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn CSVN phải thực thi trước khi quyết định viện trợ nhân đạo “xoá đói giảm nghèo” cho Việt Nam.

Tiếp theo đó, ông Nguyễn Thế Phong chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc châu cho rằng trước những sự kiện chà đạp nhân quyền ngày càng gia tăng như xuất cảng phụ nữ , trẻ em, công nhân ra nước ngoài để làm nô lệ, chà đạp tôn giáo, v.v... thì cuộc viếng thăm nước Úc cuả Nguyễn Tấn Dũng là một cuộc viếng thăm nhục nhã.

Sau đó, dân biểu Kingston cũng chia sẻ sự quan tâm về sự chà đạp tự do tín ngưỡng và nhân quyền ở Việt Nam. Ông cho biết, “ Tôi sẽ cố gắng khuyến cáo chính phủ Úc tạo những áp lực để CSVN phải thực thi một sự tự do, dân chủ thực sự theo xu hướng nhân bản trong thế giới văn minh hiện nay”.

Tiếp theo là lời phát biểu của Luật sư Võ trí Dũng. LS Dũng đã mạnh mẽ lên tiếng kết tội sự ươn hèn của CSVN trước sự kiện Trung Quốc xâm chiếm Trường Sa Hoàng Sa cũng như gần đây nhất Nguyễn tấn Dũng đã ra lệnh đàn áp dã man và gây thương tích cho nhiều giáo dân trong những cuộc cầu nguyện đòi công lý và hoà bình tại giáo xứ Thái Hà và Toà Khâm Sứ Hà Nội... Ls Dũng cho hay: “Hôm nay chúng ta tụ tập tại đây yêu cầu Thủ tướng và chính phủ Úc phải lưu tâm đến vấn đề nhân quyền và các giá trị nhân bản trong mối bang giao với CSVN”. Ông Dũng cũng cho biết, chúng ta yêu cầu chính phủ Úc áp lực CSVN “Phải chấm dứt những hành động đàn áp dã man đối với những người đấu tranh đòi dân chủ trong nước, với những giáo dân vô tội tại Tổng Giáo Phận Hà Nội”.

Kế tiếp là lời phát biểu của bác sĩ Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch Cộng Đồng NVTD Queensland. Thay vì đi đúng mục tiêu của cuộc biểu tình thì Bs Cường lại xử dụng diễn đàn để quảng cáo cho thành phần du sinh hầu binh vực cho quan điểm của ông ủng hộ du sinh trong một hội chợ được sự bảo trợ từ Toà Đại Sứ CSVN tại Úc mang tên ”Taste Việt Nam ” đã gây sự phẫn nộ lớn trong cộng đồng người Việt Queensland trong thời gian gần đây. Trước sự la ó phản đối của đoàn biểu tình, Ban Tổ Chức đã mời BS Cường đi xuống khán đài nên không có một hành động đáng tiếc nào xẩy ra. Sau khi mời Bs Cường xuống khỏi khán đài, ông Lê Công cũng nhắc nhở đồng hương trong cuộc đấu tranh hiện tại là :“Chúng phải dập tắt những điếu thuốc đang cháy, trước khi nó trở thành một đám cháy rừng”.

Tiếp theo sau, ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc chủ tịch CDNVTD Nam Úc cũng lên án sự chà đạp nhân quyền của CSVN và yêu cầu chính phủ Úc phải đặt nặng vấn đề nhân quyền và tự do của VN trong bang giao.

Dưới lăng kính của một người tù và tỵ nạn, ông Võ Đại Tôn cho biết: “Sự tự do và dân chủ không thể tự nhiên mà có, mà phải chính bàn tay con người đấu tranh để giành lấy”. Vì thế những người Tỵ nạn Việt Nam đến đây không phải để hưởng thụ sự tự do, dân chủ cho bản thân, mà phải tranh đấu đòi lại dân chủ tự do cho toàn quê hương Việt Nam”.

Trong phần phát biểu của các vị đại diện các tôn giáo, Linh Mục Nguyễn Khoa Toàn, Tuyên Úy trưởng Cộng Đồng Công Giáo VN/ NSW, cũng lên tiếng phản đối CSVN chà đạp tự do tín ngưỡng và nhân quyền. LM Toàn cũng cho biết rằng Cộng đồng Công giáo VN tại Tổng Giáo Phận Sydney hôm nay, một lần nữa hiệp thông với đồng hương tại Úc Châu và tất cả đồng bào tại quê nhà cũng như tất cả những người yêu chuộng tự do, công lý, cực lực lên án và tố cáo trước dư luận thế giới và đồng thời đòi buộc CSVN phải chấm dứt lập tức những hành vi tàn ác, dã man này. Cộng đồng Công giáo cương quyết khẳng định rằng: “Sẽ không có công lý đích thực khi nhân quyền bị chà đạp, quyền tự do tín ngưỡng bị tước đoạt, khống chế. Cộng đồng Công Giáo VN sẽ luôn sát cánh với tất cả các công cuộc đấu tranh để cất lên tiếng nói cho những người không còn tiếng nói, sẽ hết lòng đấu tranh cho công lý và hoà bình cho khắp mọi người trên toàn thế giới trong đó có đồng bào chúng ta tại quê nhà”.

Thượng toạ Thích Quảng Ba cũng lên tiếng kết án chế độ CSVN đã đàn áp dã man tôn giáo và Phật giáo không chấp nhận chế độ toàn trị CSVN.

Hai ông Nguyễn Văn Paul đại diện cho Phật giáo Hoà Hảo Úc Châu và Nguyễn Văn Bán, đại diện Cao Đài giáo tại NSW đều lên án những hành động buôn dân bán nước và đàn áp tôn giáo của CSVN và đều xác nhận Phật giáo Hoà Hảo cũng như Cao Đài nguyện sát cánh cùng đồng bào trong mọi cuộc đấu tranh đòi lại tự do, dân chủ cho dân tộc cho đến khi quê hương thực sự có tự do và dân chủ.

Sau cùng, đoàn biều tình di chuyển đến khách sạn Hyatt, nơi phái đoàn của Nguyễn Tấn Dũng họp báo và nghỉ ngơi, du hí. Đoàn biểu tình đã giải tán ra về vào lúc 14 giờ cùng ngày.

Ngoài ra trước khi đem báo đi in, tòa soạn cũng vừa nhận được một tin vui phấn khời liên quan đến cuộc biểu tình của cộng đồng người Việt Tự do tại Melbourne vào sáng thứ ba ngày 14/10/ 2008 trước tiền đình quốc hội Melbourne đã thành công ngoài dự tính với sự tham dự của hơn 1000 đồng hương. Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa phải đi cửa hậu để tránh né đoàn biểu tình và rừng cờ vàng ba sọc đỏ "dàn chào" phản đối ông ta. Hơn 1000 truyền đơn phát cho người qua đường đã hết nhanh trong vòng 1 giờ đồng hồ.

Xem hình:

http://www.vietnamdaily.com
http://nguoivietquocgia.blogspot.com

Không biểu tình chống lãnh tụ Việt Cộng mới là chuyện lạ


Nguyễn Ðạt Thịnh


Mấy năm nay tôi loay hoay tìm lời giải đáp cho câu hỏi tôi tự đặt cho tôi, “nguyên nhân nào khiến bọn lãnh tụ Việt Cộng thích đi công tác quốc ngoại?”. Tôi thấy hiện tượng này quái dị ở điểm mỗi lần đi ra ngoài, nhất là đi về phía những quốc gia tự do trên thế giới là mỗi lần chúng mang nhục. Vậy mà chúng vẫn cứ đi.

Chúng đã đến Pháp, đến Hoa Kỳ, đến Nhật, và mới đây nhất, Nguyễn Tấn Dũng đến Úc, rón rén như một tên trộm. Tôi hình dung giả thuyết Dũng đi trong tầm đạn cà chua nát, trứng thối mà nghe thương hắn. Tôi nghĩ hắn cũng ý thức được là người Việt hải ngoại không từ nan bất cứ giá nào để trừng trị hắn.

Vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ Ba 14 tháng Mười 2008, hàng ngàn người Việt và Úc xuống đường biểu tình tại Melbourne mặc dù giờ đó, ngày đó không phải là ngày, giờ nghỉ; ở quốc ngoại, một cuộc tập họp đông đảo vào ngày giờ làm việc là bất thường, nhưng việc bất thường này không làm giới truyền thông quốc tế tại thành phố Sydney kinh đô Úc Châu ngạc nhiên. Họ không vào nghề hôm qua.

Các nhiếp ảnh viên, điện ảnh viên, phóng viên thuộc đủ mọi quốc tịch chuẩn bị, chờ đợi để quay phim, chụp hình, và viết bài về hiện tượng thêm một nguyên thủ nữa của Việt Cộng đi đến đâu cũng bị người Việt Nam sống tại đó chửi rủa thậm tệ. Ðề tài phóng sự của họ không còn là cuộc thăm viếng Úc Châu của nguyên thủ một quốc gia Á Châu nữa, mà là việc Nguyễn Tấn Dũng bị đồng bào của ông ta “dàn chào” phẫn nộ đến mức nào.

Hãng thông tấn AFP tường thuật việc người Việt Úc Châu gọi Dũng là một tên "criminal and murderer" (tội phạm và sát nhân). Hai chữ này có nặng nhưng lại không ai đính chánh được; Dũng có là criminal và cũng có làm việc murder.

Người biểu tình được tin “tình báo” cho biết Dũng sẽ xuất hiện tại đường Collins khu vực trung tâm thành phố Melbourne vào lúc 11 giờ sáng. Từ 10 giờ đông đảo người biểu tình đã có mặt trong khu này, khu đa số kiến trúc được sử dụng làm công sở.

Cảnh sát Úc không chỉ làm công việc giữ trật tự, họ còn kín đáo hướng dẫn người biểu tình tuần hành trên đường phố Melbourne đến đúng phóc building số 45 đường Collins.

Những biểu ngữ “trả tự do ngay cho các chiến sĩ dân chủ”, và “ngưng xử hai ký giả chống tham nhũng,” dài hàng 20 phít ngạo nghễ như những thách đố tay đồ tể Việt Cộng. Người biểu tình quát vang bằng tiếng Việt, tiếng Anh, “Freedom of Religions”, “now, now.” Và “Ngưng tấn công giáo dân ôn hòa cầu nguyện”, … “ngưng ngay”, “ngưng ngay”.

Khí thế sôi sục căm hờn của người Úc gốc Việt biểu tình, và kinh nghiệm nhiều cuộc dàn chào đầy phẫn nộ của người Việt hải ngoại tại những nơi khác khiến Dũng không đi cửa trước mặc dù cảnh sát có thể bảo vệ ông không bị người biểu tình tấn công.

Cẩn tắc vô áy náy, Dũng cam phận đi ngã sau cho an toàn.

Rừng cờ vàng uy nghi phần phật trước gió, có lần đã làm Nguyễn Minh Triết bị dị ứng, xây xẩm mặt mày chạy từ ven biển Ðông sang ven biển Tây Hoa Kỳ mà vẫn chưa hết chóng mặt; Dũng cũng đã nếm mùi “dị ứng cờ vàng” tại Houston, mới vài tháng trước đây.

Ðể hành hạ tôi, câu hỏi đổi dạng thành câu “biết nhục như vậy tại sao bọn lãnh tụ Việt Cộng cứ xưng xưng vác mặt đi ngoại quốc để làm gì?”

Chúng hy vọng những mánh khóe rẻ tiền của chúng sẽ mua chuộc được “khúc ruột ngàn dậm” đoái thương chúng ư?

Lần sang Hoa Kỳ, Nguyễn Minh Triết đem làm quà cho người Việt hải ngoại cái “đặc ân” về nước không cần visa; miếng mồi nhỏ hơn cái lưỡi câu khiến món quà bị chế diễu rồi nhanh chóng bị bỏ quên ngay trước ngày Triết lên máy bay về nước.

Lần này món quà của Dũng đem qua Úc là hắn tha chết cho hai tử tội người Việt Úc Châu, bà Jasmine Lương, 34 tuổi, bị bắt ở Tân Sơn Nhất hồi tháng Hai năm ngoái trong lúc chuẩn bị đi Sydney với kí rưỡi heroin giấu trong giày và hành lý, người thứ nhì thoát chết là ông Tony Mạnh, 40 tuổi, bị kết án tử hình hồi tháng Chín năm 2007 vì mang lậu gần một kg ma túy về Úc.

Dĩ nhiên người Việt Nam không thích án tử hình giết những người Việt Nam khác, nhưng họ cũng không có thiện cảm với những người buôn lậu ma túy, nên trò tấn ơn, tấn nghĩa của Dũng cũng chỉ có kết quả vầy vậy thôi.

Dũng không làm hơn được, anh chỉ là anh hề một màn của tấn bi, hài kịch nhiều màn Việt Cộng đang trình diễn trên quê hương chúng ta.

Anh thừa biết người Việt Úc Châu sẽ reo lên hoan hô anh, nếu anh ngỏ lời công khai xin lỗi tổng giám mục Ngô Quang Kiệt về việc Việt Cộng cắt xén lời TGM để xuyên tạc ý nghĩa câu ông nói vào mặt chính quyền thành phố Hà Nội.

Dù có biết câu nói đó đúng, Dũng vẫn không nói được. Và anh ta vẫn làm tôi thắc mắc không hiểu anh đi Úc làm gì cho mang nhục.

Nguyễn Ðạt Thịnh


Mặt Trận Tổ Quốc Hay Tổ Cò?

Phạm Trần

Nông Đức Mạnh: “Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc vào chủ nghĩa cá nhân… suy thoái đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu.”

Hoa Thịnh Đốn - Luật Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) của đảng Cộng sản Việt Nam đã có hiệu lực từ 9 năm qua, nhưng qua thời gian Tổ chức chính trị – xã hội này đã chứng minh nó chỉ là thứ vô dụng đối với dân nhưng lại tích cực đóng góp vào việc bảo vệ chế độ dựa trên nền tảng quan liêu, tham nhũng và lãng phí.Luật 18 Điều ra đời ngày 12 tháng 6 năm 1999 quy định Tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có nhiệm vụ: “Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.” (Điều 2)Nhưng quan trọng hơn là trách nhiệm của MTTQ đối với dân được nói rõ trong Điều 12 gồm các việc như:

1- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.

2- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây:

a. Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát;

b. Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực

c. Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật.” Nhưng trong thực tế, những trách nhiệm quan trọng này chưa bao giờ được thực hiện có hiệu qủa, vì các lý do sau đây:

i. Mặt trận không có quyền quyết định mà chỉ được “góp ý, kiến nghị” với Nhà nước, với Đảng.

ii. Cán bộ Mặt trận chỉ biết “bẩm, thưa, trình” nên không ai coi ra gì.

iii. Ngân sách hoạt động của Mặt trận do Chính phủ chu cấp mỗi năm thuộc chế độ “xin cho” nên luôn luôn bị ám ảnh “há miệng mắc quai”, không dám làm ai mất lòng, lúc nào cũng làm theo hệ thống có trên có dưới, người cùng tổ chức, nay người mai ta, nể nang, xí xóa, dĩ hòa vi qúy cho “vui cửa vui nhà” hay “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.Do đó những nhóm chữ “có tiếng nhưng không có miếng” như “giám sát, kiểm tra, thanh tra” ghi trong Luật Mặt trận đều là thứ dổm cả.Nhưng không chỉ có Mặt Trận, cơ chế chỉ biết ăn mà không làm được gì cho dân mới ngất ngư như thế. Ngay đến Ngành Kiểm tra Đảng của Trung ương do Nguyễn Văn Chi, Uy viên Bộ Chính trị giữ chức Chủ nhiệm cũng đã phải bó tay trước những thói hư, tật xấu, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và suy đồi phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng đã phê bình những yếu kém này trong Lễ kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống của Ngành Kiểm tra diễn ra tại Hà Nội ngày 14-10 (1008): “Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện, mắc vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, suy thoái đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu. Vẫn còn một bộ phận cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm; một số tổ chức đảng yếu kém, thiếu chăm lo quản lý và giáo dục đảng viên, buông lỏng kỷ luật, giảm sút tính chiến đấu, nội bộ mất đoàn kết, không làm tròn vai trò hạt nhân lãnh đạo.

Thực tiễn đó đòi hỏi đảng phải tăng cường kiểm tra, coi công tác kiểm tra và việc giữ gìn kỷ luật của đảng là nhiệm vụ của toàn đảng.”

Tưởng như thế đã đủ, nào ngờ cả Cơ quan lo về cán bộ của đảng cũng “lâm nguy” như lời tự thú của Hồ Đức Việt,Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trong Bài viết đăng trong Tạp chí Xây Dựng Đảng số Tháng 10 (2008): “Công tác cán bộ vẫn chưa theo kịp với đổi mới kinh tế và phát triển của xã hội. Mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, nhất là chế độ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ chưa được quy định rõ. Nhiều khuyết điểm, yếu kém vốn có trong công tác cán bộ đã được nêu nhiều lần trong các văn kiện của Đảng nhưng chậm được khắc phục và còn nhiều bất cập, nhất là về đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Chưa kiên quyết và thiếu quy chế có hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ nhằm kịp thời thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc yếu kém về phẩm chất và năng lực. Chiến lược công tác cán bộ vẫn chậm cụ thể hóa và triển khai một cách đồng bộ, toàn diện. Chưa chăm lo đúng mức đến việc tạo nguồn cán bộ cơ bản và lâu dài. “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ, thống nhất về công tác cán bộ; chưa làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ. Vẫn còn biểu hiện vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương, dân chủ hình thức, tập trung quan liêu, kỷ luật lỏng lẻo, chấp hành nghị quyết không nghiêm, thậm chí có nơi có biểu hiện cục bộ địa phương, hẹp hòi, định kiến, thiếu công tâm, khách quan trong công tác cán bộ, làm giảm niềm tin và động lực của cán bộ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ và cơ quan tham mưu về công tác cán bộ cũng như công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ trong hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, còn thiếu đồng bộ giữa các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bố trí và sử dụng cán bộ.” Như thế thì làm sao mà Mặt trận Tổ quốc có thể “giám sát” được đảng và “thanh tra” được cán bộ đảng khi còn xè tay xin tiền Chính phủ ?Phản ảnh về tình trạng này, Lê Hiếu Đằng phó Chủ tịch MTTQ Thành Phố Hồ Chí Minh phát biểu sau khi có đề nghị nên bổ sung những thiếu sót của Luật Mặt trận năm 1999 : “ Hiện nay, MTTQ hoạt động dựa vào kinh phí được cấp. Trong luật (mới nếu có) nên xác định rõ hệ thống tài chính riêng cho MTTQ. Từ chỗ độc lập về tài chính, MTTQ mới có sự độc lập tương đối về vai trò, vị trí.” (Báo Điện tử VietNamNet, 24/03/2008)Đằng còn bộc bạch về công tác hiện nay của Mặt trận : “Vì những người làm công tác MTTQ còn ngại đụng chạm đến chính quyền. MTTQ ở cấp cơ sở hoàn toàn phụ thuộc vào cấp uỷ Đảng, chính quyền. Hoạt động MTTQ ở đây chủ yếu là từ thiện. Mặt khác, có những ý kiến tâm huyết đã không được tiếp thu. Các nhân sỹ, trí thức thấy ý kiến của mình không có tác dụng nên không nhiệt tình đóng góp. Ngay ở cấp MTTQ TP, có nhiều khối tư vấn không hoạt động. Hiện nay, công tác MTTQ phụ thuộc vào rất nhiều vào cấp uỷ Đảng, cái gì cũng phải xin ý kiến. MTTQ cần hành động dựa trên pháp luật chứ không theo ý kiến một vài cá nhân có chức, có quyền. Sự lãnh đạo của Đảng, biểu hiện ở mức cao nhất, vẫn là sự tôn trọng pháp luật. Vấn đề là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của MTTQ, tạo hành lang cho MTTQ hoạt động.” Cũng nên biết Lê Hiếu Đằng là một trong số sinh viên họat động cho Cộng sản chống chiến tranh và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong thập niên 1970 tại Sài Gòn.Chua chát hơn, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Đỗ Duy Thường còn nói với VietNamNet ngày 25-03-2008: “ Đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến MTTQ rất nhiều, nhưng MTTQ chỉ có quyền "kính chuyển" bởi pháp luật quy định thẩm quyền của MTTQ chỉ dừng ở đó. Chiếc áo của Mặt trận được quy định trong Luật đã quá chật rồi, chính vì thế phải sửa một số điểm nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận, giảm tính hình thức và hành chính trong hoạt động". VNNET trích lời Đỗ Duy Thường nói tiếp : “ Thực tiễn hiện nay rất gò bó, giám sát của MTTQ mới chỉ dừng ở cấp cơ sở, xã, phường, thị trấn chứ chưa đến cấp huyện, tỉnh, trung ương.….MTTQ tham gia xây dựng pháp luật, nhưng kết quả còn rất hình thức, tham gia góp ý nhưng không biết Nhà nước có tiếp thu hay không…Luật MTTQ ban hành đã được 9 năm, nay trước tình hình mới, cần sửa đổi theo hướng thúc đẩy đổi mới phương thức hoạt động và phương thức tổ chức của MTTQ, khắc phục những yếu kém, đặc biệt là tình trạng thụ động, hành chính hóa hiện đang còn rất nghiêm trọng".

LÀM CHỦ HAY LÀM TÔI?

Ngoài những chữ vô nghĩa và kêu to như lệnh vỡ ghi trong Luật Mặt trận, có lẽ sẽ thiếu sót nếu không nói đến bổn phận bề tôi của Tổ chức này đối với đảng như được ghi trong Điều 7, theo đó: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách, pháp luật với các nội dung sau đây:

1- Tham gia tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

2- Phối hợp, tham gia với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội;

3- Tham gia với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp tổ chức vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn nhân dân xây dựng hương ước, quy ước về nếp sống tự quản ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, cộng đồng dân cư khác ở cơ sở phù hợp với pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân;

4- Tham gia hoạt động hoà giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về hoà giải;

5- Tổng hợp, nghiên cứu ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.”Nếu qủa thực 9 năm qua mà Mặt trận Tổ quốc giúp được dân có quyền làm chủ đất nước thì làm gì còn chuyện cá lớn nuốt cá bé, cán bộ hành dân nhiều hơn là kẻ “đầy tớ, công bộc” của dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí hàng ngàn tỷ bạc của các chương trình xây dựng cơ bản cũng nhờ vào quyền làm chủ của dân mà giảm đi nhiều.Nhưng thực tế đã chứng minh Mặt trận chỉ là chiếc bình phong hay lá chắn đã mục rữa trước Quốc nạn tham nhũng, tình trạng xuống cấp của cán bộ, đảng viên và không có khả năng đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi bức thiết trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Các vụ khiếu kiện của dân kéo dài từ thôn quê ra thành phố và các cấp chính quyền từ dưới lên trên cứ “đánh bùn sang ao”, đùn đẩy, ngâm tôm khiến nhân dân bất bình là một bằng chứng vô hiệu và bất lực lực của Mặt trận Tổ quốc.Ngược lại MTTQ đã chứng minh họ rất đắc lực và thành công trong công tác được đảng giao phó bằng Luật định để giúp đảng chọn các “ứng cử viên” cho dân bầu vào Hội đồng Nhân dân và Quốc hội. Ngoài các thành tích ở đơn vị hay địa phương, những người được MTTQ chọn làm ứng cử viên phải ưu tiên hội đủ hai điều kiện căn bản là: đảng viên trung thành với đảng và ủng hộ chủ trương kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.Một khi đã được Mặt trận chọn thì người ứng cử sẽ có đến 90 phần trăm cầm chắc thắng cử nên các cuộc bầu cử của CSVN, tuy gọi là trực tiếp nhưng lại hóa ra gián tiếp và vô nghĩa theo cách sắp xếp “đảng cử dân bầu” !

Cách chọn này được Luật Mặt trận gọi bằng danh từ hoa mỹ “hiệp thương” như ghi trong Điều 8 của Luật Mặt Trận: “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, theo quy định của pháp luật về bầu cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử; phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan tổ chức Hội nghị cử tri ở nơi cư trú, các cuộc tiếp xúc giữa cử tri với những người ứng cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật về bầu cử; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.”Như vậy thì có cần phải hỏi MTTQ phục vụ cho quyền lợi của dân hay của đảng, hay có cần phải thắc mắc tổ chức này là Mặt Trận Tổ Quốc hay Tổ Cò mà sao giữa nói và làm khác nhau đến thế ?Nhưng khi cả hệ thống đã nát thì dù có tu chính Luật cũng không thay đổi được tính bù nhìn của Mặt trận Tổ quốc.

Phạm Trần