Sunday, August 10, 2008

Bí mật của điều bốn hiến pháp


Trần Thanh
(Kể chuyện Trạng Quỳnh* thời xưa và thời nay)

Vào chuyện ....

Ở vùng nọ có một ông quan rất tham nhũng, tục gọi là Quan Hách, trên thì đội, dưới thì đạp cho nên người dân căm ghét vô cùng. Một hôm Trạng Quỳnh đi giang hồ, nghe câu chuyện than vãn của người dân thì Trạng nói:

- Quý vị đi tìm cho tôi một cái tráp* thiệt sang, thiệt đẹp rồi đi bắt cho tôi khoảng 200 con cào cào , tôi sẽ dạy cho thằng Hách một bài học!

Người dân vốn đã biết tiếng chơi nghịch của quan Trạng, đến vua chúa trong triều đình mà Trạng Quỳnh còn dám vuốt râu hùm thì xá gì cái ông quan ở tỉnh lẻ này. Thế là họ hè nhau đi bắt cào cào thật nhiều, đem về nộp cho Trạng Quỳnh, còn cái tráp thì họ cày cục đi mượn nơi một đại phú gia trong vùng. Thế là có đủ đồ nghề để nộp cho Trạng. Lúc đó quan Trạng vẫn đang tà tà giăng võng nằm dưới gốc cây mà nhậu thịt chó chấm với mắm tôm. Rượu đã hơi ngà ngà, bỗng quan Trạng cao hứng gọi mấy người dân:

- Nè, tụi bay có biết nhà nào có trồng me với soài không? Hái cho tao một ít. Sao tự nhiên tao thèm đồ chua quá!

Đám dân đen đang ngồi bu quanh coi Trạng Quỳnh nhậu thịt chó, nghe quan Trạng hỏi thì họ hơi ngỡ ngàng. Ai lại nhậu thịt chó với me và soài bao giờ? Công thức cổ truyền là lá húng, củ giềng, đậu phộng và lá mơ chớ? Thắc mắc vậy thôi chớ không ai dám hỏi mà đồng lòng chạy túa đi khắp làng và chỉ một lát sau thì họ mang về hàng rổ me chín lẫn me sống và soài. Sau khi thấy mọi "đồ nghề" đã chuẩn bị xong thì quan Trạng tiếp tục màn nhậu rượu đế với me và soài ..... Khoảng vài tiếng đồng hồ sau thì quan Trạng nghe bụng dạ muốn "biểu tình", thế là quan điềm nhiên mở cái tráp rất sang trọng ra và xổ luôn .... vào đó ....tất cả những gì mà "ngài" đã nạp vào trong bụng trong suốt mấy tiếng đồng hồ qua! Đám dân đen đứng vây quanh há hốc mồm kinh ngạc. Có kẻ sợ chết điếng người vì đó là cái tráp rất đắt tiền của ông phú hộ trong vùng! Sau khi thực hiện xong một trong những "đệ tứ khoái" thì quan Trạng bảo đám dân đen:

- Tụi bay bỏ hết toàn bộ con cào cào vào cái tráp này, rồi đạy nắp lại. Nhớ đừng cho con nào bay khỏi nghe chưa!

Đám dân đen nhất loạt vâng lời. Sau đó quan Trạng cởi bỏ chiếc áo dài "quan" ra và nói:

- Đứa nào cho tao mượn bộ quần áo nông dân coi, rách rưới càng tốt!

Thế là sau khi thay đổi y phục và lấy một ít lọ nồi xoa lên mặt cho lem luốc thì Trạng Quỳnh đã biến thành một anh nông dân, coi y như thiệt! Trạng nói:

- Tụi bay đi theo tao nhưng chỉ được đứng đàng xa mà nhìn thôi nghe chưa. Cấm không được tiết lộ bí mật, thằng nào nói làm xàm là tao chém đầu!

Quan chỉ dọa chơi thôi cho vui, chớ quan đi giang hồ không bao giờ thèm đem theo gươm và lính hầu, chỉ mặc có một chiếc áo dài đen, cắp một cái dù và đôi guốc! Trạng Quỳnh lễ mễ bưng cái tráp đựng .... cứt chảy của mình đến gần phủ quan tổng đốc, đứng cách cổng quan khoảng 50 mét, chờ đợi. Ông biết quan có thói quen đến chiều là cỡi ngựa, đi dạo mát quanh vùng, "thăm dân cho biết sự tình" và xem thử có cô gái đẹp nào thì bắt về làm nàng hầu. Quả nhiên đến xế chiều thì người ta thấy quan cỡi ngựa đi ra khỏi phủ, theo sau có nửa tiểu đội lính theo hầu. Lúc ấy Trạng Quỳnh bèn trịnh trọng bưng cái tráp cứt đi bộ thật chậm, đi ngược chiều về phía quan nhớn. Vẻ mặt của Trạng làm ra vẻ rất căng thẳng, rất hồi hộp như sợ làm rớt cái tráp quý giá, trong đó có vô số kim cương, vàng bạc. Thấy vẻ co ro, cóm róm của một anh nhà quê nghèo mà lại bưng một cái tráp rất đẹp bằng gỗ quý có khảm xà cừ thì quan nhớn buộc lòng phải chú ý. Quan bèn trỏ cây quạt về phía Trạng Quỳnh và lên tiếng hách dịch:

- Này thằng kia, mày có thấy quan nhớn đây không?

Lúc ấy Trạng Quỳnh làm bộ cứ đi, cúi gầm đầu, nhìn xuống dưới đất nên không trông thấy núi Thái Sơn đang ở ngay trước mặt. Nghe tiếng quan hỏi, Trạng ta lại làm bộ sợ hãi, giật mình, hai tay vội ôm thật chặt lấy cái tráp, như thể sợ bị quan cướp lấy báu vật. Thấy tình trạng lấm lét của Trạng Quỳnh, quan nhớn càng thêm tò mò nên hỏi tiếp:

- Thằng kia, mày nghèo như thế mà tại sao mày lại có cái tráp đẹp như vậy? Có phải mày ăn cắp của đại phú gia nào hay không?

Trạng Quỳnh mặt tái mét, run lẩy bẩy, hai tay vẫn ôm thật chặt lấy cái tráp, ấp úng trả lời:

- Bẩm quan nhớn, cái tráp này là của ông cố nội con truyền lại đấy ạ!

Quan nhớn vẫn chưa hết tò mò:

- Ông cố nội mày tên là gì? Nói cho quan biết xem nào?

Trạng Quỳnh ấp úng:

- Bẩm quan, ông cố nội của con tên là Nguyễn Sinh Cun!

Quan chỉ tay vào cái tráp:

- Ở trong đó mày đựng cái gì thế, mở ra cho quan xem nào!

Trạng Quỳnh bèn quỳ xuống đất, hai tay ôm ghì thật chặt cái tráp vào người, giọng nói run rẩy, van xin:

- Bẩm quan, đây là điều hết sức bí mật, con không thể nói cho ai biết được!

Thấy thằng dân đen có ý muốn dấu diếm mình thì quan nhớn bỗng nổi giận. Quan quát lên:

- Mày đựng cái gì trong đó, nói cho quan biết mau! Nếu không quan sẽ chém đầu!

Nghe quan dọa chém đầu thì Trạng Quỳnh sợ quá, mếu máo khóc, nhưng tay vẫn ôm thật chặt cái tráp:

- Bẩm quan, quan đã dạy thì con xin thưa, chớ thật ra đây là của gia bảo của ông cố nội của con để lại. Ông cố nội dặn là không bao giờ được làm mất nó. Nếu để mất nó thì con sẽ chết!

Quan nhớn càng thêm tò mò, ông thúc dục:

- Nói mau, cái gì trong đó! Mày không nói tao chém đầu!

Trạng Quỳnh bèn nhìn thẳng vào mặt quan và nói bằng giọng hết sức trang trọng như một tín đồ ngoan đạo đang đọc kinh:

- Bẩm quan, nó .CHÍNH LÀ ĐIỀU BỐN HIẾN PHÁP đấy ạ!

Nghe thằng nhà quê nói xong, ông quan nhớn cứ ngẩn người ra. Mẹ kiếp "điều bốn hiến pháp là cái chó gì?" Hay là thằng này nó là người Mán, người Thái, người Mường, người Nùng, nó đang nói tiếng thổ dân của nó chăng, nên mình không hiểu? Thế là quan lại hạch sách:

- Thằng kia, mày nói lại cho quan nghe. Mày đựng cái gì trong đó?

Trạng Quỳnh vẫn khóc mếu máo:

- Bẩm quan, con đựng ĐIỀU BỐN HIẾN PHÁP ở trong đó!

Đến lúc này thì quan thực sự bực bội, nên quan quát lớn:

- Điều bốn hiến pháp là cái chó gì? Mẹ kiếp, BỐN LÙ thì có! Mở cái tráp ra cho tao xem!

Trạng Quỳnh quỳ mọp dưới đất, hai tay vẫn ôm chặt lấy cái tráp như vật bất ly thân, dập đầu đôm đốp lên mặt cái tráp, mếu máo nói:

- Bẩm quan, con không thể mở cái tráp này ra được. Nếu con mà mở ra, điều bốn hiến pháp nó sẽ bay mất. Ông cố nội của con đã dạy rằng NẾU ĐỂ MẤT ĐIỀU BỐN HIẾN PHÁP LÀ TOI MẠNG. Đó chính là TỰ SÁT!

Tuy nhiên cái đầu "thông minh" của quan nhớn lại nghĩ khác. Quan nghĩ thầm:

- "À, cái thằng nhà quê bố láo này nó muốn lừa gạt mình. Có lẽ nó đựng vàng bạc, kim cương hay châu báu gì ở trong tráp nên mới bịa chuyện ra là "điều bốn hiến pháp" sẽ bay mất! Điều bốn hiến pháp là cái chó gì? Từ thuở cha sanh mẹ đẻ, mình chưa bao giờ nghe nói về điều bốn hiến pháp! Mình đã học thuộc làu tứ thư, ngũ kinh, các sách thánh hiền của Khổng Tử, Mạnh Tử mà có thấy ai nói gì về "điều bốn hiến pháp" đâu? Hay là cái mà nó gọi là ĐIỀU BỐN HIẾN PHÁP chính là một loài chim gì rất quý như con Phụng Hoàng hay con RỒNG ĐỎ? Nếu không phải là loài chim thì tại sao thằng nhà quê này lại sợ nó bay mất? Đó chính là thế yếu của nó. Mày càng sợ hãi thì tao càng đòi cho chết mẹ mày luôn! Tao sẽ đánh đúng vào tử huyệt của mày thì mày sẽ chết, cho chừa cái tội dối gạt quan!

Sau khi dùng trí óc "thông minh" của mình để suy luận thì quan quyết định dứt khoát. Ngài xỉa cây quạt vào mặt Trạng Quỳnh và tuyên bố dõng dạc:

- Mày đặt cái tráp đó xuống đất. Đích thân tao sẽ khám xem cái tráp đó đựng cái gì! Chắc chắn là mày đã ăn cắp kim cương vàng bạc của ai đó rồi dấu trong cái tráp này. Quân lính đâu, trói thằng nhà quê này lại cho quan!

Trạng Quỳnh vội đặt cái tráp xuống dưới đất và chắp hai tay lạy quan như tế sao:

- Con lạy quan, con lạy quan, đừng có mở cái tráp ra. Quan mà mở ra thì điều BỐN HIẾN PHÁP NÓ SẼ BAY MẤT! Mất điều bốn hiến pháp là con tự sát!

Tuy nhiên, quan nhớn cóc cần nghe theo những lời khóc lóc, van xin của Trạng Quỳnh. Mày càng van xin thì tao càng tò mò, càng phải "đấu tranh" để coi cho được cái điều bốn hiến pháp nó là cái gì? Tại sao mất nó thì mày phải tự sát? Phải chăng nó là con chim Phụng Hoàng hay con Rồng Đỏ? Thế là quan nhớn nhảy phóc xuống ngựa, tiến đến gần cái tráp của Trạng Quỳnh để "đấu tranh" coi cho được "điều bốn hiến pháp". Còn Trạng Quỳnh thì đã bị hai tên lính lệ lực lưỡng tới xốc nách, trói tay nhưng Trạng vẫn cố la bai bải:

- Con lạy quan! Đừng có mở tráp quan ơi! Con đã nói trước cho quan biết rồi. Con không chịu trách nhiệm đâu nghe!

Thế là quan nhớn nhào tới ôm thật chặt cái tráp vào mình, với cặp mắt hau háu và lòng tham vô độ đang sôi sục như hỏa diệm sơn. Ngài tưởng tượng sau khi mở tráp ra thì sẽ thấy vô số vàng bạc, kim cương cùng một cặp chim Phụng Hoàng và con Rồng Đỏ, những con vật rất linh thiêng và rất quý vào thời đó: Long, Quy, Phụng. Nhưng hỡi ơi khi quan nhớn mở toang cái tráp ra thì hàng trăm con cào cào, mình dính đầy cứt chảy của Trạng Quỳnh vội bay ào ra! Quan nhớn vốn để râu tóc xồm xoàm cho nên bầy cào cào tưởng là một bụi tre, bọn chúng đều nhất loạt bu kín vào đầu và mặt của quan nhớn cùng khắp thân mình! Cứt chảy thối hoăng hoắc của Trạng quỳnh dính bê bết khắp người của quan, từ đầu xuống chân. Thử tưởng tượng thịt chó chấm với mắm tôm, hòa với me và soài thì khi ỉa ra thành cứt, mùi thối của nó khủng khiếp tới cỡ nào! Có thể nói mùi thối bay lên đến tuốt thiên tào! Lúc này quan nhớn đã té lăn ra đất, hai tay xua đuổi bầy cào cào lia lịa, miệng la rùm trời:

- Chếch teo rầu bay ơi. Lính đâu, béng béng chếch hếch mấy coong kèo kèo cho teo! Đù móa cái thèng nhà que, mày gẹc teo, teo sẽ chém đầu mày!
(Quan nhớn nói giọng Quảng Ngãi. Xin "phiên âm" lại như thế này cho dễ hiểu: - Chết tao rồi bay ơi. Lính đâu, bắn chết hết mấy con cào cào cho tao! Đù má cái thằng nhà quê, mày gạt tao, tao sẽ chém đầu mày!)

PHẦN BÌNH LUẬN:

Qua câu chuyện dân gian nêu trên, chúng ta rút ra được hai điều:

1. - Gợi lòng tham và gợi trí tò mò của kẻ địch.
- Việt cộng đã dùng "gậy trạng quỳnh" để đập chúng ta.


Đây là độc chiêu mà Trạng Quỳnh đã dùng để hạ đo ván tên tham quan. Vật mà Quỳnh dùng để gợi lòng tham, chính là cái tráp đắt tiền, sơn son thiếp vàng có khảm xà cừ. Một vật có hình dáng bề ngoài sang trọng như vậy thì bên trong ắt hẳn nó phải chứa kim cương, ngọc ngà, châu báu, chớ quan đâu có ngờ là nó chứa .... cứt chảy của Trạng Quỳnh! Cái tráp chính là cái mồi nhử cho tên tham quan chú ý, lao đầu vào. Trạng Quỳnh lúc ấy đã hóa trang thành anh nông dân nhà quê thì đâu có gì hấp dẫn cho tên tham quan chú ý!

Gợi trí tò mò: Trạng Quỳnh đã diễn xuất rất đạt: lúc nào ông ta cũng làm ra vẻ lo sợ, hai tay ôm thật chặt cái tráp. Điều này làm cho tên tham quan càng suy diễn, bên trong cái tráp ắt hẳn là có chứa đựng vật gì rất quý! Thêm vào đó, khi trả lời tên tham quan, Trạng Quỳnh lại dùng nhóm chữ rất bí hiểm "điều bốn hiến pháp" và Trạng cho biết nếu để điều bốn hiến pháp mà bay mất thì Trạng sẽ phải tự sát! Càng bí hiểm thì tên tham quan càng thêm tò mò, nhất định đòi mở cái tráp để coi cho được cái gì trong đó!

Tóm lại trong keo đấu trí này, quan Trạng là người đã thắng lớn và tên tham quan đã bị một vố quá đau, một bài học nhớ đời vì sự tham lam và hống hách!

Nêu trên là một câu chuyện thật đã diễn ra trong lịch sử, và trong thế kỷ thứ 21, một chuyện tương tự như vậy đã lập lại. Tuy nhiên, trong lần lập lại này, có sự đảo ngược trong vai tuồng: người đóng vai "Trạng Quỳnh" lại là tên đại ca việt cộng Nguyễn Minh Triết, còn người đóng vai "quan đấu tranh" lại là những tổ chức tranh đấu trong và ngoài nước!

Tên Triết cũng áp dụng những độc chiêu y như Trạng Quỳnh đã từng làm. Hắn cũng làm bộ sợ sệt cho sự an nguy của điều bốn hiến pháp. Nếu để mất điều bốn hiến pháp thì bọn chúng sẽ chết! Các tổ chức đấu tranh thấy hắn sợ sệt như vậy càng làm dữ dằn hơn, $R..dồn hết mọi công sức để đòi hủy bỏ cho được điều bốn hiến pháp! Thậm chí ở bên Úc đã có một thành lập một phong trào đòi hủy bỏ điều bốn hiến pháp!

Sau đây xin trích một đoạn văn của cùng tác giả trong bài viết mang tựa đề "Những thế võ của bọn việt gian cộng sản", đã đăng trên VietNam Exodus ngày 27 tháng 8 năm 2007:

" ..... Ngày 27 tháng 8 năm 2007, tên đại ca Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố với bọn công an trong buổi họp với Tổng cục chính trị như sau:" .... dù ai có muốn bỏ điều 4 hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát"

Chúng ta hãy để ý cách chơi chữ lưu manh của tên Triết:

-.... TUYÊN BỐ chúng ta tự sát (tuyên bố chớ không phải hành động tự sát) Nếu người dân có théc méc thì chúng sẽ giải thích như vậy!
Điều tuyên bố nói trên của tên Triết chỉ là mặt trận giả, nhằm dụ chúng ta đổ mọi công sức để đánh vào một .... đống rơm! Rất nhiều tổ chức đấu tranh đã bị việt cộng đánh lừa: suốt vài chục năm nay cứ chúi đầu vào việc đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp!!! Bọn việt gian cộng sản rất mừng khi thấy chúng ta đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp. .. Giả sử bản hiến pháp của bọn chúng có 100 điều thì chúng ta chỉ đòi hủy bỏ có MỘT điều 4 mà thôi. Như vậy có nghĩa là 99 điều còn lại là tốt, là có lợi cho dân cho nước?

Thực tế cái gọi là bản hiến pháp của việt cộng chỉ là một MẢNH GIẤY CHÙI ĐÍT không hơn không kém!!! Nó là mặt trận giả, nó là vô nghĩa mà chúng ta lại đổ rất nhiều công sức, tiền bạc vào để đánh vào mặt trận giả!!!

Thậm chí, giả sử chúng ta đấu tranh mạnh, việt cộng phải nhượng bộ, hủy bỏ điều 4 hiến pháp thì chuyện gì sẽ xảy ra? Có tự do đối lập, đa nguyên, đa đảng? Nhiều chính đảng đối lập sẽ xuất hiện, rồi sao? Làm được trò trống gì trong quốc hội? Làm được trò trống gì trong nước khi mà mọi phương tiện truyền thông đều do việt cộng nắm giữ? Không phổ biến được tiếng nói của mình đến toàn dân thì các tổ chức đối lập coi như vô dụng, tựa như có xe hơi mà không có xăng vậy! Và chúng ta cần nhớ, quốc hội của việt cộng cũng chỉ là MỘT THÙNG RÁC ĐỰNG GIẤY CHÙI ĐÍT!!! Hoàn toàn chỉ là đồ chơi để loè bịp thế giới, chớ không phải là quốc hội theo đúng nghĩa như tại các nước dân chủ trên thế giới!

Đến nước bí thế, bọn việt gian cộng sản sẽ chơi trò cù bựa: lấy lý do an ninh quốc gia bị đe dọa, tuyên bố giải tán quốc hội, giải tán luôn tòa án tối cao, áp dụng lệnh thiết quân luật trên toàn quốc, giao toàn quyền điều hành quốc gia cho công an và quân đội, ai lơ mơ là bắn bỏ tại chỗ, không cần xét xử!!!

Chúng ta ai cũng từng thấy những sòng cờ bạc lậu như xóc đĩa, tài xỉu, bài ba lá, tổ chức chơi ngoài vỉa hè hoặc trong các xóm nhà lá. Khi tên làm cái nhắm thấy tình hình không êm, có nghĩa là thua đậm quá, chung không nổi, thì hắn sẽ nháy mắt cho những tên cò mồi đứng ở phía ngoài. Một tên cò mồi sẽ làm bộ la lớn: "cảnh sát, cảnh sát" Các con bạc hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, bỏ luôn cả số tiền đang đặt cược trên chiếu. Tên làm cái nhanh chóng quơ trọn số tiền rồi giông tuốt!!!

Bọn việt gian cộng sản sắp sửa diễn tấn tuồng này rồi!

Thực tế ngay trước mắt, ta đã thấy bọn quân phiệt tại hai nước Miến Điện và Đông Hồi đang chơi trò bạo lực này. Đông Hồi là một nước có nền dân chủ trên nửa thế kỷ nay mà còn như vậy. Thế giới và nước Mỹ cũng bó tay không làm gì được. Và tôi tin rằng khi cần dùng bạo lực, bọn việt gian cộng sản sẽ rất dã man, tàn bạo gấp trăm ngàn lần bọn quân phiệt Miến Điện và Đông Hồi. Nếu cần giết người hơn bọn Pôn Pốt, bọn chúng cũng sẵn sàng làm! Tất cả chỉ để bảo vệ cái đảng cướp của bọn chúng. Ba triệu tên đảng viên, ba triệu tên công an với ba triệu khẩu súng AK sẵn sàng khạc đạn vào người dân. Đó chính là "tuyên bố tự sát" mà tên Triết đã hàm ý!

Những gì mà bọn việt gian cộng sản tỏ ra "SỢ" và cố tình để lộ ra cho người dân trong và ngoài nước biết, đều là mặt trận giả. Bọn chúng làm bộ "SỢ" để thu hút những nổ lực đấu tranh vào các mục tiêu giả, làm tiêu hao lực lượng của chúng ta. Trong khi đó, những gì bọn chúng thực sự lo sợ, đều được phổ biến trong các cuộc họp tối mật trong nội bộ đảng, hoặc phổ biến xuống cấp dưới qua các công văn có đóng dấu "mật", chớ không thể được tuyên bố oang oang trong buổi họp với Tổng cục chính trị, tới mức mà các web-site ở hải ngoại còn thu băng được những lời tuyên bố của tên Triết rồi cho phổ biến rộng rãi ở hải ngoại!!!

Sau lời tuyên bố "tự sát" của tên Triết, nhiều tổ chức đấu tranh ở hải ngoại hồ hởi, phấn khởi quá, vội vàng thành lập ngay các ủy ban đấu tranh đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp! Thậm chí tới bây giờ, tháng 11 năm 2007, tôi còn thấy trên internet có những diễn đàn đang tiếp tục thảo luận về việc đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp!

*Mặt trận giả: Bí mật của tòa đại sứ việt cộng bị "tiết lộ"!

Khi vụ tai tiếng linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng tại tòa án nổ lớn, bỗng nhiên có một cuộc điện đàm của tòa đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn bị tiết lộ, bị "lén thâu băng" (!) và phổ biến rộng rãi trên internet. Đại khái nội dung cuộc điện đàm là tên phó đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn gọi về Ủy ban nhân dân thành phố Huế, xì nẹc một tên cán bộ tép riu nào đó, như vầy: ..".... tôi nà phó đại sứ tại Oa Sinh Tơn gọi về cho các đồng chí đây..... Các đồng chí đối xử với ninh mục Nguyễn Văn Ní như thế đấy hử? Các đồng chí nàm ăn như thế đấy hử? Ở hải ngoại này chúng nó đang nàm ầm cả nên!...."

Đoạn băng "bị thâu lén" này nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trên internet. Một số web-site của các tổ chức đấu tranh tại hải ngoại rất hồ hởi, phấn khởi mở diễn đàn thảo luận loạn cào cào, cho rằng đây là một "thắng lợi" lớn, khiến tên phó đại sứ việt cộng tại Mỹ phải lo sợ, gọi điện thoại về xì nẹc mấy tên cán bộ cắc ké tại địa phương Huế!

Tuy nhiên, nếu chúng ta thận trọng tìm hiểu kỹ thì thấy có một số điểm đáng ngờ vực như sau:

- Đường giây điện thoại của tòa đại sứ thuộc loại đường giây ưu tiên và đặc biệt, chắc chắn không phải như đường giây điện thoại mà chúng ta đang sử dụng tại nhà. Do đó, không dễ gì nghe lén và thu băng rồi đem phổ biến trên internet như vậy! Nếu có ai đó nghe lén hoặc thu băng, lơ mơ sẽ bị FBI hỏi thăm sức khoẻ vì đó là tội hình sự! Điểm đáng lưu ý là sự tiết lộ tin tức này lại có lợi cho cộng sản! Tin tức (dỏm, dàn cảnh) bị "lén thu băng" cho thấy bọn việt gian cộng sản là những kẻ "tốt", có quan tâm, lo lắng cho các tù nhân chính trị, bằng cớ là "ngài" phó đại sứ đã gọi điện xì nẹc cấp dưới vì đã để công an bịt miệng "phạm nhân" trước tòa án!!! .Ai có thể làm được chuyện "lén thu băng" và phổ biến cuộc điện đàm này trên internet nếu không phải là chính bọn việt gian cộng sản làm??? Sự kiện này có khác gì sự thủ dâm chính trị, xục c... của tên Hồ Chí Minh khi hắn khoác áo "nhà báo" Trần Dân Tiên, tự mình viết sách ca ngợi mình?

- Tòa đại sứ trực thuộc bộ ngoại giao. Nếu tên phó đại sứ có "bức xúc" thì hắn phải làm việc theo ngành dọc chớ không thể tự nhiên nhảy đâm ngang, gọi điện tới Ủy ban nhân dân thành phố Huế để khiển trách nhân viên không thuộc ngành của mình!

Như vậy là bọn việt gian cộng sản đã mượn tay chúng ta để đánh bóng cho chúng, và tự chúng ta đã đi tuyên truyền không công cho bọn chúng!!!

Nêu trên là hai ví dụ điển hình để chúng ta thấy việt cộng đã giăng ra vô số mặt trận giả để chúng ta đánh vào, nhằm tiêu hao lực lượng và đến một lúc nào đó chúng ta sẽ bị kiệt sức; hoặc nếu sức còn nhưng thế cờ đã tới hồi tàn cuộc, internet vẫn còn tranh luận chưa xong về đề tài: Phải đấu tranh đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp như thế nào!!! ....."

2. Kẻ chủ mưu lừa và người bị mắc lừa trong ván bài "điều bốn hiến pháp"

Trong cuộc đấu trí với bọn việt gian cộng sản, người Việt quốc gia thường bị chúng dùng cạm bẫy dương đông kích tây. Hay nói cho rõ hơn là bọn chúng dụ chúng ta đánh vào những mục tiêu giả! Cái gọi là "điều bốn hiến pháp" chính là mục tiêu giả.

Hiến pháp của việt cộng là tờ giấy chùi đít, hoàn toàn không có một chút xíu giá trị gì ngoài việc dùng nó vào việc đi ỉa. Thế nhưng việt cộng đã dùng những đòn phép ma giáo, lừa gạt cho nên lúc nào cái "hiến pháp" của bọn chúng cũng có vẻ quan trọng và thiêng liêng y như quyển kinh thánh! Lại thêm những bọn đấu tranh dân chủ cuội ở trong nước nào cũng ra sức đề cao cái gọi là "hiến pháp" của việt cộng: hơi một tý là bọn chúng lại trích dẫn "kinh thánh": "chiếu theo điều mấy ..... chương mấy ..... của hiến pháp nước Cộng hòa xã nghĩa Việt Nam, làm như bọn chúng đang sống ở bên Mỹ!

Hiến pháp là giấy chùi đít, quốc hội chỉ là nhà ngủ tập thể tương đương với khách sạn năm sao, cho các đại biểu quốc hội vào đó ngủ! Hệ thống tòa án chỉ là nơi để bịt mồm, bịt miệng người dân. Nói tóm lại hai ngành lập pháp và tư pháp chỉ là những vật trang sức cho chế độ và toàn bộ cái chế độ của bọn việt gian cộng sản chỉ cần thâu tóm vào một câu thần chú duy nhất sau đây của tên Hồ tặc là nói lên tất cả:

- ĐẢNG LÃNH ĐẠO, ĐẢNG QUẢN LÝ, ĐẢNG LÀM CHỦ!

Khi dự trù để lập ra cái bộ máy giết người, tên Hồ đã dựa trên công thức nói trên để chế tạo máy. Sau đó, hắn thấy cái công thức nói trên có vẻ tham lam, vai trò của đảng nhiều quá, vậy thì phải ngụy trang, chơi chữ làm sao cho nó dịu bớt sự thao túng, độc quyền, để lừa bịp người dân và quốc tế, cho nên hắn đã nặn ra câu thần chú thứ hai:

- ĐẢNG LÃNH ĐẠO, CHÍNH QUYỀN QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ

Cái câu này nó đã đày đọa người dân hơn suốt 60 năm nay, đã làm toi mạng MƯỜI TRIỆU NGƯỜI, và cho đến bây giờ nó vẫn còn đang hoạt động rất hữu hiệu, tiếp tục làm khổ dân! Tất cả chỉ tập trung vào một đầu mối là "đảng lãnh đạo" mà thôi! Người dân khổ quá cho nên họ mới nhạo báng như sau:

- Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, NHÂN DÂN NGỒI CHỬI!

Cả một cái hiến pháp chỉ là một tờ giấy chùi đít .vậy thì điều bốn hiến pháp là cái đếch gì? Giả sử việt cộng có hủy bỏ điều bốn hiến pháp và cho phép ĐA ĐẢNG, cho phép đối lập công khai, cho phép MỘT TRĂM ĐẢNG đối lập được hoạt động ỳ xèo trong quốc hội thì cũng không làm đếch gì được bọn chúng! Vì sao? Bởi vì quốc hội của việt cộng chỉ là quốc hội dỏm, không có thực quyền! Quốc hội của Mỹ có thực quyền kiểm soát và chế tài hành pháp và thậm chí họ có thể truất phế cả tổng thống! Trong khi đó thì quốc hội của việt cộng, trong hơn 60 năm nay, chỉ làm được có mỗi một việc, đó là lúc nào cũng "nhất trí" với những nghị quyết của trung ương đảng đã đưa ra!

Ngoài ra, chưa kể một khi một chính đảng được phép hoạt động nhưng những quyền khác vẫn bị cấm thì chính đảng đó cũng trở nên vô dụng, chẳng khác gì một người được cấp một chiếc xe hơi nhưng không được cấp xăng và tài xế! Ví dụ như đảng đối lập không được quyền tự do ra báo, không có đài phát thanh riêng. Toàn bộ hệ thống truyền thông đều do việt cộng độc quyền kiểm soát thì làm sao các đảng đối lập đem tiếng nói của họ đến toàn dân? Chế độ hộ khẩu vẫn còn hiệu lực, muốn đi lại phải xin phép. Thậm chí, giả sử việt cộng cho tự do báo chí nhưng lại bị cấm không được:

- Tiết lộ "bí mật quốc gia" (Đây là điều rất mơ hồ, bất cứ tội ác nào của bọn cướp đều có thể được xem như "bí mật quốc gia"! Ví dụ như một quan lớn cộng sản ăn cắp tiền công quỹ để đi chơi đĩ, cũng là "bí mật quốc gia"! Báo chí nào mà tiết lộ thì tờ báo đó sẽ bị đóng cửa và ký giả sẽ bị đi tù!)
- Nói xấu đảng và nhà nước (Tương tự như "bí mật quốc gia")
- Xuyên tạc và nói xấu chủ nghĩa xã hội (Tương tự như "bí mật quốc gia")
- Truyền bá những tư tưởng phản động, diễn biến hòa bình ..v..v..

KẾT LUẬN:

Điều bốn hiến pháp chỉ là một trong rất nhiều mặt trận giả mà việt cộng đã tung ra nhằm làm tiêu hao lực lượng đấu tranh của chúng ta và lái sự đấu tranh của chúng ta đi xuống hố. Trong những trận đá banh, có những cầu thủ được phân công chuyên đưa ra những động tác giả, ví dụ như chân chuẩn bị chuyền banh qua cánh trái nhưng thực ra lại đá sang cánh phải, hoặc khi cầu thủ đó được đá trái banh phạt gián tiếp, tay thì ra dấu cho những cầu thủ bên cánh trái chuẩn bị đón banh nhưng anh ta lại thình lình đá trái banh sà đi thẳng vào lưới!

Sau đây là một vài thí dụ điển hình khác về mặt trận giả của việt cộng:

- Kêu gọi người Việt trong và ngoài nước hãy hợp tác với đảng việt gian cộng sản để đòi lại quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa!

- Kêu gọi người Việt trong và ngoài nước hãy cùng nhau đứng dưới lá cờ đỏ "sao vàng" vinh quang để cùng chống giặc ngoại xâm Trung Cộng!

- Kêu gọi cộng đồng người Việt tại hải ngoại đừng có chống đối các "ngài" Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Minh Triết nữa vì các "ngài" là người thân Mỹ, là "phe mình"!

- Kêu gọi người Việt trong và ngoài nước đừng có đấu tranh nữa vì "ngài" Nguyễn Tấn Dũng, vị lãnh tụ "vô cùng kính yêu" và "đại thanh liêm, liêm khiết" sắp sửa trở thành vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam, trở thành một Yeltsin Việt Nam, trở thành tổng thống nước Việt Nam!

Xin thưa cùng quý độc giả, tất cả những điều này đều là những đòn hỏa mù của bọn việt gian cộng sản và đã được bọn tay sai, bưng bô cho việt cộng tích cực làm rùm beng, quảng cáo và đánh bóng. Bọn chúng đã chuẩn bị đánh bóng tên Nguyễn Tấn Dũng, con người cộng sản "liêm khiết" (tài sản chỉ sơ sơ khoảng HAI TỶ ĐÔ LA!) đã hơn một năm nay và bây giờ những tên tay sai đó đã công khai lộ bộ mặt chuột của chúng ra rồi! Chúng đã núp dưới chiêu bài "người quốc gia chống cộng", khoác lá cờ vàng lên người, ban ngày thì "chống cộng" nhưng ban đêm thì lén lút đi quỳ lạy việt cộng để xin được làm chó săn và tay sai!!!

Xin đồng bào hãy cảnh giác đừng có nghe những lời xúi dại của những tên $R..thầy dùi lưu manh chính trị này. Chúng thường xuất hiện trên các đài truyền thanh, truyền hình, báo điện tử VNEX, dưới danh nghĩa là những "chuyên gia" bình luận chính trị, làm bộ "chửi" cộng sản nhưng thỉnh thoảng lại chọc vào những cú đâm sau lưng người quốc gia rất độc và nhất là kêu gọi cộng đồng đừng có đấu tranh nữa, cứ thoải mái đi du lịch Việt Nam, bởi vì một khi phe cộng sản thân Mỹ mà thắng thế thì 85 triệu dân Việt Nam sẽ tha hồ mà sung sướng, sung sướng gấp ngàn lần thời của tổng thống Ngô Đình Diệm!!! Ô hô!

Trần Thanh
Ngày 9 tháng 8 năm 2008

Chú thích: Trạng Quỳnh (1677-1748) Tên thật là Nguyễn Quỳnh, sống dưới thời vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh, quê thuộc tỉnh Thanh Hóa. Ông học rất giỏi, đã từng thi đỗ Hương Cống nên thường được dân gian gọi là "Cống Quỳnh", đã từng được triều đình bổ nhậm làm quan tri phủ ở tỉnh Thái Bình. Ông nổi tiếng là người ưa nghịch ngợm, dám trêu chọc kể từ vua và chúa Trịnh trở xuống, đặc biệt là nhắm vào các quan tham nhũng.

HUYỀN THOẠI HOẠT ĐỘNG TÌNH BÁO PHƯỢNG HOÀNG của Tác giả “Đóa Hồng Gai”

Mai Vĩnh Thăng

Lời nói đầu

“Tôi suy nghĩ mãi mới quyết định viết những dòng nầy. Với đức tính khiêm nhường, người quốc gia chúng ta ít khi tranh luận các vấn đề nhạy cảm, tế nhị vì có thể đưa đến đụng chạm mất lòng. Nếu có, sẽ gây đổ vỡ, mất đoàn kết, có lợi cho Việt Cộng. Tuy nhiên một số sách báo hải ngoại ngày nay, vì vô tình hay cố ý trình bài sự việc một cách thiếu trung thực, lệch lạc sai sự thật. Cho dù lầm lỗi của chính tác giả, người góp ý hay tài liệu tham khảo, đều có thể đưa đến ngộ nhận, làm mất uy tín các nhân vật trong cuộc.

Cụ thể hơn nữa, một số văn nghệ sĩ thời cơ xôi thịt hoặc Cộng Sản trá hình tạo dựng những mẫu chuyện, lời ca chống Cộng nhưng hàm ý cứu Cộng và phỉ báng chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Dù vậy khi bọn bọn văn nô nầy bị vạch mặt cũng có một số người bênh vực vì quyền lợi vật chất, quan điểm cá nhân hoặc xu hướng chính trị. Chừng ấy người Việt tỵ nạn chúng ta sẽ tự đào hố chia rẽ và làm suy yếu tinh thần chống Cộng.

Khi bình luận về “Đóa Hồng Gai” cũng sẽ có dư luận xuôi ngược. Nhưng tôi quan niệm rằng sự thật là chân lý và sẽ tồn tại với thời gian. Nói lên sự thật là tiếng nói của lương tâm, và tôi viết những dòng bình luận nầy cũng vì chân lý đó”.


Nhận xét

Tôi đã đọc quyển hồi ký Đóa Hồng Gai ấn bản lần thứ 5 của tác giả Nguyễn Thanh Nga, nhận thấy trong sách có những điểm thiếu trung thực nên xin góp ý. Mục đích bài viết nầy là để giúp tác giả hiểu rõ hơn về tổ chức và hoạt động của Chương trình Phượng Hoàng (The Phoenix Program), để từ đó độc giả có thể phân tích, nhân định về “Huyền thoại hoạt động tình báo Phượng Hoàng” của tác giả.

Sau tháng 4, 1975, người quốc gia phục vụ trong chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa đều bị bọn Việt Cộng trả thù bằng nhiều hình thức khác nhau: bị thủ tiêu trong âm thầm, bi xử tử hình công khai để thị oai, bị hành hạ dã man, hoặc thông thường nhất, là nhốt trong trại tù mệnh danh là cải tạo. Tác giả Đóa Hồng Gai là một trong những tù nhân chính trị đó.

Trong dịp đến thành phố Brisbane, Úc châu vào đầu tháng 5 vừa qua, tác phẩm và tác giả Đóa Hồng Gai được quảng bá khá rộng rãi. Từ báo chí đến bích chương nhằm gợi tính hiếu kỳ để thu hút tối đa sự chú ý của người Việt địa phương. Nội dung quảng bá lần nầy cũng tương tự như lời giới thiệu trong ngày ra mắt tác phẩm Đóa Hồng Gai tại Little Saigon ngày 20/1/2008: “Một cựu tù nhân chính trị hoạt động tình báo trong Chiến dịch Phượng Hoàng bị giam ở trại Tiên Lãnh”.

Tuy nhiên suốt 243 trang của quyển hồi ký, độc giả không thấy có đoạn nào tác giả mô tả về tổ chức, cùng hoạt động tình báo của Phượng Hoàng. Nhất là các công tác mà tác giả đã đảm nhận. Đã thế, tác giả lại thêu dệt nhiều chi tiết phi lý làm cho cảm tình của độc giả vừa đến đã vụt ra đi.

Xin trích dẫn một số chi tiết:

Đoạn 1 & 2 trang 37 và đoạn 1 & 2 trang 39, phần Vào đời.

“Năm 19 tuổi, mẹ tôi không còn đủ sức nuôi tôi ăn học nữa, tôi đành bỏ học đi kiếm việc làm. Cậu tôi là một cán sự y tế, thường đến chích thuốc chữa bệnh cho gia đình Đại Tá Nguyễn Bích Thuần, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Bình Định Phát Triển Quân Khu I, nên đã nhờ Đại Tá Thuần kiếm cho tôi một việc làm ... Ngày 15 tháng 5 năm 1971, tôi đến nha nầy trình diện. Tôi được dẫn vào gặp Đại Tá Hà Thúc Sanh. . .

Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu I do Đại Tá Hà Thúc Sanh làm Trưởng Cơ Quan và ông Elaidon làm Cố Vấn. Phần hành chính của Nha nầy là phát triển nông thôn, trong đó có việc tham gia vào chiến dịch Phượng Hoàng để bảo đảm an ninh cho các vùng đang được bình định và xây dựng.

Ít lâu sau, khi thấy tôi có óc bén nhạy về tình báo và có lý lịch tốt, Đại Tá Hà Thúc Sanh đã cử tôi làm đại diện Văn Phòng Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu I đến làm việc với Văn Phòng Thường Trực Ủy Ban Phượng Hoàng Quân Khu I do Trung Tá Phan Thanh Thới làm Văn Phòng Trưởng và Trung Tá Holland làm Cố Vấn. Nhiều người tại nơi tôi đang làm việc đã tỏ ra ngạc nhiên về sự bổ nhiệm nầy. Họ không hiểu tại sao một người còn quá trẻ và có ít thâm niên công vụ như tôi lại được cử vào một chức vụ khá quan trọng như vậy. Nhưng khi biết rõ quá trình đối đầu với Cộng Sản của gia đình tôi, họ mới nhìn nhận rằng Đại Tá Sanh đã có lý khi chọn tôi phụ trách công việc nầy. Đây là một công việc không những đòi hỏi khả năng chuyên môn mà còn phải được tin cậy nữa.

Tôi làm việc ở Văn Phòng Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu I từ tháng 5 năm 1971 cho đến khi Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn giải tán vào năm 1974 ...”


Đoạn 2, trang 245, Vài hàng về tác giả.

“. . . Khi lớn lên, tôi được tuyển dụng làm nhân viên Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu I do Sự Vụ Lệnh số 034/PTNT/211/SVL ngày 5.5.1971.

Vì có lý lịch đáng tin cậy, tháng 9 năm 1971, tôi được Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn cử làm đại diện Nha nầy tại Văn Phòng Thường Trực Ủy Ban Phượng Hoàng Quân Khu I ...”

Đoạn 1, ngày ra mắt Đóa Hồng Gai tại little Saigon ngày 20/1/2008.

“... bà Nguyễn Thanh Nga, một cựu tù chính trị hoạt động tình báo trong Chiến Dịch Phượng Hoàng đã bị giam ở Trại Tiên Lãnh, ...”

Bình luận

Mới vào đời ở tuổi 19, vỏn vẹn với 4 tháng làm việc (tháng 5 đến tháng 9/1971), nghĩ rằng tác giả vẫn phải còn bỡ ngỡ, mò mẫm từng bước đi trong công việc, thì làm gì có thể được bổ nhiệm vào “một chức vụ khá quan trọng.” Ðây là sự hoang tưởng, hàm chứa chút kiêu hãnh cho một ước mơ không bao giờ thành của người con gái ở tuổi đôi mươi. Mặt khác, chức vụ này lại đòi hỏi khả năng chuyên môn tình báo lại do một Ðại Tá chọn lựa và bổ nhiệm. Thật là một huyền thoại hoang đường! Ðiều nầy chứng tỏ tác giả không biết gì:

a) về chuyên môn tình báo: Tác giả đã qua khoá huấn luyện tình báo nào chưa? Khả năng chuyên môn của tác giả là về những gì? Làm thế nào để Đại Tá Thuần có thể biết được tác giả có óc bén nhạy về tình báo?

b) về ngạch trật trong hệ thống hành chánh cũng như quân đội thời Việt Nam Cộng Hòa.

Chỉ với 4 tháng tập sự, loanh quanh bên chiếc bàn giấy, so với một trời kiến thức về tình báo bao la của chiến tranh lạnh thời đó, tác giả có thể ngộ nhận, viết sai. Tuy nhiên, khi viết hồi ký là ghi lại một quãng đời đã chìm sâu trong tiềm thức, sao tác giả lại vẽ vời, phịa chuyện, cố tình lừa dối độc giả như vậy được?

Ðoạn 9, ngày ra mắt Ðóa Hồng Gai tại Little Saigon, ngày 20/1/08.

“... Bà hoạt động trong Chương Trình Phượng Hoàng cho tới năm 1974 thì chấm dứt vì Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn bị giải tán, nguyên do chính yếu là Việt Cộng làm áp lực trong Hiệp Định Paris 1973 yêu cầu Hoa Kỳ và VNCH phải hủy bỏ chương trình này thì mới đàm phán được”.

Ðây là một sai lầm lớn về sự hiểu biết về Hiệp Ðịnh Paris năm 1973, được ký kết giữa Hoa Kỳ-Bắc Việt. Theo đó Bắc Việt buộc chính phủ Hoa Kỳ phải giải thể Chính quyền miền Nam trước khi ký hiệp ước hòa bình. Tuy nhiên vì áp lực của B.52 từ đất Miên, lãnh thổ miền Nam Việt Nam đến Hải Phòng và Hà Nội trong tháng 5/1972 nên Bắc Việt đành phải rút lại điều kiện đó vào tháng 10/72.

Ngân sách điều hành Chương trình Phượng Hoàng do CIA tài trợ, Chương trình Phát Triển Nông Thôn thuộc Ngân sách Ngoại viện. Sau khi Hiệp Ðinh Paris được ký vào tháng 1/1973, Hoa Kỳ phải rút quân theo lịch trình và giảm bớt một số ngân sách tài trợ cho VNCH. Chính phủ VNCH thời đó không còn chọn lựa nào khác hơn là phải cho giải tán một số cơ quan. Việc giải tán này không phải do Việt Cộng làm áp lực.


Xin độc giả xem trích dẫn dưới đây:

“The Paris Agreement: History’s Judgement,” page 11

“... First a few factual points. The agreement was signed formally in Paris on January
27, 1973. It was the product of the secret negotiations that have been discussed, the secret negotiations between Dr. Kissinger, who was then President Nixon’s National Security Advisor, and the North Vietnamese, principally Le Duc Tho,who was the Politburo member in charge of these negotiations.

The main elements of it were, first, a cease-fire in place. It also called for the withdrawal of all the remaining U.S. troops in Vietnam over a 60-day period. It called for the release of American prisoners of war over the same 60-day period. It called for a full accounting for our MIAs.

The agreement had in it no coalition government. This is a very important point. There was no coalition government. As you’ve heard it discussed here, for four or five years, the North Vietnamese had insisted that no peace agreement was possible unless we dismantled the South Vietnamese government and put in its place a coalition which they would control. It was not until October of 1972 that the North Vietnamese dropped this demand.

The Paris agreement allowed the South Vietnamese government to continue in place. The United States was permitted to continue giving military aid and economic aid to the South Vietnamese government. The Paris agreement had a ban on North Vietnamese infiltration of men or materiel into the South. It included a ban on North Vietnamese use of Laos and Cambodia for purposes of prosecuting the war in South Vietnam and it required a North Vietnamese withdrawal, in fact, from Laos and Cambodia ...”

Ðến đây xin tóm lược đại cương về Chương trình Phượng Hoàng và các hoạt động của Chương trình này nhằm vô hiệu hóa Hạ Tầng Cơ Sở Việt Cộng (HTCSVC). Ðây là những chi tiết được sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau của MACV cùng với những hiểu biết trong thời gian chúng tôi làm việc với Văn phòng Phượng Hoàng từ 1968 – 1973.

CHIẾN DỊCH PHƯỢNG HOÀNG (The Phoenix Program)

“Chiến dịch Phượng Hoàng được chính thức thành hình ngày 20/12/67 sau khi Thủ Tướng Chính Phủ VNCH ký Nghị Định cho phép (Số 89-Th.T/VP/M ngày 20/12/1967). Sau Tết Nguyên Ðán, lực lượng Nhân Dân Tự Vệ cũng được thành lập trên toàn quốc với mục đích xây dựng một hệ thống dân sự chiến đấu phòng thủ địa phương (Sắc lệnh của Tổng thống VNCH số 82/TT-SL ngày 11/7/1968 cải tổ Ủy ban Quốc gia và các Ủy ban Ðịa phương thành Nhân dân Tự vệ). Nhằm đẩy mạnh chiến dịch, tháng 7/68 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với sự hỗ trợ của ông William Colby, cựu giám đốc CIA, đưa ra quyết định thành lập các Ủy Ban Phượng Hoàng trên toàn quốc. Ủy ban Trung Ương đặt tại Sài Gòn, 4 uỷ ban cấp Vùng, 44 cấp Tỉnh và 243 cấp Quận với danh xưng “Trung Tâm Phối Hợp Tình Báo Hành Quân” IOCC (Intelligence and Operations Coordinating Centre).

Theo sơ đồ tổ chức, các Trung Tâm Phối hợp Tình Báo Hành Quân cấp Quận là căn bản và là đầu não của Chiến dịch Phượng Hoàng. Thời đó do CIA cung cấp tài chánh, phương tiện và trực tiếp điều hành Chiến dịch này, đặc biệt là hai đơn vị đặc nhiệm là:

(1) Navy SEALs thuộc Hải quân Mỹ, và
(2) Thám Sát Tỉnh PRUs (Provincial Reconnaissance Units).

Các đơn vị Thám Sát Tỉnh được tuyển mộ nhân viên địa phương và do người địa phương chỉ huy. Hai đơn vị thiện chiến này có trách nhiệm đột kích, bắt sống hoặc tiêu diệt VC vũ trang ngay trong lòng địch.

Mục đích chính của Chiến dịch Phượng Hoàng là vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở (HTCS) Việt Cộng, gồm cán bộ chính trị, thuế vụ, hành chánh, hậu cần, v.v., thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN).

Ðến năm 1969 Chiến dịch Phượng Hoàng được giao phó trách nhiệm vô hiệu hóa các cán bộ HTCS Việt Cộng trên toàn quốc. Danh sách các cán bộ HTCS Việt Cộng do cơ quan Tình Báo Trung Ương Sài Gòn thu thập từ năm 1965 đến năm 1970, và cung cấp cho Chiến dịch Phượng Hoàng.

Từ lúc thành lập cho đến tháng 7/68 Chiến dịch Phượng Hoàng do nhân viên CIA và vị Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn điều hành. Sau tháng 7/69 Chương trình Phượng Hoàng được cải tổ và do các Cố Vấn Quân Sự Mỹ MACV (Military Assistance Command Vietnam) điều hành. Từ đó MACV cấp Tỉnh cung cấp tài chánh và phương tiện cho Chương trình Phượng Hoàng. Tuy nhiên CIA vẫn còn phụ trách một số công việc chuyên môn và hai đơn vị Navy SEALs và Thám Sát Tỉnh PRUs.

Từ tháng 7/69 về sau các Trung Tâm Phượng Hoàng cấp Quận trở thành cơ quan chính, với trách nhiệm thành lập danh sách bìa đen, phân loại và lưu trữ hồ sơ cá nhân HTCS Việt Cộng, được gọi là Hệ Thống Quản Trị Tin Tức Phượng Hoàng, Phuong Hoang Management Information System (PHMIS). Bấy giờ Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) đóng vai trò chính trong việc quản trị, theo dõi và nhật tu hồ sơ, hành quân thanh lọc HTCS Việt Cộng và do Cố Vấn Quân Sự Mỹ MACV huấn luyện.

Từ đó các trung tâm Phượng Hoàng cấp Tỉnh được cung cấp thêm nhiều hồ sơ HTCS Việt Cộng là nhờ chương trình Chiêu Hồi, Phòng II Tiểu Khu và Chi Khu, các đơn vị Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ. Các Ủy Ban Phượng Hoàng cấp Vùng chỉ lưu trữ dữ kiện thống kê về tổng số HTCS Việt Cộng tình nghi, bị bắt và vô hiệu hóa từ các trung tâm Tỉnh gởi về. Tất cả các trung tâm Phượng Hoàng đều có đại diện các cơ quan dân sự hay quân sự gởi đến để phổ biến tin tức như Chiêu Hồi, Phòng II, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân, CSQG, Bình Ðịnh Phát Triển Nông Thôn, Nhân Dân Tự Vệ.

Với sư yểm trợ của các đơn vị quân sự địa phương, CSGQ thường xuyên tổ chức hành quân thanh lọc HTCS Việt Cộng. Khi một HTCS Việt Cộng hoặc người tình nghi bị bắt, họ được đưa về Ủy Ban Phượng Hoàng Quận phỏng vấn sơ khởi. Nếu có bằng chứng sẽ phải chuyển lên Trung Tâm Thẩm Vấn Tỉnh Provincial Interrogation Centre (PIC). Nơi đó nhân viên CSQG Ðặc Biệt và Tư Pháp sẽ thẩm vấn và lập hồ sơ đệ trình lên Biện Lý Tòa Án để xin lệnh tạm giam. Nếu vẫn còn nghi vấn hoặc không đủ chứng cớ, người bị tình nghi sẽ được Tòa ban lệnh trả tự do. HTCS Việt Cộng được đề cập đến trong bài viết nầy là những người dân làm việc, sống bình thường và hợp pháp trong làng mạc hay thành phố. Khác với VC có vũ khí và hoạt động trong mật khu hay thôn, xóm hẻo lánh sẽ không được đối xử như người tình nghi, nên khi bị bắt thường được đưa ra tòa và có thể bị kết án tù tùy theo tội trạng.

Chương trình Phượng Hoàng bị giải thể năm 1973 sau khi Mỹ–Bắc Việt–VNCH– MTGPMN ký hiệp định đình chiến ngày 27/1/1973. Theo đó hai bên trao trả tù binh và đồng thời Mỹ rút quân. Các đơn vị PRUs cũng bị giải thể, được sáp nhập và đồng hóa cấp bậc với Cảnh Sát Quốc Gia. Lợi dụng đình chiến tại chỗ, VC-MTGPMN và Bắc Việt xua quân cưỡng chiếm miền Nam vào tháng 4/75 và kết thúc 20 năm nội chiến Nam-Bắc”.

Kết luận

Chương trình Phượng Hoàng do CSQG phụ trách, phối hợp với Phòng II Quân đội VNCH nhằm vô hiệu hóa VC nằm vùng. Hạ tầng cơ sở VC là dân sự nên từ việc thẩm vấn, tạm giam đến ra tòa đều do CSQG Ðặc biệt và Tư Pháp thực hiện. Vì thế nhân viên CSQG và quân sự được bổ nhiệm đến văn phòng Phượng Hoàng là những người chuyên môn, theo nhu cầu cần thiết, và cần phải được điều chuẩn an ninh với mật độ “Mật”, kể cả tôi, là một Thông Dịch Viên quân sự.

CSQG, Phòng II và các toán Thám Sát Tỉnh PRUs tuyển mộ, huấn luyện và điều hành lưới tình báo mật của họ. Dĩ nhiên các Mật Báo Viên nầy không bao giờ được tiết lộ lý lịch và hoạt động của mình trong bất kỳ trường hợp nào. MACV chỉ đóng vai trò yểm trợ tài chánh (chi phí hoạt động và tiền thưởng cho Mật Báo Viên), phương tiện và cố vấn khi cần, nhưng thường không xen vào việc nội bộ các cơ quan này.

Tác giả Ðóa Hồng Gai là một nhân viên biệt phái Bộ Phát Triển Nông Thôn, không phải là nhân viên thường trực của Phượng Hoàng và cũng không thể làm Mật Báo Viên. Lý do đơn giản: Nguyễn Thanh Nga chỉ là dân sự không được huấn luyện chuyên môn, không thể điều chuẩn an ninh, và là một công chức ngoai ngạch đã lộ diện.

Ðộc giả rất ngạc nhiên về một điểm:

Chỉ sau 4 tháng làm việc, tác giả được một ông Ðại Tá bổ nhiệm đến cơ quan Phượng Hoàng để giữ một chức vụ khá quan trọng lại đòi hỏi khả năng chuyên môn (nhưng chẳng biết chức vụ quan trọng đó và chuyên môn là chuyên môn gì) (trang 39, đoạn 2).

Thật là chuyện khôi hài. Ở điểm này, có phải tác giả:

(1) cố ý sỉ nhục một sĩ quan cao cấp của Quân lực VNCH tắc trách trong việc nhũng lạm quyền thế thu dụng nhân viên, đề cử và bổ nhiệm bất chấp nguyên tắc? và
(2) cho rằng Chương trình Phượng Hoàng là một tổ chức ô hợp?

Hay đây là một bức tranh hý họa tạp nhạp mà tác giả “Ðóa Hồng Gai” dựng lên với dụng ý gởi đến các độc giả mến mộ mình?
Tôi tin, với thời gian, sự thật sẽ được phơi bày và tác giả sẽ phải đối diện với sự thật đó.

Mai Vĩnh Thăng

Saturday, August 9, 2008

Dllas, Texas, USA: Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam 2008

  • Tâm Thư
Kính gửi Toàn Thể Các Anh Chị Em Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam

Thưa Quý Anh Chi,

Trong cơn quốc nạn 30 tháng 4 năm 1975, anh chị đã phải chịu nhiều gian truân và cay đắng tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần.

Sau hơn 33 năm, nay nhìn lại đoạn đường dài đã qua, biết bao ký ức lại hiện về. Những năm tháng đau khổ, nhục nhằn trong trại tù, những tuyệt vọng xen lẫn những hy vọng mong manh trong tăm tối, và những chia xẻ của người đồng cảnh ngộ...

Nhiều người bạn của chúng ta không còn nữa vì đã bỏ xác nơi thâm sâu cùng cốc. Nhiều người tuy thoát cảnh tù đày vẫn phải kéo dài cảnh sống đen tối trên quê hương do các quyền sống căn bản của con người đã bị tước đoạt. Nhiều người khác đã mạo hiểm vượt biển, hoặc băng rừng bất chấp mọi hiểm nghèo để đi tìm tự do. Do đó, không ít người đã phải bỏ thây trên biển cả hoặc nơi rừng sâu, núi thẳm.

Biết bao thảm cảnh đã xảy ra cho tới khi có Chương Trình HO cho phép tù nhân chính trị VN ra đi một cách chính thức. Tính đến hôm nay, đã có trên 300,000 cựu tù nhân chính trị và gia đình được định cư tại các nước tự do, đa số đã định cư tại Hoa Kỳ.

Trên vùng đất tự do, đời sống của các anh chị chắc chắn vẫn còn nhiều điều khó khăn cần vượt qua, nhưng đã tương đối ổn định. Không ít con cháu của các anh chị đã thành đạt và có một tương lai tươi sáng, đầy hứa hẹn. Cảnh "tre già, măng mọc", thế hệ con cháu của chúng ta đang lớn lên và trưởng thành. Nhưng thời gian không bao giờ dừng lại. Tuổi đời chúng ta nay đã sang buổi xế chiều và biết bao anh chị đã ra đi vĩnh viễn.

Chúng ta phải làm gì cho thế hệ con cháu hiểu được những hy sinh mà chúng ta và chiến hữu của chúng ta phải trả bằng máu và nước mắt để các thế hệ nối sau ở vùng đất xa quá nửa quả địa cầu này hiểu được cảnh sống bi thảm từng xảy ra cho quê huơng VN cùng những gian khổ hiểm nghèo mà thế hệ cha ông của các em đã phải đối đầu.

Đó là mối ưu tư mà nhiều anh chị em đã chia xẻ với tôi. Từ mối ưu tư này, đã nảy sinh ý kiến kêu gọi tất cả các anh chị em cựu tù nhân chính trị khắp nơi trên thế giới hội tụ về "NGÀY TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 2008" với bốn mục đích:

1.- Là ngày hội ngộ tù nhân, hàn huyên nhằm thắt chặt mối liên hệ, chia xẻ kinh nghiệm và nâng đỡ tinh thần giữa những người đã bỏ một phần đời trong lao tù CSVN. Nay họ được đi định cư ở đất nước tự do bằng bất cứ phương diện nào.

2.- Thực hiện một cuộc triển lãm tiêu biểu các trại tù suốt từ Nam chí Bắc.

3.- Đóng góp, gìn giữ và phổ biến những trang sử bi hùng cho thế hệ con cháu chúng ta bằng những nhân chứng sống, không thể xuyên tạc...

4.- Chia xẻ mát mát, hy sinh của các thương phế binh Quân, Dân Cán Chính VNCH, một phương châm của người TNCT: “không quên bạn tù, không quên đồng bào đau khổ”

Lý do khiến chúng tôi kêu gọi các anh chị em đóng góp vào công cuộc gìn giữ và phổ biến những thực cảnh của một giai đoạn lịch sử bi hùng cho thế hệ con cháu chúng ta là vì không ai có thể làm việc này chính xác, đầy đủ và sống động bằng những nhân chứng sống. Những nhân chứng sống này chính là các anh chị em, những cựu tù nhân chính trị VN.

Các anh chị em đã phải hy sinh chịu đựng quá nhiều trong không ít cảnh ngộ đày ải trầm luân. Không thể để những thực tế ấy chìm vào quên lãng theo thời gian. Trước khi chúng ta đã nhắm mắt xuôi tay, chúng ta cần phải lưu lại cho con cháu chúng ta những câu chuyện thực về đời mình, về đời của những người Việt Nam yêu chuộng tự do đã phải trả giá bằng máu và nước mắt như thế nào. Những câu chuyện, những hình ảnh mà chúng ta sẽ tái tạo về nhà tù và những cảnh đày đọa mà các anh chi em từng trải qua sẽ là những minh chứng hùng hồn cho những trang sử đau buồn của đất nước, là những bài học vô giá cho con em chúng ta, và là hành trang quý báu vào đời để chúng luôn ngửng đầu hãnh diện về cha ông và nguồn gốc của chúng trên đất nưóc Hiệp Chủng Quốc này và trên toàn thế giới.

Những ý nghĩ trong Bức Tâm Thư này là một lời kêu gọi gửi đến toàn thể anh chị em cựu tù nhân chính trị. Kính mong được các anh chị em hưởng ứng, phổ biến rộng rãi NGÀY TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM sẽ tổ chức tại Dallas, Texas trong 3, 4 & 5 tháng 10 năm 2008 làm nơi hộïi ngộ của chúng ta. Để việc tổ chức được chu đáo xin quý anh chị em ghi danh bằng phương tiện nào thuận tiện nhất cho quý anh chị.

Kính chúc quý anh chị em cùng gia đình nhiều sức khỏe và mọi điều tốt đẹp.

Trân trọng,

Khúc Minh Thơ

· Ghi danh qua website: Hoigiadinhtnct.org vào phần ghi danh: NGAYTUNHANCHINHTRI

· Điện thoại: (703) 560-0058

I. Lệ Phí tham dự “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam 2008” tại Dallas.

• Nhằm tạo điều kiện cho nhiều Cựu Tù Nhân Chính Trị và gia đình khắp nơi về tham dự đông đủ, và tất cả Dân, Quân, Cán, Chính mỗi người ghi danh tham dự sẽ đóng góp:

• $25 Mỹ Kim cho một người (cũng là vé tham dự Ðại Nhac Hội)

• Quý cựu TNCT sẽ được đãi ăn trưa tại nơi Picnic do Hội Quãng Ðà thiết đãi và ăn tối tại đêm Tâm Giao tại Hội trường giáo xứ Thánh Phê rô -ngày Thứ Sáu 3/10: do Ban tổ chức và Hội Gia đình Việt Mỹ phụ trách.

• Quý vị cùng quý đồng hương được mời ăn trưa trong ngày thứ Bảy 4/10 khi đến tham dự nghi lễ, triển lãm từ 9:30am – 2:00 pm tại Special Events Center.

• Quý vị ở xa xin ghi danh bằng các phương tiện thích hợp:

• 1. Vào website: hoigiadinhtnchvn.org - tìm phần ghi danh.
• 2. Email về: nvdallasus@ont.com
cadao@tapchicadao.com
nguyen.t.q@sbcglobal.net

• Xin ghi rõ tên người tham dự hoặc số người nếu một nhóm, BTC sẽ gửi ticket đến quý vị.
Hoặc biên thư , kèm theo check gửi về các địa chỉ sau đây:

1. Người Việt DFW: 2115 E.Buckingham Rd., Richardson, TX 75081 hoặc
2. Ca Dao: P.O.Box 451704, Garland, TX 75045-1704.

Check xin ghi trả cho: HGDTNCTVN hoặc FVPPA

============================================================
Chương Trình:

1. Thứ Sáu: Oct. 3, 2008: Chủ đề ”Trở Về”
Tại White Rock Lake Park và Hội trường giaó xứ Thánh Phê Rô Dallas

• 10am – 2pm – Picnic
Tại White Rock Lake Park – Winfrey Point Building
Ðịa chỉ: 1298 E. Lawther Dr., Dallas, TX 75218-3308
(PLEASE CONFIRM ADDRESS FOR US … THX)

• 6pm – 11pm - Ðêm Tâm Giao
Tại Hội trường giaó xứ Thánh Phê Rô Dallas
Ðịa chỉ: 10123 Garland Rd, Dallas, TX 75218

2. THỨ BẢY: OCT. 4, 2008: Chủ đề: “Tạ ơn người - Tạ ơn đời”
Tại Special Events Center
http://www.specialeventscenter.com/
Ðịa chỉ: 4999 Naaman Forest Blvd, Garland, TX 75040

• 9am – 2pm - Nghi Lễ- Triển lãm -Hội thảo

• 6pm – 11pm Ðại Nhạc Hội - “Một hình ảnh- ba cuộc đời”

3. CHÚA NHẬT: OCT. 5, 2008: trước giờ Chia tay

• 10am – 11am:

• Lễ Chúa nhật tại nhà thờ ÐMHCG, xin lễ cầu cho các TCTVN đã mất
• Lễ cầu siêu tại Chùa Ðạo Quang

• 11am – 12 Noon
• Thăm viếng mộ phần cựu TNCT
• Thăm viếng các Cựu TNCT đang nằm dưỡng lảo.
• Giờ giấc chi tiết sẽ được phổ biến trong ngày họp mặt

Hotel & Airport:
1) Comfort Suites (TXB02)

• 2301 E George Bush Fwy , Plano, TX, US, 75074 Phone: (469) 429-0702
• Khách sạn này vừa hoàn tất nên mọi thứ đều mới mẹ
• Rate: $79.00 + thuế, tuy nhiên nếu quý khách trên 55 tuổi thì được giãthêm chút ít $ 71.00 + thuế.
• Phòng rộng rãi và có microwave va tụ lạnh. Co 2 giường (theo sự chọn lựa)
• Dưới 5 miles tới “Special Events Center”

2) Holiday Inn Select Richardson

• 1655 North Central Expressway, Richardson, TX 75080 972-238-1900 800-972-2518
• Rate: $79 per night (double bed), exercise room, indoor
• and outdoor swimming pools.
• 6 miles tới Special Events Center

Hotel: When booking hotel, book under event called “Vietnamese Political Prisoners Day”
Airport: Fly into DFW (Dallas Fort Worth Airport) or Dallas Love Field

Tú Gàn "Ngôn Quá Kỳ Hành "


Vũ Lâm

TinParis.- Chúng tôi đăng bài dưới đây với tất cả mọi dè dặt vì tác giả đã cho biết TÚ GÀN đã cộng tác với báo Nhân Dân dưới bút hiệu là LỮ GIANG. Đây là một sự cáo buộc rất nặng và chúng tôi sẳn sàng đón nhận mọi ý kiến khác biệt để làm sáng tỏ vấn đề. Nghe nói người biết rõ Tú Gàn nhất là Ls Nguyễn văn Chức !

Trích Con Ong Việt số 84 tháng 7- 2007

  • Lần này là lần thứ 3 Nguyệt San Con Ong Việt viết về Tú Gàn kèm theo tranh vẽ hí họa, biểu tượng người viết mướn và cũng là chân dung Tú Gàn. Đã có quá nhiều người viết về anh Gàn! Chửi mắng: nặng, nhẹ, thanh có, mà tục cũng có. Vũ Lâm tôi thì chưa một lần viết, chưa một lần đánh giấy nhám gương mặt anh Gàn, nhưng hôm nay Vũ tôi phải viết! ... đề tài Tú Gàn chán như cơm nếp! Hơn thế nữa, nói chuyện với người bình thường chứ có ai muốn nói chuyện với loại gàn dở.

    Sở dĩ Vũ tôi phải động bút viết về anh Gàn cũng vì khó chịu với đoạn viết trong bài "Chuyện Minh Bạch Quốc Tế" đăng trên tờ Sài Gòn Nhỏ ngày 1 tháng 6 -2007 dưới đây:

    - . . . Vì thế, trước khi nói về các phúc trình của tổ chức "Minh Bạch Quốc Tế", chúng tôi thấy cần xác định lại một lần nữa chúng tôi là người làm báo chứ không phải một chính khứa hay một nhân viên của bộ thông tin, nên cách khai thác của chúng tôi không giống cách khai thác của những người này.

    Người làm báo có nhiệm vụ truy tìm và ghi nhận những tin tức hay tài liệu liên quan đến các biến cố xẩy ra và công bố một cách trung thực cho dân chúng biết, hay dựa vào những sự kiện hay tài liệu đã ghi nhận được, đưa ra những phân tích hoặc nhận xét giúp làm sáng tỏ vấn đề.

    Người làm báo không tranh cử các chức vụ công hay các chức vụ trong cộng đồng nên khi viết báo không cần vuốt đuôi "cảm tính" của số đông để được vỗ tay hay có thêm phiếu. Người làm báo cũng không phải là thành viên của một tổ chức chính trị, nên không làm tin và viết "nhận định" theo kiểu viết tuyên ngôn tuyên cáo, diễn văn hay truyền đơn để cổ võ cho một chủ trương. Người làm báo cũng không phải là nhân viên của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Bộ Thông Tin Văn Hóa hay JUSPAO, phải viết tin hay "nhận định" theo chỉ thị hay theo đơn đặt hàng, bỏ đi tất cả những gì bị coi là "không có lợi cho phe ta" hay "có lợi cho phe địch" và thêm vào những gì được coi là "có lợi cho phe ta" và có tác dụng "bôi đen phe địch", v.v... Trái lại, tiêu chuẩn của người làm báo là loan tin trung thực và đưa ra những nhận định khách quan để giúp người nhận suy nghĩ và có những nhận thức đúng về biến cố đang xẩy ra chứ không phải vuốt đuôi hay đánh lừa dư luận để được vỗ tay hoan hô.

    Khi trích đăng đoạn viết trên, Vũ tôi đã phải tô đậm những lộng-ngôn, loạn-từ của anh Gàn để đọc giả chú ý đến những điểm Vũ sẽ luận bàn với anh Gàn: chúng tôi là người làm báo - tiêu chuẩn của người làm báo - loan tin trung thực - nhận định khách quan.

    Khỏi cần diễn giảng thì mọi người cũng biết, đoạn viết trên chỉ là cái tiền đề, mở đầu cho bài viết để anh Gàn trình diễn "trung thực", loại trung thực láu-cá. Giống nhưng trong các bài viết khác, Anh Gàn thường rào trước đón sau, hoặc kênh kênh lên mặt bậc thầy, dậy mọi người cách làm báo, cách chống cộng, xoa đầu mọi người ... Giả mù sa mưa để hoặc là ca tụng Đảng và nhà nước Cộng Sản, hoặc khen khéo đống cứt thối Việt Tân, hoặc đăng nguyên văn một bản tin, một nghị quyết của chính quyền Cộng Sản đang cần được phổ biến ở hải ngoại mà không ai có thể ọ oẹ phản đối ... Đấy, kiểu "Trung Thực" láu cá của Anh Gàn!

    Bậc Thầy

    Trước hết, nói về cái kênh kiệu, lên mặt bậc thầy dậy bảo, xoa đầu người khác của anh Gàn, Vũ tôi phải cau mày mà trực ngôn rằng: Anh Gàn, Ngôn Quá Kỳ Hành, hãy nhìn chính mình trong gương, nhìn lại suốt cuộc đời mình xem có gì để anh hãnh diện? Học thức, kiến thức, bằng cấp có gì uyên bác cao trọng để anh lên mặt "Bậc Thầy"? Nam nhi đại trượng phu mà đến gần cuối đời không tự mình tạo được sự nghiệp, vẫn còn phải nương tựa, sống nhờ, làm thuê viết mướn cho một người đàn bà (Lời viết thô bạo trong nhiều bài viết mà Vũ tôi đã được đọc: sống trong đũng quần Đào Nương) ... đó là cái thấp kém, cái nhục, nhục vì anh Gàn còn thua cả những người ít học nhưng thành công khi ra hải ngoại, thành công không nhờ ở bằng cấp mà ở khả năng, sáng kiến và ý chí kiên cường tự lập.

    Nói nhẹ nhàng cho anh một tí, anh Gàn chỉ là người ở mức bình thường, có thể dưới trung bình một chút.! Vũ tôi khuyên anh nên coi lại cách viết, chỉ nên trình bày, diễn đạt những điều mình muốn, sai đúng để tùy đọc giả nhận định, đừng hỡm hịnh lên mặt kẻ cả, thầy đời, dậy bảo, xoa đầu người khác, kênh kênh ta đây uyên thâm nhìn xa biết rộng. Cái hiểu biết, kiến thức của anh nhỏ bé, mới chỉ được bằng cái "chũm cau".

    Phác Họa Qua Cuộc Đời Tú Gàn.

    Lúc tuổi trẻ, sống trong thời chiến thì phá hoại thân thể, chạy chọt để được miễn dịch, hưởng đặc quyền ăn học trong khi những thanh niên khác xả thân nơi địa đầu chiến tuyến, giữ yên ổn thành thị cho anh Gàn ngồi học làm thầy cãi, anh cũng thừa biết, trường Luật ở Việt Nam có hàng chục ngàn sinh viên và người tốt nghiệp, ai sau khi có tú tài 2 cũng có thể vào học trường luật và cũng có thể tốt nghiệp, không cần thông minh xuất chúng, nữ sinh viên luật có thể nói là nhiều nhất trong các phân khoa đại học và lính chúng tôi, nếu được ở gần SàiGòn hoặc không phải đi hành quân mút chỉ thì cũng ghi danh luật lê lết rồi cũng tốt nghiệp. Anh Gàn cũng chỉ là một trong số những người tầm thường, không có gì xuất sắc và nổi tiếng, chỉ nhờ ở may mắn, thế lực và chạy chọt anh leo lên đến chức Thẩm phán. Nhưng rồi cũng chỉ được vài năm ... mới vừa được hưởng tí vinh thân "phì ra" thì 30 tháng 4 năm 1975 anh đã tuột dốc vào trại tù Cộng Sản, với tinh thần và thể chất èo ọt, siêu vẹo, anh đã có biệt danh "thằng Cánh Cụp Cánh Xèo" trong trại tù Thanh Cẩm tỉnh Thanh Hóa. Anh gánh phân trong đội rau xanh. Rồi ngấm ngầm anh thành loại super ăng-ten nhờ thiên khiếu nịnh nọt, nhờ ở tư cách hèn mọn, ganh tị hay nhờ ở cách hành sử được lòng cán bộ, biểu lộ cho cán bộ thấy thái độ thù ghét dân Kaki! Điểm ăng-ten của anh cao lắm nên ra tù mới được viết báo Nhân Dân. Dưới chế độ Cộng Sản, một tù nhân mới ra lò mà được viết báo thì anh chắc chắn phải được xếp hạng super bồi bút và super luồn cúi, bằng chứng rõ ràng là trong một bài viết năm 1991 trên tờ Nhân Dân Chủ Nhật anh ca tụng công trạng linh mục quốc doanh đảng viên Cộng Sản thâm niên Võ Thành Trinh, và một bài anh ca tụng chủ tịch xã Hòn Gai, anh gọi họ là đồng chí!

    Đấy, hình ảnh Tú Gàn, người có cốt phản sau đuôi, người biết gió chiều nào xoay chiều ấy, một loại gian thần thờ hai ba chúa!! Ra đến hải ngoại, tính nào vẫn tật ấy, cũng hèn mạt, chui lòn, bất tướng bất tài, vẫn ngòi bút ấy, cong cong để kiếm ăn, ẩn núp trong hang Đào Nương. Ba cái "Viết Mà Chơi" của anh Gàn không tài giỏi gì để anh kênh kiệu, chỉ là loạt bài "edit", gom góp tài liệu bài vở từ trong nước, từ nhóm Nhân Dân, thêm thắt, sửa chữa những bài đã được cung cấp và viết lại cho đúng giọng "Gàn". Một lần nữa, này anh Gàn, chẳng có gì để anh hãnh diện, để anh kênh kênh cái mặt "thầy đời".

    Nói trước, Vũ tôi không có thói xấu chụp mũ. Ai chụp mũ cho Tú Gàn là Cộng Sản, là thằng nằm vùng là sai. Anh Gàn không phải là người quốc gia mà cũng chẳng phải là Cộng Sản, chỉ là loại viết mướn, dắt mối kiếm tiền, một thứ ma cô trong làng viết, con điếm nào cho nhiều tiền thì ca ngợi, dắt mối cho con điếm ấy, ở thời điểm này, hai con điếm chi nhiều tiền nhất là điếm Cộng Sản với nghị quyết 36, điếm Việt Tân, anh Gàn dắt mối cho cả hai và dĩ nhiên cũng phải dắt mối cho ... bà chủ Sài Gòn Nhỏ!

    Chúng Tôi Là Người Làm Báo, Nhà Báo

    Anh Gàn không phải là nhà báo, đừng nhận vơ! chỉ là người viết mướn kiếm ăn, có lợi nhuận thì viết. Khi viết cho tờ Nhân Dân cơ quan ngôn luận của nhà nước Cộng Sản với bút hiệu Lữ Giang và khi viết cho tờ Sài Gòn Nhỏ của Đào Nương cũng cùng ngòi bút ấy, viết cho tờ Nhân Dân trong nước thì viết theo chỉ thị chiều hướng tuyên truyền của đảng và nhà nước. Ra hải ngoại thì viết cho người "đặt hàng" (đơn đặt hàng, chữ nghĩa của anh), người đặt hàng có thể là nhà nước cộng sản, là đảng phái, là sư, cha quốc doanh, là đoàn thể, là băng đảng Việt Tân. Đặt hàng qua trung gian chủ Đào Nương, đặt hàng trực tiếp với anh, cuối cùng thì chủ tớ cùng kiếm ăn. Nhắc lại, viết theo chỉ thị hay viết theo đơn đặt hàng thì Tú Gàn không phải là nhà báo! Đúng với ý câu viết của anh trong đoạn trích dẫn: - "Người làm báo không phải là nhân viên của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Bộ Thông Tin Văn Hóa hay JUSPAO, phải viết tin hay "nhận định" theo chỉ thị hay theo đơn đặt hàng".


    Loan Tin Trung Thực - Nhận Định Khách Quan

    - Anh Gàn không trung thực , cũng chẳng có khách quan ... đã là viết mướn thì làm sao có trung thực, khách quan! bằng chứng rành rành là anh Gàn đã phải lên đài radio hàng đêm, vươn cổ ra nhận tội rằng, tôi đã nói láo, tôi đã viết láo theo lệnh của tòa. Này, da mặt anh Gàn dày lắm nhá. Ngày xưa trong làng, thằng ăn cắp, ăn trộm bị bắt quả tang, bị nọc ra sân đình đánh năm mươi hèo, thường thì sau đó nó xấu hổ, bỏ làng bỏ xứ đi nơi khác làm ăn ... còn anh Gàn, tư cách thua xa thằng ăn trộm, ăn cắp! không biết xấu hổ, vẫn mặt dày, quanh quẩn Little SàiGòn! Lại còn trâng tráo liếm lại bãi nước bọt của mình, ong ỏng lớn lối về: - tiêu chuẩn của người làm báo - loan tin trung thực - nhận định khách quan (shit!).

    Dẫn chứng thêm về loan tin trung thực - nhận định khách quan kiểu Tú Gàn:

    - Ngụy biện vòng vo, cù nhầy, để bênh vực Trần Trường trên SGN số 116, phát hành ngày 5 tháng 3 năm 1999 tại Seattle, khi tên này treo hình già Hồ và cờ đỏ sao vàng trong tiệm video của hắn ở Bolsa. Tú Gàn lên giọng dậy dỗ cộng đồng rằng: "Trần Trường có quyền tự do hiến định ở xứ này, sẽ không ai làm gì được hắn".

    - Trên một số SGN khác, khi Cộng Sản Hà Nội cắt đất nhường biển cho Trung cộng, Tú Gàn cũng lên giọng "bậc thầy" là: "Ải Nam Quan là của Tàu, CS Hà nội làm đúng. Đất của Tàu thì trả lại cho Tàu, đâu có gì là sai?"!

    - Vận động yểm trợ cho John Kerry với bài viết tựa đề "Nghệ thuật ôm cẳng", đăng trên SGN số 134, phát hành ngày 13/02/2003. Trong bài này, Tú Gàn đã kênh kiệu là người nhìn xa, hiểu rộng, "thầy đời" là ông Bush đã hết thời, và Hanoi John chắc chắn sẽ thắng, đúng rập khuôn theo luận điệu của quan thầy bắc bộ phủ! Hắn mai mỉa rằng, những người không ủng hộ John Kerry, là những người "mê tín dị đoan"!

    - Bôi bẩn Linh Mục Nguyễn Văn Lý đang bị cộng sản giam cầm, qua bài viết "Ván bài lật ngửa" đăng trên SGN số 347 phát hành ngày 8/8/2003 tại Seattle. Lập luận này vô tình hay cố ý trùng hợp rập khuôn với lập luận mà đại diện CSVN vẫn dùng để phân bua với các cơ-quan quốc tế đang can thiệp giúp đỡ Linh Mục Lý. Trong bài viết gần đây, Tú Gàn viết: Linh mục Nguyễn Văn Lý là người sụp lỗ liên tục, hết lỗ nhỏ đến lỗ lớn và đáng được gọi là người sụp lỗ liên tục trong lịch sử.

    Còn rất nhiều bài viết dẫn chứng cái loan tin trung thực - nhận định khách quan kiểu "Bậc Thầy", kiểu "Xoa đầu mọi người", kiểu kênh kiệu nhưng trật lất của Tú Gàn ... có thể là đúng! nhưng chỉ đúng theo đơn đặt hàng của Cộng Sản trong nước. Này nhá, Vũ tôi không có ý chụp mũ Anh Gàn là Cộng Sản đâu đấy, Cộng Sản cũng chẳng thâu dụng loại gàn dở. Vũ tôi chỉ coi tú Gàn là cai thầu, ai đặt hàng thì làm ... Quốc Gia, Cộng Sản, Việt Tân nhận tuốt. Còn chú Chánh ngu dại, không chịu chi, không chịu "đặt hàng" nên bị "bậc thầy" dậy cho tơi bời hoa lá. Một lần nữa Vũ tôi nhắc lại, người viết theo đơn đặt hàng không phải là "Nhà Báo".

    Tú Gàn - Ngôn Quá Kỳ Hành.

    Suốt cuộc đời anh Gàn, chưa thấy anh làm được việc gì công ích cho người, cho đời, chưa làm được gì gọi là phục vụ cho quốc gia, dân tộc, cho cộng đồng, từ trước năm 75, đến những ngày trong tù, khi ra tù và cả khoảng thời gian dài ở Hoa Kỳ. Ở trong nước, kể cả trước 30 tháng 4 năm 75, kể cả ở tù và ra tù, chỉ thấy anh hại đời hại người, rồi chui lòn phản bội. Cho đến khi ra hải ngoại, anh kiếm sống chật hẹp bằng cây viết mướn, anh giở những trò bỉ ổi, xuyên tạc từ dân đến quan, từ sư đến cha mà một lần quan tòa bắt phải đưa cái mặt dầy lên đài thú nhận rằng tôi viết sai, nói láo ...

    Bây giờ tuổi anh đã xế chiều, anh cũng chưa đạt được gì cho chính bản thân anh để gọi là thành công, thành đạt. Ấy thế mà mỗi khi đặt bút xuống viết, vẫn giọng kẻ-cả, giọng "bậc thầy" dậy bảo hết người này đến người nọ, hội đoàn này đảng phái kia. Anh Gàn, anh hãy nhìn ra ngoài đời xem, anh đứng ở vị trí nào trong số bao nhiêu bậc thức giả, quyền cao, chức trọng, kiến thức uyên thâm, nghề nghiệp vững chắc, học cao biết rộng, nhưng họ vẫn thầm lặng, nhún nhường, khiêm cung. Chưa cần so với những người ngoài xã hội, chỉ thu gọn trong cái tòa soạn nhỏ bé giữa anh với người đàn bà ấy, để thấy tài sức của anh, thân tầm gửi, tôi tớ, ăn nhờ ở đậu. Người đàn bà ấy, nữ nhi thường tình, nhưng cũng hơn xa so với anh về tài về sức, người đàn bà ấy còn biết tự lập, từ hai bàn tay trắng, tự tạo dựng được cơ nghiệp ... Người đàn bà ấy, Con Ong Việt ngay từ số đầu tiên đã tặng cho một bài phú: - "Phú Thương Hoa" với đầy đủ khen, chê, thương, ghét ... Vũ tôi đăng lại bài phú dưới đây để anh đọc và ngẫm lại cái thân tầm gửi của anh. Anh Gàn ơi! Nam nhi chi chí ... về vườn đi!

      Phú Thương Hoa
      Hoa khai hoa lạc niên niên xuân.
      Tiên hậu tri đào ưng cơ nhân?
      Đản kiến Đào Nương anh nhật nguyệt.
      Bất tri phiến phiến lạc ngô thần.

      Ai người hồng nhan?
      Đâu người tri kỷ?
      Hương sắc tài hoa ấy.
      Tiếc thay một đóa Quỳnh hương!
      Có một người: khổ dạng trâm anh, thuở cài trâm thắt bím, khuê môn bất xuất, thân kiêu nương nào có ai bì.
      Thời con gái nơi dược khoa dùi mài kinh sử, tà áo sinh viên phách tán đám nam nhân.
      Đất trời nổi cơn gió bụi.
      Sài Đô khóc buổi loạn ly.
      Quốc phá, gia phong ly tán.
      Cha con, chồng vợ phân kỳ.
      Chồng Hồ vợ Hán vạn dặm tầm phu, một nách hai con, thân thục nữ bơ vơ nơi đất khách.
      Triều Tần, mộ Sở, con tim sẻ đôi, cuộc tình hai ngả, phận hồng nhan lạc bước chốn tha hương.
      Trăm công ngàn việc, từ bỏ báo đến giữ em.
      Dạy hai con đèn sách nên người, nàng thay bố làm cha . . .
      Con tạo đa đoan ghẹo người hồng diện, nhắm mắt đưa chân, gọi dượng của chúng nó bằng chồng . . .
      Trời không phụ kẻ kiên tâm
      Đất không bạc người có chí
      Giữa chốn lao xao, cùng đám mày râu chen vai thích cánh, nàng đứng nhô cao . . . loại đàn bà dễ có mấy tay . . .
      Trong chốn quần hùng, giữa Nam Kỳ Bắc Đẩu đụng vai, nàng múa gậy vườn hoang . . . như nữ nhân vượt thác . . .
      Quan, nàng không tha. Cha, nàng không từ.
      Sư, nàng chửi theo sư. Vãi nàng mắng theo vãi.
      Bút Nam Tào, Dao thầy thuốc, cả vú lấp miệng em, nàng lấy quyền cha mẹ nói oan.
      Ngôn quá kỳ thực, ngữ quá kỳ biên, đánh trống qua cửa nhà sấm, nàng dùng quyền kẻ quan nói hiếp.
      Bọn giá áo, túi cơm sợ nàng như . . . vào hang sợ cọp.
      Người chính nhân quân tử, ghét nàng như . . . đào đất đổ đi.
      Nàng đôi khi:
      Sáng nắng, chiều mưa, buổi trưa . . . hâm hấp.
      Lẻ vui, chẵn buồn, ngày thường . . . tưng tửng.
      Cho nên:
      Người ngay kẻ gian, cá mè một lứa, nàng chửi người ta:
      ba làng cãi nàng không lại.
      Việc đúng, việc sai, đổ đồng một đám, nàng phang tới bến:
      cho lạc chợ trôi sông.
      Kẻ nịnh tôn bằng mợ, bằng bà.
      Đứa ghét gọi bằng mi, bằng mụ.
      Còn ta thương nàng . . .
      Vì Phụng Hoàng không màng tới muỗi . . .
      Chỉ khuyên nàng:
      Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên mây.
      Đừng khua tổ kiến trên cây, không đánh cáo cầy ngoài nội.

      Nàng ơi!
      Phú ta chỉ có bấy nhiêu.
      Càng cay nghiệt lắm, càng nhiều oan khiên.

      Lê Vũ
      (đừng lầm với Lê Vũ Việt Weekly)
    Trở lại chuyện Tú Gàn. Tú Gàn không là gì cả, con số dê-rô thật to, rỗng ruột mà oang oang, Ngôn Quá Kỳ Hành.

    Ngôn Quá Kỳ Hành, là lời của Lưu Bị căn dặn Khổng Minh trước giờ lâm chung khi nhận xét về Mã Thốc, có nghĩa là "Nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được".

    Sau này Khổng Minh chọn tướng đem binh giữ Nhai Đình, Mã Thốc xin đi, Khổng Minh nói:

    - Nhai Đình chỉ là một mảnh đất nhỏ nhưng quan trọng vô cùng, nếu chỗ ấy thất thủ thì cả đại quân ta nguy hết đường cứu. Ngươi tuy thâm thông mưu lược nhưng hiềm nơi ấy không có thành quách, lại cũng chẳng có thế hiểm nào mà dựa. Khó giữ vô cùng.

    Thốc nói: Tôi làu thuộc binh thơ từ nhỏ lại biết phép dùng binh, lẽ nào không giữ nổi một chỗ như Nhai Đình.

    Thấy Thốc cương quyết xin đi, Khổng Minh bắt lập "Quân lịnh trạng" cấp cho 2 vạn 5 ngàn tinh binh lại cho thêm thượng tướng Vương Bình theo trợ giúp. Kết cuộc, Mã Thốc tự cao tự đại, không nghe lời khuyên của Vương Bình, ngu dốt, không đóng quân vào chỗ ngã năm để canh giữ năm mặt đường mà lại hãm quân vào chỗ hiểm yếu trên núi, nên Nhai Đình thất thủ. Mã Thốc phải nhờ Vương Bình, Cao Tường, Ngụy Diên đem binh tiếp ứng mới được toàn mạng.

    Mã Thốc bị xử tử theo quân pháp. Khi võ sĩ dâng đầu Mã Thốc dưới thềm, Khổng Minh òa lên khóc! có người hỏi rằng:

    - Mã Thốc phạm tội bất khả dung. Thừa Tướng cho lệnh giết đi để minh chính phép quân, sao bây giờ lại sầu não?

    Khổng Minh sụt sùi nói:

    - Có phải ta khóc Mã Thốc đâu! Vì ta nhớ lúc tiên đế lâm chung đã dặn rằng:

    - "Mã Thốc là kẻ nói quá sức mình, không nên giao cho việc lớn". Nay quả đúng như thế. Ta giận ta ngu tối, nên nhớ đến đức sáng của tiên đế mà đau lòng nên ta khóc.

    Trở lại chuyện Tú Gàn ... Ngôn Quá Kỳ Hành ... bao giờ thì bị chém?

    Vũ Lâm

  • Mặt trận lừa đảo, kháng chiến cuội,chiến khu dổm, đảng phái gian


    Trương Minh Hòa

    Thằng Nguyễn Sinh Cung là tên gọi ở nhà, khi đi học, nó có cái tên là Nguyễn Tất Thành, là đứa bé ma ranh, nổi tiếng "láu cá vặt" và được bà chị ruột là Nguyễn Thị Thanh hay lập lại lời của cha để tiên đoán đứa em gian manh từ nhỏ, nếu nó sống lâu nơi vùng quê, thì sẽ trở thành "điếm nông thôn". Tuy nhiên gã bỏ nhà đi hoang, lây lếch kiếm ăn đầu đường xó chợ ở các thành thị, "tiếp thu" thêm nhiều thói hư tật xấu của đám du côn, du đãng, bụi đời thế là hắn "được trang bị" hai "tuyệt kỷ, bí kíp gian manh, xỏ lá, lừa lọc, điếm đàng" từ hai giới: điếm nông thôn và bồi thành thị, là cái "quá trình cách mạng" để hắn tự xưng là "cha già dân tộc" khi mới 57 tuổi, với cái tên giả khác là Hồ Chí Minh. Trôi sông lạc chợ một thời gian, năm 1911, hắn mò tới Bến Nhà Rồng, lấy tên là Nguyễn Văn Ba, tên Tây là Paul Thành, lúc đến Saigon, nổi tiếng Hòn Ngọc Vìễn Đông, hắn trổ tài luồn cuối, nịnh hót, nâng bi một gã đầu bếp Tây để được xuống tàu buôn tên là D'admiral La Touch Tréville, nhận được một chân làm nghề đốt lò, phụ bếp, sai vặt, rửa chén không biết có kiêm luôn nghề đấm bóp, đổ bô cho cai bếp, nếu có thì đảng và nhà nước phải dấu nhẹm như mèo dấu cứt. Sang Tây để kiếm ăn, hai lần nộp đơn xin vào trường thuộc địa để được học với "mục đích yêu cầu" là được làm quan cho Tây, nhưng vì trình độ văn hóa mới có lớp 5 trường làng, bị xù vì thiếu tiêu chuẩn, khiến hắn thất vọng, ở nấn ná một thời gian, nhờ vài người Việt thương tình cho tá túc, đã vậy mà còn dê đạo lộ, tỏ tình với con đầm tên là Bourbon, bị chê nên hắn tức lắm.

    Cuối cùng bỏ Pháp, qua Mỹ, và sau đó tìm được nơi dung dưỡng vững chắc là nước Nga; vào khoảng cuối năm 1923, hắn được "nâng cấp" cho tòng học ở Trường Công-Nông Đông Phương, nơi có "nghiệp chuyên" đào tạo gián điệp, khủng bố, làm tay sai cho đế quốc đỏ nầy; ở Nga, hắn lấy tên là Nilovsky và được quan thầy cung cấp cho một phụ nữ Nga để "trao dồi tư tưởng Marx Lenin", từ đó tên Hồ Chí Minh trở thành tay sai đắc lực của Nga, hoạt động tại Á Châu, được cấp phát lương hàng tháng. Thế mà đảng Cộng Sản Việt Nam lếu láo tuyên truyền là: "từ bến Nhà Rồng, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước". Sau khi được hai quan thầy Nga Sô, Trung Cộng ủng hộ vũ khí, Hồ Chí Minh thành công trận Điện Biên Phủ là nhờ lợi dụng xương máu của dân chúng qua chiêu bài yêu nước, rồi manh tâm cấu kết với hai quan thầy và thực dân Pháp để chia đôi đất nước qua hiệp định Geneve ngày 20-7-1954, từ đó hắn trở thành "QUAN TOÀN QUYỀN" của cả hai quan thầy Nga, Tàu; hay nói đúng hơn là Hồ Chí Minh và toàn đảng Cộng Sản Việt Nam là tập đoàn "quan lại cai trị của Nga, Tàu, nhưng khác hơn là gốc Việt". Một tập đoàn thái thú, quan cai trị, chỉ có một quan thầy là cũng dã man rồi, huống chi làm "đầy tớ cho hai mẫu quốc cùng một lúc" thì dân nước Việt còn gì là "độc lập, tự do, hạnh phúc?", đó là hậu quả của hàng triệu người bị giết oan và đất nước kéo dài nghèo nàn, lạc hậu cho đến ngày nay. Khi hai quan thầy nghịch nhau là đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm sao vừa lòng cả hai, đó là cái bần của "tập đoàn lòn trôn, bợ háng, nâng dái" của hai thầy cũng một lúc, mà kẻ bợ kỹ nhất phải là tên gian ác Hồ Chí Minh:

    "Ai về nhắn với Hồ Chủ tặc.
    Được cả lòng Nga, lẫn bụng Tàu".

    Sau 1975, thời mà "cao trào" quan thầy Nga nghịch với Tàu, thì tập đoàn đầy tớ Việt Cộng đành phải dựa vào thầy Nga, nên đã đổ phí biết bao biết bao xương máu của bộ đội để đương đầu với quan thầy cũ Trung Cộng ở phía bắc và tay sai Pol Pot ở mặt trận Tây Nam, chớ nào "bảo vệ tổ quốc" như lời tuyên truyền láo. Sau khi quan thầy Nga sụp đổ, thì Việt Cộng lại trở về làm "quan cai trị Trung Cộng gốc Việt" ở Việt Nam.

    " Bác dắt giống nòi thành NÔ LỆ
    Đảng đưa nhân dân với CÁI CÒNG".

    Do đó, trong suốt quá trình từ ngày đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 đến nay, đảng nầy chỉ là tập đoàn thái thú, toàn quyền ngoại bang gốc Việt, thật là nguy hiểm vô cùng. Nước Việt Nam đã mất "độc lập, tự do" từ năm 1954 mà dân hãy còn chưa biết nhiều, ngay cả việc đảng Cộng Sản công khai nhường hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng từ năm 1958 đến nay, mà dân cũng chỉ biết lờ mờ, ai nêu lên là bị chụp mũ phản động, tù đày. Nói tóm lại, bản chất của tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là tay sai ngoại bang, lợi dụng lòng yêu nước của dân qua chiêu bài "đánh Tây giành độc lập, đánh Mỹ cứu nước", rồi "yêu nước gắn liền với xã hội chủ nghĩa" để duy trì chế độ, công thức kinh tế dị mô "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Áng mây mù Cộng Sản bao trùm cả đất nước gần 80 năm qua, kẻ làm tay sai, thái thú, toàn quyền, nhà cai trị Nga, Tàu gốc Việt vẫn lừa đảo dân chúng từ đời ông, cha, cháu, chắt nên nhiều người vẫn còn tự hào thời kỳ đi làm tay sai cho ngoại bang, góp phần đắc lực giúp cho tập đoàn cai trị nước ngoài gốc Việt là Cộng Sản, Hồ Chí Minh với "mùa thu rồi ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu san hà nguy biến" hay là "giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước"...v....v... là thời "làm cách mạng", thì quả là ngây ngô, mù quáng, đi ngược lại công lý, đạo đức. Trên đời nầy có ai mà "tự hào" thời kỳ tham gia đảng cướp, giết người là thời kỳ "vàng son, lương thiện bao giờ?, ngoại trừ là có ăn chia, có nhiều quyền lợi. Có ai xem thời kỳ đi theo giặc, làm tay sai cho ngoại bang là "làm cách mạng"?.

    Đương nhiên là tên thành lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam, tên thái thú, toàn quyền đầu tiên của Nga, Tàu là Hồ Chí Minh, không phải là người yêu nước, làm cách mạng gì cả. Tuy nhiên, ngày nay vẫn có những "quái thai phản tỉnh" được coi là thành phần "phản phé, phản thùng" trở thành "nhà phản dân chủ" chớ nào là "nhà dân chủ" mà vài cơ quan truyền thông cò mồi, nằm vùng, đón gió ở hải ngoại đánh bóng, như cựu đại tá Việt Cộng Bùi Tín, cựu phát ngôn viên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Nguyễn Ngọc Giao, Hoàng Minh Chính .v..v...tự nhận là phản tỉnh, nhưng coi thời kỳ làm tay sai cho giặc, ngoại bang là "làm cách mạng", được một số cơ quan truyền thông trịnh trọng gọi là "nhà cách mạng lão thành" và Hồ Chí Minh là người yêu nước, dù có nhiều sai lầm giết người hàng loạt, làm đầy tớ cho Nga, Tàu là lối biện minh như câu "nhân vô thập toàn" nhằm chạy tội cho tên toàn quyền, thái thú đầu tiên của Nga, Tàu là người yêu nước và cái đảng cướp tay sai là có chính nghĩa, là làm cách mạng.

    Ngày nay, tại Việt Nam, từ sau 1975 đến nay, những tên du kích, khủng bố Việt Cộng, sau khi chiếm được miền Nam, bị các ĐỒNG CHÍ miền Bắc ĐÌ CHỐNG, đá văng ra khỏi những cơ quan quyền lực, chức vụ béo bở; một số còn bị chiếm đất, lấy nhà, trở thành "dân oan khiếu kiện" tức lắm, nhưng vẫn chưa sáng mắt, có người còn tin tưởng là: "Phải chi Bác Hồ còn sống, thì đâu có chuyện nầy". Họ đã lầm, lầm to, vì chưa thấy được quan tài chưa đổ lệ, như nhà thơ miền Nam Bảo Định Giang nhắm mắt làm thơ:

    "Miền nam đẹp nhất bông sen.
    Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ".

    Dễ hiểu là những người miền Nam chưa sống ở miền Bắc mà biết được "Bác Hồ vĩ đại" ra lịnh cho đàn em là Trường Chinh, Hồ Quyết Thắng tàn sát hàng trăm ngàn người dân sau chiến dịch cải cách ruộng đất, trong đó có hàng chục ngàn người từng đóng góp công lao đánh Tây giành "đập lột", có nhiều người từng "nuôi cán bộ trong nhà" thời "tam cùng". Ngay cả anh chị ruột mà "Bác Hồ" còn bị giết, thì người thường, cán bộ, thuộc cấp hề hấn gì. Sau khi được danh hiệu "cha già dân tộc", Hồ Chí Minh sợ anh chị "tiết lộ thân thế và sự nghiệp" nên ra lịnh cho tỉnh ủy Nghệ An quản chế anh là Nguyễn Sinh Khiêm, chị là Nguyễn Thị Thanh ở một nơi bí mật cho đến khi chết mới an tâm.

    Tại hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều tổ chức phục quốc, kháng chiến, qui tụ người, thu tiền, lập chiến khu, trở về nhưng tất cả đều thất bại, vì hầu hết cả tổ chức ấy không đi đúng thời cuộc, nhất là những người hô hào thì không kháng chiến thật, chỉ lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để "hốt bạc" chớ nào yêu dân mến nước, đó là những "thương nghiệp kháng chiến được thành lập. Được biết sau 1975, Hoa Kỳ và các nước đồng minh không còn dồn nỗ lực quân sự để đương đầu với khối Cộng Sản Quốc Tế do Nga lãnh đạo trong cuộc chiến tranh lạnh trên chiến trường, đó là thời kỳ "âm mưu diễn biến hòa bình", cho nên điểm nóng ở Việt Nam nguội dần sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhất là Hoa Kỳ, dù không còn tham chiến tại Việt Nam, nhưng chuyện quân nhân Mỹ mất tích là vấn đề mà các chính phủ quan tâm đặc biệt, với con số thất tung lên đến hơn 2 ngàn.

    Năm 1976, tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter cử phái đoàn đi các nước Á Châu, trên đường ghé Hà Nội, gặp giới lãnh đạo hung hăn, đại diện là tên đánh xe Bù Ệt ở Bến Thủy Lê Duẩn ngạo mạng cho là: "muốn bang giao thì trả 4 tỷ Mỹ Kim theo hiệp định Paris". Theo điều 21 hiệp định Paris, nếu hai miền tôn trọng cam kết, sống trong hòa bình như Nam-Bắc Hàn, Đông-Tây Đức, thì Hoa kỳ sẽ chi viện mỗi miền 2 tỷ Mỹ Kim để tái thiết, xây dựng; nhưng Việt Cộng và Bắc Việt vừa ăn cướp vừa la làng và vừa đòi tiền một cách trơ trẽn. Phái đoàn Mỹ khuyến cáo là: "Việt Nam đã đất mất một cơ hội tốt". Thật ra người Mỹ không phải "hèn nhát, bạc nhược và sợ Việt Cộng" như lời tuyên truyền "đánh thắng giặc Mỹ, tên đế quốc sừng sỏ..." và những bầy ếch xuất phát ở hang Pác Pó, sau nầy dời ra ở cái hang mới ở Bắc Bộ Phủ tự hào là: "Việt Nam anh hùng, đánh bại cả đế quốc Mỹ, kẻ thù số một" là vô địch, bách chiến, bách thắng.

    Nhưng vì vấn đề tìm quân nhân mất tích, nên các đời tổng thống phải tìm đến Việt Nam, nếu tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản có chút khôn khéo, hay là có trí khôn "trung bình" thì cũng đã nắm bắt lấy cơ hội nầy mà phát triển đất nước ngay từ lúc ấy chớ đợi đến khi ông tổng thống Bill Clinton xả vận 1994 là coi như quá trễ, bị đàn anh Trung Cộng bỏ quá xa. Tuy nhiên, đảng, nhà nước Việt Cộng là nơi qui tụ "những bộ óc đần độn" nhất nước, như gã đánh xe Bù ỆT Lê Duẫn, tên thiến heo Đỗ Mười thì làm sao khá nổi?. Được biết, lối trả thù hèn hạ "trại cải tạo, tắm máu khô" là sản phẩm "đỉnh cao trí tuệ của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ" và cuộc đánh nhau đổ máu ở biên giới Việt Trung, Việt Miên cũng là do bọn chúng gây ra.

    Do đó người Mỹ tìm phương cách khác là nhờ những quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa, là những người có nhiều kinh nghiệm chiến trường, biết địa thế và có quyết tâm chống Cộng, họ lợi dụng lòng nhiệt thành để tìm hài cốt, quân nhân Mỹ mất tích. Những người có tấm lòng yêu nước tỏ qua quan ngại, khi bị Mỹ lợi dụng để tìm hài cốt, chớ không thực tâm giúp cho người Việt Nam đánh Cộng Sản, nên không tâm đắc với lối nầy; trong đó có cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, là người không bị lọt vào quỹ đạo của Mỹ, nên ông sớm nhận thức ra việc giải phóng đất nước bằng giải pháp quân sự là không đi đến đâu; nếu khi người Mỹ hết nhu cầu và được vào Việt Nam là coi như có hại hơn là lợi, do đó ông và một số người quốc gia phát động giải pháp đấu tranh chánh trị, mà ngày nay vẫn còn áp dụng hữu hiệu tại hải ngoại, cũng như trong nước.

    Một điều chắc chắn là: cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là người có tâm huyết với đất nước với lập trường vững chắc là "không bao giờ hòa hợp hòa giải với Cộng Sản". Tiếc thay, có một số người trong tổ chức của ông đã đi ngược lại, họ lợi dụng uy tín của ông để "bắt tay với Việt Cộng", đi theo một số tổ chức cò mồi, nhằm tìm lợi lộc riêng. Những kẻ nào làm chuyện nầy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tổ quốc, lương tri và hương hồn cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

    Trước tình hình nầy, có một số kẻ thời cơ, muốn nhân cơ hội, lợi dụng "quyền lợi" của Mỹ để hốt bạc như kế "thuận thủ thu dương" hay "tương kế tựu kế", nhân cơ hội người Mỹ cần tìm người mất tích, tổ chức kháng chiến, nếu vớ được hài cốt thì có tiền thưởng và lại nhận được tiền ủng hộ của người dân tỵ nạn hải ngoại; đúng là lối làm ăn, đầu tư bằng kháng chiến, phục quốc, không cần tốn kém tiền vốn mà thu nhiều. Một trong những tổ chức "làm thương nghiệp bằng lòng yêu nước" là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và các anh em của ông là Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long, cùng với một số kẻ thời cơ, làm giàu bằng cách kháng chiến cuội.

    Số tiền thu được rất cao, năm 1982, nghe đâu là 7 triệu (thời ấy là số tiền lớn), tổ chức nầy có cả cơ sở thu tiền là Phong Trào Quốc Gia yểm Trợ Kháng Chiến do ông Phạm Ngọc Lũy đảm trách, nên dần dần, chỉ sau thời gian ngắn, nhiều nơi hưởng ứng, lập ra "cơ sở mặt trận, yểm trợ", đương nhiên là những người làm thương nghiệp kháng chiến rất ư là "hồ hởi phấn khởi". Mặt Trận Hoàng Cơ Minh gặp thời như diều gặp gió, tổ chức đại hội chánh nghĩa, được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt và Mặt Trận còn nó láo là có tới 10 ngàn tay súng ở biên thùy, nghe qua ai cũng phấn khởi, tờ báo Kháng Chiến còn thổi phồng nhiều "kháng đoàn kháng chiến" trong nước hoạt động như chỗ không người, nay chiếm xã nầy, đánh quận kia làm nức lòng người đóng tiền; chớ ai nào dè đây là thủ đoạn tuyên truyền láo như kiểu Cộng Sản trước đây ở các vùng nông thôn.

    Do ăn chia không đều mà cựu đại tá Phạm Văn Liễu ly khai, tố khổ, từ đó gây ra nhiều sự kiện và bộ mặt lừa đảo kháng chiến dần dần phơi bày ra ánh sáng. Vì là tổ chức kháng chiến cuội, nên cái cửa hàng khách chiến cũng phải là "chiến khu dổm", cùng với Mặt Trận lừa đảo được thành lập tại đất Thái Lan, chớ không phải tại Việt Nam hay sát biên thùy Việt nằm trên đất Miên, Lào. Trong bất cứ cuộc chiến nào, một đơn vị được gọi là "đánh giặc" mà đồn trú ở nơi xa chiến trường "cách ngạn quan hỏa" hay là "đường ra trận giờ nầy đẹp lắm" với đơn vị không tiếp cận với kẻ thù như: "nghìn trùng xa cách" nơi "chiến trường đi mà không tiếc ngày xanh", thì đánh đấm với ai? Đó chỉ là đơn vị lính kiểng mà thôi, điều nầy lộ rõ bộ mặt dổm của chiến khu, nhưng Mặt Trận cũng cất trại, láng, có quay phim màu "quảng cáo" với các đoàn vũ trang kháng chiến cuội, được ngụy trang bằng chiến khu dổm; theo tác giả Hoàng Xuyên, là người đã từng đi vào chiến khu cho biết: Mặt Trận Hoàng Cơ Minh phải mướn cả người Lào để có đông quân lính, làm lễ trình diện các đơn vị như kháng đoàn 72, 81 là lối quảng cáo khá ăn khách, thu được nhiều tiền, có thời làm say mê biết bao người có tấm lòng mà tin tưởng rằng:

    "Ai đi kháng chiến mà khiến chán?.
    Có thấy chiến khu dỏm quá mà.
    Có thấy kháng đoàn giương cờ xí.
    Khăn rằng quàng cổ, Hoàng Cơ Minh".

    Một điều đau lòng là: thời gian cao độ khách chiến, những ai từ hải ngoại có tấm lòng, tình nguyện trở về chiến khu là coi như "đời tàn", khi tới biên thùy Thái Lan, họ bị tịch thu tất cả giấy tờ, nhất là Giấy Thông Hành (passport), rồi từ đó không có phương tiện để trở ra nếu "khiến chán" sau khi nhìn thấy tận tổ chức "kháng chiến" cuội, lại thêm kỷ luật tàn bạo nữa. Đây là biện pháp nhằm bưng bít những điều giả dối trong tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, nếu họ ra vào thì bể hết, làm sao mà thu tiền. Đó là lý do mà một số người trở về chiến khu mà không bao giờ trở lại, vì quyền lợi tiền bạc mà tổ chức nầy đã làm những việc tán tận lương tâm.

    Nhờ quảng cáo ăn khách, biết khai thác đúng lòng yêu nước nhiệt thành của hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, nên sau đó mới có hệ thống kinh tài Phở Hòa, lừng danh là "Mặt Trận phở bò" hay là "Mặt Trận Bán Phở", là lối kinh doanh của anh em nhà họ Hoàng Cơ "dùng tiền kháng chiến kinh doanh", khỏi cần đi vay ngân hàng. Trái lại, ở nơi chiến trường chánh thì ở cách xa đất nước, nhưng Mặt Trận mở rộng chiến trường ở hậu phương, là các cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại, nơi nầy đâu có "đánh đấm" nguy hiểm, chết chóc gì, nhưng có rất nhiều thuận lợi là thu tiền là mặt mạnh, là "mục tiêu kháng chiến CHÁNH, khẩn trương"; như vậy, bản chất của Mặt Trận đã lộ ra từ lâu, nhưng nhiều người chưa nhìn thấy mà tiếp tục ủng hộ, là cơ hội cho anh em ông Hoàng Cơ Minh trở thành triệu phú, không cần lao động mà vinh quang hơn bất cứ những người lao động nào. Hay nói khác đi, anh em nhà họ Hoàng Cơ và những kẻ lãnh đạo Mặt Trận đã dùng chiêu bài kháng chiến, chống Cộng để vắt kỹ mồ hôi của hàng triệu người Việt tỵ nạn, vừa làm mất lòng tin dần dần, có lợi rất nhiều cho Việt Cộng trong việt "đánh sập tinh thần" của người Việt hải ngoại, để dọn đường cho cái mũi văn hóa vận trí vận, tôn giáo vận, kinh tài vận, kiều vận đây là tội rất lớn mà Mặt Trận gây ra từ nhiều năm qua và họ tiếp tục phát huy thêm qua các cơ quan truyền thông như đài Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới do lợi dụng lòng yêu nước để làm kháng chiến, nên từ "nền tảng" Mặt Trận Hoàng cơ Minh đã là thứ gian, từ từ mất lòng tin, nên họ tung ra nhiều thủ đoạn để "cứu vớt thương nghiệp không vốn" như thành lập ra cái gọi là Liên Minh Việt Nam Tự Do (đầu tiên do ông Nguyễn Ngọc Đức, du học sinh ở Pháp lãnh đạo), Hội Chuyên Gia Việt Nam, qui tụ những khoa bảng có chữ "sĩ, sư" để thu hút lòng tin của dân (họ tin là dân có bằng tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư nói là có nhiều người nghe, tin) và những khoa bảng lớn tuổi thu hút khoa bảng hậu duệ, trở thành một tổ chức có tầm vóc chất xám, là nơi thu hút, ăn khách nên dể lừa đảo.

    Do đó, dù có giải tán Liên Minh Việt Nam Tự Do, Mặt Trận để đổi "Business name" thành đảng Việt Tân, nhưng cái Hội Chuyên Gia Việt Nam vẫn là cánh tay đắc lực, là cái phao cứu thương nghiệp kháng chiến cuội trong đà "thoái trào lừa đảo". Sau khi người Mỹ mở đường đi tìm hài cốt có cơ dễ dàng, Thái Lan vì quyền lợi giao hảo với Việt Cộng, nên các thương nghiệp kháng chiến cuội ở đất Thái bị chủ nhà đuổi, thế là họ đành phải dời chiến khu dổm đi nơi khác để tiếp tục làm ăn: có tới ba đợt ĐÔNG TIẾN, là cơ hội để cho dân tỵ nạn ĐÓNG TIỀN, từ Đông Tiến 1 với anh hùng Đồng Bò Nguyễn Văn Phùng, Đông Tiến 2 với sự tan hàng bộ phận đầu não, phó đề đốc Hoàng Cơ Minh bị chết vì không rành địa thế, dọn dẹp chiến khu từ đất Thái sang Lào năm 1987 và Đông Tiến 3 với thiếu úy sư đoàn Dù là Đào Bá Kế (bắn hết hết đạn, bị bắt bào năm 1989, nay vẫn còn nằm tù ở Việt Nam)... vì quyền lợi, nên Mặt Trận dấu luôn cái chết của Hoàng cơ Minh đến 14 năm.

    Mặt Trận đâu có thành lập một tổ chức nào khác trong thời gian mở chiến khu dổm trên đất Thái, thế mà sau nầy, vì nhu cầu làm ăn mới mà giải tán thương nghiệp Mặt Trận, vẽ bảng hiệu khác là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng đảng, gọi tắt là đảng Việt Tân. Rồi lục đục chia thành hai cánh "chệch hướng" do Hoàng Cơ Định, Nguyễn Kim, Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng và không chệch hướng là Hoàng Cơ Long, Trần Xuân Ninh hai cánh tố cáo nhau, tranh giành đảng viên, ảnh hưởng, gây nhiều cảnh khó coi tại hải ngoại, chống Cộng đâu chẳng thấy, mà cộng đồng xào xáo, phân hóa. Dù có chệch hay đúng hướng, thì cái tổ chức kháng chiến cuội, Mặt Trận gian, đảng phái gian manh từ nền tảng, lợi dụng việc đi tìm hài cốt quân nhân Mỹ và lòng yêu nước của người Việt tỵ nạn để thu tiền. Đó là tổ chức có nguồn gốc, mục đích không lương thiện, chánh nghĩa như đảng Cộng Sản Việt Nam, nên việc làm của họ không nhằm phục vụ quyền lợi dân tộc, mà cho thiểu số, bè nhóm, cá nhân.

    Một số người từng lãnh đạo Mặt Trận như Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Định, Lý Thái Hùng, Nguyễn Kim, Đỗ Thông Minh dùng mọi nổ lực để đánh lừa người dân từng nuôi dưỡng, ủng hộ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, chiến khu là tổ chức là "kháng chiến vì dân vì nước" chớ không phải kháng chiến cuội, nhằm biện minh cho thời gian sai trái, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để mưu cầu quyền lợi cá nhân. Cũng như đảng viên Cộng Sản phản tỉnh, luôn coi thời kỳ theo đảng Cộng Sản là "làm cách mạng, đánh Tây, đánh Mỹ" và họ tự hào là "nhà cách mạng lão thành". Những người từng nằm trong ban lãnh đạo thương nghiệp Mặt Trận Hoàng Cơ Minh muốn đánh lừa mọi người như là "kháng chiến, yêu nước" nên muốn bảo vệ thành quả gian, uy tín cá nhân, họ biện minh khéo léo, binh vực Mặt Trận, nhất là người lãnh đạo là phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, là vị chủ nhân đầu tiên, có công thành lập "tiệm kháng chiến".

    Sau khi quyển "Hành Trình Người Đi Cứu Nước" của kháng chiến quân "binh nhì" Phạm Hoàng Tùng, được Đỗ Thông Minh xuất bản, giới thiệu rần rộ các nơi, thì việc ông Hoàng cơ Minh có tàn ác, giết người trong chiến khu, ngay cả bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều cũng chỉ là việc "phải làm" để bảo vệ tổ chức, chớ Hoàng cơ Minh là người vì dân vì nước và Mặt Trận cũng là tổ chức kháng chiến cứu nước. Đó là những biện pháp nhằm chạy tội lừa đảo kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để làm giàu. Mặt Trận ngày xưa, đảng Việt Tân ngày nay cũng chỉ là tổ chức gian như Mặt Trận Việt Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam mà thôi và lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như lãnh tụ Hoàng Cơ Minh đều là những kẻ biết lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam để mưu cầu quyền lợi cá nhân, bè phái. Hồ Chí Minh thì nhận được chức "quan toàn quyền Nga, Thái Thú Tàu", còn Hoàng cơ Minh thì thu được nhiều tiền, có công giúp cho gia đình thành triệu phú. Như vậy "đảng Việt Tân không thể canh tân, cách mạng làm gì cho mất thời giờ; tốt nhất là dẹp phức nó đi, là người Việt quốc gia đỡ một mối nguy".

    Người mua nhằm đồ giả không có tội tình gì, nhưng bọn làm hàng giả mới đáng lên án và vạch mặt. Trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, Hội Chuyên Gia, Liên Minh Việt Nam Tự do, ngày nay là đảng Việt Tân (cả hai cánh chệch hay đúng hướng như các lãnh đạo quan niệm), lỡ đi theo, là nạn nhân của món hàng giả "chống Cộng", nếu sớm nhận ra thì họ sẽ "giã từ" và vạch mặt chỉ tên những nơi "sản xuất hàng giả kháng chiến, chống Cộng", còn chưa nhìn thấy hàng giả, cứ nhắm mắt đi theo là vô tình tiếp tay cho hãng sản xuất hàng giả tồn tại, làm hại cho công cuộc chiến đấu bảo vệ lập trường tỵ nạn chính trị và công cuộc yểm trợ dân chủ trong nước.

    Những người đi theo Mặt Trận, Việt Tân, không có tội vạ gì, họ là những người "trông hàng giả mà tưởng thật". Một điều cần lưu ý là: Khi có nhiều người khám phá ra hàng giả cảnh báo mà cứ nhào vô cửa hàng Việt Tân quảng cáo ở các chi nhánh từ Hoa Kỳ, Úc, Âu qua các cơ sở đài Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới và các cơ quan truyền thông khác, thì người đó chưa "tri giả, tri giả ...." thấy hàng giả mà cứ khen là thiệt, thì mới đúng là "đi chệch hướng", vô tình làm lợi cho Việt Cộng. Người mua hàng giả "kháng chiến" của cửa hàng Mặt Trận Hoàng Cơ Minh không đòi hỏi "refund", nhưng cũng không ngây thơ để bị lừa tiếp, một điều cấp bách là: những người mua lầm hàng dổm chỉ muốn cửa hàng Việt Tân nên đóng cửa càng sớm càng tốt để cho cộng đồng được ổn định, hầu dành sức mà đương đầu với đảng Cộng Sản đang thò bàn tay lông lá qua nghị quyết 36.

    Trương Minh Hòa

    Phạm Đình Chương, những chặng đường âm nhạc


    Nguyễn Mạnh Trinh

    Có nhiều người cho rằng thơ phổ nhạc không còn chất thơ nguyên thủy nữa bởi vì nhạc sẽ làm giảm đi cái nét thâm trầm sâu sắc mà thơ phải chuyên chở. Một người chủ trương như vậy là nhà văn Tạ Tỵ. Khi được hỏi về những bài thơ phổ nhạc mà có sự ví von là nhạc chắp cánh cho thơ trong đó có bài “Thương về 5 cửa ô xưa” của ông.

    Nhưng có nhiều người thì nghĩ khác. Như nhạc sĩ Anh Bằng, người đã phổ hàng trăm bài thơ thì cho rằng thơ phổ nhạc là một nét đặc thù của văn nghệ Việt Nam. Trong khi nói chuyện với tôi ông đã tỏ ra rất trân trọng những bài thơ phổ nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cho rằng đó là một nhạc sĩ phổ thơ hay nhất của âm nhạc Việt nam.

    Riêng với tôi, nghe lại những bản nhạc phổ từ thơ của người ca sĩ chủ chốt của ban hợp ca Thăng Long Hoài Bắc, tôi đã bị lôi cuốn vào một thế giới âm nhạc tuyệt vời. Từ những bài thơ nổi tiếng, nhạc đã mở ra thành những thế giới riêng và cất cao lên những cung bậc ngân nga trong tâm não. Thơ Quang Dũng (Đôi mắt người Sơn Tây) như có phả vào trong nhạc Phạm Đình Chương những nỗi niềm sầu xứ riêng của một người yêu quê hương tha thiết. Thơ Thanh Tâm Tuyền (Lệ đá xanh) những câu thơ tự do trúc trắc lại trở thành những cung bậc mượt mà và hình như trong từng nốt nhạc từng lời ca được chọn lọc trong thơ có một điều gì sẻ chia đồng cảm. Với thi ca, nhạc Phạm Đình Chương là bạn đồng hành.

    Và mỗi khi buồn, những bản nhạc tình của Phạm Đình Chương đã làm tôi da diết hơn nỗi đau và nhức buốt thêm nỗi nhớ. Tha thiết, lãng mạn, như nghe Nửa hồn thương đau, nghe “Người đi qua đời tôi”, những lời và nhạc quyện vào nhau. Ngân lên. Réo rắt.

    Phạm Đình Chương, người nhạc sĩ tài hoa đã làm phong phú cho gia tài âm nhạc Việt Nam. So với các nhạc sĩ nổi tiếng khác số lượng sáng tác của ông không nhiều lắm nhưng đã có rất nhiều ca khúc đã đi vào cõi bất tử. Nhạc của ông còn có tuổi thọ hơn ông nhiều lần. Những ca khúc đã nổi tiếng đến nỗi thành quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.

    Riêng với cá nhân tôi, mỗi lần nghe lại những bản nhạc như “Sáng Rừng” hay trường ca “Hội Trùng Dương”, tôi lại bồi hồi nhớ đến những ngày xưa lúc mới lên trung học. Ở ngôi trường mà trước đây là chỗ nuôi ngựa của quân đội Nhật sau sửa chữa thành Trung Tâm Học Liệu, nơi chúng tôi đã học hát những bài này với thầy Chung Quân ròng rã những năm đệ thất, đệ lục. Những bài hát đã tạo ấn tượng rất mạnh cho tôi từ ngôn ngữ đến âm điệu. Những bài hát làm tôi yêu mến hơn quê hương đất nước tôi. Tôi nhớ cả lớp tôi chia làm hai bè và những câu hát cứ đuổi theo nhau như lượn sóng ào ạt cuồn cuộn: “… Sóng muôn triền tới sóng xô về tới như muôn tình mới vươn sức người. Bừng giữa đời …” Chúng tôi cứ thế mà hào hứng hát trong cái kích động vô cùng của chuyển khúc nhạc … Thầy Chung Quân, tác giả của ca khúc nổi tiếng “Làng tôi“ thì không hết lời giảng giải với bọn học trò chúng tôi những nét hay ý đẹp của những ca khúc này. Thành ra, tuy tôi chưa gặp mặt bao giờ nhưng lại vô cùng quen thuộc khi nghe nhắc tới tên tuổi của nhà nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Hình như trong tiềm thức của tôi, đã có một vóc dáng nhạc sĩ cực kỳ to lớn. Những lờica hằn trong tâm thức và một lúc nào, có chất xúc tác, bùng vỡ cảm xúc như trôi theo suối, theo sông …

    Rồi thời gian trôi, tôi lớn lên, vào đại học rồi đi lính, đi tù, rồi vượt biên, rồi lưu lạc xứ người, mãi thời gian khoảng thập niên 80 tôi mới gặp lại ông. Và hình như, cái vóc dáng ngày xưa mà tôi tưởng tượng dường như không sai biệt mấy. Trong một buổi họp mặt văn nghệ ở quán Doanh Doanh của anh chị Thái Tú Hạp, ông hát bản nhạc mới sáng tác phổ từ thơ Du Tử Lê “Đêm nhớ trăng Sài Gòn“ và bản “Hạt bụi nào bay qua“ từ thơ Thái Tú Hạp. Dáng ông cao gầy, nói chuyện có duyên với giọng thật đặc biệt Bắc Kỳ Sơn Tây, mặc dù lúc đó hơi men đã ngấm. Ông hát rất truyền cảm và tạo được những phút giây lắng đọng trước khi chấm dứt làm người nghe ngưng một giây sững sờ trước khi vỗ tay vang dội. Trong tiếng nhạc, có tâm sự tỏ bầy. Trong lời ca, có mênh mông những khung trời quá khứ…

    Theo tài liệu của nhạc sĩ Phạm Thành là con ruột ông thì nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ, thân phụ ông đánh đàn tranh rất tuyệt trong khi thân mẫu ông chơi đàn bầu cũng rất hay. Thành ra nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, tác giả Nắng Chiều đã rất hữu lý khi phát biểu rằng nhạc của Phạm Đình Chương đã biểu lộ được những tinh túy của âm điệu ngũ cung. Sống trong một gia đình nghệ sĩ “nòi “ như vậy thì hấp thụ được những tinh hoa của nguồn nhạc dân tộc tính là chuyện dĩ nhiên.

    Ông bắt đầu học nhạc lý từ khi còn thơ ấu. Lúc mười bẩy tuổi ông đã sáng tác bản nhạc đầu tay “Ra đi khi trời vừa sáng“ với lời nhạc trong sáng nhịp điệu vui tươi tới bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Thí dụ như Đài phát thanh Little Sài Gòn ở Orange County đã dùng làm bản nhạc khởi đầu chương trình “Chào bình minh“ mỗi buổi sáng.

    Thời kháng chiến chống Pháp sau năm 1945, cũng như những chàng trai Hà Nội yêu nước, ông gia nhập vào các đoàn văn nghệ lưu động của Liên khu 4 và Liên khu 3. Ông đi đến nhiều nơi: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên. Thời kỳ này, ông sáng tác những bài hát kích động tinh thần yêu nước, chấp nhận những khó khăn, có bóng dáng của chiến tranh nhưng không hận thù chém giết. Như ca khúc “Được Mùa“ âm điệu vui tươi, chứa chan tình cảm với lòng tin tưởng vào tương lai. Trong khi những bản nhạc cùng thời sáng tác như “Ngày Mùa“ của Văn Cao, “Gánh Lúa “ của Phạm Duy, hay “Dân Ca Lúa Vàng“ của Mặc Thy, thì lời ca tiếng nhạc có bóng dáng của chém giết chiến tranh hơn.

    Nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay thường kể về những ngày tháng đầy hào hứng của tuổi trẻ của những thanh niên lớp tuổi ông và Phạm Đình Chương, vai đeo bạc đà tay bút tay đàn rộn rã với sinh hoạt văn nghệ thời kỳ toàn dân chống giặc. Nhà văn Tạ Tỵ trong hồi ký viết về các văn nghệ sĩ mà ông quen biết cũng nhắc đến quán cà phê của gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long thuở ấy. Vừa lưu diễn vừa sáng tác, tay đàn tay bút, từ đồng nội đến núi rừng, sinh lực tuổi trẻ và tâm tình yêu nước đã thể hiện trong từng ca khúc của Phạm Đình Chương.

    Sau chính sách Cải cách Ruộng Đất và những ngày rèn cán chỉnh quân, bộ mặt Cộng sản dần dần ló dạng, ông và gia đình trở về thành và vào Sài Gòn sinh sống. Ơû đây, ông cùng với anh ruột là nhạc sĩ Hoài Trung, chị ruột là ca sĩ Thái Hằng, anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, em ruột là ca sĩ Thái Thanh lập thành Ban Hợp ca Thăng Long. Đôi khi còn tăng cường ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp ca Thăng Long đã hoạt động liên tục trong một thời gian dài. Có khi trình diễn ở Hà Nội thì đổi tên là Ban Hợp Ca Gió Nam với sự góp mặt của nhạc sĩ Nam Tiến (tức Trần Văn Trạch) Kỷ niệm những ngày lưu diễn này nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã nhắc đến và tâm sự nhiều lần trước khi qua đời và coi như một kỷ niệm đẹp trong đời ca hát của người nghệ sĩ lão thành này.

    Những ngày ở miền Nam là những ngày sáng tác sung mãn của ông. ‘Ly rượu mừng” bài hát vui tươi tràn dầy mộng ước, là lời chúc rất nhân bản đã trở thành một bài hát mở đầu cho những buổi họp mặt của hầu hết mọi người dòng dã mấy chục năm về sau. Hay “Tiếng dân chài”, theo lời kể của tác giả là một sáng tác từ cảm hứng trên bờ sông Mã khi mục kích sinh hoạt của những người dân chài lưới.

    Thời kỳ này Ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng đến nỗi bìa của giai phẩm xuân “Đời Mới” của nhà báo kiêm chính khách Trần Văn Aân có hình ban Thăng Long có hai cô Thái một cô Khánh (Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc) phải in thêm để có đủ số lượng bán.

    Là linh hồn của Ban Thăng Long, những sáng tác của ông đã góp phần làm rạng rỡ những thành công vượt bực. Như Sáng Rừng, như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, như Tiếng Dân Chài, như Bài Ca Tuổi Trẻ,

    Như Anh Đi Chiến Dịch, như Ly Rượu Mừng, … Những bài hát đã thật quen thuộc đến trở thành một phần đời sống của những người dân ở miền Nam Việt Nam.

    Nhưng một gia sản to lớn cuả nhạc sĩ để lại cho âm nhạc Việt Nam là trường ca “Hội Trùng Dương”. Theo Phạm Thành cho biết thì thời gian sáng tác để hoàn tất là bốn năm dòng dã. Nhiều người đã xếp hạng “Hội Trùng Dương” ngang hàng với những “Trường Ca Sông Lô“ của Văn Cao hay “Hòn Vọng Phu“ của Lê Thương, những nỗi niềm và những khát vọng của dân tộc được thể hiện. Sáng tác trong thời gian đất nước bị chia đôi, ông muốn nói lên cái tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi cũng xuôi về biển Mẹ. Sông Hồng, với thao thiết âm thanh Quan Họ. Sông Hương, với đồng vọng giọng hò mái đẩy xứ thần kinh. Sông Cửu Long, với tiếng dân ca mộc mạc. Tất cả, trộn lẫn lại để thành tiếng hát đầy tình tự dân tộc và trong sáng. Thấp thoáng trong nốt nhạc, lời ca là sự lạc quan của những người tin tưởng vào tương lai của đất nước.

    Năm 1967, ông nhận tổ chức và điều khiển phòng trà Đêm Mầu Hồng (cũng là tên của một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền). Những sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của Ban Hợp Ca Thăng Long đã biến phòng trà này một chỗ nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng đầu của đô thành Sài Gòn.

    Trong nhạc Phạm Đình Chương, thi ca đóng một vai trò quan yếu. Hình như bắt nguồn từ sự đồng cảm với thi sĩ, nhạc đã tháp cánh cho thơ vút cao. Những vần thơ của Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Quang Dũng, Trần dạ Từ, … trước năm 1975 hay Du Tử Lê, Kim Tuấn, Thái Tú Hạp, … sau năm 1975 ở hải ngoại đã thành những ca khúc có sức lôi cuốn mạnh mẽ và nói lên được tâm tư của thời đại. Thơ, với chất lãng mạn sẵn có, hợp cùng âm điệu của nhạc để thành những nhớ lại từ liên tưởng những cuộc tình, những phận người. Để rồi có sự chia sẻø với suy nghĩ, vớiø ngôn ngữ, với thanh âm, đã mở hướng đi xa đến vời vợi hơn những cửa ngõ này, những chân trời kia.

    Nhạc sĩ Vũ Thành đã có lần nhận xét rằng phổ thơ như Phạm đình Chương từ bài thơ “Tự Tình Dưới Hoa“ của Đinh Hùng thành “Mộng Dưới Hoa“ là việc hình thành một “tuyệt tác đáng phục“. Nhạc sĩ khéo léo phổ toàn bộ bài thơ với một ngôn ngữ óng mượt trữ tình và kỹ thuật chuyển âm tuyệt diệu. Nhất là, chất lãng mạn được giữ nguyên nếu không nói là tăng thêm bội phần.

    Một trường hợp khác, ông đã phổ thành công những bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Nhiều nhạc sĩ nhận xét rằng phổ những bài thơ tự do, âm điệu phóng túng, với nhiều vần trắc, như thơ Thanh Tâm

    Tuyền không phải là việc dễ dàng. Thế mà, với Dạ Tâm Khúc, với Bài Ngợi Ca Tình Yêu, với Đêm Mầu Hồng, cái ý thơ cảm được nhưng khó diễn tả bằng lời đã được truyền cảm trọn vẹn. Thơ, đi gần tới hơn đối tượng và bằng nhịp điệu lôi cuốn người nghe với nghệ thuật riêng của nhịp cầu âm điệu. Không biết thành công này có phải bắt nguồn từ sự đồng cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ qua mối thâm giao lâu đời chăng?

    Biến cố tháng tư năm 1975 khiến ông phải làm nhân chứng cho một cuộc đổi đời. Sống ở Saigòn những năm tháng nghẹt thở rồi sau cùng ông và gia đình vượt biển năm 1979 rồi sang định cư ở xứ người. Đời sống thúc bách của sinh kế không làm ông ngưng sáng tác.

    Tâm sự một người lưu lạc chất ngất nỗi niềm khiến cho ông cảm thấy gần gũi với những vần thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Những bài thơ như “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển”, ”Đêm, nhớ trăng Sài gòn“, hay “Quê hương là người đó“ được phổ nhạc trong sự chia sẻ ấy. Quê hương mới đây mà đã cách biệt ngàn trùng. Những không gian, thời gian đã xa mất hút nhưng sao còn gần gũi. Tâm sự chúng ta đôi khi khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số. Mẫu số của một thời đại lưu vong.

    Có lẽ trong những nhà thơ, Du Tử Lê là người có duyên với các nhạc sĩ nhất cũng như thi sĩ Đinh Hùng thời trước. Gần một trăm bài thơ được phổ nhạc với rất nhiều ca khúc gần như “bất tử“ phải là một hiện tượng trong đời sống văn học Việt Nam.

    Nhà văn Mai Thảo đã viết về người bạn tâm giao của mình với dẫn chứng từ những tài năng âm nhạc khả tín:

    “… Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn, những điểm xuất sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến thức có thẩm quyền hết lời khen ngợi. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi. Là đường nét của âm điệu (ligne melodique) cách thế hòa âm, tiết điệu và bố cục từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và thuần phục. Cao và sang nhưng không khó không xa rất hợp rất gần với tâm hồn đại chúng. Như một phân tích tóm gọn của nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn.

    Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ thuật nhạc hiện đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ dược âm điệu, yếu tính (essence) và tâm hồn Việt Nam… “


    Riêng tôi, qua hơn sáu chục ca khúc cho một khoảng hơn bốn mươi lăm năm sáng tác, tôi đã nhìn thấy rõ một vóc dáng nhạc sĩ lớn. Là người ngợi ca tình yêu, với những ca khúc để đời : Mộng Dưới Hoa, Ngợi Ca Tình Yêu, Người Đi Qua Đời Tôi, Mầu Kỷ Niệm... Là người yêu quê hương, tin tưởng vào tương lai dân tộc, với Tiếng Dân Chài, với Được Mùa, với trường ca Hội Trùng Dương, … Là người lưu lạc tha hương, nhớ về chốn cũ nhà xưa, với Mưa Saigòn, Mưa Hà Nội, với Đêm, Nhớ Trăng Saigòn, với Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi ra Biển, … Là người nhạc sĩ yêu đời mang nghững bài ca tươi thắm với Sáng Rừng, với Trăng Rừng, với Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, … Tất cả, thành một vóc dáng âm nhạc đa diện. Ở mặt nào, cũng là đặc sắc. Ở cõi nào, cũng là khai phá bước chân. Mỗi mỗi, là những hiển lộng nghệ thuật. , những dụng công tinh vi. Aâm nhạc và đời sống có những bổ túc để thành một nhất quán cho sáng tác.

    Dù nhạc sĩ đã qua đời vào năm 1991, nhưng tuổi thọ của những ca khúc hầu như bất tử sẽ còn dài hơn rất nhiều 62 tuổi hưởng thọ. Đã có những chương trình hát và tưởng niệm cố nhạc sĩ. Đã có những ca khúc được trình bày như một cách thế cảm tạ những công trình mà có người gọi là những bông hoa tô điểm cho đời.

    Ngày trước, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã than thở rằng “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”. Bây giờ, với những cõi nhạc như Phạm Đình Chương, có lẽ đến vài thế kỷ sau vẫn còn đồng vọng những ca khúc như Hội Trùng Dương hay Mộng Dưới Hoa chăng? Có thể lắm chứ sao không? Đã gần nửa thế kỷ rồi mà lời nhạc vẫn xanh và bóng mát vẫn tỏa cùng trên quê hương mà âm điệu còn vang xa ra trên phần đất mà con dân Việt nam sinh sống trên toàn thế giới !!!

    Nguyễn Mạnh Trinh