Wednesday, June 18, 2008

Tôn Giáo Và Chính Trị

Trương Minh Hòa

Tôn giáo có mặt lâu đời trên hành tinh nầy, song hành với biết bao thăng trầm qua nhiều biến cố trong đời sống nhân loại với thiên tai, chiến tranh ... tôn giáo được hầu hết các dân tộc coi đây là chỗ dựa vững chắc và không thể thiếu trong sinh hoạt tâm linh, đời sống của con người, nên các chế độ cai trị từ thời đại thần quyền, phong kiến đến thời đại văn minh ngày nay vẫn còn sự hiện hữu của tôn giáo. Như vậy đương nhiên tôn giáo có ảnh hưởng rất nhiều đến tất cả các chế độ, thế chế chính trị ở mọi thời đại; tức là tôn giáo cũng làm chính trị theo tôn chỉ được thể hiện dưới danh nghĩa của Trời, Phật, Chúa, thần linh ... trong mục đích cao đẹp "cứu thế, giúp đời", sự đóng góp hữu ích của tôn giáo được đánh giá là rất tích cực trong công cuộc giúp đỡ cho các chính quyền ổn định hơn, đỡ phần tội phạm, tốn kém ngân sách chi trả cảnh sát, nhà tù, tòa án, luật sư,... với tôn chỉ lấy tình thương làm đầu, được coi là "chính sách" không bao giờ thay đổi của tất cả các tôn giáo, nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh, đi xa hơn là một thế giới hòa bình, an lạc; bởi tất cả các tôn giáo đều hướng dẫn con người làm điều lành, tránh điều ác. Tuy nhiên hầu hết các tôn giáo đều có những sai lầm tai hại, do những suy nghĩ lệch lạc của các chức sắc, hàng giáo phẩm có tâm tà, ý gian, lợi dụng bình phong tín ngưỡng để thủ lợi cá nhân, bè phái, mượn đạo tạo đời; nên trên thế gian nầy, thường xảy ra tình trạng có nhiều chức sắc tôn giáo nhúng tay vào đời quá đậm bằng những thủ đoạn khuynh đảo chính quyền, gây nên bao thảm họa cho loài người.

Thời trung cổ ở Âu Châu, quyền lực của các vị tu sĩ Thiên Chúa Giáo bao trùm cả châu lục nầy, các vua chúa thường mặc nhiên tuân hành theo ý kiến, lời khuyên, chỉ bảo của các giáo sĩ cao cấp như Hồng y, Giáo Hoàng, các lãnh chúa nghe theo các linh mục, giám mục, tổng giám mục địa phương, mỗi khi có chuyện trọng đại hay chuyện lợi lộc cá nhân, bè phái cần sự cố vấn và cả sự ủng hộ của các vị lãnh đạo. Thế giới Hồi Giáo càng khắc nghiệt hơn, giáo quyền lấn lướt cả chính quyền từ ngày xưa và nay tại nhiều nước vẫn còn duy trì ảnh hưởng sâu đậm, nên họ vẫn coi kinh Koran là mẫu mực để điều hành đất nước, vị thế lãnh đạo quan trọng của các giáo sĩ ( Cleric) thường được hầu hết các chính quyền vị nể, nên tình trạng xã hội, dân trí không theo kịp với thời đại dân chủ, tự do, điển hình là nhiều nước ở Trung Đông vẫn còn coi phụ nữ là thứ công cụ sanh sản, nô dịch, phục vụ sinh lý cho đàn ông; phụ nữ bị đối xử bất công từ hàng ngàn năm lịch sử đến nay, nên họ không được quyền tham gia các công việc quốc gia; nhiều nước còn cấm phụ nữ không được lái xe, ngồi cạnh người khác phái, làm việc trong các công sở, như tại quốc gia Hồi Giáo khá nhất là Arab Saudi, luật pháp nhẹ tay đối với tội hiếp dâm phụ nữ, họ coi đó là chuyện không đáng lưu tâm ... dù biết đây là vi phạm nhân quyền trầm trọng, nhưng Tổ Chức Liên Hiệp Quốc cũng đành bó tay, để mặc cho các chế độ tôn giáo trị được tự do cai trị dân bằng giáo luật, ảnh hưởng giáo sĩ quyền lực, được chính quyền kính nể. Đây là điều vô cùng tai hại, các quốc gia dân chủ vì quyền lợi quốc gia mà làm lơ để cho các chế độ tôn giáo trị mặc tình vi phạm quyền sống của con người.

Tôn giáo là một thế lực chính trị rất quan trọng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, bất kể là dân chủ, độc tài, Cộng Sản. Các nước Hồi Giáo thì đương nhiên giáo quyền khuynh đảo chính quyền như Iran sau khi giáo chủ Khomeini lật đổ vua Paul Palevi đến nay, vai trò Giáo Sĩ Hồi Giáo rất lớn trong các chính quyền; tại Phi Luật Tân, dù là một nước dân chủ, có bầu cử, nhưng muốn đắc cử tổng thống, dân biểu, nghị sĩ ... các ứng cử viên, đảng phái cũng phải được hậu thuẫn của các tu sĩ Thiên Chúa Giáo, nếu được các linh mục, giám mục, Hồng Y lên tiếng ủng hộ cũng đắc cử không khó. Nam Dương là nước dân chủ, có bầu cử tự do, nhưng vai trò Hồi Giáo rất quan trọng, hầu như các đảng phái cũng đều muốn có Hồi Giáo đứng sau lưng, nên ông giáo sĩ lãnh đạo tổ chức Hồi Giáo cực đoan Jemayh Islamyah là Abu Bakir Bashir có dính dáng đến vụ 2 đánh bom ở Bali, tòa đai sứ Úc ở thủ đô Jakarta, sát hại hơn 220 người địa phương và ngoại quốc, nhưng chính quyền chỉ giam ông một thời gian nhằm xoa dịu những phản ứng quốc tế từ các nước Tây Phương và thả ra sau đó, bất chấp những chỉ trích của nước Úc với 88 người bị chết.

Tuy nhiên, một số người không am tường về sinh hoạt và ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời, nhất là chính quyền mà cho là "TÔN GIÁO PHI CHÍNH TRỊ". Thật ra, tôn giáo làm chính trị tích cực nhất trong tất cả các đảng phái, tổ chức ... nên các vị tu sĩ được người đời phong chức "LÃNH ĐẠO TINH THẦN", một chức lãnh đạo do giáo hội tấn phong, được người đời mặc nhiên công nhận và kính trọng; đây là một chức lãnh đạo cao quý nắm phần hồn, không nhiệm kỳ quy định và cũng chẳng cần dân bầu cử, có nhiều vị lãnh đạo tinh thần duy trì chức lãnh đạo đến mãn phần và thường được người đời kính mến, nhắc nhở, nhất là trong tôn giáo của họ. Ông tổ Cộng Sản Karl Marx sinh ra trong gia đình Do Thái, sau nầy trở thành tín hữu Tin Lành, nên biết được vai trò lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo rất quan trọng trong sinh hoạt chính trị, ảnh hưởng đến chính quyền; do đó ông ta muốn làm giảm thế lực hay triệt tiêu hoàn toàn mọi tôn giáo càng tốt để thực hiện cái triết duy vật, vô thần, nên Marx thẳng thừng cho rằng: "tôn giáo là thuốc phiện".

Trong chế độ Cộng Sản, tôn giáo là kẻ thù không đội trời chung với đảng Cộng Sản, là thế lực chính trị lớn luôn cạnh tranh quyền lực với thiểu số lãnh đạo đảng và nhà nước; tôn giáo đúng là thế lực thầm lặng nhưng có sức mạnh vô địch, không có vũ khí nào có thể chém đứt, bắn thủng, tiêu diêt; tôn giáo uyển chuyển như dòng nước, thầm lặng như không khí, nhưng có khi dũng mảnh như trận cuồng phong, sóng thầnn ... có khả năng san bằng bình địa bất cứ thứ gì nằm trong vòng ảnh hưởng, bài học ở Liên Sô và các nước Cộng Sản Đông Âu về sức mạnh của tôn giáo đã xảy ra, làm cho các nước Cộng Sản tàn dư như Việt Nam, Trung Cộng phập phòng lo sợ, nên họ phản ứng điên cuồng bằng những biện pháp vá víu, cổ điển qua hành vi khủng bố, giam cầm các tu sĩ không theo đảng.Tuy nhiên, càng đàn áp thì lòng tin vào tôn giáo càng cao, là điều mà người Cộng Sản cũng phải công nhận "áp bức nhiều, đấu tranh cao".

Tôn Giáo là thế lực chính trị quan trọng tại các quốc gia, nhất là các nước theo chế độ Cộng Sản, dưới nhản quan của kẻ vô thần và triết học Marx Lenin, thì tôn giáo luôn đe dọa thế độc quyền chính trị của đảng và đối nghịch lại chủ trương của người Cộng Sản như lửa với nước; tức là tôn giáo là chánh đạo thì không bao giờ "hòa hợp hòa giải" với tà đạo ma quỷ Cộng Sản vô thần: tôn giáo chủ trương hòa bình, nhân ái, thương yêu nhau, bình đẳng trong khi người Cộng Sản chủ trương chiến tranh, dùng bạo lực để khống chế loài người, bốc lột, chém giết qua chính sách đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội, kích động hận thù, sử dụng bạo lực như công cụ duy trì chính quyền, khủng bố như câu nói đầy bản chất hiếu chiến của Lenin: "ngày nào ngọn cờ đỏ chưa phất phới trên toàn cầu, là người Cộng Sản không ngừng đấu tranh".

Cho nên tôn giáo tại các nước Cộng Sản là kẻ thù số một, đảng cần thanh toàn bằng tất cả các thủ đoạn từ đàn áp, triệt hạ, lập ra giáo hội theo đảng để dùng "tôn giáo diệt tôn giáo" là sách lược đúng theo giáo điều của Marx là khai thác tối đa tất cả "mâu thuẫn nội tại" trong xã hội, gia đình để họ cấu xé, đấu tố lẫn nhau và người hưởng lợi tất cả chính là đảng Cộng Sản; sách lược nầy đảng đã từng thành công trong các cuộc chém giết dã man trong cái gọi là cải cách ruộng đất, đánh tư sản qua hình thức "đấu tố" lẫn nhau để được an thân tạm thời, trong một giai đoạn và sau nầy áp dụng cả vào các tôn giáo, trong đó có việc kích động tôn giáo nầy hiềm khích với tôn giáo khác là sách lược của đảng; sự kiện nầy đã xảy ra ở Việt Nam qua các tu sĩ Phật Giáo khối Ấn Quang, lợi dụng sự thiên vị của tổng thống Ngô Đình Diệm, nên kích động hận thù với Công Giáo.

Thời kỳ ấy ở miền Nam, hàng ngày có những cuộc biểu tình của Phật Giáo và những tin đồn thất thiệt về các giáo sứ, giáo dân đánh nhau với các tín đồ Phật Giáo, làm dân chúng, tín đồ của hai tôn giáo hoang mang; từ đó tạo ấn tượng thù hằn nhau, chắc chắn là nọc độc thù hằn giữa các tín đồ của các tôn giáo vẫn còn tồn đọng trong đầu óc của một số người chưa tỉnh, chưa nhận ra âm mưu thâm độc của đảng Cộng Sản vô thần gây ra trước 1975.

Tại nước Úc, dù là nước dân chủ, nhưng trong làn sóng tỵ nạn cũng có vài thành phần có hành vi như thế, điển hình như Hoàng Nguyên Nhuận (tên thật là Hoàng Văn Giàu) phát hành tờ báo Chuyển Luân ở Sydney, kích động thù hiềm, đánh phá, chia rẽ các tôn giáo, mà mục tiêu của hắn cũng không khác khối Ấn Quang trước năm 1975, nhắm vào Công Giáo, cuộc chiến tranh bảo vệ lý tưởng tự do miền Nam Việt Nam trước 1975 bị xuyên tạc trong một bài báo của Hoàng Nguyên Nhuận đăng trên tờ Chuyển Luân, cho là: "âm mưu bành trướng, xâm lược, thống trị của đế quốc Mỹ và Tòa Thánh Vatican". Hoàng Nguyên Nhuận ngưng làm tờ báo Chuyển Luân khá lâu do sự phản ứng khác mạnh của đồng bào và các cơ quan truyền thông Việt ngữ tại Úc, có lần vào tháng 10 năm 2001, song hành với chuyến sang Hoa Kỳ của Thiền sư Nhất Hạnh trong lúc Hoa Kỳ lãnh đạo đồng minh đánh vào A Phú Hãn để tận diệt sào huyệt Al Qaeda, ở các tiểu bang miền Đông, thì đài phát thanh Little Saigon có thông báo học giả Hoàng Nguyên Nhuận đến thuyết giảng và gặp mặt một số người Việt, không biết với mục đích gì.? Chắc chắn đây không phải là trường hợp ngẫu nhiên, nhưng đây cũng không nằm ngoài luật nhân quả nhà Phật.

Tại Việt Nam, tôn giáo chân chính luôn bị đảng Cộng Sản rình rập, bắt bớ, triệt hạ các tự viện, cơ sở tôn giáo và các tu sĩ lãnh đạo tinh thần được nhiều tín đồ kính trọng và có uy tín quốc tế như huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang ... linh mục Nguyễn Văn Lý ... Song hành với chính sách thâm độc "dùng gậy ông đập lưng ông", các giáo hội do nhà nước thành lập được ban cấp nhiều quyền lợi vật chất cũng như quyền hành, tìm cách dẹp các giáo hội chân chính qua nhiều biện pháp, kể cả cạm bẫy như dùng miệng của tân sứ quán Mỹ yêu cầu huề thượng Quảng Độ nộp đơn xin phép hoạt động (là lọt vào bẫy của lũ quỷ đỏ vô thần), dùng hình thức sinh hoạt để phong chức lãnh đạo, nhằm đồng hóa giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vào giáo hội quốc doanh.

Nhưng đảng Cộng Sản không thể lừa bịp được những chư tăng cao trọng tuổi tác, dầy kinh nghiệm với Cộng Sản, Ngài không nhận bất cứ thứ gì của quỷ đỏ đưa ra, đúng là "cái gì của đảng Cộng Sản hoàn lại cho đảng"; sự xuất hiện của các giáo hội thân nhà nước Cộng Sản là do trong tôn giáo có một số tu sĩ chưa đủ đức độ, tâm tánh chao đảo, hay do những cán bộ Cộng Sản được đảng phối trí vào nằm vùng, trở thành lãnh đạo tinh thần, làm hệ lụy rất nhiều đến uy tín của tôn giáo; đó cũng là một trong những ý đồ thâm hiểm của người Cộng Sản trong chính sách tận diệt mọi tín ngưỡng để dân chúng không còn tin vào tôn giáo nữa, nhưng đảng là thứ tôn giáo vô thần duy nhất thay thế. Thời kỳ bao cấp ở miền Bắc sau 1954, cán bộ Cộng Sản lý luận một cách ngây ngô rằng: "Ông Thích Ca, Jesus không cấp phát lương thực, phương tiện cho nhân dân sinh sống ... nhưng chỉ có đảng và Bác là ban cấp tất cả".

Dưới chế độ Cộng Sản, tôn giáo chỉ có hai con đường: bị tiêu diệt và phục vụ đảng; chớ không bao giờ có tự do tôn giáo, bề ngoài đảng cho phép dân, tu sĩ được quyền "tự do cúng bái, lễ lạc" kể cả mê tín dị đoan, để làm màu mè với thế giới và các nước cấp viện, nhưng không cho phép bất cứ những sinh hoạt nào mang tính cách cạnh tranh quyền lực như giảng đạo, truyền bá tư tưởng nhân ái và nhất là quyền lãnh đạo tinh thần của các chức sắc, ngoại trừ các chức sắc tùng phục đảng và lãnh tụ Cộng Sản như họ kính mến Trời, Phật, Chúa. Kinh điển các tôn giáo không quan trọng, nhưng chỉ có triết học vô thần Marx Lenin là "nền tảng" cho các kinh Phật, thánh kinh; tức là đảng vô thần chủ trương diệt tận gốc tôn giáo từ nguồn gốc triết lý. Chủ nghĩa vô thần Marx Lenin làm cho các tôn giáo điêu đứng từ nền tảng, được các tu sĩ do nhà nước "chỉ đạo" trở thành những kẻ phá đạo tích cực, tinh vi và nguy hiểm nhất, là kẻ nội thù của tôn giáo (đồng nghĩa với quỷ phá nhà chay, quỷ sa tăng giả làm thiên sứ). Theo truyền thống tốt đẹp của tất cả các tôn giáo là phục vụ dân tộc, giáo dân, tín đồ nên tôn giáo song hành với sự tồn vong của đất nước. Tức là tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc, là xương sống vững chắc, chỗ dựa tâm linh để đưa đất nước tiến lên, giúp dân tộc vững tin chống ngoại xâm. Hoa Kỳ là đệ nhất siêu cường thời đại, chính phủ và người dân lấy đức tin vào thượng đế, nên trong tờ giấy bạc với tên gọi đồng Dollar có câu: "THE GOD WE TRUST".

Bảo vệ đất nước là ưu tiên hàng đầu, nước mất nhà tan và đạo bại là điều không ai phủ nhận. Do đó các tôn giáo ngày nay ở Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu "giải trừ quốc nạn", khi đất nước thanh bình, tự do thì đạo pháp đương nhiên phải có, đạo được yên, như câu nói của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, vị khai sáng Phật Giáo Hòa Hảo: "Đất nước bình, thân ta mới YÊN, bờ cõi lặng, thân ta mới ẤM".

Tuy nhiên bất cứ quốc gia nào bị tôn giáo khuynh đảo, tức là đem đất nước phục vụ cho tôn giáo, có khi đưa đất nước đến bờ vực thẩm, như tập đoàn Taliban, Iran với chủ trương Hồi Giáo trị đó là lý do mà dân Thổ Nhỉ Kỳ gần đây tổ chức nhiều cuộc biểu tình qui mô nhằm phản đối một chế độ cầm quyền áp dụng theo kinh Hồi Giáo, có khả năng gây ảnh hưởng đến các quyền tự do, dân chủ của người dân. Đối với người Cộng Sản, họ cũng sử dụng tôn giáo, không phải tôn trọng tín ngưỡng, nhưng người Cộng Sản dùng tôn giáo như một công cụ phục vụ chế độ lúc chưa triệt hạ hết các tôn giáo; khi tôn giáo hoàn toàn bị tiêu diệt thì đảng Cộng Sản sẽ ra tay đối tượng sau cùng là các tôn giáo do họ nhào nặn ra; cái gương của những địa chủ khai minh tiến bộ, tư sản dân tộc, trí thức yêu nước thời đánh Tây, họ đóng góp tài sản, máu xương để xây dựng đảng Cộng Sản, thần tượng Hồ Chí Minh và sau năm 1954, đảng không nương tay giết nhiều người thuộc "trí phú địa hào" ở nông thôn, tư sản thành thị và những trí thức từng góp công giúp đảng lớn mạnh. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam sau năm 1975, bị giải thể và những tên tay sai bị đá văng ra khỏi cơ quan quyền lực, nhiều cán bộ gốc miền Nam bị phục viên, hay cho về hạ tầng công tác. Đó là những bài học "cụ thể" để những vị lãnh đạo tinh thần nào đã trót làm tay sai cho quỷ đỏ vô thần, hãy nên tự biết thân phận, sớm quay về với chánh đạo.

Tôn giáo đào tạo tu sĩ, giáo sĩ, khả năng thu phục quần chúng qua trình độ thuyết giảng, tác phong đạo đức; tuy nhiên các vị lãnh đạo tinh thần không được đào tạo để trở thành những nhà lãnh đạo chính quyền; do đó quan niệm của chính trị gia không giống như quan niệm chính trị của các vị lãnh đạo tinh thần; giống như các nhà quân sự chuyên môn chỉ giỏi đánh giặc nhưng không chuyên môn trong lãnh vực hành chánh, tài chánh; mỗi địa hạt đều có ưu điểm và khuyết điểm, không nên dẫm lên hay khuynh đảo nhau. Nếu các tu sĩ lãnh đạo tinh thần thọt sâu vào chính quyền, cố tình dùng ảnh hưởng tôn giáo để khuynh loát chính quyền, tức là đem cái của mình không chuyên môn để khuynh đảo nghề nghiệp của người khác, dù rằng mục đích của họ cũng được coi là chánh đáng, vì dùng quyền lực của chánh quyền để củng cố, phát triển đạo, có lợi cho đạo của họ là chuyện trước mắt, nên được một số tín đồ ủng hộ việc làm; tuy nhiên có khi đây là một đại họa cho đất nước, dân tộc khi các tu sĩ đi quá xa, thọt sâu vào một vấn đề mà họ không được đào tạo chuyên môn, chẳng khác anh thợ sửa xe làm công việc của một y tá hay anh thư ký (tai hại trầm trọng dễ làm chết người là nếu anh thợ nầy lại thay bác sĩ giải phẫu).

Miền Nam trước 1975, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn trong chính quyền, có lợi cho đất nước như các tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài chiêu mộ lính đồng đạo để thành lập các đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn địa phương quân thời thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, như linh mục Công Giáo Nguyễn Lạc Hóa (thường gọi là cha Hóa), quy tụ những người Thiên Chúa Giáo gốc các dân tộc thiểu số thượng du Bắc Việt di cư, khai phá vùng hoang vu, có nhiều Việt Cộng, lập nên đặc khu Hải Yến. Nhưng cũng có những việc tai hại vô cùng như trường hợp linh mục HOÀNG QUỲNH, có nhiều ảnh hưởng đến chính phủ đệ nhị Cộng Hòa vì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người Công Giáo sùng đạo, tin cha sứ hơn người thân, thuộc cấp, nên Cộng Sản lợi dụng để xâm nhập qua ngõ nhà thờ, thế là đức Giám Mục Hoàng Quỳnh là người vô tình đưa cụm tình báo chiến lược Cộng Sản A 22 vào tận Dinh Độc Lập nằm vùng nhiều năm mà không hay; biết bao tin tức tối mật bị lọt vào tay Hà Nội, chắc chắn là có nhiều chiến sĩ bị hy sinh trong các cuộc hành quân, khi địch biết trước lộ trình. Những tên gián điệp nầy nhờ bình phong của Lm Hoàng Quỳnh, nên gây nhiều uy tín đối với ông Thiệu (cũng cùng là con chiên với nhau), không ai ngờ bên cạnh vị tổng thống, kiêm tổng tư lịnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa với hơn 1 triệu chiến sĩ dũng cảm, có mặt của cố vấn chính trị Huỳnh Văn Trọng, bên trong là tên siêu điệp viên Cộng Sản.

Bên Phật Giáo, đặc biệt là khối Ấn Quang là nơi đáng nghi ngại, xuất phát nhiều cuộc biến động làm suy yếu chính quyền, có lợi cho Cộng Sản. Nhờ trung tướng Dương Văn Minh đảo chánh ngày 1-11-1963, ông thả tất cả tù chính trị, và biện minh là nạn nhân Ngô Triều, trong đó có nhiều cơ sở gián điệp nằm vùng, bị chính phủ Ngô Đình Diệm triệt hạ tan tác, không ngóc đầu dậy; do đó ông Minh là người thả cọp về rừng, là ân nhân của nhiều tên siêu điệp, cán bộ cao cấp Cộng Sản, nên sau ngày 30-4-1975, ông lập công to với đảng Cộng Sản và được ưu ái nhiều quyền lợi, sau cùng cho xuất ngoại.

Ông Minh là người phản bội đê hèn đối với chính thể Việt Nam Cộng Hòa, phản dân hại nước qua hai sự kiện lớn có liên quan đến vận mệnh đất nước: cuộc đảo chánh 1-11- 1963 và bàn giao miền Nam cho giặc Cộng ngày 30-4-1975. Những hành vi của ông Minh có quan hệ đến Phật Giáo khối Ấn Quang và đương nhiên là có lợi rất nhiều cho Cộng Sản, nhất là qua cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đinh Nhu là món quà vô cùng qúy giá "dâng Bác và đảng"; món quà "bàn giao trong vòng trật tự" cũng là một kỳ công lớn đối với kẻ kế thừa Hồ Chí Minh là tên đại cuồng sát Lê Duẫn; tác giả của kế hoạch "tắm máu khô" qua hệ thống tù cải tạo quân nhân cán chính miền Nam. Do đó ông Dương Văn Minh không xứng đáng được đứng chung hàng ngũ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, là một kẻ phản bội "ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản". Nói về sự khuynh đảo của Phật Giáo Án Quang đối với dân tộc Việt Nam, thì "Cộng Nghiệp" của những tu sĩ trong khối nầy quá lớn, nếu không muốn nói là họ tiếp tay cho quỷ đỏ thôn tín miền Nam, mà câu tục ngữ "núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ" là sự phản ảnh trung thực của quần chúng đối với thành phần tu sĩ nầy. Người lãnh đạo khối Ấn Quang là thượng tọa Thích Trí Quang, một nhân vật lãnh đạo tinh thần danh tiếng đối với một số Phật Tử có tinh thần "trọng Phật Kính Tăng" một cách máy móc, trở thành những Tam Tạng thời đại, trong chuyện ngụ ngôn Tây Du Ký, không nhìn thấy ma quái giả thành Phật mà cứ quỳ lại. Nhờ những Tang Tạng nầy mà Thích Trí Quang mới có thế lực, ảnh hưởng đến chính quyền, có lần báo Times của Hoa Kỳ còn cho là Thích Trí Quang là người làm rung chuyển Tòa Bạch Ốc; có thể quá đáng nhưng thời ấy thì Thích Trí Quang là thế lực vô hình bao trùm trong giới Phật Tử và chính quyền miền Nam. Nhiều Phật Tử gọi bằng ÔN là từ ngữ rất tôn kính của người Huế, thông thường gọi bằng Ông; do đó việc ông ta gây nên bao biến động tại Việt Nam là điều dễ hiểu và tướng Dương Văn Minh là người chịu ảnh hưởng nặng nề với vị tu sĩ nầy. Nổi bật là vụ biến động Phật Giáo miền trung năm 1966, thời thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, một Phật tử thuần thành, làm chức cao nhất nước là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, thì làm gì có đàn áp Phật Giáo? Thế mà Phật Giáo dưới sự lãnh đạo tinh thần của Thích Trí Quang đã đứng dậy nhằm triệt hạ chính phủ miền Nam. Nếu không nhờ quyết tâm của thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thì miền Trung mất vào tay Cộng Sản và từ đó các đơn vị chính qui Bắc Việt có đất làm tuyến xuất phát tiến chiến luôn quân khu 2 dễ dàng, và sau cùng là "tiến vào Saigon, trận cuối là trận nầy". Nếu chuyện nầy xảy ra thì làm gì đại tướng ngố Văn Tiến Dũng huênh hoang "đại thắng mùa xuân". Ngày 30-4-1975, trong lúc dân chúng miền Nam phập phòng lo sợ kẻ cướp từ rừng núi Trường Sơn, từ đồng ruộng miền Nam ... nối liền cánh tay lông lá, thì khối Phật Giáo Ấn Quang huy động hơn 500 tăng ni ra đón đoàn quân giặp cướp Cộng Sản và sau đó họ làm lễ kỷ niệm sinh nhật của Hồ Chí Minh một cách long trọng, hơn cả vía Đức Phật, Bồ Tác vào ngày 19-5-1975. Phật Giáo chủ trương cấm sát sanh, thế mà thượng tọa Thích Trí Quang và một số lãnh đạo Ấn Quang đã thừa thắng xông lên sau ngày đảo chánh lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hòa, gây áp lực với trung tướng Nguyễn Khánh để xử tử người em út của chí sĩ Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Cẩn, đây là một tội ác nữa của nhóm tu sĩ nầy, thật đáng kinh tởm.

Tôn giáo là một thế lực chính trị lớn nhưng lối hoạt động chính trị của họ chỉ nhằm tạo cho thế giới bình an, con người thanh tâm trường an lạc và các tu sĩ chỉ được đào tạo làm như thế là đúng như thiên chức. Trong xã hội, mỗi người đều có khả năng chuyên môn, đó là điều người đời công nhận "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh". Người lãnh đạo đất nước, đảng phái khác xa chức lãnh đạo tinh thần của các tu sĩ; nếu lẫn lộn thì sinh ra tai họa, như Công Giáo qua vụ đức giám Mục Hoàng Quỳnh vô tình đưa cụm tình báo chiến lược A 22 vào Dinh độc Lập và những quấy động Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc biến động chính trị 1-11-1963 và ngày mất miền Nam 30-4-1975. Người dân miền Nam quá chán ngán sự khuynh đảo, ảnh hưởng của các tôn giáo đối với chính quyền, nên có câu tục ngữ "nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng". Không phải dân miền Nam đánh phá, ác cảm đối với hai tôn giáo lớn, nhưng vì người hành đạo làm nhiều chuyện sai trái, chớ đạo không bao giờ sai cả. Chính những vị lãnh đạo tinh thần làm sai, gây hệ lụy đến tôn giáo và các vị lãnh đạo tinh thần chân chính khác "con sâu làm sầu nồi canh". Miền Nam lúc ấy có giới thầy chùa hay biểu tình chống chính phủ, bị kích động để xung đột với Công Giáo và một số linh mục dựa thế chính quyền làm dân không ưa, còn tướng lãnh sau cuộc đảo chánh, có một số phản tướng tranh quyền như Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu ... gây tình trạng khủng hoảng chính trị, có lợi cho giặc Cộng, nên dân khinh miệt ghép chung ba giới nầy sau giới làm ĐĨ. Miền Nam có những danh tướng vừa tài giỏi, vừa thanh liêm, được quân dân ngưỡng mộ qua câu: "nhất Thắng, Nhì Thanh, tam Chinh, tứ Trưởng, Ngũ Hiếu" và nhiều anh hùng đã tuẫn tiếc như tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai. Trong khi đó hầu như tất cả các tướng Cộng Sản từ Võ Nguyên Giáp trở xuống, tên nào cũng làm đại tham nhũng, coi mang bộ đội như kiến, là những tên tội đồ gây ra các chết của hơn 1,5 triệu bộ đội trong cuộc chiến xâm lấn miền Nam và hơn 300 ngàn bị mất tích. Cho nên những nạn nhân của Cộng Sản ở miền Bắc thuộc các gia đình bị bắt đi nghĩa vụ nào Nam, phải đòi bọn lãnh đạo đảng, trong đó có tướng lãnh trả món nợ máu khổng lồ nầy.

Đối với đảng Cộng Sản, tôn giáo chỉ là thứ công cụ phục vụ cho đảng, mà kỳ đại hội Phật Giáo thế giới sắp tổ chức tại Việt Nam năm 2008 là thí dụ điển hình; đây là cuộc hội quốc tế dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc nhưng do "sư quốc doanh tổ chức, đảng lãnh đạo" nhằm đánh bóng chế độ giả nhân giả nghĩa là có tự do tôn giáo để nhận thêm cho viện từ các nước khác. Đối với người quốc gia, thì ngược lại: tôn giáo ảnh hưởng đến chính quyền và nhiều khi tôn giáo khuynh đảo, biến chính quyền thành công cụ đây là sự nguy hại đáng tránh xa. Những nhà lãnh đạo đất nước dân chủ cũng phải có chỗ dựa vào vài tôn giáo để được phiếu qua các cuộc bầu cử, nhưng tôn giáo không thể khuynh đảo chính phủ; các vị lãnh đạo quốc gia luôn đặt quyền lợi đất nước trên tôn giáo.

Tuy nhiên ở miền Nam Việt Nam, các vị lãnh đạo tinh thần đã đi quá xa, vượt khỏi khả năng chuyên môn của một tu sĩ, nhúng tay quá sâu vào chính trường như các vị lãnh đạo Thiên Chúa, Phật Giáo trước 1975. Các lãnh tụ chính trị, lãnh đạo quốc gia tại Hoa kỳ, Úc, Âu Châu cũng đi nhà thờ Thiên Chúa, Tin Lành họ là những con chiên ngoan đạo, tín hữu thành tâm, nhưng khi ra khỏi nhà thờ thì sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả những gì mà các vị lãnh dạo tinh thần gởi gấm, gây áp lực đối với chính quyền; hay nói đúng hơn: thiên chức lãnh đạo tinh thần chỉ có ý nghĩa trong tôn giáo mà thôi, nếu vượt khỏi ranh giới nầy để trở thành quân sư cho chính quyền thì dễ đưa đến tai họa. Lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo tinh thần không nên trộn lẫn với nhau, nhưng bổ sung cho nhau, đó mới là cách tôn trọng lãnh vực chuyên môn lẫn nhau và có như vậy mới tránh bị tôn giáo khuynh đảo chính quyền, đưa đến những hệ quả không tốt như miền Nam trước 1975.

Đây là bài học xương máu mà người Việt Quốc Gia nên để ý, hầu rút ra những kinh nghiệm quý báu sau khi chính quyền dân chủ thay thế bạo quyền Cộng Sản trong tương lai. Tôn giáo giúp chính quyền để lo cho dân được ấm no, hạnh phúc, an lạc về mặt tinh thần, còn việc điều hành đất nước có những người được đào tạo chuyên môn khác đảm trách.

Trương Minh Hòa

Tướng quan tài Việt Cộng

Thủy Triều
-Trong bài viết này tác giả đã cố ý dùng điệp ngữ để nhấn mạnh nghĩa chữ, xin quý vị vui lòng miễn thứ cho tác giả.-

Cho dù chế độ Việt Cộng hiện tại cố hết sức bưng bít sự thật và ngăn cấm thông tin, nhưng đã có những nhận định khách quan và trung thực phơi bày ra toàn bộ xã hội của nước CHXHCNVN đã và đang bị khủng hoảng trầm trọng trong mọi lãnh vực. Nói riêng về vấn đề lạm phát, các tập đoàn cầm quyền Việt Cộng ở các cấp, từ trung ương tới địa phương và từ khu vực công quản tới khu vực tư nhân của các đảng viên Việt Cộng được tư nhân hoá, chính là những người đã và đang tự tạo ra vấn đề lạm phát để đầu cơ trục tư lợi. Một sự kiện lạm phát nổi bật nhất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Cộng đang bị lạm phát phi mã là sự lạm phát sĩ quan công an cấp tướng.

Tướng quan tài (hay đạo tì )

Để tăng cường bạo lực bảo vệ chế độ độc tài công an trị, vào ngày 04 tháng 6 ở Hà Nội, Thủ Tướng Công An Việt Cộng đã thăng cấp tướng đồng loạt cho 37 sĩ quan công an. Đây là lần thứ nhì, tập đoàn cầm quyền trung ương Việt Cộng đã thăng cấp tướng tập thể cho một số rất đông sĩ quan công an. Trong tháng 4 năm 2007, Thủ Tướng Công An Việt Cộng cũng đã thăng cấp tướng cho 29 sĩ quan công an. Nước CHXHCNVN của Việt Cộng là một nước duy nhất trên thế giới có một số lượng sĩ quan công an cấp tướng nhiều nhất, và trong vòng 14 tháng Thủ Tướng Công An Việt Cộng đã thăng cấp tướng cho tất cả 66 sĩ quan công an. Song song với sự lạm phát văn bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ, tập đoàn cầm quyền trung ương Việt Cộng mượn tay của viên Thủ Tướng Công An đã tự tạo ra sự kiện lạm phát sĩ quan công an cấp tướng trong một tình hình kinh tế tài chánh trong nước đang lên cơn sốt cấp tính có nguy cơ làm chết chế độ Việt Cộng quá đỗi bệnh hoạn này.

Các nhà quan sát và phân tích tình hình của nước CHXHCNVN đã chỉ ra những xáo trộn và bất hoà giữa các phe phái trong tập đoàn cầm quyền trung ương của Việt Cộng. Không kể tới những đơn vị ấp đội, phường đội, xã đội, huyện đội, tỉnh đội, và thành đội thuộc quân đội Việt Cộng, Bộ Công An Việt Cộng là một cơ quan chủ quản những lực lượng công an cảnh sát có vũ trang ở tất cả các địa phương. Ngoài những người giữ chức vụ Tổng Cục Trưởng, Vụ Trưởng, và Cục Trưởng trực thuộc Bộ Công An được thăng cấp tướng, còn một số đông Giám Đốc Sở Công An ở địa phương cũng được thăng cấp từ đại tá lên thiếu tướng công an. Vấn đề tâm lý địa vị của những con người luôn luôn cho rằng chính mình mới là những công thần tận trung với đảng Việt Cộng và đã cực nhọc hy sinh để bảo vệ chế độ chắc chắn sẽ nảy sinh trong lòng sự so sánh về địa vị, quyền lực và thể diện; như vậy bên phía quân đội Việt Cộng, một người giữ chức vụ Tỉnh Đội Trưởng ở một tỉnh thường thường là đại tá, thì người này có được thăng cấp thiếu tướng bộ binh hay không? Ở trong một tỉnh mà ông trưởng ngành công an đã là thiếu tướng, thì tại sao ông tỉnh đội trưởng lại không phải là thiếu tướng hoặc trung tướng bởi vì ông ta đã nắm giữ sẵn trong tay những đạo âm binh được vũ trang từ đầu tới chân?

Cũng như tình hình kinh tế, tài chánh, và ngân hàng của Việt Cộng đã đang lên cơn sốt cấp tính càng ngày càng trầm trọng, sự kiện lạm phát sĩ quan cấp tướng của ngành công an và quân đội của Việt Cộng đã đang cho thấy triệu chứng của cơn sốt cấp tính tranh giành quyền lực, địa vị và thể diện phe phái trong nội bộ của tập đoàn cầm quyền trung ương của Việt Cộng.

Đảng viên Việt Cộng đã mắc phải căn bệnh tham ô tham nhũng kinh niên hết thuốc chữa, nay lại còn bị cơn sốt cấp tính tranh giành địa vị và quyền lực thì đảng Việt Cộng chắc phải chịu chết. Thủ Tướng Công An Việt Cộng lúc mới nhậm chức đã trổ tài gian xảo lừa gạt nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế bằng những động thái chống tham nhũng có vẻ mạnh bạo và kiên quyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những vở bi hài kịch trong sinh hoạt chính trị của đảng Việt Cộng khi trình diễn những màn tranh ngôi đoạt vị cầm quyền ở trung ương đảng. Một hoạt cảnh chính trị Việt Cộng rõ nét bi hài kịch nhất là khi một Thiếu Tướng công an Việt Cộng đã bị mất chức Tổng Cục Phó Tổng Cục Cảnh Sát và Thủ Trưởng Cơ Quan Điều Tra trong tháng 7 năm 2006 về tội 'chạy án' cho một số nhân vật liên quan trong vụ tham ô tham nhũng ở ban quản lý dự án PMU18, hiện nay lại được thăng cấp Trung Tướng công an và được giữ chức quyền Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Công An. Viên sĩ quan công an này đã tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú khi bất ngờ được phong hàm trung tướng mà chính bản thân của hắn cũng không thể biết trước. Trong lúc 37 sĩ quan công an được đồng loạt thăng cấp tướng thì có một Thiếu Tướng công an đã nghỉ hưu, nguyên Cục Trưởng Cục Cảnh Sát Điều Tra tội phạm về Tệ Trạng Xã Hội (?), Phó Thủ Trưởng Cơ Quan Điều Tra trực thuộc Bộ Công An, chính là người đã "cầm trịch" vụ án PMU 18 lại bị bắt. Đồng thời cũng có hai nhà báo Việt Nam lại bị bắt vì tội phanh phui tham ô tham nhũng của những đảng viên cao cấp Việt Cộng, và có người đã từng nổi tiếng là con bạc cá độ hàng triệu đô la trong vụ án PMU 18 này.

Nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã đặt nghi vấn tại sao chính ông Thủ Tướng Công An Việt Cộng đã làm ngược lại những gì do chính ông đã chủ trương diệt tham ô tham nhũng qua vụ án điển hình PMU 18. Những bị cáo chính trong vụ án tham ô tham nhũng PMU 18 sau một thời gian bị giam giữ nay được thả ra và cho phục hồi sinh hoạt đảng Việt Cộng, và lại được thăng chức (!?).
Nguyễn cao Kỳ phúng đến điếu Võ văn Kiệt
Trong một bản báo cáo vào năm 2007 của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế -Transparency International có nhận xét rằng, "Công cuộc chống tham nhũng ở Việt Nam vẫn chỉ được thực hiện một cách lựa chọn đối tượng. Chống tham nhũng nhưng không công bằng và vô tư, bởi vì những người có quyền lực chính trị và có tiền thường có khả năng thoát khỏi tội." Những người này là những đảng viên Việt Cộng cao cấp thuộc phe phái đang nắm quyền lực ở trung ương đảng. Một cách rõ ràng là khi công an Nguyễn Tấn Dũng ra sức tranh giành chiếc ghế thủ tướng đã gian trá ra độc chiêu lựa chọn những con vật tế thần để tạo ra một bộ mặt thủ tướng của mình có ấn tượng đầy triễn vọng, và thăng cấp tướng đồng loạt lần thứ nhất cho 29 sĩ quan công an để xây dựng sức mạnh phe phái của chính mình. Đến nay, những con vật tế thần lại được phục hồi sinh hoạt đảng, và công an Nguyễn Tấn Dũng lại tiếp tục thăng cấp tướng đồng loạt lần thứ nhì cho 37 sĩ quan công an để củng cố lực lượng của phe phái để bảo vệ chiếc ghế thủ tướng của mình; hơn nữa, Thủ Tướng Công An Nguyễn Tấn Dũng sẽ tiếp tục tận dụng bộ máy công an cảnh sát để trấn áp tàn bạo nhân dân Việt Nam trong một tương lai không xa khi nhân dân Việt Nam nổi dậy đòi cơm ăn áo mặc nhà ở trong một tình cảnh kinh tế tài chánh của nước Việt Cộng này đã suy bại đến phá sản.

Trong bốn ngày 24, 25, 26, và 27 tháng 6 năm 2008 này Nguyễn Tấn Dũng đến Mỹ để van xin người Mỹ mà người đại diện chính thống là TT Bush, và tư bản Mỹ ở thị trường giao dịch chứng khoán Nữu Ước hãy đến Việt Nam mà đầu tư, mua bán, và làm ăn bởi vì theo lời tuyên truyền cổ động của tên Thủ Tướng Công An Việt Cộng gian trá này là nước CHXHCNVN của hắn vẫn là một nơi ngon lành cho người Mỹ, tư bản Mỹ mặc sức làm ăn kiếm lời và hưởng thụ. Thủ Tướng Việt Cộng đã mau quên hay không hề biết tới rằng toàn bộ xã hội của nước CHXHCNVN của hắn đã và đang bị khủng hoảng trầm trọng trong mọi lãnh vực. Tình hình kinh tế, tài chánh, và ngân hàng trong nước của hắn đang lên cơn sốt cấp tính mà không có một dấu hiệu nào sẽ giảm nhiệt an toàn. Tình hình tồi tệ như vậy thì tên Thủ Tướng Việt Cộng làm sao có khả năng cổ động tuyên truyền cho tư bản Mỹ nghe lọt vào lỗ tai những lời lẽ lạc quan hoang tưởng của hắn.

Chỉ trong vòng sáu tháng từ đầu năm tới hôm nay Ngân Hàng Nhà Nước Việt Cộng đã ba lần tăng lãi suất. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2008 vừa qua lãi suất đã tăng đến 14%. Ba lần tăng lãi suất này đã làm tan nát thị trường chứng khoán còn phôi thai của Việt Cộng. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2008, Chỉ Số của 151 công ty ghi danh trên thị trường giao dịch chứng khoán HCM đã giảm sút hơn 60%. Đồng thời sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Cộng sẽ chậm lại để đạt tới mức 7% trong năm 2008 và tiếp tục xuống thấp hơn trong năm 2009.

Những người lãnh đạo kinh tế, tài chánh, và ngân hàng của Việt Cộng đã tưởng rằng có thể tăng lãi suất để chống lạm phát, nhưng họ đã sai lầm và họ đã vội lạc-quan-tếu. Bởi vì việc tăng lãi suất đến 14% vẫn không đủ lực ghìm hãm sức lạm phát phi mã ở 25%. Điều này có nghĩa là hôm nay người vay tiền chỉ trả 14% tiền lời trong khi đó sự lạm phát đang làm giảm giá trị đồng tiền mà họ phải trả lại đến 25%. Điều này còn có nghĩa là mức lãi-suất-âm, và những mức lãi-suất-âm sẽ là những động lực lớn đẩy tới sự lạm phát 100% hoặc cao hơn nữa. Một hệ quả tất yếu của mức lãi-suất-âm và sự lạm phát phi mã 100% là tiền Đồng Việt Cộng sẽ không còn một chút giá trị trong sáu tháng cuối năm 2008. Tới một thời điểm nào đó toàn bộ nền kinh tế tài chánh và ngân hàng của Việt Cộng suy bại đến phá sản. Một nền kinh tế cục bộ tăng nhiệt quá độ cũng đem tới cho nước Việt Cộng của Thủ Tướng Công An Nguyễn Tấn Dũng một mức thâm hụt mậu dịch khổng lồ trong năm 2008. Cũng trong sáu tháng cuối năm 2008 giá trị tiền Đồng Việt Cộng sẽ bị phá giá thê thảm, và sang năm 2009 có thể 1 đô la Mỹ sẽ đổi được hai mươi ba ngàn đồng Việt Cộng (23.000 ĐVN), hoặc hối suất chính thức tương lai của tiền Đồng Việt Cộng sẽ giảm xuống hơn 37% so với hối suất chính thức hiện tại.

Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế-International Monetary Fund có thể ra tay giúp đỡ cho nước CHXHCNVN, và yêu cầu Nhà Nước Việt Cộng phải áp đặt giải pháp Draconian phối hợp cả hai việc cắt giảm ngân sách chi tiêu của nhà nước và những mức lãi suất cao hơn. Nếu cắt giảm ngân sách chi tiêu của nhà nước thì những đảng viên Việt Cộng đang cầm quyền ở các cấp làm sao tiếp tục tham ô tham nhũng cho được? Nhưng ở Việt Nam thì có những đối tượng nào hay vay tiền ngân hàng? Chắc chắn không phải là đa số người dân Việt Nam nghèo khổ đang không có đủ cơm ăn hàng ngày. Còn những người làm kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa hay vay tiền ngân hàng để đầu tư kinh doanh ở địa phương sẽ nhận thấy doanh nghiệp của họ sẽ khánh tận và phá sản vì hệ quả của mức lãi-suất-âm không theo kịp mức lạm phát phi mã 100% hoặc cao hơn.

Nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế đang nhận thấy rằng đảng Việt Cộng của tên Thủ Tướng Công An Nguyễn Tấn Dũng đã là một cái xác chết chưa chôn. Căn bệnh tham ô tham nhũng kinh niên của đảng viên Việt Cộng và sự tranh giành địa vị quyền lực trong nội bộ tập đoàn cầm quyền trung ương đảng đã làm cho đảng Việt Cộng phải chết. Để chuẩn bị cho đủ số phu khiêng quan tài của đảng Việt Cộng, Thủ Tướng Công An Việt Cộng hiện tại là Nguyễn Tấn Dũng đã hai lần thăng cấp tướng đồng loạt cho 66 sĩ quan công an, còn con số sĩ quan được thăng cấp tướng trong quân đội vẫn chưa rõ. Những tên Tướng Quan Tài Việt Cộng dưới sự điều khiển của Thủ Tướng Công An Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng đang mang nặng trên vai một cổ quan tài đóng kín cái xác của đảng Việt Cộng, họ đang chậm chạp bước đi trên con đường ra nghĩa trang lịch sử Việt Nam hiện đại. Sau khi được thoát nạn Việt Cộng, toàn dân Việt Nam ở trong cả nước sẽ vui mừng để xây dựng lại một đời sống mới với sự tận tâm tiếp sức của người Việt hải ngoại và cộng đồng quốc tế.

Thuỷ-Triều
15/06/2008

Nhân vật Võ Văn Kiệt

Huệ Vũ

Trong hai ngày cuối tuần, 14 và 15 tháng 6, vừa qua đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã tổ chức lễ quốc táng cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người được báo chí ngoại quốc coi là kiến trúc sư chính sách “Đổi Mới”, người có tinh thần “hoà giải dân tộc” và là một trong những lãnh tụ CSVN có tinh thần “chống tham nhũng”. Cây bút Jean-Claude Pomonti của tờ Le Monde đã ca tụng: “Võ Văn Kiệt là người có cá tính mạnh, luôn luôn quan tâm tới tư tưởng đổi mới, kể cả khi về hưu, ông cởi mở với cả những người bất đồng chính kiến, bênh vực dân, báo chí, chống bảo thủ, tham nhũng.”

Có thể nói, ông Kiệt, hay Sáu Dân là một nhân vật xuất sắc, từ một thanh niên chỉ đọc được chữ quốc ngữ ở xã Trung hiệp, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long có tên là Phan Văn Hoà, ông ta đã thênh thang đi từ cấp đảng viên, lên chi bộ trưởng, trèo lên tới chức Thủ tướng chính phủ và trở thành một trong những nhà lãnh đạo kinh tế của đảng CSVN. Con đường hoạn lộ của ông cũng giống như Đỗ Mười, người đã từ một anh thợ thiến heo, trở thành Tổng bí thư đảng trong thời gian ông Kiệt làm thủ tướng.

Tuy nhiên, Võ Văn Kiệt có phải là người thực sự hoà giải dân tộc, đổi mới, chống tham nhũng hay không là điều cần phải xét lại.

Người xưa có nói anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng. Đặng Tiểu Bình đề xướng chủ nghiã Cải Cách Khai Phóng, tứ hiện đại hoá để cứu nguy đảng Cộng Sản Tàu, Gorbachev xướng xuất Perestroika và Glasnost để cứu nguy cho đảng Cộng sản Nga, kẻ thành công người thất bại, nhưng họ có thể coi là những người tạo thời thế, còn thành phần lãnh đạo đảng CSVN, nhìn chung, những điều mà báo chí Tây Phương diễn dịch theo cái nhìn đơn giản bảo thủ giáo điều, đổi mới, cấp tiến ... đều là những kẻ thời thế đưa đẩy.

Chiêu bài hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù lại là âm mưu nhằm đập tan tinh thần đấu tranh của người Việt Nam hải ngoại, chính sách nhằm gom thu ngoại tệ, trong giai đoạn đầu cứu nguy nền kinh tế sắp phá sản, Hiện nay, nhằm tiếp tục làm giàu cho chế độ.

Sau khi chiếm miền nam, thống nhất đất nước, “Cả nước đã quay về một mối. Một mối hận thù, một mối đau thương” như thơ Nguyễn Chí Thiện. Người dân thành phố Sài Gòn do Kiệt làm đảng ủy đặc trách ủy ban quân quản trong năm 1975 và phó bí thư thành ủy, kiêm chủ tịch Uỷ Ban Nhân dân thành phố từ năm 1976 đã được nếm đủ mùi vị của chủ nghiã CS, từ đánh tư sản mại bản, cho tới buộc phải đi kinh tế mới. Người dân Sài Gòn đã sống nhờ vào công cuộc “giải phóng” đồ đạc, bàn ghế, giường tủ, tài sản chính trong nhà mình cho khách hàng miền Bắc, cho cán binh Việt cộng.

Mười năm cưỡng bách nông dân vô hợp tác xã nông nghiệp, đã biến Việt Nam từ nam chí bắc trở thành nhà tù vĩ đại, người nông dân sống ngay trên vựa luá đồng bằng sông Cửu Long cũng không đủ cơm ăn. Đó là mười năm cả thế giới chứng kiến những chiếc thuyền mong manh trên biển Đông mang theo những con người bỏ nước ra đi, thà chết trong lòng đại dương còn hơn sống trong thiên đàng xã hội chủ nghiã.

Từ đầu thập niên 1980, ở Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình phát động chiến dịch hiện đại hoá, nhưng CSVN lúc bấy giờ là đàn em trung thành của Liên Xô, coi Trung Cộng là kẻ thù. Trong tháng 3 năm 1985, ông Mikhail Gorbachev được bầu làm Tổng bí thư đảng CS Nga, thay thế Konstantin Chernenko vừa từ trần, trong hoàn cảnh kinh tế trì trệ, sản lượng mọi ngành kinh tế đều xuống thấp, nạn tham nhũng phát triển mạnh trong hàng ngũ cán bộ, nghiện rượu trở thành hiện tượng phổ thông khắp nước. Để cứu nguy cho đảng CS Nga, Gorbachev đề xuất chủ trương Perestroika, tức cải đổi cơ cấu kinh tế, cho phép các cơ sơ kinh tế có nhiều quyền tự quyết định hơn. Gorbachev cũng nghĩ rằng nếu cho dân chúng có thể phản ảnh những bất mãn của họ, có thể chỉ trích cán bộ CS, các cơ quan chính quyền, sẽ giúp cải đổi tình trạng trì trệ của cán bộ nên đưa thêm chính sách cởi mở dư luận gọi là Glasnost.

Là đàn em trung thành của Liên Xô, nên Đại Hội 6 CSVN năm 1986 quyết định theo chân quan thầy, thực hiện chính sách “Đổi Mới”. Nguyễn Văn Linh được đưa lên thay thế Trường Chinh già yếu tạm thay thế cho Lê Duẫn đã chết.

Nguyễn Văn Linh cũng phỏng theo Glasnost của Gorbachev cho phép người dân có thể làm kinh tế cá thể và một số văn nghệ sĩ được cho phép có thể lên tiếng chỉ trích những tệ nạn của cán bộ. Chính cá nhân Nguyên Văn Linh với bút hiệu NVL (Nói và Làm) cũng đã viết nhiều bài nói lên tệ nạn của chế độ.

Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, phong trào đấu tranh cho Dân Chủ và Tự Do ở Đông Âu, các nước trong Liên Bang Xô Viết nhân cơ hội thất bại của Perestroika vùng lên đấu tranh cho độc lập và tự do. Chế độ CS cáo chung từ Ba Lan, Hung Gia Lợi lần lượt lan đi khắp nơi. Trong tình thế biến chuyển nhanh chóng đó, lực lượng đấu tranh cho dân chủ VN lại chưa hội đủ sức mạnh để có thể bắt kịp thời cơ. CSVN lại nhanh chóng nhận ra tình thế mới, một mặt tiếp tục chính sách “đổi mới” kinh tế, một mặt khai trừ những thành phần cấp tiến trong đảng, siết chặt bàn tay kềm kẹp đối với mọi sự chống đối. Đại Hội 7 CSVN, tháng 6 năm 1991, Mười Cúc Nguyễn Văn Linh bị loại trừ khỏi chức vụ Tổng Bí Thư.

Một đảng viên lâu năm, ít học là Đỗ Mười được đưa lên thay thế. Đại Hội 7 CSVN, lại mô phỏng theo chính sách của CS Trung Hoa, lấy cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh” làm lý thuyết chỉ đạo để xây dựng cái gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. CSVN cũng giương chiêu bài “ổn định để phát triển”, “đề phòng diễn biến hòa bình”, thẳng tay thanh trừng mọi đảng viên đã nhận ra sai lầm của chủ nghĩa CS, muốn cải cách thật sự, và siết chặt bàn tay đàn áp với mọi thành phần chống đối trong nước. Đây là giai đoạn Võ Văn Kiệt được đưa lên làm Thủ Tướng, Phó chủ tịch Hội Đồng an ninh và quốc phòng của CSVN. Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo mới của bộ ba Mười-Anh-Kiệt lập tức tìm cách nối lại liên hệ “môi hở răng lạnh” với Trung Cộng.

Kiệt có phải là người hoà giải dân tộc hay không?

Chính sách của CSVN trong giai đoạn 1991-1997 có thể cho thấy rõ điều này. Dù trong nước CSVN siết chặt an ninh, đề phòng âm mưu diễn biến hoà bình, nhưng ở hải ngoại CSVN lại phát động phong trào hoà hợp hoà giải, kêu gọi xoá bỏ hận thù. Phong trào này được thành phần cơ hội, hay tay sai ở hải ngoại rầm rộ phát động. Thế nhưng những thành phần tai to mặt lớn ấu trĩ giúp truyền bá thông điệp này ở hải ngoại này bị cộng đồng Việt Nam tẩy chay, phản đối, bị cháy nhưng cũng không có ai nhận được ơn mưa móc nào của Hà Nội.

Điều đau buồn, trong số thành phần hy vọng bắt tay với Đỗ Mười, chia ghế trong chính phủ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng có cả một đoàn thể quốc gia có tầm vóc. Họ đã hăm hở, rầm rộ về nước định tổ chức hội thảo chính trị, mong chính thức dựng cờ hoạt động trong nước, cuối cùng đã bị Cộng Sản Việt Nam tóm cổ, cho cả đám vào tù. Phong trào hoà hợp hoà giải đầu thập niên 1990 của một số thành phần “tranh đấu” ở hải ngoại lại lần nữa làm cho người Quốc Gia phải đau xót thấy rằng những con người từng tốt nghiệp đại học, làm giáo sư đại học vẫn còn quá nhiều người âu trĩ và ngu ngơ trước những người CS xuất thân từ thành phần mà họ từng cho là ít học, ngu dốt!

Trong năm 2007, qua một bài phỏng vấn của đài BBC, ông Kiệt nói rất “chí tình” rằng” Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải của riêng của người cộng sản, hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả.” Lời nói này của Võ Văn Kiệt là lời “đáng xúc động”. Thế nhưng trong thời gian Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng vẫn là thời gian tôn giáo bị đàn áp rất dã man. Năm 1993 CS huy động quân đội, cả xe tăng đàn áp giải tán 40 ngàn tín đồ Phật Giáo tại Huế, bắt giam các Thượng Tọa Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Hải Thịnh, Thích Trí Lực... Thầy Thích Giác Nguyên biểu tình ở Sài Gòn bị giải tán và bị bắt bỏ tù. CSVN huy động quân đội và xe tăng đàn áp cuộc biểu tình ở Vũng Tàu trong năm 1994, bắt Thượng Tọa Thích Hạnh Đức và hàng trăm Tăng Ni, Phật tử.

Sau 75, Đạo Cao Đài, cũng như đạo Hòa Hảo đã bị CS bách hại thậm tệ. Số người theo Đạo Cao Đài bị CS gia hại riêng tại Củ Chi và Trãng Bàng có thể lên tới 6000 người. Trên mười năm, Cao Đài gần như bị tê liệt. Năm 1993, Đỗ Mười thăm viếng Tòa Thánh Tây Ninh, hứa tôn trọng tín ngưỡng, nhưng mãi đến năm 1997, lúc bộ ba Mười-Anh–Kiệt sắp ra đi, CS mới nhìn nhận thực tế có đạo Cao Đài, và năm 1998 mới chấp thuận cho 800 đại biểu Cao Đài trên toàn quốc về Tây Ninh họp bầu ra một Hội Đồng Chưởng Quản.

Về mặt kinh tế, chính sách khoán công nông nghiệp, chấp nhận kinh doanh cá thể cũng đã làm cho nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong lúc cổ phần hoá hay bán lại các xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, CSVN đã thành lập những tổng công ty để có thể tiếp tục nắm trong tay mọi nguồn lợi kinh tế quốc gia, quân đội, cảnh sát, công an CSVN đều có thể nhảy ra kinh doanh, đầu tư. Võ Văn Kiệt đã được Đỗ Mười ca tụng: “.. Anh Kiệt là con người năng động, luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi và làm việc hết sức mình. Có thể nói: anh Kiệt là người dám nghĩ, dám quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm và tự phê bình. Điều này thể hiện ở chỗ: khi làm Thủ tướng anh đã chỉ đạo hình thành các Tổng công ty mạnh, thể hiện quan điểm kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo, hoặc cho các đơn vị quân đội làm kinh tế, kết hợp với quốc phòng….”

Xuyên qua chính sách kinh tế Việt Nam trong thời gian bộ ba Mười-Anh-Kiệt cho thấy Kiệt vẫn là người chỉ nghĩ tới đảng Cộng Sản, ưu tiên cho đảng CS, mà không phải cho dân tộc và đất nước Việt Nam.

Võ Văn Kiệt có thật sự là người chống tham nhũng như những lời khen tặng của một số nhà báo như Jean-Claude Pomonti?

Trong thời gian Kiệt làm phó thủ tướng và thủ tướng có nhiều tố cáo tham nhũng đối với ông ta. Những vụ tố cáo này gồm vụ ăn chận ngân sách thực hiện đường giây điện cao thế 500 KVA từ nhà máy thủy điện Hoà Bình vào nam hàng triệu mỹ kim. Công trình này do ông Kiệt đặc trách và cùng với Bộ trưởng năng lượng Vũ Ngọc Hải thực hiện. Vũ Ngọc Hải đã chịu làm con dê tế thần bị kêu án 3 năm tù, nhưng chỉ ở tù trong tình trạng ưu đãi đặc biệt chỉ trên một năm. Vụ án điện này có liên quan tới bà vợ lẻ Lương Thị Cầm của Võ Văn Kiệt nhưng bà ta không bị truy tố. Lương Thị Cầm cũng là người chuyên nhập lậu xe hơi vào Việt Nam. Vụ tai tiếng thứ hai là con trai của Võ Văn Kiệt đã bị bộ đội duyên phòng Vịnh Hạ Long bắt giữ vì nhập cảng lậu 200 chiếc xe hơi. Ông Kiệt đã mau chóng lo cho con trai, cho tiền và thăng cấp cho số quân nhân trong đơn vị duyên phòng này để ém nhẹm sự việc. Con trai của Kiệt hiện là chủ nhân hệ thống Plaza Hotel và Ty-Top Beach. Tài sản của Võ Văn Kiệt không rõ bao nhiêu, nhưng có nhiều nguồn tin cho rằng ông ta đã gởi ở các trương mục ngoại quốc ít nhất 300 triệu mỹ kim.

Tóm lại, qua quá trình làm việc của Võ Văn Kiệt từ lúc làm Chủ tịch Sài Gòn, cho tới khi làm Thủ tướng CSVN, không có điều nào chứng tỏ ông là một người thực sự vì dân tộc, là một người thanh liêm, trong sạch.

Hình như cho tới nay, những nhà báo, thành phần trí thức Tây Phương vẫn không hiểu gì về hệ thống tổ chức của CS. Khả năng khác biệt của một cá nhân có thể phát huy khác nhau khi đảm trách những công tác nào đó, nhưng dưới chế độ CS, chính sách của chính phủ chỉ là thi hành đường lối của Bộ chính trị đảng CS mà thôi. Võ Văn Kiệt lên làm thủ tướng trong lúc hệ thống CS Đông Âu tan rã, Liên bang Xô Viết cũng đang tự tan rã. Từ tháng 8 tới tháng 9 năm 1991, các Cộng hoà Tự trị trong Liên bang: Estonia, Latvia, Lithuania, Ukraine, Belarus, Moldova, Georgia, Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikstan, và Turkmenistan lần lượt tuyên bố độc lập. Trước tình hình này CSVN không còn cách gì khác hơn là phải hướng qua Trung Cộng để có thể tìm cách sinh tồn.

Đại hội 7 của đảng CSVN diễn ra trong cơn hấp hối của đàn anh Liên Xô. Họ không còn cách gì chọn lựa phải hướng qua Trung Cộng. Tháng 11 năm 1991, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt sang chầu Bắc Kinh nối lại tình anh em với “anh Hai” đã từng bị phản bội và dạy cho “bài học” trong năm 1979. Chính sách của CSVN từ đó tới nay chỉ là rập khuôn theo Bắc Kinh với vài chút thay đổi trong ngôn ngữ, danh xưng. Nói rằng Võ Văn Kiệt là kiến trúc sư của chính sách “Đổi Mới” ở Việt Nam chỉ sự là đề cao quá đáng!

Khi Kiệt rời chức, người phó của ông ta là Phan Văn Khải được đôn lên làm thủ tướng. Khải ra đi trao lại cho người phó là Nguyễn Tấn Dũng. Đây là sự kế tục để bảo đảm sự điều hành trôi chảy của bộ máy hành chánh CSVN theo hướng đi của đảng. Thế nhưng, nhiều nhà bình luận Tây Phương vẫn liên tiếp đặt nhiều hy vọng vào những người thủ tướng của CSVN. Đối với họ, bí thư đảng nhất định là thành phần giáo điều bảo thủ, thủ tướng là người canh tân cải cách. Họ hết đặt nhiều hy vọng của ông Kiệt, lại đặt nhiều hy vọng ở ông Khải. Và hiện nay lại đánh giá rất cao về người thủ tướng mới là ông Nguyễn Tấn Dũng. Không hiểu nguyên do nào đã đưa tới những cái nhìn này!

Những người Quốc Gia nếu vẫn ảnh hưởng của những cái nhìn “hy vọng cá nhân”, bảo thủ giáo điều, canh tân cải cách, thân Tàu, thân Mỹ trong thành phần lãnh đạo CSVN của những cây bút bình luận Tây Phương thì chính mình đang tranh đấu chống Cộng, nhưng không biết gì về CS và hệ thống tổ chức của đảng CS. Nhất là CS Tàu và CSVN.

Huệ Vũ

Ai thương tiếc ông Võ Văn Kiệt?

• Ngô Nhân Dụng

Võ Văn Kiệt
Thương cho ông Võ Văn Kiệt. Lúc còn sống ông từng lên tiếng ủng hộ việc cởi trói thêm cho báo chí, muốn cho các nhà báo được dễ thở hơn một chút; nhiều nhà báo biết ơn coi ông như một “ô dù” bảo vệ họ mỗi khi lỡ nói “những sự thật không được phép nói.” Nhưng khi ông qua đời, hai ngày sau báo chí ở Sài Gòn mới được phép loan tin! Có báo lỡ đưa lên mạng rồi cũng được lệnh phải cắt bỏ. Và họ đành răm rắp vâng lệnh các ông chủ! Tự do báo chí, như có lần ông Võ Văn Kiệt đã đòi phải mở rộng hơn, bây giờ vẫn như thế đó!

Tại sao người ta sợ một bản tin đơn giản giống như bài “cáo phó” vậy? Chắc Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản ở Hà Nội đã mất hai ngày bàn cãi vì họ khó “nhất trí” với nhau. Họ chưa biết nên cho ông Kiệt được hưởng nghi lễ cấp bậc nào; cũng không biết nên tổ chức đám tang ở Sài Gòn, Vĩnh Long, hay Hà Nội! Tình trạng chậm trễ này cho thấy giới lãnh đạo đảng sợ. Họ sợ cả thi hài một người chết! Chắc họ còn nhớ vụ sinh viên và công nhân Bắc Kinh làm lễ tưởng niệm Hồ Diệu Bang, một tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc đã mất chức. Lễ tưởng niệm đó, vào Tháng Tư năm 1989, lớn lên dần dần, biến thành một cuộc biểu dương lực lượng đòi tự do, sau cùng dẫn tới vụ tàn sát ở Thiên An Môn vào đầu Tháng Sáu năm đó.

Có lẽ ban lãnh đạo đảng Cộng Sản không lo đám tang Võ Văn Kiệt sẽ trở thành một ngòi nổ như lễ tưởng niệm Hồ Diệu Bang 19 năm trước đây, vì Sài Gòn không phải là Bắc Kinh. Mấy tháng trước đây, guồng máy công an Cộng Sản đã đè bẹp những cuộc biểu tình chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trước ngày rước Ðuốc Thế Vận 2008 qua Sài Gòn, công an đã triệt hạ tất cả những nhóm muốn biểu tình chống đối. Ngược lại, đội ngũ công an Việt Cộng đã thành công mỹ mãn trong việc bảo vệ các đồng nghiệp công an Trung Cộng (đóng vai lực sĩ) tổ chức tuần hành phất cờ ngũ tinh diễu võ dương oai ngay trên đường phố Sài Gòn, trước những con mắt ngơ ngác của người dân Việt.

Và như vậy, đảng Cộng Sản sẽ tổ chức một “quốc táng có kiểm soát chặt chẽ” cho ông Võ Văn Kiệt. Không những họ sẽ kiểm soát từng người đi dự lễ, từng vòng hoa, từng lời phúng điếu, mà sẽ còn kiểm soát đến từng chữ viết, từng bức hình chụp khi loan tin về đám tang đó!

Trong tình cảnh như vậy thì linh hồn ông Võ Văn Kiệt cũng phải đau lòng! Vì nếu được chọn, chắc ông sẽ muốn người ta nhớ đến ông như một người tiêu biểu cho các đảng viên muốn thay đổi nhanh chóng, chứ không phải của một tổ chức khép kín gồm các lãnh tụ đảng đang lo chia phần sôi thịt! Mấy năm sau cùng khi còn tại thế, ông Võ Văn Kiệt tự biến mình thành điểm hội tụ của những đảng viên và người ngoài muốn thay đổi mạnh bạo hơn. Có lúc ông nói và viết như một người đối lập. Trước đại hội mười của đảng Cộng Sản, những người muốn thay đổi nhanh chóng hơn đã quy tụ quanh ông. Trong năm 2005 ông Kiệt đã đi khắp các tỉnh ở miền Nam vĩ tuyến 17, mỗi tỉnh đến thăm nhiều lần, để cổ động khuynh hướng thay đổi mạnh hơn.

Ðặc biệt, trong đám những người ở quanh ông Kiệt có những nhà báo trẻ, những người dám ngỏ ý đòi thêm quyền tự do ngôn luận. Khi có những mạng lưới loan tin đồng bào biểu tình phản đối bị chiếm ruộng đất, hoặc loan tin những hành động của thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, nhiều người dám làm những việc đó vì họ tin đã được ông Võ Văn Kiệt ngấm ngầm hỗ trợ. Ông Kiệt trở thành một thứ “ô dù” của những đảng viên Cộng Sản có tư tưởng tiến bộ ở miền Nam. Nếu được chọn, chắc ông Kiệt muốn được người ta nhớ đến như một “đầu tầu” của phe tiến bộ trong đảng, của những người sẽ thay đổi đảng; chắc ông không muốn được lãnh huy chương, được phong làm “anh hùng” của một đảng Cộng Sản đang thối nát đến tận xương tủy. Võ Văn Kiệt đã tìm cách thay đổi cái đảng thối nát đó, một đảng mà ông đã theo trong gần 70 năm; nhưng sau cùng ông vẫn không thành công. Ngay cái chết của ông cũng sẽ được đám lãnh tụ tham ô sử dụng để củng cố quyền hành và bảo vệ những lợi lộc của họ!

Một đảng viên Cộng Sản lâu năm như ông Võ Văn Kiệt phải nhuần nhiễn “kỹ thuật tồn tại” khi sống trong lòng chế độ, cho nên chúng ta không hy vọng khi còn sống ông Võ Văn Kiệt dám nói thẳng đến những sai lầm căn bản của Chủ Nghĩa Cộng Sản cũng như của chế độ toàn trị bất lực và thối nát của họ. Nhưng trong khuôn khổ hạn chế đó, ông đã dám nói lên rất nhiều điều để người đọc có thể suy ra ý kiến sâu kín của ông. Năm 1995, lá thư ông Võ Văn Kiệt gửi cho Bộ Chính Trị trong khi ông đang đóng vai thủ tướng đã được tiết lộ, cho thấy ông muốn dùng dư luận bên ngoài để tạo sức ép lên đám lãnh tụ thủ cựu chung quanh. Trong thư đó, ông Kiệt đã phản đối chủ trương dùng kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, ông còn gợi ý không được để cho cơ chế đảng lấn áp guồng máy nhà nước. Ông viết thẳng sự thật là các đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng “chỉ hoạt động hình thức, hoặc tê liệt, thoái hóa.”

Nhưng phải đợi 10 năm sau, ông Kiệt mới dám nói thẳng hơn khi góp ý kiến công khai trước đại hội X. Ông dám viết một sự thật mà đảng Cộng Sản vẫn che lấp, là họ không còn dính gì đến giai cấp công nhân lao động nữa: “Chúng ta thường nói như một công thức rằng đảng Cộng Sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân... Thực tế là trong một thời gian khá dài, đảng dường như không phải là của giai cấp công nhân... Giai cấp công nhân trong thực tế không biết và không có quyền được biết đội tiên phong của mình đang làm gì.” Cả nước biết và muốn nói như vậy mà phải lặng câm, những lời nói của ông Kiệt tạo cơ hội cho nhiều người dám nói mạnh dạn hơn.

Ông Võ Văn Kiệt có dám đòi tự do dân chủ thật sự cho người Việt Nam hay không? Ông đã phê phán đảng Cộng Sản vì trong lòng đã nhìn thấy chế độ độc tài là một tai họa của dân tộc; hay là ông chỉ theo thời mà nói lên những điều cả nước Việt Nam ai cũng thấy? Chúng ta biết là trong guồng máy độc quyền của đảng Cộng Sản mà ông đã sống, một người như ông chỉ dám hô lên những khẩu hiệu chung chung, không dám nói những điều cụ thể. Trước đại hội X, ông viết, “Phải rèn tập cho xã hội Việt Nam một thói quen của đời sống dân chủ. Trong đó quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu... cần được mở rộng hơn nữa.” Khi một lãnh tụ cấp cao như ông đã viết như vậy, các đảng viên tiến bộ thấy như đã được “bật đèn xanh” để mạnh dạn biến các khẩu hiệu đó thành hành động. Họ dám viết báo chống tham nhũng, dám làm những mạng lưới đòi tự do, dám chống Trung Quốc xâm lăng. Nhưng tiếc rằng họ chưa bao giờ đạt được kết quả nào cụ thể. Tức là chính ông Võ Văn Kiệt, cho đến trước lúc ông qua đời, cũng vẫn thất bại - nếu ông thực tâm muốn thay đổi!

Bây giờ ông Kiệt qua đời, những đảng viên tin theo ông và từng lên tiếng đòi quyền sống cho nông dân, chống cường hào ác bá sẽ bơ vơ. Những người đó, phần lớn đều trẻ tuổi, mới lâm vào cảnh “mồ côi.” Họ là những người sẽ thương tiếc ông nhất. Không những thương tiếc một con người mà thương cho những cơ hội đã mất không bao giờ tạo được nữa! Họ sẽ phải đi tìm “chỗ dựa” nếu muốn tiếp tục vận động đảng Cộng Sản bỏ chế độ độc tài và phục hồi danh dự đất nước. Hiện nay không thấy một ai đủ sức làm ô dù cho họ cả! Trong đám tang ông Võ Văn Kiệt, đó là những người sẽ khóc ông thành thật nhất. Chính khi còn sống ông Võ Văn Kiệt chưa bao giờ tổ chức được những người đang theo mình, chuẩn bị cho có người làm đầu tầu thay thế mình. Có lẽ vì lòng ông vẫn “tận trung” với đảng Cộng Sản; mà cũng có thể vì ông bất lực trước guồng máy kiểm soát chặt chẽ của đảng, họ không bao giờ để cho một ý đồ như vậy có thể thực hiện.

Bây giờ ông chết rồi, đảng Cộng Sản sẽ chiếm cái thi hài của ông. Ðám tang sẽ được tổ chức “đúng đường lối!” Từ nay ông sẽ thuộc về họ, họ bảo đảm guồng máy thông tin làm cho cả nước hiểu như vậy. Ðám lãnh tụ đảng sẽ đọc điếu văn, sẽ ban thêm huy chương cho ông, sẽ khen ngợi những thành tích phục vụ đảng của ông mà không bao giờ nhắc đến những ý kiến “chệch hướng.” Họ sẽ không dại dột lăng mạ ông như đã làm trong đám tang Tướng Trần Ðộ. Nhưng họ sẽ khuyên các đảng viên khác chỉ theo tấm gương tận tụy phục vụ đảng của ông, khi nào chết sẽ được phát thưởng huân chương y như vậy!

Trong bộ ba Mười, Anh, Kiệt mười năm trước, Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn còn sống và vẫn kiểm soát giềng mối bộ máy đảng, quân đội và công an. Tay chân của hai ông này vẫn nắm quyền, tha hồ chia chác nhau các thứ lợi lộc. Ông Võ Văn Kiệt đã thua vì chết sớm hơn. Ông ra đi, không còn bảo vệ được những người tiến bộ đã theo ông nữa. Trong vòng hai tháng nữa trung ương đảng Cộng Sản sẽ họp để sắp xếp lại, và khẳng định “Võ Văn Kiệt đã chết thật!” Khuynh hướng thủ cựu sẽ thống ngự trong hai ba năm sắp tới, trong đảng cũng như ngoài xã hội. Chỉ trong vòng một năm tới, những người đàn em trẻ tuổi của ông Kiệt sẽ bị phân tán, nhiều người sẽ bị bắt, nếu mạng lưới của họ không bị tiêu diệt thì cũng bị làm cho tê liệt!

Cho nên đám tang ông Võ Văn Kiệt là cơ hội sau cùng để những người đã theo ông hành động. Không biết họ sẽ làm gì để chứng tỏ những ý kiến có khuynh hướng tiến bộ mà ông Kiệt đã nói trước đây là có thật, xuất phát từ tim óc, chứ không phải chỉ là những lời a dua giả dối, hô khẩu hiệu theo thời thế đổi thay. Họ sẽ phải đối đầu với lực lượng công an, mật vụ của chế độ, không biết họ có đủ sức và đủ dũng cảm để làm được gì hay không.

Ngô Nhân Dụng

Cả Vú Lấp Miệng ... Chị

Kiêm Ái


Sau khi Ủy Ban Bãi Nhiệm được thành phố chấp nhận có đủ điều kiện pháp lý để mở chiến dịch lấy chữ ký cử tri khu vực 7, bãi nhiệm nghị viên Madison Nguyễn, phe sợ “mồ côi” liền tung nhiều cố gắng, nhiều hỏa mù mong vớt vát chút đỉnh cho xứng đồng tiền bát gạo, nào là bãi nhiệm Madison Nguyễn cũng như đá banh vào tường, nào là làm như vậy sẽ không có người trẻ Việt Nam ra ứng cử, nào là nam phụ lão ấu Bắc Cali sẽ mồ côi, nào là làm sao thành công được khi mà chính quyền đứng đầu là Chuck Reed ủng hộ Madison Nguyễn, nào là … đủ thứ.

Chuyện hỏa mù tiếu lâm nhất là bà Nguyễn Kim Anh nào đó, với sự phụ họa của bà Ðoan Trang đã lên đài Quê Hương đưa ra những lập luận trời ơi đất hỡi mang nhiều tính chất tiếu lâm tân thời để kêu gọi bà con đừng bãi nhiệm Madison. Tiếu lâm nhất là lập luận nếu bãi nhiệm Maidson Nguyễn thì cử tri khu vực 7 sẽ mồ côi!!! Ông Thomas Nguyễn đã mỉa mai rằng 2 bà Ðoan Trang và Kim Anh có muốn nhận Madison Nguyễn là mẹ thì cứ việc … tới luôn bác tài, chứ cử tri khu vực 7 cũng như đồng hương Bắc Cali không dại dột làm chuyện quái đản đó. Bà Kim Anh thấy vậy biết mình “khôn ba năm dại một giờ” rồi liền nêu câu ca dao “Ðàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình” để đỡ đòn. Kể ra thì cú đỡ này cũng tạm tạm, nhưng thà bà đừng có ví von bậy bạ như vậy còn hơn. Và thà bà Kim Anh cứ ngậm miệng không nói thì cũng chẳng ai nói bà chưa biết nói. Vì bà càng nói thì cử tri khu vực 7 càng thấy cần phải bãi nhiệm Madison càng sớm càng tốt. Bà Kim Anh cho rằng hô hào bãi nhiệm Madison Nguyễn làm cho các sắc dân khác khinh chê cộng đồng người Việt, khiến cho đồng hương nhận thấy bà Kim Anh mới tập nói nên nói bậy bạ. Cử tri California đã bãi nhiệm Thống Ðốc, cử tri San Jose đã bãi nhiệm thị trưởng, cử tri khu vực 7 cũng đã bãi nhiệm nghị viên khu vực 7, mà chẳng ai sợ cử tri tiểu bang khác khinh khi, chẳng có cử tri nào khinh cử tri nào cả. Nếu nói theo ngôn ngữ phim bộ của Tàu thì bà Kim Anh không nói cũng chẳng ai cho là bà câm. Nếu bà Kim Anh cho rằng bãi nhiệm sẽ tốn tiền của thành phố thì quả thật, bà đã đá ông thị trưởng Chuck Reed một cú đá “hết ga”, đau hơn bị Tổng Bí Thư VC Ðỗ Mười “hành sự”. Vì trước đây, cả Madison Nguyễn và Chuck Reed đã chẳng đưa ra đề nghị để công dân cả thành phố tham gia trưng cầu dân ý chữ Little Saigon đó sao? Nghe nói trong một lúc quên đề phòng, Chuck Reed cũng đã cho rằng việc bãi nhiệm có thể tốn khoản một triệu rưỡi Mỹ kim, nếu đúng như vậy thì Chuck Reed đã tự vả vào cái “mao” của mình rồi, nếu bà Kim Anh có nói thế thì cũng nên vả vào miệng một cái cho nhớ.

Biểu dương sức mạnh của cộng đồng người Việt trước Tòa Thị Chính San Jose ngày 2 /3/08 ủng hộ đặt tên Little Saigon cho khu thương mại người Việt tại San Jose và đòi bãi nhiệm NV Madison Nguyễn

Thời buổi kinh tế suy thoái, chúng ta nên tiết kiệm đồng nào hay đồng đó. Nhưng tiết kiệm khác với hà tiện, dù cho có bỏ ra một triệu rưỡi để loại một kẻ ăn cháo đá bát, đã gây sóng gió cho cộng đồng Việt Nam, để đem lại dân chủ cho thành phố đã bị Madison Nguyễn và Chuck Reed cất mất thì dù có 15 triệu cũng đáng, huống hồ, theo chiết tính rất hợp lý của ông Thomas Nguyễn thì chỉ khoảng 70 ngàn mà thôi.

Phe binh vực nghị viên ăn cháo đái bát Madison Nguyễn còn tung tin rằng, ông Chuck Reed và mấy nghị viên thành phố binh vực Madison Nguyễn sẽ nhận chìm cuộc bãi nhiệm của chúng ta. Ðây là một lối tuyên truyền nghe qua rất có lý, nhưng nghĩ lại thì chỉ là một trò lừa dối. Trong quá khứ, Chuck Reed đã tận tình binh vực Madison, ra rất nhiều Memorandum (đề nghị), đã bất chấp tốn bạc triệu cho thành phố nếu đưa ra cho cả thành phố trưng cầu dân ý, bất chấp luật Brown Act để rù quến mấy nghị viên ủng hộ Madison, rốt cuộc đã phải buông tay, không chống nổi với chính nghĩa và sự kiên trì của chúng ta. Bây giờ, chúng ta đã thắng lợi 90% chỉ còn 10% nữa làm sao không chiến thắng?

Có một tin đồn rất tiếu lâm rằng “chính quyền” đã binh vực Madison Nguyễn thì chúng ta không thể nào bãi nhiệm bà ta đưọc. Nói nghe cũng có lý nếu là chính quyền… Việt Cộng. Một năm trước đây, Madison Nguyễn cũng tưởng rằng “chính quyền” là cô ta nên đã bất chấp ý nguyện của đồng bào, bất chấp luật Brown Act, bất chấp liêm sỉ, bất chấp cả lý trí khi giao trọn gói việc đặt tên, vẽ monuments, phướn v.v… cho ông Tăng Thành Lập muốn làm sao thì làm, giao cho bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi trọn gói Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng với ngân khoản xin được 2.8 triệu mỹ kim. Nhưng, cái loại “chính quyền” mà nghị viên Madison Nguyễn và đồng bọn đưa ra “giựt le” với đồng hương là loai chính quyền cướp quyền dân. Cuối cùng thì Madison Nguyễn và Chuck Reed cũng chịu phép, dẹp cái loại “chính quyền” độc tài đó và chấp nhận Little Saigon là tên đa số cử tri Mỹ gốc Việt chọn. Vì vậy, lúc ban đầu các sắc dân khác thắc mắc tại saơ chỉ vì một cái tên (Little Saigon) mà cộng đồng Việt Nam phải làm lớn chuyện. Nhưng khi được giải thích ý nghĩa chữ Little Saigon và chính nghị viên Madison Nguyễn cũng như Chuck Reed đã chà đạp dân chủ của Hoa Kỳ, lúc đó các sắc dân khác đã ủng hộ cộng đồng, nghị viên Sam Liccardo, khi đã biết mình bị bịp với 92 chữ ký giả mạo của Lê Văn Hướng cũng đã vội vã lìa bỏ hàng ngũ bịp bợm đó để ủng hộ cộng đồng. Phó thị trưởng Dave Cortese cũng cho biết bị nghị viên Madison Nguyễn đưa tin sai lạc, và khi biết được sự thật cũng đã quay qua ủng hộ cộng đồng Việt Nam. Vì vậy, cái âm mưu đem “chính quyền” ra hù dọa đồng hương chỉ làm trò cười cho mọi người mà thôi. Chính bản thân Hoàng Thế Dân, ký tên trong bản Our Voice, trước Hội Đồng Thành Phố đã mếu máo đưa cái cell phone lên mét với Hội Đồng Thành Phố rằng hắn ta bị hăm dọa tính mạng vì ký tên trong bản Our Voice, thế mà khi Hội Đồng Thành Phố chấp nhận Little Saigon, hắn ta lại nhờ đài nhà cò mồi để xin nói rằng đã ủng hộ Little Saigon từ trước!

Buồn cười nhất là bà “chài đủ” Đoan Trang và bà Nguyễn Kim Anh cùng trong một buổi nói chuyện, trước thì than phiền rằng tại sao đã thu được kết quả là thành phố đã chấp nhận Little Saigon rồi mà còn đấu tranh bãi nhiệm Madison Nguyễn. Nhưng chỉ mấy phút sau, 2 bà này lại kẻ xướng người họa, cho rằng thành phố chỉ mới chấp thuận cho treo một số phướn và Monuments tạm thời chứ… chưa có gì cả. Bà Đoan Trang thì còn vài năm nữa mới được 6 bó, bà Kim Anh thì nghe giọng nói cũng quá tuổi sồn sồn chút đỉnh, tại sao lại lẩm cẩm như vậy? Chẳng qua là vì họ không có chính nghĩa, họ cố binh vực một kẻ “ghét cái tên Little Saigon chỉ vì nó có nghĩa chống Cộng” do đó, ông bà tổ tiên những anh linh chống Cộng bắt họ phải thú nhận cái sai trái một cách “thành thật khai báo” như vậy.


Cuối cùng chính nghĩa đã thắng khi thành phố San Jose buộc phải chấp nhận tên gọi Little Saigon vào ngày 13 tháng 3, 2008, lúc 9:30 sáng.

Chính nghị viên Madison Nguyễn đã đem lại sự xáo trộn, làm mất thì giờ biết bao người:

- Tại sao nghị viên Madison Nguyễn nhân danh cộng đồng để xin thành phố ngân khoản để tạo mãi Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng mà khi được chấp thuận lại không cho cộng đồng biết mà lén lút trao trọn gói cho bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi? Khi bị chất vấn thì lại cho rằng nếu tiết lộ cho cộng đồng biết thì phạm luật và bác sĩ Ngãi “đã giúp cháu rất nhiều khi cháu ra ứng cử”?

- Tại sao Hội Đồng Thành Phố đã chấp thuận dành khu thương mãi đường Story để “vinh danh người Việt tị nạn Cộng Sản” nghị viên Madison lại giao trọn gói cho Tăng Thành Lập một tư nhân không dính dáng gì đến cộng đồng, quyết định mọi việc. Lại còn đề nghị với văn phòng thành phố để không đưa ra trước Hội đồng thành phố? Tại sao lại có ý định lén lút như vậy?

- Tại sao ngày 15.8.2007, chính nghị viên Madison khẳng định chỉ có những người buôn bán và cư ngụ trong vòng 1 ngàn feet trên đường Story mới có quyền quyết định cái tên nào để đặt cho khu thương mại này. Đến khi thành phố thăm dò ý kiến thì đa số những người trong khu vực mà Madison Nguyễn quy định, đã chọn tên Little Saigon, còn 5 tên khác, kể cả tên Maidson Nguyễn đề nghị đều không được chọn (dưới 6%) mà Madison không giữ lời hứa lại đi chọn tên khác?

- Để tránh cho bằng được tên Little Saigon, Madison và Chuck Reed đã đưa đề nghị để toàn thể cử tri cả thành phố tham gia trưng cầu dân ý tên Little Saigon, rất tốn kém tiền bạc thì 2 người này không đếm xỉa đến, bây giờ lại thổi phồng sự tốn kém việc bãi nhiệm Maidson lên rồi oán trách những người bãi nhiệm Madison?

- Tại sao chỉ vì một cái tên đã được hơn 90% đồng hương tị nạn Cộng Sản Việt Nam mong muốn, nghị viên Madison lại làm nhiều cách, đưa ra những lập luận vô lý để bác bỏ cho bằng được. Nghị viên là người đại diện cho dân chứ đâu phải cha mẹ của dân như mụ Việt Cộng Tôn Nữ Thị Ninh tuyên bố và Đoan Trang và Kim Anh, một cách lươn lẹo đã lồng vào 2 chữ “mồ côi” để hù dọa cộng đồng tị nạn Cộng Sản Bắc Cali.

Ủy Ban Bãi Nhiệm NV Madison Nguyễn đang lấy chữ ký của cử tri khu vực 7 trong ngày Chào Mừng Little Saigon 18/5/2008 trước Tòa Thị Chính San Jose

Còn rất nhiều câu hỏi, mà câu hỏi nào thì cũng nêu lên cái vô lý trí, cái lươn lẹo và vô liêm sỉ của Maidson Nguyễn.

- Tại sao lại ghét cái tên Little Saigon chỉ vì nó có nghĩa chống Cộng?

Ai là người chống Cộng đều bị Madison Nguyễn ghét bỏ, vậy những người chống Cộng trong khu vực 7 còn chần chờ gì mà không đến ký tên bãi nhiệm Madison?

Về tư cách của Madison Nguyễn thì y thị đã nói láo không ngượng mồm trước toàn thể Hội Đồng Thành Phố và hàng trăm người khác, dù luật sư Đỗ Văn Quang Minh và ông Lê Hoàng Trung đã đưa ra video tape phát lại 2 lời nói trái ngược nhau của chính y thị, thế mà Madison Nguyễn vẫn chối leo lẻo “Never, I nerver say that”.

Với con người lươn lẹo, dối trá và ghét người chống Cộng như vậy, ngày nào Madison Nguyễn còn ngồi ở Hội Đồng Thành phố, ngày đó cử tri khuy vực 7 nói riêng người Việt nói chung đều rất hổ thẹn.

Kiêm Ái
Cuộc Hý Trường trên tuần báo Tiếng Dân số 313, phát hành ngày 13/6/2008

Tuesday, June 17, 2008

Lòi Đuôi Chuột

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Những người tỵ nạn VN bỏ nước ra đi đã phải bỏ quê hương, bỏ nhà cửa sản nghiệp, bỏ thân nhân, bỏ mồ mả ông bà, bỏ tất cả, chỉ còn giữ lại một chút tự hào của lương tri mà biểu tượng là Lá Cờ Tổ Quốc. Thế mà nay lại có người nhẫn tâm đòi họ phải bỏ đi nốt. Người đó lại là vị Hồng Y Giáo Chủ của Giáo Hội Công Giáo VN. Bọn CSVN ép người tỵ nạn bỏ lá cờ đã đành. Vị Hồng Y Giáo Chủ CG ra tay hành động trong vụ này mới là điều gây ngạc nhiên.


Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) năm 2008 của Giáo Hội Công Giáo, gọi tắt là WYD 2008 sẽ được tổ chức vào tháng 7 tới đây tại Sydney, nước Úc. Đức Tổng Giám Mục George Pell có mời Hồng Y Phạm Minh Mẫn sang tham dự. Dĩ nhiên theo thông lệ là có cả phái đoàn giới trẻ VN đi theo. HY Mẫn nhận lời mời. Điều ông quan tâm về ích lợi tinh thần khi đi dự Đại Hội không biết như thế nào. Nhưng về mặt giữ thể diện thì xem ra ông lo lắng lắm. Sự lo lắng này có cái lý của ông. Giữa một rừng người thuộc đủ mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên thế giới tụ tập lại, để phân biệt, người ta chỉ còn cách nhìn vào lá cờ của mỗi nhóm người. Ông Hồng Y có mặt tại đại hội và chắc chắn ông muốn người ta biết tới sự hiện diện của phái đoàn giới trẻ VN từ trong nước ra. Vì thế ông thấy cần phải có lá cờ đỏ trương lên cho mọi người nhận ra đoàn trẻ VN và khỏi nhầm lẫn. Những lần đại hội trước đây, cũng có các vị giám mục khác đại diện từ trong nước ra cùng với một số giới trẻ được chọn lọc, nghe đâu có lần có cả một chị cán bộ không phải là người công giáo cũng được đi dự đại hội. Họ không trương cờ đỏ sao vàng. Trong khi đó, đám trẻ VN tham dự đại hội đại đa số là các con em tỵ nạn. Họ trương lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ. Vì thế phái đoàn giới trẻ từ trong nước ra tuy có mặt nhưng mà có cũng như không.

Năm nay ông Hồng Y chính thức đi tham dự Đại Hội. Ông không muốn chuyện đó xẩy ra nữa. Ông muốn thế giới xác định đám trẻ cờ đỏ của ông mới thực sự là giới trẻ VN. Đám trẻ Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ không có tư cách gì là VN được. Muốn vậy vấn đề phải là triệt tiêu sự hiện diện của lá Cờ Vàng. Lá thư mới đây ông viết gởi cho các giám mục liên hệ trong vấn đề này nằm trong mục tiêu đó. Trong thư ông Hồng Y viết huỵch toẹt là phải triệt hạ lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ, chả còn e dè gì: WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada , đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.

Điểm đặc biệt của lá thư là cách diễn đạt tư tưởng của ông Hồng Y. Từ trước tới nay ông chưa bao giờ trình bầy ý nghĩ một cách huỵch toẹt như thế cả. Ông luôn luôn có lối nói vòng vo tam quốc một cách rất khéo léo và thường tế nhị. Chẳng hạn lần sang Mỹ cuối năm 2001 sau khi cha Nguyễn Văn Lý bị bắt, ông gởi một lá thư mục vụ (chả biết là mục mục cho ai) với nhan đề là “Ánh Sáng Chỉ Đường”. Trong thư mục vụ, ông tự biện hộ về việc ông im lặng trước vấn đề của cha Lý, và đồng thời kết án những người bên vực cha Lý một cách mờ mờ ảo ảo thế này: “ Nếu Giáo-hội là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện, Giáo-hội phải đầy sự hiệp-thông và hiệp nhất, đầy thánh thiện và bình an, xuất phát từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là lý tưởng. Còn thực tế cho thấy, hành trình của Giáo-hội đầy cam go thử thách và còn xa điểm đến. Và đó là điều thường tạo ra căng thẳng, có khi là khủng hoảng trong cộng đoàn Ki-Tô. Có những nhà đạo đức nhắm mắt và thinh lặng trước thực tế đó. Đồng thời cũng có những nhà cải cách ồn ào quy kết Giáo-hội đã biến chất thành phản chứng, giữa hai cực đó là đông đảo các tín hữu. Nhiều người trong họ cảm thấy hoang mang, lạc lõng, đói khát, như đi trong hoang địa.” Thế đấy, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Qua lá thư về vấn đề Đại Hội Giới Trẻ kỳ này, ông Hồng Y trực tiếp và thẳng thừng đặt vấn đề dẹp bỏ lá cờ Vàng là một điều hiếm thấy. Hơn nữa, ông còn đem Chúa ra làm bình phong và cho rằng lá Cờ Vàng chính là vật cản trở con đường hiệp thông của tuổi trẻ VN với nhau và với Thiên Chúa. Như thế thì bổn đạo nào mà còn cả dám thắc mắc?

Xưa nay người ta chỉ thấy các ngài lãnh đạo GH né tránh những nơi có trương lá Cờ Vàng, thí dụ như vụ Lm Trịnh Tuấn Hoàng vừa rồi tại Texas, như GM Hoàng Văn Tiệm tại Minnesota, hay GM Nguyễn Chí Linh tại nhà thờ Saint Maria Goretti ở San Jose trước đây v.v. HY Phạm Minh Mẫn, một vị lãnh đạo cao cấp nhất của GHVN trực tiếp ra lệnh và chỉ đạo công việc dẹp cờ là một chỉ dấu bất thường. Sự thể cho thấy cái gì, xin thử nghĩ coi? Đặt sự việc này trong bối cảnh và tình hình của VN hiện nay, chúng ta có thể nghĩ cuộc dấu tranh Quốc/Cộng đã chuyển sang một giai đoạn mới. Có phải tình hình đã bước vào hồi cuối tháng 3, đầu tháng 4-1975 rồi không? Các giai đoạn du kích, công đồn đả viện, chiếm đất dành dân đã qua. HY Phạm Minh Mẫn đang là người mở ra mũi nhọn tiến công số một của chiến dịch “Hồ Chí Minh” tại hải ngoại? Đã có một tiền lệ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ra lệnh giáo dân Hànội ngưng cầu nguyện tại tòa Khâm Sứ. Nếu đức TGM George Pell, và có thể cả cấp cao hơn là Tòa Thánh ra lệnh cấm lá Cờ Vàng trong đại hội WYD thì quả thật CSVN đã đạt được một chiến thắng lớn chẳng tốn công sức gì. Hệ quả theo sau là lá Cờ Vàng sẽ dần dần vắng bóng tại các cộng đoàn giáo dân tỵ nạn trên thế giới vì lý do cao cả “nó làm tắc nghẽn hiệp thông với Chúa”.

Như lá thư viết, 3 lần đại hội ở Pháp, Đức, và Canada , con đường hiệp thông của giới trẻ VN tham dự đại hội đều bị tắc nghẽn. Nguyên nhân làm tắc nghẽn sự hiệp thông mà HY Mẫn qui kết như đinh đóng cột là do lá cờ Vàng 3 Sọc Đỏ. Ông quyết tâm khai thông sự tắc nghẽn này. Cũng phải nói cho đúng kẻo mang tội là ông Hồng Y không có chữ nào minh thị ra lệnh dẹp bỏ lá Cờ Vàng cả. Tuy nhiên, đọc lá thư của ông, người ta không thể nào nghĩ khác được. Bắt buộc phải nghĩ như thế thôi. Nhưng thật tội nghiệp cho ông. Ông đem cả Chúa ra để biện hộ cho chủ trương của mình nhưng xem ra luận cứ nào cũng đều là ngụy biên cả nên nó trở thành gậy ông đập lưng ông. Chẳng hạn ông viết: “… người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá.” Không ngờ ông Hồng Y cũng là người biết để ý đến mầu sắc trên y phục của phụ nữ. Ông ví von rất đúng và rất hay. Các bà các cô thích áo quần xanh đỏ là cái cẳng rồi. Bà mẹ VN cho dù có lúc nghèo mạt rệp cũng không thoát khỏi cái tâm lý đó. Thế nhưng xin phép được hỏi nhỏ Hồng Y một câu: nếu như cái áo có vấn đề thì ông tính sao? Thí dụ như bà cố (mẹ của HY) đi shopping mua một cái áo rất đẹp để mặc trong dịp con trai bà làm lễ nhậm chức hồng y. Chiếc áo này được nhuộm bằng một loại hóa chất độc hại mới tung ra thị trường mà chưa ai kinh nghiệm. Bà cố mặc đi nhà thờ, ban đầu bà cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, rồi da thịt bắt đầu sưng tấy lên những mụn nhọt làm đau đớn không chịu nổi v.v. Dám hỏi Hồng Y, giữa buổi lễ long trọng như thế mà ông chủ tế, ông sẽ giải quyết ra sao? Ông cứ để bà cố chịu khổ sở trong nhà thờ hay bảo người đưa mẹ yêu quí của mình về nhà thay áo khác và đi nhà thương cho bác sĩ chữa trị? Tôi không tin là ông Hồng Y bắt bà mẹ mình ngồi chịu trận để xem ngài làm lễ. Đúng là bà mẹ VN có lúc mặc áo vàng, áo đỏ. Nhưng nếu tấm áo nào gây nguy hiểm cho sức khỏe của bà thì con cái phải thay cái áo khác cho mẹ mình, chứ chả lẽ cứ để vậy? Hồng Y Phạm Minh Mẫn không lý không thấy cái áo đỏ bà mẹ VN của mình đang mặc gây ra những bệnh tật cho bà như thế nào? Ông đã không biết đổi cái áo khác cho bà, lại còn bắt các đứa con khác không được thay áo cho mẹ. Có phải là tàn nhẫn lắm không? Hồng Y đã không màng đến việc thay chiếc áo đỏ mang hại cho mẹ, ông còn la làng chiếc áo vàng là nguyên nhân làm tắc nghẽn sự hiệp thông của các đứa con mẹ tham dự đại hội WYD? Đúng là miệng nhà quan có gang có thép.

Câu hỏi cần đặt ra là có thật lá Cờ Vàng là nguyên nhân gây nên tắc nghẽn sự hiệp thông của các người trẻ VN không? Đây là lần đầu tiên có người đưa ra tố cáo này.

Như người ta biết, WYD là một sinh hoạt vừa văn hóa vừa tôn giáo của GHCG thế giới. Mỗi sắc dân, mỗi quốc gia đều mang theo lá cờ riêng của mình để self-identify đối với các sắc dân khác. Các con em tỵ nạn đến đó họ phải mang theo cái gì đây để phân biệt mình với người khác ngoài lá cờ Vàng 3 Sọc đỏ. Họ giương cao lá cờ để chụp hình chung với Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng ái mộ ngài. Vấn đề chỉ có thế. Nhưng HY Mẫn lại nghĩ khác: nó làm tắc nghẽn tinh thần của tuổi trẻ VN đi dự đại hội. Kết án của ông Hồng Y đã phạm phải các sai lầm nghiêm trọng sau đây:

Thứ nhất, chính trị hóa một vấn đề không phải là chính trị của người khác. Như trên chúng tôi đã viết, việc các đoàn trương lá cờ của mình tại WYD chỉ là để self-identify. Nếu cho rằng rằng giới trẻ tỵ nạn trương lá Cờ Vàng là một hành vi chính trị gây ra tắc nghẽn sự hiệp thông, thì tại sao chủ trương dẹp lá cờ này không bị coi là hành vi chính trị? Thật là vô lý. Ông Hồng Y đã suy bụng ta ra bụng người và ông đã độc quyền chân lý mất rồi. Xin nhắc ông Hồng Y rằng Hội Đồng GiámMục VN xưa nay vẫn từng khoe khoang không xen vào chính trị đấy.

Thứ hai, Hồng Y Mẫn sao ngài giống VC quá đi thôi. Thế giới này (chỉ trừ ra nước CS của ngài) là thế giới đa văn hóa và đa nguyên chính trị, ai mang cờ gì cứ thoải mái có ai cấm cản gì đâu. Sao ông Hồng Y lại ngăn cấm lá Cờ Vàng. Vậy chứ nếu trương cờ đỏ lên ông có cho là nó làm tắc nghẽn sự hiệp thông với Thiên Chúa không hay là ông vỗ tay hoan nghênh?

Thứ ba, lạm dụng sự thánh thiêng cho một việc tầm thường. Chủ trương dẹp lá Cờ Vàng, Hồng Y Mẫn đã nại tới vấn đề “hiệp thông với Thiên Chúa” để biện lý. Tôi cho như thế là lợi dụng Thiên Chúa, lạm dụng sự thánh thiêng. Ông đã thiếu lương thiện với con chiên bổn đạo và với cả chính mình. Con người hiệp thông với Thiên Chúa ở tại lòng mình có muốn hay không. Tuyệt đối không có gì ngăn cản nổi khi lòng đã muốn. Một lá cờ không bao giờ là lý do ngăn trở việc con người muốn hiệp thông với Thiên Chúa như Hồng Y nói. Tôi nghĩ như thế và tôi tin như thế. Còn ông Hồng Y dậy khác đi, xin lỗi, tôi không tin và tôi không thể vâng lời ông.

Trước đây nhiều người chưa nhìn thấy cái đuôi chồn đỏ của ông Hồng Y vì ông giấu kỹ quá. Nhưng với vụ này thì ông có giấu mấy cũng không giấu nổi nữa. Cái đuôi nó lòi ra ngoài quá dài rồi. Xưa nay Hồng Y giảng lời Chúa hay quá nên con chiên không mấy để ý đến các việc làm theo định hướng xã hội chủ nghĩa của ông. Xin kể một ít cho vui.

Đang là một giám mục phó của một giáo phận nhỏ tân lập không tiếng tăm gì, bỗng con đường hoạn lộ của ông Hồng Y mở rộng thênh thang: Tổng Giám Mục Phó, Tổng Giám Mục, rồi Hồng Y. Cái post béo bở này Đức Cha Huỳnh Văn Nghi đã từ chối vì không chịu nhận những điều kện của CS, nhưng ông chấp nhận. Con chiên chẳng mấy ai biết ông đã nhận những điều kiện gì (nhưng cũng có người biết). Không biết khi gặp Đ/C Nghi, ông có cảm thấy thoải mái và dễ chịu không. Người thường đã dễ gì làm được việc cố đấm ăn xôi như thế.

Trong việc tượng Đức Mẹ ở cuối nhà thờ lớn Saigon chảy nước mắt , ông đã giúp công an giải tán đồng bào một cách ngoạn mục chỉ bằng một lời hứa cuội. Không cần biết hiện tượng Đức Mẹ chẩy nước mắt là thật hay không thật, ông Hồng Y đã hứa lập ủy ban điều tra để giáo dân an tâm mà khỏi tụ tập đến cầu nguyện làm mất trật tự đường phố. Giáo dân vâng lời ông. Công an khỏi tốn công. Hai năm rồi ông đã quên mất lời hứa.

Ông sang Mỹ xin tiền lập nhà thương để chữa bệnh cho dân nghèo. Nhà thương xây xong. CS lấy chữa bệnh cho cán bộ. Ông Hồng Y im lặng. Những con bò sữa trố mắt nhìn. Dân khố rách áo ôm cứ tự do chết.

Năm nào ông Hồng Y kéo một lô bộ hạ đi Trung Quốc không biết để làm gì. Lịch trình thăm viếng theo báo chí đăng chỉ là đi bát phố, thăm ngôi nhà cũ của tên đại tham nhũng Hòa Thân, gặp ban tôn giáo và mấy nhân vật quốc doanh Tầu. Giáo Hội hầm trú Trung Hoa cứ nghển dài cổ xem cảnh ngưu đi tầm ngưu, mã đi tầm mã. Thật tội nghiệp.

Một số việc làm nổi bật nêu trên của ông Hồng Y chỉ là những điểm khiến nghi ngờ nhưng không đủ để kết luận điều gì. Chủ trương triệt hạ lá cờ Vàng của ông mới là yếu tố chính xác nhất để kết luận. Phạm Minh Mẫn đích thực là một hồng y quốc doanh, tức là theo và làm việc cho CSVN. Chỉ có VGCS chứ GHCG không chủ trương triệt hạ lá Cờ Vàng. Dù sao ông cũng là người dân mền Nam , đã hưởng những đãi ngộ của chế độ Cờ Vàng mà thành danh. Ít ra ông nên im lặng trước việc con em tỵ nạn xử dụng lá Cờ Vàng tại WYD. Phủ nhận và triệt hạ lá cờ đã bao bọc ông một thời nói hỗn một tí nhưng đúng sự thực là hành vi ăn cháo đá bát. Đem Chúa ra mà biện bạch cho hành vi xấu này là dối gạt giáo dân. Chẳng có lá cờ nào làm tắc nghẽn được sự giao cảm giữa Thiên Chúa và con người, chỉ trừ ra khi con người không muốn. Hẳn ông Hồng Y cũng biết thế.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Monday, June 16, 2008

Melbourne Úc châu Chống văn hóa vận

Tối Chúa Nhật 15/06/2008

Mặc dầu ngày hôm sau là Thứ Hai, ai ai cũng phải đi học, đi làm, ... nhưng số người tham dự không thuyên giảm mà còn đông hơn, hứng khởi hơn hai đêm trước.
    Chống văn công việt cộng

    Hỡi lũ văn công việt cộng đần
    Chúng bây có hiểu thấu lòng dân?
    Căm ghét chúng mày như dòi bọ!
    Mà mặt chúng mày cứ câng câng
    Đâm bao nhiêu nhát mà không lủng
    Đến đây hát hò trái ý dân
    Phả trị chúng mày cho nó đã,
    Dìm mặt chúng mày trong đống phân!

    Người Tự Do
Và dưới đây là một số hình ảnh -



















Trích từ: http://www.lyhuong.net/