Sunday, June 15, 2008

Nhân cái chết của tên việt-gian* VÕ VĂN KIỆT

Trần Thanh
(Bài viết đặc biệt gởi các độc giả ở trong nước và gởi tặng trung tâm băng nhạc "quê hương là chùm khế ngọt")

Cuối cùng thì tên việt gian Võ Văn Kiệt cũng phải về chầu diêm vương! Bạc tỷ đô la cũng không cứu được hắn. Không biết khi chết xuống âm phủ thì hắn có đem theo được số bạc tỷ đô la mà hắn đã ăn cướp của toàn dân hay không? Phải như lúc bị bệnh nặng gần chết, hắn biết ăn năn, hối lỗi về những tội ác của hắn và quyết định đem một phần tài sản của hắn mà chia lại cho những người dân oan đang sống vất vưởng như những con chó đói ở ngoài đường thì hay quá! Cái đó mới có thể được gọi là "đổi mới" hay "cải cách"!

Ba ngày sau khi hắn chết, các tờ báo của việt cộng mới dám đăng tin và đăng bài ca ngợi những "công đức" của hắn.

Riêng tại hải ngoại, khi hay tin tên Kiệt chết, chỉ có tờ báo NGƯỜI VẸM ở quận Cam nước Mỹ là vội vàng cho đăng một bản tin dưới dạng "thành kính phân ưu", thương tiếc "ngài" THỦ TƯỚNG NƯỚC VIỆT NAM(!), đồng thời tên bồi bút NND, chuyên viên bưng bô cho việt cộng, chuyên viết các bài "bình loạn" chính trị, viết một bài ca ngợi những "công đức" của "ngài" Kiệt lặc! (cặc liệt) Thật là đáng tởm quá! Vậy mà nếu có ai lên án báo Người Vẹm là tay sai của việt cộng thì bọn chúng lại dãy nảy lên như đĩ ngồi phải cọc và la làng lên là chúng bị "vu oan"!!!

Đám đàn em cùng phe đảng của tên Kiệt cùng với đám bưng bô ở hải ngoại đã ca ngợi Kiệt như là một ngôi sao sáng, một vị cứu tinh của đất nước, một "Goóc Ba Chớp" của cái chế độ việt gian cộng sản Việt Nam. Nào là: - anh Sáu Dân là kiến trúc sư của sự đổi mới và cải cách; anh Sáu là linh hồn của phong trào cấp tiến của giới trẻ; anh Sáu là cây cổ thụ đùm bọc giới đảng viên cấp tiến trẻ; anh Sáu là vị anh hùng dám chống đối lại giới bảo thủ trong đảng; anh Sáu là linh hồn của miền Nam(!); anh Sáu là người thương dân còn hơn chính bản thân của anh. (Bởi vậy anh mới lấy bí danh là Sáu Dân!); anh Sáu là người dám khởi xướng giải pháp "hòa hợp hòa giải", kêu gọi đảng việt cộng nên đối "thọi" .... sòng phẳng với cộng đồng người Việt tại hải ngoại!

Chưa hết, ở hải ngoại, bọn bưng bô còn đưa tin: anh Sáu chính là hậu duệ của cụ Phan Thanh Giản! (Tên thật của Kiệt là Phan Văn Hòa, sanh quán tại tỉnh Vĩnh Long)
Hoặc :

- anh Sáu đã từng là giáo sư trung học đệ nhị cấp nên mới lấy được vợ là tiến sĩ hóa học!
- anh Sáu là người trí thức nên mới có tư tưởng đổi mới, chống lại phe cộng sản bảo thủ
- bản thân anh Sáu là người trí thức nên anh Sáu mới biết quý trọng người trí thức, chẳng hạn như đã bảo bọc cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, cấp biệt thự cho Trịnh Công Sơn ở để sáng tác nhạc, phục vụ cho .... đảng!

Nếu như "bác" Hồ có những câu nói .... ngu để đời, thì anh Sáu cũng có những câu bá láp, bịp bợm sau đây, được bọn thổi ống đu đủ ở hải ngoại vừa thổi vừa hít hà cái mùi ... thối của nó:

- Ngày 30 tháng 4 năm 1975 có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn.
- Tổ quốc Việt Nam là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình chớ không phải của riêng người cộng sản hay của một tôn giáo, phe phái nào!

Nhận xét:
- (Cái gì cũng "của mình", tức của người dân, chỉ trừ có cái ngân hàng là thuộc về nhà nước! Đặc biệt cái nhà tù với cái còng số tám cũng là "của mình"!!!)
- Kiệt uống rượu mừng thắng lợi với "triệu thằng vui" và đồng thời hắn thò tay móc túi "triệu kẻ buồn". Mâm nào cũng có hắn!!!

Điều cần nhớ là tên Kiệt chỉ dám tuyên bố những câu "ranh ngôn" như vậy sau khi hắn đã về vườn, đóng vai nhà dân chủ cuội, dân chủ dỏm để làm cò mồi chính trị và tiếp tục lừa bịp người dân trong nước và hải ngoại. Những kẻ đầu tôm ngu ngốc gia truyền cứ thấy Kiệt tuyên bố mấy câu "cấp tiến" nêu trên thì đã vội vàng suýt xoa, khen mãi Kiệt là người rất "phóng khoáng, cởi mở"!

Nói một cách ngắn gọn: Kiệt có đầu óc "cấp tiến" hay "cải cách" hay "chống đảng" cũng chỉ nhằm một mục đích chính: CHỐNG ĐẢNG ĐỂ CỨU ĐẢNG. Việc làm của hắn về bản chất cũng không khác gì hai tên việt gian đã chết trước hắn, đó là Trần Độ và Hoàng Minh Chính. Hắn chủ trương đổi mới hay cải cách là nhằm giúp cho bộ máy cai trị của bọn việt gian cộng sản hoạt động TINH VI và HỮU HIỆU hơn, nhằm tiếp tục ngồi trên đầu 80 triệu dân để bóc lột lâu dài từ đời này sang đời khác, chớ không phải vì chén cơm manh áo của toàn dân. Nếu hắn là đảng viên cộng sản thanh liêm thì tại sao tài sản của giòng họ hắn ước tính trên 2 tỷ đô la? Chỉ có đi ăn cướp mới có được một số tiền lớn như thế. Các vị tổng thống Mỹ khi về hưu còn bị thiếu nợ như chúa chổm chớ làm gì có được một tài sản khổng lồ như tên Kiệt?

Chắc hẳn các bạn đã từng nghe tên Kiệt ca sáu câu vọng cổ "cấp tiến" như thế này:

- Các đồng chí ơi, các đồng chí bóc lột của thằng dân được 10 đồng thì nên nhả ra bớt 3 đồng cho nó, để nó còn có đường mà sống. Ăn ít no lâu, ăn nhiều tức bụng. Đằng này các đồng chí lột của nó hết 10 đồng mà chỉ nhả ra có một đồng cho nó thì đói quá, thằng dân sẽ liều mạng nổi loạn. Tức nước thì vỡ bờ, già néo thì đứt giây. NGHỆ THUẬT ... BÓC LỘT LÀ PHẢI NHƯ VẬY! Có như vậy tụi mình mới lừa bịp được thế giới và ngồi trên đầu 80 triệu dân lâu dài được chớ!

Chống đảng là để cứu đảng và cứu đảng chính là cứu chính bản thân tên Kiệt và bè đảng ăn cướp của hắn. Người dân đen hoàn toàn không bao giờ được hưởng một chút xíu lợi lộc gì hết. Thằng chó việt gian cộng sản nào cũng như nhau, cũng có cùng một bản chất với năm đặc trưng, đó là THAM LAM, GIAN ÁC, LƯU MANH, NGU DỐT và HÈN NHÁT. Thằng bảo thủ hay thằng cấp tiến nào nắm quyền thì cái số phận nghèo khổ tăm tối, đốn mạt của người dân đen vẫn không thay đổi: những người công nhân và nông dân vẫn phải hàng ngày đi cày 14 tiếng đồng hồ hộc máu mồm, mười chén mồ hôi mới đổi được một chén cơm; những em điếm tuổi vị thành niên phải liên tục tiếp khứa từ sáng tới khuya, mà miệng dưới không nuôi nổi miệng trên! Thằng chó cộng sản gốc miền bắc hay thằng chó cộng sản gốc miền nam ĐỀU CHÓ ĐẺ NHƯ NHAU. Nghĩa là bọn chúng rất chó má, sẵn sàng ăn thịt lẫn nhau, đừng có nói gì sanh mạng của người dân mà chúng tha! Đừng có tưởng bở rằng thằng cộng sản gốc miền nam là "cởi mở" hay "cấp tiến"! Thằng chó Lê Hồng Anh, đại tướng công an, nhân vật số 2 của bộ chính trị là dân miền nam thứ thiệt, quê ở Rạch Giá. Đừng thấy nó gốc Nam bộ, tưởng là "cởi mở" mà lầm chết! Những thằng chó thân Nga Xô, thân Trung Cộng hay thân Mỹ, tất cả đều là chó, chó sói, chó ngao ba đầu dưới địa ngục A Tỳ hay loài chó săn khát máu! Mấy tờ báo tay sai của việt cộng ở hải ngoại đã xếp những tên việt gian như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng là nhóm thân Mỹ, như vậy họ là "phe mình"!!! Chính vì những sự ngu ngốc cố ý này mà đã làm cho việc chống cộng, giải trừ chế độ cộng sản của chúng ta thêm nhiều khó khăn!

Tất cả những tên gộc việt gian cộng sản đều có tội với đất nước, không tội ít thì tội nhiều, chớ bọn chúng hoàn toàn không có một công lao gì hết. Cái gọi là "công" đổi mới của Võ Văn Kiệt chính là nhằm giúp cho băng đảng cướp của hắn có cơ hội vơ vét cho mau đầy túi và duy trì quyền lực của bọn chúng được lâu dài. Chúng ta phải ý thức thật rõ điều này và quyết tâm lật đổ chế độ cộng sản để đem lại tự do cho đất nước. Thằng việt gian cộng sản nào cũng tàn ác như nhau dù là phe miền nam hay phe miền bắc, phe bảo thủ hay phe cấp tiến, phe thân Nga xô, phe thân Trung Cộng hay thân Mỹ. Tất cả đều là những bọn chó săn. Nếu như trước đây bọn chúng dùng roi cá đuối có gai để đánh chúng ta thì sau này, nhờ sáng kiến "đổi mới" của Võ Văn Kiệt, chúng "nhân đạo" hơn, đánh chúng ta bằng roi điện hoặc loại dùi cui vuông*, như vậy không thể gọi là "công lao" hay "nhân đạo" mà đi ca ngợi bọn chúng! Kết quả của việc tra tấn đó là dẫn đến cơ thể của chúng ta bị tàn tạ, mang trọng thương rồi chết. Làm gì có chuyện "nhân đạo" ở đây? Không có tội thì đánh cho có tội, mà đã có "tội" thì đánh cho chừa!

Ba mươi ba năm đã trôi qua mà ở hải ngoại vẫn còn đầy dẫy những tên bồi bút đi bưng bô cho việt cộng. Không thể có một sự ngu lâu như vậy. Chỉ có thể có một sự giải thích hợp lý: đó là ĂN XÔI CHÙA NÊN NGỌNG MIỆNG! Những tội ác tày trời của tên Sáu Dân Võ Văn Kiệt thì những tên bồi bút cố ý lờ đi, bọn chúng chỉ thấy anh Sáu là "người hùng đổi mới"! Tên bồi bút NND của báo Người Vẹm ở quận Cam bên Mỹ còn bày tỏ sự lo lắng, thương tiếc cho sự ra đi của anh Sáu như sau:

- Anh Sáu mất đi, các đàn em của anh sẽ bơ vơ. Rồi đây phe cộng sản bảo thủ sẽ loại trừ hết các đảng viên thuộc phe "đổi mới-cấp tiến" của anh Sáu ra khỏi hệ thống quyền lực. Phong trào đổi mới sẽ đi về đâu, tương lai nước Việt Nam sẽ đi về đâu???!!!

Thật không khác gì giọng điệu của tên bồi bút Tố Hữu khóc người cha chết của hắn là Xít Ta Lin! Thương mình thương một thương ông Sáu Dân thương mười!!! Tên bồi bút NND xứng đáng được đảng việt gian cộng sản trao tặng cho "huân chương bưng bô" hạng nhất!

Nói tóm lại, chết được thằng việt gian nào thì bớt cho người dân một phần gánh nặng như quả núi đang đè lên số phận nghiệt ngã của dân tộc. Để tiễn đưa tên Sáu Dân xuống địa ngục A Tỳ đoàn tụ với "bác" Hồ và các tên dân chủ cuội như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, chúng ta nên có một bài "đíu văn", định nghĩa thế nào là việt gian cộng sản, nhằm thức tỉnh những cái đầu tôm ở hải ngoại và ở trong nước:

(Nhại theo bài thơ "Quê Hương là chùm khế ngọt" của tác giả Đỗ Trung Quân)

    Việt gian là gì hở mẹ?
    Mà cô giáo dạy phải yêu?
    Việt gian là gì hở mẹ?
    Ai kinh qua phải khiếp hồn?

    Việt gian là tên Hồ cáo
    Tuổi thơ con hát trong trường
    Việt gian là tên Hồ điếm
    Tham tàn, Gian ác, Lưu manh

    Việt gian là bầy Ác quỷ
    Cùng nhau giết hại lương dân
    Việt gian là bầy Quỷ dữ
    Bán biển, Bán đất, Bán dân!!!

    Việt gian là bầy Đàng điếm
    Vô cùng Gian ác, Lưu manh
    Việt gian là phường Xảo quyệt
    Lừa dân, lừa cả loài người!

    Việt gian là phường Xảo trá
    Lừa dân, lừa cả Phật, Trời!!!

    Việt gian triệu thằng như một
    Như là chỉ một Việt-Gian!
    Việt-Gian nếu ai không hiểu
    Sẽ không lớn nổi thành người!!!

    Việt gian triệu thằng như một
    Như là chỉ một Việt-Gian!
    Việt gian nếu ai không hiểu
    Sẽ chôn vùi hết cuộc đời!!!

    Việt gian triệu thằng như một
    Như là chỉ một Việt-Gian!
    Việt gian nếu ai lầm tưởng
    Sẽ ân hận suốt cuộc đời!!!

    Việt gian triệu thằng như một
    Như là chỉ một Việt-Gian!
    Việt gian nếu ai ca ngợi
    Sẽ ân hận suốt nghìn đời!!!

    Việt gian triệu thằng như một
    Như là chỉ một Việt-Gian!
    Việt gian nếu ai thương hại
    Sẽ mang hận xuống tuyền đài!!!
Trần Thanh
Thứ Sáu, ngày 13 tháng Sáu, năm 2008


Chú thích:

1. Hai chữ "việt-gian" trong bài này được dùng như danh từ chung (common noun), chữ "việt" không viết hoa.

2. Thơ Nguyễn Hữu Nhật:
Dùi cui cả thế giới tròn
Phủ tay vãi thịt thấm đòn nát da
So với Hà Nội thua xa
Góc vuông chắc gỗ cạnh già sắc lim!

Cái Chết Thảm Khốc Của Hòa Thượng Thích Thiện Minh

Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh (1921 - 1978)
Tổng vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên GHPGVNTN
Và CÁI CHẾT THẢM KHỐC DƯỚI BÀN TAY HUNG BẠO CỦA BỌN VC

Di ảnh cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh
chú nguyện trước khi phóng sinh

- Hòa Thượng Thích Thiện Minh, tên thật là Ðỗ Xuân Hàn, sinh ngày 21 tháng 04 năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triều Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia năm 12 tuổi, đệ tử của Ðại Lão Hòa Thượng Thuyền Tôn Thích Giác Nhiên, Ðệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

- Năm 1936, Người bắt đầu theo học lớp Sơ Ðẳng Phật Học tại chùa Tuy Ba, cùng lớp với Thầy Võ Tường (tức Thích Thiện Siêu), Nguyễn Bình (tức Thích Trí Tịnh), Phạm Quang (tức Thích Trí Quang), Trần Trọng Thuyên (tức Thích Trí Thuyền).

- Ðến Năm 1943, tốt nghiệp Trung Ðẳng Phật Học, nhưng chưa thọ đại giới đàn Bảo Quốc để theo đuổi chương trình Ðại Học Phật Giáo.

- Năm 1948, sau khi thọ Sa Di Giới, Người lấy Pháp Danh là Thích Trí Nghiễm, lên nhận công tác Phật sự tại vùng Cao Nguyên, làm Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học Ðà Lạt và là giảng sư của Hội tại cao nguyên Lâm Viên. Suốt 4 năm tại đây, Thầy Trí Nghiễm đã ra công xây dựng những chi Hội khắp 3 tỉnh, lập nhiều cơ sở Gia Ðình Phật Tử, xuất bản tờ Hương Thiền, rồi tờ Liên Hoa và Sen Hồng.

- Ðến Năm 1952, Tổng Hội cử Thầy về làm giảng sư những tỉnh miền Nam Trung Việt. Lúc đó, đổi Pháp Danh là Thích Thiện Minh. Cũng như vùng cao nguyên, tại đây, nhờ phương pháp tổ chức, nhờ đức kiên nhẫn, Phật Giáo tại miền thùy dương vươn cao chưa từng thấy.

- Ðến năm 1956, Thượng Tọa Thiện Minh cùng các cao Tăng ở Bắc ra Trung Phần, nhất là có sự tiếp tay của Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã đứng ra tổ chức Ðại Hội Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam kỳ II. Sau Ðại Hội, Thượng Tọa trở về công tác tại Nha Trang một thời gian rồi lại trở về Huế, điều hành Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần.

- Năm 1962, Chính sách kỳ thị tôn giáo của nhà cầm quyền trấn áp mãnh liệt. Bằng những hồ sơ chính xác, Thượng Tọa gởi lên chính quyền, yêu cầu đưa ra ánh sáng những vụ bắt bớ, thủ tiêu Phật Giáo đồ.

- Năm 1963, sau vụ triệt hạ cờ Phật Giáo, vụ thảm sát tín đồ và đồng bào tại Ðài Phát Thanh Huế, nhân đại lễ Phật Ðản, Thượng Tọa được công cử vào Ban Liên Phái Phật Giáo, đòi chính quyền đương thời hủy bỏ đạo dụ số 10, thỏa mãn 5 nguyện vọng chân chính của Phật Giáo. Ngày 20 tháng 08 cùng với toàn thể Tăng Ni khắp toàn quốc, Thượng Tọa bị bắt giam và chỉ được thả sau ngày 01 tháng 11 năm 1963.

- Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Thượng Tọa Thiện Minh được cử làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên. Chính Thượng Tọa đã đứng ra điều động tổ chức Ðại Hội Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử lịch sử tại trường Gia Long, Sài Gòn. Nhưng sau đó, chính quyền trở lại chế độ quân nhân trị, bè phái, đàn áp Phật Giáo một lần nữa. Những nhà lãnh đạo Phật Giáo trong số đó có Thượng Tọa Thiện Minh lại đứng ra bảo vệ tự do tín ngưỡng và tự do dân chủ. Ngày 01 tháng 06 năm 1966, Thượng Tọa bị mưu sát trước Trung Tâm Quảng Ðức, bị trọng thương và phải nằm điều trị tại bệnh viện nhiều ngày. Cuộc vận động cho hòa bình xứ sở bắt đầu từ đó.

- Ngày 17 tháng 03 năm 1969, Thượng Tọa bị toà án Quân Sự Mặt Trận kết án 15 năm tù khổ sai và cấm cố. Khắp trong và ngoài nước vô cùng công phẩn. Tại sài Gòn, một Ủy Ban Vận Ðộng đòi hủy bỏ bản án Thích Thiện Minh ra đời, trong đó có đủ thành phần tôn giáo, nghị sĩ, dân biểu, chính trị gia. Dưới áp lực mạnh mẽ, chính quyền ra quyết định phóng thích Thượng Tọa ngày 01 tháng 11 năm 1969.

- Năm 1970, Thượng Tọa lên đường tham dự Hội Nghị Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới tại Tokyo (Nhật Bản). Tại đây, Thượng Tọa đã đọc bài tham luận nổi tiếng với nhan đề "Quan điểm của Phật Giáo về bất bạo động".

- Năm 1973, khi Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thượng Tọa Thiện Minh quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo ra Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni khắp toàn quốc phải nổ lực xây dựng vết thương chiến tranh khi hòa bình vãn hồi. Nhưng thỏa hiệp ngưng bắn và tái lập hòa bình tại Việt Nam ký kết ở Paris đã không được thi hành.

Sau ngày Cộng sản chiếm miền Nam, Phật Giáo cũng như mọi tôn giáo khác trên đất nước đứng trước nguy cơ bị bạo quyền tiêu diệt.

- Ngày 02 tháng 11 năm 1975, 12 vị Tăng Ni tại Thiền Viện Dược Sư, Rạch Sỏi, Cần Thơ tự thiêu, phản đối đàn áp tự do tín ngưỡng của Cộng Sản, thì lần lượt những nhà lãnh đạo Phật Giáo bị khủng bố, truy tố, giam cầm. Ðiển hình là vụ bắt giam Thượng Tọa Thích Quảng Ðộ và Thích Huyền Quang.

- Ngày 09 tháng 06 năm 1977, Giáo Hội ra Thông Ðiệp kêu gọi Bảo vệ Nhân Quyền ở Việt Nam. Thông Ðiệp lưu hành vô cùng khó khăn, ai bắt gặp có Thông Ðiệp, thì lập tức bị giam.

- Ngày 15 tháng 06 năm 1977, Thượng Tọa Thích Mãn Giác rời nước ra đi bằng đường biển, mang theo Thông Ðiệp đó cùng nhiều tài liệu về đàn áp Phật Giáo. Cộng Sản cho rằng: chính Thượng Tọa Thiện Minh đã tổ chức, xếp đặt những biến cố trên, nên ngày 28 tháng 03 năm 1978, Thượng Tọa bị đuổi ra khỏi Trung Tâm Quảng Ðức, không cho phép chùa chiền nào chấp chứa; ngày 13 tháng 04 năm 1978, sau nhiều tuần lang thang, Thượng Tọa bị bắt giam tại Hàng Sanh. Cán bộ Cộng Sản bắt Thượng Tọa phải cởi áo tu, Thượng Tọa đã khẳng khái trả lời rằng: "Minh xuất gia từ năm 12 tuổi, đã quen mặc nâu sòng rồi, khó bận thứ khác".

Chúng lột hết quần áo, phạt 7 ngày đêm không áo quần. Sức khoẻ của Thượng Tọa suy giảm dần trong lúc cô thế, bệnh hoạn. Chúng dùng hình phạt để tra tấn; cuối cùng chúng áp giải về Hàm Tân. Không biết chúng hành hạ thế nào, ngày 17 tháng 10 năm 1978, Thượng Tọa tắt thở. Giáo Hội nghe tin cử một phái đoàn ra Hàm Tân nhận diện, thi thể bị bọc kín, khuôn mặt tím bầm, mắt sâu hóm, râu và tóc ra dài che phủ cả mặt. Giáo Hội xin được đưa về mai táng; chúng không chấp nhận; đến nơi xin đọc một hồi kinh cầu siêu, chúng cũng chối từ.

Cuối cùng, xin mượn lời trích dẫn từ tài liệu "Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh" do Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1983 để thay cho lời kết của bài viết này:

    Lấy lẽ Ðạo mà nói, có cái chết nặng hơn non Thái mà cũng có cái chết nhẹ hơn lông Hồng. Nặng hơn non Thái đó là cái chết không đáng chết, cái chết chưa phải lúc, phải thời, cái chết khi chưa làm hết những công việc đáng làm cho mình, cho đời. Nhẹ hơn lông Hồng, đó là cái chết đáng chết vì đại nghĩa, cái chết phải lúc, phải thời, cái chết để làm thành tựu những ý nghĩa cao quý của cuộc sống.

    Lấy lẽ Ðạo mà nói, sống chết chẳng phải là điều đáng quan tâm. Bởi sống chẳng phải là từ một khởi đầu duy nhất và chết chẳng phải là tới một chấm dứt cuối cùng. Bởi sống là như cánh chim xuất hiện và chết lại là như cánh chim bay đi trong khi giòng sông vẫn lững lờ xuôi chảy.

    Cho nên, sống dù có cưu mang bao gánh nặng của trần gian mà vẫn cứ nhẹ nhàng cất bước, chết dù trong một góc đời tối tăm nào đó vẫn cứ như là đi trong thênh thang rộng mở. Cũng vậy cho nên, cái nghĩa của sống chết chẳng phải là ở tự thân chính nó mà là ở cái thái độ của con người khi đối diện với nó.

    Chết mà trọn được cả nghĩa Ðời, nghĩa Ðạo như thế chẳng phải là điều dễ dàng. Ðiều chẳng dễ dàng đó, ta có thể chiêm nghiệm để thấy được ở một con người ngày nay: Hòa Thượng Thích Thiện Minh. Người đã đến với tấm lòng cưu mang bao nỗi hệ lụy của đời và đã đi thản nhiên trong ngục tù tăm tối của bạo quyền. Người đã sống trọn vẹn với hoài bão không thành của mình và đã chết với sự thành tựu cái nghĩa sống cao cả nhất. Chết để làm chất liệu ươm mầu cho sự sống hồi sinh là vậy !

trích từ: http://www.baovechanhphap.110mb.com/index.htm

Saturday, June 14, 2008

HAWAII NGHIÊNG MÌNH TRƯỚC CÁC CHIẾN SĨ VIỆT MỸ TRẬN VONG.



Lữ Anh Thư: "… Các cựu chiến binh Việt Nam: quý vị là những anh hùng!".

Honolulu (Mo SF).- Trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động, một lần nữa Haiwaii đã nghiêng mình tưởng nhớ đến các chiến sĩ Việt Mỹ và đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho Việt Nam vừa qua.

Buổi lễ đã được tổ chức vào chiều Chủ Nhật 25 tháng 5 vừa qua tại Nghĩa trang Quốc Gia Thái Bình Dương (National Memorial Cemetery of The Pacific) trên ngọn đồi Punchbowl thuộc thủ phủ Honolulu với khoảng 900 quan khách tham dự gồm đại diện các cấp chính quyền, các vị dân cử, các quân binh chủng từng tham chiến tại Việt Nam, đặc biệt có sự hiện diện của cựu Đại tướng Frederick Weyand, Tham mưu trưởng Quân lực Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam vào năm 1975 (?) cũng là vị ân nhân của cộng đồng Người Việt tại Hoa Kỳ vì chính ông là người đã trực tiếp thuyết phục Tổng thống Gerald Ford lúc đó hãy ra lệnh cho di tản rộng rãi để cứu giúp càng nhiều người Việt càng tốt, trước giờ phút Cộng quân sắp chiếm lãnh Saigon vào tháng 4 năm 1975.

Về phía những người Việt đến từ đất liền, người ta nhận thấy có phái đoàn do Giáo sư Nguyễn Văn Canh hướng dẫn, phái đoàn Phong trào Hưng Ca VN do Phong trào trưởng Huỳnh Lương Thiện hướng dẫn và một số đồng hương từ Hoa Thịnh Đốn, Florida và California đến tham dự.

Trước giờ khai mạc buổi lễ, một đoàn xe mô tô của các cựu chiến binh Hoa Kỳ nổ máy rền vang từ chân đồi kéo lên dự lễ với rừng cờ Vàng và cờ Mỹ được cắm trên xe tung bay trước gió rất đẹp mắt.

Trong lời phát biểu chào mừng quan khách. Giám đốc Nghĩa trang Quốc Gia Thái Bình Dương, cựu Đại tá Castagnetti đã ngỏ lời cám ơn mọi người đã đến tham dự buổi lễ này để tưởng nhớ đến các chiến sĩ Hoa Kỳ, Việt Nam và Đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam vừa qua. Ông cho biết đó là cuộc chiến đấu giữa chính nghĩa tự do và độc tài cộng sản và dầu cộng sản có chiếm được Việt Nam thì cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam vẫn tiếp tục.

Tiếp đến là nghi thức chào cờ với quốc thiều Việt-Mỹ đã được cất lên. Quốc ca Việt Nam Cộng Hòa do Ban hợp ca Hội Trùng Dương, gia đình VNTV và các quan khách Việt Nam tham dự đồng hát vang trên ngọn đồi Punchbowl thơ mộng của Honolulu.

Tướng Irwin Cockett, một cư dân sinh trưởng tại Hawaii đã từng lãnh đạo một lữ đoàn Nhảy Dù tham chiến tại Đại Hàn năm 1950 để ngăn chặn cộng quân Bắc Hàn, ông cũng đã từng tham chiến tại Việt Nam và được lãnh nhiều huy chương Anh Dũng Bội Tinh bởi sự can đảm trong chiến đấu của mình đã ca ngợi tấm gương hy sinh của các chiến sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam và khen ngợi Ban tổ chức hôm nay đã chứng tỏ là "...chúng ta, những người may mắn còn sống không quên ơn họ". . .

Tuy nhiên, bài phát biểu đã gây ngạc nhiên và xúc động cho mọi người là bài phát biểu của ái nữ cựu Trung Tướng Lữ Lan, cô Lữ Anh Thư.

Sau phần giới thiệu của cô Ngọc Nhung, Giám đốc đài Truyền hình VNTV, trong chiếc áo dài màu xanh gợn sóng biển, bằng giọng Anh ngữ lưu loát, cô Anh Thư đã thuật lại quãng đời thơ ấu trong chiến tranh của mình, những ngày máu lửa do Cộng quân gieo rắc, những đánh trả kiên cường của chiến binh VNCH cùng với sự hổ trợ của các chiến sĩ đồng minh Hoa Kỳ, những kỷ niệm thích thú của bé Anh Thư khi được người lính Mỹ dạy cho đếm: "One, two, three…".

Lữ Anh Thư nói:
"…Nếu tôi và bạn bè tôi được yên vui cắp sách đến trường, có được một tương lai hứa hẹn, đó là nhờ ở sự hy sinh của quý vị, những chiến sĩ trong quân lực Hoa Kỳ".

Như đã nói ở trên, nhờ có cha phục vụ trong QLVNCH, tôi đã có dịp đến nhiều nơi, kể cả những nơi giao tranh nguy hiểm. Nơi đâu tôi đến, tôi cũng chỉ thấy bóng dáng hai lá cờ, cờ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và cờ của Việt Nam Cộng Hòa. Ai ai cũng hiểu rằng nơi nào có hai lá cờ này là nơi đó an toàn, nơi họ sẽ được bảo vệ. Tiếc thay, giới truyền thông đã không bao giờ nói đến đặc điểm này mặc dù phim ảnh họ phổ biến là bằng chứng cụ thể nhất, cho mọi người thấy rõ những khi người dân Miền Nam chạy giặc ngày đó, mọi người đều chạy trốn cộng sản và chạy về phía Cờ Vàng và Cờ Mỹ, hai lá cờ biểu tượng của tự do.

Qua những kinh nghiệm kể trên, đối với tôi và những người của thế hệ tôi, quý vị là những người anh hùng. Chính sự hy sinh của quý vị đã cho chúng tôi cơ hội để được sống tự do. Thế hệ tôi và những thế hệ được sống tự do sau tôi là những người thừa hưởng trực tiếp sự hy sinh và phục vụ của quý vị. Chiến tranh bao giờ cũng tàn khốc và tang thương. Cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến đẩm máu nhất của thế kỷ thứ 20. Nhưng cuộc chiến Việt Nam cũng là cuộc chiến đầy chính nghĩa và cao cả. Thì đối với những người đã đáp lời sông núi và làm tròn bổn phận người chiến binh, sự hy sinh của họ phải được ghi nhớ và đền đáp. Tôi đã kinh ngạc khi biết rằng đất nước Hoa Kỳ này đã không dành những sự đãi ngộ xứng đáng cho những người lính trở về từ chiến trận Việt Nam. Tôi rất tiếc rằng quý vị đã gặp phải những kinh nghiệm không vui như thế. Tôi muốn quý vị biết rằng, đối với người Mỹ gốc Việt, với tôi và thế hệ của tôi, chúng tôi tri ân quý vị.."

"…Tôi xin mượn những lời sau đây của Mục Sư Dennis Edward O'Brien để gởi đến quý vị :

Không phải những nhà báo mà chính là người lính chiến đã cho ta quyền tự do báo chí.
Không phải người thi sĩ mà chính là người chiến sĩ đã cho ta quyền tự do ngôn luận.
Không phải người điều hành khuôn viên đại học mà là chính người lính chiến đã cho ta quyền xuống đường phản đối.
Chính người chiến sĩ đã gìn giữ lá cờ, chào cờ, chiến đấu dưới lá cờ và thi hài của họ đã được phủ màu cờ
Và chính ngưòi chiến sĩ đó đã cho những người phản chiến cái quyền đốt cờ.

Và trước khi dứt lời, tôi cũng xin mượn những lời trong một bài hát tri ân người lính chiến Hoa Kỳ do một y sĩ Việt Nam sáng tác để gởi đến quý vị hôm nay :

Các anh là niềm tự hào, các anh là tấm gương anh dũng. Các anh là anh hùng của những anh hùng.

Vâng! Thưa các cựu chiến binh Việt Nam, quý vị là những anh hùng! Tôi xin được nghiêm chào quý vị…"

Bài phát biểu đã chấm dứt giữa tràng pháo tay như không muốn dứt cùng những giòng lệ xúc động của các cựu chiến binh và thân nhân tham dự.

Tiếp đến là nghi thức đặt vòng hoa tưởng niệm trên đài tử sĩ. Về phiá cộng đồng Việt Nam, một vòng hoa tươi kết thành hình cờ vàng ba sọc đỏ của "Người Việt tại hải ngoại" đã được Giáo sư Nguyễn Văn Canh và Phong trào trưởng PT Hưng Ca Huỳnh Lương Thiện trang trọng đặt trên đài tử sĩ để bày tỏ lòng tri ân của người Việt đến các chiến sĩ đã nằm xuống vì chính nghĩa tự do tại Việt Nam.
Cũng trong giây phút đó, đội nghi lễ của các chiến sĩ Hải Quân đã liên tục bắn 21 súng chỉ thiên để vinh danh những chiến sĩ đã hy sinh vì nghĩa vụ…

Bầu trời vừa sẩm tối, mọi người được chuyền tay nhau những ngọn nến lung linh , theo phần hướng dẫn của một vị linh mục tuyên úy để cùng cầu kinh tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh.

Sau phần biểu diễn của phi cơ trực thăng diễn tả lại các phi vụ "Missing man fly over" đang quay lại tìm cứu các đồng đội đang lâm nạn tại chiến trường năm xưa và tiễn đưa Quốc, Quân kỳ.
Buổi lễ đã bế mạc vào lúc 8giờ tối cùng ngày.
Huyền Thịnh, Mõ San Francisco.
~~~~~~~~~~~~ ~~~~~~~~~ ~~~~~~~~
Ghi chú: Nếu quý vị cần nguyên văn bài phát biểu bằng Anh và Việt ngữ của cô Lữ Anh Thư, xin liên lạc với tác giả qua email:
"lu anh thu" http://www.atlu59@yahoo.%20com

Trả lời của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá

VIỆT NAM CỘNG HÒA FOUNDATION
12522 Brookhurst St. # 24, Garden Grove, CA 92840
Tel. 714-719-9443 – Fax. 714-590-8655
E-Mail: vnchf@yahoo.com
Webside: vietnamconghoa. com
Paltalk 24/24: Viet Nam Cong Hoa
California Ngày 2 Tháng 6 Năm 2008
Người Gởi: Lý Tòng Bá Chủ Tịch
Việt Nam Cộng Hòa Foundation.

Kính Gởi :
- Ông Thế Phương Chủ Nhân Trang báo Online Take2Tango Weekly.
- take2tango.com
- take2tango2000@ aol.com
Ðồng Kính Gởi :
- Các Cơ Quan Truyền Thông Hải Ngoại.
- Các Tổ Chức, Hội Ðoàn Ðấu Tranh Chống Cộng tại Hải Ngoại
Trích Yếu : Phản bác những lời vu khống, mạ lỵ và bôi bác VNCH trên trang báo Online: www. take2tango.com.

Kính thưa quý vị,
Trên trang báo Online của Take2tango.com Ngày 30/5/2008 : www.take2tango. com/?display= 991 đã có đăng tải những điều sai sự thật, có ý gây chia rẻ trong nội bộ VNCHF đồng thời đánh phá việc tổ chức Ðại Hội Việt Nam Cộng Hòa do VNCHF vận động và hổ trợ sắp tới.

Nhận thấy rằng việc tung tin sai lạc từ trang báo Take2tango, kết hợp với những bài viết của người có tên Phạm Nhất Thanh và các nick name khác là một mưu toan phá hoại nhằm bôi lọ uy tín cá nhân cũng như Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation do tôi là người lãnh đạo.

Ðể rộng đường dư luận. Nay tôi Lý Tòng Bá xác nhận những điều dưới đây và yêu cầu Ông Thế Phương Chủ nhân trang báo online www.take2tango. com phải loan báo và cải chính rỏ ràng các sự việc như sau:

1/ Tôi đã nói với Ông Thế Phương có việc gì thắc mắc thì gọi đến Ông Hồ Văn Sinh. Tuyệt nhiên không hề yêu cầu Take2tango nhắn tin gì đến Ông Hồ Văn Sinh cả. Ðây là một sự bịa đặt ác ý gây ngộ nhận giữa tôi và Ông Hồ Văn Sinh
2/ E-Mail là vấn đề cá nhân của tôi. Chưa bao giờ Ông Hồ Văn Sinh lại dùng E-Mail của tôi là batongly@yahoo. com để gởi đi. Ðây là việc làm nhằm hạ thấp giá trị cá nhân tôi. Và vu vạ cho Ông Hồ Văn Sinh một cách hồ đồ vô ý thức.
3/ Văn Phòng số 12522 Brookhurst St #24. Garden Grove, CA 92840 Là địa chỉ Liên lạc và sinh hoạt của VNCH Foundation. Ông Hồ Văn Sinh là một thành viên của Hội và là một người hoạt động rất đắc lực cho chúng tôi và cho đến nay chưa có một điều gì lạm dụng hay sai trái, thì không việc gì phải yêu cầu ngưng tức khắc.
4/ Ðại Hội Việt Nam Cọng Hòa là do VNCHF đứng ra tổ chức và vận động trong đó do tôi là Trưởng Ban Tổ Chức. Không ngoài mục đích kết hợp quân dân cán chính VNCH đẩy mạnh các hoạt động cứu dân cứu nước. Tôi đãgởi thông báo, thư mời cũng như gặp gở các báo chí tại Nam California, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Cali, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Ông Nguyễn Phục Hưng …v…v…. và nói rõ về việc tổ chức Ðại Hội VNCH. Take2tango lấy tư cách gì để nói rằng đây là “ Ðại Hội Bịp Việt Nam Cộng Hòa để lăm le số bạc 40 triệu và vu khống những điều không đúng sự thật.
5/ Tôi xác định Ðại Hội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được long trọng tổ chức vào lúc 12 giờ trưa Ngày Thứ Bảy 28/6/2008. Tại Westminster Civic Center số 8200 Westminster Ave, Westminster, CA 92683. Không có gì thay đổi. Những ai xuyên tạc chống phá phải chịu trách nhiệm.
Trân trọng kính chào quý vị.

LÝ TÒNG BÁ

Hồng Y Phạm Minh Mẫn Ngụy Biện

Ts Nguyễn Phúc Liên

Lá thư của Hồng Y PHẠM MINH MẪN kết án Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, rồi mượn lời Chúa để bào chữa cho việc kết án. Tôi thấy tính cách nguỵ biện trong đó. Đồng thời Hồng y còn mượn lời Chúa để bào chữa cho sự ngụy biện của mình. Tôi nhớ cái tội “Kêu Tên Đức Chúa Lời vô cớ”, nhất nữa tội “Thề Dông Dài”.

Biểu tượng của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ biểu tượng cho những giá trị Nhân Bản: Tôn trọng PHẨM GIÁ con người và những QUYỀN (Nhân Quyền) gắn liền với con người.

Dưới lá cờ ấy, người Việt Nam đòi hỏi nội dung mà Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tượng trưng. Không phải vì chính Lá Cờ mà người Việt Nam đấu tranh, nhưng vì những Giá trị mà Lá Cờ tượng trưng.

Cờ Đỏ Sao Vàng tượng trưng cho một Lý thuyết Chính trị. Những người đấu tranh dưới Cờ Đỏ Sao Vàng là đấu tranh cho một Lý thuyết Chính trị. Trong khi ấy, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không tượng trưng cho một Lý thuyết Chính trị, mà biểu tượng cho những Giá trị Nhân Bản. Dưới lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, người Việt đấu tranh bảo vệ những Giá trị gắn liền với PHẨM GIÁ con người, làm cho những Giá trị ấy được triển nở.

Trong thư, Hồng y nhắc đến những Giá trị truyền thống: ”Di sản đó là truyền thống văn hoá của dân tộc VN, một nền văn hoá khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức. (như Tứ hải giai huynh đệ; Chuyện hôn nhân là chuyện trăm năm, là mối tình chung thuỷ; Lá lành đùm lá rách ...)“. Chính lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ biểu tượng cho những Giá trị truyền thống này, trong khi ấy cờ Đỏ Sao Vàng tàn phá những Giá trị đó.

Lý do đích thực của ngụy biện

Với biểu tượng của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ như vậy, không có lý do gì mà Hồng y MẪN phải sợ hãi lá cờ. Lý do sợ hãi mà Hồng y không nói ra, đó là Hồng y SỢ CSVN mà thôi, nếu không nói rằng Hồng y theo lệnh CSVN để loại bỏ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Tôi nhớ đến cái BÙA mà Nhà Văn Duyên Lãng HÀ TIẾN NHẤT đề nghị với Giáo Dân Hải ngoại trong việc chận đứng phong trào các Giám Mục ra nước ngoài xin tiền. BÙA đó là cầm Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để các Ngài không dám đến xin tiền. Thấy tiền thì ham, nhưng đứng bên cạnh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ chụp chung hình, thì sợ CSVN cấm xuất ngoại sau này.

Tựu trung, đây là việc sợ CSVN mà Hồng y Phạm Minh Mẫn ngụy biện đổ tội cho Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đây là việc ngụy biện, đổ tội cáo gian, không trúng với Lương Tâm của Hồng y.

Bà Mẹ Việt Nam

Hồng y đưa ra tỉ dụ: ”người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ),...“. Trước khi nói như vậy, Hồng y đã không phân tích xem Mẹ VN có muốn mặc áo đỏ (cờ đỏ) hay không. Chính Hồng y đã chứng kiến sự tàn ác của Cộng sản Bắc Việt, đã mang súng ống của Thế Giới Cộng sản vào xâm chiếm Miền Nam, rồi khoác lên thân người các Bà Mẹ Việt Nam chiếc áo đỏ sặc mùi máu. CSVN chưa bao giờ hỏi các Bà Mẹ Việt Nam có đồng ý mặc chiếc áo đỏ máu hay không. Đây là việc mặc áo miễn cưỡng. Nói như vậy có nghĩa là Hồng y khẳng định võ đoán rằng dân chúng Miền Nam đồng thuận chấp nhận Cộng sản. Ba triệu người Việt Nam bất chấp nguy hiểm sống chết, đã bỏ nước ra đi, nghĩa là không chấp nhận mặc chiếc áo đỏ máu.

Không thể so sánh hai chiếc áo này được bởi lẽ người mặc mang hai tâm tình khác nhau. Việc Hồng y lấy tỉ dụ này chỉ là ngụy biện với chủ đích không muốn giới trẻ mang Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đây là ngụy biện trái với Lương tâm của Hồng y.

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ... “mang tính đối kháng“

Tại sao Hồng y lại nhìn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ “mang tính đối kháng“. Đây là cái nhìn giống như CSVN. Thực vậy, CSVN luôn luôn dùng những chữ “thế lực thù địch“ để gán cho những ai nói lên sự thật có ích lợi cho chính mình. Thường đây là thái độ của những ai phạm lỗi, nhìn người khác như thù địch đang muốn phanh phui cái lỗi của mình. Tục ngữ có câu: “Có tật giật mình“. Có tật rồi, thấy ai động rạng gì, thì cắt nghĩa là họ đang moi cái tật của mình ra.

Hồng y đã nhìn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ theo quan điểm tiêu cực của CSVN vậy. Tại sao Hồng y không nhìn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ở góc độ tích cực: tượng trưng cho những Giá trị Nhân Bản.

Lấy lời Chúa để cắt nghĩa ngụy biện của mình
Đây là cái tội “Kêu Tên Đức Chúa Lời vô cớ“, “Thề dông dài“.

Hồng y viết: “Mặt khác, lịch sử thế giới xác minh hai sự thật nầy: (1) đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng; (2) một chủ nghĩa trần thế, dù là tư bản, hay cộng sản, hay quốc gia, bao giờ cũng tạo nên sự phân rẽ mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một mẹ.

Bản chất của Giáo Hội Công Giáo là hiệp thông với Chúa, với nhau, với mọi người anh em đồng bào và đồng loai.“

Hồng y nói ra những điều này có ý gán cho lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Chính lẽ những tuyên bố này phải áp dụng cho CSVN dưới lá cờ Đỏ Sao Vàng tượng trưng cho:

=> Độc tài độc đảng, làm phân rẽ hàng ngũ Dân tộc
=> Lịch sử Cộng sản là chuỗi dài đấu tranh giai cấp đãm máu
=> CSVN Chính trị hóa Tôn giáo theo Lý thuyết của mình
=> Thiết lập các Giáo Hội quốc doanh để chia rẽ Tôn giáo
=> Ngay trong lòng Giáo Hội Công Giáo VN, CSVN đã gài các ngợm giáo gian vào để kiểm soát hàng Lãnh đạo, để chia rẽ ngay trong hàng Giám mục Việt Nam.

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không tượng trưng cho một Lý thuyết Chính trị để vì Lý thuyết Chính trị ấy mà gây chia rẽ, tang tóc. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tượng trưng cho những Giá trị Nhân Bản mà chính Tôn giáo cổ võ kêu gọi. Gọi Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ “mang tính đối kháng“, rồi đổ vạ cho lá cờ này là gây chia rẽ, đi ngược với Lời Chúa khuyên phải hợp nhất, đó là việc mượn tinh thần của Chúa để buộc tội người ngay. Hồng y MẪN đã phạm thượng vậy.

Phải nêu cao Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không tượng trưng cho một Lý thuyết Chính trị mà là biểu tượng cho những Giá trị Nhân Bản, là tôn trọng PHẨM GIÁ con người.

Chính lẽ Hồng y MẪN phải cổ võ lá cờ này mới phải, dù phải đe dọa bởi CSVN. Người chân chính và can đảm, dù trước những đe dọa, cũng phải nói lên sự thật. Thánh Gioan Tẩy Giả, trước đe dọa bị chém đầu, vẫn nói lên sự thật. Trước đe dọa mà phải nói theo chiều, đó là hèn.

Phải nêu cao Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên như ánh sáng soi rọi vào bóng tối u ám, tàn nhẫn của lá cờ Đỏ Sao Vàng. Đó là nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ của những Lãnh đạo Tôn Giáo mà chính Phúc Aâm đã nhấn mạnh.

Tôi xin trích ra đây những câu Phúc Âm cho Hồng y MẪN:

* “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.“ (Mt 4:16)

* “Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian“. (Mc 9:50; Lc 14:34-35)

* Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.“ (Jn 3:19)

* Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.“(Jn 3:20)

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là tượng trưng cho ánh sáng: ánh sáng của những Giá trị Nhân Bản. Tại sao Hồng y MẪN lại cố tình cắt nghĩa tiêu cực để cấm cản, chống đối. Phải nêu cao ánh sáng ấy để rọi vào những tối tăm, tử thần tượng trưng bởi Cờ Đỏ Sao Vàng.

Hay chính Hồng y MẪN “chuộng bóng tối“, “làm điều ác“, nên sợ ánh sáng, sợ sự thật vậy.

TS Nguyễn Phúc Liên

Ðức Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền

ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN
CHỨNG NHÂN CỦA SỰ THẬT VÀ LẼ PHẢI
(1921-1988)

“Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh.
Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?”

(Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, năm 1971)


Kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của vị Giám mục Chứng nhân
08-06-1988 ** 08-06-2008
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

****************************************

MỤC LỤC

Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

1- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 01-04-1975

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975 trong lễ ra mắt của UB Mặt trận Dân tộc Giải phóng tp Huế.

3- Lời phát biểu ngày 28-02-1976 về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Tp Sài Gòn

4- Lời phát biểu ngày 15-04-1977 nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù

5- Lời phát biểu ngày 22-04-1977 tại trụ sở UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT,

6- Thư gửi Mặt trận TQVN tỉnh Bình Trị Thiên ngày 27-10-1977 (phúc đáp Nhận định của Mặt trận TQVN Tp HCM ngày 06-08-1977).

7- Văn thư khẳng định quyền tự do điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)

8- Văn Thư khẳng định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện ngày 15-12-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)

9- Thư gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch UBLL Công giáo toàn quốc ngày 19-10-1983.

10- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 19-03-1984

11- Kinh cầu cho Đức Giám mục Giáo phận (không ghi ngày)

12- Thư gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN ngày 11-04-1984.

13- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 17-10-1984

14- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 24-10-1984

15- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 10-05-1985

16- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 20-05-1985

17- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 19-10-1985

18- Thư gửi UBND dân tỉnh Bình Trị Thiên ngày 03-07-1986 về vụ án Nữ tu Trương Thị Lý

19- Di chúc gởi Tổng giáo phận Huế ngày 08-11-1985

20- Thư gởi ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư ĐCSVN ngày 25-3-1988.

21- Lòng người ngoại đạo (Từ Tâm, 08-06-1988)

22- Hình ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Gs Nguyễn Lý Tưởng, 08-06-1998)

23- Lời Chứng về cái chết của Đức TGM Ng. Kim Điền (Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, 30-01-2001)

24- “Tinh thần Philipphê” hay lời tâm sự với Đức Cố TGM (Lm Phêrô Phan Văn Lợi, 03-06-2002)

25- Vị Giám Mục uy dũng: Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Nguyễn An Quý, 08-06-2003)

26- Tưởng niệm Đức TGM Nguyễn Kim Điền (Hòa Ái, 08-06-2003)

27- Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (Lê Thiên, 4-2005)

28- Con đường đối thoại của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền (Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005).

29- Tổng GM Nguyễn Kim Điền, một niềm tin sắt son không dời đổi (Trần Phong Vũ, 04-2005)

30- 1975-1988: Giai đoạn Đức TGM Phil. Nguyễn Kim Điền (Lm P. Phan Văn Lợi 18-07-2005)

31- Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, người Tiểu đệ khó nghèo (Thi Chương, 13-11-2005)

32- Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết (Nguyễn An Quý, 08-06-2006)

33- Lòng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục Philipphê (Lm Augustinô Hồ Văn Quý, 06-2007)

34- Trên cánh đồng vàng (Hoàng Chinh Nguyên, 08-06-2008)

****************************************

Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

Thấm thoát đã 20 năm trôi qua kể từ ngày Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền từ giã thế gian để đi về cùng Thiên Chúa, từ giã Tổng giáo phận Huế thân yêu trong tư cách một chủ chăn để đi vào lịch sử Giáo hội và lịch sử Dân tộc như một chứng nhân cho sự thật và lẽ phải.

Từ chứng, sinh chứng và tuẫn chứng của ngài đã lưu lại mãi mãi giữa chúng ta, đúc kết qua câu nói thời danh ngài từng phát biểu tại Thượng hội đồng Giám mục thế giới bàn về Công lý trên thế giới ngày 19-10-1971: “Jam sunt Episcopi qui incarcerantur propter defensionem jurium Ecclesiae. Eruntne incarcerati propter defensionem jurium hominum?” (Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?). Một câu nói mà có lần được hỏi sau năm 1975 rằng: “Đức Cha có nghĩ là sẽ có ngày chính mình phải thực hiện nó không?”, thì Ngài đã trả lời: “Nếu Chúa thương cho mình phải thực hành lời đó thì có hạnh phúc nào bằng! Xin cầu cho tôi được như vậy!” (Thư gởi đài Vatican ngày 19-03-1984). Và quả là ngài đã được như ý nguyện!

Cái gì đã đưa Đức TGM Philipphê đến một số phận vừa đau thương nghiệt ngã, vừa cao cả vinh quang như thế, khác hẳn hầu hết các đồng liêu của ngài kể từ 1975 đến hôm nay?

Đó là cả một quá trình dài mà chúng ta có thể khám phá ra các giai đoạn qua các bản văn ngài để lại, kể từ Thư Chung gửi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975 đến Thư gởi Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh ngày 25-3-1988, 3 tháng trước khi lìa đời. Khởi từ một thái độ hết sức chân thành, cởi mở, thiện chí, sẵn sàng cộng tác với chế độ mới (bằng cách thiết tha kêu gọi Linh mục, tu sĩ, giáo dân trong Giáo phận mình dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi úy kỵ đối với nhà cầm quyền “cách mạng” và dấn thân để cùng nhau xây dựng lại quê hương sau những năm dài chinh chiến), Đức TGM đã dần dần chuyển qua một nỗi thất vọng não nề và một thái độ cương quyết độc lập theo nguyên tắc Đức Gioan-Phaolô II đã mách cho (Collaborer en résistant = cộng tác trong khi đề kháng, vừa cộng tác vừa đề kháng, cộng tác bằng cách đề kháng) chỉ sau hai năm thôi, lúc CSVN đã lột mặt nạ, hiện nguyên hình là một chế độ toàn trị độc tài, đè bẹp tiếng nói của tôn giáo và nhất là muốn công cụ hóa các Giáo hội. Đang khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám bày tỏ, thì Đức TGM đã ung dung, nhẹ nhàng nêu lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải, của sự thật, của Tin Mừng. Đang khi hầu hết các đồng liêu không hay chưa thấy rõ mối nguy của một tổ chức lũng đoạn, phân hóa Giáo hội do CS dàn dựng là Ủy ban Đoàn kết Công giáo, thì Đức TGM đã cương quyết không chấp nhận sự hiện hữu của nó trong Giáo phận ngài. Ngoài ra, ngài cũng lên tiếng khẳng định quyền độc hữu của Giáo hội trong việc tổ chức chủng viện, đào tạo chủng sinh, tấn phong và bổ nhiệm linh mục. Đây không chỉ là việc bênh vực cho quyền lợi và tự do của tôn giáo, của Giáo hội, mà còn là bênh vực cho quyền lợi và tự do của công dân, của con người.

Thái độ này trước quyền lực chuyên chế đương nhiên là phải trả giá. Vị Mục tử bị tách biệt khỏi đoàn chiên. Vị Bản quyền bị ngăn cách khỏi các cộng sự. Vị Đại diện Giáo hội địa phương bị cấm cản gặp Lãnh đạo Công giáo hoàn vũ. Và đòn thù cuối cùng là vị Chứng nhân phải bị bịt miệng vĩnh viễn trên cõi đời này bằng một cuộc thủ tiêu hèn hạ trong bệnh viện. Thế nhưng -Cộng sản không ngờ- cái chết tử đạo đó đã làm cho lời nói và cuộc sống của Đức TGM càng thêm ngời sáng, hữu hiệu, trường tồn vĩnh viễn.

Vị Giám mục Công giáo nay vừa trở nên Chứng nhân của Thiên Chúa và Con yêu của Giáo Hội, vừa trở nên Chiến sĩ của Nhân quyền và Anh hùng của Dân tộc, những tước hiệu mà hầu hết mọi lãnh đạo tinh thần đúng nghĩa trong các chế độ độc tài, nhất là độc tài CS, đều đã giành được.

Kỷ niệm 20 năm cuộc ra đi của Đức Cha Nguyễn Kim Điền, chúng tôi muốn gởi đến Quý vị những bản văn tiêu biểu nói lên tinh thần của vị Giám mục uy dũng cũng như những bài viết của nhiều tác giả đã lột tả được tinh thần này, với lòng mong ước tinh thần đó sẽ thấm nhập mọi tín hữu Công giáo Việt Nam hôm nay, dù thuộc đấng bậc nào, để tất cả thể hiện lời Đức Phaolô VI đã nhắn nhủ: “Làm Kitô hữu trong thời đại này (đặc biệt trong chế độ CS vô thần độc tài) mà không chịu gian khổ thì không thể thành Kitô hữu đích thực”.

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.

Tập sách được chia làm hai phần, và các bản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, Pháp, đã cung cấp cho nhiều tài liệu quý giá.

****************************************



1- Thư chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975

Kính thưa các linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em tín hữu thân mến,

Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay.

Thời gian sống trong hãi hùng lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân quý giá này. Chúng ta hãy ghi ân tất cả những ai đã hy sinh để có được những ngày an bình hiện nay. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa cho cảnh thanh bình nầy còn mãi trên quê hương chúng ta !

Giờ đây đã đến lúc chúng ta hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt.

Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào; không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ, theo tinh thần bác ái của Chúa Giêsu mà mọi người thiệ chí và mọi chính quyền trên thế giới quyết tâm thực thi mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn. “Này là lệnh truyền của Ta: các con hãy thương yêu nhau, như Ta đã yêu thương các con” (Gioan 15,12). Vì yêu chúng ta, Chúa đã chết cho chúng ta, thì còn gì mà chúng ta không làm được để tỏ lòng yêu mến nhau ?

Giờ đây, chúng ta hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ tự do dân chủ, thịnh vượng và hoà bình. Lý do là vì mọi người đều là anh em có cùng một Cha trên trời (x. Matt. 23,9).

Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Matt. 20,28).

Nhưng hơn hết, chúng ta phải sống đời tâm linh, đạo đức và thánh thiện để đạt tới đời sống vĩnh cửu, khi thân xác này trở về với cát bụi. Chúng ta phải cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng cho hôm nay, nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu. Bấy giờ chúng ta mới thật là anh em của nhau không thể chia lìa được và cùng nhau hưởng hạnh phúc bất diệt trong Thiên Chúa.

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban mọi phúc lành cho anh chị em.

Huế ngày 01 tháng 04 năm 1975
Nguyễn Kim Điền
Tgm giáo phận Huế.

****************************************

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975
trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế

“Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.

Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.

Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.

Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.

****************************************

3- Lời phát biểu ngày 28 tháng 02 năm 1976
về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Thành phố Sài Gòn


Kính thưa Quý Vị,

1/ Theo tin tức của báo chí và đài phát thanh trong nước cho biết về vụ VINH SƠN, xảy ra từ 19 giờ ngày 12 đến 8 giờ 30 ngày 13-02-1976, tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rất xúc động và đau xót. Không bao giờ chúng tôi chấp nhận một hành động phạm pháp như vậy.

2/ Ngay từ đầu, Chánh quyền Cách mạng sáng suốt và tế nhị đã tách rời sự việc xảy ra này với sinh hoạt tôn giáo, tránh được những hiểu lầm và hậu quả có thể do đó mà ra. Chúng tôi chắc rằng đồng bào thân yêu cũng sáng suốt, không ai lại có thể nghĩ vụ Vinh Sơn là chủ trương của tôn giáo.

3/ Nhân dịp này, chúng ta lại có thêm một bằng chứng hùng biện nữa cho thấy Chánh quyền Cách mạng đã sáng suốt chủ trương Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” trong việc Thống nhất Nước nhà. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng đều nhận là việc thống nhất ý chí và tình thương giữa đồng bào với nhau là một công tác khó khăn nhưng cấp thiết mà mỗi người chúng ta phải thực thi cho kỳ được trong lúc này. Ý thức bổn phận trước mắt đó, đồng bào công giáo chúng tôi quyết tâm thực hiện tốt Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” của Chánh quyền Cách mạng, chính mình thực thi và động viên mọi người cùng thực thi tình ĐẠI ĐOÀN KẾT, để chóng hoàn thành Thống nhất Tổ quốc về mọi mặt, nhất là về mặt nhân tâm.

4/ Sau cùng, chúng tôi minh xác lại lập trường của đồng bào công giáo Thừa Thiên-Huế-Quảng Trị chúng tôi là luôn luôn nỗ lực tối đa để phục vụ Tổ quốc và Thiên Chúa, bằng làm thật tốt bổn phận công dân yêu Nước và bổn phận công giáo phượng thờ Thiên Chúa. Hai bổn phận này, đối với chúng tôi, vẫn là một không thể tách rời nhau, như không thể tách rời xác với hồn của một con người vậy.

Chúng tôi xin hết lời và cảm ơn Quý vị.

Huế, ngày 28 tháng 02 năm 1976
T.M. Đồng bào Công giáo
Thừa Thiên - Huế - Quảng Trị
… Ph. Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục

(Phát biểu trong buổi họp mở rộng gồm các Vị Đại diện Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Thừa Thiên-Huế, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, các đoàn thể quần chúng, các Giáo hội Phật giáo, Tin lành, Cao đài và Công giáo Thừa Thiên-Huế, tại Trụ sở UB MTDTGP thành phố Huế, chiều ngày 28-02-1976).

****************************************

4- Lời phát biểu ngày 15 tháng 04 năm 1977
nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù


Kính thưa đoàn chủ tịch

Kính thưa các vị đại biểu,

Tôi mới nghe biết vụ này qua Thông báo của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sự trình bày của ông ủy viên Mặt trận Tổ quốc (VN) tỉnh vừa rồi thôi. Tôi cũng vừa nghe ông Trần Văn Long phát biểu và đề nghị phải có biện pháp mạnh cho vụ xảy ra đó và phải phổ biến sâu rộng; đang khi Thượng tọa Thích Thanh Trí thì xin Chính quyền khoan hồng cho Tội nhân và nghĩ rằng phổ biến vụ này như hôm nay đây có đầy đủ đại diện các giới đủ rồi.

Phần tôi không có ý kiến. Xét xử là việc của chính quyền, xin để chính quyền định liệu.

Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn. Vì chính tôi đã trải qua cái cảnh tượng như vậy trong vụ Vinh sơn. Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó liên can đến người cùng tôn giáo với mình. Biết ăn nói làm sao đây! Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!

Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể còn sẽ xảy ra, nếu không trừ tận gốc. Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác, là vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự đó thôi. Thực sự, tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng.

Chính quyền nhiều lần tỏ ý muốn là nếu có chi không thỏa mãn thì nên nói ngay với cơ quan trách nhiệm, thay vì tung tin trong quần chúng hoặc rỉ tai này nọ, thì hôm nay, hết sức chân thành, tôi xin nói lên điều này với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thành. Mong đừng ai nghĩ như vậy là phản động. Thú thật, nghe hai tiếng “phản động” tôi ớn lắm, và cũng không biết ngày nào mình phải mang hai tiếng ấy. Tôi muốn 2 điều thôi: là tự do tín ngưỡng và bình đẳng trong quyền công dân.
***

Hồ chủ tịch đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói ấy rất chí lí, rất sáng suốt.

Tuy nhiên, đoàn kết trên cơ sở nào đây ? (ngừng giây lát) và đoàn kết bằng những nhân tố nào? (ngừng giây lát). Theo tôi nghĩ thì chắc chắn phải đoàn kết trên cơ sở TÌNH DÂN TỘC, và bằng những nhân tố: biết, hiểu để thông cảm nhau, thì mới có đoàn kết.

Biết, có nhiều cách biết. Biết khách quan hoặc biết chủ quan. Biết chủ quan thì chắc chắn là không khoa học và cũng không thông cảm nhau được. Thú thực, chắc tôi không dám trình bày về các tôn giáo bạn, về giáo lí, vì tôi sẽ nói không đúng, tôi càng không dám nói về Đảng hơn nữa, vì chỉ có Đảng viên họa may mới nói đúng về đảng của mình. Bằng chứng là ở trong nhiều cuộc họp hay học tập, tôi nghe nói về Đạo Công giáo mà không đúng gì cả, gán cho những ý nghĩa hay mục đích mà từ trước tới giờ, tôi chưa bao giờ nghe dạy trong đạo Công giáo. Do đó, phải biết và biết đúng, biết khách quan. Mà chỉ có người trong cuộc mới nói đúng việc của mình. Vậy tôi xin nói lên ý nghĩ của Công giáo về 2 điều trên

Thứ nhất: Về Tự do tín ngưỡng

Thú thật, sau ngày giải phóng, khi nghe Nhà nước có chính sách Tự do tín ngưỡng, là tôi hết sức mầng, hết sức phấn khởi, như những lời phát biểu đầu tiên của tôi. Nhưng 2 năm qua rồi, tôi cảm thấy không thoải mái, vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự.

Các nghi lễ bị hạn chế, các linh mục không được đi lại phục vụ đồng bào Công giáo, như ở vùng kinh tế mới. Một vài nhà thờ bị cấm lễ lạc hay bị chiếm cứ.

Tôi rất hoan nghênh Nhà nước đã rất sáng suốt chủ trương Chính sách tự do tín ngưỡng. Điều đó rất rõ ràng trong 5 Sắc lệnh và Thông tư về tôn giáo. Nhưng đó là văn bản. Còn các khẩu lệnh (lệnh miệng thôi) thì nhiều khi trái ngược với tinh thần văn bản. Trong trường hợp đó, xin hỏi tôi phải nghe theo ai đây? Cứ theo văn bản hay nghe khẩu lệnh? Tôi xác tín là chính sách không sai, nhưng khẩu lệnh lại là của nhân viên chính quyền. Chắc tôi không nên đồng hóa nhân viên làm việc sai lệch với chính quyền.

Về Nhà thờ, các nơi thờ phượng, thì tôi xin phép so sánh như vầy. Cái gì là quí nhất của đất nước chúng ta hôm nay? Thiết nghĩ là các bảo tàng và lăng Hồ Chủ tịch. Các phái đoàn bạn hữu ngoại quốc, nếu không có thì giờ đi xem các bảo tàng thì ít ra cũng phải đến viếng lăng Hồ Chủ tịch. Giả sử ngày nào đó lăng Hồ Chủ tịch bị chiếm, bị dùng vào một việc gì khác, thử hỏi có người Việt Nam nào chịu như vậy không? Tôi thì không chịu được đó và cá nhân tôi sẽ xin xung phong cùng đi giải thoát. Thì Nhà thờ của Công giáo cũng vậy, lớn nhỏ, xấu tốt gì thì cũng là nhà đã dâng cho Thiên Chúa rồi.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Đại hội toàn quốc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng hai vừa rồi có chủ trương: “Bảo hộ Nhà chùa, Nhà thờ, Thánh thất đang dùng làm nơi thờ cúng của các tôn giáo”.

Về các lễ nghi thờ phượng, từ 2 năm qua, chúng tôi đã sắp xếp không làm trong giờ lao động sản xuất. Có lẽ có người cho là thiệt hại sức khỏe, mất sức lao động, nếu thay vì nghỉ ngơi, còn phải tham dự lễ nghi tôn giáo. Lí lẽ đó có thể đúng cho Nhà nước khác, mà không đúng cho nước chúng ta. Bằng chứng là lính Mỹ và binh sĩ của chế độ cũ ăn ngủ dữ lắm, đủ tiện nghi, đủ phương tiện. Nhưng chúng ta đã thắng. Tôi được nghe ông Phó chủ tịch Tống Hoàng Nguyên đây (đang điều khiển buổi họp này) kể lại những gian lao thiếu thốn của chiến sĩ ta ở Trường Sơn, tôi nghe mà rướm lệ thật, nhưng những chiến sĩ này đã thắng! Thắng vì không phải ăn no ngủ đủ, mà vì có tinh thần, có lý tưởng. Thì người cùng tôn giáo chúng tôi cũng vậy, tinh thần chúng tôi thoải mái thì mới phục vụ đắc lực được.

Nhưng 2 năm qua rồi, chúng tôi cảm thấy chưa có tự do tín ngưỡng.

Thứ hai: Về bình đẳng trong quyền công dân

Trong hai năm qua, thú thật người Công giáo chúng tôi cảm thấy làm sao á! Ở đâu, làm gì cũng bị nghi ngờ, chèn ép.

Học sinh ở trường thì cứ nghe những bài chống đối Công giáo, mạ lị Công giáo. Thực thì có những sai lầm trong các thế hệ, nhưng thiết nghĩ góp nó lại và so sánh với 2000 năm lịch sử Công giáo, thì có thấm vào đâu với những việc tốt và đúng mà không được nói tới. Đàng khác, thời đại nào, kỷ cương nấy. Đem một việc của thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ, thì chắc là không khoa học đó.

Trong giới công nhân, công viên chức bệnh viện hay giáo viên, thường người Công giáo được cho là tiên tiến, nhưng chắc rồi cũng không làm việc được, vì là Công giáo. Đi xin làm việc, hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do, thì được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi Nhà thờ nữa sẽ êm xuôi.

Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, thì người Công giáo có cảm tưởng mình là công dân hạng hai vậy.

Nhà nước thì chủ trương mọi người đều bình đẳng, mọi dân tộc trong Đất nước bình đẳng. Nước Việt Nam chúng ta có 50 triệu dân. Người Kinh 45 triệu. Gần 60 dân tộc ít người là 5 hay hơn 5 triệu. Người công dân Công giáo tối thiểu là 3 triệu, mà không được bình đẳng trong quyền công dân.

Trong hai năm qua, người Công giáo trong tỉnh nhà có cố gắng nhiều, chính quyền cũng thấy đó. Về lao động cũng không có gì chê trách. Về bầu cử hình như được cho là có kỷ luật. Chúng tôi chỉ xin được bình đẳng trong quyền công dân thôi.

Trong thông báo về vụ xảy ra đó của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà chúng tôi vừa được phát ra đây, đoạn áp chót có nói: “Ủy ban Nhân dân thành phố và các cơ quan chính quyền các cấp phải thi hành đầy đủ chính sách tự do tín ngưỡng mà chính phủ đã xác định. Không cho phép ai vi phạm cũng như cho phép ai lợi dụng”.

Lạm dụng, thì phần chúng tôi quyết tâm không hề lạm dụng.

Đó là vài ý kiến nhỏ của tôi, xin phép được góp phần với Mặt trận Tổ quốc trong việc đoàn kết.

Tôi thiết nghĩ nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, thì không ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những gì sai trái, rồi đổ hô và xách động để bảo vệ tôn giáo được nữa, và dân chúng không tin nữa, vì đang có tự do tín ngưỡng rồi.

Xin cám ơn các vị.

(Đây là những ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ đó trong lời phát biểu đột xuất của tôi, trong buổi họp ngày 15-04-1977, do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên và thành phố Huế tổ chức, để thông báo về vụ chính quyền bắt giữ 6 vị Sư Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hệ phái Ấn Quang. Bài ghi lại này được tôi viết ra ngày 19-04-1977. Có thể là khi phát biểu đột xuất, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).

Thành Phố Huế, ngày 19 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
… Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế

****************************************

5- Lời phát biểu ngày 22 tháng 04 năm 1977
dịp tọa đàm bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Ban Chấp hành đảng bộ Đảng CSVN tỉnh Bình Trị Thiên” cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần I (vòng 2) tại trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT, có mặt các Đại diện tôn giáo, nhân sĩ và trí thức tại thành phố Huế

Kính thưa Chủ tịch đoàn

Kính thưa các vị Đại biểu

Ông Chủ tịch điều khiển cuộc họp vừa bảo bỏ đi những lời mào đầu, mà nói lên ngay đề tài phát biểu, để tiết kiệm thì giờ.

Vậy tôi xin nói liền lời cảm ơn Ban tổ chức đã cho tôi vinh dự được tham gia đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo Đề cương Báo cáo của Đảng bộ tỉnh, một việc làm có tính cách mới mẻ và cởi mở, vì Đảng và tôn giáo thường không đi chung với nhau (Cử tọa đột xuất vỗ tay).

Trước hết tôi xin hoan nghênh “tinh thần” của bản Dự thảo Đề cương này. Tôi nói “tinh thần”, vì cách làm việc tập thể, có sự đóng góp trí tuệ của nhiều người; vì biết lưu ý đến từng giới, từng ngành, từng việc nữa; nhất là vì chân thành, khiêm tốn và can đảm nhìn nhận không những ưu điểm mà khuyết điểm nữa. Theo tinh thần đó, thì hy vọng hay chắc chắn bản “Đề cương” sẽ được một NỘI DUNG hoàn hảo, phong phú hơn, nhờ những đóng góp tích cực của các tầng lớp đồng bào trong tỉnh.

Phần tôi là người phục vụ tôn giáo, tôi xin phép góp một ý nghĩ “nhỏ” về CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO được nói đến trong phần thứ 2, mục C (Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội) trang 6 báo DÂN.

Nếu tôi không lầm, thì bản Dự thảo Đề cương dùng chữ “tôn giáo” chỉ có 2 lần: một lần khi nói đến “Công tác Mặt trận trong giai đoạn mới… nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tôn giáo” (trong mục B khi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân); một lần nữa trong mục C khi nói về “Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội”, sau khi đã kể ra bao nhiêu tội phạm và âm mưu phá hoại…

Có người nghĩ là bản Đề cương nói đến tôn giáo ít quá. Tôi thì tôi nghĩ Đảng phải lo không biết bao nhiêu chuyện, mà tôn giáo đối với Đảng là một vấn đề nhỏ thôi; lại Đảng chủ trương không tôn giáo, vô thần, nên có nhắc đến tôn giáo như vậy cũng tạm được rồi.

Có người nhạy cảm thấy nói về “chính sách tôn giáo” trong mục “bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội” thì nghe làm sao á, và hơi sợ. Nhưng đọc kỹ lại, thì tôi thấy có nói: “Trong công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, phải nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối và chính sách của đảng, đặc biệt là chính sách tôn giáo v.v…” thì tôi an tâm, vì Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng, mà một khi cán bộ phải “nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối chính sách của đảng”, với tinh thần can đảm biết sửa sai, thì cũng đủ bảo đảm rồi.

Tuy nhiên, không chắc ai cũng đều hiểu như vậy, nên để tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng, thì tôi xin đề nghị: nếu có thể được, đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. Hình như trong nghị quyết của Đảng, kỳ Đại hội IV, đề cập về tự do tín ngưỡng cũng trong mục đó.
* * *
Ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn: nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn.

Theo tôi nghĩ: nếu cho tự do tín ngưỡng, thì năng suất của đồng bào Công giáo sẽ lên cao lắm. Thực thì có chính sách tự do tín ngưỡng bằng văn bản đó (có 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo). Nhưng cũng có những khẩu lệnh đi ngược với bản văn.

Tôi xin đơn cử một việc vừa xảy ra ngày 10-04-1977 tại thôn Trí Bưu, xã Hải Trí, huyện “mới” Triệu Hải (Quảng Trị). Ngày Chúa nhật 10-04-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, là lễ lớn nhất trong Đạo đã được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. Xã Hải Trí phải làm thủy lợi chính trong thị xã Quảng Trị. Huyện cho làm trong 10 ngày, nhưng xã rút xuống còn 5 ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật.

Ngày thứ 7, thôn Trí Bưu (gần hết là Công giáo) đã đệ đơn xin xã xét lại cho đồng bào Công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ Đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa. Nhưng xã không cho, nói là có lệnh phải đi làm.

Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng bào họ không tuân lệnh thì tổn thương phần nào uy quyền của Chính quyền địa phương đi. Như hôm lễ Giáng sinh 1976, thôn Trí Bưu cũng đã không đi làm, vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cũng cương quyết không xét lại. Thì rồi thôn Trí Bưu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thủy lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Nhưng sau lễ, họ huy động cả thôn ra làm thủy lợi, thì thay vì 5 ngày, họ làm trong 2 ngày rưỡi là xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhưng họ xin không nhận, vì lẽ họ có không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục sinh hôm đó.

Nếu người công dân Công giáo được thoải mái về tín ngưỡng của họ, thì họ sẽ phục vụ hăng say có lợi cho kinh tế lắm. Điều này tôi chắc Đảng và Nhà nước quá hiểu nên đã có chính sách tự do tín ngưỡng vậy.

Vậy tôi xin phép mở một cái ngoặc, để xác định lại cái danh từ “Thiên Chúa giáo” và “Công giáo”. Tôi thấy trong văn thư của chính quyền chỉ dùng có danh từ “Thiên Chúa giáo” để chỉ người Công giáo. Thực ra, “Thiên Chúa giáo” chỉ chung những con người tin thờ Thiên Chúa trong đó có gần 200 triệu thuộc Chính thống giáo, hơn 200 triệu thuộc Tin lành và hơn 650 triệu thuộc Công giáo. Tất cả là hơn 1 tỷ người. Đó là Thiên Chúa giáo theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì phải kể cả thế giới Hồi giáo nữa, vì họ cũng tin thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, giữa những người cùng tin thờ Thiên Chúa đó, có cơ cấu khác nhau, có tổ chức khác nhau. Đến đây tôi xin đóng ngoặc lại.

Tôi xin trở lại chính sách tự do tín ngưỡng. Tôi thiết nghĩ chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi. Thực thì Đảng và nhà nước có chủ trương chính sách tự do tín ngưỡng bằng sắc lệnh, bằng văn bản. Nhưng trong thực tế, vẫn có những khẩu lệnh đi ngược với chính sách. Việc này chắc còn phải dài lâu và hy vọng sẽ được giải quyết từng trường hợp.

Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Nhưng thiết tưởng không vì thế mà được mạ lỵ tín ngưỡng.

Ông Tống Hoàng Nguyên hôm trước có khẳng định: “Đảng chúng tôi không cấm tôn giáo đâu. Vì coi đó là một yêu cầu xã hội và tâm lý. Bao lâu nhân dân cần đến thì cứ để”. Tôi cũng nghĩ như vậy: chừng nào đồng bào không thèm tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo. Còn cấm cản, thì chắc không cấm cản được.

Không thể cấm cản hay diệt trừ tôn giáo được. Điều này có lịch sử chứng minh. Đạo Công giáo khi mới còn là một nhóm nhỏ đã bị bắt bớ trong 300 năm ở đế quốc La mã rồi. Nay đế quốc La mã mất lâu rồi, đạo Công giáo vẫn còn và còn nhiều. Hy lạp cổ xưa cũng mất lâu rồi, mà đạo Công giáo vẫn còn. Nhật bản đã diệt đạo Công giáo và đã có trụ đá khắc chữ: người Kitô giáo không còn nữa trên đất Phù tang. Nhưng năm 1865, người ta phát hiện ra người Công giáo Nhật sau 250 năm vắng bóng công khai trên đất Nhật. Ở Việt nam, đạo Công giáo có từ năm 1533, chứ không phải lúc Pháp đến, và do một số người truyền đạo không phải là người Pháp. Không may, sự hiện diện của các người truyền đạo Pháp trùng hợp với lúc Việt nam bị mất độc lập và tự do. Đạo Công giáo ở Việt nam bị bắt bớ khi ít khi nhiều trong vòng 260 năm, nhất là trong triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Các vua này mất hết rồi và đạo Công giáo vẫn còn với khoảng 3 triệu tín đồ bây giờ.

Tôi có đọc những tài liệu bài trừ Công giáo ở Liên xô, cũng như trong một số nước ở tại Đông Âu. Dù cho có cố gắng hay điều chỉnh kế hoạch cũng không tiêu diệt tôn giáo được. Bằng chứng là sau 60 năm, vẫn còn tôn giáo ở Liên xô và ở các nước kia.

Năm rồi, tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã nghe một vị ở trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói: “Chúng tôi, người Cộng sản, thông cảm dễ dàng với người Thiên Chúa giáo, vì chúng tôi cũng quốc tế, vì chúng tôi cũng bị đàn áp bắt bớ. Trong 30 năm qua, Cộng sản đâu có quyền sống trên mặt đất Việt nam này, bị tầm nã luôn, gặp đâu là giết đó. Nhưng có quyền lực nào đàn áp được chúng tôi đâu. Cuối cùng, chúng tôi thắng. Không thể đàn áp tư tưởng được. Do đó, chúng tôi có chính sách tự do tín ngưỡng”.

Ở địa phương kia có xảy ra một biến cố. Dân chúng di tản cả. Nhưng còn sót lại một bé gái 8 tuổi chạy tới chạy lui khóc lóc tìm cha mẹ. Những người có bổn phận ổn định tình thế hỏi nó thì mới biết nó lạc mất cha mẹ. Họ an ủi nó: “Thôi em, đừng buồn nữa. Đó là dấu cha mẹ em không thương em đó. Nếu thương thì sao quên con mình được. Mà em là Công giáo phải không? Này nói cho em biết, từ nay sắp lên, không còn có đạo ở đây nữa nghe chưa!” Bé gái không khóc nữa mà dõng dạc nói: “Không đúng, bao lâu còn tôi là còn đạo!”

Đạo ở trong lòng, cho dù bên ngoài không còn di tích gì nữa, nhưng còn trong lòng, không ai động đến được. Có thể giết xác, nhưng không thể giết được lòng. Quan niệm của Công giáo là vậy.

Hôm qua có một vị phát biểu là đã nghe Hồ Chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không lao động trí óc, thì là một con người bán thân bất toại”. Câu nói đó rất chí lý, sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng, thì là con người bán thân bất toại vậy. Như thế, ích lợi gì cho Tổ quốc!

Có người nghĩ là Công giáo tồn tại nhờ dựa trên kinh tế, trên thế lực. Không phải vậy mà ngược lại. Đấng lập đạo Công giáo đã nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ta không có chỗ gối đầu”. Và Người còn chủ trương một điều mà trên đời không mấy ai chấp nhận là: “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo”. Thật vậy, khi nào vinh quang, có nhiều của cải là lúc Công giáo yếu nhất. Ngược lại, Công giáo càng nghèo khó, càng túng thiếu bao nhiêu thì càng mạnh bấy nhiêu.

Về các việc từ thiện, xã hội, thì Công giáo chúng tôi quan niệm thế này. Vì chính quyền không làm hết các việc đó, nên chúng tôi phụ lực với chính quyền, như con cái trong nhà phụ việc cho cha mẹ. Ngày nào chính quyền tự làm được hết các việc đó, thì chúng tôi vui mầng trao lại cho chính quyền. Bằng chứng là sau ngày Giải phóng, chúng tôi đã trao cho chính quyền hơn 60 cơ sở giáo dục, trong đó có trường Thiên hựu ở gần đây.

Về nhà thờ, thì dù lớn nhỏ, xấu tốt chi thì cũng là của đã dâng cho Thiên Chúa rồi, không thể xâm phạm được, cũng như không thể xâm phạm lăng Hồ chủ tịch vậy.

Vừa rồi có vụ không hay xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh liên quan tới cô nhi viện Quách Thị Trang. Chúng tôi cũng có cô nhi viện Kim Long, đã trên 30 năm rồi, chỉ do một nhóm nhỏ nữ tu điều hành tự túc. Hiện nay có hơn 200 người, từ trẻ sơ sinh đến ông già bà lão mù lòa, tê bại. Bây giờ, các nữ tu phải lo tự túc ăn uống hằng ngày cho bao nhiêu người đó. Vậy ngày nào chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên định quản lý là chúng tôi vui mầng trao ngay cho chính quyền.

Đó là những điều tôi xin chân thành phát biểu với các vị.

Xin cám ơn.

(Bài này được tôi viết ra ngày 24-04-1977, đã phát biểu ứng khẩu ngày 22-04-1977. Có thể khi phát biểu ứng khẩu, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).

Thành Phố Huế, ngày 24 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
… Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế

Ôn cố tri tân


VIỆT CỘNG: LINH MỤC NGUYỄN VĂN LÝ PHẢI CHẾT !!

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất.

Khi cha Lý đặt bút viết xuống những dòng "TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT", tức là cha đã tự ký bản án tử hình cho chính mình rồi !!!

Lm Tadeo Nguyễn Văn Lý vì tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Hanoi bắt và giam giữ. Cha bị kết án 15 năm tù. Bản án một lần giảm xuống còn 10 năm. Ngài đã thọ án được gần 3 năm, vị chi chỉ còn hơn 7 năm nữa, cha Lý sẽ được thả (không phải tha). Thực tế đã và có thể sẽ xẩy ra đúng như thế nếu dòng đời cứ phẳng lặng mà trôi.

Đọc cái tiêu đề trên, nếu có qúy vị nào cho rằng người viết đang mê sảng nói càn rằng "VC tử hình cha Lý" thì xin đừng vội nóng. Cứ từ từ, chúng ta còn có thể bàn bạc lại xem kia mà.

NHỮNG CHUYỆN THẬT QUÁI ĐẢN

Bọn tín đồ Cộng Sản Giáo phục vụ trong ngành an ninh mật vụ, tất cả đều thuộc lòng câu thánh kinh của Lenin "Đồng chí đừng giết chết kẻ thù khi chúng đang chửi rủa đồng chí, mà hãy đợi đến khi chúng mở miệng ca tụng và tung hô đảng, bấy giờ đồng chí hãy thọc sâu lưỡi gươm vào cổ chúng cũng chưa muộn.". Đấy là cách giết người chính đáng nhất, và có lợi nhất trên thế gian này mà chỉ có đầu óc bọn cộng sản mới nghĩ ra được. Nó chính đáng ở chỗ kẻ bị giết, trước khi đầu lìa khỏi cổ, cũng còn muốn hân hoan ca tụng tên sát nhân thì ai bảo là hắn giết oan người vô tội. Một chế độ mà những người bị chém đầu đều tự nguyện bầy tỏ rằng mình chết một cách tâm phục khẩu phục như thế, thì đúng là thời đại thịnh thế nhất, có minh chúa trị vì rồi còn gì! Thời Nghiêu Thuấn bên Tầu dễ dầu gì sánh kịp. Cái lợi là lợi ở chỗ đó. Những chuyện CS giết người một cách kín đáo (thủ tiêu) thì không kể. Còn khi chúng đã công khai giết một người nào, thường thì cũng đều theo cách thức đó cả. Nghĩa là nạn nhân phải lớn tiếng hoan hô tên đao phủ để rồi chết một cách tâm phục khẩu phục hẳn hoi. Ở Liên Sô cũ, Boukharine, Zinoviev, Ricop đều là đồng chí vào sinh ra tử với Stalin trong việc cướp ngôi báu của Nga Hoàng Tsar Nicolas II. Chúng tranh quyền đoạt vị với nhau sau khi Lenin chết. Lý lẽ muôn thuở trên đời này là được làm vua và thua làm giặc. Stalin được nên làm vua. Những tên kia thua đành phải chịu làm giặc và tất nhiên đều phải rơi đầu. Điều làm người ta ngạc nhiên là khi những tên này bị rơi đầu vẫn còn cao giọng ca ngợi "Đồng chí Stalin vĩ đại muôn năm". Chuyện xẩy ra thật là quái đản. Cảm nghĩ cho là quái đản này chỉ có trong đầu óc những người sống trong thế giới tự do. Còn tại các nước CS thì lại là chuyện thường tình, chẳng có gì quái đản cả. Ở nước Trung Hoa đỏ cũng vậỵ Lâm Bưu là một địch thủ chính trị của Mao Trạch Đông. Trước khi họ Lâm được "Mao Chủ Tịch" tống táng một cách bí mật và vĩnh viễn vào trong không gian vô tận, cũng đã từng nhiều lần giơ cao cuốn Mao Tuyển trước hàng triệu hồng vệ binh và hô vang khẩu hiệu "Mao Chủ Tịch vĩ đại muôn năm". Và tại Vietnam cũng đã từng xẩy ra những việc tượng tự. Bà Cát Thanh Long được tôn xưng là mẹ nuôi của cách mạng, rất có công với kháng chiến, nhưng bà vẫn không thoát khỏi cái chết trong Cải Cách Ruộng Đất. Đứng giữa pháp trường, bà vẫn leo lẻo tranh biện "Đảng rất công minh, Bác Hồ luôn luôn sáng suốt". Câu cuối cùng của người đàn bà đáng thương này cũng lại là một điệp khúc muôn thuở: Đảng CS bất diệt, Hồ Chí Minh muôn năm. Sử sách còn ghi lạị Vào các năm 1953 đến 1956, có cả hàng trăm sĩ quan bộ đội miền Bắc bị đem ra bìa rừng bắn bỏ trong khi không biết mình đã phạm tội gì. Lúc chết, họ vẫn không ngớt hô "Đảng CSVN vinh quang bất diệt, Hồ chủ tịch muôn năm".

NGƯỜI TỰ KÝ BẢN ÁN

Luật pháp của các nước CS nói chung và của VC nói riêng đều có hai đặc điểm giống nhau: một là văn từ mơ hồ, và hai là áp dụng tùy tiện. Dưới chế độ CS, tội gì cũng có thể xí xái, làm ngơ, hoặc tha tàọ Nhưng ngược lại, chuyện dù nhỏ mọn cũng có thể biến thành tội bị chém đầu. Lấy thí dụ tội ăn cắp một trái trứng gà. Nếu cần ghép tội, CS sẽ lý luận trái trứng có thể nở thành một con gà. Con gà đó sẽ đẻ ra hàng trăm trứng. Những trứng đó nở thành đàn gà, và đàn gà đó lại đẻ trứng ... cứ thế và cứ thế mà tính. Tội ăn cắp một trái trứng tức khắc sẽ biến thành tội phá hoại tài sản XHCN. Tội này có thể bị bay đầu như chơị Như trên vừa nói, tội gì, tùy hứng, CS cũng có thể bỏ qua, không chấp nhất, chỉ trừ ra duy nhất một thứ tội, đó là tội dám thách đố quyền lực của CS. Tội này dứt khoát không châm chế, không tha, và nhất định phải chết. Áp dụng vào trường hợp của Lm Nguyễn Văn Lý, qủa thật cha Lý đã phạm phải thứ tội tầy trời này. Khi phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, cha Lý đã tự tay viết và dựng lên hai tấm bảng "Chúng tôi cần tự do tôn giáo", và "Tự do tôn giáo hay là chết". Hai tấm bảng này, một treo trên tháp chuông, và một dựng trên thửa ruộng phía trước nhà thờ. CS thừa hiểu rằng đây chẳng qua chỉ là những khẩu hiệụ Và, trong bất cứ một cuộc vận động nào thì khẩu hiệu là thứ không thể thiếu được. Những khẩu hiệu này nếu xét về khả năng gây áp lực chính trị, chưa phải là lý do đủ khiến CS phải ra tay. Chỉ cho đến khi cha Lý thực sự đem sinh mạng của mình ra thách đố sự tồn vong của CS, VC mới xử lý ngài. Trong biên bản CS lập ngày 14-12-2000 để buộc Lm Lý phải tháo gỡ các bảng khẩu hiệu mà cha đã trương lên, cha Lý viết: "Tôi xin xác nhận: Bảng "Tự do hay là chết" là do tôi đem cả mạng sống ra để viết và buộc CSVN phải lựa chọn. Tôi sẽ duy trì lập trường của tôi cho đến chết". Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là sự thách đố dứt khoát và quyết liệt nhất : người này sống thì người kia phải chết, của một cá nhân đối với cả một guồng máy cai trị tàn ác nhất trên thế giới. Ý nghĩa của mấy chữ trên khẩu hiệu cho thấy rất rõ ràng: CS bóp chết tự do tôn giáo tức là giết chết người viết khẩu hiệu. Ngược lại, người viết khẩu hiệu, tức cha Lý, có tự do, CS sẽ hết đất sống. người có đôi chút hiểu biết về CS hiểu rằng, khi cha Lý đặt bút viết xuống những dòng trên, tức là cha đã tự ký bản án tử hình cho chính mình rồi.

ĐẸP HƠN CHÉM TREO NGÀNH

Việc CS thi hành bản án đối với Lm Nguyễn Văn Lý xem ra không tức thời, mà theo một trình tự kéo dài có lớp lang đâu đấy. Bắt đầu từ việc bao vây, rồi cô lập đồng thời với đe dọa, đến quản lý hành chánh, cùng lúc với vu khống và bôi bẩn, cuối cùng dùng hành động côn đồ bắt giam cha ngày 17-5-2001 và đưa ra tòạ Cho đến nay, không một ai bên ngoài được tận mắt thấy cảnh VC giam giữ và đối xử với cha Lý ra sao. Nhưng vẫn có những tin tức không biết từ đâu úp mở xì ra rằng cha Lý là một thứ tù cha. Ngài được ở riêng một phòng rộng rãi tươm tất, tiện nghi cần thiết không thiếu, hàng ngày được cơm bưng nước rót, thỉnh thoảng còn được cán bộ cao cấp từ trung ương về tận trại thăm nom. Sự thể xem ra muốn nói lên tính vô cùng nhân đạo của chế độ dành cho một tội nhân được mô tả là cực kỳ phản động như cha Lý. Màn trình diễn hoa lá cành này nếu có thực, là một điệp khúc quen thuộc CS hát đi hát lại không biết chán, và cũng chính nó phô bầy cái dã tâm bẩn thỉu và đê hèn nhất xưa nay của CS. Dùng thuật ngữ nhà nghề để diễn tả sự kiện này thì đây là một màn biểu diễn nghệ thuật chặt đầu phạm nhân một cách tuyệt đối điêu luyện và đẹp mắt nhất.

Nguyễn Du viết chữ trinh kia cũng có ba bẩy đường. Trinh còn có những ba bẩy đường trinh, thì chặt đầu giết người có nhiều kiểu chặt khác nhau là điều dễ hiểụ Giết Lm Lý, CS áp dụng kiểu chặt đầu không thấy máu là kiểu chặt đẹp nhất, nghệ thuật nhất từ cổ chí kim trên thế gian này. Nếu đem so sánh với lối chém treo ngành, cũng là một nghệ thuật chặt đầu mà Nguyễn Tuân tả trong Vang Bóng Một Thời, thì kiểu chặt tân kỳ ngày nay còn hơn hẳn. Lối chặt này, đầu không rơi, không có máu, nhưng nhất định chết, chết thật sự, chết vì không còn gì đáng để mà sống nữa: không mặt mũi, không danh dự, không nhân phẩm, không tất cả, không gì hết. Nếu như bình thường, chỉ một lưỡi gươm đưa để kết liễu cuộc đời của cha Lý thì VC qủa đã dễ dãi cho ngài qúa rồi. Lại còn có thể sinh hại cho chúng nữa, vì như thế tự nhiên ngài sẽ được phong thánh trong lòng mọi người. Trường hợp đức cố TGM Nguyễn Kim Điền đã dậy cho VC một bài học kinh nghiệm.

ĐÃ MỘT LẦN TƯỞNG CHẾT

Nhìn lại qúa khứ một chút, người ta thấy CS đã có lần toan tính chặt đầu cha Lý kiểu này, nhưng chúng đã không thành công. Một thời gian ngắn trước khi cha Nguyễn Văn Lý bị bắt, VC đã tung ra rất nhiều tin xấu để triệt hạ danh dự và uy tín của ngài. Nói cách khác, để giết chết ngài về mặt tinh thần. Nào là cha Lý có 5 vợ và một đống con. Nào là vì tình trạng vợ con đùm đề như thế, nên cha Lý phải liều dựng nên phong trào đòi tự do tôn giáo làm kế sinh nhai hầu moi được dollar từ hải ngoại. Những loại tin tức quái dị đó lập tức bị dư luận bác bỏ ngay. Chẳng ai tin. Thế là CS thất bại. Điều tệ hại và ô danh cho GHCGVN là tin VC tung ra để hại cha Lý lại từ chính cửa miệng một số chức sắc trong GH loan truyền. Người ta không tin vì hiển nhiên chuyện gì qúa lố thì dù là sự thật cũng sẽ trở thành điều gian trá. Một linh mục ăn vụng khéo léo lắm kiếm được một con đàn bà thôi thì cũng đã giỏi lắm rồi. Kiếm đâu ra tiền để nuôi? Lại phải khổ công dấu đút y như mèo dấu cứt chứ làm sao công khai được. Phiền toái lắm chứ không phải chơi. Cha Lý có đến những 5 bà vợ thế mà không ai biết cho mãi đến khi VC khui ra. Cha Lý quả thật tài tình và xuất sắc hơn người. Thử hỏi nếu là chuyện thật VC tử tế gì mà không phổ biến luôn cả tên, tuổi, địa chỉ, số phone của các bà cho bàn dân thiên hạ kiểm chứng ? Thế là lòi cái đuôi Vẹm ra. Cái lối giết người không dao này chỉ có bọn VC ngu si và hèn hạ mới đủ sức nghĩ ra. Người đàng hoàng và ngay thẳng quyết không thể tưởng tượng ra nổi. Chúng quên mất hình ảnh một Lm Nguyễn Văn Lý cao cả và sáng ngời vào những ngày cuối tháng 4-1975. Trong lúc đồng bào miền Nam, kể cả một số linh mục, chạy như vịt từ Huế vô Nam để trốn tránh CS, một số nhanh chân nhẩy xuống tầu vượt biên. Chỉ có một người duy nhất cũng chạy, nhưng chạy ngược chiều lằn đạn của VC từ Saigon ra Huế. Người đó là ai, và ông chạy ra Huế để làm gì? Hẳn mọi người đã biết rồi. Con người kỳ lạ và dũng cảm này chính là Lm Nguyễn Văn Lý. Cha Lý chạy ngược ra Huế như thế để kiếm đàn bà, kiếm dollar chăng? Thưa không. Cha đã một mình đơn độc chạy về bên cạnh đức TGM Nguyễn Kim Điền để nghiêng vai cùng đức cha Điền chống đỡ con thuyền giáo phận Huế trong cơn hấp hối của Tổ Quốc và của Giáo Hội. Một con người tuyệt vời và sáng chói như thế lại hóa ra ngu si đần độn đến độ cứ nằm lỳ ở Huế với đám dân đen nheo nhóc để hủ hóa với những năm con mụ đàn bà như VC nói sao. Tại sao ngày trước cha Lý không như những người khác, nhân cơ hội nhẩy xuống tầu chạy sang Mỹ để kiếm dollar và kiếm đàn bà có phải khỏe re không?

BỔN CŨ SOẠN LẠI

Trí óc đen tối và bủn xỉn của bọn răng đen mã tấu không thể nào hiểu được cái lý lẽ cao sâu đó nên mới lại có chuyện nữa. Chuyện lần này là ba bức tâm thư nói là của cha Lý từ trong tù gởi ra.

Cha Lý ở tù được khoảng hai năm thì xẩy ra chuyện "Tâm Thư". Thoạt đầu là tâm thư gởi cho HDGMVN. Tiếp theo đó nữa là hai tâm thư khác, một gởi cho Quốc Hội Âu Châu, và một gởi cho Quốc Hội Hoa Kỳ. Tuy là ba lá thư nhưng nội dung đều na ná giống nhau. Tựu chung cha Lý phủ nhận chuyện VC đàn áp tôn giáo, xác nhận con đường xã hội chủ nghĩa tại VN là con đường đúng đắn và tốt đẹp nhất cho dân tộc, và cuối cùng kêu gọi HDGMVN chân thành hợp tác với bọn cầm quyền Hanoi, cũng như các chánh phủ tây phương giúp đỡ Vietnam phát triển. Nếu đem so sánh với các lời Kêu Gọi của cha Lý trước khi ngài bị bắt thì từ ngữ đúng nhất dùng để gọi các lá thư này là "THƯ ĐẦU HÀNG". Cha Lý đã đầu hàng CS? Sự đầu hàng này nếu là thật thì lại một lần nữa, loài người trên thế gian này được chứng kiến màn bi hài kịch tử tội của chế độ CS khi bị chém đầu vẫn còn hào hứng ca tụng "bác và đảng".

Nhưng chuyện đó ai tin? Nó chỉ có thể đúng, nói theo luật sư Nguyễn Văn Chức, chừng nào con chó đứng đái mà không ghếch lên một chiếc cẳng sau của nó. Chỉ cần một chút suy nghĩ thôi cũng đủ nhận ra Lm Nguyễn Văn Lý chẳng bao giờ đầu hàng CS nếu tình trạng tâm sinh lý của ngài không bị làm cho xáo trộn. Vậy mà sau khi NS Sam Brownback đi tham cha Lý từ nhà tù Ba Sao trở về, tức thì một vài cái loa tay sai của Vẹm ỏ Mỹ bô bô lên rằng cha Lý đã đầu hàng thật. Chúng còn ca tụng cha Lý là tuấn kiệt, người thức thời, khéo biết xoay chiều vừa khi vỡ mộng nhân danh chống cộng để mõi dollar từ hải ngoại. Thật là tởm ! Nhưng thôi hãy cứ để cho chó sủa mặc chó, còn những con người còn có đầu óc người, và còn mang trái tim người như chúng ta thì chẳng hơi đâu mà để ý đến những thứ tanh hôi lợm giọng đó. Không nghe bọn tôi tớ CS thì đúng rồi, nhưng cần thiết phải tìm ra chân lý của sự việc để đập vào mặt lũ quan thầy của chúng ở Hanoi kia.

LẬT TẨY LƯU MANH

Tìm ra được sự thật của vấn đề tức là đánh gục được cái mưu mô rất thâm độc này của CS. Việc làm trước hết là đưa ra được những lý chứng có sức thuyết phục để lật tẩy trò xảo thuật bịp bợm mà bọn ma đầu ở Hanoi đã dàn dựng nên.

Trước hết hãy xét vấn đề trên căn bản bản chất của con người. Câu hỏi đặt ra là một người như cha Lý có dễ dàng bị đánh gục không? Xin đưa ra trường hợp Lm Nguyễn Hữu Lễ để chứng minh là không. Cha Lễ bị giam tại nhiều trại giam ở miền Bắc. Trại Thanh Cẩm và nhất là trại Cổng Trời chắc chắn không khắc nghiệt, đói rét, dã man, độc ác, rừng rú và thú vật thua trại tù Ba Sao nơi cha Lý bị giam. Lm Lễ phải chịu đựng 11 năm trời tại các trại tù đó tất cả mọi sự đối xử dã man còn tệ hơn một con vật, bị cùm biệt giam năm này qua năm khác, bị đồng tù đánh đập đến chết đi sống lại, nhưng ngài vẫn đứng vững, và vẫn còn đứng ngẩng đầu hiên ngang cho đến ngày nay. Trong khi cha Lý được biết là một con người có khí phách, can đảm, kiên cường, lại đã công khai nêu lên một lý tưởng để phục vụ, mới bị nhốt có hơn hai năm trong một nhà tù được mô tả là tương đối thoải mái, thế mà đã chịu cúi đầu khuất phục ? Sao mà dễ dàng đến thế? Những điều kiện giam giữ cha Lý không biết thực sự ra sao, nhưng khẳng định dù có khắc nghiệt đi mấy cũng không hơn tại các nhà tù Thanh Cẩm và nhất là trại Cổng Trờị Trong điều kiện đó cha Lễ vẫn kiên cường trụ được. Không lẽ cha Lý chịu ngã gục trong những điều kiện còn dễ thở hơn ở Ba Sao. Nhà soạn kịch người Pháp Pierre Corneille nói: "Qui ne craint point la mort, ne craint point les menaces." Xin tạm dịch là: Kẻ không coi cái chết ra gì thì cũng coi những đe dọa như pha. Câu kết luận ở đây là trong tình trạng bình thường, cha Lý sẽ không bao giờ đầu hàng VC. Còn trong tình trạng bất bình thường như người viết sẽ trình bầy sau, thì sự việc Lm Nguyễn Văn Lý đầu hàng CS phải được coi là hoàn toàn vô giá trị, vì:

1/ hoặc cha Lý không còn đủ trí khôn minh mẫn để quyết định việc mình làm. Do đó hành động coi là đầu hàng này vô gía trị theo lý lẽ thông thường, và cả trên bình diện pháp lý nữa.

2/ cha Lý đã tiên đoán có sự việc này xẩy ra, nên ngài đã khôn ngoan tự phủ nhận việc làm này của mình trước khi ngài bị bắt. Thật vậy, ngày 19-3-01 cha Lý đã viết và công bố như sau: "Tôi tuyên bố rằng: nếu sau này tôi bị công sản VN bắt, tôi có viết hoặc nói điều gì mâu thuẫn lại tuyên ngôn 10 điều ngày 24-11-2000, 9 lời kêu gọi của tôi, Tuyên bố chung với Ban Liên Tôn đòi tự do tôn giáo cho tất cả các tôn giáo tại VN, lời chứng cuộc tử đạo của đức cố TGM Philipphe Nguyễn Kim Điền, lời chứng trước UBTDTG quốc tế của chính phủ Mỹ ngày 13-02-2001 của tôi, thì chỉ là do thủ đoạn gian dối của công sản VN mà thôi.".

Như vậy chỉ còn một cách giải thích là trong sự việc có vấn đề. Vấn đề ở đây là VC đã bằng một cách thức nào đó, nhân tạo hay khoa học, biến đổi cha Lý thành một con người khác. Nói rõ chẳng cần úp mở là chúng đã biến Lm Lý thành một con người mất trí để sai khiến. Tình trạng tâm trí này tiếng anh mà phái đoàn NS Sam Brownback dùng để mô tả là "Confused", tạm gọi là lú lẫn. Không phải đợi đến khi NS Sam Brownback đến Ba Sao mới khám phá ra cha Lý bị lú lẫn. Chuyện này đã được người cháu cha Lý là anh Nguyễn Văn Dũng báo động từ lâu rồị Lm Trần Xuân Tâm, người tháp tùng phái đoàn NS Sam Brownback đi Vietnam, đã gặp anh Dũng và tường thuật rất đầy đủ và chi tiết việc cha Lý lú lẫn ra sao sau khi cha Tâm từ Vietnam trở lại Hoa Kỳ.

CHÚNG MUỐN GÌ ?

Tin tức về phái đoàn của NS Brownback đến thăm trại tù Ba Sao và gặp Lm Nguyễn Văn Lý được tường thuật tương đối sơ sài, và để hở ra khá nhiều chi tiết cho thấy đây là một cuộc dàn dựng có dụng ý. Thật vậy, cái dụng ý thật rõ ràng của VC là chúng muốn có một Lm Nguyễn Văn Lý bằng xương bằng thịt hẳn hoi tự tay trao cho một NS Mỹ những bức tâm thư do chính cha Lý viết. Để làm gì? Thưa là để đánh tan những nghi hoặc, hoặc phủ nhận những tranh luận cho rằng những tâm thư kia là giả mạọ Đồng thời cũng là để chứng tỏ rằng Lm Nguyễn Văn Lý đã thực sự phản tỉnh quay về với VC. Bọn lưu manh đã gian nhưng lại không ngoan. Chúng để lộ ra qúa nhiều sơ hở. Chỉ cần một chút tinh ý thôi người ta sẽ thấy rõ sự vụng về của chúng. Trong khi trao các tâm thư cho NS Brownback, cha Lý đã nhiều lần nhất định phải đòi cho bằng được tự tay viết chữ trên chiếc phong bì có đựng thư. Để làm gì, nếu không phải là muốn nhắn gởi rằng tuồng chữ trên phong bì và trên các lá thư là do một người viết, mà người đó chính là Lm Tadeo Nguyễn Văn Lý. Trước đây khi những tâm thư nói là của cha Lý được tung ra thì chẳng ai tin đó là thư do cha Lý viết thật. Mọi người đều tìm đủ mọi lý lẽ và bằng chứng chứng minh rằng các lá thư đó đều là thư gỉa, vì cho rằng chữ đó không phải là chữ của cha Lý viết. Nay VC muốn đưa ra bằng chứng cụ thể để phủ nhận sự phủ nhận của dư luận trước đây. Nhận xét thứ hai là việc cha Lý cũng nằng nặc đòi chụp hình với phái đoàn NS Sam Brownback. Tại sao? Vì nếu báo chí chỉ tường thuật việc trao thư mà không có hình ảnh đi kèm để chứng minh, thì chắc chắn sẽ lại sinh nghi ngờ và gây ra tranh cãi. Nên cha Lý mới nhất định đòi cho bằng được chụp hình với phái đoàn để làm "kỷ niệm". Tóm lại VC muốn trình bầy với dư luận rằng Lm Nguyễn Văn Lý đã thật sự phản tỉnh, và các tâm thư là của cha Lý thật, do chính tay cha Lý viết. Nội dung tâm thư đúng là ý của cha Lý, một người trước kia đã từng quyết tâm sống chết với VC viết ra.

Qua màn trình diễn ngoạn mục này, VC muốn chứng minh với thế giới là đường lối cai trị của Hanoi là đúng. Đối tượng của màn trình diễn không hẳn là đồng bào Vietnam kể cả trong cũng như ngoài nước, mà là dư luận các nước phương Tây và Hoa Kỳ. Nhất là Hoa Kỳ, đã từ lâu, người ta thấy VC vận dụng đủ mọi nỗ lực và bằng tất cả mọi phương cách, với đủ mọi gía để mong giết chết hai dự luật nhân quyền HR150 và dự luật tự do tôn giáo HR427 đang nằm trên bàn của Thượng Viện Mỹ. Hai dự luật này có người ví như cái lưỡi gươm Damocles lúc nào cũng treo lơ lửng trên cổ thằng VC. Chỉ chờ sơ sẩy một chút thôi là cái đầu tên lưu manh chó má này sẽ đi đoong. Cho nên bọn Hanoi rất sợ. Cuối cùng, bọn lưu manh này phải vận dụng đến bàn tay của cha Lý giúp qua những lá tâm thư. Nhưng trước nguy cơ bị thất bại, VC mới nghĩ ra kế sách dàn dựng cuộc gặp mặt "Nguyễn Văn Lý / Sam Brownback". Nếu cho rằng đây chỉ là một sự suy đoán, thì thực tế Vietnam đang trả lời cho sự suy đoán này. Thật vậy, trong bối cảnh Vietnam hiện nay, vấn đề xấu gây ấn tượng nhất đối với thế giới là vấn đề đàn áp tôn giáo. Vietnam thường được kể là có 5 tôn giáo lớn. Chính sách VC áp dụng để nắm đầu các tôn giáo này hoàn toàn khác nhau. Cao Đài và Hòa Hảo là hai tôn giáo quốc gia (chỉ có tại Vietnam), vừa ít tín đồ lại vừa không có ảnh hưởng quốc tế, nên đã bị VC khống chế hầu như hoàn toàn. Tin Lành tuy có nhiều ảnh hưởng tại Hoa Kỳ, nhưng bởi vì phân ra nhiều phe phái nên VC dùng chính sách chia cắt để tiêu diệt. Phật giáo có nhiều tín đồ nhất, nhưng vì thiếu tổ chức nên VC áp dụng một phương pháp triệt hạ hết sức tinh vi và cũng là để dễ lừa bịp thế giới. Đó là chúng cố tình biến cuộc tranh đấu đòi tự do tôn giáo của Phật giáo thành cuộc tranh chấp nội bộ giữa các phe phái trong Phật giáo. Cuối cùng chỉ còn khối tín đồ công giáo là lực lượng mà VC e dè nhất, vì công giáo tổ chức còn tương đối vững, hơn nữa lại có nhiều hậu thuẫn quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay công giáo chỉ là một con hùm ngủ vì lãnh đạo qúa yếu kém và thụ động. Hơn nữa một số đã bị khuất phục. Trong công giáo hầu như chỉ còn có Lm Nguyễn Văn Lý là một trở ngại đáng kể đối với bọn đầu sỏ Hanoi, vì thế VC không thể nào không diệt cha Lý. Chúng diệt ngài trước hết bằng cách đầu độc để thuần hóa ngài, rồi dùng ngài để vận động dư luận thế giới. Như thế đối với VC không phải là thượng sách lắm sao?

CHA LÝ GỈA ?

Chuyện cha Lý lú lẫn hiện nay đã là sự thật. Một câu hỏi rất quan trọng được dặt ra ở đây là tại sao VC lại để cho một Lm Lý lú lẫn được phép gặp phái đoàn của một nghị sỹ Mỹ? Chúng không sợ cha Lý nói bậy nói bạ với người Mỹ sao? Chuyện thật khó hiểu nhưng mà không phải là không thể hiểu nổi nếu người ta biết thế nào là VC.

Đã biết được VC muốn gì trong việc chúng dàn đụng để phái đoàn NS Sam Brownback gặp Lm Nguyễn Văn Lý thì việc tìm ra câu trả lời cho vấn nạn trên là chuyện dễ dàng. Tuy nhiên trước khi đưa ra câu trả lời, người viết cần thiết nêu lên một câu hỏi phụ để soi sáng thêm vấn đề. Câu hỏi phụ đó là thật sự có một sự dàn dựng cuộc gặp gỡ Lm Lý/Brownback không? Người viết không có điều kiện tìm ra bàn tay kẻ đạo diễn, nhưng xin trả lời ngay là CÓ. Bởi vì theo lý luận thì phàm muốn có được cái gì ắt phải tìm điều kiện hay cơ hội để có nó. Không có cái gì từ trên trời rơi xuống cho ai cả. Như đã nói trên, VC muốn cha Lý chính tay trao những tâm thư ngài viết cho một đại diện của Quốc Hội Hoa Kỳ. Vậy tất nhiên chúng phải tạo ra cuộc tiếp xúc để thực hiện ý định này. Đó mới là lý luận, còn có những bằng chứng chứng minh sự xác quyết trên. Một là bằng chứng từ các lá tâm thự Những thư này không phải vô tình nằm sẵn trong tay cha Lý, mà là VC đã photocopy cho cha Lý từ trước với mục đích là chờ người đến để trao thự Và hai là cung cách chúng dàn dựng để tạo ra cuộc tiếp xúc này. Sự thể là có rất nhiều nhà tranh đấu trong nước xác nhận rằng VC đã bao vây và ngăn cản các vị này tiếp xúc với phái đoàn NS Brownback. Những nhà tranh đấu còn ở ngoài nhà tù thì bị ngăn cản. Vậy tại sao Lm Lý, một người đang nằm trong nhà tù lại được VC dễ dãi cho gặp phái đoàn? Cũng dễ hiểu thôi. Thật ra lúc đầu VC cũng làm bộ khó khăn một chút, rồi sau mới cho NS Brownback gặp cha Lý. Nhưng đó chẳng qua chỉ là lối ứng xử của một con đĩ thập thành õng ẹo làm dáng "em chả, em chả" trước mặt một chàng trai con nhà lành đến tán tỉnh mà thôi. Đến đây thì người viết đã có thể trả lời cho câu hỏi chính ở trên. Câu trả lời đó là rất có thể cha Lý gặp NS Sam Brownback là một Lm Nguyễn Văn Lý gỉa.

Gỉa dạng một người khác tuyệt đối không phải là chuyện khó, nhất là trong nghề tình báo hiện naỵ Chúng ta hẳn nhớ trước đây báo chí đưa tin có đến cả hàng chục Sadam Hussein gỉa khác nhaụ Ngay khi quân đội Mỹ tấn công vào Iraq, trong những buổi họp hội đồng nội các của chánh phủ Iraq, và ngay trước ống kính của những con mắt cú vọ của các nhà báo ngoại quốc, họ cũng không phân biệt nổi Sadam nào là Sadam thật, và Sadam nào là Sadam gỉa. Iraq còn biết làm gỉa người, tại sao VC tên chúa bịp lại không? VC đã làm gỉa người từ lâu lắm rồị Người viết được nghe kể lại, hồi sau cái gọi là cách mạng mùa thu 1945, VC đã cho người gỉa dạng Hồ Chí Minh xuất hiện tại nhiều nơị Chuyện xẩy ra ngay tại huyện lỵ Duyên Hà, gần quê hương của người viết. Chính người đóng vai HCM gỉa này trong chỗ riêng tư đã bộc lộ sự việc. Nhiều chứng nhân lớn tuổi hiện còn sống kể lại cho con cháu nghẹ HCM gỉa này chỉ là một nông dân chất phác, một người đàng hoàng, đóng gỉa vai trò HCM chỉ vì bị bắt buộc. Ông cũng phải chạy giặc Hồ thiệt, và chẳng may chết tại đảo Guam vì bệnh tetanus, hiện có người con trai đang làm bác sĩ tại Los Angeles.

RỚT MẶT NẠ

Có đầy dẫy chứng cớ khả tín chứng minh rằng cha Lý gặp NS Sam Brownback là một linh mục Nguyễn Văn Lý gỉa. Mấy người Mỹ trong phái đoàn Brownback và cha Lý là những người hoàn toàn xa lạ nhau, chưa hề gặp nhau bao giờ. Một người nào đó có gương mặt hao hao giống cha Lý, mặc áo dòng đen bước ra trình diện phái đoàn thì làm sao đám người khù khờ này dám không tin đó là Lm Nguyễn Văn Lý thật? Nếu những tấm hình "kỷ niệm" được phổ biến trên báo chí lại do nguồn công an VC cung cấp nữa, thì mọi người càng có quyền tin rằng Lm Lý này chắc chắn là cha Lý gỉa. Nếu có ai còn hồ nghi thì xin hãy nghe linh mục Nguyễn Hữu Lễ chứng minh dùm cho người viết: "Cũng nhớ lần tôi đọc thấy trong báo Quân Đội Nhân Dân, đăng bức hình của ông Nguyễn Cao Kỳ mang kính đen, đang chen chúc giữa đám đông cố ôm càng máy bay trực thăng ở tòa Đại Sứ Mỹ để di tản khỏi Saigon trong một ngày cuối tháng tư năm 1975. Tôi không biết đây là hình thật hay người ta dùng kỹ thuật ghép hình để cố ý bêu xấu ông. Bên dưới tấm hình in những lời lẽ có tính cách sỉ nhục ông Kỳ khá nặng nề." (trích Bút ký Tôi Phải Sống của Lm Nguyễn Hữu Lễ trang 538). Ở đây người viết xin được đặt ra ngoài đề chuyện ông Nguyễn Cao Kỳ có đáng bị xỉ nhục hay không, nhưng việc ông Kỳ ôm càng trực thăng để di tản là chuyện hoàn toàn bịa đặt. Chỉ có đầu óc loài bò mới có thể nghĩ ra những chuyện bịp đại loại như thế. Từ đó suy ra hình cha Lý chụp đứng bên cạnh Sam Brownback được VC tung ra công khai lại là hình cha Lý thật đúng hiệu con nai vàng. Việc ghép hình này nói lên tính gian trá trong nghề tuyên truyền bịp của VC. Mặt khác, hành động VC gạt sự hiện diện của cha Trần Xuân Tâm, một linh mục VN phục vụ tại Hoa Kỳ, có tinh thần chống cộng rất kiên quyết, ra ngoài cuộc tiếp xúc với cha Lý để tránh sự xui rủi trò bịp bị đổ bể, lại càng củng cố quan điểm của người viết hơn. Điểm nữa là tên VC gỉa cha Lý chắc chắn mù tịt tiếng anh, bởi vì cha Lý thật là một con người lịch duyệt và khá thông thạo tiếng anh, không lẽ ngài lại kém lịch sự đến độ không thèm chào NS Brownback được một câu "Good morning"? Thái độ không thèm nói tiếng ngoại quốc này của tên công an gỉa cha Lý lại là cái tẩy để hắn tự lột mặt nạ hắn. Cuối cùng, một chi tiết nhỏ nhưng lại rất quan trọng trong vai tuồng thật gỉa này. Đó là màn biểu diễn sự lú lẫn của cha Lý. Trên công luận, cháu cha Lý, anh Nguyễn Văn Dũng xác nhận cha Lý đã bị lú lẫn. Trên truyền thông, cha Trần Xuân Tâm đã tường thuật tình hình đó. Và trong dư luận, mọi người đã biết điều đó. Cho nên bắt buộc tuồng diễn phải phù hợp với thực tế, nghĩa là cha Lý gỉa phải biểu diễn một vài cử chỉ lú lẫn cho khách coị Tên VC gỉa dạng cha Lý đã tỏ ra thật xuất sắc biểu diễn màn kịch này khi hắn hỏi lại NS Brownback "Ông là ai", mặc dầu NS Brownback đã tự giới thiêu trước đó rồi. Lúc khác, hắn lại còn trả lời NS Brownback là hắn mơ hồ không biết mình bị bắt vì tội gì. Những chuyện lặt vặt này thì cha Lý làm ra lú lẫn nhưng việc chính là trao các tâm thư và muốn chứng minh các lá thư đó do chính mình viết, thì cha Lý lại tỏ ra chẳng lú lẫn tí nào. Thế là thế nàỏ Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Nếu cha Lý gỉa không đóng xuất sắc màn kịch lú lẫn này thì rõ ràng là công lao dàn dựng đổ sông đổ bể hết. Màn kịch rất kịch này muốn nói với mọi người rằng đúng là cha Lý có hơi lú lẫn một tí thật.

NGÀY VỀ CỦA CHA LÝ

Trên đây người viết đã lập luận và đưa ra chứng cớ chứng minh rằng CSVN nhất định phải tử hình Lm Nguyễn Văn Lý. Nhưng đó mới chỉ là màn đầu, chúng giết chết cha Lý về mặt tinh thần. Về mặt thể lý, xem chừng cũng có những nguy cơ cha Lý không thoát khỏi cái chết. Thật vậy, như trên người viết đã nói nếu dòng đời cứ phẳng lặng trôi, thì chỉ còn hơn 7 năm nữa, cha Lý sẽ được thả. Vấn đề là sau 7 năm, khi được thả, tình trạng tinh thần cha Lý sẽ ra sao, tỉnh táo hay lú lẫn? Nếu cha Lý được thả mà tinh thần vẫn tỉnh táo sáng suốt thì hẳn là ngài sẽ lại tiếp tục cuộc tranh đấu của ngài, bởi vì đó là lý tưởng. Ngài đã đem mạng sống ra mà thế chấp rồị Còn nếu cha Lý được thả mà tinh thần lú lẫn thì chuyện đó VC sẽ trả lời ra sao với dư luận? Không lẽ chúng chỉ nói xin lỗi thôi là xong? Cũng có thể như thế. Đường cùng thì CS thường làm như vậỵ HCM giết cả hàng trăm ngàn người vô tội trong cải cách ruộng đất. Khi thấy đã đi qúa trớn, sợ sinh loạn, hắn chỉ nói được câu xin lỗi rồi cũng huề cả làng. Cả hai trường hợp chắc chắn VC đều không muốn. Vậy chỉ còn cách là làm sao cho cha Lý về chầu Trời sớm là thượng sách. Biết đâu chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi cha Lý đã không còn gía trị lợi dụng nữa, VC sẽ thả cha Lý ra, nhưng thả trong tình trạng "Quan tha, ma bắt". Có thể là VC sẽ tặng không cho cha Lý một chứng bệnh hiểm nghèo nào đó đủ sức để đi chuyến tầu suốt, rồi chúng sẽ thả cha về. Tuy nhiên trên đường về, cha Lý sẽ chỉ kịp tạt qua nhà thăm anh chị và các cháu ngài, rồi sẽ đi thẳng về thiên đàng. VC muốn chứng minh đảng nhân đạo bèn la lối rằng tội phạm Nguyễn Văn Lý trong thời gian thụ án, đã tỏ ra biết ăn năn hối cải, đã học tập tốt, lao động tốt nên được đảng và nhà nước khoan hồng cho về sớm. Thế là xong việc.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất