Saturday, January 31, 2009

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


Vô cùng thương tiếc:
Anh Thomas Trần Văn Trọng
(Thi Sĩ Trần Việt Yên)
Một chiến sĩ dân chủ kiên cường
đã được Chúa gọi về
ngày 26 tháng 1 năm 2009
(tức mồng 1 năm Kỷ Sửu)

Thành kính phân ưu cùng tang quyến, và nguyện cầu cho linh hồn chiến hữu Thomas sớm về cõi Thiên Đàng trong nước Chúa.


http://www.blogger.com/profile/04107701539821903195

Tiểu sử:
Trần Việt Yên.
Sinh quán: làng Trung Lai, Huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang. * Lấy sinh quán Việt Yên làm bút danh. Cựu giáo chức. * Cựu Sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị /QLVNCH. * Tù Cộng sản 6 năm rưỡi. * Định cư Hoa Kỳ năm 1995 . * Sáng lập mục “Thơ Đâm” trên tuần báo Quê Hương, San Jose. Hoa Kỳ (1997 - 1999). * Sáng lập, biên tập viên chương trình phát thanh Lương Tâm Công Giáo. Hoa kỳ (2001 - 2006 ). * Thành viên uỷ nhiệm điều hành trang mạng: Http://www.tdngonluan.com * Biên tập Viên Chương trình phát thanh Tự Do dân Chủ, yểm trợ khối 8406 ( 7/2007 đến nay) * Tổng thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương.



Sunday, January 25, 2009

Trận Chiến Khe Sanh - Linh Vũ


Linh Vũ

Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như những diễn đàn đều có post bài dịễn văn nhậm chức của Tổng Thống Barack Hussein Obama thứ 44 của Hoa Kỳ trong đó ông đã nhắc đến điạ danh "Khe Sanh" vùng cực Bắc Nam Việt. Địa danh Khe Sanh không chỉ có những người lính của hai miền Nam Bắc Việt Nam biết đến mà hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở VN đều không thể quên được trong suốt hơn 42 năm qua. Trận chiến Khe Sanh một trong những trận chiến lớn nhất thế giới ngang tầm vóc với các trận như Concord, Gettyburg và Normandy. Một điạ danh nơi đèo heo hút gió đã viết đậm nét trong trang quân sử Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH.

Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải nhắc đến và người Việt chúng ta khi nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi xúc động. Và trong những bài dịch, một số dịch gỉa không biết vô tình hay cố ý đã bỏ sót điạ danh ‘ Khe Sanh’ đã làm cho nhiều người trong cộng đồng bất mãn. Sau đây tôi xin mượn bài viết của Phạm Cường Lễ ‘ Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968’ để chúng ta nhìn lại trang sử Việt và cho những ai chưa từng biết Khe Sanh là gì có cơ hội tìm hiểu Khe Sanh như thế nào?

1. Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám

KHE SANH ... một địa danh đèo heo hút gió ở vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về phía Đông của vương quốc Làọ Nếu không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi đây có thể sẽ được kể là một trong những gì đẹp nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5 năm 1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này bắt đầu bị giao động. Năm đó, bộ đội Bắc Việt thiết lập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh để khởi động công cuộc xâm lăng miền Nam . Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay tiền đồn. Nhưng vì nằm gần biên giới và giáp ranh Đường Số 9 --trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt, Lào-- nên Khe Sanh đã nghiễm nhiên trở thành một trong những cứ điểm quan trọng nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam.

Đến 1967, các hoạt động của Cộng quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe Sanh để trở thành một tiền đồn kiên cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào, cạnh bên Quốc Lộ 9, án ngữ cửa ngõ xâm nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị. Khi Hoa Kỳ tăng cường lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh, tướng Võ Nguyên Giáp của Bắc Việt đã có kế hoạch bao vây để biến nơi này thành Điện Biên Phủ của người Mỹ.

Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng nhất nhì thế giới. Nhưng đó chẳng phải vì nổi tiếng qua phong cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành nhất, hoặc có du khách ngoại quốc đến thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đã nổi tiếng vì có nhiều trận đánh lớn xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968.

Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám là thời điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng 200 tay súng Biệt Đong Quân miền Nam. Nhưng Khe Sanh đã chẳng thất thủ. Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất.

Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp, Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng ở tỉnh Quảng Trị. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt.

Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10,000 đến 13,000 cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr.130). Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ. Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị thương. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương binh (Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-75, tr.175).

MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967

Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4.2 inch. Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3.5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó.

Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861. Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo quân số về vùng này. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh.

Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3") TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường. Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ.

Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881. Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ngon đồi 861, 881-Bắc, và 881-Nam.

Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh, thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3. Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ. Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng.

Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động. Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh. Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ. Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh. Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng quanh vùng nàỵ

TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968

Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản. Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân. Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng này. Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số.

Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam (Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam. Xem bản đồ). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại đội trưởng Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 ly.

Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động giữ dộị Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véọ Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứu.

Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ. Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng. Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.

Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabney đã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe Sanh Veterans Home Page, Time Line).

Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy rạ Lúc 2 giờ chiều, một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu thú. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.

Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng, lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861. Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích rồi nổ tan. Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồị Nhưng Đại Đội K/3/26蠄уàbiết trước. Họ gờm súng c hờ đợị Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ tử trận.

Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng "depart" từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưạ Những hạt mưa to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 lỵ

Khi quả đạnh đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống hầm. Một số khác co lại trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm theo tiếng nổ của đạn pháo binh. Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lo trong căn cứ với 1,500 tấn đã phát nổ tan tành. Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, bị rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh.

Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa qua.

Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn, đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa. Trách nhiệm của họ là tạo vòng đai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh.

CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN CHIẾN TẠI KHE SANH

20 tháng 1 Đụng độ mạnh giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội Bắc Việt trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy Bắc Việt ra đầu thú và đã cho biết kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn cứ Khe Sanh.

21 tháng 1 Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn trong căn cứ nổ tung, phi đạo bị hư hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy lưi cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt.

22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ.

26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe Sanh. Đây là lực lượng tăng viện sau cùng trong khoảng thời gian căn cứ bị bao vâỵ

30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xã bị tấn công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất.

6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Ngày hôm sau, Làng Vei thất thủ.

9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134 xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử thương.

11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì trúng đạn pháo kích. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đ à Nẵng bình an.

21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào vòng đai phòng thủ tại khu vực hướng Đông ở Khe Sanh. Nhưng không chọc thủng được bức tường phòng thủ kiên cố của Biệt Động Quân VNCH.

Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường độ pháo kích của Cộng quân tại Khe Sanh quá ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất là móc các kiện hàng vào những cánh dù rồi thả xuống từ các vận tải cơ trên vòm trờị

23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo kéo dài 8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người khác bị thương.

29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở cuộc tấn công ác liệt vào vòng đai phòng thủ ở phía Đông căn cứ, nhưng gặp phải mức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quâ n. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân bị đẩy luị Họ để lại 70 xác chết trên trận địạ

1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân PEGASUS (của quân đội Mỹ) và LAM SƠN 207 (của quân đội VNCH) được tiến hành. Chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa.

Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600 bị thương, Việt Nam Cộng Hòa: 34 tử thương, 184 bị thương, Cộng Sản Bắc Việt: 10,000 đến 13,000 tử thương.

Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 ly. Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đoi chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll.

Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém. Tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài ra, ông còn có thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau:

Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc của Đồi 881 Bắc
Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng quân về phía Tây Nam của Khe Sanh
Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang có mặt ở gần vùng phi quân sự, cách Khe Sanh 15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc
Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía Bắc của căn cứ hỏ a lực Rock Pile
Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh
Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa (thường được gọi là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại những thành phố lớn, các đơn vị Việt Cộng cố các trận đánh lớn để gây tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, tình hình tương đối yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh chỉ kéo dài được 6 ngày.

Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên đồi 861A. Một tiểu đoàn Việt Cộng (thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc tấn công. Địch quân chiếm một phần tại vòng đai phía Bắc trong khu vực trách nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau đó, Bắc quân bị đánh bật trở ra trong một cuộ c phản công quyết liệt của các binh sĩ Cọp Biển. Tổng kết trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía bên kia Cộng quân thiệt mất 109 cán binh (Khe Sanh Veterans Home Page: Time Line).

Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Quân Bắc Việt có cả chiến xa PT-76. Và đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp Bắc Việt trực tiếp lâm chiến tại miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho Cộng Sản miền Bắc, các xe PT-76 chạy trên xích sắt, được trang bị nòng súng 76 ly, và có khả năng lội nước. Tuy vỏ bọc bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ cứng của thép cũng đủ để ngăn chận các loại đạn trung liên từ 7.62 ly trở xuốn g.

Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng quân dẫn đầu. Theo sau là một tiểu đoàn bộ đội yểm trợ. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới quyền điều động của Sư Đoàn 304. Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị tiêu diệt, nhưng quân trú phòng không ngăn nổi trận biển người của đối phương. Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong số 24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ.

Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Trong tình huống nguy cập, các binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm trợ. Không chút chậm trễ, các khau đại bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi 64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC khác được lệnh phải đến tiếp viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.

Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn cứ Khe Sanh lại bị tấn công. Lần này, một đại đội địch quân gây áp lực tại phòng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Trận này kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ

Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loai đã được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart: Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.

Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hãm Khe Sanh chợt bùng nổ với một trận bộ chiến sau cùng. Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của các binh sĩ Biệt Động Quân VNCH.

Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường, và sau ba lần trận biển-người xung phong, tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá được phòng tuyến thép của lính "rằn ri". Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấu. Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới kha i hỏa.

Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng. Súng trường M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet). Lựu đạn đeo ở bụng, trước ngực, hoặc choàng vai. Băng đạn sát bên người, ở hông và đầy trong túi. Khi Bắc quân tấn công, tiểu đoàn Biệt Động Quân chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng rào kiểm điểm tình hình. Họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địa.

Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: "Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất đưoc nhắm vào vòng đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân), lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt bên ngoài. Bảy mươi (70) xác chết của họ vì vậy đã được xem như như một công cuộc bại thảm nặng nề."

Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75": ".. .[Tướng] Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn vị thiện chiến rất giỏi".

Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt đầu. Cuộc hành quân mệnh danh "PEGASUS" (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam. Trục tiến quân giải tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9.

Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa. Giấc mộng tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm.

Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.

Nhưng lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.

Linh Vũ Jan 24, 2009

Nhà thơ TRẦN VIỆT YÊN bị “stroke” và rơi vào hôn mê

    Tin buồn văn nghệ cuối năm:
    Nhà thơ TRẦN VIỆT YÊN bị “stroke” và rơi vào hôn mê
Cali Today News Jan 23, 2009 - Anh Trần văn Trọng (tức nhà thơ Trần Việt Yên) hiện là Tổng Thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương, bị tai biến mạch máu não từ 9 giờ đêm 18-1-2009. Hiện anh Yên đang được điều trị tại REGIONAL MEDICAL CENTER OF SAN JOSE, 225 N. Jackson Avenue, San Jose , CA 95116 .

Bệnh tình rất trầm trọng vì bị đứt mạch máu não. Máu chảy tràn trong óc, phải khoan sọ hút máu ra, dung tích đến 3 bịch nylon IV. Anh Yên đã bị hôn mê 6 ngày kể từ lúc 9 giờ đêm 18-1 đến hôm nay 23-1-2009.

Anh Trần Việt Yên nguyên là Sỹ Quan Tâm Lý Chiến QLVNCH, với 6 năm rưỡi bị Việt Cộng cầm tù trong các Trại Tù Cải tạo. Hoàn cảnh của anh Yên cũng như tuyệt đại đa số các tù nhân cải tạo khác, đã chịu nhiều thống khổ, lắm nhục hình. Thân xác tiều tụy, sức khỏe hao mòn vì bị bỏ đói triền miên. Nhiều loại bệnh tật đã phát sinh và tồn tại trong cơ thể bị tàn phá cho đến ngày được trả tự do.

Một năm sau đó, vợ chính thức của anh đã từ trần để lại cho anh 2 con trai vị thành niên còn đang đi học. Theo chương trình HO, cha con anh đã tới Hoa Kỳ năm 1993. Chỉ 2 tháng sau, anh đã vừa đi học, vừa đi làm để kiếm tiền lo cho 2 đứa con nhỏ dại được tiếp tục học hành. Đồng thời anh cũng tích cực tự nguyện:

- Tham gia vào mọi công tác Cộng Đồng Bắc Cali.
- Vừa phải đi làm trong các hãng xưởng ban ngày, vừa phải thức đêm tự nguyện phụ trách phần kỹ thuật cho 2 Chương Trình Phát Thanh Lương Tâm Công Giáo và Tự Do Dân Chủ yểm trợ Khối 8406.
http://tranvietyen-website.blogspot.com/
- Thường xuyên tham gia các công tác văn học nghệ thuật trong vùng, sáng tác thơ văn tranh đấu không ngừng nghỉ.

Theo dư luận thì suốt ngày đêm, Anh Yên đã đầu tư quá nhiều sức lực vào công việc. Do đó, sức khỏe suy giảm nhanh, đưa đến việc bị tai biến mạch máu não trầm trọng như vậy.

Hiện nay, Anh Yên chỉ mới 63 tuổi, không có bất cứ một loại bảo hiểm nào. Mọi chi phí hàng tháng đều trông nhờ vào đồng lương khiêm tốn của một công nhân viên không chuyên nghiệp. Hoàn cảnh của anh Yên hiện quá neo đơn, bi đát, anh chỉ có :

- 1 bà vợ kế, thường xuyên bệnh hoạn.
- 2 con trai vị thành niên:
a. Một học ở Đại học bên Texas,
b. Một học ở Đại học ở San Diego
- 1 chị gái ở với gia đình chồng bên Texas.

Những thân nhân kể trên đã về San Jose thăm viếng anh Yên, nhưng đến Thứ Hai, ngày 26-01-2009, sẽ phải về nơi cư ngụ của họ để lo việc học hành và đi làm kiếm sống, chỉ còn người vợ bệnh hoạn duy nhất ở bên anh. Tình cảm thân thương đối với anh Việt Yên chỉ còn vài ngày nữa kể như là cạn kiệt. Ngoại trừ một số Thi Văn hữu và thân hữu hàng ngày đến bệnh viện thăm anh, thì việc chăm sóc sức khỏe cho anh, hoàn toàn phó thác cho Bệnh Viện lo liệu.

Trong tình huống vô cùng bi thương này, với tư cách là một trong những thi hữu rất gần gũi với Anh Yên, tôi chân thành ngỏ lời xin tất cả mọi Thi Văn Hũu và thân hữu khắp nơi hiệp thông dâng lời cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho anh Việt Yên sớm bình phục để anh lại phục vụ tha nhân như hàng chục năm trước đây anh đã thực hiện.

Mong lắm thay !!!
TRƯỜNG GIANG

Đôi dòng về Trần Việt Yên

Tiểu sử: Trần Việt Yên. * Sinh quán: làng Trung Lai, Huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang. * Lấy sinh quán Việt Yên làm bút danh. * Cựu giáo chức. * Cựu Sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị /QLVNCH. * Tù Cộng sản 6 năm rưỡi. * Định cư Hoa Kỳ năm 1995 . * Sáng lập mục “Thơ Đâm” trên tuần báo Quê Hương, San Jose. Hoa Kỳ (1997 - 1999). * Sáng lập, biên tập viên chương trình phát thanh Lương Tâm Công Giáo. Hoa kỳ (2001 - 2006 ). * Thành viên uỷ nhiệm điều hành trang mạng: http://www.tdngonluan.com/ * Biên tập Viên Chương trình phát thanh Tự Do dân Chủ, yểm trợ khối 8406 ( 7/2007 đến nay) * Tổng thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương

Friday, January 23, 2009

Nhận định của báo Mỹ về việc TT Obama nhắc đến trận Khe Sanh


Trích từ: VOANEWS
23/01/2009

Sau đây là một vài nhận định về ý nghĩa của việc ông Barack Obama nhắc đến trận Khe Sanh trong bài diễn văn nhậm chức của ông hôm thứ ba.

Tờ Chicago Truibune số hôm 22 tháng Giêng nêu bật sự kiện trận Khe Sanh của Việt Nam đã được đặt ngay bên cạnh các trận chiến oai hùng mà người Mỹ từng tham dự, đó là trận Concord thời kỳ cách mạng Mỹ, trận Gettysburg thời nội chiến Mỹ và trận Normandy thời Thế chiến Thứ hai.

Vụ bộ đội cộng sản bao vây Khe Sanh trong những tháng đầu năm 1968 là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Theo con số chính thức của chính phủ Hoa Kỳ công bố, trận chiến kéo dài 77 ngày và khoảng 200 binh sỹ Hoa Kỳ đã tử trận tại đây. Trận chiến này xảy ra hầu như đồng thời với vụ tổng tấn công Tết Mậu thân năm 1968 ở miền nam đã khiến cho dư luận Mỹ về cuộc chiến đổi chiều.

Ông Obama chỉ nhắc tới Khe Sanh trong một tích tắc ngắn ngủi, nhưng có lẽ được cả hàng triệu người Mỹ chú ý.

Trong số những người Mỹ này có một số từng tham chiến tại Việt Nam, một số từng chống đối cuộc chiến đó, và một số chỉ là những người nhớ lại một thời kỳ đau thương trong lịch sử Hoa Kỳ.

Trong việc nhắc đến trận Khe Sanh cùng với 3 trận chiến oai hùng khác cho tự do của người Mỹ, ông Obama hẳn muốn gửi gấm cái ý nghĩ rằng "Cuộc chiến gây chia rẽ chính trị cho người Mỹ đã qua từ hơn một thế hệ rồi. Điều mà nhân dân Mỹ nhớ đến, và trân trọng, là sự hy sinh của hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã bỏ mình và hàng chục ngàn người lính đã mang thương tích".

Đây là một nét chấm phá rất đẹp cho một bài diễn văn tinh tế kêu gọi người dân Mỹ hãy can đảm mà đối phó với những ngày, và những trận chiến đang chờ đợi trước mặt.

Có lẽ ông Obama nhắc tới địa danh Khe Sanh để tỏ lòng tôn kính người mà ông đã đánh bại trong cuộc tranh cử tổng thống, Thượng nghị sỹ John McCain, một tù binh trong chiến tranh Việt Nam với lòng can trường và khả năng chịu đựng khó có thể tưởng tượng, đã làm cho nhiều người dân Mỹ cảm phục.

Trong một bài báo khác trên tờ New York Times hôm thứ ba, thì trận Khe Sanh đã được ông Obama nhắc tới trong bài diễn văn nhậm chức là để vinh danh lòng can trường và sự hy sinh của các quân nhân Mỹ trong khi phục vụ cho lý tưởng tự do.


Bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Barack Obama

Lê Bích Sơn lược dịch

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đọc bài diễn văn nhậm chức tại Trụ Sở Quốc Hội ở thủ đô Washington ngày 20/1/2009.

Thưa quốc dân đồng bào,

Hôm nay tôi đứng đây với sự khiêm cung trước nhiệm vụ mà chúng ta phải đối phó, với lòng biết ơn về sự tin tưởng mà đồng bào đã dành cho tôi, và nghĩ đến những hy sinh mà các bậc tiền bối của chúng ta đã chịu đựng. Tôi cảm ơn Tổng thống Bush về sự phục vụ của ông cho đất nước chúng ta, cũng như lòng hào hiệp và tinh thần hợp tác mà ông đã chứng tỏ trong suốt quá trình chuyển tiếp.

Cho đến nay, đã có 44 người Mỹ đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. Những lời tuyên thệ này đã được đọc lên vào những thời kỳ đầy thịnh vượng và trong những thời hòa bình yên ổn. Tuy vậy, lời tuyên thệ này cũng vẫn thường được đọc lên trong những lúc thời gian đầy u ám và sóng gió. Vào những thời điểm như thế, nước Mỹ vẫn tiếp tục tiến bước không phải đơn giản chỉ vì tài năng và viễn kiến của những người nắm giữa các chức vụ cao, mà còn bởi vì Nhân dân Chúng ta tiếp tục trung thành với những lý tưởng của các bậc tiền bối, và trung thành với các văn kiện lập quốc.

Sự việc đã diễn ra như vậy. Và nó phải diễn ra như vậy với thế hệ người Mỹ hiện nay.

Sự kiện chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng là điều ai cũng hiểu rõ. Quốc gia chúng ta đang có chiến tranh, chống lại một mạng lưới rộng lớn của bạo lực và lòng thù hận. Nền kinh tế của chúng ta bị suy yếu trầm trọng, do hậu quả của lòng tham và sự thiếu trách nhiệm của một số người, nhưng cũng vì sự thất bại chung của chúng ta phải có những lựa chọn khó khăn và chuẩn bị đất nước cho một thời đại mới. Nhà cửa đã bị mất mát; công việc bị cắt giảm; cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Công tác chăm sóc sức khỏe quá tốn kém; trường học chúng ta làm nhiều người thất bại; và mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy rằng cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta làm cho kẻ địch của chúng ta mạnh thêm và đe dọa đến hành tinh của chúng ta.

Đây là những chỉ dấu của khủng hoảng, bằng vào số liệu thống kê. Có những chỉ dấu không đo lường nhưng cũng không kém phần sâu sắc là sự hủy hoại lòng tin trên khắp đất nước. Đó là mối sợ hãi canh cánh rằng sự suy thoái của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ kế tiếp phải hạ thấp kỳ vọng của mình.

Hôm nay, tôi xin nói với đồng bào rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Những thách thức này rất nhiều và nghiêm trọng. Những thách thức không thể được giải quyết một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nhưng nước Mỹ phải biết rằng, chúng sẽ được giải quyết.

Ngày hôm nay, chúng ta tề tựu ở đây bởi vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất về mục đích thay vì sự xung đột và bất hòa.

Ngày hôm nay, chúng ta đến đây để tuyên bố sự cáo chung của những lời than phiền nhỏ nhặt và những lời hứa hão huyền, những lời trách cứ và những giáo điều đã lỗi thời, đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá lâu.

Chúng ta vẫn là một đất nước trẻ trung nhưng như lời Thánh Kinh đã nói, đã đến lúc ta phải gạt qua một bên những điều ấu trĩ. Đã đến lúc chúng ta phải tái khẳng định tinh thần kiên trì; để chọn cho chúng ta một lịch sử tốt đẹp hơn; để tiếp tục phát huy tặng phẩm quý giá đó; tư tưởng cao cả đó, đã được truyền lại cho chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác: đó là lời hứa được Thượng Đế mặc khải là mọi người đều bình đẳng, mọi người đều tự do, đều xứng đáng có cơ hội mưu cầu hạnh phúc đầy đủ.

Trong khi tái khẳng định tính chất vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là một điều đương nhiên mà có được. Phải có công phu mới xây dựng được sự vĩ đại đó. Cuộc hành trình của chúng ta không hề là những lối đi tắt hay sự chấp nhận những điều bất cập. Đó không phải là một con đường cho những người thiếu can đảm, cho những người thích nhàn nhã hơn là lao động, hay những người mưu tìm sự vui thú của giầu sang và danh vọng. Thay vào đó, ấy là con đường của sự chấp nhận rủi ro, những người hành động, những người tạo ra thời thế, một số những người đó là những người nổi tiếng nhưng thường hơn đó những người, nam cũng như nữ, mà việc làm không được ai biết đến, những người đã đưa chúng ta tiến lên con đường dài, gập ghềnh tiến đến phồn vinh và tự do.

Đối với chúng ta, họ là những người đã gói ghém một ít của cải trần thế của và vượt qua những đại dương để đi tìm một cuộc sống mới.

Đối với chúng ta, họ đã lao động cực nhọc trong những cơ xưởng tối tăm và chinh phục miền Tây; chịu đựng roi vọt và cầy xới đất đai khô cứng.

Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh, ở những nơi như Concord và Gettysburg; ở Normandy và Khe Sanh. (*)

Những người đàn ông và phụ nữ này đã không ngừng tranh đấu và hy sinh và làm việc cho tới khi đôi tay của họ rướm máu để cho chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Họ đã nhận ra rằng nước Mỹ lớn hơn con số gộp chung của những tham vọng cá nhân, lớn hơn mọi sự khác biệt bắt nguồn từ bối cảnh gia đình, của cải hoặc phe nhóm.

Đây là hành trình mà ngày nay chúng ta tiếp tục theo đuổi. Đất nước chúng ta tiếp tục là quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên Trái đất. Sức sản xuất của công nhân của chúng ta không hề sút giảm so với thời kỳ trước khi vụ khủng hoảng này bắt đầu. Sự sáng tạo của trí óc của chúng ta không hề sút giảm, và hàng hóa và dịch vụ của chúng ta vẫn tiếp tục được cần tới in hệt như tuần trước, tháng trước, hoặc năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn không hề suy giảm. Nhưng thời đại mà chúng ta đứng yên trong tự mãn, bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và trì hoãn việc làm ra những quyết định khó khăn – thời đại đó quả thật đã qua rồi. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải tự mình đứng lên, phủi bụi trên người, và bắt đầu làm việc lại để xây dựng lại nước Mỹ.

Bất cứ chỗ nào chúng ta nhìn tới đều có những việc cần phải làm. Tình trạng của nền kinh tế đòi hỏi chúng ta hành động, hành động một cách quả quyết và nhanh chóng, và chúng ta sẽ hành động – không những để tạo ra công ăn việc làm mới, nhưng còn để xây dựng một nền tảng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng đường sá, cầu cống, mạng lưới tải điện và đường giây chuyển tải dữ liệu số để hỗ trợ cho công cuộc thương mại và nối kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục vị thế xứng đáng của khoa học, và áp dụng những điều kỳ diệu của kỹ thuật để nâng cao phẩm chất của công tác chăm sóc sức khỏe và giảm thiểu chi phí của công tác này. Chúng ta sẽ biến ánh sáng mặt trời, sức gió và đất đai thành năng lượng để chạy xe và vận hành nhà máy. Và chúng ta sẽ chuyển hóa trường học các cấp của mình để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể làm được tất cả những việc này. Và những việc này là tất cả những gì mà chúng ta sẽ làm.

Giờ đây, có một số người đặt nghi vấn về tầm vóc của những tham vọng của chúng ta, những người cho rằng hệ thống của chúng ta không có khả năng để thực hiện nhiều kế hoạch to lớn như vậy. Nhưng những người đó là những người có trí nhớ không mấy tốt. Vì họ đã quên mất những gì mà đất nước này đã làm; những gì mà những người đàn ông và phụ nữ tự do có thể đạt được khi óc tưởng tượng được kết hợp với một mục đích chung và nhu cầu của lòng dũng cảm.

Những gì mà những người có thái độ hoài nghi quá độ không thể hiểu được là mặt đất dưới chân họ đã chuyển dịch, là những sự tranh cãi chính trị vô bổ đã phí phạm năng lực của chúng ta quá lâu giờ đây không còn áp dụng nữa. Câu hỏi mà chúng ta nêu lên hôm nay không phải là chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà là chính phủ hoạt động có hiệu quả hay không, phải chăng chính phủ giúp đỡ các gia đình tìm được công ăn việc làm với mức lương khả quan, giúp họ có được sự chăm sóc sức khỏe với phí tổn phải chăng, giúp họ có được một cuộc sống về hưu tử tế. Nếu câu trả lời là "phải", chúng ta nhất định sẽ xúc tiến. Nếu câu trả lời là ‘không’, chúng ta sẽ chấm dứt các chương trình đó. Và những người quản lý tiền bạc của công chúng như chúng tôi sẽ phải chịu trách nhiệm, phải chi tiêu một cách khôn ngoan, sửa đổi những thói quen không tốt, và làm việc dưới ánh sáng ban ngày, bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể khôi phục niềm tin của dân chúng đối với chính phủ.

Câu hỏi trước mắt chúng ta cũng không phải là thị trường là một sức mạnh tốt hay xấu. Sức mạnh của thị trường trong việc tạo ra của cải và nới rộng tự do là vô địch, nhưng vụ khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một cặp mắt chăm chú theo dõi, thị trường có thể vượt khỏi tầm kiểm soát, và đất nước không giàu mạnh trong lâu dài khi thị trường chỉ mang lại lợi ích cho những người giàu có. Sự thành công của nền kinh tế của chúng ta lúc nào cũng không thể chỉ tùy thuộc vào Tổng Sản Lượng Nội Địa, mà tùy thuộc vào việc sự thịnh vượng lan tỏa đến đâu; tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nới rộng cơ hội cho những người có lòng – không phải vì đó là một việc từ thiện, mà vì đó con đường chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu chung.

Đối với các quốc gia Hồi giáo, chúng ta tìm một hướng mới phía trước, dựa trên ích lợi hỗ tương và kính trọng lẫn nhau. Đối với các lãnh đạo trên khắp quả địa cầu muốn gieo rắc tranh chấp, hoặc đổ lỗi cho những tệ nạn xã hội của họ vào phương Tây, hãy biết rằng nhân dân quí vị sẽ phán xét quí vị về những gì quí vị có thể xây dựng, không vì những gì quí vị hủy đi. Đối với những ai bám víu quyền lực bằng tham nhũng, gian lận, và bằng cách bịt miệng những người bất đồng, hãy biết rằng quí vị đang đứng ở phía trái của lịch sử; nhưng chúng tôi sẵn sàn đưa tay cho quí vị nếu quí vị sẵn sàng nới lỏng nắm tay của quí vị.

Đối với các quốc gia nghèo, chúng tôi hứa làm việc với quí vị để các đồng ruộng của quí vị này nở, và để cho nước sạch được tuôn chảy; để nuôi dưỡng những tấm thân đói khát và đem thức ăn cho những đầu óc đói kém. Và đối với các quốc gia giống như đất nước chúng ta, đang có của cải tương đối dồi dào, chúng ta xin nói rằng chúng ta không thể nào vô cảm trước những đau khổ bên ngoài biên giới của chúng ta, và chúng ta cũng không thể tiêu dùng các nguồn lực của thế giới mà không chú ý đến hậu quả. Vì thế giới đã thay đổi, chúng ta phải thay đổi với thế giới.

Trong lúc xét đến con đường mở ra phía trước, chúng ta tưởng nhớ với tấm lòng biết ơn sâu sắc đến những người Mỹ dũng cảm, đã từng ngày từng giờ, tuần tra các sa mạc xa xôi và các rặng núi hẻo lánh. Họ có điều gì dạy chúng ta hôm nay, giống như những anh hùng đã gục ngã tại nghĩa trang quốc gia Arlington đã thì thầm cho chúng ta từ nhiều thời gian đã qua. Chúng ta vinh danh họ, không phải vì họ là những người bảo vệ tự do của chúng ta, nhưng vì họ mang tình thần phục vụ; sẵn sàng tìm lý tưởng nơi một điều gì lớn hơn bản thân họ. Thật vậy, trong lúc này, lúc sẽ định hình cho cả một thế hệ, quả thực tinh thần này cần phải hiện hữu trong tất cả mọi người chúng ta.

Khi nói đến chuyện chính phủ có thể làm gì và phải làm gì, quốc gia này cuối cùng được dựa trên sự tin tưởng và quyết tâm của toàn dân. Chính vì sự tử tế mà người Mỹ sẵn sàng giúp đỡ một người lạ mặt khi có những con đê bị vỡ, nhờ lòng vị tha mà các công nhân sẵn sàng làm bớt giờ thay vì để cho một người bạn của mình mất việc; mỗi khi chúng ta ở vào tình huống đen tối nhất. Chính nhờ sự dũng cảm của người nhân viên chữa cháy xông qua một cầu thang đầy khói, và cũng nhờ bậc cha mẹ biết chăm sóc cho con cái, mà cuối cùng số phận của chúng ta được quyết định.

Các thách thức của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta đối phó với thách thức có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta tùy thuộc vào sự chịu khó, lương thiện, can đảm, sòng phẳng, khoan dung, tò mò, trung thành và yêu nước; những chuyện đó không phải là mới mẻ. Đó là những chuyện có thật. Chúng là động lực âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của nước Mỹ. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những sự thật đó. Điều đòi hỏi chúng ta hiện nay là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm; một sự thừa nhận của mỗi người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính chúng ta, quốc gia chúng ta, và cả thế giới; những nghĩa vụ mà chúng ta không miễn cưỡng chấp nhận nhưng sẵn sàng nắm lấy, với ý thức chắc chắn rằng không có điều gì làm thỏa mãn tinh thần, không phản ảnh tư cách của chúng ta, cho bằng cống hiến mọi năng lực cho một sự nghiệp khó khăn.

Đây là phần thưởng và sự hứa hẹn của quyền công dân.

Đây là nguồn gốc của sự tin cậy của chúng ta, sự hiểu biết rằng Thượng Đế trông cậy vào chúng ta để hìnhthành một số định mạng không chắc chắn.

Đây lày nghĩa của tự do của chúng ta và tôn giáo của chúng ta - Tại sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và mọi tín ngưỡng có thể cùng nhau vui mừng kỷ niệm tại quản trường quốc gia vĩ đại này và tại sao một người mà cha của ông cách đây gần 60 năm không thể làm việc tại một nhà hàng địa phương mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc một lời thề thiêng liêng nhất.

Do đó, chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng sự tưởng niệm là chúng ta là ai và chúng ta đã đi qua những chặng đường dài như thế nào. Vào năm khai sanh quốc gia Hoa Kỳ, trong những tháng lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người ái quốc xúm lại với nhau bên cạnh đống lửa gần tàn bên bờ một dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang lỗ vết máu. Vào thời điểm mà cuộc cách mạng của chúng ta bị hoang mang nhất, thì vị cha già của quốc gia ra lệnh đọc cho mọi người những lời này: “Hãy nói cho thế giới tương lai...là trong mùa Đông giá lạnh nhất, không có gì ngoài hy vọng và đức tính có thể sống còn - rằng thành phố và xứ sở, được báo động vì mối nguy hiểm chung, tiến tới và gặp được”.

Hoa Kỳ. Đối mặt với những mối nguy hiểm chung, trong mùa đông của gian khổ của chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại những lời lẻ vượt thời gian này. Với hy vọng và đức tính, chúng ta hãy một lần nữa công an đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn bão nào sẽ đến. Hãy để cho con cháu chúng ta nhắc lại là khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã chối từ không để cuộc hành trình của chúng ta phải chấm dứt, rằng chúng ta không quay lui trở lại hay là chúng ta ngập ngừng, và với con mắt chăm chú nhìn vào chân trời và với ân phước của Thượng Đế ban cho chúng ta, chúng ta mang ân tứ về tự do và chuyển lại một cách bình an cho thế hệ mai sau.

Lê Bích Sơn lược dịch

(*)
_ Trận Concord (1775) là trận đầu tiên quân Mỹ đánh thắng quân Anh.
_ Trận Gettysburg (1863) là trận đánh đẫm máu cuối cùng của cuộc nội chiến Nam Bắc.
_ Trận Normandy (1944) xẩy ra ở bờ biển Normandy, Pháp khi quân Hoa Kỳ và đồng minh đổ bộ lên Pháp để đuổi quân Ðức ra khỏi Pháp và giải phóng châu Âu.
_ Trận Khe Sanh xảy ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông Obama lúc này còn nhỏ, chưa đến tuổi đi lính. Nhưng đề cập đến Khe Sanh, cùng với những trận chiến Concord, Gettysburg và Normandy, rõ ràng ông Obama muốn đề cao vai trò của người lính Mỹ đã tham gia cuộc chiến ở Việt Nam để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam trước làn sóng xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản.

*
* *



President Barack Obama's inauguration speech

My fellow citizens:

I stand here today humbled by the task before us, grateful for the trust you have bestowed, mindful of the sacrifices borne by our ancestors. I thank President Bush for his service to our nation, as well as the generosity and cooperation he has shown throughout this transition.

Forty-four Americans have now taken the presidential oath. The words have been spoken during rising tides of prosperity and the still waters of peace. Yet, every so often the oath is taken amidst gathering clouds and raging storms. At these moments, America has carried on not simply because of the skill or vision of those in high office, but because we the people have remained faithful to the ideals of our forebears, and true to our founding documents.

So it has been. So it must be with this generation of Americans.

That we are in the midst of crisis is now well understood. Our nation is at war, against a far-reaching network of violence and hatred. Our economy is badly weakened, a consequence of greed and irresponsibility on the part of some, but also our collective failure to make hard choices and prepare the nation for a new age. Homes have been lost; jobs shed; businesses shuttered. Our health care is too costly; our schools fail too many; and each day brings further evidence that the ways we use energy strengthen our adversaries and threaten our planet.

These are the indicators of crisis, subject to data and statistics. Less measurable but no less profound is a sapping of confidence across our land — a nagging fear that America's decline is inevitable, and that the next generation must lower its sights.

Today I say to you that the challenges we face are real. They are serious and they are many. They will not be met easily or in a short span of time. But know this, America — they will be met.

On this day, we gather because we have chosen hope over fear, unity of purpose over conflict and discord.

On this day, we come to proclaim an end to the petty grievances and false promises, the recriminations and worn out dogmas, that for far too long have strangled our politics.

We remain a young nation, but in the words of Scripture, the time has come to set aside childish things. The time has come to reaffirm our enduring spirit; to choose our better history; to carry forward that precious gift, that noble idea, passed on from generation to generation: the God-given promise that all are equal, all are free and all deserve a chance to pursue their full measure of happiness.

In reaffirming the greatness of our nation, we understand that greatness is never a given. It must be earned. Our journey has never been one of shortcuts or settling for less. It has not been the path for the faint-hearted — for those who prefer leisure over work, or seek only the pleasures of riches and fame. Rather, it has been the risk-takers, the doers, the makers of things — some celebrated but more often men and women obscure in their labor, who have carried us up the long, rugged path towards prosperity and freedom.

For us, they packed up their few worldly possessions and traveled across oceans in search of a new life.

For us, they toiled in sweatshops and settled the West; endured the lash of the whip and plowed the hard earth.

For us, they fought and died, in places like Concord and Gettysburg; Normandy and Khe Sanh.

Time and again these men and women struggled and sacrificed and worked till their hands were raw so that we might live a better life. They saw America as bigger than the sum of our individual ambitions; greater than all the differences of birth or wealth or faction.

This is the journey we continue today. We remain the most prosperous, powerful nation on Earth. Our workers are no less productive than when this crisis began. Our minds are no less inventive, our goods and services no less needed than they were last week or last month or last year. Our capacity remains undiminished. But our time of standing pat, of protecting narrow interests and putting off unpleasant decisions — that time has surely passed. Starting today, we must pick ourselves up, dust ourselves off, and begin again the work of remaking America.

For everywhere we look, there is work to be done. The state of the economy calls for action, bold and swift, and we will act — not only to create new jobs, but to lay a new foundation for growth. We will build the roads and bridges, the electric grids and digital lines that feed our commerce and bind us together. We will restore science to its rightful place, and wield technology's wonders to raise health care's quality and lower its cost. We will harness the sun and the winds and the soil to fuel our cars and run our factories. And we will transform our schools and colleges and universities to meet the demands of a new age. All this we can do. All this we will do.

Now, there are some who question the scale of our ambitions — who suggest that our system cannot tolerate too many big plans. Their memories are short. For they have forgotten what this country has already done; what free men and women can achieve when imagination is joined to common purpose, and necessity to courage.

What the cynics fail to understand is that the ground has shifted beneath them — that the stale political arguments that have consumed us for so long no longer apply. The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works — whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified. Where the answer is yes, we intend to move forward. Where the answer is no, programs will end. Those of us who manage the public's dollars will be held to account — to spend wisely, reform bad habits, and do our business in the light of day — because only then can we restore the vital trust between a people and their government.

Nor is the question before us whether the market is a force for good or ill. Its power to generate wealth and expand freedom is unmatched, but this crisis has reminded us that without a watchful eye, the market can spin out of control — and that a nation cannot prosper long when it favors only the prosperous. The success of our economy has always depended not just on the size of our gross domestic product, but on the reach of our prosperity; on our ability to extend opportunity to every willing heart — not out of charity, but because it is the surest route to our common good.

As for our common defense, we reject as false the choice between our safety and our ideals. Our founding fathers ... our founding fathers, faced with perils we can scarcely imagine, drafted a charter to assure the rule of law and the rights of man, a charter expanded by the blood of generations. Those ideals still light the world, and we will not give them up for expedience's sake. And so to all the other peoples and governments who are watching today, from the grandest capitals to the small village where my father was born: know that America is a friend of each nation and every man, woman, and child who seeks a future of peace and dignity, and that we are ready to lead once more.

Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with sturdy alliances and enduring convictions. They understood that our power alone cannot protect us, nor does it entitle us to do as we please. Instead, they knew that our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.

We are the keepers of this legacy. Guided by these principles once more, we can meet those new threats that demand even greater effort — even greater cooperation and understanding between nations. We will begin to responsibly leave Iraq to its people, and forge a hard-earned peace in Afghanistan. With old friends and former foes, we will work tirelessly to lessen the nuclear threat, and roll back the specter of a warming planet. We will not apologize for our way of life, nor will we waver in its defense, and for those who seek to advance their aims by inducing terror and slaughtering innocents, we say to you now that our spirit is stronger and cannot be broken; you cannot outlast us, and we will defeat you.

For we know that our patchwork heritage is a strength, not a weakness. We are a nation of Christians and Muslims, Jews and Hindus — and non-believers. We are shaped by every language and culture, drawn from every end of this Earth; and because we have tasted the bitter swill of civil war and segregation, and emerged from that dark chapter stronger and more united, we cannot help but believe that the old hatreds shall someday pass; that the lines of tribe shall soon dissolve; that as the world grows smaller, our common humanity shall reveal itself; and that America must play its role in ushering in a new era of peace.

To the Muslim world, we seek a new way forward, based on mutual interest and mutual respect. To those leaders around the globe who seek to sow conflict, or blame their society's ills on the West — know that your people will judge you on what you can build, not what you destroy. To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history; but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.

To the people of poor nations, we pledge to work alongside you to make your farms flourish and let clean waters flow; to nourish starved bodies and feed hungry minds. And to those nations like ours that enjoy relative plenty, we say we can no longer afford indifference to the suffering outside our borders; nor can we consume the world's resources without regard to effect. For the world has changed, and we must change with it.

As we consider the road that unfolds before us, we remember with humble gratitude those brave Americans who, at this very hour, patrol far-off deserts and distant mountains. They have something to tell us, just as the fallen heroes who lie in Arlington whisper through the ages. We honor them not only because they are guardians of our liberty, but because they embody the spirit of service; a willingness to find meaning in something greater than themselves. And yet, at this moment — a moment that will define a generation — it is precisely this spirit that must inhabit us all.

For as much as government can do and must do, it is ultimately the faith and determination of the American people upon which this nation relies. It is the kindness to take in a stranger when the levees break, the selflessness of workers who would rather cut their hours than see a friend lose their job which sees us through our darkest hours. It is the firefighter's courage to storm a stairway filled with smoke, but also a parent's willingness to nurture a child, that finally decides our fate.

Our challenges may be new. The instruments with which we meet them may be new. But those values upon which our success depends — hard work and honesty, courage and fair play, tolerance and curiosity, loyalty and patriotism — these things are old. These things are true. They have been the quiet force of progress throughout our history. What is demanded then is a return to these truths. What is required of us now is a new era of responsibility — a recognition, on the part of every American, that we have duties to ourselves, our nation, and the world, duties that we do not grudgingly accept but rather seize gladly, firm in the knowledge that there is nothing so satisfying to the spirit, so defining of our character, than giving our all to a difficult task.

This is the price and the promise of citizenship.

This is the source of our confidence — the knowledge that God calls on us to shape an uncertain destiny.

This is the meaning of our liberty and our creed — why men and women and children of every race and every faith can join in celebration across this magnificent Mall, and why a man whose father less than sixty years ago might not have been served at a local restaurant can now stand before you to take a most sacred oath.

So let us mark this day with remembrance, of who we are and how far we have traveled. In the year of America's birth, in the coldest of months, a small band of patriots huddled by dying campfires on the shores of an icy river. The capital was abandoned. The enemy was advancing. The snow was stained with blood. At a moment when the outcome of our revolution was most in doubt, the father of our nation ordered these words be read to the people:

"Let it be told to the future world ... that in the depth of winter, when nothing but hope and virtue could survive ... that the city and the country, alarmed at one common danger, came forth to meet (it)."

America, in the face of our common dangers, in this winter of our hardship, let us remember these timeless words. With hope and virtue, let us brave once more the icy currents, and endure what storms may come. Let it be said by our children's children that when we were tested we refused to let this journey end, that we did not turn back nor did we falter; and with eyes fixed on the horizon and God's grace upon us, we carried forth that great gift of freedom and delivered it safely to future generations.

Thank you. God bless you. And God bless the United States of America.

Thursday, January 22, 2009

TRÁO TRỞ VÀ NGỤY BIỆN - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh

Vừa bước vào đầu năm dương lịch 2009, người Việt tại Mỹ đã đồng loạt xuống đường để dạy cho các bạn trẻ một bài học khi nhóm nầy thi hành lệnh quan thầy Hà Nội mang hình ảnh già Hồ và cờ Máu ra công khai thách đố cộng đồng. Nhóm trẻ cứng đầu nầy sống ở Mỹ nhưng xử dụng luật rừng Việt Nam, bất chấp luật lệ của chính quyền, khai trương phòng triển lãm không giấy phép ngay trong lòng thủ đô tỵ nạn và nhân danh nghệ thuật để trắng trợn lồng vào đó một chương trình tuyên truyền hạ cấp bằng cách trưng hình già Hồ cùng cờ máu và đồng thời nhục mạ cờ Vàng Quốc Gia. Cộng đồng người Việt chưa dạy xong bài học thì chính quyền Mỹ đã giải tán vì đây là một cuộc triển lãm lậu tổ chức bởi những người tự xưng là văn minh !

Nếu thành phần tổ chức là bọn nằm vùng hoặc du sinh con ông cháu cha hay thuộc đám có mồi ăn lương tháng thì đối với tôi không gì ngạc nhiên, vì những việc vừa xảy ra đều nằm trong kế hoạch của nghị quyết 36. Phản ứng của nhiều hội đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái cũng như nhân sĩ, nhà văn, nhà báo đã lên tiếng ngay từ đầu và trong tương lai sẽ còn nhiều biện pháp kế tiếp để hỏi tội thành phần ngoan cố nầy. Sự việc xảy ra từ bên chân trời Mỹ, nhưng khi biết những người cầm đầu tổ chức, nhất là nhiếp ảnh gia Brian Đoàn (con một vị cựu sĩ quan an ninh của QLVNCH) cùng với một số bạn trẻ khác thuộc thành phần con cháu gia đình tỵ nạn, thì dù ở xa nhưng tôi thấy thật xót xa trong lòng. Dù chương trình triển lãm đã bị hủy bỏ nữa chừng nhưng tôi cũng xin mượn cơ hội nầy để nói chuyện với những bạn trẻ trong ban tổ chức, vì các bạn nầy đã họp báo tự bào chữa rằng, họ chính là con cháu thuộc thế hệ một rưởi, thế hệ hai của những người chạy trốn cộng sản !

Bài viết không cần đề cập đến những phần tử có mặt trong ban tổ chức thuộc bọn nằm vùng, du sinh, cò mồi hoặc vượt biên vì kinh tế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với những bạn trẻ đã quên hoặc chối bỏ gốc tỵ nạn của mình, hay những ai vẫn còn xác nhận mình là con cháu của những người đã bỏ xứ ra đi vì cộng sản nhưng lại nhẫn tâm ngậm nọc độc của kẻ thù để phun vào mặt cha ông mình !

Tôi nghĩ rằng những lời sau đây là một hình thức đối thoại giữa một người già đáng tuổi chú bác với những bạn trẻ cứng đầu thuộc tổ chức VAALA. Là một hình thức đối thoại giữa thế hệ trẻ hải ngoại – thành phần chưa biết gì về cộng sản - với một người đã một đời trực diện sống chết cùng kẻ thù. Và cũng là hình thức đối thoại giữa một người đã chiến đấu, cầm chân địch đến giây phút cuối để cho gia đình các bạn trẻ an toàn xuống ghe tàu tìm đường ra biển. Hơn nữa, người viết tuổi đời đã quá 70, đầu óc vẫn sáng suốt, khả năng và kiến thức văn hóa cũng như nghệ thuật vẫn còn hơn xa các bạn trẻ trong ban tổ chức, vậy tôi nghĩ rằng, tôi đủ tư cách để nói chuyện tình cảm hoặc phải quấy (hiểu nghĩa nào cũng được) với bất cứ bạn trẻ nào đã lợi dụng hai chữ nghệ thuật, tráo trở và thách đố bằng vũ khí cộng sản để đâm vào mặt cha mẹ, bạn bè, dòng họ, cộng đồng … là những người thân tình ruột thịt đã một thời thương yêu, chăm sóc, đùm bọc và nuôi dưỡng để các bạn trở thành những nghệ sĩ vô ơn ngày nay !

Các bạn xác nhận thuộc thế hệ một rưởi (nghĩa là bỏ nước theo cha mẹ khi vừa có trí khôn, có thể tính từ 8 đến 15 tuối) và thế hệ hai (chưa có trí khôn hoặc chào đời ở hải ngoại), vậy các bạn thuộc thế hệ một rưởi có hình dung được ngày trốn chui xuống tàu hay chen nhau lên máy bay, các bạn là những đứa trẻ miệng còn hôi sữa, áo quần rách rưới, mặt mày hốc hác như kẻ đói cơm cùng cha mẹ đổi mạng sống đi tìm tự do…Đặt chân lên xứ người, dân địa phương xem các bạn là những người ăn xin, vượt biên vì kinh tế ! Nhưng vinh dự thay cho người Việt và phải cám ơn các bạn trẻ, ngày nay họ đã có một lối nhìn trái ngược hẳn với những gì trước đây, có thể nói là kính phục, vì người tỵ nạn đã sớm hội nhập, thành công và chiếm những địa vị quan trọng ngay trên quê hương của họ, nhất là thành phần trẻ mà trong đó có các bạn. Tôi hoan nghênh và cảm phục ý chí, tính cần cù siêng năng và trí thông minh của các bạn trẻ, nhưng có một điều tôi cần phải nói thật và nói thẳng, các bạn đừng tự mãn và vô ơn ! Nhờ ai đã nuôi dưỡng và tạo môi trường tốt để giúp các bạn thành công ngày nay ?

Phải nhớ rằng, khi bỏ nước ra đi trên người chỉ còn mảnh áo che thân, chính gia đình cha mẹ các bạn phải thắt lưng buộc bụng, chịu đựng tủi nhục, đổ mồ hôi sôi nước mắt, chịu khó cần kiệm … Ngày lượm lon, cắt cỏ, gánh hàng, rữa rau, đổ rác, quét chợ, tối về đơm nút, may áo, sáng sớm chạy bỏ báo cho kịp giờ … để lo cho các bạn trong buổi đầu. Đành rằng các bạn thành công trên đường học vấn là nhờ trí thông minh, siêng năng học hành và ân huệ của chính phủ Mỹ để ngày nay trở thành công chức cao cấp, bác sĩ, kỹ sư, họa sĩ, nhiếp ảnh gia. Nhưng phải nhìn thật gần và thật kỹ để thấy rằng bằng cấp của các bạn đã nhuốm đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu của những người khác.

Có lẽ đọc đến đây có bạn đã tỉnh ngộ để nhận ra rằng mồ hôi và nước mắt là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nhưng còn xương máu ? Tôi xin thưa ngay, đó là xương máu của những người đã nằm xuống trong cuộc chiến, đã xả thân bảo vệ đất nước, đã cầm chân địch cho các bạn an toàn chạy trốn, đã chết trong các trại tù cộng sản hoặc đã bỏ mình giữa lòng đại dương. Chính những đau thương chết chóc nầy đã đánh động lòng người, đã giúp cho thế giới tự do thấy và hiểu được thế nào là cộng sản để họ mở rộng vòng tay ôm các bạn vào lòng, sẵn sàng nuôi dưỡng, trợ cấp giúp phương tiện để các bạn có cơ hội làm lại cuộc đời. Nếu không có xương máu của những người nằm xuống đánh động lương tâm nhân loại thúc đẩy cả thế giới vớt nạn nhân trên biển, đón người trong các trại tỵ nạn, lập ra chương trình HO, đoàn tụ gia đình, đưa con lai đi tìm cha mẹ … thì giờ đây chắc các bạn còn vướng tại Việt Nam và đã trở thành cặn bã của chế độ cộng sản, những lao động nô lệ chờ gọi tên đi bán mồ hôi, lấy chồng và làm đĩ khắp thế giới và con cháu các bạn là thành phần nồng cốt của cái bang bị gậy hoặc đầu nậu trong các băng đảng móc túi.

Tại sao cha mẹ, người thân các bạn phải trốn chạy ? Vì gia đình các bạn cũng như hàng triệu người miền Nam khác không chấp nhận chế độ cộng sản mà già Hồ và cờ máu là biểu tượng của một tập đoàn khát máu đã đày đọa nhân dân Việt Nam trên 60 năm qua. Như vậy, các bạn vinh danh già Hồ và cờ máu tại thủ đô tỵ nạn không khác gì chính các bạn đang đưa tay tát vào mặt cha mẹ và đồng hương của mình. Thế thì đạo nghĩa ở đâu ? Tình người ở đâu ? Các bạn phải biết rằng một người sinh ra và lớn lên, nếu được giáo dục bởi một nền văn hóa nhân bản thì không thể mất tình người, mất lý trí như một loài thú hoang …Hãy mở mắt ra để xem, hãy mở tai ra để nghe những gì mà chính người Việt hiện nay, trong quốc nội cũng như trên toàn cỏi năm châu, đã đánh giá về thần tượng già Hồ và cờ máu của các bạn:

Theo thiển ý của tôi, hội họa, nhiếp ảnh và tạo hình là một bộ môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã xử dụng đôi mắt, bàn tay và khối óc sáng tạo của mình để lưu lại hậu thế những hình ảnh trung thực, thẩm mỹ, có giá trị không gian và thời gian, mang tính chất nhân bản, hướng thiện để góp phần phục vụ con người hầu nâng cao vẻ đẹp cao quý của Chân Thiện Mỹ. Nhưng tại sao ban tổ chức VAALA lại đem những hình ảnh tội ác vào nghệ thuật ? Phải chăng đây là âm mưu lợi dụng nghệ thuật để tuyên truyền chính trị một cách bất chính. Vì cá nhân già Hồ và cờ máu chẳng có gì gọi là nghệ thuật mà chính là hình ảnh đau thương, nước mắt và xương máu của dân tộc Việt Nam

Thật vậy, già Hồ là tội đồ của dân tộc, một thanh niên với hàng chục tên giả, chẳng có lý tưởng gì với quốc gia dân tộc. Thời trẻ trốn xuống tàu tha phương cầu thực mong được trở thành công chức của thực dân, nhưng mộng ước không thành nên phải bám vào gấu quần cộng sản quốc tế rồi mang chủ nghĩa Max-Lê về nhuộm đỏ tổ quốc Việt Nam. Chính y đã âm mưu, lừa lọc, hãm hại và bán đứng cho thực dân Tây cũng như phát xít Nhật các nhà cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm. Chính y đã ra lệnh Phạm Văn Đồng ký giấy bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu Cộng do đó ngày nay Việt Nam trở thành thuộc địa của bọn Tàu đỏ. Chính y đã vay nợ 'anh em xã hội chủ nghĩa' hàng trăm tỷ vũ khí đạn dược để đưa về giết hại đồng bào ruột thịt. Bọn đàn em dù tận tình cướp của, bóp họng dân chúng và dùng lúa gạo, dầu thô để trả nợ từ mấy chục năm nay nhưng vẫn chưa dứt điểm. Tính đến năm 2008 cộng sản Việt Nam vẫn còn thiếu Tàu đỏ và Nga trên 30 tỷ dollars, do đó Hà nội bắt buộc phải ký hiến thêm đất thêm biển để làm vui lòng quan thầy. Chính y đã giết hại hàng triệu người miền Bắc dưới chiêu bài 'cải cách ruộng đất' (còn gọi là đấu tố) sau khi cướp xong chính quyền năm 1945 và cũng chính y đã ra lệnh đánh chiếm miền Nam năm Mật Thân 1968, chôn sống trên 5000 người tại Huế. Chính y đã gây bao cảnh tang thương chết chóc cho đồng bào vô tội của chính thể Việt Nam Cọng Hòa, cha mẹ mất con, anh mất em, vợ mất chồng, gia đình tan nát. Chính y đã ra lệnh xua quân vào xâm chiếm miền Nam, cướp bóc tài sản rồi đẩy hàng triệu gia đình đi vùng kinh tế mới cũng như lập hàng ngàn trại tù để giam giữ thành phần quân cán chính của chế độ VNCH, trong đó cha mẹ các bạn là nạn nhân !!!

Về phương diện đạo đức, già Hồ là một tên dâm dục tàn bạo vô lương tâm, chính y chẳng những công khai ăn ở với đủ hạng người từ Kinh, Thượng đến Tây, Tàu. Cướp vợ thuộc cấp, sinh con đẻ cái rồi ra lệnh giết vợ, giết người tình để phi tang hầu giữ được tiếng 'trai trinh', 'cha già dân tộc' và 'thần tượng chế độ' ….

Đề cập đến văn hóa thì già Hồ là một tên vô liêm sĩ bằng cách tự tay viết sách ca tụng mình, ăn cắp văn thơ của người khác để biến thành tác phẩm của mình. Ra lệnh cho đám bồi bút đánh bóng, biến ác quỷ Hồ trở thành thần tượng của đất nước ! Như vậy già Hồ chỉ được sắp hạng đứng đầu một băng đảng tội phạm chứ không thể đưa lên làm lãnh tụ đất nước hoặc cha già dân tộc…

Ngày nay, bộ mặt gian dối tội lỗi của già Hồ đã bị lột trần trước ánh sáng. Chính UNESCO đã kịp thời tỉnh ngộ, ngưng ngay chương trình vinh danh già Hồ sau khi phám phá những điều nhơ bẩn nhục nhã chung quanh 'thần tượng' do những tên nằm vùng trong tổ chức lừa bịp dựng lên. Vậy các bạn trẻ còn lý do gì để đem hình già Hồ ra trưng bày và thách đố với cộng đồng người Việt tỵ nạn ?

Cờ đỏ sao vàng là cờ của băng đảng cộng sản, không thể gán ép để trở thành biểu tượng của một quốc gia, của một dân tộc vì * Cờ đỏ sao vàng không mang một ý nghĩa nào liên hệ với nguồn gốc, địa lý, dân tộc, lịch sử hay văn hóa của Việt Nam. Cờ máu là con đẻ từ hai lá cờ đàn anh, Đỏ Búa Liềm của Liên Sô cộng sản và Đỏ Năm Sao Vàng của Tàu cộng. Cờ đỏ do đảng vẽ rập theo các nước đàn anh, gồm màu đỏ tượng trưng cho máu, cho đấu tranh giai cấp và một sao duy nhất chính là đảng cộng sản. Cờ đảng nầy được áp đặt lên đầu dân tộc khi già Hồ và tập đoàn cướp được chính quyền. Vậy có chút gì vinh dự để xưng là cờ của Việt Nam ! Gọi là cờ 'máu' nhưng không phải vì miếng vải đỏ mà là máu của tang thương chết chóc, tanh hôi thoát ra từ hàng triệu người đã tức tưởi nằm xuống ở những nơi nào có bóng dáng quân cộng sản (* Trích Cờ Đỏ Sao Vàng trong Một Đời Xót Xa, xuất bản và phát hành tại Mỹ tháng 6 năm 2008).

Những nơi nào cờ máu xuất hiện thì dân chúng phải bỏ nhà cửa, bồng bế nhau chạy trốn như Bình Long, Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972 và nhất là năm 1975, cả triệu người phải bỏ xứ ra đi khi quân cộng sản vào chiếm miền Nam. Bây giờ cờ máu đem ra trưng bày để thách thức với cộng đồng người Việt tại thủ đô tỵ nạn là một việc làm vô liêm sĩ của những người không có quả tim và bộ não.

Đã từ lâu tôi ao ước một cơ hội để trao đổi trực tiếp với các bạn trẻ tại Mỹ hầu hy vọng giải tỏa cho cá nhân tôi cũng như cho chính bản thân các bạn trẻ những ấm ức về quan niệm chính trị và hành động tranh đấu mà các bạn trẻ thường kiếm dịp tỏ thái độ cao ngạo, khinh thường tập thể người Việt tỵ nạn, kể luôn cha mẹ các bạn, anh em cô chú tỵ nạn và nhất là thành phần HO đến định cư tại Mỹ sau nầy. Một cơ hội đã đến với tôi nhưng rất tiếc chưa thực hiện được điều mong ước qua câu chuyện sau : Trong tháng tư đen năm 2008 tôi và vài người trong cộng đồng tại Pháp có dịp nói chuyện qua điện thoại với anh Nguyễn Lâm, một nghệ sĩ trẻ trong nhóm sản xuất phim Vượt Sóng, để xin phép anh cho cộng đồng được chiếu phim 'vượt sóng' (phim thu lại trên internet) miễn phí để giới thiệu với khoảng trên 100 anh em bạn trẻ tại Paris thì anh cho biết là anh làm phim thương mãi, việc chiếu cho cộng đồng trong dịp 30.4 anh không cần biết và phải trả tiền ! Cộng đồng Pháp đồng ý trả tiền theo yêu cầu và nhân tiện chuyến qua Mỹ vào giữa tháng 6.2008, chính tôi đem tiền giao tận tay anh Nguyễn Lâm. Thời gian trao đổi ý kiến với nhau chưa đến một giờ nhưng qua những lời phát biểu, anh có vẻ hằn học và đánh giá thật thấp cộng đồng cũng như hành động tranh đấu chung của người Việt tỵ nạn cộng sản. Tôi rất ngạc nhiên về trái độ của một nghệ sĩ trẻ, có học và là con cháu của những gia đình đã từ bỏ tất cả, đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do ! Tôi đã đề nghị với anh Nguyễn Lâm một cuộc gặp gỡ thật rộng thời giờ để trao đổi quan điểm giữa tôi và nhóm của anh, nghĩa là giữa một người tỵ nạn đã sống trong lao tù cộng sản với thành phần trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 trưởng thành hoặc chào đời ở hải ngoại. Tôi hy vọng dịp đó là cơ hội để giải tỏa một vài ấm ức của tôi đối với quan niệm của những người chưa biết gì về cộng sản hoặc đã ăn phải bã tuyên truyền của kẻ thù. Nhưng rất tiếc sau đó, anh Nguyễn Lâm thì đi làm phim ở phía Đông nước Mỹ và tôi phải trở về lại Pháp.

Đây là một cơ hội tốt, không biết nhà sản xuất Nguyễn Lâm có mặt trong ban tổ chức hay đóng góp tác phẩm trong chương trình triển lãm của VAALA tại Santa Anna hay không ? Nhưng theo tôi quan niệm về chính trị của anh Nguyễn Lâm cũng không khác gì với những người trong ban tổ chức thì tôi hy vọng sẽ gặp anh trong một lần đối thoại nào đó để tạo thông cảm giữa già với trẻ về chính trị, về tỵ nạn và các tổ chức tranh đấu của cộng đồng.

Để công bằng trong đối thoại và tránh trường hợp các bạn trẻ lên án cho rằng người viết dựa vào tuổi tác để làm thầy đời, tôi xin đưa ra hai đề nghị với các bạn trong ban tổ chức cũng như những nghệ sĩ tham dự triển lãm Vaala tại thành phố Santa Anna, Cali USA :

1. Các bạn về Hà Nội tổ chức một cuộc triển lãm nghệ thuật, trong đó có ba bức tranh hay hình vẽ như sau: Một, cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cạnh bằng kẽm gai (như hình các bạn đã bôi bác cờ Vàng với 3 gạch đỏ bằng kẽm gai). Hai, hình một vị cựu tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa (như tượng hình già Hồ bằng thạch cao trong bức ảnh ). Ba, hình một thiếu nữ mặc áo có in Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ (như hình cô gái với chiếc áo in cờ đỏ sao vàng). Nếu các bạn được Hà Nội chấp thuận cho triển lãm và để cho dân chúng tự do vào xem, rồi sau đó toàn bộ ban tổ chức cũng như các nghệ sĩ đều an toàn lên máy bay trở về Mỹ thì tôi thua cuộc.

2. Tôi sẵn sàng đối thoại công khai trước công chúng với các bạn trẻ về đề tài do chính các bạn đưa ra: "Cuộc triển lãm nhằm tạo những cuộc đối thoại tìm hiểu về tương quan giữa nghệ thuật, chính trị và cộng đồng, về những điều bị xem là cấm kỵ hoặc là kiềm chế trong cộng đồng". Nếu các bạn trẻ thấy không trở ngại thì chúng ta đề nghị với đài truyền hình SBTN dành cho một chương trình đặc biệt.

Trường hợp các bạn trẻ dám xâm mình thực hiện điều thứ nhất thì tôi sẽ công khai xin lỗi. Hoặc các bạn chấp nhận đối thoại thì tôi sẽ đánh giá rằng các bạn là những người còn một chút hiểu biết. Nếu không thực hiện được hai điểm nầy thì tôi xin phép xem các bạn là một nhóm trẻ chỉ biết tráo trở và nguỵ biện không hơn không kém.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 20.01.2009


Sunday, January 18, 2009

Sự Phản Bội Đáng Nguyền Rủa - Đỗ Văn Phúc

Đỗ Văn Phúc

Những năm tôi còn ở trong trại tù Cộng Sản, các con tôi – cháu lớn nhất chưa đầy 6 tuổi lúc tôi vào tù năm 1975 - đã trải qua tuổi thơ trong đói khát, khổ nhọc. Gia đình tôi may mắn được ở thành phố Vũng Tàu, nơi sự hà khắc tương đối nhẹ hơn những vùng khác. Thế nhưng vì là gia đình của quân nhân VNCH đang bị tù “cải tạo”, vợ tôi chẳng thể tìm được công việc nào để kiếm sống. Trong lúc nhà nước CS thi hành chính sách cải tạo công thương – nói thẳng ra là tiêu diệt các thành phần công thương tư nhân để tập trung về một mối quốc doanh hay hợp tác xã, người dân thường chỉ còn một cách kiếm sống cuối cùng là buôn chui bán lén nếu không muốn phiêu lưu rời bỏ thành phố kéo nhau vào những khu “Kinh tế mới” để sau vài năm lại trở về thành dân homeless ngay bên thềm nhà cũ của mình.

Cháu lớn của tôi, ngồi xe đạp chưa với tới bàn đạp. Nhưng từ nửa đêm, đã phải nhiều vòng đạp xe từ nhà ra Bãi Sau chở những bao cá vụn về cho vợ tôi làm mắm. Các cháu nhỏ hơn thì quay quần bên mẹ để lựa cá, dọn dẹp cho đến gần sáng. Ban ngày, còn được đi học, các cháu đã phải chịu đựng sự phân biệt đối xử của thầy cô và các bạn học.

Những năm phong trào vượt biển rầm rộ, thỉnh thoảng các cháu lại “bị” mục kích những xác người thối rữa, trương sình tấp vào bờ. Họ là một số trong hàng vạn thuyền nhân xấu số bỏ mình trên biển khơi vì súng đạn của công an CS, vì nạn hải tặc Thái Lan và vì cơn cuồng nộ của thiên nhiên.

Khi đến Hoa Kỳ, các cháu là thế hệ 1.5 của người Việt tỵ nạn trên đất Hoa Kỳ. Các cháu sớm học và thực thi quan điểm tự do dân chủ như bất cứ công dân nào khác. Tuy không tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng, nhưng cám ơn Trời, các cháu không chệch hướng nhìn chung của cha anh về các vấn đề chính trị xã hội.

Trong khi đó, các anh chị Brian Đoàn, Y Sa Lê, Trâm Lê, Lan Dương trong ban tổ chức Triển Lãm VAALA và Kiều Linh Valverde (thuộc Khoa Á Châu Học UC Davis), Linda Võ (Khoa Á Châu Học UC Irvine) cũng tự nhận mình là thế hệ 1.5 của người Việt Tỵ Nạn tại California. Họ tự nhận mình Fresh off the Boat (FOB) để xác minh lý lịch tỵ nạn Cộng Sản. Nếu đúng thế, họ là những đứa bé mấy chục năm trước may mắn thoát không bị bọn hải tặc nắm chân quăng xuống biển trong khi mẹ bị lũ thú vật thay nhau hãm hiếp, cha thì bị chặt ra từng khúc. Hoặc như Brian Đoàn mà thân phụ là cựu Thiếu Tá An Ninh Quân Đội, thì chắc tuổi thơ của anh cũng không thoát khỏi thảm cảnh như các con tôi.

Người Việt hải ngoại còn nhớ như in tiếng kêu gào từ các trại tị nạn, tiếng năn nỉ trong các phòng phỏng vấn của phái đoàn Hoa Kỳ; cha mẹ các anh chị cũng đã tìm cách thuyết phục người Mỹ rằng gia đình họ từng bị áp bức, đày đọa trong chế độ CS nên phải ra đi. Chẳng nhẽ ngày nay, khi chế độ Cộng Sản vẫn còn nguyên bản chất độc tài, man trá, các anh chị đã quá độ lượng và dễ quên và vô ơn đến độ ấp ủ những biểu tượng của kẻ tàn hại gia đình mình một cách thân thương đến nỗi thể hiện ra trên tác phẩm ưng ý của mình sao?

Chúng tôi càng không thể chấp nhận cách lý giải của quý anh chị.

Cô Trâm Lê đã rất hỗn xược khi nói rằng Cộng đồng VN đang trên đà xuống dốc, thiếu đối thoại cởi mở và chấp nhận chính kiến khác biệt. "I felt the community was on this slippery slope, that we were not progressing toward having open dialogue and being more tolerant of different political viewpoints." (Sự hỗn xược này được lại thể hiện khi cô phát biểu trong cuộc họp báo được ghi trong video clip phát trên Youtube).


Cô có trình độ, kiến thức về nghệ thuật (giả sử như thế dựa trên bằng cấp và vai trò của cô trong VAALA), nhưng tôi có thể nói rằng cô ngủ quên (nếu không muốn dùng chữ u mê) giữa cộng đồng đang đấu tranh chống chế độ độc tài Cộng Sản. Có thể nào những nạn nhân Cộng Sản lại có thể cởi mở đối thoại với đảng Cộng Sản và chấp nhận ý hệ CS?

Lan Dương, phụ tá giáo sư tại UC Riverside đã ngụy biện rằng lá cờ đỏ trong tranh của Brian Đoan không phải là biểu tượng chính trị mà là nói lên những gì đang xảy ra trong thế hệ trẻ bên Việt Nam. "The communist flag isn't used just as a political symbol, but of what is going on in Vietnam and the kinds of modes of consumption that marks youth culture."

Trong những năm đầu các phân khoa kỹ sư, sinh viên phải học vài lớp về Khoa học xã hội và ngay cả Nghệ thuật để tự trang bị cho mình kiến thức căn bản trong cuộc sống trước khi trở thành chuyên viên khoa học kỹ thuật. Tôi không rõ các vị có bằng MA, BA đang đảm nhiệm những chức vụ phụ tá Giáo sư, Giám đốc như các cô Lan Dương, cô Trâm Lê, cô Linda Vo … có từng học khoa học xã hội không? Nhưng cách lý giải của các cô chứng tỏ hoặc trí thức và tầm nhìn các cô quá thấp - thua xa người phu xích lô hay người thợ cày bình thường bên Việt Nam xa lắm - hoặc vì bí quá, nên các cô nói bừa và hỗn láo xem người nghe như đám trẻ con.

Cô Linda Vo (Giám đốc Khoa Á Châu Học tại UC Irvine, đồng thời trong Hội đồng Cố vấn Hội Nghệ Thuật) lại coi rằng cuộc triển lãm như một cách thử nghiệm coi liệu Người Việt hải ngoại có chấp nhận quyền tự do phát biểu chưa hay phải chờ thêm 10 năm nữa? "It has been difficult for the Vietnamese community to express their experiences … The war and what happened afterward, of being refugees and having to restart their lives, left scars that have never been dealt with. None of us know if the community is ready for this now, or if it will take another 10 years."

Cách thử nghiệm kiểu này thấy cứ mỗi năm lại xảy ra một lần (vụ băng Thuý Nga Paris 40, vụ Trần Trường, vụ bài thơ của thầy bói Nhân Quang, cái chậu rửa chân của Huỳnh Thúy Châu, vụ cờ đỏ ở UT/Arlington, vụ Tim Rebeaud …). Câu trả lời đã rõ ràng qua hàng trăm bài phản đối cũng như sự hưởng ứng của hàng vạn người khác trên diễn đàn hay trong các cuộc biểu tình. Chúng tôi không học thói chụp mũ của VC khi chưa có bằng cớ cụ thể các anh chị làm tay sai cho Cộng Sản. Nhưng cứ tạm coi rằng các hành vi ngông nghênh, hợm mình, xuẫn ngốc, chưa đủ trưởng thành chính trị này đã xúc phạm sâu sắc đến cộng đồng tị nạn, và vô tình làm lợi cho Cộng sản mà thôi.

Cũng từ những lời tuyên bố, giải thích trên, chúng tôi nhận ra rằng về một phương diện khác, các anh chị hình như chưa hoàn toàn hiểu biết về nghệ thuật. Nếu muốn nói đến nghệ thuật thuần tuý “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, thì đó là những bài thơ, bản nhạc, bức tranh phát xuất từ tình cảm, nhận thức con người trước thiên nhiên, tình cảm, hay cuộc sống bình thường; có thể có hay không có chủ đích. Nhưng khi đã đem vào đó một biểu tượng chính trị, thì nghệ thuật đã trở nên vị nhân sinh, đúng hơn vị chính trị; vì nó phục vụ mục đích tuyên truyền - ủng hộ hay đả kích một ý hệ, một chế độ, chính sách. Chính các hoạ sĩ có tranh triển lãm cũng đã giải thích ý nghĩa chính trị của tranh họ, nhưng giải thích một cách ngược ngạo, hoàn toàn trái hẳn với chủ ý của tranh. Xa hơn, những bức tranh mà cần phải giải thích thì đủ nói lên trình độ thấp kém của người sáng tác!

Các thành viên trong VAALA và người yểm trợ cho họ thì nêu ra quyền tự do phát biểu. Các anh chị tưởng rằng có được các cấp bằng MA, MS là các anh chị hiểu biết về chính trị hơn cha anh mình chăng? Lầm to! Sự hiểu biết về chính trị xã hội không hoàn toàn dựa vào trình độ, mà là kinh nghiệm sống. Tự do nào cũng có giới hạn của chúng trong không gian và thời gian..Hình luật, dân luật là những văn bản giới hạn tự do con người. Giáo lý, đạo đức cũng giới hạn tự do con người. Có nhiều việc làm là tội lỗi theo tiêu chuẩn đạo đức mà không là tội ác theo tiêu chuẩn pháp luật, và ngược lại. Chúng tôi thách các anh chị sử dụng quyền tự do phát biểu bằng cách đem ra đường phố trưng bày một bức ảnh một cô gái ngồi dạng hai chân để lộ hết những gì kín đáo! Hay vẽ dĩa thịt heo đem phổ biến tại một thánh đường Hồi Giáo. Tự do phát biểu đấy, thử làm đi?

Dân chủ tự do không nước nào bằng Hoa Kỳ. Vậy mà trong thời Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ cũng đặt đảng Cộng Sản ra ngoài pháp luật. Hiện nay, những người tuyên thệ nhập tịch Hoa Kỳ vẫn còn phải xác nhận là không dính líu đến Cộng Sản dù rằng đối lực Liên Xô đã tan rã.

Đúng thế, trong cộng đồng người Việt vẫn còn những điều cấm kỵ (Taboo, như các anh chị VAALA nhắc đến). Vì tự thân, tự tên gọi, Cộng đồng VN tại hải ngoại bao gồm tuyệt đại đa số những người ly hương vì bị đàn áp, ngược đãi trong chế độ CS. Điều này được nhắc đến hàng triệu lần trên báo chí, diễn đàn, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Rất dễ hiểu mà quý anh chị cố tình làm bộ không hiểu. Các anh chị có thể lớn lên, có suy nghĩ riêng tư độc lập của mình mà yêu thích chế độ Cộng sản là quyền của các anh chị. Chúng tôi xin tôn trọng sự lựa chọn đó. Nhưng chúng tôi có quyền bày tỏ thất vọng về sự phản bội lý lịch của mình, bôi nhọ sự hy sinh của cha anh mình. Chúng tôi thất vọng vì trong khi những người trẻ khác đang tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng, vào phong trào đấu tranh cho quê hương; thì có một bộ phận tự cho là con cháu thuyền nhân lại chóng quên thảm kịch của chính gia đình họ để nhận thù làm bạn. Chúng tôi gọi đây là sự phản bội đáng nguyền rủa.

Ít nhất thì sau vụ này, chúng ta biết thêm được vài kẻ bội phản.

Đỗ Văn Phúc


Những Người Trẻ Cứng Đầu - Chu Tất Tiến

  • Những Người Trẻ Cứng Đầu Chủ Trương Nghệ Thuật của Sự Hỗn Xược
    • Thư gửi ban tổ chức triển lãm tranh tượng cộng sản
    Chu Tất Tiến

    Các em mến,

    Trước hết, tôi gửi lời chào thân ái đến các em, (các cháu), những người muốn khẳng định nguồn cội là người Việt Nam, dù có mang tên Mỹ, nhưng vẫn luôn suy nghĩ về Tổ Quốc của mình. Khi tổ chức buổi triển lãm này, các em đã mạnh dạn diễn tả một vài nhận xét và quan điểm của mình về Việt Nam, bất chấp tất cả những dị nghị, hiềm khích, cũng như những phản đối đến từ cộng đồng, nơi mà các cháu cho là một tập hợp những kẻ quá khích, không có sự cởi mở và cảm thông với những người thuộc thế hệ thứ hai. Các em cho rằng, dưới không khí Tự Do và Dân Chủ mà các em đã được thụ hưởng một cách trọn vẹn trên quê hương thứ hai này, các em có toàn quyền làm những điều mình thích, mà không sợ bất cứ ai phản kháng mình. Hơn nữa, các em còn muốn thử thách phản ứng của cộng đồng trong khi cất lên tiếng nói đối lập của mình. Vì thế, tôi muốn viết vài điều, mong các em hiểu lý do tại sao cộng đồng lại có thái độ mạnh mẽ như thế với các em, những người tin tưởng rằng mình làm một việc đúng.

    Khi trả lời phỏng vấn của báo L.A. Times, Trâm Lê nói: "Tôi cảm thấy có sự sợ hãi hiện diện chung quanh cộng đồng Việt Nam sau sự kiện chậu rửa chân." (*) Em nhìn về phía cộng đồng bằng một con mắt thiếu thiện cảm: "Tôi cảm thấy rằng cộng đồng này đã trên đà tuột dốc (slippery slope), rằng chúng ta không thể tiến đến một cuộc thảo luận cởi mở và chấp nhận nhiều hơn những quan điểm trái ngược về chính trị." Tại sao lại có sự sợ hãi trong cộng đồng? Hãy hỏi những thanh niên nam nữ cùng độ tuổi với các cháu trong Tổng Hội Sinh Viên, trong đoàn Phan Bội Châu, Thanh Niên Cờ Vàng, VietAct, hay các nhóm Dấn Thân, Tuổi Trẻ Lên Ðường ... Không ai cảm thấy sợ hãi cả! Họ liên lạc với cộng đồng một cách chan hòa bởi vì họ cảm thấy họ là những đứa con cưng của cộng đồng. Ðã là con, thì sao lại sợ cha mẹ, nếu mình không làm điều gì quấy?

    Tư tưởng "cách mạng" của em cũng giống như mấy cô thiếu nữ trẻ thời đại, đang tìm cách phá tung tất cả các rào cản đến từ xã hội. Có lẽ vì những tư tưởng tương tự như thế, các em mới thấy rằng "cộng đồng này đang tuột dốc". Tuột từ đâu? Các em đứng ở đỉnh núi nào mà nhìn thấy cộng đồng tuột dốc? Theo toán học, nếu ta vẽ một đường biểu diễn thẳng đứng từ một điểm A ở phần Dương (positive) chạy xuống một điểm B ở phần Âm (negative), ta sẽ thấy chuyển động từ A xuống B là một sự tuột dốc. Sẽ không có sự tuột dốc, khi ta không chấm điểm B ở một góc độ cao hơn A. Khi nói là cộng đồng đang tuột dốc, các em đã tự cho mình đứng ở điểm A và Cộng Ðồng ở điểm B. Tại sao thế? Theo triết học, quan điểm của con người thay đổi tùy theo sự giáo dục, học vấn, và hoàn cảnh của mỗi người. Cũng một sự việc, mà người này cho là phải, kẻ kia lại cho là trái. Người xưa có câu: "Chân Lý luôn ở bên kia rặng Pyrenê".

    Có nghĩa là, nếu ta không đứng cùng một vị trí, thì ta cứ mãi đi tìm một chân lý không bao giờ có. Các em tự mình đứng tách ra khỏi cộng đồng gồm nhiều triệu người trên quả đất này, thì sẽ mãi lang thang, tìm hoài không bao giờ thấy cái "mặt trời chân lý" của Tố Hữu cả, vì nó không hiện hữu. Chân Lý thật sự đang nằm ngay trong tư tưởng của cộng đồng, một cộng đồng tập hợp bởi muôn ngàn tiến sĩ, giáo sư, triết gia, bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, kỹ sư, các chiến sĩ chiến đấu cho Dân Chủ, và hàng triệu người luôn hướng về một đất nước đang ngào nghẹn dưới ách thống trị tàn bạo của một Ðảng Vô Luân, Vô Tổ Quốc, Vô Quá Khứ và Vô Tương Lai. Ðảng ấy đã dẫn dắt con người Việt Nam đi đến chỗ máu đổ thành sông, xương chất thành núi. Ðảng ấy không biết lịch sử cha ông đã hy sinh ngàn vạn đời bảo vệ từng tấc đất quê hương, mà bán đứng cả chục ngàn cây số trên bộ, trăm ngàn hải lý trên biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân Việt. Người chủ Ðảng ấy đã nói láo công khai: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước" rồi tiếp tục bán nước cho Tầu Cộng, đổi lấy sự vinh thân phì da cho chính bản thân của mình. Cái lá cờ mà các em giương ra trên ngực cô gái kia là hiện thân của Máu trăm ngàn đồng bào trong các kỳ cải cách ruộng đất, của cuộc chiến vô lý cướp đi hơn hai triệu sinh linh, của bao trinh nữ bị bán làm nô lệ tình dục cho ngoại bang, của hơn 30,000 em bé 9, 10 tuổi đang phục vụ khách làng chơi ở Campuchia, Thái Lan, Singapore, của hàng vạn nhân công lao động nước ngoài bị hãm hiếp, bị bỏ đói, bị nhục mạ. Cái bức tượng có râu dài kia nhắc ta nhớ tới hàng chục bà vợ của ông, nhất là đến chị Nông Thị Xuân từnglàm nô lệ tình dục cho 'Cụ Chủ Tịch.' Với bất cứ nước XHCN nào cũng là "môi với răng" của cụ Hồ cả. Chỉ trừ Mỹ. Ðiều đáng quan tâm là khi xưa thì khuôn mặt đó đã từng hô hào đánh cho "Mỹ cút, Ngụy nhào", nhưng bây giờ, các đệ tử đang bon chen, năn nỉ Mỹ một cách hèn hạ hơn bao giờ hết.

    Nguyễn Minh Triết, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng liên tục sang Mỹ cầu cạnh, năn nỉ. Cả nước bây giờ đang học tiếng Mỹ, cả nước treo bảng hiệu thương mại bằng tiếng Mỹ, chỉ với mục đích cho tiền đô la của Mỹ tiếp tục tuôn về, để thêm phương tiện sinh sống cực kỳ xa hoa, cho dù đã chiếm nhà, chiếm đất của dân oan tơi bời hoa lá. Bao
    nhiêu căn nhà thờ tổ đã biến thành sân golf cho tư bản đỏ. Bao nhiêu đất ruộng, đất vườn đã trở thành biệt thự của chủ tịch, bí thư, giám đốc. Lịch sử thế giới không có ghi chép tình trạng quốc gia nào đốn mạt như thế, trừ các nước cộng sản. Mà số lượng các nước cộng sản đã dần dần nhỏ lại, chỉ còn loe hoe ba nước Trung Cộng, Bắc Hàn, và Việt Nam. Như vậy, có phải cộng đồng này đang tuột dốc hay cả cái hệ thống, lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản kia xuống dốc không phanh?

    Trở lại cuộc triển lãm, các em biết rằng, cuộc triển lãm chắc chắn sẽ mang lại nhiều đối kháng, nhưng các em vẫn cứ tiếp tục. Maria Lam, một phụ tá giáo sư về văn chương, cương quyết: "Tôi nghĩ rằng chúng tôi đang cố gắng đối diện với nỗi sợ đó một cách trực tiếp. Chúng tôi cố gắng nói rằng cộng đồng phải là một nơi an toàn cho mọi người, ngay cả những người phản đối." Dĩ nhiên, dưới chế độ tự do, các em có toàn quyền làm mọi việc theo ý muốn, kể cả bôi lọ lãnh tụ, vẽ hình tổng thống một cách bôi bác, cũng không có cảnh sát nào làm khó các cháu. Các em có thể mang hìnhaiđóra trưng, cũng có thể bôi bác tổ tiên bằng cách vẽ ba vạch vàng tượng trưng cho ba miền Nam, Trung, Bắc kia thành ba cọng kẽm gai, mà cho là nghệ thuật. Cũng rất Tự do khi các em vẽ hình một thiếu nữ nhem nhếch mặc áo vàng, quấn khăn bằng lá cờ Cộng Hòa, tay cầm bình thuốc Viagra. Thú thật, nếu các em cho đó là nghệ thuật thì tôi rất xấu hổ cho nghệ thuật. Theo tôi, bức hình chụp cô bé có ngôi sao vàng đè lên ngực kia chỉ tốn khoảng 5 phút sắp xếp. Bức vẽ cô áo vàng lem nhem kia tốn khoảng 1 giờ đồng hồ. Bức hình chụp cái chậu rửa chân kia, vừa kẻ vạch, vừa xếp chỗ, và chụp mất khoảng hai, ba tiếng đồng hồ.

    Về ý nghĩa của các tấm hình, thiết nghĩ, các em chưa từng học về Art history hoặc nếu có học, cũng lơ mơ. Muốn vẽ một bức tranh chính trị, phải có tư tưởng rõ nét và phải diễn tả sao cho người xem hiểu được mình muốn nói. Như bức tranh "Guernica" mà Pablo Picasso diễn tả lại cảnh thủ đô văn hóa của người Basque bị Ðức oanh tạc tan nát năm 1937, đã là thần tượng của các bức tranh chính trị.

    Bức chiến đấu nhất của thế kỷ 18 là bức "Ngày 3 tháng 5, 1808" của Francisco Goya làm cho bất kỳ người thưởng ngoạn nào cũng phải thổn thức cùng với tác giả. Lộng lẫy nhất có lẽ là bức "Judith slaying Holofernes" vẽ cô chiến sĩ cách mạng cắt đầu kẻ thù. Về tính dục, thì có hàng vạn tác phẩm độc đáo. Từ "Warriors" vào thế kỷ thứ 5 đến "Doryphonis, Hermes and Dionysus, Venus, The Dying slave ..." Những tác phẩm này hồn nhiên diễn tả bộ phận sinh dục của con người, nhưng không một ai nhắm mắt trước vẻ đẹp kỳ thú đó.

    Tất cả những vấn đề liên quan đến các "tác phẩm" của các em, từ hình thức đến nội dung, đều chứng tỏ các em, dù có bằng cấp cao, nhưng tư tưởng quá nghèo nàn. Cũng có thể các em đã bị mua chuộc bằng tiền, bằng các lời hứa hẹn công danh của cộng sản. Các em quên rằng, Blaise Pascal, nhà toán học, vật lý học, và triết gia đã nói: "Con người là một cây sậy có tư tưởng". Nếu không có tư tưởng, thì con người chỉ là một sinh vật. Rất tiếc, tư tưởng của các em qua cuộc triển lãm có tính chất thách đố cộng đồng này, thật là ít ỏi. Dù cho các em có biện luận thế nào chăng nữa, ý định tổ chức cuộc triển lãm này đã là tấm hình chụp "MRI" toàn diện từ tư tưởng, khả năng, đến giáo dục của chính bản thân các em, những sinh vật sặc sỡ nhưng rỗng tuếch.

    Thực ra, có rất nhiều điều muốn trao đổi với các em, nhưng thư đã dài, nên chỉ muốn nhắc điều cuối cùng này. Các em nên nhớ lý do tại sao mình cư ngụ ở đây (trừ các cháu du học sinh là con ông cháu cha của Ðảng, là Ðoàn Viên, là Ðảng Viên, du học bằng đồng tiền nhuộm máu của nhân dân). Cha mẹ các em, khi bỏ hết quê hương, quá khứ, kỷ niệm để vượt biển sang Mỹ, họ đã hãi sợ chế độ đó đến nỗi thà chết trên biển Ðông, thà làm cu-li trong xã hội Dân Chủ còn hơn ở lại với chế độ. Cha mẹ các em may mắn không như vài trăm ngàn người đã chết trong bụng cá, trong rừng sâu núi thẳm. Khi liều mạng sang đây, cha mẹ các em mong cho các em học hành để mai mốt, có dịp thì tiếp tay đổi mới quê hương. Nhưng khi học thành tài, lại quay trở về tiếp tay với bọn đàn áp dân lành, thì các em đã mất trí rồi đó. Lịch sử trùng trùng điệp điệp đó, sao các em không nhìn thấy? Tiếng kêu uất nghẹn ngất trời xanh đó, sao các em không nghe thấy? Thảm cảnh Dân Oan đó, cả thế giới đều thấy, sao riêng các em không biết? Karl Max đã nói: "Chỉ có súc vật mới quay lưng lại nỗi đau của đồng loại mà chỉ chăm chút cái bộ lông của mình."

    Hãy nhìn vào nỗi khổ của mấy chục triệu dân Việt mà tỉnh ngộ đi! Trên hết, nếu không giúp ích gì cho quê hương, đừng chống lại Dân Tộc. Hãy sử dụng tài trí và can đảm của các em mà nói với người Cộng Sản rằng: "Người mà không biết đến Tổ Tiên thì không phải là Người!"

    Lời cuối: Các em nên lưu ý, khi tuyên thệ làm công dân Hoa Kỳ, các em đã thề không phải là đảng viên Cộng Sản, và không phục vụ cho Ðảng Cộng Sản.


    Vài hàng ngào nghẹn, nước mắt tuôn trào.

    Thay mặt cho những người bác, chú, anh lỗi thời, nhưng không lạc hậu.

    Chu Tất Tiến
    ------------------------------
      THÔNG BÁO
    Xét rằng:

    • Hồ Chí Minh cùng tập đoàn độc đảng csVN là tội đồ của dân tộc VN, chúng đã từng bán đất dâng biển cho quan thầy Trung Cộng.

    • Mang lại sư băng hoại cùng cực cho xã hội Việt Nam, tham nhũng khủng khiếp, đục khoét tài nguyên quốc gia tới trộm cắp nước ngoài bị phê phán như lũ giòi bọ, phụ nữ cùng đường phải lấy chồng xa xứ, trẻ em bị bán dâm xứ người …

    • Cờ đỏ sao vàng của csVn không phải là cờ quốc gia mà là của tập đoàn đảng csVN, đại diện cho sự khát máu đã nhuộm đầy máu của đồng bào VN chúng ta.

    • Hiện tại trong nước, csVN lại dâng thêm đất thêm biển cho Tàu cộng & không ngừng đàn áp dã man thanh niên sinh viên quốc nội vì lòng yêu nước của họ, và cũng không ngừng cướp đất, cướp nhà của tôn giáo & người dân vô tội để tư lợi cho mình.

    • Ngoài hải ngoại, chúng luôn quấy rối đồng bào tị nạn qua nhiều hình thức, đặc biệt trong lãnh vực truyền thông nhằm gây chia rẽ, xáo trộn, tạo ra những hiềm khích nghi kỵ, bất ổn làm suy yếu tiềm năng của những người quốc gia luôn tranh đấu cho một Việt Nam công bằng và Dân Chủ.

    Được sự ủy nhiệm của quý Nhân sĩ, quý Hội đoàn, quý Đoàn thể, quý Đảng phái đấu tranh, và quý Đồng hương trong Cộng đồng, nhóm Thanh Niên Cờ Vàng đứng ra tổ chức cuộc biểu tình phản đối cuộc triển lãm F.O.B. II Nghệ thuật Lên Tiếng của tổ chức VAALA có những hình ảnh xúc phạm đến những nỗi đau của người Việt tị nạn cộng sản.

    • Ảnh tượng Hồ Chí Minh là một tội đồ dân tộc.
    • Hình ảnh lá cờ máu.
    • Lá Cờ Vàng chính nghĩa Dân Tộc bị xuyên tạc và bôi nhọ

    Ban tổ chức xin kêu gọi toàn thể quý Thân hào Nhân sĩ, quý Hội đoàn, Đoàn thể, Đảng phái, quý Đồng hương, và quý cơ quan Truyền thông Báo chí tham gia đông đảo cuộc biểu tình vào lúc:

    9:00AM-12:00PM
    thứ bảy ngày 17 tháng 1 năm 2009
    tại trung tâm VAALA
    1600 N. Broadway, Santa Ana, CA 92706.

    Kính báo.

    THANH NIÊN CỜ VÀNG

    thanhniencovang@ gmail.com
    www.thanhniencovang .com

    LS Trần Văn Hoà yểm trợ phần cố vấn luật pháp.

    Sau đây là những danh sách những Hội đoàn, Đoàn thể, Đảng phái, Tổ chức, và Nhân sĩ đã yểm trợ:

    Tập Thể Chiến Sĩ Trung Tâm Tây Nam Hoa Kỳ (Ô. Trần Trọng An Sơn 714-980-3594 )
    Việt Nam Quốc Dân Đảng Khu Bộ Nam Cali (Ô. Vũ Anh Dũng 714-636-6252 )
    Tổng Hội Cảnh Sát Quốc Gia
    Đài phát thanh Diễn Đàn Chống Cộng (Ô. Thái Hiến 714-554-2286 )
    Tổng Hội Không Lực ( 714-925-2010 )
    Cộng Đồng Nam Cali (Ô. Nguyễn Tấn Lạc 714-26...)
    Cộng Đồng Việt Nam nam Cali (BS Nguyễn Xuân Vinh 714-539-3939
    Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tacoma (BS Nguyễn Xuân Dũng 253-473-7081 )
    Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH
    Liên Ủy Ban Chống Nghị Quyết 36
    Phật Giáo Hải Ngoại (Ô. Trương Minh Đức 714-...)
    Ô. Bùi Văn Nhân, cựu Dân Biểu VNCH ( 714-81...)
    Đài Kito Hữu (Ô. Nguyễn Xuân Tùng 714-83...)
    Ô. Lê Quang Dật (Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức, 714-313-1941 )
    Ô. Hoàng Văn Phong (An Lạc Phụng Sự, 714-89...)
    Bạch Đằng Giang (NS Đàm Bảo Kiếm 714-65...)
    Ủy Ban Xây Dựng Nghĩa Trang
    Ủy Ban Xây Dựng Sức Mạnh Cộng Đồng (Ô. Frank Trần)
    Đoàn Thanh Sinh Phó Đức Chính (Ô. Ngãi Vinh)
    Phong trào Tự Do Việt Nam (Ô. Nguyễn Quốc Phục Việt)
    Thanh Niên Đoàn Phật Giáo Hoà Hảo ( 714-25...)
    Diễn Đàn Tiếng Nói Tự Do của Người Dân Việt Nam trên PalTalk
    Diễn Đàn Thảo Luận Hiện Tình Đất Nước và Phỏng Vấn Live trên PalTalk
    Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do (Ô. Đinh Lâm Thanh
    Thanh Niên Thiện Chí Hoà Lan (Ô. Lưu Phát Tấn)
    Trung Tâm Điều Hợp Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải ngoại vùng đông bắc Hoa kỳ (Ô. Đoàn Hữu Định)
    Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Hoà Lan (Ô. Nguyễn Liên Hiệp)
    Việt Nam Cộng Hoà Foundation (Th.T. Lý Tống Bá)
    Ủy Bn Yểm Trợ Đấu Tranh Quốc Nội
    Phụ Nữ và Việc Nước
    Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quang Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Ô. Nguyên Hàm)
    Nhà Văn Quân Đội (Ô. Hải Triều 604-879-1179 )
    Tổng Hội Thủ Đức Hải Ngoại (Ô. Lê Khắc Hải)
    Cộng Đồng Người Việt vùng Greater Vancouver, Canada (Ô. Phan Siêu
    Nguyệt San Việt Nam, Canada
    Phong Trào Đấu tranh đòi Tự do Tôn giáo và Nhân quyền cho VN (Ô. Lê Tử Hà 714-471-8958 )
    Tiếng Nói Giáo Dân (B. Trần Thanh Hiền 714-58...)
    Hội Đền Hùng Hải Ngoại (LS. Nguyễn Xuân Nghĩa, LS. Trần Sơn Hà 714-423-8888 )
    Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Việt Nam, Montreal, Canada (Ô. Trần Đình Thắng)
    Đại Việt Quốc Dân Đảng (Ô. Trần Trọng Đạt 714-...)
    Uỷ Ban Đặc Nhiệm Bảo Vệ Cờ Vàng Tại San Fernando Valley (Ô. Nguyễn Quang Cảnh)
    Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng, The Netherlands (Ô. Nguyễn Trung Cang)
    Bút Nhóm Gọi Đàn (B. Tâm Bền)
    Cộng Đồng Việt Nam vùng Washington DC (Ô. Đỗ Hồng Anh)
    Hội Cựu SVSQ/Bộ Binh/Thủ Đức Orange County (Ô. Nguyễn Phương Hùng 714-469-0462 )
    Điện Báo Take2Tango
    Thanh Niên Sinh Viên Cờ Vàng (Ô. Nguyễn Minh Huy)
    Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền, VN
    Nhóm chủ trương và toàn Ban Biên Tập Hồn Việt, UK online
    Nhóm Người Việt Quốc Gia tại Nordweststadt và vùng phụ cận, Frankfurt am Main, West Germany
    Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh VNCH, Washington (Ô. Nguyễn văn Thảo 253-627-6079 )
    Hội Bảo Tồn Truyền Thống QLVNCH
    Ủy Ban Chống Cờ VC ở Olympia, Washington (Ô. Hồ Tấn Đạt)
    Cộng Đồng VN tại Massachusetts (Ô. Nguyễn Thanh Bình)
    Cộng Đồng Người Việt Thành phố Fresno, California (Ô. Nguyễn Kim Khoa)
    Hưng Việt, Sacramento (Ô. Trần Minh Dũng 916-...)
    LM Nguyên Thanh
    Gia Đình Phật Tử Điều Ngự

    Danh sách sẽ cập nhật thêm.

    Hình ảnh biểu tình trung tâm VAALA





    Từng đoàn xe bus đổ người dồn dập ngay trước tòa binh đinh, trong đó có trụ sở của Vaala. Phái đoàn xa nhất từ Bắc California cũng có mặt. Các anh chị em đã lái xuyên đêm về kịp ngay đúng giờ Đoàn Người Quốc Gia làm lễ Chào Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa




    Một biến cố bất ngờ xảy ra vào lúc 9 giờ 30, một thanh niên ngang nhiên cầm "lá cờ máu" đến khiêu khích đối diện đoàn biểu tình. Sự phẫn nộ nổ bùng không tránh khỏi.


    Cảnh sát Santa Ana đã lập tức còng tay và áp giải thanh niên "khiêu chiến" này lên xe.