Thursday, December 24, 2009

34 năm nằm há miệng chờ sung - Nhữ Văn Úy

34 năm nằm há miệng chờ sung,
MỘT THẾ HỆ ĐÃ CHẾT,
TỰ SÁT ĐẾN BAO GIỜ?

Nhữ Văn Úy


- Sau 30 - 4 - 1975, "trò chơi tráo bài tây chính trị giữa chế độ Cộng sản và chế độ VNCH đã lật ngửa": Những nhân vật chế độ VNCH đã hoàn toàn không phải chỉ mất trắng tay mà còn nặng nề hơn thế nhiều:

- Thế hệ thời đó hoàn toàn bị tiêu diệt trong thực tế: lớp chết dưới nhiều hình thức, lớp may mắn hơn thoát chết ngay nhưng như những xác chết chưa chôn, chết lần mòn nơi viễn xứ. Nếu còn có một thiểu số nào đó vẫn còn liên tục cuộc chiến đấu dang dở thì chỉ thuộc thành phần quý hiếm, với tỷ số nhỏ nhoi không đủ để mệnh danh cho một thế hệ (1).

- Thế hệ trực tiếp thừa kế là một thế hệ "tẩu hoả nhập ma"; lớn lên như một nạn nhân sống giữa xã hội bị bệnh tâm thần, hoàn cảnh quá tang thương: gia đình bị xé nát, đất nước bị tang tóc; xã hội bị một nhà nước khủng bố tàn ác hơn lang sói thống trị. Thế hệ là nạn nhân 100% này như một cái cây con lớn lên trong giông bão dập vùi từ thể xác đên tinh thần, không cây lớn chở che, bảo vệ!

- Thế hệ thứ ba -thế hệ là cháu nội, cháu ngoại cuả thế hệ bị tiêu diệt- là một thế hệ què quặt: kẻ còn sống ở quê nhà thì trên phương diện khách quan mà nói, về chiều sâu của chính trị, vẫn bị liệt vào "thành phần tàng tích của Mỹ Ngụy" dĩ nhiên muôn thuở vẫn bị xếp vào thù địch của chế độ hoặc tàn tích chế độ NGA - HOA!. Người may mắn thoát được ra hải ngoại, những hạt giống này vẫn là những hạt giống nẩy mầm trong ngôi sao xấu vì là những giống cây ném vào vùng đất lạ, khác nhau cả về thời tiết lẫn thổ ngơi.

Nói tóm lại, bão tố chính trị ngày 30-4-1975 là một cơn bão tố truyền kiếp; trận bão chỉ có thể được coi như chấm dứt khi những con người Việt Nam - dù là gốc VGCS hay gốc VNCH - có một tinh thần yêu nước mãnh liệt, có một lòng nhân từ đáng kính và nhất là có một trình độ văn minh văn hoá (2) đủ để nhận thức về giá trị cuả độc lập, tự do và nhân quyền, hợp nhất lại trong tinh thần của các vị anh hùng cứu nước xưa, như ĐỨC THÁNH TRẦN, khi hữu sự cương quyết đặt thù nước trước hận nhà (3)

34 năm qua, cái tinh túy đó chưa thấy xuất hiện, chỉ mới thấy xuất hiện những thành phần cặn bã thuyết giảng lăng nhăng về đoàn kết, hoặc nhân danh đoàn kết để phá nát đoàn kết bởi đặt quyền lợi cá nhân hay khối nhóm, tôn giáo trên quyền lợi tối thượng; có những kẻ khốn nạn hơn là nhân danh đoàn kết để .... làm cò cho chế độ bán nước hiện tại; cần phải chỉ mặt điểm danh một kẻ dạ thú đó làm tài liệu minh chứng cụ thể để bịt miệng cào vạ của những cá nhân làm cò .... của cò ..... . Đó là mụ tự xưng "bác sĩ NGUYỄN THỊ THANH, tự THANH THỦM, kêu gọi người VN yêu nước về đầu phục NGUYỄN TIẾN DŨNG, tôn phò hắn lên ngôi Tổng thống ! Đê hèn còn hơn chó con liếm tay chủ, rao công khai trên mạng nguyên văn "dân tộc VN có phúc 10 đời mới được người tài đức vẹn toàn đó nhận ngôi Tổng thóng".

Dưới khía cạnh khác, cũng phải kể thêm một nhân chứng cụ thể khác nữa, tuy không thò mặt .... "chim cò" cũng trực t tiếp làm tay sai cho bọn VGBN dưới dạng thức "nằm vùng" mà sự tàn phá của chúng cũng mãnh liệt không thua bọn "chim cò" như vừa kể ở trên. Bọn này chuyên vẩy bẩn vào những cá nhân hoặc tập thể yêu nước, điển hình là Diễn Đàn NƯỚC VIỆT, với Điều hợp viên TÔN THẤT SƠN và những cây viết chính của chúng là VÕ VĂN SĨ, NGUYỄN PHƯỚC ĐÁNG, mà danh từ bình dân nôm na gọi là những tên thợ .... sơn cứt vào những nhân vật khả ái đối kháng với chế độ bán nước hại dân.

34 năm qua, nhân danh chống Cộng để chống nhau, để tàn sát lẫn nhau còn tích cực và tàn bạo hơn với kẻ thù, là một thế hệ điên khùng đang tự sát!

34 năm, nắm vững nguyên lý về chính trị là chính nghĩa của VNCH tất thắng, nhưng thờ ơ với sự xây dựng và phát huy, trông chờ vào ngoại bang .... giải quyết là một hành động nằm dưới gốc cây sung há miệng chờ sung rụng trúng miệng là một thế hệ xuẩn động đang tự sát!

34 năm mà chưa học được bài học đau thương MỸ đã bàn giao VNCH cho VGCS, lịch sử chiến tranh VN đã được giải mã nhiều tài liệu mật chứng minh điều đó mà vẫn nằm ngửa, bất động há mồm chờ sung rụng, là một thế hệ ngu xuẩn sống trong trạng thái "người thực vật", hoặc liệt não, hoặc chìm sâu trong giấc ngủ mộng du!

Hỡi những kẻ điên khùng, những kẻ xuẩn động, những kẻ liệt não hay mộng du, hãy bừng tỉnh giấc mơ. Cầm tất cả những gì có thể cầm được làm võ khí cùng nhau sát cánh tiến lên trực diện tấn công kẻ thù, giải phóng thực sự cho dân tộc!

Đã đành với một cuộc TỔNG NỔI DẬY BẰNG BẠO ĐỘNG sẽ có những tổn thất đau thương nhưng sớm mang lại được kết quả tươi đẹp cho giang sơn nòi giống hơn là .... ăn phải bã của bọn chuyên "hát ru" bài ca bất bạo động, nằm lim dim mơ màng mỉm cười chờ chết!

Với 34 năm qua qua, sự tổn hại của dân tộc nằm tự hát ru bài ca bất bạo động, được ví dụ thực tế như kẻ tự dẫn xác đến miệng cọp sẵn sàng nạp mạng, hy sinh cho chúng nó xơi, cầu xin sau này chúng tha mạng cho hậu duệ mình là một sự hy sinh vô ích không bao giờ giải quyết được vấn đề, là hy sinh phí phạm; còn tổn thất gấp bao lần hơn mở một trận thư hùng với cọp, ngay từ lúc này, khi chúng đang mang bạo bệnh khắp cả ngoài da cũng như trong lục phủ, ngũ tạng!
    .......... DẬY!
      ........ DẬY ĐI!
        ............ DẬY MAU !
          ...................... DẬY !!!
            ..................... DẬY! DẬY!!!
Nhữ Văn Úy

Chú Thích: (1) Thời VNCH, "nhân tài" và "thương dân yêu nước" đâu ra mà nhiều thế,bò ngổn ngang ngút ngàn như lũ cua phủ kín đảo; nhìn hiện tượng những vụ tranh cử vào các chức vụ dân cử từ hạ tầng cơ sởđến Trung ương thì đủ rõ. Lấy đơn vị tôi tranh cử làm thí dụ điển hình vì tôi là người trong cuộc, biết rất rõ:

Ngày tôi ra tranh cử Hội đồng xã (đơn vị là xã Trung MỸ Tây), chọn có 6 Hội viên mà có tới 21 người ứng cử!

Ngày tôi ra tranh cử nghị viên (đơn vị quận HỐC MÔN), chỉ chọn có 5 mà có tới 27 người tranh cử!

Ngày tôi ra tranh cử DÂN BIỂU (đơn vị nửa tỉnh Gia Định, gồm 3 quận Tân Bình, Hốc Môn và Bình Chánh), chỉ chọn có 6 mà có tới 86 người tự tranh cử!

Vậy thì cả nước có tổng số bao nhiêu những lẻ vỗ ngực xưng danh là "nhân tài, yêu nước, thương dân" ? Nay đất nước thực sự cần đến họ, họ đâu? tan biến như tan vào hư vô; còn loáng thoáng vài ba cánh bèo bồng bềnh trên đại dương. BUỒN!

(2) VĂN MINH VĂN HOÁ, không phải là văn minh khoa bảng, một thứ chỉ có giá trị là cần câu cơm, nếu rơi vào tay phường giá áo túi cơm!

(3) Trang sử vàng cuả VN còn ghi lời khảng khái cuả Đức THÁNH TRẦN khi được nhà vua vời hỏi ý kiến đầu hàng khi di tản. Hận nhà, Ngài đã xếp xuống dưới thù nước! Quyết liệt phá tan giặc xâm lăng!

(4)


Điên Đảo - HT Thích Viên Định

HT Thích Viên Định

Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thuờng gán tội “cấu kết với các thế lực thù địch âm muu lật đổ chính quyền” lên các thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các Giáo Hội độc lập của các tôn giáo, các thân hào, nhân sĩ, các nhà trí thức, các văn nghệ sĩ, các sinh viên, học sinh biểu tình, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải cho Tổ quốc Việt Nam.

Hòa Thượng Thích Viên Định
Không một quốc gia văn minh, dân chủ nào trên thế giới có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”, không luật pháp nước nào có tội danh đó.

Tại sao Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản luôn có các “Thế lực thù địch”?

Năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dùng vũ lực cưỡng chiếm miền Nam rồi duy trì sự cai trị độc tài, độc đảng suốt từ đó đến nay bằng súng đạn, quân đội, nhà tù, công an, khủng bố, bưng bít, lừa dối, tuyên truyền. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam là một trong số rất ít những nhà cầm quyền còn sót lại trên thế giới đã cướp chính quyền bằng bạo lực. Trong khi đó, toàn dân lại luôn mong muốn có một chính quyền được bầu cử hợp pháp bằng lá phiếu của người dân một cách tự do, dân chủ, công bằng, một chính quyền thật sự của dân, do dân, và vì dân. Không do dân bầu, bất hợp pháp, nên Nhà cầm quyền độc tài cộng sản Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất an, lúc nào cũng cảm thấy có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”.

Trong một chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng, các đảng phái, mặc dù đối lập nhau, nhung không thù địch, trái lại, hỗ tương, bổ khuyết nhau, rất cần cho sự cạnh tranh để phát triển đất nước. Trái lại, dưới chế độ độc tài, độc đảng, thì bất cứ tổ chức, cá nhân nào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, đều bị xem là vi phạm luật pháp, là thù địch.

Mặc dù bị nhà cầm quyền độc tài bỏ tù, quản thúc, gán tội vi phạm luật này, luật nọ, những điều luật mơ hồ, phản tự do, phi dân chủ, chống nhân quyền, trái với Công uớc quốc tế … những người bị hãm hại này lại chính là những nguời mà Đức Cố Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà thuợng Thích Huyền Quang gọi là những người “tù không tội”. Bởi vì vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp công với đất nước, sao gọi là tội ?

Các “thế lực thù địch” của Nhà cầm quyền cộng sản là ai?

“Thế lực thù địch” dễ biết nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở nước ngoài, tiếp đến là các đảng phái chính trị không cộng sản trong và ngoài nước, và cuối cùng là 85 triệu người dân Việt trong nước ngày đêm mong muốn được sống trong không khí Tự do, Dân chủ, Nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số tổ chức, hội đoàn và chính quyền các nước văn minh chống độc tài, độc đảng, yểm trợ các phong trào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng, phát triển tại Việt Nam.

Có “âm muu lật đổ chính quyền” hay không?

Tất cả các đảng Cộng sản trên thế giới đều dùng bạo lực để cướp chính quyền. Trái lại, các đảng phái chính trị, không cộng sản, của người Việt trong và ngoài nước, các cộng đồng nguời Việt tỵ nạn cộng sản, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh và 85 triệu nguời dân trong nước, hiện nay, không có thành phần nào chủ trương dùng bạo lực để lật đổ chính quyền.

Theo trào lưu dân chủ trên thế giới, người dân Việt Nam, ai cũng mong muốn có một cuộc bầu cử trong tự do, dân chủ, công bằng để bầu ra một chính quyền đích thực “của dân, do dân, và vì dân”. Đảng phái nào được dân ủng hộ, đắc cử, thì đứng ra lập chính quyền. Trong thế giới dân chủ, văn minh ngày nay không chấp nhận việc dùng bạo lực để cướp chính quyền. Cũng không chấp nhận việc dùng súng đạn, công an, nhà tù … để duy trì quyền lực.

Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam, theo chủ thuyết Mác-Lê, vừa sai lầm, vừa lạc hậu đã cản trở buớc tiến của dân tộc. Vì đặc quyền đặc lợi, muốn tiếp tục nắm giữ quyền hành, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản lại không dám tranh cử công bằng với các đảng phái, cá nhân thuộc thành phần đối lập, nên cố tình gán cho các thành phần khác là “các thế lực thù địch” để dễ tuyên truyền, đàn áp, tiêu diệt. Việc ghép tội “âm mưu lật đổ chính quyền” lên các cá nhân, đảng phái đối lập là hoàn toàn vu cáo.

Tình trạng độc tài đảng trị lâu ngày sinh ra các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, cắt xén, mua bằng, bán chức … làm băng hoại xã hội, cản trở buớc tiến của dân tộc. Lo lắng trước hiểm hoạ độc tài này, trong Thư Chúc Xuân gửi các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ năm Ất Dậu, 2005, Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã nói rằng, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong cương vị Tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị”. Hoà thượng đã đề nghị giải pháp đa nguyên đa đảng, bước đầu có thể là 3 đảng, “Chỉ cần một đảng tả khuynh, một đảng hữu khuynh, một đảng trung hòa đại diện cho các dòng suy nghĩ chính lưu”. Nhưng Nhà cầm quyền cộng sản cứ khăng khăng cố giữ thể chế độc tài độc đảng, cho rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Điều 4 trong Hiến Pháp hiện nay, dành cho Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước, giống như thời phong kiến, Thiên tử, con trời, được độc quyền cai trị đất nuớc, không ai được tranh giành.

Nghị quyết 1481, ngày 25.1.2006, Quốc Hội Âu châu đã lên án các Đảng cộng sản trên thế giới là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc, là tội ác chống nhân loại. Hoa kỳ đã lập Đài tuởng niệm trên 100 triệu nạn nhân đã bị các chế độ cộng sản sát hại trên thế giới. Vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục làm những việc trái luật pháp, phản dân chủ, bắt người, giam giữ mà không cho liên lạc với thế giới bên ngoài, không cho luật sư biện hộ, dùng những lời khai, đưa lên báo, đài để bôi nhọ, lăng nhục, trong khi Hiến Pháp, điều 72, xác nhận rằng: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.

Không sao cả, có thể, nay một vài luật sư, mai vài ba bác sĩ, ngày mốt là các tu sĩ, bữa kia là công nhân, rồi tiếp đến là nông dân, thương gia, sinh viên, học sinh … các giới cùng bị đưa lên báo, đài, với cùng tội danh, “chống nhà cầm quyền độc tài, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý”. Càng có nhiều người chống độc tài, nền dân chủ sẽ đến với dân tộc ngày càng gần hơn.

Mỗi người, tuỳ sức khoẻ cá nhân, tuỳ hoàn cảnh gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu, có cách đối phó riêng trong cuộc chiến giành tự do rất gian khó này. Cần phải sống để giành cho được Tự do, Độc lập cho dân tộc. Cái tội, “chống độc tài, yêu tự do”, ai lại không muốn lãnh? Nếu những người vận động cho tự do, dân chủ, nhất thời có bị đàn áp, chỉ đưa tới sự thắng thế của bạo lực, không có gì phải tủi hỗ. Cuối cùng, Tự do, Dân chủ sẽ thắng!

Tuy chăm chú việc lên án các đảng phái chính trị và những người khác chính kiến là “thù địch”, nhưng hiện nay Nhà cầm quyền cộng sản, luôn tránh né, không bao giờ đề cập, lên án tội “Cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam”, cái tội liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của tổ quốc và dân tộc mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo, các đảng phái, các tổ chức, các sĩ phu, trí thức, sinh viên, học sinh và 85 triệu người dân đang rất quan tâm, hồi hộp, lo lắng từng ngày. Nếu gọi là thù địch thì giặc ngoại xâm mới thật sự là thù địch. Không nên điên đảo, nhìn kẻ cướp nước là bạn, xem đồng bào ruột thịt là thù.

Cái “Thế lực thù địch lâu đời” này mới đáng lo, nó không âm mưu lật đổ chính quyền, mà nguy hại hơn, “âm mưu xâm chiếm Tổ quốc Việt Nam!”. Việc thay đổi chính quyền chỉ là chuyện nhỏ, chuyện nội bộ. Tổ quốc là của chung, không phải riêng ai. Các đảng phái thay nhau lập chính phủ chỉ là sự cạnh tranh, cần có, tránh sự trì trệ, để phát triển đất nuớc. Không thể một mình một chợ, một đội bóng một sân banh, mặc tình, tham nhũng, hối lộ, cắt xén, làm đất nuớc suy yếu, nghèo đói, tụt hậu. Nay, đảng này lên, mai, đảng kia xuống, chỉ là những chuyện thuờng ngày trong các bản tin thời sự quốc tế, không có gì là quan trọng, ầm ĩ hay thù địch. Tổ quốc bị xâm lăng mới là chuyện lớn, mới là chuyện thù địch.

“Thế lực thù địch” của Dân tộc đang “âm muu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam” là ai?

Hỏi tức là trả lời. Toàn dân, già, trẻ, lớn, bé, ai cũng biết, cái “thế lực thù địch” với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay chính là Bắc phương! Việt Nam đang bị Hán hoá! Hoạ mất nước đã bắt đầu:

- Năm 1958, Nhà cầm quyền Trung cộng tuyên bố lãnh hải của Trung quốc bao gồm các hải đảo Hoàng sa, Truờng sa của Việt Nam. Năm 1974, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng sa. Năm 1979, Trung cộng đánh chiếm 6 tỉnh miền Bắc, khi rút về, dời cọc biên giới, lấy mất Ải Nam quan, Thác Bản Giốc. Năm 1988, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Truờng sa. Năm 2005, 2006, ngư dân Thanh Hóa ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt người bị thương, cướp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc. Năm 2007, Trung cộng tuyên bố thiết lập Huyện Tam sa bao gồm các quần đảo Hoàng sa, Truờng sa của Việt Nam. Năm 2008, Trung cộng và nhà cầm quyền Hà nội hoàn thành việc cấm mốc biên giới phía Bắc lùi sâu vào địa phận lãnh thổ Việt Nam. Năm 2009, Trung cộng được nhà cầm quyền Hà nội mời vào khai thác quặng Bô-xit ở Tây nguyên, gây nguy cơ an ninh quốc phòng nơi vùng chiến lược yết hầu của Việt nam và Đông dương do sự uy hiếp của hàng chục nghìn công nhân Trung quốc. Ngoài ra còn tàn phá môi trường, thải ra hàng núi Bùn đỏ độc hại làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, lâu dài trong lòng đất, sông ngòi và khí hậu cho cả khu vực Nam Trung bộ và Miền nam Việt Nam. Nguy hại nhất là vị trí chiến lược quốc phòng bị chiếm đóng. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên Biển Đông, bắt tàu thuyền, ngư dân Việt Nam, đòi tiền chuộc …

Suốt 4 ngàn năm lịch sử, ông cha ta không làm mất một tấc đất, ngày nay, mới vài chục năm, tổ quốc đã bị xâm lấn từ biên giới phía Bắc đến hải đảo phía Đông, cả Tây nguyên cũng sắp mất.

Đã xác định được “thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc”“Trung cộng” thì cũng xác định được:

Ai là kẻ “cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc”?

Nhân dân Việt Nam, với truyền thống anh hùng, mấy nghìn năm chống “thế lực thù địch phương Bắc”, tại sao ngày nay lại để quê hương tổ quốc, từng phần, rơi dần vào tay kẻ thù truyền kiếp một cách âm thầm như vậy?

Phải có sự cấu kết trong nước nên các cuộc biểu tình, lên tiếng chống Trung cộng của sinh viên, học sinh và đồng bào ta mới rụt rè, yếu ớt, mau tàn rụi vì bị hăm doạ, cản trở từ phía Nhà cầm quyền vào đến các trường đại học bởi lý do: “không đuợc phép”.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới vừa là kẻ xâm lăng vừa lại được ưu tiên trong việc đấu thầu các công trình khai thác ở Việt Nam.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới dễ dàng xâm chiếm các hải đảo, lãnh hải, biên giới, đưa dân tràn vào Việt nam một cách tự do, ào ạt, không cần chiếu khán. Đây là một cuộc xâm lăng kiểu mới, rất tinh vi, quân dân Trung cộng đang đổ bộ vào chiếm đóng nước ta một cách nhẹ nhàng, êm thắm, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu.

Quân đội và đồng bào ta đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tổ quốc trong các trận chiến đảo Hoàng sa năm 1974, đảo Trường sa năm 1988, nhất là cuộc chiến rất ác liệt ở biên giới phía Bắc năm 1979, gần 40 nghìn quân đân Việt Nam đã bỏ mình vì tổ quốc, vậy mà hàng năm không thấy tổ chức kỷ niệm, nêu gương hy sinh bảo vệ tổ quốc cho con cháu noi theo. Trái lại, cứ mỗi lần Tết đến, Nhà cầm quyền lại tổ chức viếng lễ các nghiã trang quân xâm lăng Trung cộng, đặt vòng hoa: “đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung quốc”.

Công Hàm ngày 14.9.1958, do Thủ tuớng Bắc Việt, Phạm văn Đồng, ký công nhận tuyên bố của Trung cộng, lãnh hải Trung quốc bao gồm đảo Hoàng sa và Truờng sa của Việt Nam, có phải là bằng chứng cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng tổ quốc?

Phương châm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt : “láng giềng tốt, hợp tác tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” có phải là bằng chứng của sự cấu kết?

Đảng cộng sản Việt Nam theo chủ thuyết Mác-Lê với lý tuởng: “vô gia đinh, vô tổ quốc, vô tôn giáo”. Nếu hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc đã: “hợp tác toàn diện” theo lý tuởng “vô tổ quốc” trong tinh thần: “đồng chí tốt” thì còn gì là Dân tộc!, còn gì là non sông!

Hoạ mất nước đã đến, tái hiện cảnh: Ngàn năm làm nô lệ Bắc phương!
    Tổ quốc lâm nguy!!!
Thích Viên Định

Tuesday, December 22, 2009

Hãy Quên Quá Khứ, Hãy Xóa Bỏ Hận Thù - Trang Hiền Võ

Trang Hiền Võ

Tôi đã đọc câu này ra rất nhiều lần - cả trăm lần - để chắc mình không hiểu lầm!

Hãy quên quá khứ …

Tại hải ngoại, CSVN không ngừng kêu gọi người Việt hãy quên quá khứ để hướng về tương lai. Trong Tâm Sinh Lý học, quên quá khứ là chuyện không thể làm được. Cái gì đã đi vào bộ não thì sẽ ở đó cho đến khi con người lìa đời? Một đôi khi chấn thương sọ não hay tinh thần có thể làm gián đoạn dẫn truyền của hệ thống thần kinh. Nhưng khi hồi phục thì người ta vẫn nhớ lại. Ngày nay, với tất cả thành tựu của con người trong mọi lãnh vực, văn minh trong cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần là nhờ quá khứ đấu tranh cả mấy ngàn năm – không chỉ qua những thành công mà chính là nhờ những thất bại. Thế thì tại sao phải quên quá khứ?

Nhưng “hãy” quên cái quá khứ nào?

- Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ tù đày trong những trại học tập không biết ngày mai, bị sỉ nhục mỗi ngày mà vẫn phải cám ơn “cách mạng” đã khoan hồng? Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của gia đình bị hăm dọa đẩy lên vùng kinh tế mới để nhà cửa còn lại cho cách mạng tịch thâu và khi trở về phải ngủ dưới hầm cầu, trên vỉa hè của chính nhà của mình? Quá khứ hãi hùng hễ bị chụp mũ là tư sản thì đời kể như tiêu tùng, thân bại danh liệt, tài sản tịch thu, thân tù đày? Quá khứ hãi hùng trên biển cả, khiếp đảm trong bìa rừng Thái, Lào mà mỗi gia đình người Việt ngày nay ở hải ngoại đều có 1 câu chuyện như là một phần đời … xa hơn nữa, có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của cuộc cách mạng địa chủ năm 1954 đã hành quyết hàng chục ngàn người hay là cuộc chôn sống tập thể cả 5 ngàn người vào Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968? Ngược lại, có những quá khứ không nên quên bao giờ chẳng hạn như cuộc cách mang mùa Thu, Đại Thắng Mùa Xuân, những hy sinh vô bờ bến của Hồng Quân Liên Sô và Trung Quốc ...?

Mỗi lần nghĩ về lịch sử oai hùng của dân tộc và những hy sinh của tiền nhân trong công cuộc dựng nước và giữ nuớc là tôi thấy hãnh diện và sung sướng. Không phải quá khứ nào cũng huy hoàng – và không có lý do gì tôi chỉ nên nhớ những huy hoàng ấy và bỏ qua những sai lầm như một trốn chạy. Còn như để quên quá khứ như một người mất trí thì hướng về tương lai để làm gì?

Ngay tại Việt-Nam ngày nay, nhiều người đã muốn quên quá khứ như mượn rượu để giải sầu. Có người còn muốn quên cả hiện tại. Phải chăng đây cũng là phản ảnh của hiện tượng hút xách, ăn nhậu, chơi ngông ? – thêm vào đó chính quyền còn giúp cho đại đa số dân chúng một cuộc sống phải vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày một – và một hệ thống giáo dục tẩy não để họ không có thời giờ nhớ về quá khứ hay phương tiện để tra cứu?

Hãy xoá bỏ hận thù …

Có lẽ người nói câu hãy quên quá khứ để hướng về tương lai muốn nói là hãy xóa bỏ hận thù để hướng về tương lai? Vì quá khứ là một “hiện thực” khách quan nên không thể quên được. Nhưng hận thù là sản phẩm của tâm tư con người nên con người có thể khắc phục được. Hận thù đưa đến trả thù sẽ làm cuộc sống máu me dơ bẩn. Hận thù làm tâm linh ta khốn khổ, cuộc sống mất đi cái hồn nhiên vô gía và hướng thượng … và ngay cả sau khi trả được mối thù, cái bàn tay nhuốm máu ấy vẫn không bao giờ rửa sạch …

Nhưng chính người cộng sản Việt-Nam đã lấy hận thù để làm cách mạng. Có cái lòng hận thù nào để giáo dục cho con cháu như thế này: hôm qua dân quân ta bắn rơi 2 máy bay của Mỹ Ngụy. Hôm nay dân quân ta lại bắn rơi thêm 3 chiếc nữa. Vậy tổng cộng ta đã bắn rơi bao nhiêu chiếc cả thảy? Họ đã lấy hận thù để tiêu diệt tất cả các đảng phái không cùng chính kiến với họ. Sau khi toàn thắng ở miền Nam, thay vì dùng cái cơ hội bằng vàng này để nêu cao chính nghĩa dân tộc và hoà giải quốc gia, họ nhìn ở đâu cũng thấy toàn kẻ thù. Cái tâm lý bệnh hoạn và sợ hãi củng cố chế độ đã làm họ phải quyết định bế môn tỏa cảng trong cả 10 năm đầu. Hậu quả thì như ai cũng biết, nước Việt-Nam đã trở thành 1 trong 10 nước nghèo đói nhất của thế giới. Đánh động được lương tâm của con người qua những việt trợ nhân đạo, chính họ cũng phải nới lỏng nền kinh tế chỉ huy thiếu hiện thực, như đã từng được chứng minh qua các cuộc cách mạng ở Liên Sô và Trung Quốc. Nhưng khi tình hình đã được khả quan hơn nhờ những trao đổi với bên ngoài, họ trở lại nhìn thấy thêm kẻ nội thù, từ chính người dân của họ, những đồng chí mà cách đâu không lâu đã hy sinh cuộc đời cho sự nghiệp “giải phóng” dân tộc do họ chủ xướng. Ngoài những lực lượng thù nghịch, họ đã đặt để thêm những kẻ thù trong những “diễn tiến hoà bình” - nỗi lo sợ và lời buộc tội đã mâu thuẫn với chính danh xưng của những biến chuyển mà nghe ra rất khách quan trong phát triển tự nhiên của con người. Họ khuyên người ta hãy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù nhưng chính họ thì không bao giờ, vì hận thù vốn là sức sống, là linh hồn, là nền tảng của sự an toàn trong tư tuởng và lý luận của những người cộng sản Việt-Nam khi đi làm các mạng!

Nhưng có những hận thù nào ta không nên quên chăng? – cho dù cả ngàn năm sau? – như hận thù của 2 bà Trưng Trắc Trưng Nhị trước cảnh nước mất nhà tan mà rồi cuối cùng vẫn phải nhảy xuống sông tự vẫn?, Trong đấu tranh cho Chủ Nghĩa Xã Hội, người vô sản có nên quên mối thù không đội trời chung với bọn tư bản bóc lột? Không hận thù thì làm gì có cách mạng? những ai còn phân vân với tính chuyên chính vô sản này thì cứ tìm đến ông Tô Huy Rứa để nghe lời giải thích. Hay là chỉ có người cộng sản mới được quyền hận thù?

Mới đây thôi, trong bài diễn văn đọc trước Quốc-Hội Hoa Kỳ, bà Thủ Tướng nước Đức đã nói gì? Cần nhắc lại, bà Merkel đã sống và lớn lên trong xã hội cộng sản Đông Đức mà vẫn trở thành Thủ Tướng của nước Đức thống nhất là một bằng chứng của sự xóa bỏ hận thù: “Nhưng đừng có ai nhầm lẫn: Khoan dung không có nghĩa là thế nào cũng được. Không khoan dung với những ai không tôn trọng và chà đạp các quyền vô giá của con người.

Xóa bỏ hận thù không có nghĩa là đồng lõa với tội ác. Không chịu nhìn thẳng vào cái gì đã gây ra hận thù nhưng chỉ biết kêu gọi xoá bỏ, cũng như họ kêu gọi đoàn kết nhưng không chỉ cho thấy cái gì đã gây ra chia rẽ là một sự lường gạt ấu trĩ và rẽ tiền !.

Hướng về tương lai …

Có ai trong chúng ta sống mà không để hướng về tương lai?. Ngay cả trong tu dưỡng cá nhân cũng để cho một sự ra đi thanh thảng khi từ giã cuộc đời. Tất cả người Việt chân chính đều mong muốn thấy được một nước Việt-Nam giàu mạnh, công bằng và nhân bản. Nhưng một lần nữa chúng ta đang nói về một tương lai nào? Một sự thành cộng của chủ nghĩa xã hội tại Việt-Nam và trên toàn thế giới? Quên quá khứ để hướng về tương lai trong diễn dịch của nhà cầm quyền CSVN là quên hết (như người mất trí?) và chấp nhận trở về làm việc cho họ. “Bằng lòng đi em về với quê hương”. Những người cộng sản Việt-Nam đã nói rõ ràng rồi: yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội. Danh từ “đoàn kết” có nghĩa là từ bỏ vị trí chống đối hoặc không đồng chính kiến để trở về dưới sự lãnh đạo của họ. Không có hòa hợp hòa giải gì cả. Hãy thành thật với nhau như chút liêm sĩ còn lại mà chúng ta đều hiểu: không ai có tư cách mặc cả với chế độ CS hiện nay cả!

Tôi không tin là cho đến bây giờ những người gọi là Việt Kiều Yêu Nước vẫn chưa biết mình đang nói cái gì? Xin các Việt-Kiều Yêu Nước đừng lừa dối thế hệ trẻ ngày nay vì họ không có cơ hội để kiểm chứng. Xin đừng tiếp tục làm dơ bẩn những ý tưởng cao đẹp của lòng nhân đạo, tình quê hương là những giá trị cao quý của dân tộc. Nhắm mắt lại như con đà điểu chui đầu vào cát? - những người tự gọi là Việt Kiều yêu nước đi về Việt-Nam xây vài lớp học, đào vài cái giếng rồi giáo dục những người Việt khác cũng nên yêu nước như mình. Chính người viết bài này cũng đã và đang gởi tiền về Việt-Nam để giúp đỡ bạn bè thân nhân khốn khổ của mình nhưng yêu nước và “chỉ là” lòng nhân đạo khác nhau rất nhiều!. Hãy nhìn cho rõ cái nguyên nhân chính đã đưa đến tình trạng hiện nay. Đó là hậu quả của một chế độ chính trị lỗi thời đang ngự trị trên cái quê hương khốn khổ này. Con đường đi đã sai lầm rồi thì càng đi càng xa cái đích dù đi bằng cách nào đi nữa. Trong mặt tiêu cực, càng đi càng lãng phí, càng phá hoại như chúng ta đã nhìn thấy xã hội hiện nay. Dù có bao nhiêu nghị quyết, bao nhiêu “rà sát” cũng chỉ là “mị dân” mà thôi.

Chính cái chế độ chính trị này trong hơn 30 năm qua đã đưa đất nước thụt lùi, cụ thể là so với các nước khác trong vùng. Trong lãnh vực xã hội, chính cái chế độ chính trị này đã tạo ra 1 giai cấp thống trị mà giờ đây chẳng khác gì một loại băng đảng, bao che cho nhau và sống trên mồ hôi nước mắt của tuyệt đại đa số người dân còn lại. Cái hậu quả của chế độ chính trị này đã và đang thấy tại các quốc gia đi theo cùng một chế độ chính trị. Tại Việt Nam, để bảo tồn quyền lực, băng đảng này đối với các thế lực cường quốc thì lạy dạ run sợ nhưng đối với chính người dân khốn khổ của mình thì thẳng tay đàn áp. Người cộng sản nói rất rõ: chế độ nào cũng là chế độ độc tài của giai cấp thống trị. Trong chế độ XHCN, đó là giai cấp vô sản. Cho nên chế độ XHCN là chế độ độc tài của giai cấp vô sản. Người cộng sản cười thầm khi những kẻ theo đuôi họ cứ ráng giải thích tính dân chủ tư sản của chế độ cộng sản.

Nhưng thực tế chúng ta thấy gì? - chế độ của họ ngày nay quả là chế độ độc tài của 1 giai cấp lãnh đạo, nhưng không phải vô sản mà là 1 loại siêu tư sản, được bảo vệ một cách công khai bởi hệ thống chính trị và chính quyền. Điều này không chỉ thấy ở Việt-Nam mà trong hiện thực của tất cả các nước cộng sản ngày nay. Trong kinh tế , nhờ vào quyền lực sẵn có, họ hội tụ tài sản của cả quốc gia vào trong tay tập đoàn lãnh đạo của họ. Cho nên nhóm bè đảng lãnh đạo của bọn họ rất giàu trong khi quốc gia thì vẫn èo ọt và tuyệt đại đa số người dân thì vẫn nghèo đói. Trong chính trị, băng đảng của họ có quyền lực không khác mấy thời của những lãnh chúa … cái chế độ như cha truyền con nối là những ngạo mạn, thách thức đối với lương tri của con người. Nếu họ vẫn còn đó – và có lẽ phải còn chờ lâu nữa cho đến khi trình độ dân trí của dân ta đủ mạnh để chiến thắng những khó khăn và sợ hải của cuộc sống – thì xã hội sẽ tiếp tục như vậy ... Đó là cái tương lai mà Người Việt Yêu Nước muốn hướng về? Còn nếu không, hãy quên bất cứ quá khứ nào cũng được để hướng về 1 tương lại vô định thì nếu người nói không mù quáng là có ý xem thường khả năng phán đoán của người nghe rồi. Một số người Việt khác quả quyết họ vẫn yêu quê hương bằng một con đường hợp tác khác, như con đường của một Tôn thọ Tường thì tôi chỉ còn biết tặng họ lại hai câu thơ của cụ Phan văn Trị:

    Anh hởi Tôn Quyền anh có biết?
    Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng …


Vào lứa tuổi của tôi có bạn đã chết, đang bị đày đoạ trên chính quê hương của mình, đã vùi thây trong Thái Bình Dương bao la, trong những bìa rừng âm u ở Thái, Lào hay đang lạc lỏng trên những mảnh đất xa lạ nào đó ở Châu Phi, ở Trung Đông … so với họ tôi may mắn hơn nhiều. Hơn 30 năm đã qua. Vì nhiều lý do: an ninh bản thân và gia đình, an toàn khi có dịp về thăm quê nhà, miếng cơm Tây, manh áo gấm khiến tôi đã vô tình im lặng và tránh né. Giờ đây tóc đã hai màu, còn chút tình mà vẫn không dám nói thì đợi đến bao giờ? Riêng đối với các chiến sĩ VNCH trong đó có hàng cha anh chú bác của tôi, những người đã chết cho cho một chính nghĩa đã bị chối bỏ và chưa bao giờ được nhìn nhận, họ sẽ được những người CSVN viết lại trong lịch sử như những tội đồ … tôi có thể nào quên họ, quên cái quá khứ có sự hy sinh vô bờ và cô đơn của họ? Trong tự do của hôm nay tội vẫn nên tiếp tục “hy sinh”, không nên nói lên những khát vọng của những người bạn, của đại đa số đồng bào kém may mắn hơn tôi đễ giữ an toàn và phồn vinh cho thiểu số còn lại chấp nhận đổi đời? Tôi không có tư cách để khuyên mọi người nên nói như tôi nói. Nhưng tôi sẽ cảm thấy hổ thẹn khi khuyên họ không nên làm như thế bởi vì với tôi, viết là để công bằng trả lại cho đời chút ân tình mà tôi đã nhận, dù chỉ là ngọn lửa của một que diêm, như một người bạn của chúng tôi có nói, sẽ không đủ sức để sưởi ấm cho cả một mùa đông băng giá này!.

Trang Hiền Võ


Saturday, December 19, 2009

Hãy ''chửi'' chính mình! - Trần Bình

Trần Bình

    Gửi các bạn ở hải ngoại
Các bạn chửi Cộng Sản 30 năm nay chưa thỏa lòng sao? Đã hơn 30 năm từ ngày "giải phóng", các bạn cứ tiếp tục chửi bới, và chế độ hà khắc ở VN vẫn tiếp tục tồn tại. Hiện nay, ngay từ trong nước, đã có nhiều nhà dân chủ đứng lên bất chấp nguy hiểm để đấu tranh, điều này đã bộc lộ rõ những nhượng bộ và yếu kém của chế độ. Nhưng sao đến giờ vẫn chưa có một phong trào dân chủ đủ mạnh để thách thức chế độ?

Câu trả lời: bao năm qua, ta cứ mãi lo "địch vận": Nói xấu, chửi bới chế độ hoặc kêu gọi chế độ tự thay đổi, mà không lo "dân vận": Củng cố sức mạnh dân chủ của cộng đồng hải ngoại để thúc đẩy "dân vận" trong nước và bước cuối cùng là tạo nên một sức mạnh toàn dân buộc chế độ phải thay đổi.

Như vậy, rõ ràng là thất bại không phải là do "địch" mạnh, mà do "ta" yếu. Nói rõ hơn, dân trí Việt Kiều, nhất là trong số những người hay về VN, quá yếu kém nên đã không thể thúc đẩy một phong trào dân chủ toàn dân ở trong nước. Người trong nước thì bị bưng bít thông tin nên mù mờ về khái niệm dân chủ pháp trị đã đành, còn người Việt nước ngoài, những người đã định cư ở những xứ có nền dân chủ pháp trị cao nhất trên thế giới, thì sao? Một sự thật đáng buồn: ngoại trừ một số ít trí thức hiếm hoi (tỉ lệ cao hơn ở các nước Châu Âu) có thể viết lách, lý luận và còn chút ưu tư đất nước, còn lại đa số Việt Kiều mặc dù đã tiếp cận với nền văn minh dân chủ Phương Tây đã lâu nhưng đã chẳng học hỏi được gì, bởi đa số họ vốn xuất thân từ một lối sống èo uột nửa Tây nửa phong kiến, khi ra được nước ngoài (dù là vượt biên, HO, con lai hay diện ODP) đều chỉ biết có một mục tiêu duy nhất là đồng tiền chứ không biết trau dồi tri thức (lười đọc sách, chỉ nghe nhạc hoặc xem Video). Họ còn cư khư khư giữ lấy những cái "Việt Nam" lẽ ra phải bị đào thải từ lâu. Họ sợ lớp trẻ quên tiếng Việt nhưng lại không biết lo rằng coi chừng tiếng Anh của chúng chưa đủ để tiếp cận tinh hoa văn hóa của phương Tây. Họ còn thích nghe những bản nhạc than khóc não nùng èo uột muôn thưở kiểu Việt Nam vốn có khả năng làm con người mềm yếu, mất tính chiến đấu (kiểu băng nhạc TN Paris) mà trước năm 1975 đã góp phần vào sự bại trận của miền Nam.

Ngoại ngữ kém cỏi (tiếng Mỹ, Pháp...) cũng là một đặc điểm nữa của cộng đồng Việt Kiều. Không phải là điều đáng ngạc nhiên khi dư luận Mỹ (và ở các quốc gia Châu Âu khác) cho tới giờ này vẫn biết rất ít về công cuộc đấu tranh dân chủ của người Việt hải ngoại. Bởi vì trong đa số VK, khả năng viết, nói và đọc ngoại ngữ rất kém, cho nên không thể trao đổi tư tưởng hoặc truyền đạt thông điệp của mình cho người bản xứ. Có một sự việc đáng buồn nhưng ít ai biết từ mấy chục năm qua, đến gần đây mới lộ ra. Ở New Orleans, US, nếu không có cơn bão Katrina vừa rồi, thì đâu có ai biết là rất nhiều người Việt định cư ở New Orleans không biết nói tiếng Anh và không thể tiếp xúc với Cảnh Sát khi có việc cần. (đây là những người qua đây từ 1975 đã có cơ nghiệp vững vàng, chứ không phải những người mới qua). Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.

Đã không tiến bộ, thì phải thụt lùi. Lối suy nghĩ, lý luận và cách hành xử của Việt Kiều giờ này chẳng khá hơn bao nhiêu khi còn ở Việt Nam. Hãy xem xét những hoạt động "văn hóa" của Việt Kiều ở hải ngoại. Có mấy ai đọc sách, suy tư, hoặc viết lách khi rảnh rang. Họ chỉ biết, từ năm này qua năm khác (1984 đến giờ) khi rảnh thì đón mua băng TN Paris để nghe đi lại nghe lại những bài nhạc "quê hương" cũ rích chỉ thay đổi có ca sĩ trình bày và để nghe ông NNNgạn và cô "đào" dài chân mặc váy ngắn (và rất ưa "phô" nó ra) NCKDuyen nhai đi lai lại ba cái chuyện đàn ông đàn bà ghen tuông nhảm nhí, thiếu vắng chiều sâu về tâm lý xã hội cũng như nghệ thuật hài hước. Tương tự như vậy, giới Việt Kiều rất "mê" Hoài Linh và Vân Sơn với những trò hề rẻ tiền được lập đi lập lại muôn thưở: ỏng ẹo giả gái, giả giọng Phú Yên, giọng Bắc, giọng Quảng, lời lẽ chợ trời thô tục. Những thứ giải trí thô lậu này xem ra vô bổ vô hại, nhưng thật ra là tai hại rất nhiều cho công cuộc đấu tranh dân chủ, vì chúng vô tình đóng góp vào chiến dịch "địch vận" của CSVN ngay trong lòng cộng đồng người Việt. Nếu bạn là một cán bộ địch vận CS, còn gì mừng cho bằng khi những kẻ ngày xưa đã từng lớn tiếng tự nhận là "tỵ nạn chính trị" phải hy sinh cả tính mạng bản thân và gia đình để "đi tìm bến bờ tự do", giờ này chỉ biết chạy đôn chạy đáo kiếm tiền, cơm ngày 3 bữa no nê nằm ễnh ngửa trên sa lông thưởng thức những băng nhạc hề nhảm nhí, những bản nhạc than khóc hay ca tụng (rỗng tuyếch) quê hương đất nước và hễ có dăm ba ngày nghỉ và dư vài ngàn đô là đem về VN "thả", xây nhà cất cửa, du lịch, ăn nhậu - đàn bà thì khoe khoang đồ trang sức quần áo, đàn ông thanh niên thì đi tìm gái, lấy vợ "hai, hoặc ba".

Mỗi năm, hàng triệu người Việt về thăm quê, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi chuyển tải một số tài liệu dân chủ vào trong nước, còn đại đa số là về VN để vung tiền đô la, khoe khoang, hưởng thụ, giải trí. Thậm chí còn buôn lậu nữ trang hoặc ma túy. Khi về VN, họ cố tình ăn mặc cho "ra vẻ VK", họ đòi hỏi tiện nghi này nọ, chê bai đường sá, nhà cửa ở VN thiếu tiện nghi. Chẳng trách sao người Việt trong nước vẫn đang nhìn Việt Kiều qua lăng kính "đô la". Dưới mắt họ, Việt Kiều là những "chủng loại" lạ lùng chẳng giống ai từ nước ngoài về, có rất nhiều tiền đô và cách ăn mặc, cư xử, dáng dấp ngoại hình không giống người trong nước (mập, trắng trẻo, xem "sang" hơn, hay đeo cái "bao tử (túi đựng tiền xu) ở bụng, đeo nhiều vòng vàng nữ trang hơn ...), khi nói chuyện thì giả bộ quên tiếng Việt hoặc bập bẹ vài chữ tiếng Anh cho ra vẻ.

Về khía cạnh nhân đạo, không thể khoe khoang hưởng thụ ngay trên quê hương mình vốn vẫn đang rất nghèo với hàng chục triệu người dù phải làm việc cật lực mà mỗi ngày không kiếm được hơn một đô la (khoảng 16 ngàn VNĐ). Nói thẳng ra, đây là hành động vô lương tâm.

Về khía cạnh dân chủ, cách hành xử nhố nhăng của đa số Việt Kiều khi về nước đã vô tình phá hoại (undermine) sự nghiệp đấu tranh của các nhà dân chủ trong cũng như ngoài nước. Đất nước còn nghèo, người VN cần tiền để mưu sinh. Tiền đô có thể giảm cái đói nghèo tạm thời. Nhưng để đổi đời, người Việt Nam cần một chế độ dân sinh dân chủ. Để được như vậy, người Việt trong nước cần những tấm gương dân chủ để noi theo, chứ không phải những tấm gương "đô la" qua lối hành xử nhăng nhít của Việt Kiều hiện nay. Chừng nào mà người dân trong nước nhìn mỗi Việt Kiều về nước như là một biểu tuợng của tinh thần trung thực, nhân ái, công bằng, tự do và dân chủ, trái ngược với hình ảnh mà họ thấy từ những cán bộ Đảng giảo quyệt, tàn ác, tham lam, độc đoán, thì chừng đó sự nghiệp dân chủ cho Việt Nam mới hy vọng có cơ hội.

Không bắt buộc mỗi Việt Kiều về nước phải là một "chiến sĩ dân chủ". Nhiều Việt Kiều bây giờ không màng đến chuyện chính trị vì lý do này khác. Đây là tự do cá nhân của họ, ta không thể bắt buộc. Tuy nhiên, với tư cách là một người Việt Nam sống ở những xứ sở dân chủ có nền dân trí cao độ, họ có trách nhiệm phải thể hiện một lối sống văn hóa xứng đáng với người dân và xứ sở đã cưu mang giúp đỡ họ trong những ngày khốn cùng chân ướt chân ráo mới nhập cư. Chính xã hội mang tính trung thực, năng động, nhân đạo, công bằng, dân chủ cao độ của người dân Tây Phương đã giúp cho người Việt định cư ở nước ngoài có thể hội nhập và thành đạt nhanh chóng. Vậy thì những người Việt này sau khi thành đạt rồi phải có trách nhiệm, phải học hỏi và thực hành tinh thần này mỗi nơi, mỗi lúc. Khi ở bản địa thì không được gian lận, luồn lách qua mặt luật pháp (kiểu giả nghèo xin foodstamps, giả ly dị để xin trợ cấp single parents, đi làm tiền mặt để trốn thuế ...) để khỏi phá vỡ nền dân chủ quí giá mà chúng ta đang thừa hưởng. Khi về Việt Nam thì hãy là tấm gương sáng về đạo đức, dân trí để hầu khai sáng dân trí và vô tình hay hữu ý thúc đẩy một lộ trình tự do dân chủ cho Việt Nam.

Mỗi Việt Kiều, khi về Việt Nam, phải hòa đồng (chứ không hòa nhập) với người trong nước. Phải ăn như họ. Phải mặc như họ. Phải chịu đựng cái họ phải chịu đựng và phải vui cái vui của họ. Tuy vậy, không đánh mất mình và luôn tận dụng mọi cơ hội để noi gương sáng dân trí. Không cần thiết phải đả động đến các vấn đề chính trị, nhưng phải gieo trồng hạt giống của tư tưởng dân chủ. Đây là con đường tuy dài nhưng thực tế và chắc chắn.

Hãy ngừng chửi Cộng Sản. Hãy làm "dân vận" bằng những hành động cụ thể nhất có thể làm được. Nếu bạn đồng ý với bài viết này, hãy đi mua ngay một máy in rẻ tiền, một xấp giấy in, và in bài viết này gửi tới địa chỉ của những người quen (hay không quen) của bạn ở Mỹ, Úc, Pháp, Đức, Nga ..., nhất là những người mà bạn biết rằng hay về VN thăm thân nhân hay du lịch. Đừng sợ mất lòng. Hãy đánh thức lương tâm, khai sáng dân trí của Việt Kiều để mỗi Việt Kiều bình thường khi về nước sẽ là một biểu tượng của tinh thần trung thực, công bằng, nhân ái, tự do và dân chủ.

Trần Bình


Tuyên Ngôn Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước


Tuyên Ngôn Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước
    Kính thưa toàn thể đồng bào trong và ngoài nước, đặc biệt các chị em phụ nữ!
A. Nhận thức rằng

1. Từ buổi đầu chống giặc Bắc phương và dựng nước hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã là những đấng anh thư liệt nữ đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Tàu Phù dựng nên một giang sơn gấm vóc cho dân tộc Việt Nam.

2. Tấm gương liệt nữ đó đã được các thế hệ nữ lưu tiếp nối trong gịòng Sử Việt chống ngoại xâm cuả dân tộc. Cô Giang, Cô Bắc là những tấm gương sáng ngời cho nữ giới Việt Nam trong cuộc đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho dân tộc vào thế kỷ trước.

3. Biết bao nhiêu đấng nữ lưu vô danh đã hy sinh đóng góp to lớn và tuyệt vời trong công cuộc chống ngoại xâm và chống độc tài Cộng Sản để bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền cho toàn dân.

4. Phụ nữ là một nửa phần thân mệnh của dân tộc, khi sơn hà nguy biến người phụ nữ phải có trách nhiệm như tiền nhân chúng ta đã dạy “giặc đến nhà đàn bà phải đánh”.

5. Người phụ nữ sống trong xã hội tự do dân chủ văn minh có điều kiện để thăng hoa cuộc sống, tạo dựng hạnh phúc. Trái lại, người phụ nữ dưới chế độ độc tài cộng sản chỉ là công cụ nô lệ phục vụ cho nền chuyên chính độc tài của đảng.

6. Người phụ nữ Việt Nam với tấm gương bà Trưng, bà Triệu, cô Bắc, cô Giang ... không thể ngồi yên khi bạo quyền Cộng Sản Việt gian (CSVN) chà đạp tự do, tước đoạt nhân quyền, dâng đất dâng biển và hiến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho quân xâm lược Bắc Phương, Từng ngày, từng giờ nhân dân yêu nước đau lòng khi thấy những vùng đất thân yêu, những hải đảo thơ mộng lần lượt rơi vào tay Trung Cộng trước thái độ khiếp nhược của nhà cầm quyền CSVN.

B. Thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản

1. Núp dưới danh nghĩa “độc lập dân tộc” lừa bịp toàn dân để cướp chính quyền vào mùa Thu năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận lệnh của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, quên đi Tổ quốc Dân tộc, thực hiện một chính sách cai trị độc tài tàn bạo đối với chính đồng bào của mình .Họ đã giết chết hằng vạn người dân vô tội qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm ... và tiến hành khủng bố liên tục đối với lương dân trên toàn miền Bắc Việt Nam.

2. Tháng 4/1975 miền Nam tự do bị Cộng sản cưỡng chiếm.vì không sống nổi dưới ách thống trị bạo tàn của Cộng Sản Việt Nam, hàng triệu người dân đã rời bỏ quê hương thân yêu đi tìm tự do, bao nhiêu sinh linh vùi thây trong lòng biển cả, bao nhiêu xác chết bỏ lại trong rừng sâu, bao nhiêu gia đình bị đày ải lên vùng rừng thiêng nước độc kinh tế mới, hàng triệu người dưới chính thể Việt Nam Cộng Hoà bị tù đày vô thời hạn trong trại tù lao nô “cải tạo”. Hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ phục quốc và cựu công chức ,sĩ quan,cán chính VNCH hoặc đã gục ngã trước mũi súng của quân thù Cộng Sản,hoặc phải chết tức tưởi oan khiên trong các trại tù mệnh danh là (cải tạo )và âm thầm bị hành quyết trên các nẻo đường quê hương. Tất cả các thảm họa đó là bởi bàn tay Cộng Sản!

3. Cộng sản Việt Nam cai trị nhân dân một cách độc tài tàn bạo, phi nhân,khiến đất nước chậm tiến và lạc hậu vào bậc nhất thế giới, với nạn tham nhũng hoành hành trở thành quốc nạn, tài sản quốc gia bị tham quan của tập đoàn Cộng Sản vơ vét bỏ túi. Tệ hại hơn nữa chúng còn bán buôn đày đọa phụ nữ, trẻ em Việt Nam làm lao nô tình dục. Chưa bao giờ giá trị người phụ nữ Việt Nam bị coi rẻ trước cộng đồng quốc tế như dưới thời cộng sản.

4. Trong khi tập đoàn CSVN cướp từng ngôi nhà,thước đất của người dân thì chính họ lại đem hàng vạn cây số vuông đất biển dâng cho quan thầy Trung Cộng. Ải Nam Quan,Thác Bản Giốc, Hoàng Sa và Trường Sa giờ đây không còn là địa danh của Việt Nam nữa! Gần đây, nhà cầm quyền CSVN lại phạm thêm một tội ác tầy trời, đó là đã để cho Trung Cộng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên tạo nên sự đe dọa thường trực cho an ninh Tổ Quốc và tác hại nguy hiểm cho môi trường và đời sống hàng triệu người dân.

5. Cha ông chúng ta đă hy sinh bao xương máu để giữ nước và dựng nước, từ khi đảng CSVN cướp quyền họ đă liên tục phạm biết bao nhiêu tội ác đối với Quốc gia Dân tộc. Kết quả ngày nay dưới chế độ cai trị của tập đoàn CSVN, xã hội suy đồi, luân lý đảo lộn nhân tâm ly tán, con người bị đàn áp sợ hãi, tuổi trẻ sống sa đọa không lối thoát, tương lai dân tộc đen tối. Đối với ngoại xâm, CSVN hèn nhát vô cùng, những người yêu nước thì bị bắt tù đày còn kẻ bán nước thì được tuyên dương và hưởng mọi đặc quyền đặt lợi.

C. Mục Đích của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước

Với nhận thức các thực trạng bi thảm của dân tộc Việt Nam nêu trên, Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước ra đời.

1. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước được thành lập nhằm mục đích nối kết các phụ nữ Việt Nam trong và ngoài nước yêu tự do, dân chủ, nhân quyền, bảo toàn lãnh thổ lãnh hải của tiền nhân để lại, cương quyết giải trừ chế độ độc tài Cộng Sản Việt gian phản dân bán nước.

2. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước đấu tranh cho quyền sống của người phụ nữ được tuyên xưng bởi bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ra đời ngày 10 tháng 2 năm 1948..

3. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước nhằm mục đích liên kết phụ nữ trong và ngoài nước đấu tranh cho một Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và thăng tiến phụ nữ.

4. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước liên kết với phụ nữ các dân tộc bị Cộng Sản bức hại để tạo thế liên kết đấu tranh quốc tế chống lại sự cai trị độc tài của các nước Cộng Sản đứng đầu là Trung Cộng.

D. Hoạt động của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước

1. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước vận động các chị em phụ nữ trong và ngoài nước thành một phong trào phụ nữ đấu tranh góp phần cùng các tổ chức đấu tranh của người Việt nhằm giải thể chế độ độc tài bán nước Cộng Sản Việt Nam.

2. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước xử dụng mọi phương tiện truyền thông hiện đại và các phương thức khác ... để thực hiện mọi công tác nhằm vận động sự vùng lên của giới phụ nữ góp sức cho công cuộc đấu tranh nhằm đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.

3. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước sẽ vận động giới phụ nữ tại các quốc gia độc tài Cộng Sản nhằm tạo thế liên kết đấu tranh của giới phụ nữ nói chung cho tự do, dân chủ, nhân quyền.

4. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước sẽ phối hợp với các tổ chức đấu tranh chân chính và kiên trì hoạt động để tiến đến giải thể chế độ CSVN,và không bao giờ chấp nhận sự thương thuyết hoặc hòa hợp hòa giải với Cộng Sản dưới bất cứ hình thức nào.

Làm tại Pháp Quốc, ngày 04 tháng 10 năm 2009
Thay mặt Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh



Wednesday, December 16, 2009

Bất Đồng Nhưng Không Nên Bất Hòa - Tuệ Vân

Tuệ Vân

Cộng sản Việt Nam có thể đã thắng miền Nam Việt Nam, có thể đàn áp được người dân trong nước và cai trị đất nước một cách độc tài độc đảng, tuy nhiên trong suốt 34 năm qua tại hải ngoại Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn thất bại trong mục tiêu vận động được người hải ngoại coi họ là lãnh đạo. Tuy thế những mưu kế chinh phục hải ngoại vẫn đang được tiếp diễn qua nhiều hình thức. Trong đó kế xâm nhập cộng đồng và lũng đoạn cộng đồng qua những nhân vật trung gian là một kế sách hay.

Hay như thế nào?

Sự việc đang xẩy ra tại New Orleans, Lousiana có thể đưa ra làm một thí dụ.

Cộng sản Việt Nam sử dụng những con em các binh sĩ VNCH cũ hay công chức của chế độ VNCH cũ làm việc cho chế độ cộng sản, và đưa ra các con em này ra ngoài móc nối với người quốc gia tại hải ngoại để có những sự tin cậy, từ đó đưa đến những công tác làm việc chung trong những đề án của cộng sản Việt Nam. Sự việc này giống như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Cán binh cộng sản đi tập kết để lại vợ con tại miền Nam. Sau đó Việt Cộng cho người về móc nối để có những hỗ trợ cho chúng xâm nhập miền Nam và lũng đoạn, gây xáo trộn trong đời sống của người quốc gia qua những tranh cãi chính trị và biểu tình chống đối. Người quốc gia lúc nào cũng lý tưởng và ngây thơ cho nên dễ đi vào bẫy của người cộng sản và chia rẽ trong nội bộ. Kết quả là mất nước và có trên 3 triệu người Việt tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới, vì tình trạng dưới chế độ CS là “cái cột đèn mà đi được thì nó cũng đi”. Ngay đến bây giờ, chúng ta còn đang thấy hình ảnh và phóng sự những người dân sinh ra và trưởng thành dưới chế độ đã cầm cố nhà cửa để đi chui sang Âu châu mong có đời sống khá hơn.

Nhóm người thuộc Liên Hội Thủ Đức Hoa Kỳ đã làm việc chung với phái đoàn quay phim của nhà nước cộng sản Việt Nam là những người đã từng có những thái độ chống cộng, qua những thành tích kể ra. Nhưng hình thức chống cộng hiện nay của quý vị đó thì thật là đơn sơ và lý tưởng qua chủ trương “Đừng để hận thù cá nhân, lầm lỡ của chế độ cản trở bước tiến dân tộc.” như ông John Hòa nói. Ông Hòa từ bi cho nên dễ tha thứ những tội ác của chế độ cho dân tộc và đất nước. Cái mà ông John Hoà gọi là “sự lầm lỡ” của chế độ cộng sản Việt Nam như mọi người Việt Nam đều thấy, cho đến ngày hôm nay vẫn còn tiếp diễn và đang làm cản bước tiến của dân tộc thì cớ sao người quốc gia chúng ta lại phải tiếp tay họ và đến làm việc với họ? Sự việc người trong cộng đồng hải ngoại xuất hiện trên đài truyền hình và phim ảnh của Việt Cộng, giả sử có giới thiệu được những thành công của người hải ngoại đến người trong nước thì cũng chỉ là chuyện phụ . Nhưng chuyện chính là người dân trong nước thấy tinh thần chống cộng của người hải ngoại đã không còn và CSVN đã nắm được cộng đồng hải ngoại. Tạo được hình ảnh quốc cộng vai sát vai, làm việc đề huề, thì đây là một thành công to lớn mà người cộng sản mong muốn đạt được. Và điều này rất nguy hiểm trong công cuộc đấu tranh chung, vì khi đã hiểu lầm và bị tuyệt vọng về chỗ dựa hậu phương hải ngoại nay đã mất đi thì còn nói chi đến chuyện đấu tranh đòi nhân quyền tự do cho dân tộc của đồng bào quốc nội.

Kinh nghiệm đấu tranh với người cộng sản là những kinh nghiệm máu xương của ông cha Việt Nam để lại cho con cháu. Sự nhượng đất nhượng biển của cộng sản, cộng thêm nỗi đau khổ của dân tộc nói chung và nỗi nhọc nhằn của người Việt lao động nước ngoài như ông John Hòa đã chứng kiến thiết nghĩ cũng đủ nói lên khía cạnh tàn tệ, không thay đổi của chế độ. Chế độ đó chỉ tính ăn người chứ không muốn chia xẻ cho người cùng ăn, do đó việc đấu tranh phản tuyên vận như quý ông Liên Hội Thủ Đức Hoa Kỳ suy nghĩ đã được CSVN họ tiên liệu và tính toán trước. Bằng chứng là có khi nào nhóm ông Hòa suy nghĩ rằng CSVN sẽ cho phép các ông nói về thành công của người Việt hải ngoại bên biểu tượng cờ vàng hay không? hay họ có chấp nhận những cuộc tranh luận trước quần chúng trong nước giữa các ông với các viên chức của chế độ, đưa tới sự công nhận lỗi lầm của chế độ để mà trao trả tự do dân chủ về cho toàn dân tộc? Hay họ chỉ muốn đi tới mục tiêu Cộng đồng hải ngoại phải nằm dưới cái dù cộng sản?

Tóm lại cùng là người quốc gia, chúng ta có thể bất đồng nhưng không nên vì có người chỉ ra cái sai của mình mà có thái độ bất hòa và tranh cãi đến cùng bằng những nguỵ luận, và dán nhãn VC hay quá khích cho nhau. Tinh thần nhân bản của người quốc gia cũng cần nên thận trọng áp dụng đúng chỗ, nếu không chúng ta sẽ mắc mưu người cộng sản mà chia rẽ nhau và trở thành công cụ phục vụ cho chế độ cộng sản khi nào mà không hay biết.

Tuệ Vân
Source: http://tamthucviet.com/articleview.aspx?artId=%C5%B8F%15X


Con Chó Của Bé Tú - Sebastian Lê văn Thành

Sebastian Lê văn Thành

LỜI NGƯỜI VIẾT: Trước tin Chủ Tịch Nhà Nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết viếng thăm Toà Thánh Vatican và Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đich-tô XVI ngày 11 tháng 12 vưà qua, một số thân hữu hỏi xem tôi có nghĩ rằng sau chuyến viếng thăm này cộng sản sẽ cho Công Giáo Việt Nam nhiều tự do hơn không? Tôi nghĩ rằng có. Tuy nhiên các tự do đó có đem lại lợi ích chính đáng, lâu dài nào cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cho Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam hay không thì lại là một vấn đề khác. Mời quý vị và các bạn xem lại truyện ngắn “Con chó cuả Bé Tú” tôi viết tháng 1 năm 2002 dưới bút hiệu Sebastian Lê văn Thành, trong đó tôi nói lên một vài suy nghĩ về những tự do cộng sản ban phát cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Cho đến nay, tôi vẫn giữ những suy nghĩ đó, không thay đổi gì cả.
Trân trọng,

Bác Sĩ Vũ Linh Huy
Carney Hospital
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ

Ông Sửu là hàng xóm cuả tôi. Ông là cựu sĩ quan pháo binh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, bị cộng sản bắt đi “cải tạo” gần sáu năm sau ngày mất nước. Ông tới Mỹ theo chương trình HO năm 1993. Tính ông ít nói nhưng hay mỉm cười thân thiện với mọi người. Ông ghét và thù cộng sản nhưng không tham gia một đoàn thể tranh đấu nào, dù vẫn thường có mặt trong các sinh hoạt cuả cộng đồng. Mỗi khi anh em chúng tôi tổ chức thành công một buổi sinh hoạt đấu tranh, ông thường nói:

- “Mấy ông siêng thật. Đi làm mệt thấy mồ tổ mà còn tham gia tranh đấu nữa!”

Thế thôi. Từ ngày có vụ cha Lý, ông quan tâm tới thời cuộc hơn nhưng vẫn ít khi công khai phát biểu điều gì, dù ông tỏ ra rất khâm phục cha Lý và thường nghiên cứu các lời kêu gọi của cha cũng như các tài liệu liên hệ. Ông cũng thỉnh thoảng gửi cho cha ít tiền để cha giúp học sinh nghèo. Ông buồn bực ra mặt khi đọc các lời phát biểu của các linh mục “quốc doanh” và của Đức cha Lâm. Ông lắc đầu chán nản khi đọc thư “Tìm Ánh Sáng Soi Đường” của Đức Cha Mẫn. Khi đọc ý kiến của một vài người nào đó khen Hội Đồng Giám Mục Việt Nam khéo xử sự nên tránh được việc cộng sản thành lập giáo hội công giáo tự trị, ông nói một câu cụt ngủn: “Nó đâu cần lập giáo hội tự trị làm chi!” Thế thôi.

Một ngày lễ nghỉ, ông ghé tôi chơi khá lâu nhưng không trò chuyện gì nhiều.

Ông say mê đọc các tài liệu trong computer cuả tôi cả giờ rồi bỗng nhiên quay qua bảo tôi, giọng rất nghiêm trọng, thành khẩn:

- “Mấy ông có tranh đấu gì thì tranh đấu cho nhanh lên, chứ cứ đà này thì chẳng bao lâu nữa tụi nó sẽ cho Công Giáo hoàn toàn tự do.”

Chắc lúc ấy mặt tôi tỏ ra ngu si đần độn lắm hay sao đó mà ông không nói tiếp nưã, sợ tôi không hiểu. Ông trầm ngâm một lát rồi nói:

- “Giải thích vụ đó dài dòng lắm, để tôi kể cho ông nghe truyện này, rồi ông khắc hiểu.”

Và ông kể truyện “Con Chó Cuả Bé Tú.”

Truyện này ông Sửu kể cho tôi nghe đã lâu. Mấy lần tôi đã toan viết lại để chia sẻ với độc giả nhưng Anh Hai tôi can ngăn, sợ người khác hiểu lầm rằng tôi khinh dể các đấng, các bậc, ví von xỏ xiên. Tôi không bao giờ dám có ý ấy. Tôi vẫn cầu nguyện cho các ngài hàng ngày. Tôi tin ông Sửu cũng không có ý ấy. Hôm qua nói chuyện với một linh mục quen, ngài khen câu truyện có ý nghiã và còn xác quyết rằng ai có chút suy tư cũng phải hiểu câu truyện “theo nghiã ngay lành”. Bởi vậy hôm nay tôi mới dám mạnh dạn viết lại để trình quý vi.

Nhà Tú ở Thủ Đức. Tú có một con chó rất khôn tên là con Vện do bà ngoại Tú mang từ quê lên cho khi Tú mới được năm tuổi. Lúc đó con Vện cũng mới vừa dứt sữa, tập ăn. Khi Tú lên mười thì nó và con Vện đã trở thành một đôi bạn thân thiết, bất khả phân ly. Anh chị Tuấn, cha mẹ của Tú, hiếm hoi chỉ có mình Tú nên cũng rất thương Vện. Vện thường theo Tú đi chơi và lúc nào cũng sẵn sàng bảo vệ Tú. Khi Tú đá banh, hễ đứa nào chèn banh với Tú thì Vện tới ngoạm chân đứa đó lôi ra. Khi chơi vật nhau, hễ Tú thắng, cỡi lên mình đứa khác thì Vện ngồi nhìn. Khi Tú thua, bị đứa kia cỡi thì Vện xông vào dùng đầu húc đứa đó xuống. Lũ trẻ thường chỉ la: “Ăn gian! ăn gian!” rồi cười ầm ĩ vì thấy chuyện ngộ nghĩnh chứ không giận hờn chi vì Vện chẳng bao giờ gây thương tích cho đứa nào, chỉ ngoạm hờ vậy thôi. Vện rất thông minh, hiểu ý người nên chơi với trẻ con trong xóm rất “hợp rơ”. Thí dụ khi chúng ném đồ chơi cho Vện đi lượm thì đồ chơi của đứa nào Vện tha về cho đứa đó, không sai bao giờ. Nếu có đứa nào giả bộ “nhận vơ” thì Vện phản đối ra mặt, sẵn sàng giằng co qua lại cho đến khi giao được món đồ cho chủ nhân đích thực của món đó nó mới bằng lòng. Vện còn biết giữ của nữa. Bất cứ ai vào nhà lấy món gì cũng bị Vện cắn áo lôi lại cho đến khi người đó chịu đi tay không nó mới buông tha. Tuy nhiên nếu anh chị Tuấn hoặc Bé Tú nói với Vện cho người đó mượn thì nó để yên cho họ đi.

Thế rồi biến cố 30 tháng 4 năm 75 xảy đến. Xóm Tú là xóm nghèo nên không có thay đổi gì rõ rệt lắm lúc ban đầu, ngoại trừ trường hợp của nhà bà Năm bán xôi. Bà có một người con gái lớn tên là Lựu đi theo cậu Sáu là em ruột cuả bà tập kết ra Bắc năm 54 khi cô ấy mới 13 tuổi. Chuyện này bà vẫn dấu, không bao giờ hé môi kể với ai từ lúc bà dọn về xóm này khoảng năm 1960, 61 gì đó. Nay cô ấy trở về vẻ vang, mang quân hàm trung uý công an. Chồng cô ấy là thiếu tá công an. Cả hai vợ chồng đều làm việc ở Saigon nhưng vẫn đi xe hơi về thăm bà Năm luôn. Họ có một đứa con trai tên là Thành, cùng tuổi với Tú. Thành làm quen với bọn trẻ trong xóm rất nhanh và được chúng cho tham gia các trò chơi. Thành mê thích con Vện vô cùng. Nó về xin bố mẹ mua cho một con chó rất đẹp tên là Mi-nô. Ít tháng sau, Thành dẫn Mi-nô về Thủ Đức khoe với lũ trẻ. Con Mi-nô đẹp hơn con Vện nhưng không thông minh. Nó cũng chẳng quấn quít gắn bó gì mấy với thằng Thành. Thằng này phải dùng dây xích để dẫn nó đi; hễ buông xích ra là nó chạy lung tung, chui vào bờ vào bụi … Một bữa kia thằng Thành cởi áo và quần dài, để cạnh một cái cột đèn, đặng chơi đá banh. Con Mi-nô chạy lăng quăng, ngửi chỗ này, rúc chỗ kia một hồi rồi chạy về ngửi ngửi cái cột đèn và đống quần áo cuả thằng Thành rồi co chân sau lên đái vào đó một bãi. Lũ trẻ được một trận cười bể bụng. Thằng Thành, vừa xấu hổ vừa giận, co chân đá con chó một cú như trời giáng khiến nó nằm vật xuống, trợn mắt lên, cả phút sau mới tỉnh lại, rên ư ử. Sau đó thằng Thành chẳng bao giờ dẫn Mi-nô về Thủ Đức nữa và tránh nói chuyện về con chó đã làm nó bị nhục nhã. Ai có biết đâu là trong thâm tâm nó đang bầy mưu tính kế để bắt trộm con Vện. Bố mẹ nó cũng chiều ý con. Bà Năm lúc đầu phản đối nhưng sau cũng xuôi theo ý con gái và cháu ngoại. Một bữa kia Tú đi học về không thấy con Vện đâu nữa, nó khóc lóc thảm thiết, tìm kiếm khắp nơi nhưng hoàn toàn vô vọng.

Thằng Thành đem con Vện về Saigon, dùng dây thừng cột nó lại. Con chó vùng vẫy dữ dội, cào đất đến tươm máu hai bàn chân. Nó chỉ chịu nằm yên khi đã mệt lả. Nhân lúc mọi người không để ý, nó cắn đứt dây thừng rồi chạy trốn, cứ nhắm hướng Thủ Đức mà cắm đầu chạy. Bố mẹ thằng Thành và nhóm công an thuộc hạ dùng xe gắn máy rượt theo đến mấy cây số mới bắt nó lại được khi dây thừng cuả nó bị vướng vào hàng rào. Sau đó họ thay dây thừng bằng dây xích sắt. Con Vện lại ra sức cắn dây xích đến gẫy răng, máu me đầm đià. Thằng Thành bèn cởi xích, nhốt nó vào một cái cũi gỗ. Con Vện cắn gặm liên tục các thanh gỗ để tìm cách chui ra. Tức mình viên thiếu tá bèn cho lính nhốt Vện vào conex nhốt tù, khoá chặt cưả lại, trong khi vẫn xiềng nó bằng xích sắt, cột vào mấy cái song sắt cuả một cái cưả sổ nhỏ trên thành conex. Conex là những thùng sắt rất to, thường là hình khối chữ nhật, ngày xưa các hãng thầu và quân đội Mỹ dùng để chưá hàng, sau này cộng sản dùng nhốt tù. Conex vốn không có cưả sổ nhưng thỉnh thoảng công an cũng kêu thợ hàn tới đục một cưả sổ nhỏ và hàn các song sắt để làm lỗ thông hơi, như vậy có thể nhốt được nhiều người hơn trong mỗi conex.

Con Vện bị giam trong một cái conex loại đó. Nó nằm bẹp một góc, không chịu ăn uống gì trong hai ngày đầu. Qua ngày thứ ba, chắc là khát quá chịu không nổi, nó bắt đầu uống nước nhưng vẫn không ăn. Nó cũng trở nên hung dữ, hễ ai tới gần là nó nhe răng gầm gừ, mắt long lên sòng sọc. Theo sự cố vấn cuả ba nó, thằng Thành ngưng đem đồ ăn cho con chó, chỉ cho nước uống thêm hai ngày nưã. Qua ngày thứ năm thì con Vện đói lả. Thằng Thành bèn tiến lại từ từ, tay cầm một điã cơm thịt thơm ngon, miệng dịu dàng âu yếm gọi “Vện, Vện.” Con Vện lúc đầu cũng gầm gừ nhưng sau thấy thằng Thành gọi tên nó dịu dàng lại có đồ ăn thơm ngon nên nó chịu nằm yên cho thằng bé đến gần, đặt điã cơm kề miệng nó. Con chó chỉ ngửi chứ không ăn. Thằng Thành dịu dàng thúc dục: “Ăn đi Vện! Ăn đi rồi tao đưa mày về với thằng Tú.” Con Vện dường như hiểu lời hưá hẹn cuả thằng bé, nó uể oải ăn cơm nhưng mắt vẫn vè vè nhìn thằng Thành. Hễ thằng bé đưa tay định vuốt ve nó là nó nhe răng đe doạ ngay. Thằng Thành vẫn kiên nhẫn đích thân đưa cơm cho con chó mỗi ngày. Qua ngày thứ mười thì con Vện để yên cho nó vuốt ve. Thằng Thành sung sướng không bút nào tả xiết. Mấy bưã sau nó đưa con Vện về nhà, đổi tên Vện thành Kiki và bắt đầu dắt con chó đi chơi. Luôn mấy ngày liền hễ ra khỏi nhà là con chó xăm xăm nhắm hướng Thủ Đức mà đi khiến thằng Thành phải ra sức ghì lại. Qua tuần lễ thứ ba thì con Vện vui vẻ thong dong đi với thằng bé khắp mọi nơi. Nó cũng chấp nhận tên Kiki và bắt đầu chơi các trò chơi với thằng Thành. Thằng bé tắm rưả cho con chó sạch sẽ và thường xuyên ôm chó hôn hít như nó vẫn thấy trong các phim ảnh ngoại quốc. Tuy nhiên, ban ngày khi thằng Thành phải đi học và ban đêm khi đi ngủ, nó vẫn cột con chó lại, sợ con Vện trốn về Thủ Đức. Con Vện bằng lòng để bị cột như vậy, không cắn gặm dây xích như trước nữa. Thậm chí về sau, thằng Thành chỉ cần gọi: “Kiki, xích!” là con chó lẳng lặng đi tới chỗ sợi dây xiềng, nằm im chờ đợi, khiến ai cũng phải bật cười. Thực ra những lúc ấy mặt con Vện chẳng mấy vui. Thằng Thành cũng biết vậy nên nó vưà tròng xích vào cổ con vật vưà vuốt ve, hôn hít, vỗ về. Qua tháng thứ ba thì thằng Thành cho con chó hoàn toàn tự do, không cần xiềng xích chi nưã.

Dầu vậy thỉnh thoảng cô Lựu, mẹ thằng Thành, cũng đeo vào cổ Vện một cái vòng da thật sang, nối với một sợi dây da đẹp, để cô diện đầm dắt nó đi đây đó. Trong số các cán bộ Việt cộng vào từ Miền Bắc, có lẽ cô Lựu là một trong những người lột xác nhanh nhất. Đang khi nhiều dân “ngụy” Miền Nam vẫn còn sợ sệt, cất dấu quần áo đẹp để “ăn mặc giản dị”, và đa số cán bộ vẫn còn ăn mặc rất quê muà, xấu xí, thì cô Lựu đã diện sơ mi cổ cao với quần tây ống loe hoặc diện đầm dắt chó đi chơi. Dĩ nhiên khi đi làm hoặc đi công tác thì cô vẫn mặc đồng phục màu vàng cuả công an, đôi khi cô còn cố ý mặc mấy bộ đã bạc màu hay hơi sờn rách … Sáu tháng sau thì con Vện, nay là Kiki, đã trở nên thân thiết với thằng Thành y như với thằng Tú thuở trước, cũng bênh vực thằng Thành khi nó đá banh hay chơi vật nhau với lũ trẻ trong xóm nó ở. Con chó cũng tích cực giữ của cho chủ mới. Thằng Thành bèn nảy ra ý định táo bạo: đưa con Kiki về Thủ Đức để thử lòng trung thành của con vật, đồng thời cũng để trả thù lũ trẻ ở đó đã cười nhạo nó khi nó bị con Mi-nô đái vào quần áo.

Một hôm khi bố mẹ nó cho về thăm bà ngoại, nó lén dấu con Kiki trong thùng xe, dặn dò con chó nằm im. Đến nơi, nhân lúc bố mẹ nó bận nói chuyện với bà ngoại, nó mở thùng xe, dẫn con Kiki vào trong xóm. Thằng Tú nhận ngay ra con Vện, gọi “Vện, Vện” ầm lên. Con Vện cũng nhận ra người bạn thân thiết cũ, nó mừng cuống quít, nhảy chồm lên người thằng Tú rồi lại nằm lăn xuống đất, chổng bốn vó lên trời, miệng suả ăng ẳng hoặc nằm sấp, chân cào đất, miệng rên rỉ hoặc kêu rít lên như điên dại, rồi lại chồm lên ôm thằng Tú, đuôi vẫy, miệng suả, vui vẻ vô cùng. Thằng Tú nói:

- “Đây là con Vện của tao.” Lũ bạn nó cũng đồng thanh phụ hoạ. Tuy nhiên thằng Thành vẫn tỉnh bơ quả quyết:

- “Nghèo mà ham, đây là con Kiki cuả tao, đừng nhận vơ!” Rồi nó còn dài giọng đọc hai câu ca dao quen thuộc cuả trẻ con Miền Bắc:

“Nhận vơ lấy vợ thằng Nhân;
Nó cho ăn bún, nó vần cả đêm!”

Nói xong nó bỏ đi, miệng gọi “Kiki, Kiki.” Con chó buông thằng Tú ra, chạy theo thằng Thành, dầu mắt vẫn quyến luyến quay lại nhìn thằng Tú. Tú gọi với theo: “Vện! Vện!” Con Vện toan quay lại với Tú nhưng thằng Thành quát bảo nó: “Kiki, về thôi!” nó bèn lẳng lặng đi theo thằng Thành. Thành ngồi xuống ôm con chó hôn hít. Con Vện cũng âu yếm thè lưỡi liếm mặt nó. Rồi cả hai bỏ đi thẳng. Tú nhìn theo con vật, nước mắt đầm đi.

Câu truyện ông Sửu kể chấm dứt tại đó. Tôi nóng lòng muốn biết điều gì sẽ xảy ra cho thằng Tú và con Vện sau cuộc gặp gỡ bất ngờ ấy, nhưng ông Sửu không chịu kể thêm. Ông còn tỏ ra thất vọng vì tưởng tôi không hiểu ý nghĩa của câu truyện. Thực ra, tôi hiểu rất rõ điều ngụ ý của ông, hiểu mà lòng ray rứt khôn nguôi. Bên tai tôi vẫn còn văng vẳng câu thúc dục cuả ông Sửu:

- “Mấy ông có tranh đấu gì thì tranh đấu nhanh nhanh lên, chứ cứ đà này thì chẳng bao lâu nưã cộng sản sẽ cho Công Giáo hoàn toàn tự do.”

Tôi thấy lời tiên đoán của ông Sửu không phải là vô căn cứ. Thế nhưng tranh đấu sao cho nhanh lên để ngăn ngưà cái ngày đen tối ấy thì tôi chưa tìm được câu trả lời. Tôi chỉ biết làm hết sức mình những gì mình có thể làm, kêu gọi mọi người cùng làm và nhất là cầu xin Chuá thương Giáo Hội Việt Nam, đừng để kẻ thù thi hành các chương trình tiêu diệt tôn giáo tinh vi quỷ quyệt cuả họ. Vì với chính sách can thiệp thô bạo và kiên trì vào việc tuyển sinh cho các chủng viện và nhồi nhét lý thuyết Marx-Lenin cho các chủng sinh (được gọi nôm na nhưng tượng hình là chính sách “Uốn cây uốn tự còn non”) và vào việc tuyển lưạ ứng viên linh mục và giám mục, cộng sản hẳn phải tin có ngày họ sẽ có thể xếp đặt người cuả họ hoặc người đã tuyên hưá vâng phục họ vào các chức vụ chủ chốt trong Giáo Hội. Lúc ấy, Giáo Hội có khác gì Hội Phụ Nữ, Nông Hội, Hội Trí Thức Yêu Nước, Hội Tiểu Thương và đủ loại hội bù nhìn khác trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam? Và cộng sản sẽ có đủ tự tin để cho Công Giáo hoàn toàn tự do.

Hải ngoại, ngày 13 tháng 1 năm 2002
Sebastian Lê văn Thành

Chọn Ngày 19/01 Mỗi Năm Là Ngày Hoàng Sa


Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ
905 Stambaugh St, Redwood City CA 94061
e-mail : canhnguyen1@yahoo.com
*********

Tuyên Cáo
Về Việc Chọn Ngày 19/01 Mỗi Năm
Là Ngày Hoàng Sa

Xét rằng Ngày 19/01/1974 đã diễn ra một biến cố lịch sử là việc các Lực Lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đã chiến đấu hào hùng chống lại quân Trung Cộng xâm lăng vùng đảo Hoàng Sa thân yêu của người dân Việt,

Xét rằng Ngày 19/01/1974, Năm Mươi Ba (53) Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng hy sinh, bỏ mình vì đất nước, xứng đáng để được suy tôn như các Anh Hùng Dân Tộc,

Xét rằng các quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa là một phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam và nghĩa vụ của mọi con dân Việt Nam là phải tiếp tục đấu tranh để khôi phục các đảo còn bị tạm chiếm bởi quân xâm lược Trung Cộng,


Xét rằng trong khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà anh dũng chiến đấu để bảo vệ lãnh hải của ông Cha ta đã để lại cho đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam giữ một thái độ hoàn toàn im lặng trước sự xâm lăng này của Trung Cộng. Thái độ này là một bằng chứng cho thấy có một sự đồng loã đối với sự xâm lăng ấy.

Long Trọng Tuyên Cáo:
    1. Nay kêu gọi chọn ngày 19/01 hàng năm là Ngày Hoàng Sa. Ngày Hoàng Sa này sẽ được tổ chức hàng năm vào thời điểm thuận tiện gần nhất với ngày 19/01 tại khắp mọi nơi trên thế giới, ở những nơi có con dân Việt cư trú và được tiếp tục cho đến khi khôi phục được lãnh hải tạm thời còn do ngoại bang chiếm đóng một cách trái phép.

    2. Uỷ Ban kêu gọi cộng đồng người Việt Nam khắp nơi trên thế giới thành lập Uỷ Ban Đặc Nhiệm “Ngày Hoàng Sa”, nòng cốt là các cựu chiến sĩ Hải Quân với sự hỗ trợ của các quân binh chủng khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, các lực lượng chính trị dân sự và đồng bào yêu nước, để lo việc tổ chức buổi lễ “Ngày Hoàng Sa” hàng năm tại địa phương, nhằm biến buổi lễ thành một ngày truyền thống trong lịch sử Việt Nam.


    3. Ngày Hoàng Sa hàng năm là Ngày Giỗ & Truy Điệu 53 chiến sĩ Hải Quân vị quốc vong thân như các Anh Hùng Dân Tộc, làm gương sáng khêu gợi lòng ái quốc cho các thế hệ con dân nước Việt muôn đời.
Uỷ Ban sẽ phổ biến các hoạt động cụ thể dự trù cho Ngày Hoàng Sa và xin kinh chào Với Quyết Tâm Khôi Phục Hoàng Sa & Trường Sa.

Làm tại San Jose, ngày 07/11/2009,

Đại Diện: GS Nguyễn Văn Canh

Tuesday, December 15, 2009

Tiếng gáy con chim mồi tội nghiệp! - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

Sau 3 ngày cái gọi là “Đại hội Dziệt kiều iêu nước” quần tam, tụ ngũ ở Hà Nội, các “Đại biểu” (không do ai biểu sất) của 101 nước trên thế giới, cả đực lẫn cái vui mừng ôm chầm lấy nhau, “thung thướng” hát vang “Mặt đất bao la, anh em ta về, gặp nhau, mừng như bão táp!” (mừng hay khóc thét lên như dân miền Trung bị bão lụt hiện nay? rõ là chữ với nghĩa của hắc phù thủy) do Bắc Bộ phủ dàn dựng và chỉ đạo trong “Tam thập lục kế” tức Nghị quyết Sữa ong Chúa số 36 của đảng ta, đám “Đại biểu iêu nước” âm thầm, lặng lẽ, hân hoan ngậm cái củ sướng của Bác Hồ trong miệng, về lại nơi đã “ngu ngốc” mở rộng lòng nhân đạo cứu vớt, chứa chấp và nuôi dưỡng mình, (những bứu độc ung thư tai họa của xã hội = ăn cơm nhà thờ ma giặc cướp) tiếp tục làm kiếp tầm gởi, ăn nhờ ở đậu để kiếm chút “bơ thừa sữa cặn”… cho đến cuối đời.

Trong số 900 “khúc ruột ngàn dặm” làm Dziệt kiều “đi” Việt Nam, chịu khó ngồi đồng suốt ba ngày, kiên nhẫn vễnh tai nghe các “lãnh đạo anh minh đảng ta” nói ngọng những điều rất ba xàm, tiếu lâm là cốt chỉ để được đãi đằng ăn uống, đi tham quan, ngắm xác khô Bác … tất cả đều “free”. Nhất là được “đặc ân” ban phát của những tên công an, những con mụ tiếp viên hàng không, vén môi cười với mình (rất giả tạo và đầy kịch tính) cũng đủ thoả mãn tự ái của những con đượi, thằng người có đuôi, tự cho mình là “trí thức” có tâm địa phản phúc, luôn mang mặc cảm tội lỗi trốn chạy ra hải ngoại, được vuốt ve. Rồi ai nấy đều nín khe, câm như hến trong sự sướng khoái, người ngậm hột thị, kẻ ngậm tăm, “về” lại quê người bên kia nửa trái đất, chỉ trừ hai con dã nhân. Hai con dã nhân mới chuyển hóa thành người này đã không kềm chế được nỗi sướng khoái “từ đáy lưng chạy theo xương sống lên cổ” cứ rần rật, nhảy chồm chồm trong bụng, nên phải gáy lên cúc cù cu từng hồi như con chim mồi trong cái bẫy sập treo trong bụi rậm để tự sướng.

Đó là 2 con cu Nguyễn Hữu Liêm, Dziệt kiều Mỹ và Trần Thanh Vân, Dziệt kiều Pháp.

Con cu mồi GSTS Trần Thanh Vân đang nhắm tịt hai mắt lại và nghễnh cổ thật cao giống hệt con gà trống trong truyện ngụ ngôn “Con gà trống và con cáo” để gáy. Tiếng gáy được chuyển âm thành tiếng người như sau:

“Tôi khẳng định rằng, người Việt Nam ở nước ngoài rất muốn trở về Việt Nam để làm việc. Tôi nói thật, người Việt mình ở nước ngoài như Mỹ, Pháp cũng khổ lắm, đi làm việc cả ngày khi về phải nấu ăn, rửa chén bát, làm hết mọi việc trong nhà. Tôi thấy sống ở Việt Nam rất hấp dẫn và sung sướng hơn nhiều ở nước ngoài. Các GS được xã hội rất tôn trọng, sinh viên kính phục, ở nước ngoài không được như thế”

Tiếng gáy của GSTS Vân vừa cất lên đã làm cho người Việt hải ngoại ôm bụng cười ngất. Họ cười rằng ông này học nhiều quá hóa khùng, ăn nói ngô nghê như đứa mát giây, không trúng trật vào đâu cả. Mặc dầu tuổi tác của ông cũng đã lên hàng cụ mà nói năng y như thằng cu. Họ không cho rằng ông ngu dại, trái lại ông khôn bỏ mẹ, theo cách ông nghĩ. Ông chỉ uốn ba tất lưỡi đi một đường lòn nâng bi, để trả ơn tụi Việt cộng đã chiêu đãi vợ chồng ông ăn uống, chơi bời ba ngày đêm phè phỡn, được hoàn toàn miễn phí mà ở Pháp mấy chục năm nay chẳng có con chó, thằng chó nào đãi ông được một bữa dù là bữa cơm xoàng. Thế là huề, khỏi có nhục. Miếng thịt là miếng nhục. Chắc lúc đang nhai thịt (chó) ở nhà hàng Mỹ Đình ông cũng đã nghĩ như thế.

Ông bảo với tụi Việt cộng khi phỏng vấn ông rằng người Việt Nam ở nước ngoài rất muốn về Việt Nam để “sướng”, nhưng riêng cá nhân ông và gia đình ông thì cứ đưa bản mặt lì ra bám trụ ở cái nước thực dân dài dài để tiếp tục sống cực khổ, để tiếp tục rửa chén bát, để tiếp tục làm việc nhà. Vì ông có quá nhiều trải nghiệm để hiểu thủng ra rằng “Thà ngửi rắm thằng Tây vẫn còn hơn ăn cứt thằng Việt cộng”.

Và đám sinh viên tiếp tục không kính phục cái chức GS của ông.

Cách gáy để “bợ đít” Việt cộng của GS Vân như thế người trong nước gọi là “Nói như bố chó xồm”. Còn ở Pháp, đám sinh viên, học trò của ông, chúng khinh ông là phải, đâu có gì sai trật để ông phàn nàn, ca cẩm?

Học trò mình đã có thái độ không đẹp như vậy thì làm sao đòi xã hội coi trọng cho được?

Mong ông cứ hàng năm, đôi ba lần càng tốt, mang cái mác GS về Việt Nam để nhờ Việt cộng nó đánh bóng, sơn màu dùm cho, như chúng đã đối xử với mấy GSTS trong cái Viện IDS vừa bị bức tử ấy. Lúc đó cứ tha hồ mà sướng!

Tiếng gáy của con cu mồi GS Thần Thanh Vân bên Pháp quá ẹ như thế còn tiếng gáy của nhà trí thức LSTS Nguyễn Hữu Liêm bên Mỹ chuyên xực “hotdog” thì sao?

Đọc được trên diễn đàn điện tử Talawas, lúc 6.02 phút chiều ngày 27/11/09, tức 3 ngày sau bài tự bạch được đăng, đã có đến 60 phản hồi. Trong đó có hơn 58 rưỡi ý kiến xát muối ớt và chừng “1 ý kiến rưỡi” xoa đường lên con cu mồi tên Hữu Liêm mà lại rất vô liêm sĩ.

Sở dĩ nói “1 ý kiến rưỡi” là vì có một ý đột xuất bênh vực tiếng gáy của con cu mồi Liêm cho rằng cái sự gáy ấy là “hy sinh mình để tìm tri kỷ” giữa chốn Ba Đình, giống như gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân vậy. Và tiếp đó, 1 ký kiến rất ầu ơ ví dầu, ba phải rằng “tui” cũng giơ cùi chỏ ủng hộ ý trên “coi cái sự hy sinh mình bị chửi bới” cũng có phần hữu lý”.

Số phản hồi còn lại, đa phần rất “nóng”, xát muối rất mặn, rất gay gắt. Một số thì cười cợt sự “nâng bi Bác, Đảng” quá lộ liễu, ấu trĩ của vị luật sư ế khách mà hám danh này.

Có người cho rằng anh ta bị chứng Sadistic Psychopath (Bạo dâm tâm lý). Người bị chứng này phải làm sao để người khác dày vò thân thể đau đớn hay để người khác nhục mạ, mắng nhiếc thì mới khoái, mới đã. Ý kiến này kết luận: Bà con đã xúm nhau làm cho NHL “bị sướng” free. Đó là điều không công bằng.

Có ý kiến khác cho rằng NHL đã xạo với Việt cộng, xạo ngay với bản thân mình, gia đình mình và xạo với nước Mỹ. Bởi nếu ông nói thật thì ông ta đã đổi lại quốc tịch Việt Nam và dẫn vợ con về Quảng Trị, quê hương chùm khế ngọt của ông, để “lao động vinh quang” bảo vệ chế độ rồi. Và ngày ngày tha hồ mà ca cải lương hồ quảng câu “Việt Nam Hồ Chí Minh” cho cái sự sướng khoái chạy thoải mái từ dưới đốt xương cụt cuối cùng lên tận cái đầu bã đậu.

Có người lại lạc quan hy vọng sau cái Đại hội này ông Liêm sẽ ẵm được cái chức Uỷ viên Trung ương Ban Vận động đón tiếp Vịt Cừu “Hồi chánh” về với cộng sản “Hà Lội”. Và cũng đã sẵn sàng “Lá chuối với bao muối” để đưa tiễn ông về với vẹm khi ông thông báo cho biết ngày vinh quang ấy.

Có người cùng xứ Quảng Trị với ông phải xấu hổ, mắc cỡ kêu lên rằng: … “nhắc tới Triệu Phong khi viết về tiến sĩ/luật sư/triết gia/doanh nhân/ Việt kiều họ Nguyễn mần tui thấy ôốc dôộc quá ôông/mụ ơi! Tui cũng là dân Triệu Phong đây!”

Lại một lời “khen” khác dành cho ông Hữu Liêm: “Dẫu sao, ông cũng đáng được ngợi khen là đã và đang làm những việc mà người khác không dám mó tay vào vì sợ “hủi”.

Còn nhiều sĩ vả khác nữa, nhưng nói chung người Việt hải ngoại bản chất vốn hiền lành, vẫn còn cái lòng nhân đàn bà, đánh chó không nỡ thẳng hết tay. Nhưng người trong nước, sống trực tiếp, chịu đựng sự dối trá, bịp lừa, gianh manh của vẹm suốt hơn nửa thế kỷ thì sự phẩn uất, căm hờn chế độ đã dồn nén đến tận cùng, biến thành một quả bom chực bùng nổ bất cứ lúc nào khi có lửa bén vào. Bài viết “Một nỗi bình an”, tiếng gáy của con cu mồi Nguyễn Hữu Liêm, đã đúng lúc như một tia lửa điện, trong một tích tắc đã đốt nhanh khối thuốc nổ của quả bom để gây thành tiếng nổ lớn: “Nguyễn hữu Liêm: Một con chó liếm máu đồng loại không đắng miệng”. Một độc giả trong nước đã trút sự uất hận của mình trong bài viết dài để phỉ nhổ tệ mạt nhà trí thức Nguyễn Hữu Liêm với cái tít đầy sự căm ghét và ghê tởm như vậy.

Thật ra, tất cả mọi người, trong và ngoài nước đều bị rơi vào cái bẫy của Cộng sản bày ra, đã vô tình tích cực góp sức không công cho Bắc Bộ phủ trong việc thăm dò phản ứng của dư luận “nóng” hay “nguội” đến mức độ nào, tỏ thái độ với “Vịt cừu yêu nước” ra sao sau cái kế ly gián vừa thi hành xong, để có hướng rõ rệt hoạch định những bước kế tiếp của Nghị quyết Sữa ong Chúa số 36 cho phù hợp và kết quả chắc chắn hơn trong tương lai.

Vậy Luật sư Nguyễn Hữu Liêm là “quái nhân” nào mà lại được thiên hạ, cả trong lẫn ngoài nước chiếu cố “thăm hỏi” tận tình vậy?

Có lẽ chỉ một vài người ở xa hoặc ít quan tâm đến chuyện cộng đồng nên không biết “dương vật” này là ai, chứ bất cứ ai ở Mỹ, nhất là Nam và Bắc Cali đều rành sáu câu về y ta. Rành, không phải y ta là luật sư nổi tiếng với những vụ án lớn chốn pháp đình, hay giúp ích cho đồng hương nghèo trong việc liên quan đến tòa án hoặc có tâm huyết trong công cuộc tranh đấu tự do, nhân quyền cho đồng bào ở quê nhà, mà vì y ta quá bất tài lại hám danh, thích chơi nổi, nói bậy, viết bạ bị thiên hạ chửi bới, sĩ mạ. Giống mấy thằng, mấy con họa sĩ trẻ ranh hỷ mũi chưa sạch, cũng muốn nổi danh tắt nên chơi ngông bằng cách vẻ tranh mang ý nghĩa phản bội lý tưởng tự do, xúc phạm lá cờ vàng thiêng liêng để khiêu khích cộng đồng người Việt tị nạn, để bị chống đối rầm rộ, mục đích chỉ để tên và mặt (mẹt) mình được đưa lên báo. Mặc kệ cho cha mẹ, ông bà những kẻ đã trốn chạy cộng sản và cưu mang mình sang bến bờ tự do, bị sĩ nhục lây. Miễn sao được lên mặt báo, lên Tivi, được thiên hạ biết đến là sướng rồi, là đạt được sự mong muốn trong đời rồi. Vinh hay nhục: “hu ke”.

Luật sư Hữu Liêm hành nghề thầy cãi, treo bảng hiệu mấy năm mà việc làm ăn quá ế độ, chẳng có ma nào thuê mướn y ta giúp việc, văn phòng luật sư vắng thân chủ như nhà thổ vắng khách làng chơi lúc có chiến dịch bài trừ mãi dâm bố ráp. Y ta bèn xoay qua tập tành viết lách để đăng báo, hy vọng thiên hạ sẽ chú ý đến mình.

Nhưng với cái tật hám danh, thích chơi nổi, lại cố làm dáng trí thức, bài viết nào cũng y như rằng, phải cố gài vô cho được vài câu của ông Tây này nói rằng thế này, bà Đầm kia đã phán thế nọ, để chứng tỏ ta đây học cao hiểu rộng, triết lý đầy mình. Mặc dù nhiều lúc sự o ép nhồi nhét ấy vô bổ. Chỉ là sự phô trương kiến thức cóp nhặt để loè những kẻ “ni a, ni b” cho vui.

Từ bài viết lần đầu “Cái âm điệu tủi thân bi đát” nhục mạ người Việt tị nạn cho đến bài “Một nỗi bình an” mới đây, ca ngợi bọn cộng phỉ Ba Đình, đều bị thiên hạ lôi lên “cẩu đầu trảm” sĩ vả thậm tệ.

Từ lúc bỏ nghề thầy cãi, xoay qua viết văn, qua nhiều bài viết phổ biến trên báo giấy, báo điện tử, người đọc nhận ra ngay chủ đích và tham vọng của y ta rất rõ. Y, một mặt tung hê Việt cộng, một mặt chê bai, dè biểu, đánh phá cộng đồng người Việt hải ngoại với hy vọng Việt cộng biết đến công lao khuyển mã của mình đã cúc cung bợ đít, bưng bô mà bố thí cho một chức nhỏ nào đó trong các tòa Đại sứ hay Lãnh sự quán của chúng ở Mỹ.

Đấy, người Việt tị nạn đã rành sáu câu về hắn như thế và thừa biết hắn là loại người nào rồi. Nhất là cư dân ở San Jose thì đã quá nhẵn mặt.

Nhưng thật tội nghiệp cho hắn. Cái ngữ như hắn, cái thứ phản Trụ đầu Châu, sớm đánh tối đầu, thì bọn Thào Tháo Việt cộng là chúa đa nghi đời nào tin tưởng, chỉ lợi dung hắn vào những việc vặt khi cần đến, chứ hắn làm gì đủ tư cách và “chất lượng” bọn vẹm kết nạp vào đảng để trọng dụng.

Hắn cố khoèo bằng được triết gia Trần Đức Thảo ra trong bài viết, cũng chỉ cốt để làm dáng ta đây cũng “triết ra” như ai, chứ so với Trần Đức Thảo, giống như cây cổ thụ với loài cỏ cú. Nhưng hắn vẫn không mở to được con mắt để học bài học phủ phàng, đắng cay của triết gia này bị Hồ Chí Minh ganh ghét tài năng mà đọa đày hết một đời người trong khốn khổ,đói nghèo.

Vì chưa có ngày nào sống chung nếm mùi cộng sản, lại thêm bản chất hám danh, hám lợi, hắn nào có biết được điều đó. Thương thay!

Vì vậy, sau cái “Đại hội Dziệt kiều”, hắn được chỉ thị của đảng ta là về Mỹ phải diễn ngay kịch bản con cu mồi, một con cu mồi khờ khạo, ngờ nghệch, ấm ớ hội tề, ngữa cổ gáy to lên, càng to càng tốt, để cho thiên hạ điếc tai, ngứa mắt, nổi giận chửi toáng lên, Bộ Chính trị ở Hà Nội sẽ theo dõi căn cứ vào phản ứng của người Việt hải ngoại mà “viết toa, bốc thuốc” cho đúng thuốc, đúng liều lượng để trị cái bệnh no hơi, chướng bụng của cái Nghị quyết 36 đẻ ra hơn 5 năm nay mà cứ đau ốm khẳng kheo, quẹo quặt, không nên cơm cháo gì.

Cho nên, làm con cu mồi gáy ngốc nghếch lần này, Nguyễn Hữu Liêm đã diễn xuất đúng nghề của chàng và cũng đúng mưu sâu của đảng. Đảng đã đặt cái nhiệt kế Hữu Liêm giữa cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản rất đúng chỗ để đo lường chính xác nhiệt độ lên xuống của sự phẩn nộ phản kích.

Ta hãy xem diễn viên, nhà trí thức/ luật sư/ tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm, đóng vai trò ngớ ngẫn, vừa diễu hài vừa chọc giận thiên hạ trên sân khấu Huê Kỳ dưới sự chỉ đạo của Bắc Bộ phủ, đang múa may trên sân khấu.

Bài viết dài năm trang giấy, bỏ đi bốn trang đầy những đoạn lòng thòng, nhăng cuội, tầm xàm của ông Tây, bà Đầm mà tiến sĩ Hữu Liêm cố làm dáng trí thức, mang vô để triết lý ba xu theo thói quen, che đậy cho sự trở cờ trơ trẽn của mình, người đọc thấy thật rối rắm, chẳng hiểu y ta muốn nói cái gì. Những dòng còn lại gom thành một trang, mới thực sự phơi bày ra cái hậu ý nâng bi Việt cộng của ông trí thức Hữu Liêm, y đã hạ mình ca ngợi chế độ phi nhân một cách rất ngô nghê và rất vô liêm sỉ.

Ngay cái nhan đề bưng bô Ba Đình, anh hề này cũng đã thọt cù lét thiên hạ lỡ nách rồi: “Nơi giữa Đại hội Việt Kiều: Một nỗi bình an”.

Tiếng Việt không ai nói “nỗi bình an” cả. Người ta nói “Nỗi lo sợ và sự bình an”. Chỉ có ông tiến sĩ học cao, triết rộng mới nói như thế để vờ làm con cu mồi ngớ ngẫn, ngu ngốc mà thôi. Tiếp theo, văn hay chẳng lo đọc dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay, câu trên ông “bá ngọ” câu dưới ngay: “Trưa ngày 30 tháng 4, 1975, đeo đu đưa trên chân đáp của chiếc trực thăng cuối cùng rời phi trường Cần Thơ, trên vai vẫn đeo súng (?) và vai kia mang túi xách, tôi đã thoát đi trong tiếng la hét hoảng sợ và cuồng nộ, bắn giết của đoàn quân đang tan vỡ … Những ngày còn ở trong nước thì vẫn nghĩ đến chuyện công an “mời lên làm việc”. Tôi đã như là một đứa con ghẻ trên chính quê hương mình”.

Một Hữu Liêm đã thoát đi rồi thì Hữu Liêm nào còn ở trong nước?

Bằng giọng điệu nâng bi rất ngây ngô để diễn tả sự sung sướng của mình khi được đảng xoa đầu, vuốt tóc, một “Dziệt kiều yêu nước, yêu đảng hết lòng”, Liêm khoe:

“Trong hai mươi năm qua, tôi đã bao nhiêu lần về lại Việt Nam. Lần nào bước vào phi trường Tân Sơn Nhất, tôi cũng vẫn luôn mang một nỗi sợ thầm kín. Không biết lần này mình có bị trục xuất hay không? Nhưng lần này, tôi về lại quê nhà với một tâm trạng khác. Tôi được chính thức mời trở lại Việt Nam”.

Té ra ra thế! Lần này Hữu Liêm được đảng đặt biệt ưu ái ban thí cho một “miễn tử kim bài” nên tâm trạng y ta rất “hồ hởi phấn khởi”, nhìn đâu cũng thấy một màu đỏ. Nhìn mấy tên công an mặt luôn lạnh như tiền, khi trước đã sợ thót dế lên cổ rồi, bây giờ nó lại “thân mật, vui vẻ, chào tôi nghiêm chỉnh với nụ cười (lạ và hiếm có). Nhìn mấy con tiếp viên hàng không Việt Nam hôm nay, chúng cũng “cố gắng (vén môi) lên cười trong nỗi bực mình thể hiện qua (cách nhíu) lông mày”. Có lẽ lúc ấy, trong bụng cảm thấy sướng rên lên, sướng đê mê được đảng vuốt ve, o bế, thế nào hắn ta cũng nhẩm trong miệng mấy câu vọng cổ í a, í à cho thỏa.

Quả đúng như thế! Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Hữu Liêm “được gặp nhiều anh chị em, có người tôi từng quen biết, có người không. Những khuôn mặt tươi vui, bắt tay nhau, cùng hát vang bài của chàng Sơn thuở nọ: ‘Mặt đất bao la, anh em ta về, gặp nhau, mừng như bão táp quay cuồng. Trời rộng. Bàn tay ta nắm nối liền một vòng Việt Nam’.Tôi cảm ra rằng mình vui lên như đứa trẻ thơ”.

Hơn hai mươi năm, nhiều lần về Việt Nam, Nguyễn Hữu Liêm luôn mang tâm trạng của một thằng ăn cắp, một thằng ăn trộm hay một tội phạm nên “luôn lo sợ phập phồng trong bụng” giờ đây chỉ cần có một cái vé máy bay free của đảng cho, đã biến một nhà trí thức/luật sư/doanh nhân thành một đứa bé thơ, quay ngược chiều suy nghĩ 180 độ. Quả nhiên đảng ta tài thật. Chỉ cần quẳng một cục xương là có thể biến đổi một con chó đang hung hăng thành ra ngoan ngoãn dễ bảo.

Chỉ cần dàn cảnh – có xe cảnh sát hú còi mở đường – có yến tiệc linh đình, ăn uống ngập mặt – vinh hạnh xếp hàng rồng rắn trước lăng để xem xác chết của Bác – vài lời ve vuốt tâng bốc cửa đảng – một thủ đoạn rất sơ đẳng của Việt cộng thường dùng để chiêu dụ, là ý thức và ý chí của các nhà trí trức hải ngoại sẽ bị tê liệt, toàn thân sẽ rũ riệt vì đuợc cấy thuốc “sướng”, giống như con chuột ngoan ngoãn, riu ríu, co rút toàn thân trước sự thôi miên của con rắn. Để rồi cả đám, cả bọn, trong ngày cuối cùng, bỗng chốc bị lên đồng tập thể, cùng gào lên hát quốc ca: “Cờ máu in chiến thắng mang hồn nước … phanh thây xé xác quân thù …” Rồi sau đó, trong cơn say điên cuồng, mấy chục mụ nạ dòng rững mỡ Dziệt kiều Pháp ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” và Hữu Liêm y ta hào hứng đến nỗi phải đứng dậy, la to lên “Việt Nam Hồ Chí Minh” mới hả nỗi hân hoan. Trong khi chỉ trước đó vài phút, nhà trí thức Nguyễn Hữu Liêm vẫn còn nhớ lại, lúc ấu thơ từng hát quốc ca của miền Nam, trước năm 1963 cùng với bài hát “Suy tôn Ngô Tổng thống” mà y cho là buồn cười. Rồi sau đó vài phút, y ta lại hân hoan thấy bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” như “cái hồn nhiên mà dân tộc đã bước vào từ hồi thế kỷ trước” chứ không buồn cười chút nào. Thật không có sự nịnh bợ nào trâng tráo, trơ trẽn hơn thế nữa để so sánh.

Sau khi hát “Tiến quân ca”, chào lá cờ cỏ sao vàng, bồi thêm một “Bác Hồ trong ngày đại thắng”, nhà trí thức Nguyễn Hữu Liêm bỗng “cảm thấy mình thật sự bình an, không còn sợ tổ quốc, sợ chế độ, sợ công an, sợ cộng sản nữa”.

Thật là thần kỳ! Chỉ cần bố thí một vé máy bay, cho ăn chơi vài bữa miễn phí thì từ một anh trí thức, tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm sợ cộng sản như sợ hủi, hoảng hốt đeo bám vào càng bánh xe máy bay để trốn thoát khỏi cái “địa ngục trần gian” trước kia bỗng chốc thành Dziệt kiều trở giọng yêu chủ nghĩa xã hội, yêu đảng, yêu Bác, yêu cái thiên đường cộng sản chập chờn trước mắt thật dể dàng.

Trong suốt bài viết, không thấy luật sư, tiến sĩ đề cập chữ nào đến 4 mục tiêu quan trọng đại hội đảng đề ra mà toàn là những lời bưng bô, nịnh bợ đảng ta quá sức.

Phương pháp chiêu hồi giới trí thức, doanh nhân hải ngoại về với đảng dễ như thế, rẻ như thế sao lâu nay Bắc Bộ phủ không nghĩ ra và áp dụng sớm vậy cà? Lãng phí thời gian thật!

Trong số 900 nhà trí thức, doanh nhân “mang thân về với triều đình” lần Đại hội này, không biết ngoài hai con cu mồi Trần Thanh Vân và Nguyễn hữu Liêm đã bộc lộ rõ bản chất vô học của mình như trên ra còn có nhà trí thức, doanh nhân nào giống y như vậy nữa không? Chờ xem hồi sau sẽ rõ!

Giờ hãy còn quá sớm để đánh giá và xem lời nói của hai con cu mồi này có đi đôi với việc làm không?

Sẽ có hai trường hợp xảy ra:

1. Hai ngài trí thức Trần Thanh Vân và Nguyễn Hữu Liêm cùng gia đình con cái sẽ trả lại quốc tịch Pháp, Mỹ cho đế quốc tư bản và về Việt Nam xin nhập tịch lại để được dõng dạc nói lên câu “Ôi hỡi quê hương Việt Nam. Lần này, tôi đã thực sự trở về!”. Như vậy người Việt hải ngoại từ nay sẽ tránh được chứng nôn mữa khi vô tình chạm mặt với họ.

2. Nếu cả hai cứ giơ mặt dầy ra không chịu cuốn gói về Việt Nam, cứ sống lỳ trên đất nước tự do để làm kiếp cu mồi thì tư cách và danh dự còn thua xa một gã Trần Trường vô học mà biết tự sỉ.

Dù trường hợp nào xãy ra đi nữa, người Việt tỵ nạn cộng sản cũng đều phải “kính nhi viễn chi”, tránh chúng cho thật xa để khỏi bị giây với hủi.

Để kết, người viết bài này chỉ xin có đôi lời nhận xét thô thiển: Khi Nguyễn Hữu Liêm đề cập đến tiến sĩ Trần Đức Thảo trong bài viết của mình mà không một chút ngượng ngùng, xấu hổ thì đủ biết da mặt đã hắn ta dầy đến cỡ nào rồi. Búa rìu dư luận có bủa xuống e cũng chỉ bị mẻ lưỡi, sút cán mà thôi chứ mặt hắn vẫn cứ trơ như đá, sẽ chẳng hề hấn chi đâu.

Và cuối cùng, một trí thức tiến sĩ, triết gia, luật sư như Nguyễn Hữu Liêm mà không phân biệt nổi hai chữ tổ quốc và chế độ, một tổ quốc thiêng liêng và một chế độ phi nhân, để rồi đánh đồng với nhau một cách mù quáng chỉ vì mấy bữa ăn thì quả là vô phúc cho gia tộc họ Nguyễn Hữu quá.

Người đời sẽ mãi mãi mĩa mai cái tên Hữu Liêm. Đồ vô liêm! Thứ con nhà không có lư hương!.

Nguyễn Thanh Ty