Wednesday, November 11, 2009

Trung Tá Lương Trung Việt Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ

Trung Tá Lương Trung Việt

Mời quý vị xem một đoạn video của Bộ quốc phòng HK, nói về Chiến Tranh Việtnam, Iraq. Đoạn video này nói về Trung Tá Lương Trung Việt, vị sĩ quan trẻ này đã không cầm được nước mắt khi được phỏng vấn trong đoạn nhắc tới quê hương ....!

Hiện nay Trung tá Lương Trung Việt đã là Đại Tá Chỉ Huy trưởng Lữ Đoàn biệt cách dù Mỹ đang tham chiến tại Iraq và Aganistan (dưới quyền ông khoảng 10.000 quân nhân Mỹ).

Người ta tự hỏi rằng, một người xa quê hương khi chưa trưởng thành và là một cấp chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, một đơn vị nổi tiếng vào sinh ra tử lại không cầm được nước mắt khi nhớ đến những áp bức, bất công trên quê hương.

Trong khi đó biết bao thanh niên trí thức Việtnam ngay trong lòng đất mẹ lại dửng dưng. Có phải việt gian csVN đã thuần hóa thanh niên trí thức thành những người vô cảm ?!

Còn những trí thức hải ngoại mang căn cước TỴ NẠN CỘNG SẢN mà lại ÔM CHÂN bọn thái thú việt gian csVN.

---

    Trung Tá Lương Xuân Việt, sĩ quan chỉ huy tại Iraq, vẫn giữ tâm hồn Việt Nam
Hoàng Mai Đạt

"Đi lính là phục vụ Đất nước một cách chính trực và hữu ích"

WESTMINSTER, California (NV) - Trong ngày nghỉ ở nhà, ông có thể dạo đàn guitar, ngâm nga hát một bài tình ca hoặc đọc một cuốn sách viết bằng tiếng Việt. Ngoài mặt trận, ông cầm súng lùng bắt những người vũ trang, hô to những mệnh lệnh bằng tiếng Anh. Người đa năng này là Trung Tá Lương Xuân Việt, một tiểu đoàn trưởng thuộc binh chủng Nhảy Dù của quân đội Hoa Kỳ.

Từ một đứa trẻ chưa đầy 10 tuổi phải di tản ra khỏi Sài Gòn vào cuối Tháng Tư 1975, theo đoàn người tị nạn cộng sản đến nước Mỹ, hơn ba thập niên sau ông Việt đã chỉ huy cả ngàn quân nhân tại mặt trận Iraq. Đời binh nghiệp của ông khởi đầu từ cuộc chiến Việt Nam, đặc biệt là từ một người cha mà ông rất ngưỡng mộ.

Trong gần hai thập niên phục vụ trong quân đội, Trung Tá Việt, 42 tuổi, đã trú đóng tại nhiều nơi như Colorado, Haiti, Bosnia, Kosovo, từng giữ an ninh tại New Orleans sau ngày bão Katrina, và tham chiến tại Iraq vào năm ngoái.

“Tôi đã có mặt tại Iraq 15 tháng,” Trung Tá Việt trả lời nhật báo Người Việt vào ngày Thứ Năm, 21 Tháng Hai.

“Tôi được giao nhiệm vụ hoạt động trong một vùng có diện tích rộng 3,600 cây số vuông. Thành phố Samarra thuộc vùng kiểm soát của chúng tôi,” ông cho biết.

Samarra nằm khoảng 80 dặm về phía Bắc thủ đô Baghdad. Nơi đây có các nhóm nổi dậy thuộc phái Sunni hoạt động rất mạnh chống lính Mỹ và quân đội Iraq.

Đúng hai năm trước, vào ngày 22 Tháng Hai, 2006, những người Al-Qaeda quá khích đã đột nhập, gài chất nổ, phá sập mái vòm vàng tại ngôi đền Al-Askari. Đây là đền thiêng liêng hàng thứ ba của người Hồi Shiite trên thế giới. Sự phá hoại đưa đến những vụ tấn công đẫm máu giữa người Shiite và người Sunni kéo dài trong hai năm qua.

Trung Tá Lương Xuân Việt và các quân nhân của ông đến Samarra sau khi Đền Vòm Vàng bị nổ. Ông Việt đã chỉ huy Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 505, Lữ Đoàn 3 Tác Chiến, Sư Đoàn 82 Nhảy Dù. Dưới quyền của ông là 850 lính nhảy dù, cộng thêm 300 quân nhân từ các đơn vị yểm trợ như quân cảnh, công binh, thiết giáp, đội tháo gỡ mìn. “Lực lượng của tôi đã có khoảng 1,250 quân nhân.”

“Nhiệm vụ của chúng tôi là đánh bại các nhóm nổi dậy trong vùng Samarra, trợ giúp chính quyền địa phương phục hồi những dịch vụ căn bản như điện, nước, rác, y tế, vân vân,” Trung Tá Việt kể.

“Chúng tôi đạt khá nhiều thành quả tại Samarra. Lính nhảy dù chúng tôi thường xuyên hành quân phản công chống Al-Qaeda. Chúng tôi đã phá vỡ trên một chục ổ khủng bố, tịch thu một số lớn tài liệu tình báo, dẹp tan các nhóm lãnh đạo Al-Qaeda cấp địa phương, bắt giữ trên 1,000 tên khủng bố, giúp người Iraq thành lập bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia để tăng cường an ninh tại Samarra, tạo phương tiện cho nỗ lực xây lại Đền Vòm Vàng, phục hồi Samarra và mang lại một cuộc sống dễ thở hơn cho người Iraq.”

Mang lại một cuộc sống bình an cho người khác là một trong các mục tiêu trong đời của Trung Tá Lương Xuân Việt trong một hành trình xuất phát từ Việt Nam, một đất nước cũng bị chiến tranh tàn phá như Iraq. Ông Việt chào đời tại Biên Hòa, sống với cha mẹ ở Sài Gòn trước năm 1975 và trong vùng Los Angeles sau khi tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông lớn lên trong một gia đình gồm có tám anh chị em.

Người có ảnh hưởng lớn nhất trong đời của Trung Tá Việt chính là thân phụ của ông. “Đời binh nghiệp luôn luôn là nguồn cảm hứng cho tôi, phần lớn vì tôi ngưỡng mộ và kính nể cha tôi cũng như các chú bác đã đi lính,” ông Việt tâm sự.

“Tôi muốn bắt chước cha tôi, sống với tinh thần trách nhiệm, danh dự, đất nước. Tôi vẫn nhớ những hình ảnh cha tôi xông pha vào chiến trận (trong) bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến mà ông rất hãnh diện, (với) sự tự tin, lòng yêu nước, và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đất nước.

“Khi còn bé, tôi từng ao ước được phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Đáng tiếc là ước mơ của tôi bị tan vỡ theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam.

“Thế nhưng tại quê hương mới này, ngọn lửa phục vụ vẫn bừng cháy trong tôi. Tôi rất biết ơn trước những gì mà đất nước Hoa Kỳ đã mang đến cho tôi và hàng ngàn người tị nạn.

“Mục tiêu duy nhất của tôi trong tinh thần phục vụ đất nước vĩ đại này là đóng góp trong công cuộc bảo vệ tự do và lối sống của chúng ta.”

Tinh thần phục vụ tại chiến trường Iraq của Trung Tá Lương Xuân Việt đã được báo chí Mỹ ghi nhận.

Trong một bài đăng trên trang tin điện tử của tuần báo Time ngày 26 Tháng Sáu, 2007, ký giả Mark Kukis đã viết về sự có mặt của ông Việt tại mặt trận Samarra:

“Làng Binat al Hasan đã vắng vẻ một cách kỳ lạ khi các quân nhân Hoa Kỳ bước xuống từ bốn chiếc trực thăng trong một cuộc hành quân trước khi trời sáng. Trong vài phút sau khi trực thăng đáp xuống, khoảng 75 lính nhảy dù Mỹ và một nhóm quân nhân Iraq đã trải rộng trong một ngôi làng nằm ở sa mạc khoảng 15 dặm về phía Đông Nam Samarra. Các quân nhân đã lùng kiếm trong từng căn nhà mà không thấy ai.

“Trung Tá Việt Lương, chỉ huy trưởng của lực lượng Hoa Kỳ trong vùng Samarra, nói rằng những vụ bạo động do quân nổi dậy gây ra đã gia tăng đáng kể. [...]Ông Lương cho biết lúc trước Samarra và vùng nông nghiệp ở chung quanh chỉ có chừng hai vụ tấn công mỗi ngày. Giờ đây mỗi ngày có đến năm hoặc sáu vụ tấn công.

“Trong một lần hành quân mới đây ở ngoại ô Samarra, quân đội Hoa Kỳ đã bắt 14 người bị tình nghi là quân nổi dậy. Họ đầu hàng khi thấy trực thăng đáp xuống từ trên bầu trời đêm. Cũng có những đêm không bắt được ai tại những ngôi làng bụi bặm. ‘Bất cứ ngôi làng êm ả nào cũng có thể trở thành nơi ẩn náu hoặc điểm hẹn của quân nổi dậy,’ ông Lương nói. ‘Những kẻ xấu không thật sự biết có giới hạn.’”

Cũng trong ngày 26 Tháng Sáu, 2007, đài CNN có một mẩu tin liên quan đến ông Việt tại chiến địa Samarra. Bản tin đó được viết như sau:

“Trong cuộc phỏng vấn dành cho CNN, Trung Tá Việt Lương đã so sánh chiến thuật và động lực của Việt Cộng (trong cuộc chiến Việt Nam) và lực lượng nổi dậy tại Iraq hiện nay. 'Vài chú bác của tôi nay đã trên 60 tuổi vẫn thường viết email cho tôi bằng tiếng Việt Nam. Họ nhắc cho tôi biết về những gì tôi cần để ý tại Iraq' ông kể. 'Quân nổi dậy tại Iraq đang dùng những chiến thuật tương tự (như Việt Cộng).'

“Trung Tá Lương cho biết quân nổi dậy thường ẩn náu trong những ngôi đền để không bị lính Mỹ tấn công. Ông cũng nhận thấy quân nổi dậy luôn trà trộn vào thường dân để không bị quân đội Hoa Kỳ tấn công với hỏa lực của họ. Ông Lương cũng nhận thấy động lực của quân nổi dậy không khác quân du kích cộng sản là bao nhiêu. Ông Lương nói, ‘Tinh thần yêu nước là điều mà bạn không thể coi thường. Người ta có thể chiến đấu và chết cho tinh thần này.’

Nhắc đến giai đoạn rời Việt Nam vào năm 1975, bản tin của CNN có viết thêm: “Ông Lương đã rơi lệ khi nhớ đến cha của ông, một quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó cha của ông đang giúp cho phi đạo tại Sài Gòn được thông trống, để phi cơ của quân đội Hoa Kỳ có thể đáp xuống. Ông Lương kể, 'Lúc đó tôi được thấy một đội trực thăng CH53 hùng tráng đáp xuống như những thiên thần từ trên trời đến cứu chúng tôi.'”

Cha của Trung Tá Việt là ông Lương Xuân Đương, nguyên là thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị thiếu tá thuộc binh chủng “Cọp Biển” này đã qua đời tại California vào năm 1997.

Ngoài công tác tại Iraq, ông Việt cũng hãnh diện khi nhắc đến một sứ mạng khác mà đơn vị của ông từng thực hiện tại New Orleans. Tiểu đoàn của ông là đơn vị tiên phong của Sư Đoàn Dù 82 được gởi đến tiểu bang bị bão.

“Tôi đã có một kinh nghiệm độc đáo trong vụ bão Katrina,” ông nói với nhật báo Người Việt. “Là một đơn vị tác chiến, chúng tôi thường chỉ chú trọng đến sứ mạng tác chiến. Khi được gởi đến New Orleans để hỗ trợ cho cơ quan FEMA, chúng tôi bị rơi vào tình trạng thực hiện những công việc ngoài khả năng của mình.

“Làm việc với nhiều cơ quan cấp liên bang, tiểu bang và địa phương không phải là sở trường của chúng tôi. Về mặt đó thì công tác tại New Orleans đã phức tạp hơn những gì chúng tôi đối phó ngoài trận địa.

“Tuy nhiên, tôi tin rằng chúng tôi đã tạo được sự khác biệt rất lớn và đã có thể trợ giúp những đồng bào Hoa Kỳ.”

Trung Tá Việt đã tốt nghiệp bằng cử nhân trong môn Sinh-Hóa Học tại trường University of Southern California. Ông cũng đậu bằng tiến sĩ Khoa Học và Nghệ Thuật Quân Sự.

Ashley Thu Diễm, 13 tuổi; Brandon Xuân Huy, 10 tuổi; Justin Xuân Quốc, 7 tuổi

Trong thời gian trú đóng tại Fort Carson, Colorado đầu thập niên 1990, ông Việt đã gặp bà Quyên Kimberly Lau ở Denver. Vài năm sau họ thành hôn, nay có ba con gồm có một gái, hai trai: Ashley Thu Diễm, 13 tuổi; Brandon Xuân Huy, 10 tuổi; và Justin Xuân Quốc, 7 tuổi. Gia đình ông đang sống tại Fort Bragg, North Carolina.

“Quyên là một người vợ của lính, biết quên mình để lo cho chồng con,” ông Việt nói về vợ. “Sự hỗ trợ bền bỉ của vợ đã giúp tôi có thể chú trọng đến công việc của mình và đạt được thành quả trong những gì tôi làm.”

Mặc dù dành nhiều thời giờ cho quân đội, ông Việt cũng có những thú vui khác.

“Tôi mê thể thao, vẫn chạy bộ rất nhiều,” ông nói. “Tôi cũng thưởng thức văn chương và âm nhạc. Tôi rất thích đọc thơ và tiểu thuyết Việt Nam, cũng như sách Mỹ viết về lịch sử. Tôi từng tập chơi vĩ cầm trong thời thơ ấu, thế nhưng sau này tôi chơi đàn guitar. Tôi yêu thích những bài tình ca của Phạm Duy, Vũ Thành An, vân vân. Những ca khúc này nhắc cho tôi nhớ rằng tâm hồn tôi vẫn thật sự là một tâm hồn Việt Nam.”

Trung Tá Việt đã khuyến khích giới trẻ Mỹ gốc Việt hãy gia nhập quân đội. “Không phải ai cũng có thể đi lính,” ông nói. “Tuy vậy, đối với nhiều người, đi lính là phục vụ đất nước một cách chính trực và hữu ích.”

Sau khi phục vụ tại Iraq, Trung Tá Lương Xuân Việt đã được đưa vào danh sách các sĩ quan được đề bạt lên cấp Đại tá.

“Tôi mong một ngày kia tôi được chỉ huy một lữ đoàn,” ông nói. “Ao ước của tôi là có khả năng để tạo ảnh hưởng tốt đến cho nhiều người, mang đến khác biệt trong đời sống. Ở một cấp chỉ huy cao hơn thì tôi có cơ hội được thực hiện niềm ao ước đó.”

Hoàng Mai Đạt


Tuesday, November 10, 2009

Trọng Ðạt: Biến Ðộng Miền Trung - Trọng Đạt

Trọng Đạt

Trọng Đạt

Chúng tôi xin sơ lược tình hình biến động giai đọan 1966 dựa vào cuốn “1966 Việc Từng Ngày” của ông Ðoàn Thêm.

Cuối tháng 3 -1966 tại Ðà Nẵng có nhiều vụ biểu tình, đóng cửa tiệm, tình hình Huế cũng rất sôi nổi trong khi Ủy ban Lãnh đạo Quốc Gia quyết định triệu tập Hội đồng Tư vấn soạn thảo Hiến Pháp và tổ chức bầu cử cuối năm 1966 thay vì cuối năm 1967 như dự định. Ông Nguyễn cao Kỳ Chủ tịch Uỷ ban hành pháp trung ương cho biết miền Trung có nhiều vụ lộn xộn đình công bãi thị, kho gạo ngoài Huế sắp cạn, trong khi ấy tại Viện Hoá Ðạo Sài Gòn có hai trăm Phật tử biểu tình đi từ Viện tới công trường Diên Hồng trương biển ngữ chống chính phủ. Thượng toạ Thích Tâm Châu kêu gọi Phật tử bình tĩnh chờ chính phủ thoả mãn các nguyện vọng, tại Huế có tới hai chục ngàn người đi tuần hành.

Phật Giáo lại biểu tình khắp nơi đòi chính phủ phải thực thi dân chủ, tổ chức bầu cử Tổng thống và Quốc hội, đầu tháng 4-1966 tình hình miền Trung ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nguyễn Cao Kỳ cho biết bác sĩ Nguyễn văn Mẫn, thị trưởng Ðà Nẵng thuê người đi biểu tình chống chính phủ, đe dọa dân chúng, hô hào đình công bãi thị. . ông Kỳ coi như Ðà Nẵng bị Việt Cộng chiếm, sẽ hành quân tái chiếm và xử tử thị trưởng Mẫn. Chính phủ cho biết Việt Cộng muốn bài Mỹ để cô lập Việt nam Cộng Hòa. Ðài phát thanh Ðà Lạt bị nhóm biểu tình đốt, ngoài ra tại Ðà Nẵng, Ban Mê Thuột, Nha Trang cũng có nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia kêu gọi chấm dứt hỗn loạn, đóng cửa các trường học.

Quân đội đã lấy lại Nha Trang, mặc dù Viện Hoá Ðạo kêu gọi bình tĩnh nhưng hàng ngàn người quá khích đã biểu tình đốt xe, xung đột với cảnh sát. Trung tướng Tôn Thất Ðính được cử thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuẩn làm Tư lệnh vùng Một và đại biểu chính phủ Huế. Phó tổng thống Mỹ Humphrey có tuyên bố bi quan về tình hình Việt nam, ông nói:

“Có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam, đất nước có quá nhiều sự rắc rối”.

Thứ trưởng ngoại giao Mỹ nói TT Trí Quang thao túng chính trường Việt Nam, mục đích không rõ rệt. Phật giáo lập Ủy ban tranh đấu chống chính phủ nhưng bắt đầu chia làm hai phe ôn hoà và quá khích, Thượng toạ Tâm Châu ôn hoà bị phe quá khích dọa ám sát.

Cuộc tranh đấu của Phật Giáo quá khích và các vụ bạo động tại miền Trung bị các nhóm sinh viên đoàn kết, các đoàn thể Công giáo, Việt Nam Quốc dân đảng …. lên án. Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố cương quyết đàn áp biểu tình bạo động, cử Ðại tá Nguyễn Ngọc Loan làm Tổng giám đốc cảnh sát công an thay Ðại tá Phạm văn Liễu và kiêm nhiệm Giám đốc nha an ninh quân đội. Ông Thích Tâm Châu tuyên bố nếu tháng 9 không có bầu quốc hội Phật giáo sẽ biểu tình, Bắc Việt và Mỹ nên rút quân khỏi Việt Nam.

Các cuộc biểu tình và các vụ bạo động ở miền Trung đã kéo dài được hơn một tháng, lực lượng tranh thủ dân chủ tại Ðà Lạt chiếm khu chợ Hoà Bình, quân trấn chiếm lại trụ sở của lực lượng tại Hợp tác xã rau. Giữa tháng 5 Nguyễn Cao Kỳ làm mạnh, cho 5 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến ra Ðà Nẵng bằng máy bay chiếm đài phát thanh chạm súng với lực lượng tranh đấu. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay Tôn thất Ðính làm Tư lệnh quân đoàn Một, ông Nguyễn Chánh Thi bị gọi ra trình diện trước ngày 20-5-1966. Trong khi ấy tại Sài Gòn các Ðại đức,Thượng toạ tuyệt thực phản đối chính phủ đem quân ra Ðà Nẵng.

Quân chính phủ và phe tranh đấu đã chạm súng có chết người và bị thương trước chùa Vũ Hội, Ðà Nẵng. Thượng tọa Trí Quang ở Huế đòi quân chính phủ phải rút khỏi Ðà Nẵng, Nguyễn Cao Kỳ phải từ chức ngay, hai bên lại nổ súng tại khu chùa Phổ Ðà, một số chết và bị thương. Ðến ngày 23-5 nhóm nổi dậy ở chùa Tỉnh Hội Ðà nẵng buông súng hàng, khoảng một trăm người trở về quân đội, hơn một ngàn súng bị tịch thu trong chùa, ba chục xác chết hôi thối. Phía chính phủ có 20 người chết hằng trăm bị thương, bác sĩ Mẫn bị bắt đưa về Sài Gòn, tại Ðà Nẵng có tất cả 76 người thiệt mạng trong cuộc dẹp loạn.

Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ làm mạnh hơn trước, Thiếu tá Tôn Thất Tường, Ðại tá Ðàm Quang Yêu cầm đầu vụ Ðà Nẵng bị bắt đưa về Sài Gòn. Ðà Nẵng coi như đã yên chính phủ còn phải lo đối phó với tình hình tại Huế. Cuối tháng 5-1966 tại Sài Gòn nhóm tranh đấu biểu tình liên miên bị giải tán bằng lựu đạn cay. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo không có chính nghĩa đã bị chính phủ đàn áp bằng vũ lực trong khi nội bộ Phật giáo bắt đầu chia rẽ suy yếu. Ngày 5-6-1966 Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm họp báo cho biết Huế được tái lập trật tự, ba ngàn quân chính phủ có xe tăng đang trên đường ra Huế, thầy Trí Quang bèn hô hào Phật tử mang bàn thờ xuống đường để ngăn cản lối vào thành phố. Thượng tọa Tâm Châu đã về nước kêu gọi Thiệu Kỳ từ chức nhưng chống bạo động, TT Trí Quang tuyệt thực phải vào nhà thương. Nguyễn Ngọc Loan đích thân chỉ huy cảnh sát dã chiến dẹp bàn thờ và biểu tình.

Nói chung cuộc biểu tình, biến loạn chống chính phủ đã bị dẹp tan trong thời gian ngắn vì không được đa số dân chúng ủng hộ, người ta chán ngấy cảnh biểu tình tuyệt thực kéo dài hết năm này qua năm khác. Cuộc biến động đã bị các đoàn thể tôn giáo, chính trị, đảng phái, sinh viên … lên án vì đã tạo ra tình trạng rối loạn tại hậu phương có lợi cho Cộng Sản. Khoảng gần một năm sau, các sĩ quan cao cấp tham gia biến động đã bị đưa ra toà chịu biện pháp kỷ luật.

Cuộc biến động sau đó bị chìm vào quên lãng vì thực ra nó không có tầm vóc lớn hay nói khác đi tầm vóc Quốc gia mà chỉ là những cuộc biểu tình, ly khai của một số đơn vị miền Trung nhất là Ðà Nẵng, Huế. Sở dĩ chúng tôi nói là không có tầm vóc Quốc gia vì nó không phát triển mạnh tại Trung ương tức Thủ đô Sài Gòn hồi đó, những cuộc biểu tình của Phật giáo chống chính phủ năm 1963 và năm 1964 để lật đổ các chính phủ Ngô đình Diệm và Trần Văn Hương mới có thể coi là có tầm vóc quốc gia .

Thời gian sau, chiến tranh ngày càng mở rộng hầu như báo chí, đài phát thanh không thấy ai bàn tới biến cố này, có thể họ không coi đó là một vấn đề to tát. Gần đây chúng tôi có được đọc bài Biến động Miền Trung của cựu Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi cho rằng phong trào tranh đấu của Phật giáo hồi đó là để đòi chính phủ quân nhân thực hiện bầu cử để miền Nam có một chính quyền dân cử, nhưng dù nói bằng danh từ hoa mỹ nào thì cuộc biến động miền Trung hồi 1966 đã phá rối trị an, có lợi cho Cộng Sản.

Thế rồi 40 năm đã trôi qua nay cuộc biến động đã được làm sống lại trong cuốn hồi ký Biến Ðộng Miền Trung (BÐMT) của cựu Thiếu tá cảnh sát Liên Thành (LT), mới đầu chúng tôi thấy khoảng năm 2005, 2006 tuần báo Sài Gòn nhỏ có đăng một số bài trích trong cuốn sách chưa xuất bản này, một thời gia sau Liên Thành cho in thành sách và ra mắt sách tại một số nơi. Cuốn sách được nhiều người hưởng ứng mua ủng hộ và càng ngày càng được phổ biến. Một điều hơi lạ một đề tài xưa như trái đất, không hấp dẫn gì cho lắm, nó không có tầm vóc quốc gia đã bị thời gian chôn vùi từ trên 40 năm qua nay tự nhiên lại “nổi đình đám” khắp nơi, ngày càng dữ dội rất là “hot” nóng, ngày càng được ra mắt sách tại nhiều nơi tại Mỹ cũng như tại Úc, ngày càng được bàn thảo tranh cãi khắp nơi tại hải ngoại, trên các diễn đàn điện tử, người ta tranh cãi nhau dữ dội, thậm chí xỉ vả, chửi bới lẫn nhau vì bất đồng ý kiến.

Nhiều người khen ông Liên Thành can đảm nói lên những sự thật lịch sử đã được dấu kín bay lâu nay. Dần dần có nhiều người phản ứng chỉ trích trên báo chí về sự sai lạc của các dữ kiện trong cuốn sách, một số nhân chứng cho là ông Liên Thành không nói đúng sự thật. Sau đó có một vài sĩ quan cao cấp trong ngành cảnh sát cũng lên tiếng trên báo Sài Gòn Nhỏ chỉ trích những điểm sai trong cuốn sách. Chúng tôi có hỏi ý kiến một cựu sĩ quan cảnh sát có chức vụ và cấp bậc khá lớn trước 1975, ông này theo Công giáo đã lắc đầu tỏ vẻ không tán thành việc làm của Liên Thành và cho rằng nó sẽ gây xáo trộn trong cộng đồng hải ngoại. Ở đây chúng tôi không bàn về nội dung cuốn sách đúng, sai, hay, dở mà chỉ nêu một số ảnh hưởng không tốt do nó gây ra trong cộng đồng. Có điều đáng nói là ông Liên Thành đã không được giới cảnh sát Quốc gia ủng hộ, bằng cứ là trong các cuộc ra mắt sách của ông không nghe nói Cảnh sát tổ chức ra mắt hay có đại diện tới dự.

Nguyễn Phúc Liên Thành

Ông Liên Thành sinh năm 1942, học lực tú tài, năm 1966 là sĩ quan cấp thiếu uý biệt phái sang làm phó ty Cảnh Sát Thừa Thiên, ông không tốt nghiệp học viện Cảnh Sát quốc gia như nhiều trưởng ty khác, năm 1975 LT giữ cấp bậc Thiếu tá chức vụ cảnh sát trưởng Thừa Thiên. Như vậy năm 1966 ông LT chỉ là một sĩ quan cấp bậc chức vụ nhỏ, học lực trung bình, 24 tuổi, những sự kiện ông kể lại trong sách không thể coi là có tầm vóc Quốc gia được mà chỉ coi như là những biến cố địa phương của một tỉnh lẻ xa xôi. Mặc dù cấp bậc, chức vụ nhỏ, biến cố tại Huế nơi ông làm việc không phải là vấn đề to tát nhưng cuốn sách của ông đã được thổi phồng quá đáng, người ta có cảm tưởng như chức vụ của ông ngang hàng Tổng giám đốc hoặc chỉ huy trưởng Cảnh sát trung ương tại Sài Gòn vì ông kể lại toàn những chuyện to tát, động trời.

BÐMT không thể coi là có tầm vóc bí mật Quốc gia vì nó chỉ kể lại những biến động tại một tỉnh lẻ trong một địa phương nhỏ mà thôi, nếu nói là tầm vóc lớn chúng ta phải kể Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập hoặc Khi Ðồng Minh Tháo Chạy của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng vì nó liên quan đến những việc Quốc gia đại sự , những điều tác giả NTH tiết lộ là những bí mật Quốc gia có liên quan đến giới chức cao cấp trong chính quyền Việt Mỹ và vận mệnh miền Nam trước 1975, tuy nhiên ngay như hai cuốn sách này cũng không được quảng bá rầm rộ như cuốn BÐMT.

Nói về ảnh hưởng của cuốn BÐMT thì ta khó mà chối cãi được, năm ngoái năm kia, trong khi dân oan khiếu kiện tại Sài Gòn, Hà Nội ầm ĩ, đồng bào Công giáo Thái Hà đòi đất, giáo dân đòi toà khâm sứ Hà Nội đang nóng hổi thì Biến Ðộng Miền Trung cũng nổi đình đám ầm ĩ tại Hải ngoại át hẳn vụ toà Khâm sứ và vụ Thái Hà của Giáo dân trong nước, có một nhà báo đã nói cuốn sách này có thể khiến người ta quên đi vụ Thái Hà, Toà Khâm Sứ. Hư thực ra sao chưa rõ nhưng chúng ta phải công nhận nó đã gây xáo trộn khá nhiều trong cộng đồng hải ngoại. Cho tới nay Biến Ðộng Miền Trung vẫn được tiếp tục ra mắt sách, tiếp tục được quảng cáo, lăng sê ầm ĩ .

Trên nhiều diễn đàn ngày càng có thêm những viết bài chỉ trích, than phiền về cuốn BÐMT của LT, cách đây vài tháng trên DCV.online một bài góp ý vơi LT được đưa lên diễn đàn này, ngay sau đó có hàng mấy chục rồi gần một trăm người góp ý, họ đem tác giả bài viết ra đấu tố y hệt như cải cách ruộng đất năm 1955 ngoài Bắc . Những người bênh vực ủng hộ LT chửi rủa, tru tréo, mạt sát tác giả bài viết và sau đó những người ủng hộ tác giả phản pháo lại dữ dội, họ làm như muốn ăn tươi nuốt sống nhau . Ðiều đáng sợ là trong đó vấn đề tôn giáo đã được hai bên đem ra làm đối tượng tranh cãi, bên này chỉ trích nói xấu tôn giáo bên kia, chia rẽ tôn giáo đã thực sự thành vấn đề. Như chúng ta đã biết Cộng Sản thường len lỏi vào cộng đồng để đâm bị thóc chọc bị gạo, CS lợi dụng tối đa sự chia rẽ của người Việt Quốc gia để tạo phân hoá nghi kỵ. BÐMT được đề cập có khi hàng tuần, hàng tháng trên các diễn đàn, được tranh cãi, chỉ trích chửi bới nhau giữa các độc giả hay tranh cãi, dĩ nhiên trong đó CS giả vờ đóng vai độc giả để chửi bới bên kia, đâm bị thóc chọc bị gạo chia rẽ cả hai bên.

Việc ông Liên Thành đem chuyện xưa viết hồi ký không có gì là sai trái, đó là quyền tự do cá nhân của ông, nếu như ông có quảng cáo tối đa tác phẩm BÐMT của ông để bán lấy nhiều tiền hay để đánh bong, khoe khoang cho cá nhân ông thì cũng là quyền của ông. Nhưng vấn đề chúng tôi muốn nói ở đây là tác phẩm của ông nay gây quá nhiều tranh cãi, chia rẽ nặng nề trong cộng đồng Hải ngoại, dù là vô tình hay cố ý nó cũng không có lợi cho chúng ta trong lúc này. Ông LT là người Quốc gia chắc cũng biết rằng xáo trộn chia rẽ là có lợi cho CS, họ chỉ trông đợi có thế như vậy dù việc gây xáo trộn do vô tình hay cố ý chúng ta cũng đều nên tránh né.

Tôi thiết nghĩ tác phẩm của ông nay đã tới tay nhiều người đọc, ông đã bán được khá nhiều sách, ông đã từ một người vô danh tiểu tốt không ai biết tới trở thành nhân vật nổi tiếng và như thế chúng tôi nghĩ cũng là được quá rồi. Có lẽ ông nên thôi ra mắt sách, thôi lên các diễn đàn trả lời người đọc vì gần đây ông ra mắt sách tại Bắc Cali mới khiến cho một người lên tiếng phản bác cuốn sách của ông trên diễn đàn gây lên nhiều tranh cãi chia rẽ như họ đã làm trên các trang diễn đàn khác. Có lẽ là người Quốc gia ông nên nghĩ tới quyền lợi của cộng đồng để phục vụ công cuộc tranh đấu chung của người Việt hải ngoại hơn là đi tranh luận đỏ mặt, tía tai về những chuyện ruồi bu, cũ rích.

Ông LT là nhân chứng lịch sử nhưng không có nghĩa tất cả những điều ông kể lại đều được người ta tin hết, người đọc họ cũng không ngây thơ như vậy đâu.

Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, ông Cao Văn Viên đã kết luận.

“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Ðịnh kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng định và phán xét”
(Lâm Lễ Trinh, Về Nguồn, trang 276.)

Trong phim Rashomon (Nhật, 1951), cái chết của một hiệp sĩ trong rừng đã được năm người nhân chứng khai khác nhau, không biết đâu là sự thực. Ngay như giữa hai ông cựu tướng Cao Văn Viên và Ngô Quang Trưởng khi kể lại tình hình tháng 3-1975 cũng đã có sự khác biệt rõ rệt. Ông Trưởng nói ngày 13-3-1975 ông được triệu về Sài Gòn, tại dinh Ðộc Lập chỉ có một mình ông vào gặp Tổng thống và Thủ tướng và Tổng thống Thiệu buộc ông phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm 13-3-1975. Ông Cao Văn Viên lại nói buổi họp ngày 13-3 có Tổng thống, Thủ tướng , Trung Tướng Ðặng Văn Quang, ông Cao Văn Viên và hai vị Tư lệnh quân khu III và QK I, ông Thiệu chưa cho lệnh rút quân bất cứ nới nào lúc đó ( 13-3-75).

Chúng tôi nghĩ có lẽ ông Liên Thành nên khiêm tốn như ông Cao Văn Viên, ông không nên quả quyết một cách chắc chắn những sự kiện do mình đã làm nhân chứng, vả lại trong bài CIA Và Các Ông Tướng ông Trần bình Nam có nói.

“Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác”

Chúng tôi nghĩ có lẽ ông LT nên bớt chỉ trích tố giác người này người nọ vì nó không có lợi cho cá nhân ông, thí dụ như trên Ðàn Chim Việt trong bài nói về Rút bỏ Quân đoàn Một và bài nói về Biến động miền Trung đã có hai nhân chứng là cựu quân nhân rút chạy tại Huế góp ý nói rằng ông Liên Thành tháng 3-1975 đã bỏ một lô đàn em ở Thuận An chạy tháo thân trước và họ đã chỉ trích nặng nề hành động này.

Cộng sản đã được hưởng lợi rất nhiều ở tình hình biến động miền trung năm 1966, nay chúng ta không thể để cho họ lợi dụng Biến Ðộng Miền Trung một lần thứ hai. Cộng đồng người Việt Hải ngoại nay đang có rất nhiều việc trước mắt cần làm như: yểm trợ các nhà đấu tranh dân chủ trong nước, hỗ trợ các tôn giáo tranh đấu cho quyền tự do tín ngưỡng, giúp đỡ thương phế binh VNCH tại Việt Nam, ngăn chận sự xâm nhập của CS nằm vùng vào cộng đồng, biểu tình chống Trung Quốc lấn đất, lấn biển …. ngoài ra chúng ta cần phải đánh giặc chia rẽ.

Trước mắt chúng ta là hằng hà sa số những việc có ý nghĩa cần phải làm cho nhân dân, cho đất nước, việc tranh cãi chửi bới nhau về những chuyện ruồi bu, kiến đậu, xưa như trái đất hơn 40 năm về trước chỉ thêm tốn nước bọt một cách vô ích, nó đã không cần thiết lại có hại cho tình đoàn kết của cộng đồng.

Trọng Ðạt

Bàn Về Những “Chiêu Bài Mị Dân” - Song Chi

Song Chi

Để giữ vững vị trí độc tôn lãnh đạo, để tiếp tục ru ngủ số đông người dân khờ khạo đồng thời dẹp yên những mầm mống tư tưởng hoài nghi, bất phục và đối kháng trong một thiểu số “cứng đầu”, những nhà nước chuyên chế độc tài luôn luôn phải có những “chiêu bài mị dân” của họ. Ví dụ, với nhà nước Trung Quốc hiện nay, người ta thấy rất rõ những chiêu bài đó là sự phát triển kinh tế và niềm tự hào, tự tôn về dân tộc. Chính những thành tích về phát triển kinh tế, sự lớn mạnh về khả năng quân sự quốc phòng, viễn cảnh về một siêu cường quốc trong tương lai… của Trung Quốc chắc chắn đã tạo nên trong lòng đa số dân chúng của họ một cảm giác bằng lòng và tự hào để tạm quên đi khát vọng về tự do dân chủ, nhân quyền được tôn trọng cũng như sự bức xúc trước muôn vàn bất công, phi lý, những điều tồi tệ trong xã hội. Và hai “lá bài” này phải nói là mạnh, bởi vì với đà phát triển kinh tế như hiện nay, với vị thế của một đất nước khổng lồ trên một tỷ dân và với một tham vọng bành trướng, bá quyền đã có “truyền thống” từ xưa, Đảng và Nhà nước cộng sản Trung Quốc có thể yên tâm mà tại vị khá lâu nữa, nếu như không có bất cứ một khúc ngoặt bất ngờ nào đó của thời cuộc.

Học theo đàn anh, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cũng có những “chiêu bài mị dân” riêng của mình. Trước đây những “chiêu bài” quen thuộc được sử dụng bao nhiêu năm là thành tích về “sự chiến thắng vĩ đại của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước” và huyền thoại về vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Cho đến giờ phút này, những điều này vẫn thường xuyên được lặp đi lặp lại từ trên các phương tiện truyền thông của nhà nước cho đến chương trình giáo khoa suốt 12 năm trung học và cả bậc đại học. Thậm chí, sợ người dân xao lãng, nhà nước còn phát động rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân những cuộc học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất là quy mô và tốn kém, bắt cả sư thầy ni cô trong các nhà chùa cũng phải học!

Từ khi thực hiện chính sách “mở cửa” về kinh tế, chính quyền chuyển sang khuyến khích người dân lao vào kiếm tiền, làm giàu bằng đủ mọi cách và sử dụng lá bài “ổn định chính trị, phát triển kinh tế” để người dân quên đi những nhu cầu khác cũng như những câu hỏi lớn khác về đời sống xã hội chính trị của đất nước. Đối lập với sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, một lập luận thường xuyên được những người cầm quyền đưa ra để “hù doạ” nhân dân đó là mọi sự đa đảng, đa nguyên sẽ chỉ dẫn đến sự xáo trộn, rối loạn về chính trị, xã hội và cả kinh tế, lý do là bởi vì trình độ dân trí Việt Nam còn thấp nên mô hình độc đảng với sự lãnh đạo của Đảng CSVN như lâu nay là đúng đắn, tối ưu.

Phải nói là có không ít người dân, nếu không đọc thêm các nguồn thông tin khác hoặc có thêm những trải nghiệm cá nhân về những môi trường sống khác trong những thể chế chính trị xã hội khác, đã tin hoặc tạm bằng lòng với những lý luận như vậy.

Những người cầm quyền đã lừa mị nhân dân của họ với khái niệm về sự ổn định. Tuy nhiên, một xã hội gọi là ổn định về chính trị do được cai trị bởi bàn tay sắt của một thể chế chính trị độc tài, độc đảng không có nghĩa là ổn định về kinh tế và xã hội. Bên dưới cái bề mặt có vẻ ổn định về chính trị, một xã hội được điều hành theo cơ chế “đảng trị” bởi một đảng duy nhất thâu tóm mọi quyền lực trong tay như ở Trung Quốc và Việt Nam luôn luôn chất chứa những mâu thuẫn, nghịch lý do không có sự cạnh tranh, san sẻ, khống chế và kiểm soát lẫn nhau trong quyền lực chính trị và điều hành đất nước, không có một nền luật pháp rõ ràng, minh bạch để điều chỉnh mọi sự sai lệch trong phát triển xã hội cũng như phát triển kinh tế. Chưa kể chính cái thể chế chính trị độc tài độc đảng đã tạo điều kiện cho bao nhiêu bất công, phi lý, những vấn nạn xã hội tồn tại và sinh sôi nảy nở không sao giải quyết nổi như nạn tham nhũng, hối lộ, tệ cửa quyền, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn, bản thân người dân thì không có tự do dân chủ và nhân quyền thì bị chà đạp… Còn trong phát triển kinh tế, sự thiếu vắng một nên luật pháp minh bạch và sự cạnh tranh sòng phằng cũng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó có nhiều bất ổn, rủi ro. Tất cả những điều đó sẽ tạo nên những mâu thuẫn từ trong bản chất chế độ, như những đợt sóng ngầm âm ỉ chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là trào lên phá vỡ sự ổn định bề mặt kia bất cứ lúc nào.

Cũng như nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn đem những thành tích tăng trưởng về kinh tế và sự thay đổi trên bề mặt xã hội để xoa dịu nhân dân và biện minh cho sự thống trị của Đảng.

Trong khi đó, bị nỗi ám ảnh về cái đói cái nghèo của thời bao cấp, cả xã hội Việt Nam ngày nay đang lao vào kiếm tiền, và không ít người dân tự an ủi rằng so với thời bao cấp chưa xa thì cuộc sống bây giờ đã dễ thở hơn, còn nếu so với cái thời miền Bắc trước năm 1975 thì rõ ràng một trời một vực rồi.

Nhung như đã nói, phát triển kinh tế chỉ mới là một phần trong việc chứng tỏ xã hội đó đang đi lên theo chiều huớng tích cực, còn bao nhiêu vấn đề khác: khoảng cách giàu-nghèo và sự bất công quá lớn trong xã hội, tài nguyên của đất nước bị khai thác đến cạn kiệt, thiên nhiên bị tàn phá không thương tiếc, môi truờng sống bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng cuộc sống của đa số người dân chưa đuợc cải thiện tận gốc và chế độ an sinh xã hội chưa đuợc quan tâm đến, chưa kể là sự xuống cấp, tha hóa về đạo đức xã hội, mọi giá trị đều bị lệch chuẩn… Như thế là một xã hội đang phát triển một cách phi nhân tính và lệch lạc, chệch hướng so với con đuờng phải đi là xã hội phải ngày một văn minh, con nguời ngày một tự do, tự chủ, đuợc coi trọng và hạnh phúc hơn!

Thế nào là một xã hội phát triển lành mạnh, nhân bản, đúng hướng?

Khi mà trong xã hội đó tất cả mọi mục tiêu hướng tới đều phải vì con người, đặt sự tự do hạnh phúc của con người lên trên hết.

Khi mà trong xã hội đó mọi người dân có quyền đi bầu chọn những người xứng đáng nhất lên điều hành đất nước và có quyền lên tiếng phê phán kêu gọi những người này phải từ bỏ chức vụ nếu họ bất tài, thất đức hoặc có những hành vi sai trái làm hại cho đất nước, cho nhân dân. Người dân có quyền lên tiếng bày tỏ chính kiến, quan điểm chính trị xã hội của mình một cách ôn hoà, có quyền phê bình, phản biện mọi chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước mà không bị chụp mũ phản động, phản quốc, bị gây khó dễ thậm chí bị bắt bớ, cầm tù.

Khi mà trong xã hội đó người dân biết rằng nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra họ có thể trông cậy vào luật pháp, luật pháp sẽ bảo vệ họ, nhà nước sẽ bảo vệ họ nếu họ đúng, nếu họ bị những kẻ côn đồ hành hung hoặc những kẻ lạ mang danh nước láng giềng anh em đánh cướp, bắt giữ…

Khi mà trong xã hội đó con người từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi luôn luôn cảm thấy an tâm rằng nếu họ lương thiện, đi làm và đóng thuế đầy đủ cho nhà nước thì ngược lại, khi cần họ có thể trông cậy vào sự hỗ trợ của nhà nước như lúc thất nghiệp, khi đau yếu lúc già cả không nơi nương tựa… Và do đó họ có thể sống một cuộc đời nhẹ nhàng ít lo nghĩ, không phải bon chen giành giật mọi cơ hội, chỉ biết chăm chăm thu vén cho cá nhân mình vì khi có việc gì xảy ra không biết trông vào đâu.

Khi mà trong xã hội đó người dân tin rằng đồng tiền đóng thuế từ bao mồ hôi công sức của họ được nhà nước sử dụng một cách hợp lý, công khai và minh bạch.

Mọi người dân đều được tạo điều kiện tốt nhất để học hành và khi đến trường những đứa trẻ không phải học những kiến thức vô bổ, những điều dối trá mà ngay người thầy dạy chúng cũng không tin và bản thân chúng cũng biết như vậy.

Mọi người dân đều có những cơ hội như nhau để thành đạt và bằng cấp, tước vị, chỗ làm đều không thể mua mà có.

Khi mà trong xã hội đó người dân không phải chịu những tai hoạ, những cái chết oan uống có thể đến từ bất cứ đâu, từ bất cứ lý do nào do sự vô trách nhiệm, làm ăn gian dối của người khác như cầu gãy, nhà sập, điện giật trên đường hố ga sụp dưới chân hay sữa nhiễm độc, phở ướp phóoc-môn…

Khi mà trong xã hội đó sự vất vả của người nông dân công nhân được đền bù xứng đáng, tiếng nói của người trí thức được coi trọng, tài năng của người nghệ sĩ được phát triển tối đa trong sự tự do không ai cấm đoán…

Khi mà trong xã hội đó báo chí được quyền nói lên sự thật, được quyền đứng về phía lẽ phải, đứng về phía nhân dân và những giọt nước mắt.

Mọi lời nói phải cũng như mọi tiếng kêu oan không lọt thỏm vào sự im lặng.

Khi mà trong xã hội đó con người không có quá nhiều nỗi lo, cho dù những nỗi lo có lý hay vô lý. Khi con người không có quá nhiều nỗi sợ, và mọi nỗi sợ đều do chính quyền tạo ra.

Khi cái tốt, cái thiện, điều tử tế không phải là điểu hiếm hoi hay bất bình thường và cái xấu, cái ác, điều không tử tế lại tràn ngập khắp nơi và trờ thành bình thường.

Khi con người không vô cảm trước mọi điều tồi tệ đang xảy ra hàng ngày, không cúi đầu bạc nhược trước cường quyền, biết đau đớn trước vận mệnh của đất nước và của dân tộc.

Khi mà trong xã hội đó mọi người biết xấu hổ, kẻ làm quan biết đến đến hai chữ xin lỗi – xin lỗi nhân dân, xin lỗi lịch sử và biềt đến văn hoá từ chức. Khi lòng yêu nước không bị kết tội còn kẻ xu nịnh, phản quốc lại được tôn vinh.

Chỉ khi đó xã hội ấy mới là một xã hội đang phát triển đúng hướng, lành mạnh, và nhân bản.

Còn nếu không, đừng nói với nhân dân tôi về độc lập, tự do và hạnh phúc, về công lao của Đảng, về chủ nghĩa Mác – Lê Nin bách chiến bách thắng và tư tưởng của Hồ Chí Minh vĩ đại.

Đừng nói với nhân dân tôi muôn vàn những khái niệm, lý luận, những mỹ từ sáo rỗng…

Bởi vì, khi không đem lại được độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân sau hơn sáu mươi năm điều hành đất nước, còn có lý do gì để Đảng cầm quyền đó tiếp tục tại vị?
Nguồn: talawas.org


Chuyến về quê đặc biệt của một hạm trưởng hải quân Hoa Kỳ gốc người Việt tỵ nan CS


Ben Stocking,
Associated Press Cymbidium,
X-Cafe chuyển ngữ

Đà Nẵng, Việt Nam – Ngày Miền Nam thất thủ, Lê Bá Hùng (LBH), một cậu bé lên 5, di tản cùng với 400 người tỵ nạn chen chúc trên một chiếc thuyền đánh cá chật chội. 34 năm sau, cậu bé này trở về quê hương trong một tình huống không ai ngờ – hạm trưởng của một khu trục hạm Hoa Kỳ.

Hôm thứ Bảy, Hạm Trưởng LBH điều khiển chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ Lassen cập bến Đà Nẵng, quê của “China Beach”, nơi mà ngày xưa binh sĩ Mỹ dùng làm nơi dưỡng quân sau các cuộc hành quân trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này đã chấm dứt vào ngày 30 tháng Tư, 1975, ngày Sài Gòn bị quân cộng sản Miền Bắc Việt Nam đánh chiếm.

Đó cũng là ngày LBH và gia đình khởi đầu một cuộc hành trình vô định trên một chiếc thuyền đánh cá được lèo lái bởi cha của LBH, một sĩ quan chỉ huy của hải quân Miền Nam Việt Nam. Họ được chiếc tàu hải quân Hoa Kỳ Barbour County cứu vớt ngoài khơi, đưa đến một căn cứ Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân, rồi đến một trại tỵ nạn ở California, và sau cùng đến định cư tại tiểu bang Virginia, nơi đó họ xây dựng lại cuộc đời.

LBH trở về trên chiếc Lassen, một khu trục hạm dài 155 mét giá 800 triệu đô la, được trang bị hỏa tiễn tầm xa Tomahawk và một thủy thủ đoàn 300 người. Chiếc Lassen cùng với chiếc USS Blue Ridge, một soái hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, đang hoàn tất những đợt thăm viếng hữu nghị cuối cùng đến Việt Nam bắt đầu từ năm 2003 khi chiếc USS Vandergriff ghé thăm TP HCM, ngày xưa là Sài Gòn.

Hạm trưởng LBH tuyên bố sau khi đặt chân lên bờ hôm thứ Bảy “Tôi nghĩ sẽ có ngày trở lại nhưng thật tình là tôi đã không dự đoán là trở về với cương vị hạm trưởng của một tàu chiến Hoa Kỳ. Đây là một vinh dự cá nhân cao quý”. Ông ta chập chững nói vài chữ tiếng Việt “Tôi tự hào là người Mỹ, nhưng tôi cũng rất tự hào về nguồn gốc Việt Nam của tôi.”

Những chuyến thăm viếng này tiêu biểu cho những cố gắng của Hoa Mỳ và Việt Nam để phát triển mối quan hệ giữa hai bên để làm quân bình thế lực Trung Quốc trong vùng, mà không làm bất bình người hàng xóm khổng lồ phương bắc.

Thẳng về phía Đông Đà Nẵng là quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc và Việt Nam đang có vấn đề tranh cãi sôi nổi về chủ quyền, đó cũng là nơi Trung Quốc đã đánh bật quân đội miền Nam vào năm 1974. Hai bên cũng đang tranh chấp về Trường Sa, một chuỗi đảo được xem là có khối lượng dự trữ dầu hỏa và khí đốt đáng kể.

LBH lớn lên ở Huế, một thành phố ở bờ biển miền trung cách Đà Nẵng khoảng 105 kí lô mét về hướng bắc, nơi ông vẫn còn nhiều họ hàng. Ông trở về một xứ sở đã thay đổi rất nhiều so với những ngày tháng chiến tranh.

Dọc theo bờ biển Đà Nẵng nơi mà các quân lính Hoa Kỳ đã thường bơi lội và lướt sóng, các khách sạn hạng sang như Hyatt và Marriott đang mọc lên. Du khách đổ dồn về vùng này để có thể chơi một vài đường banh ở sân gôn được thiết kế bởi tay gôn thượng hạng Colin Montgomerie.

Mối giao hảo giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng thay đổi rất nhiều từ khi hai cựu thù bình thường hoá quan hệ vào năm 1995. Giao thương giữa hai nước tăng vọt và liên hệ ngoại giao, quân sự của hai bên cũng trở nên gần gũi hơn.

Biểu tượng sâu sắc của sự quan hệ đang đổi thay có thể được nhận thấy ở nơi không xa chỗ LBH đặt chân lên bờ. Đó là một căn cứ không quân ngày xưa nơi mà quân đội Hoa Kỳ từng lưu trữ, pha trộn và bơm thuốc khai quang Da Cam lên máy bay. Quân đội Hoa Kỳ rải thuốc Da Cam chứa đựng độc tố dioxin để quân đội Cộng Sản Bắc Việt Nam không có chỗ trú ẩn. Cả hai quốc gia đang hoạt động với nhau để dẹp chất dioxin khỏi căn cứ, chất này tồn tại trong đất sau cả chục năm.

Nhưng vẫn có dấu hiệu của những cản trở, buổi lễ chào mừng những thủy thủ Hoa Kỳ bị đình trệ hai tiếng trong khi hai bên bàn cãi cách dương quốc kỳ của hai quốc gia trên soái hạm Blue Ridge.
Sĩ quan chỉ huy dân sự vụ Jeff Davis của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ nói bên Hoa Ký muốn treo hai quốc kỳ ở trên boong chính, trong khi bên Việt Nam muốn thượng kỳ ở cột cờ. Rốt cuộc, họ treo lên cột cờ.

Khi LBH rời Việt Nam vào năm 1975, chỉ có bốn trong tám người con thoát được. Số con còn lại kẹt ở Việt Nam cho đến khi được đoàn tụ với gia đình vào năm 1983. LBH không nhớ nhiều về chuyến đi ba ngày trên tàu đánh cá, chấm dứt sau khi họ cạn lương thực, nước uống và nhiên liệu.

Nhưng ông còn nhớ một cách sâu sắc những hình ảnh của người cha gương mẫu, ông Lê Bá Thông, hiện nay đã 69 tuổi và chưa bao giờ trở lại Việt Nam. Sau khi gia đình định cư ở bắc Virginia, ông Thông làm việc trong một siêu thị, đi từ chức người gói hàng cho đến vị trí quản lý.

LBH nói “Tôi lúc nào cũng muốn trở thành một người như cha tôi. Ông luôn luôn kiên trì và đã vượt qua nhiều thử thách.”

Nguồn: Ben Stocking,
Associated Press
Cymbidium,
X-Cafe chuyển ngữ

OTTAWA KỶ NIỆM 20 NĂM SỤP ĐỔ BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ CÔNG BỐ VIỆC XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CỘNG SẢN - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.

Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).

Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.

Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.

Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.

Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.

Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.

Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.

Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.

Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.

Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.

Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.

Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.

Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.

Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:

“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)

Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
    Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa : 65 triệu

    Liên Xô : 20 triệu

    Cambodia : 2 triệu

    Bắc Triều Tiên : 1,5 triệu

    Việt Nam : 1 triệu

    Đông Âu : 1 triệu

    Afghanistan : 1,5 triệu

    Phi Châu : 1,7 tri ệu

    Nam Mỹ : 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản. Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.

Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.

Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là:

1. Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ).

2. Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.

Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.

Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 10-11-2009)

Tôi Không Thể Im Lặng! - Huỳnh Quốc Bình

Huỳnh Quốc Bình

I. Tại sao tôi phải lên tiếng?:

"Nếu tôi im lặng trước những điều mà tôi cho là nghịch lý, bất thường thì tôi Huỳnh Quốc Bình (HQBình) không xứng đáng để nói thêm một lời nào nữa trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại". Đó là lời tôi khẳng định trong bức thư tôi gửi cho Ban Giám Đốc (BGĐ) và các cộng sự viên của đài Việt Nam Hải Ngoại (VNHN) ngày 27-8-2009.

1. Nay tôi xin thêm một lần nữa công khai lên tiếng về hành động quá trớn của BGĐ đã để cho một số cộng sự viên của đài trắng trợn cướp diễn đàn "Chúng Ta và Thời Cuộc Hôm Nay" vào tối Thứ Ba ngày 22-9-2009, là chương trình do tôi điều hợp. Trên chương trình này, tôi đã thẳng thắn lên tiếng về việc ông Hồng Phúc - Lê Hồng Long tố cáo "đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC". Tiếng nói của tôi đã bị BGĐ bịt miệng ngay trên làn sóng. Kể từ ngày đó đến giờ, BGĐ đã hủy bỏ các chương trình do tôi trách nhiệm là "Chúng Ta và Thời Cuộc Hôm Nay""Đời Sống An Bình" và thay thế bằng các chương trình mới.

2. Điều mà tôi cho là trâng tráo nhất khi BGĐ đã dở trò vu khống ngược lại tôi. Họ cho rằng tôi tự ý tạo ra điều nầy "để vu khống BGĐ". Ngay ngày hôm sau, 23-9-09, trên chương trình sửa xe của ông Kim, ông ta đã trịch thượng cho rằng tôi và ông Hồng Phúc "thi hành nghị quyết 36 của VC, muốn phá hoại đài VNHN". Riêng bà Liên Bích (Dallas TX) cũng có nhiều lời xách mé với tôi mà tôi không được nói một lời biện bạch.

3. BGĐ đã sử dụng làn sóng phát thanh của họ trong các chương trình của các cộng tác viên Hồng Trần, Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Văn Kim, giờ "trả lời thư tín" và làn sóng đài Tiếng Nước Tôi của ông Hoàng Bách tận bên Houston TX … để chính họ và một vài cộng tác viên thân tín, cùng một số thính giả "chọn lọc" liên tục tấn công ông Hồng Phúc và những ai không nói theo họ. Họ đã có những hành động bất công, thiếu lương thiện vì chỉ có họ được nói, còn ông Hồng Phúc và những ai muốn nói lên tiếng nói công chính thì không được nói.

4. Kể từ ngày tôi bị bịt miệng trên làn sóng đến giờ, tôi chỉ có một lần trả lời báo Chính Nghĩa, để trình bày những gì đã xảy ra trong chương trình tối hôm đó. Và rồi, tôi giữ im lặng cho đến nay. Tôi im lặng là vì:

a. Tôi tin vào khả năng nhận xét của thính giả.

b. Tôi muốn thể hiện tinh thần "vuốt mặt nể mũi" vì còn những cộng sự viên khác mà tôi quý trọng vẫn tiếp tục phục vụ thính giả.

c. Tôi chờ đợi một thái độ phục thiện của BGĐ.

5. Chẳng những BGĐ không biết lỗi của mình mà còn tiếp tục lộng hành trên diễn đàn e-mail, nhất là những e-mail nặc danh do ông Nguyễn Đăng Tuấn (Chủ Tịch Văn Bút VN Hải Ngoại) chuyển đến. Những e-mail này trâng tráo bào chữa cho những sai trái của BGĐ -VNHN. Qua những thư nặc danh nầy, kẻ gian đã hung hãn tấn công ông Hồng Phúc, ông Đoàn Trọng Hiếu, và Huỳnh Quốc Bình. Kẻ gian cũng không tha bà Hoàng Lan Chi là người thấy chuyện chướng tai, gai mắt thì lên tiếng. Bà đã viết những bài phân tích các sai trái của BGĐ, với những lời lẽ đanh thép tố cáo hành động quay 180 độ của ông Tuấn đã bênh vực những người mà trước đó vài ngày chính ông cũng quyết liệt lên án.

6. Nếu tôi tiếp tục im lặng thì tôi không xứng đáng là một người làm truyền thông, một người Quốc Gia từng chống đối những hành động sai quấy, thâm độc, hèn hạ của đảng cướp VC tại Việt Nam ngày nay. Mà những hiện tượng thâm độc này đang diễn ra khi BGĐ ra tay chống đỡ những lời tố cáo của ông Hồng Phúc và dành cho những ai nói ngược ý họ.

7. Ai đã tin vào lời giải thích có tính cách ngụy biện của BGĐ rằng do "trục trặc kỹ thuật" chứ họ không bịt miệng tôi, thì quý vị không cần mất thì giờ đọc thêm. Riêng ai muốn hiểu rõ hư thực ra sao thì xin tiếp tục đọc và cũng có thể vào địa chỉ sau đây để nghe lại các chương trình đó: http://www.danviet.net

II. Bản chất của vấn đề:

1. Đêm 22-9-2009 trong lúc tôi đang trình bày thì xướng ngôn viên (XNV) Nam Anh cho biết ông Nguyễn Tường Thược muốn góp ý. Tôi có nói với chị Nam Anh và ông Thược rằng ông Thược có chương trình riêng của ông, nhưng nếu muốn góp ý thì phải chờ tôi nói hết ý của tôi rồi tính sau. Tuy vậy, XNV Nam Anh đã tắt tiếng nói của tôi ngay phút thứ 29 và để cho ông Thược ngang nhiên vào làn sóng tấn công ông Hồng Phúc bằng những lời cáo buộc hết sức cường điệu và hồ đồ. Tiếp sau đó là bà Hồng Trần, ông Nguyễn Văn Kim, Giáo Sư Đỗ Diễn Nhi, Ông Ngô Ngọc Hùng, và có cả ông Hoàng Bách của đài Tiếng Nước Tôi-Houston cũng vào diễn đàn. Những người nầy đã tuỳ tiện chiếm diễn đàn hơn 50 phút, làm như đây là chương trình riêng của họ. Cuối cùng XNV Nam Anh đã liên lạc lại và để tôi lên tiếng khoảng 10 phút, nhưng trong 10 phút nầy XNV Nam Anh cũng mấy lần muốn ngăn chận không cho tôi nói hết ý.

2. Khi họ có âm mưu cướp diễn đàn, họ không còn tôn trọng thính giả. Bằng chứng là ông Thược và Bà Hồng Trần ra vào diễn đàn đến hai lần, còn tôi là người trách nhiệm chương trình thì bị ngắt đường dây. Chị Mai Ly, Giám Đốc Đài VNHN tại Oklahoma City có phản đối thái độ của ông Thược nhưng không kết quả. XNV Nam Anh đã vờ vịt bảo tôi gọi vào nhưng thực tế thì tôi đã bị bịt miệng trong đêm hôm đó. Tôi phải viết lại cho rõ vì thính giả Âu châu hoàn toàn không biết về điều nầy. Vì sau khi nhận ra sự thô bạo của mình nên BGĐ đã không cho phát lại chương trình nầy vào ngày hôm sau như thường lệ.

3. Sau khi tiếng nói của tôi bị tắt trên làn sóng của đài. Một số thính giả cũng có liên lạc với tôi để bày tỏ sự quan tâm và buồn lòng vì cho rằng: "người Việt không đoàn kết, cho nên những chương trình chống cộng trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại đã dần dần bớt đi, đây là sự thành công của VC". Và tôi đã trả lời cho họ như sau: "Mọi người không nên buồn vì nghĩ rằng người Việt Quốc Gia không đoàn kết mà phải thấy rằng đây là cuộc chiến đấu giữa hai phe tử tế và gian tà, giữa quân tử và tiểu nhân. Tôi HQBình không cần thắng mà tôi cần nói lên tiếng nói công chính. Tôi không theo phe ai cả nhưng tôi cần bênh vực lẽ phải, bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia qua ý thức "làm thinh trước điều quấy là đồng lõa với điều quấy đó".

III. Những điều nghịch lý, và sự bao che cho những âm mưu đen tối:

1. Chiêu hồi VC về với chính nghĩa là điều tốt. Thời chính quyền Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà cũng từng có chủ trương nầy. Tuy nhiên, công tác nầy phải có chiến thuật, chiến lược của các tổ chức đấu tranh hay chính đảng Quốc Gia có nghiệp vụ để kêu gọi những người phản tỉnh trở về với chính nghĩa Quốc Gia. Hành động lén lút ăn nhậu với VC khác với chiêu hồi VC. Đó là chưa kể khi bị phát giác thay vì ăn năn thì lại lồng lộn nói lời hỗn xược với những người thật sự chống cộng.

2. Dốt không phải là cái tội, nhưng nếu dốt mà phách lối, lại muốn làm lớn, làm oai thì khó coi lắm. Một tên chỉ thích vui chơi, nhảy nhót, tiệc tùng ăn nhậu, thiếu kiến thức căn bản, không phân biệt đâu là bạn, đâu là thù … thì không thể nào có khả năng làm công tác "tranh luận, giáo dục, tìm hiểu" bọn VC, nếu không muốn nói chỉ là thái độ đú đởn ăn chơi với kẻ gian và làm lợi cho VC.

3. Kẻ nào chọn lựa giao du với VC đó là quyền cá nhân của mình, nhưng xin đừng nhẫn tâm lợi dụng chiêu bài chống cộng hay "đấu tranh cho một Việt Nam có tự do dân chủ" để mua bán chính nghĩa.

4. Tố cáo hành động BGĐ-VNHN giao du mật thiết với VC không phải là chuyện bất hoà giữa người nầy và kẻ khác, nhưng là vấn đề "lằn ranh Quốc cộng". Vì thế không có chuyện giải hoà hay không giải hoà rồi thôi, mà BGĐ phải nghiêm chỉnh trả lời hành động giao du bất chính đó cho thính giả từng đóng góp tài chánh cho đài và các cộng sư viên bỏ bao nhiêu công sức duy trì và phát huy đài.

5. Vì ông Hồng Phúc và mọi người phát giác ra hành động của ông bà Dương Văn Hiệp- Lưu Lệ Ngọc và ông Ngô Ngọc Hùng giao du mật thiết với VC, nên người ta mới cảnh báo rằng "Đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC". Chứ nếu BGĐ dám cho phát thanh những chương trình có lợi cho VC thì người ta đã không ngần ngại gọi đó là bọn VC hay Việt gian. BGĐ cần tôn trọng thính giả thầm lặng, không thể giải thích theo kiểu "đánh bùn sang ao" để chạy tội.

6. Trong mấy tháng qua, BGĐ và một vài cây bút "chống cộng" đã trâng tráo khoe thành tích chống cộng của BGĐ để bao che cho hành động họ giao du với VC. Đây chỉ là lối lý luận theo kiểu nguỵ biện. Tôi, Huỳnh Quốc Bình xin mạnh dạn nói rằng: Các cộng sự viên và nhất là những chương trình chống cộng cùng nhiều thính giả chống cộng, mới chính là những người tạo thành tích chống cộng cho đài Việt Nam Hải Ngoại trong suốt 12 năm qua, chứ không phải do những tên chuyên ăn nhậu với bọn VC tạo nên thành tích đó.

7. Nếu có ai lý luận rằng những cộng tác viên còn lại trong đài không lên tiếng là vì ông Hồng Phúc không có chính nghĩa, thì hãy trả lời giùm: Hình ảnh Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, Luật Sư Nguyễn Văn Đài, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và những người xổng lưng chống lại những hành động gian ác của bọn VC, trong khi hơn 80 triệu người Việt trong nước còn lại vì hoàn cảnh chưa lên tiếng. Hoặc tại hải ngoại nầy, số người công khai chống cộng vẫn là thiểu số trong khối người Việt tỵ nạn VC thầm lặng chống cộng, thì xin hỏi: Thiểu số chống cộng công khai nầy có phải là mất chính nghĩa không?

8. Ông Hồng Phúc tố cáo "Đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC" và những điều đó BGĐ đã xác nhận là CÓ. Đây là các bằng chứng:

a.
Chính ông Ngô Ngọc Hùng cho biết là ông ta đã từng cùng Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức sang Ba Lan tiếp xúc cán bộ VC, mà còn quá thân thiện nữa.

b. Ông Đinh Quang Trung- tân Giám Đốc chương trình, ngay trong lần trả lời thư tín ngày 27-9-2009 đã xác nhận rằng có hai cán bô VC từ Toà Đại Sứ VC đã đến tư gia của ông bà Dương Văn Hiệp-Lưu Lệ Ngọc tham dự Tiệc Tất Niên.

c. Ông Dương Văn Hiệp xác nhận trong e-mail "Thư Từ Chức" ngày 15-10-2009 rằng: "Cần tiếp xúc với du học sinh, với cán bộ VC, là để tranh luận, là để giáo dục, là để tìm hiểu … hầu lấy đủ kiến thức thông tin …" (Tôi ghi nguyên văn, ông viết không bỏ dấu)

9. Vậy thì căn cứ vào những dữ kiện trong phần 8 bên trên, những lời tố cáo của ông Hồng Phúc có gì là sai trật, để rồi BGĐ và một số cộng sự viên tạo ra những trận đấu tố, để vài thính giả "chọn lọc" ngang nhiên lăng nhục ông Hồng Phúc trên làn sóng phát thanh.

10. Nếu BGĐ là những người thật sự chống cộng thì khi ông Hồng Phúc nêu vấn đề, họ phải nghiêm chỉnh giải thích thay vì cố tình tránh né. Đáng lẽ họ phải xem ông Hồng Phúc như là một vị ân nhân thay vì biến ông thành nạn nhân, xem ông như kẻ thù rồi tìm cách "đánh dưới thắt lưng" ông bằng những câu truyện chỉ có phân nửa sự thật.

11. Người có liêm sỉ không thể sử dụng những lời lẽ thô tục, hạ cấp của VC thả trên mạng lưới toàn cầu, hoặc thư nặc danh của kẻ gian như là một thứ vũ khí dành tấn công những người từng cộng tác với mình, hoặc những người cùng chiến tuyến chống cộng.

12. BGĐ phải trả lời với đồng bào, với thính giả từng đóng góp tài chánh cho đài về hành động của mình. Ban Giám Đốc cần phải ý thức rằng: Họ có thể chủ động làn sóng phát thanh, mở hay đóng một chương trình nào đó, hoặc có thể khống chế một vài cá nhân vì lý do nào đó phải nói theo ý muốn của BGĐ. Nhưng BGĐ đừng xem thường khả năng thẩm định của những cộng tác viên còn lại chưa lên tiếng, hoặc những thính giả thầm lặng chống cộng. Đây là những người có cái radio trong tay và tiền đang nằm trong túi họ. Họ có quyền ủng hộ hay tẩy chay, họ có thể tắt mở hoặc ném cái radio vào thùng rác mà BGĐ không thể kiểm soát được.

13. BGĐ không phải là những người quá trẻ tuổi đến nỗi không biết gì về những gian manh, tráo trở và thủ đoạn của VC. Tuổi của họ nay đã già hơn cả những vị Tướng của Việt Nam Cộng Hoà ngày xưa, hoặc Cụ Nguyễn Văn Thiệu lúc mới làm Tổng Thống. BGĐ cũng không thể cho rằng họ "còn trẻ", "không nói giỏi hay không nói hay" giống như ông Hồng Phúc, ông Đoàn Trọng Hiếu, hoặc ông Huỳnh Quốc Bình v.v… để rồi lấy cớ đó mà "giả mù sa mưa", hoặc biện minh cho hành động lật lọng của họ. Vấn đề chính cần nói là: Đúng hay không đúng, có chính nghĩa hay không có chính nghĩa, chứ không phải do nói giỏi hay nói dở.

14. Tôi, Huỳnh Quốc Bình, lên án những ông bà nào nhân danh người Quốc Gia chống cộng, nhưng vì quyền lợi mà xem nhẹ sự liêm sỉ, mẫn cán viết bài tâng bốc "cái gọi là lòng nhiệt thành yêu nước" của Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp - Lưu Lệ Ngọc, và Đinh Quang Trung … rồi nhẫn tâm bôi bẩn những người mạnh dạn tố cáo những hành động mờ ám của những tay giao du mật thiết với VC.

15. Người ta không thể hời hợt khi đánh giá lòng yêu nước của một người bằng cách: Vội tin vào cách sống quá bình dân, ra vẻ bất cần tiền tài, làm việc không cần tiền lương của người nầy, với lối sống nề nếp của người khác qua đời sống vật chất căn bản, để rồi cho rằng người nầy có lòng yêu nước còn người kia thì không yêu nước. Xin thưa: Hồ Chí Minh (HCM) cũng từng được người dân miền Bắc hiểu là "đạo đức", cả đời không lấy vợ, đời sống đạm bạc, hết lòng vì dân, yêu thương các cháu nhi đồng v.v. Nhưng thực chất thì HCM gian manh, ác độc ra sao, có bao nhiêu vợ, có bao nhiêu con rơi… Nửa thế kỷ sau mọi người mới biết rõ.

IV. Những nhận xét và chủ trương căn bản:

1. Tôi đã từng nói nhiều lần về nhận định của mình trên làn sóng phát thanh, và nay tôi xin lập lại: Bọn VC không đội nón cối hay mang dép râu để tiếp xúc với chúng ta, nhưng chúng sẽ đến với người Quốc Gia qua vỏ bọc một thương gia, mang mặt nạ của một thân hữu, rồi khi cao điểm VC sẽ ra tay làm những điều gian ác. Với những kinh nghiệm xương máu đó, người Quốc Gia không thể để VC nó lừa mình mãi được.

2. Nếu có thể, tôi sẵn sàng lợi dụng làn sóng phát thanh của bọn VC để nói lên tội ác của chúng cho mọi người biết, nhưng lương tâm tôi không cho phép mình tiếp tục nói trên làn sóng hay hợp tác với những người miệng nói chống cộng nhưng lại thông đồng với kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

3. Đối với "lằn ranh Quốc cộng", người Quốc Gia chân chính có bổn phận phải vạch cho rõ và đào cho sâu. Ai chủ trương làm mờ lằn ranh quốc cộng, là hành động gian manh chứ không phải yêu nước hay yêu Tổ Quốc Việt Nam. Lằn ranh quốc cộng là điểm phân biệt giữa lương thiện và độc ác, giữa chính nghĩa và gian tà. Người chống cộng thật sự không thể lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện để làm mờ lằn ranh nầy.

V. Kết luận:

Vì hoàn cảnh nào đó khiến người ta có thể làm thinh trước điều quấy, nhưng không có hoàn cảnh nào bắt người ta phải cong lưng, đi bằng đầu gối vì quyền lợi cá nhân, để rồi muối mặt bênh vực cho những điều mà chính mình biết đó là sai trật. Có người đã nói: "Chỉ có những bộ máy vô hồn mới không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn, mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác…". Những ai đã và đang tìm cách bao che, bênh vực cho hành động mờ ám và sai quấy của BGĐ-VNHN hãy suy nghĩ câu nói nầy.

Phản ứng của cá nhân tôi, ông Đoàn Trọng Hiếu, ông Thái Văn Hoàng, bà Hoàng Lan Chi và những vị sau đây: Ông Trần Hoàng Hữu (Salt Lake City, UT), ông Vương Thế Hạnh, Bà Lưu Hà, ĐYS Vũ Văn Thảo, bà Lưu Thị Luyến (Portland, OR) quyết định KHÔNG tiếp tục cộng tác với đài VNHN là hành động tự trọng, không muốn tiếp tục ủng hộ những kẻ thiếu sự son sắc với chính nghĩa Quốc Gia, chứ không phải là thành phần mà Dương Văn Hiệp đã dám hỗn xược gọi là "kên kên quà quạ, a dua" theo ông Hồng Phúc trong lá thư của cái gọi là "từ chức" của ông Hiệp. Là người có quyết tâm chống cộng, chúng ta phải thề: "sẽ không viết một chữ hay nói một tiếng cho kẻ gian". (*)

Người Quốc Gia chân chính không thể chỉ giỏi đại ngôn, hoặc có khả năng gào thét bằng những ngôn từ hạ cấp, trịch thượng mà phải có khả năng lý luận để tấn công kẻ thù VC, vạch trần âm mưu phá hoại của kẻ gian. Lối chụp mũ những người công khai tố cáo BGĐ-VNHN giao du mật thiết với VC…, bảo họ là "thi hành nghị quyết 36 của VC", mới chính là lối lý luận rẻ tiền và hồ đồ của bọn VC / Việt gian.

Huỳnh Quốc Bình
Oregon, ngày 5 tháng 11 năm 2009
(503) 568-8565
e-mail: huynhquocbinh@yahoo.com
Địa chỉ:
P.O. Box 20361
Salem, OR 97307- USA

(*). Ý chính trong bài Thơ "Khát", do Nhạc Sĩ Phan Văn Hưng phổ nhạc.

- Nếu ai nhận bài viết nầy hơn một lần xin thông cảm, bỏ qua cho.

- Nếu các chữ biến dạng, xin đọc attachment.
- Xin tiếp tay quảng bá bài viết nầy đến những người Việt Tự Do, nhất là thính giả chống cộng của đài Việt Nam Hải Ngoại.
- Vì tiếng nói của cá nhân tôi đã bị bóp nghẹt trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại. Nên chúng tôi xin sử dụng phương tiện nầy để có thể trình bày sự thật những gì đã xảy ra trong thời gian qua, hầu bênh vực cho lẽ công chính và cho những ai không còn tiếng nói trên làn sóng phát thanh của đài nầy, và họ đang bị kẻ gian tấn công. Xin thành thật cảm ơn quý vị.

Huỳnh Quốc Bình

Những kẻ phản bội trong giới truyền thông - Đoàn Trọng Hiếu

Đoàn Trọng Hiếu

Ba chữ KẺ PHẢN BỘI chúng ta thường nghe rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày, có khi là một anh chàng phản bội vợ hay một cô nàng phản bội chồng, hành động phản bội này thường chỉ gây tác hại trong phạm vi gia đình của chính bản thân họ, một kẻ phản bội bạn bè cũng chỉ làm cho bạn bè họ khinh chê xa lánh.Những hành động phản bội trên thường không gây ra những tác hại cho xã hội hoặc nếu có thì cũng trong một phạm vi nhỏ hẹp.

Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là cộng đồng và đặc biệt là Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng đã có những kẻ phản bội Một ông chủ của cả một hệ thống bán đồ ăn nhanh làm giàu bằng sự mua bán với đồng hương nhưng sau đó lại thập thò đi lại với việt cộng, hành động này cũng chỉ làm cho đồng hương tiếc là đã mua hàng của hắn khiến hắn giàu lên. Một kẻ phản bội Nguyễn Cao Kỳ muối mặt đến với việt cộng bằng hai cái đầu gối cũng chỉ làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ vì đã có một tên vô lại đứng trong hàng ngũ lãnh đạo miền Nam trước kia.

Tác hại khi người làm truyền thông phản bội

Nhưng khi sự phản bội của giới truyền thông thì hậu quả của nó không lường được, vì ngày hôm nay truyền thông là vũ khí sắc bén để tấn công vào hang ổ của bọn việt cộng, đồng thời là phương tiện hữu hiệu nhất để củng cố , đoàn kết khối người Việt Quốc Gia,là một phương tiện thông tin nhanh nhất để phá xập bức tường bưng bít do bọn việt cộng dựng lên để ngăn cách người dân trong nước với thế giới bên ngoài. Hiểu rõ điều này hơn ai hết, nên việt cộng lâu nay vẫn cố gắng len lỏi vào những kẽ hở của nghành truyền thông để tạo sự chia rẽ trong cộng đồng, mua chuộc những tên hám danh hám lợi tấn công bôi bẩn những người Quốc Gia chân chính đang dấn thân cho công cuộc tranh đấu chung nhằm giải thể chế độ việt cộng buôn dân bán nước.

Hành động của ông chủ một tờ báo lớn (đã từng là một công chức bậc trung thời VNCH) ở California đã lén tiếp xúc với tên Nguyễn tấn Dũng khi tên này còn là phó thủ tướng, cũng như đăng lên những bài viết những hình ảnh xúc phạm đến lá Cờ Vàng linh hồn của người Việt Quốc Gia đã gây xôn xao trong cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt vùng Cali, những cuộc biểu tình liên tục vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay, tuy nhiên cách thức phản đối cũng đã gây phân hóa trong cộng đồng, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một tờ báo do một cá nhân hoặc gia đình làm chủ xuất bản báo bằng tiền túi của mình, hành động phản bội của bọn này cũng chỉ làm cho cộng đồng phỉ nhổ vào mặt chúng và tẩy chay không mua báo nữa, nhưng không làm suy sụp tiềm năng chống cộng của người Việt hải ngoại. Cũng như hành động của một người trẻ Hồ Văn Xuân Nhi của tờ Việt Weekly hoặc của anh họa sĩ họ Đoàn cũng chỉ làm cho cộng đồng nổi giận, nhưng đồng thời cũng là dịp để thế hệ cha anh uốn nắn lại những suy nghĩ lệch lạc của những thế hệ sau do cao ngạo tự mãn, cho rằng mình đươc hấp thụ một nền giáo dục tiên tiến hơn hẳn cha anh, nên đã xem thường kinh nghiệm máu xương mà ông cha đã phải trả giá quá đắt đối với bọn việt cộng.

Gần đây nhất, một đài phát thanh ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có làn sóng phát thanh rộng rãi trên nhiều tiểu bang và sang tận Âu Châu, số lượng thính giả lên đến vài trăm ngàn người,tức là có thể chiếm đến khoảng từ 40% đến 50% số người Việt Quốc Gia chống cộng, nhiều cộng tác viên đã hợp tác hoàn toàn vô vị lợi, sự ủng hộ tài chánh từ phía thính giả mỗi năm lên đến hàng trăm ngàn đồng, đài đã trở thành cái gai đối với bọn cầm quyền việt cộng. Bằng một âm mưu thâm độc không những nhằm triệt hạ cho bằng được đài phát thanh này mà còn quan trọng hơn là làm sụp đổ tinh thần chống cộng của hàng trăm ngàn thính giả, một kế hoạch tinh vi đã được giao cho tên đệ tam tham tán đặc trách người Việt ở nước ngoài thuộc tòa đại sứ vc tại Hoa Thịnh Đốn thi hành. Trong khi đó thì không hiểu vì vô tình hay hữu ý mà ông TNS Jim Webb, người mà năm 2003 với tư cách của một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam đã từng lên án đám truyền thông thân cộng, đám chính trị gia chủ bại trong thời chiến tranh Việt Nam là “chăn gối với kẻ thù”, lên án ứng cử viên tổng thống năm 1972 Mc Govern là “đi với Hà Nội bằng hai đầu gối”. Thì năm 2007 sau khi đắc cử TNS liên bang ông lại kêu gọi người Việt hải ngoại và nhất là giới trẻ hãy tiếp xúc với việt cộng, đặc biệt là với tòa đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn để làm giảm bớt sự gay gắt, điều này đi ngược lại lập trường đấu tranh chung của người Việt Quốc Gia, không phải ông đã quên bài học ”chăn gối với kẻ thù” nhưng vì ông là TNS Mỹ ông phải nói sao cho có lợi cho tư bản Mỹ, và dĩ nhiên là có lợi cho việt cộng, vậy mà ông tổng giám đốc đài tuyên bố là đài VNHN đang “invest” vào ông Jim Webb, ông “invest” để làm lợi cho việt cộng hay sao ? hay để có một cái văn phòng liên lạc của đài VNHN tại Việt Nam như lời ông nói? Ông đúng là kẻ mộng du giữa ban ngày.

Vậy mà khi nghe lời “xúi trẻ ăn cứt gà” của ông Jim Webb thì cũng đã có vài tên ngu xuẩn nhanh chân, cho đó là chủ trương của Mỹ nên đã hớn hở đến tòa đại sứ vc chào cờ đầu năm, riêng các ông bà giám đốc của đài VNHN thì đã có chủ đích riêng, vì tư lợi cá nhân mà vượt qua lằn ranh Quốc cộng, tổ chức tiệc tùng hết sinh nhật tại nhà hàng lại đến tất niên tại tư gia (cũng cần nên nhớ là bọn việt cộng đi đâu cũng đi hai người trở lênchỉ đến những nơi là cơ sở của chúng hoặc cảm tình viên tin tưởng) tiệc nào cũng (qua bạn bè?) mời mấy tên cán bộ gộc đến cho chúng ăn vài miếng rồi “giáo dục” chúng, “chiêu hồi” chúng, ôm chúng vào lòng như ôm đứa con hoang đàng trở về, bởi theo lời các ông bà giám đốc thì bọn việt cộng này còn bé dại dột nào có biết chi (ngụy biện).

Thưa các ông bà giám đốc, mục đích của các ông bà cao cả như thế mà tại sao lại cứ lẩn tránh không dám đối chất công khai với kẻ tố giác là ông Hồng Phúc, các ông bà lại còn kéo bè kéo đảng lợi dụng có làn sóng để bịt miệng trấn áp những người dám lên tiếng tố giác phản đối mình, các ông bà có thể bịt miệng chúng tôi được nhưng không thể bịt miệng bọn việt cộng đươc, chúng có thể sẽ giăng thêm cái bẫy thứ hai cho triệu hồi về nước và hạ tầng công tác tên đệ tam tham tán với lý do đã chao đảo lập trường bị kẻ địch dụ dỗ để tăng thêm uy tín cho các ông bà giám đốc, lúc đó sẽ có nhiều tổ chức hội đoàn cũng như cá nhân sẽ lên tiếng ủng hộ hành động của quý vị, thế là thêm những con cá lớn như ban đại diện TCCĐ Washington v..v đút đầu vào lưới, mẻ lưới sẽ được kéo lên vào thời điểm cần thiết, tin tức hình ảnh các ông bà “chăn gối với kẻ thù” sẽ được truyền trên đài vtv4, tổn thất đến với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia là điều không tránh khỏi. Thử tưởng tượng khi mẻ lưới đã đầy chúng sẽ kéo lên vào lúc một tên đại gộc nào đó sang gặp TT Mỹ, quý vị trong các TCCĐ, hội đoàn, liên hội đã chui đầu vào lưới có dám kêu gọi đồng bào đi biểu tình không ? và có ai nghe lời kêu gọi của quý vị không?

Nhưng may mắn thay lời tố giác của ông Hồng Phúc đã khiến cho hàng ngàn thính giả hiểu biết thấy được bản chất thật được che dấu dưới bộ mặt chống cộng giả hình của quý ông bà, nên tránh đươc sự sụp đổ niềm tin, vì thế cho dù lời tố giác của ông Hồng Phúc phát xuất từ động cơ xấu như các ông bà vẫn rêu rao thì lời tố giác ấy vẫn có giá trị và được trân quý.

Nói tóm lại, các ông bà là những KẺ PHẢN BỘI trong giới truyền thông, đang hủy hoại tinh thần chống cộng của đồng bào, lường gạt TÌNH (niềm tin, yêu) TIỀN (kêu gào ủng hộ) của đồng bào, tàn nhẫn hơn lại từ những cụ già sống nhờ tiền trợ cấp xã hội chắt chiu dành dụm gởi gấm đến quý vị với tất cả niềm tin yêu để chỉ mong sớm có ngày về được chết trên quê hương ,hành động này cần phải bị lên án và dập tắt .

Đường về quê lại thêm xa lắc lê thê vì đã trót nghe theo lời u mê.

Đoàn Trọng Hiếu

Mong Đừng Có Ngày Đập Vỡ Cái Radio - Lê Văn Bảy

Lê Văn Bảy

Sự việc ông Hồng Phúc - Lê Hồng Long tuyên bố không tiếp tục cộng tác với đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại, gây hoang mang trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự hoang mang này chắc đã làm cho Việt cộng (VC) hài lòng. VC càng hài lòng thì người Việt quốc gia càng lo lắng, bực dọc rồi đổ hết lên đầu ông Hồng Phúc. Vì ông mà ra nông nỗi này. Đây đó trong dư luận, người ta nghe rằng ông Hồng Phúc là người "vì tiền", đòi lên lương không được rồi giận dỗi và tìm cách phá rối. Sự thật ra sao?

Ông Hồng Phúc nguyên là Giám đốc Chương Trình, chịu trách nhiệm về nội dung các tiết mục phát thanh trên hệ thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (VNHN). Tháng Sáu-2009, ông Hồng Phúc gửi thư cho Ban Giám Đốc xin từ chức và rút tên ra khỏi đài với lý do đài VNHN đã phản bội thính giả. Ông chỉ muốn lặng lẽ ra đi. Thư này được kín đáo loan truyền trong vòng nội bộ. Nhưng rồi nhiều người bên ngoài cũng biết tin, kèm theo những lời bàn đủ chiều hướng và kích thước khác nhau. Sự lo lắng của Ban Giám Đốc không giống nỗi lo lắng của những người khác. Người ta trách ông Hồng Phúc tố cáo muộn màng và lo sợ đài bị VC mua chuộc bằng tiền. Có người tin vào lời đồn đại rằng ông Hồng Phúc đòi lên lương không được rồi phá thối và lên án ông Hồng Phúc tiếp tay cho cộng sản. Về phía Ban Giám Đốc thì có những chương trình phát thanh chữa lửa qua hình thức trả lời thư tín. Nỗi lo càng ngày càng lớn.

Tháng Chín-2009, ông Hồng Phúc không thể tiếp tục im lặng, và đã công khai lên tiếng công bố những điều ông đã nêu trong thư xin từ chức và rút tên, đã gửi cho Ban Giám Đốc hồi tháng Sáu-2009. Từ lá thư công khai này, nhiều vấn đề được phơi bày làm lộ rõ tính chất phản bội của đài VNHN. Nguyên văn lời tố cáo của ông Hồng Phúc:

"1. VỀ LẬP TRƯỜNG của Ðài thì Ban Giám Ðốc đã có những hành động phản bội lại niềm tin của người Việt tỵ nạn cộng sản, của thính giả ... qua những hành động, như:

- Quan hệ mật thiết với Tòa Ðài Sứ Việt Cộng tại Hoa Thịnh Ðốn đến độ mở tiệc tại nhà hàng, mời cán bộ VC tại Tòa đại sứ công khai đến dự. Tôi là người chứng kiến tận mắt sự việc này.

- Anh Dương Văn Hiệp, Giám đốc Giao tế của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng 1 mình);

- Chị Lưu Lệ Ngọc, Giám đốc Tài chánh và Ðiều hành của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng một mình) từ Nam ra Bắc.

2. Sau những chuyến đi trên, anh Ngô Ngọc Hùng tuyên bố Ðài VNHN sẽ có một Văn Phòng Ðại Diện tại Sàigòn.

3. VỀ NỘI BỘ, Ban Giám Ðốc đã bắt đầu cô lập tôi vì lập trường chống Cộng dứt khoát của tôi mà chị Lưu Lệ Ngọc gọi là "cực đoan". BGÐ không còn tôn trọng những lời cam kết về nguyên tắc điều hành Ðài, như lúc ban đầu khi mời tôi làm quản trị viên của Ðài, trong các lãnh vực như Quyền hạn, Trách nhiệm và Tài chánh."

Những điều ông Hồng Phúc nêu lên không còn là những nghi ngờ mà là sự thật do chính các nhân sự trong Ban Giám Đốc đã nhìn nhận trên làn sóng phát thanh trong nhiều lần khác nhau. Họ xác nhận đệ tam tham tán của toà Đại Sứ VC tại Hoa Thịnh Đốn đã đến tư gia để tham dự tiệc sinh nhật của bà Lưu Lệ Ngọc, đang là Giám Đốc Tài Chánh của đài VNHN. Họ xác nhận ông Ngô Ngọc Hùng là Tổng Giám Đốc đã tiếp xúc trực tiếp với các đảng viên cộng sản trong chuyến sang Âu châu mà ông Hùng nói là "vào hang cọp để bắt cọp". Ông Dương Văn Hiệp là Giám Đốc Giao Tế và là chồng của bà Lưu Lệ Ngọc cũng xác nhận có về Việt Nam với lý do riêng. Dữ kiện đã được xác nhận phù hợp với lời tố cáo của ông Hồng Phúc.

Việt Cộng vẫn là kẻ thù của dân tộc Việt Nam

Cho đến thời điểm này là năm 2009, VC vẫn là kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Kẻ thù hung hiểm này là thủ phạm đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản quốc tế, bán đứng dân tộc và đất nước Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh chính Hồ Chí Minh và đồng bọn là đảng cộng sản Việt Nam, được cả khối cộng sản quốc tế hà hơi tiếp sức, đã đánh cướp toàn cõi Việt Nam, khống chế quyền làm người, xóa bỏ tàn tích văn hóa của dân tộc; hủy hoại tinh thần nhân bản của con người Việt Nam; đầu độc nền giáo dục hiện tại và di hại cho đến nhiều thế hệ mai sau; tiêu diệt sức đề kháng của dân tộc Việt Nam. VC còn tiếp tục đánh phá các giáo phái, tôn giáo, tín ngưỡng,... tại Việt Nam ngày nay. VC đã bán rất nhiều đất và biển cho Trung cộng, ai cũng thấy. Bấy nhiêu cũng đủ cho thấy VC là kẻ thù hung hiểm nhất của dân tộc Việt Nam, mà Ban Giám Đốc của đài VNHN tìm gặp. Vậy, họ gặp kẻ thù để làm gì?

Về phía VC, chúng vẫn xem người Việt tỵ nạn và Mỹ là kẻ thù. Điều này đã được rầm rộ tái xác nhận qua bản Đề Cương Tuyên Truyền của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, khai triển chỉ thị số 34-CT/TW do Ban Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam ban hành ngày 25 tháng Sáu -2009 và được phổ biến rộng rãi trên tất cả các cơ quan truyền thông của đảng cộng sản tại Việt Nam và tại hải ngoại. Chỉ thị này hiện còn đang được khai triển mạnh mẽ tại các trường học để "tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động 'diễn biến hòa bình' trên lãnh vực tư tưởng, văn hóa". VC xem người Việt hải ngoại là kẻ thù và đang tìm cách đến gần để tiêu diệt sức đề kháng hoặc ít nhất cũng tìm cách lủng đoạn cái tập thể này. Ông Tổng Giám Đốc Ngô Ngọc Hùng đã "vào hang cọp" ở Âu châu không biết có bắt được con cọp con nào không, nhưng cọp ở Tòa Đại Sứ VC đã vào đến tiệc sinh nhật của bà Lưu Lệ Ngọc vợ ông Dương Văn Hiệp, để mang đến cho Ban Giám Đốc của đài VNHN những tai họa!

Đến Gần Kẻ Thù Để Làm Gì?

Theo lời tố giác của ông Hồng Phúc thì Ban Giám Đốc đài VNHN tìm cách cô lập ông Hồng Phúc vì cho rằng ông chống cộng "cực đoan"; và họ tìm cách giảm thiểu màu sắc chống cộng trong các chương trình phát thanh. VC thì vẫn ráo riết chống người Việt hải ngoại và chống những người không cộng sản. Trong khi Ban Giám Đốc đài VNHN thì lại thay đổi lập trường. Có phải là để đáp ứng yêu cầu của VC hầu hai bên có thể đến gần với nhau? VC và Ban Giám Đốc đài VNHN, cả hai đều muốn đến gần với nhau và họ đã làm thế. Họ tìm gặp để liên kết với nhau hay tiêu diệt nhau? Ai có thể tiêu diệt ai?

Có những bà mẹ nuôi con cứ ôm ấp tối ngày nhưng không biết phải đem con đi chích ngừa. Hỡi các bà mẹ với tình mẫu tử bao la, các bà cần ý thức phải chích ngừa cho con thì mới tránh khỏi bị nhiễm những chứng bệnh nguy hiểm. Và đấy mới đúng là thương con trọn vẹn.

Thính giả của đài VNHN vẫn còn thương yêu đài này tin rằng VNHN là pháo đài chống cộng, là nguyện vọng của họ mà Ban Giám Đốc đã hứa hẹn vào những ngày đầu mới thành lập. Bỗng một sớm một chiều Ban Giám Đốc ngồi chung bàn tiệc với kẻ thù VC, thì thử hỏi sao không hoang mang. Càng hoang mang, người ta chẳng biết phải làm gì mà chỉ biết đổ lỗi cho người tố giác là ông Hồng Phúc. Thính giả ôm cái radio mong sao Ban Giám Đốc thức tỉnh, đừng "làm cái trò ấy", đừng u mê tiếp tục đu dây. Chỉ dám mong ước thôi! Mong sao lời tố cáo của ông Hồng Phúc đã trở thành liều thuốc ngừa công hiệu để đừng có ngày phải ném cái radio thật mạnh xuống đất cho nó vỡ toang ra cái hoài bão thiết tha nhất đã nuôi dưỡng mấy mươi năm qua. Ấy là giải phóng đất nước khỏi ách cai trị của cộng sản tham tàn, phục hồi các giá trị đạo đức và quyền làm người trên quê hương Việt Nam.

Lê Văn Bảy
(Nov.2009)

Sunday, November 8, 2009

Trần Kiêm Đoàn dị ứng "Biến Động Miền Trung"?

From: Phi Nguyen <->
Subject: FW: Tran Kiem Doan
To:
Date: Saturday, November 7, 2009, 5:46 PM

Anh Đoàn !

Có lẽ anh không lạ gì tôi, Tôi là Em của Anh Nguyễn v Lũy, Huynh Trưởng GĐPT Hương cần, còn Anh là Huynh Trưởng GDPT Liễu Cốc Hạ mà người dân quê mình thường gọi là làng Cạ Liệu Hạ. Ba anh là một Liệt Sĩ của Việt Cộng, anh tham gia hoạt động cho phong trào Thanh Niên Sinh Viên Thừa Thiên Huế, gồm Võ Quê, Tô Nhuận Vỹ, Lê Phương Thảo, Hoàng văn Hoa, Chu Sơn, Nguyễn Sâm (bây giờ đang ở Úc) .

Sau 1975, anh diện Nón Cối, Dép râu mang Sắc Cốt, trông rất Oai về làng anh lên khán đài chửi chúng tôi là đồ Mỹ Ngụy, anh chửi không tiếc lời, mà anh có biết rằng những tấm Ri để kê lên làm sân khấu ngoài trời cho anh đứng chửi chúng tôi là tên Xã Đội trưỡng Nguyễn Văn Ánh , bắt chúng tôi là những thanh niên Đen có nghĩa là chúng gọi chúng tôi là Ngụy, phải lên tận Chi Khu Hương Trà ( đóng tại cây số 9) để cứ 3 đứa, hai đứa đi trước một đi sau gánh một tấm Ri đi ba cây số với trong bụng đói vì ăn sắn không anh ?. Lúc đó anh là Bí Thư Đoàn trường Trung học Cấp ba Nguyễn Tri Phương - Huế .

Tôi biết anh từ khi anh còn đi chiếc Honda dame màu đỏ nhà anh ở Tây Lộc lận, cho nên anh đừng nghĩ là không ai biết tông tích của anh hý ! Chính Ông Trầm Kiêm Mai (Chánh Lục Sự Tòa Thượng Thẩm Huế) là bác họ của Anh, Cụ Ấm Mai đang ở Fulleton, Nam California cũng chửi anh là thằng Láo khoét, vì anh củng có thời gian nhờ ông Ấm Mai để đi học, và Ông Trần Kiêm Trợ Chú của anh đang ở Sacramento với anh cũng từ anh vì anh là Việt Cộng ! Anh quá biết Ôn Đôn Hậu và Ôn Trí Quang hiện đang ở Già Lam là Việt Cộng thứ thiệt nhưng anh cố tình bào chữa ! anh nên nhớ giấy không gói được lửa .

Đã có lần tôi đã hỏi Ôn Tâm Hướng Chùa Vạn Phước là bạn rất thân với Ôn Trí Quang (hai vị nầy sinh cùng ngày, tháng, năm chỉ khác giờ sinh mà thôi) và Ôn Đôn Hậu là Sư Thúc của Tâm Hướng rằng có phải hai vị nầy là Việt Cọng không ôn ? và Ôn Tâm Hướng nói rằng: "Chạy đi mô" đó là nguyên văn Ôn Tâm Hướng trả lồi cho tôi. Tôi cũng đã có lần ngồi ăn cơm với ba vị nầy tại Chùa Vạn Phước gần Trường Đua Phú Thọ, Quận 10 - Sài Gòn (ba vị nầy ngồi bàn trên và tôi ngồi bàn dưới). Cho nên cách viết của anh là sáo ngữ "cả vú lấp miệng em". Khi anh gả con gái cho một thằng Việt Cộng qua Mỹ học Báo Chí về làng đám cưới rình rang chính bà con tôi cũng có đi dự đám cưới đó anh ạ, quê mình ai mà không biết Trần Kiêm Đoàn là Việt Cộng ! nhưng anh bị chúng vắt chanh bỏ vỏ nên anh chạy mà thôi và câu nói cuối cùng tôi kết luận Anh là Trần Kiêm Đoàn: VIỆT CỘNG. Nếu anh cần đối chất tôi sẵn sàng, Anh muốn liên lạc với tôi thì gọi BS Hồ Đắc Phương chồng của Oanh là Cháu gọi anh bằng Chú Ruột thì chúng mình gặp nhau. Mong anh đừng nói ba láp nữa , dù răng đi nữa anh cũng là PhD chứ không phải PhO là bán Phở.

Thân ái Nguyễn Phi

PS: Nếu quý độc giả nào biết Email của Trần Kiêm Đoàn thì Fwd cho anh ấy dùm tôi, xin đa tạ

Nguyễn Phi 2. 06-11-2009 07:47