Tuesday, September 15, 2009

Tổng Cục Phân II

    TỔNG CỤC II – VÌ AI NÊN NỖI?
Vũ Minh Trí

Tôi có hơn 21 tuổi quân, 18 tuổi Đảng, hơn 10 năm làm việc tại Tổng cục II – Bộ quốc phòng, đã suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào nhiều cấp lãnh đạo, chỉ huy nhưng vẫn viết bài này vì hai lý do chính:

1. Để thấy hết thực trạng Tổng cục II và căn nguyên của nó, cần cả một quá trình tìm hiểu khách quan, sâu rộng của nhiều cơ quan của quân đội, Đảng, Nhà nước song các cơ quan ấy không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu không lấy dân làm gốc, không dựa vào đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là số đã và đang công tác ở Tổng cục II.

2. Thực trạng Tổng cục II cho thấy quân đội ta, Đảng ta, Nhà nước ta đang gặp phải hiểm họa vô cùng to lớn ngay từ bên trong, ngay ở bên trên; là người đã nhiều lần tuyên thệ trước Quân kỳ, Đảng kỳ, Quốc kỳ thì phải ra sức góp phần giúp Quân đội, giúp Đảng, giúp Nhà nước chống lại hiểm họa “tự diễn biến” ấy chứ không được hèn nhát, buông xuôi.

“Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Mong sao ngoài các trang viết này, các ý kiến sẽ có thêm nhiều trang viết khác, nhiều ý kiến khác tới được với người có trách nhiệm và được sử dụng đứng đắn, có kết quả!

Thời gian gần đây, ngay trong Tổng cục II có nhiều ý kiến cho rằng Tổng cục II đang ở vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện về lý luận, tư duy nghiệp vụ, phương châm, phương pháp, thủ đoạn, nề nếp, chế độ công tác, tổ chức lực lượng. Một số ý kiến khẳng định ở Tổng cục II, việc “lưu manh hóa”, “ngu hóa” Đội ngũ cán bộ khá triệt để, khiến Tổng cục II chẳng những không xứng là tai tỏ, mắt sáng của quân đội, của Đảng mà xét trên một số khía cạnh còn có vai trò như một khối u ác tính, trực tiếp đe dọa sự ổn định, đoàn kết, nhất trí trong quân đội, trong Đảng. Bằng trải nghiệm 10 năm ở vị trí công tác xác thực. Theo tôi thì Tổng cục II rơi vào tình trạng hiện nay là chủ yếu và trước hết là do trong 10-15 năm trở lại đây, những kẻ yếu kém cả về phẩm chất lẫn năng lực đã cấu kết nhau, chui được vào, leo được lên nắm được hết vị trí chủ trì, chủ chốt của Tổng cục II và lợi dụng tính chất hết sức chuyên biệt của tình báo để mưu cầu lợi ích riêng bất chính. Vì lợi ích riêng bất chính đó chúng sẵn sàng làm việc phi nghĩa, phi pháp, sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của cách mạng, của dân tộc. Hiện chúng trở thành thù trong, còn nguy hiểm gấp mấy lần giặc ngoài. Với chúng, không thể phê bình mà phải quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ.

Từ cái “MẦM KẾT TINH”

Chỉ một kẻ xấu không thể làm tê liệt, lũng đoạn hầu hết tổ chức Đảng, hầu hết cơ quan chính quyền của một ngành lớn, có truyền thống lâu dài và khá vẻ vang. Một mạng lưới sâu rộng gồm nhiều kẻ xấu cấu kết chặt chẽ với nhau mới làm được việc ấy. Nhưng để có một mạng lưới như vậy thì lúc đầu phải có kẻ làm “MẦM KẾT TINH”. Ở Tổng cục II, kẻ đó là Nguyễn chí Vịnh.

Nguyễn chí Vịnh có xuất thân rất tốt, có tư cách tốt nhưng khi đi học lại không phải là trò ngoan. Người Việt duy tình, có vuốt mặt cũng nể mũi vậy mà Nguyễn chí Vịnh – con một nhà lãnh đạo lừng danh của quân đội ta, Đảng ta – vẫn bị đuổi khỏi Trường đại học kỹ thuật quân sự vì vi phạm kỷ luật. Các vụ việc vi phạm kỷ luật của Nguyễn chí Vịnh có nhiều người biết rõ và còn được kể lại mãi song hình như chẳng có ảnh hưởng gì tới sự thăng tiến của Nguyễn chí Vịnh, khác hẳn trường hợp phó tổng cục trương Tổng cục du lịch Nguyễn quốc Kỳ.

Về chính trị cách mạng và nghiệp vụ tình báo cách mạng, Nguyễn chí Vịnh không giỏi song nhờ hoạt ngôn nên được nhiều người lầm tưởng là giỏi. Có rất nhiều cách để xác nhận điều này; cho Nguyễn chí Vịnh làm bài kiểm tra, đọc các nghị quyết, kế hoạch công tác, công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn … mà Nguyễn chí Vịnh là tác giả, đồng tác giả, chủ biên, chủ nhiệm; đọc các bản ghi lại bài nói của Nguyễn chí Vịnh; đánh giá một cách khách quan, chặt chẽ kết quả và hiệu quả công tác của Tổng cục II trong những năm dưới quyền Nguyễn chí Vịnh. Nhiều năm qua, Nguyễn chí Vịnh duy trì được vị thế “chủ trò.” ở Tổng cục II vì có sự vượt trội về xuất thân, quan hệ, tư chất … và đặc biệt là vì rất giỏi khống chế cấp dưới, o bế, mua chuộc cấp trên, thâu tóm quyền lực.

Với cấp dưới, Nguyên chí Vịnh khống chế bằng quyền lợi như cho chức quyền, bổng lộc, nhận người thân vào làm việc trong ngành kết hợp với đe dọa, truy bức (nếu cần)… Các phần sau sẽ trình bày rõ hơn, cụ thể hơn về điều này.

Với cấp trên (bao gồm cấp trên trực tiếp, cấp trên không trực tiếp và cơ quan chức năng của cấp trên), Nguyễn chí Vịnh thường dùng câc thủ đoạn bắc cầu từ quan hệ cũ sang quan hệ mới, thêm thắt, sử dụng tin tức, tài liệu để hù dọa những nguy cơ đối với nội bộ, nội địa và đối với bản thân cấp trên, dùng lợi ích (chủ yếu là lợi ích cá nhân, gia đình) để tiếp cận, mua chuộc, dùng tỳ vết để đe nẹt, khống chế … Ví dụ:

1. Tổng cục II chỉ là đơn vị trực thuộc Bộ quốc phòng, Đảng ủy Tổng cục II chỉ là một đảng ủy trực thuộc Đảng ủy quân sự trung ương vậy mà đầu năm 2008, lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II đã làm một việc chắc chưa hề có tiền lệ với các bộ, ngành,tỉnh, thành là sau Hội nghị trung ương, mời các ủy viên trung ương tới dự tiệc chiêu đãi;

2. Thời gian qua, Tổng cục II đã bỏ qua tiêu chuẩn, thu hút, tiếp nhận con cháu rất nhiều cán bộ cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước như Lê đức Anh, Lê văn Dũng, Phùng khắc Đăng, Nguyễn huy Hiệu, Vũ Tuyên Hoàng, Bùi văn Huấn, Nông đức Mạnh, Phạm hồng Lợi, Cao tiến Phiếm, Nguyễn Hồng Quân, Phạm văn Trà, Đỗ quang Trung …. Vào đào tạo ở Học viện khoa học quân sự, làm việc trong Tổng cục II (việc mà thời trước hầu như không có), biến Học viện khoa học thành tụ điểm xấu (năm 2004, một học viên là cháu ruột Bộ trưởng Bộ nội vụ Đỗ quang Trung đã tự tử vì vay nặng lãi cử một học viên khác là con chính ủy Học viện kỹ thuật quân sự Hoàng khánh Hưng, không thể trả).

1. Gần đây Nguyễn chí Vịnh giao cho một cơ quan trực thuộc tổng cục tưởng Tổng cục II nhiệm vụ tổ chức thu thập thông tin, lập hồ sơ về nhiều cán bộ cấp cao ngoài Tổng cục II trong khi Tổng cục II không hề có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, bảo vệ chính trị nội bộ, thanh tra, kiểm tra Đảng đối với các tổ chức, cá nhân bên ngoài Tổng cục II.

2. Cuối tháng 10 – 2008, Nguyễn chí Vịnh lấy cớ ngày thành lập Tổng cục II để mời trung tướng, tư lệnh Quân khu II Đỗ bá Tỵ và các cán bộ lãnh đạo, chỉ huy khác của Quân khu II tới dự tiệc tại trụ sở Tổng cục II; một số cán bộ Tổng cục II khẳng định việc làm này là để đón trước khả năng trung tướng Đỗ bá Tỵ lên làm Tổng tham mưu trưởng … Không phải ngẫu nhiên mà Tổng cục II có nhiều ý kiến cho rằng những năm qua, Nguyễn chí Vịnh đã “qua mặt”, đã “lừa.” được hầu hết lãnh đạo cấp cao của Quân đội, Đảng, Nhà nước, thậm chí “bỏ túi.” Được các vị Lê đức Anh, Nông đức Mạnh, Phạm văn Trà, Lê văn Dũng, Nguyễn huy Hiệu, Phạm văn Long … Một số người còn ở Tổng cục II, Nguyễn chí Vịnh đã một tay che lấp cả bầu trời, khiến người ta không còn nhìn thấy ánh sáng đạo đức, ánh sáng văn minh của Đảng, của Bác Hồ.

Nguyễn chí Vịnh đặc biệt thu tóm hết quyền lực về tay mình. Việc Nguyễn chí Vịnh cố giữ cả hai vị trí Tổng cục trưởng và Bí thư Đảng ủy tổng cục, khiến Tổng cục II trở thành đầu mối cuối cùng trực thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên gắn với chế độ một người chỉ huy theo quy định (tới tháng 9-2008 mới có chính ủy), việc 2006 Bộ tham mưu Tổng cục II được thành lập song tới nay tất cả các cơ quan tham mưu - chỉ đạo về nghiệp vụ tình báo ( gồm Cục 71 và các phòng 72,73 B,C,E) vẫn trực thuộc Nguyễn chí Vịnh, nằm ngoài Bộ tham mưu, việc Nguyễn chí Vịnh tự tiện sửa tên gọi “Ban chỉ đạo điệp báo tổng cục” (mà Nguyễn chí Vịnh là trưởng ban), việc Nguyễn chí Vịnh trực tiếp nắm tất cả các mặt hoạt động, công tác hoạt động quan trọng nhất của Tổng cục II mà không giao cho các cấp phó cho thấy rõ điều đó. Hệ quả mà lâu nay lãnh đạo tập thể ở Tổng cục II chỉ còn là hình thức, “ Ban chỉ đạo điệp báo tổng cục.” đã trở thành một nhóm siêu quyền lực, đứng trên Đảng ủy, Thường vụ đảng ủy tổng cục và trên thực tế, cả Tổng cục II lẫn các điệp báo của Tổng cục II đều không có tham mưu trưởng đúng như chức trách, nhiệm vụ của chức danh này.

NHỮNG MẠNG LƯỚI CỦA CÁI XẤU ĐÃ HÌNH THÀNH VÀ LÂY LAN SÂU RỘNG …

Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu. Ở Tổng cục II, từ cái “mầm kết tinh.” Là Nguyễn chí Vịnh, những mạng lưới của cái xấu đã hình thành và lây lan sâu rộng thành tầng tầng lớp lớp.

Lớp thứ nhất chủ yếu gồm những “chiến hữu.”, “tiểu đệ.” Thời đi học của Nguyễn chí Vịnh, nổi bật là: Phạm ngọc Hùng (thiếu tướng, ủy viên thường vụ đảng ủy, phó tổng cục trưởng), Nguyễn minh Tân (đại tá, phó tổng cục trưởng), Trần việt Thắng (đại tá, đảng ủy viên phó chính ủy Tổng cục), Phan anh Việt (đại tá, đảng ủy viên Tổng cục, cục trưởng cục 12), Nguyễn anh Dũng (đại tá, chủ nhiệm chính trị tổng cục), Trần quốc Minh (đại tá, chính ủy cục 16, có em ruột là em cột chèo của Nguyễn chí Vịnh), Vũ công Hoạch (đại tá, phó cục trưởng cục 16 có anh ruột là anh rể Nguyễn chí Vịnh), Đỗ anh Tuấn (đại tá, phó chánh văn phòng tổng cục) … Lớp thứ hai gồm những kẻ Nguyễn chí Vịnh thu nạp khi bắt đầu có vị trí chủ trì, chủ chủ chốt trong Tổng cục II, nổi bật là: Trần nam Phi (trung tướng, nguyên phó bí thư Đảng ủy, phó Tổng cục trưởng về chính trị), Đặng trí Dũng (đại tá, phó giám đốc Học viên khoa học quân sự, em ruột vợ Nguyễn chí Vịnh), Phan sỹ Minh (đại tá, phó cục trưởng cục 16), Đặng văn Đồng (thượng tá, phó chỉ huy trương trung tâm 701), Nguyễn trọng Hải (đại tá,trưởng khoa Điệp báo chiến lược bất hợp pháp- Học viên khoa học quân sự), Nguyễn quang Hải (trung tá, phó cục trưởng cục 12, em họ vợ Nguyễn chí Vịnh), Nguyễn tiến Bắc (đại tá, trưởng phòng C), Phan hải Quân (thiếu tướng, viện trưởng Viện 70), Tô xuân Bang (đại tá, trưởng phòng B), Bùi xuân Khiển (đại tá, chỉ huy trưởng Trung tâm 701), Bùi xuân Khang (đại tá, cục trưởng Cục 71), Dương văn Tước (thượng tá, trưởng phòng Bảo vệ an ninh – Cục chính trị), Đỗ hồng Anh (đại tá, trưởng phòng Quân huấn – nhà trường thuộc Bộ tham mưu), Hà ngọc Quỳnh (đại tá, viện trưởng Viện 501), Phan văn Việt (đại tá, cục trưởng Cục 11), Nguyễn xuân Long (đại tá, phó chủ nhiệm chính trị Tổng cục), Trần hồng Thanh (đại tá, cục trưởng Cục hậu cần), Đỗ đông Phú (đại tá, trưởng phòng Tài chính) …. Vì nhiều kẻ trong số trên vốn là thuộc cấp của Nguyễn chí Vịnh hồi ở Công ty TOSECO (một tổ chức bình phong kinh tế của Tổng cục II) nên nhiều người vẫn gọi Tổng cục II là “ Tổng cục TOSECO.”.

Gặp môi trường thuận lợi, tế bào ung thư tự lây lan rất nhanh, khiến khối u ngày càng to và ác tính. Từ lớp thứ nhất, lớp thứ hai đã sản sinh ra nhiều lớp nữa, kết quả ở Tổng cục II tồn tại hàng loạt mạng lưới có quy mô, phạm vi, lĩnh vực, mức độ ảnh hưởng khác nhau song đều theo chiều hướng xấu, chúng mặc sức phát tác, đã làm tê liệt, lũng đoạn hầu hết tổ chức Đảng, hầu hết cơ quan chính quyền trọng yếu của Tổng cục II. Bao trùm lên tất cả chúng vẫn là Nguyễn chí Vịnh.

Những kẻ trong lớp ấy, các mạng lưới ấy đặc biệt là những kẻ giữ vị trí trọng yếu có hai đặc điểm chung.

1. Thứ nhất về năng lực. Chúng vốn chỉ là học sinh, sinh viên, học viên, cán bộ, sỹ quan … bình thường, không thể hiện được sự nổi trội so với bạn bè, đồng nghiệp, không qua đào tạo chính quy, dài hạn, tập trung về chính trị cách mạng và nghiệp vụ tình báo cách mạng, không thật sự kinh qua hoạt động đấu tranh cách mạng, kể cả trên lĩnh vực tình báo song vào Tổng cục II, đầu quân dưới trướng Nguyễn chí Vịnh thì lập tức thăng tiến rất nhanh. Ví dụ: Phạm ngọc Hùng vốn là trợ lý dưới mức trung bình ở Viện công nghệ quân sự nhưng sang Tổng cục II thì từ thiếu tá lên trung tá, trung tá lên thượng tá, thượng tá lên đại tá, đại tá lên thiếu tướng đều chỉ mất 2 năm (trong khi niên hạn của mỗi cấp tá là 4 năm), chưa đầy 10 năm đã nhảy từ vị trí trợ lý lên phó tổng cục trưởng, ủy viên thường vụ Đảng ủy, thành viên “Ban chỉ đạo điệp báo.” Của Tổng cục.

2. Đặng trí Dũng vốn là học sinh chậm tiến, học kém, thi trượt đại học phải đi làm công nhân lao động xuất khẩu ở Đông Âu nhưng vào Tổng cục II đã liên tục được thăng quân hàm trước niên hạn, chưa dầy 10 năm đã từ vị trí trợ lý lên đến cục trưởng Cục 16, mới đây được bổ nhiệm phó giám đốc Học viện khoa học quân sự.

3. Nguyễn minh Tân vốn là cán bộ kỹ thuật bình thường ở một nhà máy sửa chữa xe tăng – thiết giáp nhưng sang Tổng cục II đã thăng tiến nhanh, cuối năm 2007 được đề bạt từ trưởng phòng 73 lên phó tổng cục trưởng tuy không phải là đảng ủy viên của Tổng cục.

4. Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn tiến Bắc, Nguyễn quang Dũng, Nguyễn quang Hải, Vũ công Hoạch, Bùi xuân Khiển, Phan anh Việt, Dương văn Tước … cũng được thăng quân hàm trước niên hạn một vài lần.

Chắc chắn rằng trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam 50 năm trở lại đây chưa có ai lên cấp, lên chức nhanh như Nguyễn chí Vịnh, Phạm ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, kể cả các anh hùng đánh đông dẹo bắc, lập nhiều chiến công lớn,các bộ trưởng, thứ trưởng, tổng tham mưu trưởng, chủ nhiệm Tổng cục chính trị … Vậy mà Nguyễn chí Vịnh, Phạm ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, Nguyễn minh Tân, Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn tiến Bắc, Nguyễn quang Dũng, Vũ công Hoạch, Bùi xuân Khiển, Nguyễn quang Hải, Nguyễn trọng Hải, Đặng văn Đồng … là những Phù Đổng Thiên Vương trong tình báo, những thiên tài tình báo bẩm sinh hay tình báo là lĩnh vực quá dễ dàng, không cần học tập, rèn luyện nhiều, không cần năng khiếu vẫn có thể làm tốt ?

Có nhiều kẻ từng bộc lộ lưu manh về kinh tế, chính trị, sinh hoạt, từng không hoàn thành nhiệm vụ thể hiện sự yếu kém về năng lực hoặc vi phạm tiêu chuẩn của đảng viên, cấp ủy viên song vẫn được bao che, trọng dụng. Ví dụ:

1. Nguyễn trung Hòa từng bị kết án hình sự song vẫn được thu nhận vào Tổng cục II, Năm 2003 được bổ nhiệm phó trưởng phòng A khi mới là đại úy, chưa qua đào tạo đầy đủ về điệp báo (trong khi phòng A là phòng tham mưu điệp báo trọng yếu nhất của tổng cục, trực thuộc tổng cục trưởng và tổng cục còn rất nhiều cán bộ cấp thượng tá, đại tá chỉ là trợ lý)

2. Nguyễn trọng Hải năm 2001 là phó trưởng phòng ở Cục 16, nghe tin ở Trường đại học ngoại thương Hà Nội xuất hiện tờ rơi liền ngông nghênh đi xe biển xanh vào trường, lấy tư cách cán bộ tình báo để dậm dọa hiệu trưởng Nguyễn thị Doan, gây xôn xao dư luận, lại có một cơ sở mật làm tình báo nội bộ bị lực lượng an ninh của ta bắt giữ song năm 2002 vẫn được được đề bạt trưởng phòng, năm 2003 lên phó cục trưởng, năm 2008 chuyển sang làm trưởng khoa điệp báo chiến lược bất hợp pháp – Học viện khoa học quân sự tuy trình độ mới chỉ là cử nhân điệp báo;

3. Phan sĩ Minh là phó cục trưởng Cục 11, kiêm trưởng phòng 10 (đảm trách địa bàn Tây Nguyên) của Cục 11, không hoàn thành nhiệm vụ, để cấp trên hai lần bất ngờ trước các vụ động loạn quy mô lớn ở Tây Nguyên, bị kỷ luật song lại được điều ra Hà Nội làm phó chỉ huy trưởng Trung tâm 701 (tương đương phó phó cục trưởng), sau đó vào lại Cục 11 làm phó cục trưởng, mới đây quay ra Hà Nội làm phó cục trưởng Cục 16;

4. Trần quốc Minh năm 2005 có vợ làm ở một doanh nghiệp Nhà nước phạm tội tham ô, đã bị công an ta bắt giữ song vẫn được đưa vào danh sách ầu cử Đảng ủy cục 16, sau đó trúng cử và trở thành ủy viên thường vụ, cuối năm 2008 được bổ nhiệm chính ủy …

Thứ hai là về phẩm chất. Chúng đã và đang bộc lộ rõ ràng, nhiều khi rất công nhiên, trắng trợn, tác phong tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, sự hám danh, hám lợi đến mức bệnh hoạn, lối sống hưởng lạc, xa hoa, lãng phí ghê gớm, không hề mang bản chất của giai cấp công nhân, hoàn toàn trái ngược các tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng, không xứng đáng là người lao động, người công dân lương thiện chứ chưa nói gì đến người đảng viên cộng sản, người quân nhân cách mạng. Đặc điểm này có thể nhận ra ngay trong đời thường, bằng con mắt bình thường : chúng xây dựng công sở, mua sắm trang thiết bị làm việc, sinh hoạt, đi lại cho riêng chúng tiện nghi hơn, hiện đại hơn các cán bộ cấp tương đương và cả cấp cao hơn trong quân đội, chúng bôi nước hoa thơm phức, mặc thường phục sang trọng, dùng điện thoại di động, đeo đồng hồ, giây chuyền … rất đắt tiền, hút thuốc lá, uống rượu hảo hạng; chúng ở trong những ngôi nhà riêng trị giá nhiều chục tỷ đồng; gia đình chúng có mức sống cao gấp hàng trăm, hàng ngàn lần những người mà chúng vẫn gọi là đồng chí, đồng đội, đồng bào …

Chúng đều xuất thân từ gia đình sỹ quan, công chức, công nhân, nông dân, vậy những của cải ấy, chúng lấy ở đâu ra? Chắc chắn rằng chúng chỉ có thể lấy từ công quỹ, tức là lấy tiền của dân của nước.

Tại sao Công ty TOSECO, Phòng 9 – Cục 12, Cục 15 … - những cơ quan, đơn vị từng là “cái nôi.” Đào tạo ra nhiều cán bộ chủ trì, chủ chốt, từng được biết đến như những điển hình tiên tiến xuất nhắc nhất của Tổng cục II đặc biệt là đơn vị có nhiều tiền ngân sách – lại sớm bị giải thể trong khi nhiều cơ quan, đơn vị khác vốn bị coi là èo uột, là yếu kém vẫn giữ được phiên hiệu ? Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi xây dựng, sử dụng các cơ quan, đơn vị này như là công cụ để bòn rút công quỹ, để ngụy tạo công lao, thành tích cho mình, chúng đã tìm cách xóa bỏ để thủ tiêu tang chứng. Nhiều người cho rằng tới đây Trung tâm 701 và Đoàn K3 cũng sẽ bị giải thể như vậy.

Tại sao Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn quang Dũng … từng bỏ những vị trí công tác hoàn toàn phù hợp theo ngành nghề được đào tạo và là “mơ ước.” đối với hầu hết ạn bè cùng học để ra ngoài quân đội rồi sau đó lại nhảy vào quân đội nhưng là làm một chỗ khác, đó là Tổng cục II ? Tại sao ở tuổi 30 – 40, có công ăn việc làm ổn định ở bên ngoài mà Vũ công Hoạch, Nguyễn tiến Bắc … vẫn nhảy vào Tổng cục II ? Bởi vì với chúng, quân đội nói chung, Tổng cục II nói riêng chỉ là mảnh đất màu mỡ để thâm canh, thu hoạch những lợi ích riêng bất chính.

Hiện ở Tổng cục II, đặc biệt là ở Cục 16 có dư luận vừa qua vì chơi chứng khoán mà Đặng trí Dũng mất khoảng 100 tỷ đồng, Trần quốc Minh mất hơn 200 tỷ đồng và một phần lớn số tiền đó là tiền ngân sách, Dư luận này là không phải là không có cơ sở, cần được khẩn trương làm rõ.

Chunhs là lãnh đạo, chỉ huy cấp cao của tình báo song lại phô trương hình thức, hám danh, hám lợi đến bệnh hoạn, bất chấp lẽ phải và dư luận, bất chấp nguyên tắc bí mật của tình báo. Ví dụ:

1. Sau khi Chính phủ ra nghị định 162/2005 “Quy định thi hành pháp lệnh tình báo đối với lực lượng tình báo Việt Nam.” Trong đó ó nội dung cho những người làm tình báo chiến lược ở Tổng cục II – Bộ quốc phòng và Tổng cục V – Bộ công an hưởng phụ cấp đặc biệt từ 15 đến 20% lương chính, Tổng cục V đã mau chóng triển khai thực hiện theo hướng cấp chức càng thấp, mức phụ cấp càng cao, Tổng cục II thì bàn đi tính lại mãi mới triển khai theo hướng ngược lại.

2. Trước đây, kỷ niệm chương của Tổng cục II chỉ có một loại, dành tặng người công tác trong ngành trên 10 năm, hoàn thành tốt nhiệm vụ song năm 2007, Tổng cục II lại đưa ra kỷ niệm chương mới gồm 2 loại – loại màu vàng để tặng chỉ huy Tổng cục, chỉ huy các đầu mối trực thuộc Tổng cục, cán bộ là tiến sỹ, thạc sỹ tình báo và chính trị, loại màu trắng để tặng chỉ huy các đầu mối dưới một cấp và các cử nhân tình báo; sau đó, do trong Tổng cục có nhiều dư luận phản đối, Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã đổi tên gọi “kỷ niệm chương.” Thành “phù hiệu.”, thay đổi chút tiêu chuẩn cấp phát và kết quả hiện nay có rất nhiều người mặc quân phục, đeo “ phù hiệu.” có chữ “TBQP – GDDI ” ( viết tắt chữ “tình báo quốc phòng.” Bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tham gia giao thông, xuất hiện ở những nơi công cộng .

3. Chúng đã vận động được Bộ giáo dục – đào tạo mà cụ thể là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân chấp nhận đặc cách cho Tổng cục II trong việc xét phong học hàm, học vị, chúng đang ráo riết tổ chức xây dựng hồ sơ đề nghị xét phong (trong đó có nhiều yếu tố chắc chắn là giả mạo) và rất có thể tới đây sẽ có hàng loạt lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và lãnh đạo, chỉ huy các đầu mối trực thuộc Tổng cục II được đặc cách phong học hàm, học vị, mặc dù từ trước tới nay không hê làm coongtacs nghiên cứu, giảng dạy, không đáp ứng được tiêu chuẩn chung nhất của học hàm, học vị (ví dụ về trình độ ngoại ngữ, về số lượng công trình, đề tài nghiên cứu khoa học đã làm chủ nhiệm hoặc thành viên), học hàm, học vị đó thì hoàn toàn mang tính hình thức, không hề cần thiết cho công việc.

4. Đầu năm 2008, chúng kéo một đoàn ra Trường Sa “làm việc.” và cắt của cán bộ, công nhân viên trong Tổng cục một ngày lương, nói là để ủng hộ Trường Sa; “làm việc.” về, các thành viên trong đoàn đều được khen thưởng đột xuất.

5. Trên mặt tiền trụ sở Tổng cục II ở đường Phạm Hùng – huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội, Chúng gắn hàng chữ “Tổng cục tình báo.” Rất to, khiến nhiều người đi đường trông thấy phải tò mò, chỉ trỏ (trong khi bề ngoài Tổng cục II – Bộ công an ở đường Nguyễn văn Huyên – quận Cầu Giấy không hề có dấu hiệu nào cho thấy đó là cơ quan tình báo).

Trong mươi năm trở lại đây, Nguyễn chí Vịnh và phe lũ hô hào “giảm bộc lộ, tăng thực lực.”, thậm chí còn khẳng định bằng nghị quyết Đại hội đảng bộ tổng cục và nhiều văn bản quan trọng khác rằng đây là phương châm đầu tiên trong bốn phương châm của Tổng cục II, song trên thực tế sự phô trương, hình thức, hám danh, hám lợi của chúng khiến Tổng cụcII bộc lộ hơn bao giờ hết về tất cả các mặt. Sự bộc lộ ấy là một trong những nguyên nhân chính khiến thời gian qua đã có tới hàng trăm tổ chức và cá nhân giả danh, giả dạng là thuộc Tổng cục II để thực hiện các hành vi lừa đảo (trong khi với Tổng cục V – Bộ công an, tình trạng này rất hiếm gặp).

Nếu những năm qua Đảng ủy quân sự trung ương và bộ trưởng Bộ quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo Tổng cục II nghiêm túc, chặt chẽ, trước hết là hai vấn đề chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hiệu quả sử dụng lực lượng, phương tiện, tài chính thì chắc chắn những mạng lưới của cái xấu ở Tổng cục II không thể hình thành và lây lan sâu rộng đến như vậy.

NHỮNG CÁN BỘ TỐT MAU CHÓNG BỊ VÔ HIỆU HÓA BỊ TRIỆT TIÊU, THẬM CHÍ BỊ NHUỘM ĐEN …

Tổng cục II vốn có không ít người tốt, được cán bộ, đảng viên, quần chúng tín nhiệm song họ đã bị Nguyễn chí Vịnh và phe lũ vô hiệu hóa, triệt tiêu, thậm chí “nhuộm đen.” Một cách mau chóng bằng nhiều thủ đoạn thâm độc. Ở đây chỉ nêu ra một vài thủ đoạn chính của chúng.

Một là tách khỏi công việc, tách khỏi các mối quan hệ, đẩy vào vị trí không phù hợp sở trường, đẩy về hưu, dùng lợi ích của cá nhân, gia đình để mua chuộc, khống chế, dùng khuyết điểm đã mắc phải để đe nẹt. Ví dụ :

1. Với đại tá Đào văn Phê (nguyên trưởng phòng cán bộ) năm 1999 chúng đưa đi làm phó cục trưởng về chính trị của Cục 25, năm 2000 đẩy về là phó chỉ huy trưởng Trung tâm nghiên cứu khoa học tình báo thuộc học viện khoa học quân sự, tới năm 2004, khi trung tâm này nâng thành Viện 501 trực thuộc Tổng cục thì chúng đẩy xuống làm trợ lý nghiên cứu;

2. Với đại tá Nguyễn ngọc Liên (nguyên trưởng phòng cán bộ); năm 2000 chúng đưa đi làm phó cục trưởng về chính trị ở Cục 16, năm 2003 rút lên làm phó chủ nhiệm chính trị Tổng cục, vài tháng sau lại đẩy ra làm cán bộ biệt phái ở Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương.

3. Với đại tá Trần đình Lý (nguyên phó Viện trưởng Viện 70); năm 2000 chúng đẩy ra làm cán bộ biệt phái ở Cơ quan A47 trung ương, Nưm 2007,vì cơ quan này giải thể nên chúng phải rút về Viện 70 xếp làm trưởng phòng.

4. Với thiếu tướng Đào quang Cát (nguyên phó bí thư Đang ủy, phó tổng cục trưởng về chính trị), thiếu tướng Trần tiến Cung (nguyên phó tổng cục trưởng), trung tướng Lê hải Anh (nguyên phó tổng cục trưởng) và một số cán bộ chủ trì, chủ chốt đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu khác; chúng dùng các thủ đoạn như tung tin xấu hoặc lật lại sai phạm về đất đai để hạ uy tín, bịt miệng …

Với những người giữ vị trí chủ trì, chủ chốt trong Tổng cục II nhưng không cùng phe cánh với chúng, chúng cũng áp dụng thủ đoạn tương tự.

Ví dụ:

1. Với thiếu tướng Nguyễn hồng Thanh (nguyên phó bí thư Đảng ủy, phó tổng cục trưởng về chính trị) chúng đẩy ra khỏi Ban thường vụ đảng ủy ngay giữa nhiệm kỳ, để làm phó tổng cục trưởng “ngồi chơi xơi nước.” rồi nghỉ hưu;

2. Với thiếu tướng Lê hoài Thanh (nguyên đảng ủy viên, phó tổng cục trưởng) chúng ép về nghỉ trước tuổi,

3. Với thiếu tướng Nguyễn phú Lợi (nay là trung tướng, nguyên giám đốc Học viện quân sự); chúng đẩy ra làm phó giám đốc Học viện quốc phòng

4. Với thiếu tướng Phạm thanh Lân (nay là trung tướng,nguyên bí thư Đảng ủy, cục trưởng Cục 25); chúng đẩy ra làm cục trưởng Cục đối ngoại – Bộ quốc phòng.

5. Với đại tá Vũ quang Miện (nguyên bí thư Đảng ủy, cục trưởng Cục 11), chúng điều đi làm cục trưởng Cục 71, làm tham mưu trưởng Tổng cục rồi ép về nghỉ hưu trước tuổi;

6. Với đại tá Đặng thành Tiên (nguyên đảng ủy viên Tổng cục, bí thư Đảng ủy,cục trưởng cục 16); chúng điều đi làm giám đốc Học viện khoa học quân sự.

7. Với đại tá Trần đình Chiến (nguyên ủy viên thường vụ Đảng ủy, phó cục trưởng Cục 16), chúng điều đi làm viện trưởng Viện 26thuộc Cục 25 rồi đẩy xuống làm trợ lý;

8. Với đại tá Nguyễn văn Dương (nguyên phó bí thư Đảng ủy, phó cục trưởng về chính trị Cục 16); chúng điều đi làm chủ nhiệm chính trị rồi làm trưởng khoa ở Học viện khoa học quân sự. 9 – Với đại tá Đinh văn Tiếp (nguyên phó giám đốc Học viện khoa học quân sự), chúng đẩy xuống làm hiệu trưởng Trường phổ thông bán công Trần quốc Tuấn rồi đẩy tiếp xuống làm trợ lý; 10 – Với đại tá Chu ngọc Nho (nguyên đảng ủy viên,phó giám đốc Học viện khoa học quân sự)chúng đẩy đi làm tùy viên quân sự ở Trung quốc …

Chúng áp dụng được thủ đoạn trên vì tình báo có những tính chất chuyên biệt (ví dụ: đòi hỏi cao về sự bí mật, cự ly, đơn tuyến; công việc rất chuyên sâu; điệp viên, tình báo viên cũng có thể phong hàm thiếu tướng), vì đa số cán bộ trung cấp, cao cấp của Tổng cục II, có người thân, thậm chí có nhiều người thân làm việc trong tổng cục vì nhiều vị lãng đạo cấp cao của quân đội, Đảng,Nhà nước đã bị chúng tiếp cận, lừa mị, tranh thủ, lợi dụng, bản thân chúng thì nắm trong tay rất nhiều “bổng lộc.” để đem ra ban phát, mặc cả (đất đai, nhà cửa, công ăn việc làm cho người thân của cán bộ, cấp bậc chức vụ, vị trí công tác ở nước ngoài, khả năng kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ cho cán bộ) …

Hai là mượn danh cấp trên để hù dọa. Chúng xuyên tạc văn bản, phát ngôn của cấp trên để khiến mọi người hiểu rằng Tổng cục II được làm tình báo nội bộ, nội địa, được cấp trên tin tưởng tuyệt đối, bản thân chúng thì rất được cấp trên tin cậy, trọng dụng, coi là chỗ dựa. Những nội dung bất lợi cho chúng trong các văn bản, phát ngôn của cấp trên thì chúng lờ đi, không phổ biến, quán triệt. Chúng mời bằng được tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng Bộ quốc phòng … tới thăm Tổng cục II, và sau mỗi chuyến thăm ấy,chúng lại tuyên truyền rầm rộ, trên diện rộng về sự “tin tưởng”, “ưu ái”, “đánh giá cao” mà lãnh cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước (đặc biệt là hai vị Nông đức Mạnh, Phạm văn Trà) tới thăm ngành, tới làm việc với lãnh đạo, chỉ huy của ngành tăng một cách bất thường. Những năm gần đây, ở Tổng cục II có một nghịch lý là cứ mỗi lần lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước tới thăm và làm việc với Tổng cục thì nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng lại càng thêm buồn bã, chán nản.

Gần đây, có bốn sự việc khiến nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng ở Tổng cục II:

1. Năm 2006, Đại hội đại biểu đảng bộ quân đội đã ra nghị quyết trong đó có chỉ rõ cả yếu kém, khuyết điểm đầu tiên lẫn bài học kinh nghiệm đầu tiên của Đảng bộ quân đội nhiệm kỳ 2001-2006 là công tác nắm và đánh giá tình hình;

2. Cuối tháng 4-2008, chủ tịch nước Nguyễn minh Triết và thủ tướng Chính phủ Nguyễn tấn Dũng không tới dự lễ trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Tổng cục II;

3. Cuối tháng 5-2008, chủ tịch nước Nguyễn minh Triết và bộ trưởng quốc phòng Phùng quang Thanh tới làm việc trong diện hẹp với lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II nhưng trước, trong và sau chuyến thăm, Nguyễn chí Vịnh và phe lũ không hề có hoạt động tuyên truyền, cổ động nào (điều này trái hẳn với thông lệ);

4. Tháng 9-2008, hàng chục cán bộ quân đội có chức vụ thấp hơn hoặc tương đương được thăng quân hàm thiếu tướng, trung tướng, cục trưởng Cục 25-Tổng cục II Đỗ văn Nghị cũng được thăng quân hàm thiếu tướng vậy mà ở Tổng cục II, phó chính ủy Trần việt Thắng, phó tổng cục trưởng Nguyễn minh Tân đều không được thăng quân hàm thiếu tướng, phó tổng cục trưởng Lưu đức Huy thì chỉ được bổ nhiệm chính ủy Tổng cục mà không được thăng quân hàm trung tướng. Người ta tự hỏi phải chăng lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước đã phần nào nhận ra bản chất, thủ đoạn xấu xa của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ, phần nào thấy được tình trạng yếu kém, khủng hoảng của Tổng cục II. Sau đó người ta lại băn khoăn là nếu đúng như thế thì sao lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước không khẩn trương làm rõ bản chất thủ đoạn xấu xa ấy và có biện pháp xử lý phù hợp.

Ngu hóa cán bộ một cách có hệ thống

Tình báo là một trong những hoạt động mang tính xã hội xuất hiện sớm nhất, hiện nay đã đạt tới trình độ rất cao. Tài liệu nghiên cứu, tham khảo về tổ chức và hoạt động tình báo Việt Nam (đặc biệt tình báo cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản) và tình báo các nước rất phong phú, thậm chí còn có thể nói rằng không có nghề nào mà việc làm nghề được sách báo, phim ảnh mô tả nhiều như nghề tình báo song Nguyễn chí Vịnh và phe lũ không nghiêm túc nghiên cứu để kế thừa, phát huy, phát triển, vận dụng mà tự “sáng tạo.” ra thêm một số phương châm, phương thức, hình thức tổ chức sử dụng lực lượng, cách làm … không phù hợp, thậm chí còn cản trở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tình báo và bắt mọi người phải thừa nhận, phải chạy theo để rồi bị mắc kẹt giữa một mớ bòng bong cả về lý luận lẫn về thực tiễn. Ví dụ: Chức năng “tham mưu chiến lược” của tình báo, phương châm “dựa vào dân mà tìm địch”, quan niệm “địa bàn trong nước là chủ yếu”, “địa bàn trong nước là quan trọng, sống còn”, các khái niệm “tình báo hành động”, “cán bộ mật”, “cán bộ hoạt động”, “tổ trưởng điệp báo địa bàn”, “cứ điểm” và “cứ điểm trưởng” của điệp báo chiến lược bất hợp pháp, “quan hệ liên minh đặc biệt” của điệp báo chiến lược bất hợp pháp hướng X …

Chúng bố trí những người chưa thật sự kinh qua thực tế tổ chức và hoạt động hoặc vốn không làm được việc, vi phạm khuyết điểm ở đơn vị làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tình báo, đặc biệt trên lĩnh vực điệp báo chiến lược bất hợp pháp. Chúng tổ chức hoạt động tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận rất rầm rộ, tốn kém, huy động sự tham gia của hàng ngàn người song về cơ bản là mang tính hình thức. Vì vậy, sản phẩm của quá trình nghiên cứu, giảng dạy tình báo ngày càng suy giảm chất lượng. Hồ chí Minh đã dạy từ tháng 8-1949: “tình báo là một khoa học.” song đến nay, chỉ cần xem qua tên gọi, mục lục các luận án tiến sĩ, thạc sĩ tình báo, các giáo trình đào tạo cử nhân tình báo, các công trình, đề tài tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học của Tổng cục II cũng có thể thấy trình độ tri thức khoa học của Tổng cục II chẳng những ở trình độ rất thấp mà còn sai lầm, chệch hướng rất nghiêm trọng.

Có lẽ vì thế mà thời gian vừa qua lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II quy chụp chuyên đề “Xác định rõ đối tượng tình báo, nhận thức đầy đủ bản chất chủ yếu của đối tượng tình báo, tập trung nhằm vào các đối tượng tình báo chủ yếu, các mục tiêu tình báo quan trọng”, (phục vụ đề tài “Tổng kết điệp báo chiến lược bất hợp pháp của tình báo quốc phòng Việt Nam” Của Tổng cục II do chính Nguyễn chí Vịnh làm chủ Nhiệm) là chệch hướng, sai trái, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, chống Đảng, chống quân đội, chống Tổng cục II song lại giấu biệt chuyên đề này đi, không đưa toàn văn ra để các hội đồng khoa học, các tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền, tổ chức quần chúng … nghiên cứu, làm rõ phải trái, đúng sai.

Việc Nguyễn chí Vịnh và phe lũ tác oai, tác quái hàng chục năm qua mà không hề bị vạch mặt, chỉ tên, đấu tranh, ngăn chặn một cách thật sự từ nội bộ Tổng cục II cho phép khẳng định tất cả cán bộ, công nhân viên của Tổng cục II hiện nay không đủ năng lực và phẩm chất, thậm chí còn cho phép khẳng định cán bộ của Tổng cục II càng có cấp chức cao thì càng không đáng tin cậy, trước hết là về chính trị. Nếu có đủ năng lực, họ đã phát hiện ra bản chất và thủ đoạn xấu xa của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ. Nếu có đủ cả phẩm chất, họ sẽ đứng ra đấu tranh, ngăn chặn chúng ngay ở nội bộ, sẽ tố cáo chúng với cấp trên mà không nề hà nguy hiểm. Đáng buồn là động cơ cá nhân đã làm mờ đi, thậm chí làm thui chột tính chiến đấu, tính nguyên tắc của người cộng sản, đã khiến mấy ngàn cán bộ, công nhân viên của Tổng cục II co lại để tư lợi. Một vài người có đơn thư gửi cấp trên thì nội dung cũng chỉ xuất phát từ, chỉ liên quan đến quyền loqị cá nhân, những sự vụ vụn vặt nên không thu hút được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong tổng cục, không thuyết phục, giúp đỡ được cấp trên.

CUỒNG VỌNG NGUY HIỂM VÀ HỆ LỤYNGHIÊM TRỌNG

Từ bấy dến nay, đặc biệt là trước các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, trong Tổng cục II thường rộ lên dư luận về sự “phát triển” của Nguyễn chí Vịnh, nào là tạm đi Quân khu 4, Quân khu 7 làm tư lệnh, phó tư lệnh về chính trị, nào là sang Tổng cục chính trị làm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, nào là lên bộ làm thứ trưởng, nào là ra Bộ công an làm bộ trưởng, thứ trưởng, nào là vào trung ương, vào Bộ chính trị, là nguồn tổng bí thư … Nguyễn chí Vịnh và phe lũ mong ngóng điều đó vì như vậy, tất cả chúng càng có cơ “phát triển”. Rất may là tớ nay điều đó chưa xảy ra !

Ở Tổng cục II, một số người ít hiểu biết về thuật phong thủy cho rằng việc tại trụ sở mới của Tổng cục ở đường Phạm Hùng – huyện Từ Liêm – thành phố Hà Nội, án ngữ ngay cổng chính là một trụ đá chống trời còn tượng đài Hồ chí Minh với chiến sĩ tình báo thì bị đẩy sang trái, ở trước nhà nghỉ, ở bên hông nhà ăn cho thấy một cách đầy đủ, rõ ràng cuồng vọng của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ. Nếu để ý rằng ở các công sở như Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ chí Minh, Học viện chính trị và hành chính quốc gia Hồ chí Minh, Học viện quốc phòng, Học viện hậu cần, tượng đài Bác đều được đặt ngay trước mặt tòa nhà chính, tại vị trí trang trọng nhất, thoáng đãng nhất thì sẽ thấy ý kiến trên không phả là không có cơ sở.

Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã lèo lá hầu hết lực lượng, phương tiện của Tổng cục II làm sai chức năng, nhiệm vụ tập trung vào làm tình báo nội bộ, nội địa, thực chất là làm an ninh, phản gián.

Muốn lập “công.” Lớn, muốn lưu danh sử sách nhưng biết mình không đủ sức nhằm vào các mục tiêu tình báo quan trọng của các đố tượng tnhf báo chủ yếu như Mỹ, Trung quốc, Thái Lan, chúng lại quay ra nhằm cắn vào các thàng tố trong hệ thống chính trị ở nước ta, trực tiếp gây nên tình trạng nghi lỵ, chia rẽ, rối ren. Chúng đã hù dọa cấp trên là “các phần tử cơ hội, hữu khuynh rất đa dạng: trẻ - già, đương chức, nghỉ hưu, sơ, trung-cấp cao, lộ mặt-giấu mặt … Chúng có hầu hết khắp các địa bàn, các cấp, các ngành, các giới… Mối quan hệ giữa chúng rất chằng chịt, tinh vi, khó nhận biết. Có dấu hiệu nhiều kẻ còn chìm rất sâu, không ít kẻ hiện đang nắm cương vị rất cao trong hệ thống chính trị, có kẻ bị tình báo nước ngoài (chủ yếu là CIA) câu móc mua chuộc, khống chế. Tìm ra đủ yếu tố để vạch mặt, chỉ tên từng đối tượng là nhiệm vụ cực kỳ cấp thiết nhưng cũng rất khó khăn của tình báo”, đã thu nhập, tạo dựng thông tin về hàng ngàn cán bộ quân – dân – chính đảng, trong đó có hàng trăm người từ cấp ủy viên trung ương trở lên như Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh Cầm, Lê văn Châu, Võ văn Cường, Phan Diễn, Phạm thế Duyệt, Lê văn Dỹ, Huỳnh Đảm, Trần đinh Đằng, Trần bạch Đằng, Nguyễn khoa Điềm, Lê tự Đồng, Võ nguyên Giáp, Vũ hoàng Hà, Lê thanh Hải, Hoàng trung Hải, Trần Hòa, Vũ quốc Hùng, Võ đức Huy, Trần quốc Hương, Nguyễn văn Hưởng, Phan văn Khải, Phạm gia Khiêm, Vũ Khoan, Võ văn Kiệt, Phan như Lâm, Nguyễn đình Lộc, Hồ xuân Mãn, Vũ Mão, Chu huy Mân, Nguyễn ánh Minh, Mai văn Năm, Nguyễn thị kim Ngân, Hồ Nghinh, Trần minh Ngọc, Lê khả Phiêu, Ksor Phước, Nguyễn phong Quang, Nguyễn Quyết, Trương tấn Sang, Lê hoàng Quân, Trần trọng Tân, Nguyễn bá Thanh Nguyễn phúc Thanh, Võ viết Thanh, Đoàn duy Thành, Nguyễn văn Thuận, Ngô yên Thy, Nguyễn khánh Toàn, Ma thanh Toàn, Phan văn Trang, Nguyễn ngọc Trừu, Trần văn Truyền, Nguyễn văn Tự, Nguyễn Ty, Lê danh Xương, song thử hỏi hàng mấy chục năm qua chúng đã vạch trần được bao nhiêu tên cơ hội, hữu khuynh? Chúng dựng lên hồ sơ về nhóm T4 (Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu, Trần trọng Tân, Trần văn Tạo) có âm mưu đưa miền Nam ly khai thành một nước với lá cờ nền vàng sao đỏ, chúng đi đầu trong việc quy kết Sơn Tùng và nhóm Chiếu ngõ văn, Ngô Thức và nhóm Dịch học … là cơ hội, cấp tiến hữu khuynh, phản động, là người của địch khiến nhiều điểm chưa đồng thuận ở nội bộ, nội địa đáng ra có thể trao đổi để đi tới đồng thuận, nhất trí trên cơ sở lợi ích chung của dân tộc, của cách mạng cabgf trở nên bất đồng hơn, thậm chí còn đi tới đối kháng. Chúng thu thập, báo cáo nhiều tin xấu về hàng loạt trí thức có tên tuổi như Nguyễn đình Đầu, Tương Lai, Trần du Lịch, Nguyễn ngọc Trân song về cơ bản những tin đó đều không xác thực. Cả Việt kiều về nước làm ăn như Charles Đức, Đinh hữu Đức, Nguyễn ngọc Mỹ, Hà tôn Vinh, công dân Việt Nam ra nước ngoài làm ăn như Nguyễn chí Dũng, Nguyễn cảnh Sơn, Nguyễn nhật Tiến, Võ nguyên Tuệ, Phạm nhật Vượng lẫn công dân Việt Nam làn ở trong nước như Trương gia Bình, Huỳnh phi Dũng, Mai kiều Liên đều bị chúng nghi ngờ, theo dõi quy chụp thử hỏi chúng đã chứng minh được ai trong số đó là phản bội, phản động, là người của tình báo Mỹ ? Đi vào nội bộ bạn Lào, bạn Campuchia thì chúng cũng nghi ngờ theo dõi quy chụp hàng loạt các vị lãnh đạo cấp cao như Nu-hắc Phum-xa-vẳn, Ô-sa-Căn Thăm-mạ-thê-va, Xổm-xà-vạt Lềnh-xạ-vắt, Thoong-xing Thăm mạ vông(của Lào), Hun Sen, Chia Sim Sô Khênh (của Campuchia)là thân Mỹ, thân Trung Quốc, thân Thái Lan, chống Việt Nam song thử hỏi điều đó có bao nhiêu phần trăm là sự thật ?

Dường như ai không ủng hộ Nguyễn chí Vịnh và phe lũ thì đều bị bọn chúng quy chụp là địch, là người của tình báo Mỹ, đều bị chúng vu cáo,bôi nhọ,lật đổ. Chúng vừa hô hào “bảo vệ tổng bí thư là bảo vệ Đảng.” vừa tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn –nkể cả những cách, những thủ đoạn xấu xa nhất, bỉ ổi nhất – để đánh thẳng vào tổng bí thư Lê khả Phiêu, chống lại việc tổng bí thư Lê khả Phiêu tái cử. Chúng bảo “lật án.” Là đòn nham hiểm bậc nhát mà thế lực thù địch do Mỹ đứng đầu nhằm vào cách mạng nước ta song với các hành động nhằm vào Nguyễn mạnh Cầm, Phan Diễn, Trần bạch Đằng, Võ nguyên Giáp, Lê khả Phiêu, Trương tấn Sang, Trần trọng Tân, Võ viết Thanh, Võ thị Thắng… thì chúng xứng đáng là bậc thầy về “lật án.”. Chúng chính là kẻ phất cao cờ đỏ để chống lại cờ đỏ.

Nhiều người ở Tổng cục II rất lo ngại khi thấy giữa thời bình, khả năng xảy ra chiến tranh đã được Đảng nhận định qua mấy kỳ đại hội là không có mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ lại xây dựng lực lượng trinh sát bộ đội nằm trong đội hình Cục quân báo rồi Cục tình báo vốn chỉ ở cấp tiểu đoàn thời chống Pháp, chống Mỹ, cấp trung đoàn thời chiến tranh hai đầu biên giới phía Bắc và phía Tây Nam lên thành 3 đoàn “tình báo hành động.” là K3,74,94 cả ba đều có quy mô cấp lữ đoàn (đoàn trưởng được thăng quân hàm tới đại tá), đề do tay chân thân tín nhất của Nguyễn chí Vịnh nắm, đều đóng ở các đô thị lớn bậc nhất của đất nước, đều triển khai nhiều hoạt động điệp báo và đều được trang bị các vũ khí, trang thiết bị đặc chủng, trong đó có mấy chục xe thiết giáp.

Họ tự hỏi: “Tình báo hành động.” thực chất là gì? Tại sao các đoàn “tình báo hành động” đó lại quy mô lớn như vậy trong khi quy mô lực lượng trinh sát bộ đội của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng chỉ ở cấp tiểu đoàn? Chúng nhằm vào đối tượng tác chiến nào? Rõ ràng lo ngại của họ không phải là vô cớ.

Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã tìm mọi cách tiếp cận, tranh thủ, lợi dụng lãnh đạo cao nhất của quân đội,Đảng, Nhà nước. Chúng hiểu rõ đó là cách có hiệu quả cao nhất để nhảy vọt, đi tắt, đón đầu, đốt cháy giai đoạn trong việc thăng quan – phát tài của chúng. Hiện trong Tổng cục II có nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã rất thành ccông đối với tổng bí thư Nông đức Mạnh, nguyên cố vấn ban chấp hành trung ương đảng Lê đức Anh, nguyên bộ trửng Bộ quốc phòng Phạm văn Trà, chủ nhiệm Tổng cục chính trị Lê văn Dũng, thứ trưởng Bộ quốc phòng Nguyễn huy Hiệu, đã sử dụng được năm vị này làm chỗ dựa, làm cái ô che chủ yếu cho các việc làm phi nghĩa, phi pháp của chúng. Người ta suy giảm niềm tin vào lãnh đạo cấp cao của Quân đội, Đảng, Nhà nước và nêu ra nhiều nghi vấn, thắc mắc. Ví dụ:

1. Để làm công tác tham mưu tác chiến cần nắm được ba nội dung là tình hình địch, tình hình ta và điều kiện chiến trường, trong đó tình hình địch luôn được nói tới đầu tiên trong các kế hoạch tác chiến, quyết tâm chiến đấu của người chỉ huy quân sự các cấp, vậy thì tại sao lại đưa Cục tình báo ra khỏi Bộ tổng tham mưu, nâg nó lên thành Tổng cục tình báo và duy trì mãi hình thức tổ chức này bất chấp sự phản đối từ nhiều cán bộ cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước, cả đương chức lẫn đã nghỉ hưu ? Không có tình báo, không trực tiếp chỉ huy tình báo liệu Bộ tổng tham mưu và tổng tham mưu trưởng. có còn bao hàm đầy đủ ý nghĩa như tên gọi ? (lưu ý rằng dự thảo tổng kết 50 năm công tác tham mưu chiến lược của Bộ tổng tham mưu cũng ghi rõ rằng Bộ tổng tham mưu đã sai lầm khi đồng ý cho Cục tình báo tách ra khỏi Bộ tổng tham mưu);

2. Công tác cán bộ trong quân đội vốn rất chặt chẽ vì yêu cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghiệp vụ … đối với cán bộ là cao, chức vụ và cấp bậc luôn gắn liền với nhau, cấp bậc thì có niên hạn và tất cả đã được luật hóa, vậy nhờ ai mà những kẻ có nhiều tỳ vết, yếu kém cả về phẩm chất lẫn về năng lực như Nguyễn chí Vịnh, Phạm ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, Nguyễn minh Tân, Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn quang Dũng, Nguyễn trọng Hải, Nguyễn quang Hải, Đặng văn Đồng, Nguyễn tiến Bắc lại thăng quan tiến chức nhanh như thế ?

3. Tại sao năm 2001 Phạm văn Trà lại ký nghị quyết 182 của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương, cho phép Tổng cục II một cơ quan trực thuộc Đảng ủy quân sự trung ương và bộ trưởng Bộ quốc phòng – trực tiếp báo cáo tin tức với tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ thay vì để Đảng ủy quân sự trung ương hoặc bộ trưởng Bộ quốc phòng báo cáo? Trong số các cơ quan cấp tương đương Tổng cục II của Bộ quốc phòng và Bộ công an có cơ quan nào được phép báo cáo như vậy không?

4. Tại sao năm 2006 Phạm văn Trà lại ký văn bản cho phép tổng cục trưởng Tổng cục II – một người không phải là ủy viên trung ương, ủy viên Đảng ủy quân sự trung ương ký quyết định thăng quân hàm cho cán bộ tới cấp trung tá trong khi tư lệnh các quân khu, quân chủng (đa phần là ủy viên trung ương, ủyviên Đảng ủy quân sự trung ương) lúc đó chỉ được ký quyết định thăng quân hàm cho cán bộ tới cấp thiếu tá ?

5. Tại sao 10 -15 năm qua đã để xẩy ra các vụ việc rất nghiêm trọng như vụ T4, vụ A10,vụ Sáu Sứ đã để cấp trên hai lần bất ngờ trước các hành động gây rối quy mô lớn ở Tây Nguyên, bất ngờ trước vụ Lý Tống,bất ngờ trước nhiều sự kiện quan trọng ở các nước, đã có nhiều cán bộ chủ trì, chủ chốt bị kỷ luật thậm chí bị đưa ra xét sử đã không lám tốt nhiệm vụ lắm âm mưu thủ đoạn các đối tượng tình báo, mục tiêu tình báo đối với dân tộc ta, cách mạng nước ta hầu như đã không có thêm cá nhân nào lập chiến công mới được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà tháng 4-2008 Tổng cục II vẫn được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân? Suy cho cùng thì danh hiệu ấy cần cho ai? Lưu ý rằng với tình báo đặc biệt là với điệp báo do sự ci phối của yêu cầu cự li, đơn tuyến trong tổ chức hoạt động mà số cá nhân Anh hùng luôn nhiều hơn hẳn số tập thể Anh hùng và cả thời chống Pháp, thời chống Mỹ lẫn thới chiến tranh hai đầu biên giới ngành tình báo quân sự đều chưa được phong tặng danh hiệu Anh hùng tuy đã có hàng chục đơn vị Anh hùng, hàng trăm cá nhân Anh hùng. Cũng cần nói thêm là trong tổng cục II đang có dư luận rằng vừa qua Nguyễn Chí Vịnh và phe lũ đã bỏ rất nhiều tiền để “chạy Anh hùng”

Trong thời gian qua tác giả của bài viết này đã gửi 5 lá đơn tơi Đảng ủy quân sự trung ương,thủ trưởng bộ Quốc Phòng thậm chí với cả Uỷ ban kiểm tra trung ương, kiến nghị những vấn đề không chỉ trực tiếp liên quan danh dự,sinh mệnh chính trị và sự an toàn của mình – một cán bộ trung cấp của Quân đội, cua Đảng – mà còn trực tiếp liên quan chất lượng chính trị,chất lượng nghiệp vụ khả năng hoàn thành chức năng,nhệm vụ của tổng cục II – một cơ quan cơ mật trọng yếu của Quân đội,của Đảng, của Nhà nước, liên quan viêc chấp hành nguyên tắc tổ chức, hoạt động của quân đội,của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng ủy quân sự trung ương, thủ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy ban kiểm tra trung ương, thủ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy ban kiểm tra tra trung ương đã chậm trễ, hời hợt trong việc xem xét, giải quyết, ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự trung ương Lê văn Dũng còn ký, một văn bản gửi Ủy ban kiểm tra trung ương – Đảng ủy quân sự trung ương thì không trực tiếp gặp gỡ, lấy ý kiến của các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền cấp cơ sở nơi tác giả bài viết này công tác và ý kiến của cán bộ có nhiều năm công tác trong ngành tình báo quân sự, đặc biệt là các cán bộ do tác giả bài viết này giới thiệu theo đề nghị của chính Tổ công tác mà còn gợi ý lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và tác giả bài viết này cùng kết thúc vụ việc … Việc này cùng với những việc đã nêu ở trên cho thấy rất rõ rằng Nguyễn chí Vịnh và phe lũ thật sự là những mầm bệnh vô cùng nguy hiểm, chẳng những làm hư hỏng hết cơ quan tình báo chiến lược về quân sự - tai mắt của quân đọi, của Đảng, của Nhà nước, nếu không mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ thì hậu quả thật khôn lường.

Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã phớt lờ, bẻ cong nhiều nguyên tắc, yêu cầu, quy chế, quy định … của quân đội, Đảng, Nhà mước và bản thân tình báo.

Các văn bản có tính pháp quy của quân đội, Đảng, Nhà nước đều xác định Cục tình báo – Bộ tổng tham mưu trước kia, Tổng cục II – Bộ quốc phòng hiện nay là “cơ quan tình báo quân sự.”, “Lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng.”, ấyvậy chúng lại công khai gọi Tổng cục II là Tổng cục tình báo quốc phòng, lại mổ xẻ khái niệm “quốc phòng.”. Theo ý chúng để xây dựng tổ chức, triển khai hoạt động trên mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nội địa, nội bộ và các lĩnh vực có thể nói là không gắn gì với công tác quân sự, quốc phòng. Chúng lừa dối cấp trên, gửi lên nhiều “tin tình báo.” Không rõ nguồn tin, trường hợp thu tin, không khẳng định được độ xác thực của nội dung thông tin, trong đó chiếm tỷ lệ lớn nhất và cũng gây tác hại nhất là tin về nội bộ. Tin có nội dung xấu về người này thì chúng gửi cho người khác, gây nên sự nghi kỵ, chia rẽ, rối ren. Rất nhiều thông tin là do chúng thêm thắt, ngụy tạo nhằm vu cáo, bôi nhọ, lật đổ. Thậm chí chúng còn trực tiếp hoặc gián tiếp (sử đụng những “cộng tác viên”kiểu như Đặng đình Loan) phát tán ra diện rộng một số thông tin loại này, chẳng hạn thông tin về Võ nguyên Giap, về Nguyễn nam Khánh. Năm 2001, trước Đại hội IX của Đảng, bị tố cáo là làm tình báo nội bộ sai nguyên tắc, chúng liền tổ chức chụp lại dưới dạng file máy tính rồi tiêu hủy các văn bản tin tức, tài liệu có liên quan để xóa dấu vết, đề phòng tình hình diễn biến theo hướng bất lợi cho chúng. Sau đó chúng vẫn duy trì tổ chức và hoạt động thu thập, xử lý, báo cáo tin tức về nội bộ. Loại tin này được gọi là tin riêng, được chuyển lên Nguyễn chí Vịnh qua ban A của cục điệp báo, qua Phòng 73 của Tổng cục mà không qua phòng nghiên cứu tổng hợp của cục điệp báo, không qua cả Viện 70 của Tổng cục là các cơ quan có chức năng xử lý tin tức. Ở các phòng điệp báo, cục điệp báo còn có tâm lý coi trọng tin riêng hown các tin khác. chúng quả là “đánh chết, nết không chừa”.

Cần nói thêm rằng chức năng, nhiệm vụ vủa cơ quan tình báo chiến lược về quân sự đã được quân đội, Đảng, Nhà nước xác định rất rõ ràng. Nếu hiểu đúng chức năng, nhiệm vụ ấy và là cán bộ, đảng viên, quần chúng tốt thì người ta sẽ không bao giờ cung cấp tin tức tình báo nội bộ cho Tổng cục II. Về cơ bản, chỉ có hai loại người thu thập, cung cấp tin tức tình báo nội bộ cho Tổng cục II :

1. Những người có trình độ nhận thức yếu kém, hiểu sai chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục II.

2. Những người hiểu đúng chức năng của Tổng cục II nhưng muốn thông qua, muốn dựa vào Tổng cục II để thực hiện riêng. Rõ ràng là với nguồn tin như vậy thì nội dung thông tin rất khó mà chuẩn xác.

Chúng núp bóng nguyên tắc nghiệp vụ, yêu cầu nghề nghiệp để bẻ cong các mặt công tác tổ chức, cán bộ, kiểm tra, thi đua – khen thưởng, chính sách … theo bảo đảm nguyên tắc bí mật, bảo đảm yêu cầu cự ly, đơn tuyến, tinh gọn vậy mà chúng liên tục xáo trộn đội ngũ cán bộ theo chiều ngang, tới tận cấp thấp nhất là cán bộ hoạt động (có cán bộ mật chỉ trong dăm ba năm mà đã ‘qua tay.” Cả chục cán bộ hoạt động). Hiện ở Tổng cục II có nhiều cán bộ từng giữ vị trí chủ trì, chủ chốt ở 2/4, thậm chí ¾, 4/4, cục điệp báo chiến lược bất hợp pháp (và tương đương) của tổng cục, ví dụ: Phan sỹ Minh (trưởng phòng ở Cục 12, phó cục trưởng Cục 11, phó chỉ huy trưởng Trung tâm 701 rồi phó cục trưởng Cục 16), Nguyễn quang Hải (phó phòng ở Cục 11, trưởng phòng ở Cục 16 rồi phó Cục 12), Trần bá Dũng (trưởng phòng ở Cục 12, phó cục trưởng Cục 11chỉ huy trưởng Trung tâm 701, cục trưởng Cục 11 rồi cục trưởng Cục 16), Phan văn Việt (phó cục trưởng Cục 12 rồi cục trưởng Cục 11), Trần tiến Phương (phó phòng ở các Cục 15,16,12, trưởng phòng ở Trung tâm 701)… Trong hơn 8 năm Nguyễn chí Vịnh làm tổng cục trưởng, rất nhiều vị trí chủ trì, chủ chốt ở Tổng cục II liên tục bị thay đổi người nắm giữ; ở đây chỉ nêu ví dụ với vị trí chủ trì tổng cục và chủ trì các đầu mối trực thuộc tổng cục; phó tổng cục trưởng về chính trị (nay là chính ủy) – 3 người, chủ nhiệm chính trị Tổng cục – 4 người, chánh văn phòng Tổng cục, - 3 người cục trưởng Cục 16 – 5 người, cục trưởng Cục 11 – 3 người, cục trưởng Cục 25 – 3 người, Chỉ huy trưởng Trung tâm 701 – 4 người, cục trưởng Cục 71 – 3 người, phó giám đốc về chính trị (nay là chính ủy) Học viện khoa học quân sự - 5 người, phó cục trưởng về chính trị (nay là chính ủy) Cục 16 – 4 người, phó cục trưởng về chính trị (nay là chính ủy) Cục 25 – 4 người, trưởng phòng 73 – 5 người, trưởng phòng C – 4 người, phó chủ nhiệm chính trị Tổng cục – 9 người (biên chế thường xuyên là 2), phó chánh văn phòng Tổng cục – 5 người (biên chế thường xuyên là 1), đoàn trưởng Đoàn K3 – 3 người, đoàn trưởng Đoàn 74 -3 người, đoàn trưởng Đoàn 94 – 4 người … Có nhiều cấp ủy bị chúng điều chuyển công tác quá nửa, thậm chí là toàn bộ cấp ủy viên, có nhiều cán bộ bị chúng điều chuyển không theo quy hoạch. Ví dụ :

1. Đại hội đại biểu đảng bộ khoa học quân sự tháng 10 – 2005 bầu Đảng ủy gồm 13 người, Đảng ủy bầu Ban thường vụ gồm 4 người, đến nay, mới qua nửa nhiệm kỳ mà số thay mới với Đảng ủy là 9/13, với Ban thường vụ đã là 3/4 (trong đó có bí thư);

2. Đại hội đại biểu đảng bộ cục 16 cuối năm 2005 bầu Đảng ủy gồm 13 người, Đảng ủy bầu Ban thường vụ gồm 4 người, đến nay cũng mới qua nửa nhiệm kỳ mà số thay mới với Đảng ủy là 9/13, với Ban thường vụ đã là 3/4 (trong đó có bí thư, phó bí thư), vị trí bí thư và một vài vị trí khác đã thay tới lần thứ ba. Chúng còn bẻ cong cả quyết định của trên. Được biết năm 2004 trên có quyết định giải thể Cục 15 cả về tổ chức Đảng lẫn tổ chức chính quyền để sát nhập vào Cục 16, song chúng lại phổ biếnlà trên có quyết định giải thể cả hai cục 15, 16 để thành lập Cục 16 mới; trên cơ sởđó, chúng giải thể luôn các tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền của Cục 16 rồi thành lập các tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền mới, trong đó có số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Cục 15 cũ (là người của chúng) chiếm phần lớn vị trí chủ trì, chủ chốt. Khi ấy nhiều ý kiến cho rằng Cục 15 đã “đảo chính thành công.” Đối với Cục 16.

Cái tủ để yên thì vẫn là cái tủ, vẫn đựng được đồ. Nếu tháo lắp, di chuyển nhiều lần thì gỗ có tốt đến đâu, cái tủ vẫn không tránh khỏi lung lay, xộc sệch rồi biến thành đống củi. Qua sự “luân chuyển.”của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ, những “cái tủ cán bộ.” ở Tổng cục II đã thật sự hư hỏng, không dùng được nữa.

Chúng làm điệp báo nhưng không tổ chức xây dựng điệp viên, tình báo viên mà nghĩ ra khái niệm “cán bộ mật”, “cán bộ diện B.” để đưa từ bên ngoài quân đội vào tổ chức điệp báo hàng ngàn người mà nếu xét theo nguyên tắc, yêu cầu của điệp báo chiến lược thì hoàn toàn không có khả năng điệp báo (đặc biệt là về mặt quân sự). Phần lớn số này là người thân quen của chúng. Với các “cộng tác viên mật”cũng có tình trạng tương tự. Điều kỳ lạ là trong số “cán bộ mật”, “cộng tác viên mật” đó có rất nhiều người đang làm việc trong các cơ quan quân – dân – chính – đảng của ta, một số người còn là cán bộ cấp cục –vụ - viện trở lên. Trên khắp thế giới, từ xưa tới nay, chỉ có chúng làm điệp báo chiến lược mà không xây dựng điệp viên, tình báo viên. Hiện ở các cơ quan tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm, các nhà trường, viện nghiên cứu của Tổng cục II có hàngtrăm “cán bộ mật.”, “cán bộ diện B” như vậy trong khi hàng trăm sỹ quan trung, cao cấp đã tốt nghiệp các học viện, nhà trường quân sự, đã kinh qua thực tiễn hoạt động quân sự, vốn thuộc “diện A”, vốn làm công tác tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm, nghiên cứu, giảng dạy tình báo, nhiều người còn được đào tạo thêm về ngoại ngữ, kinh tế, khoa học - công nghệ, đã có một số năm công tác ở nước ngoài … lại bị chúng đẩy ra “diện B.” để ngồi chơi xơi nước. Có thể nói dự lãng phí nhân lực ở Tổng cục II là hết sức to lớn.

Chúng dùng tổ chức và hoạt động điệp báo làm bình phong, dùng kế hoạch điệp báo làm công cụ chủ yếu để bòn rút công quỹ. Có thể khẳng định trong 10 năm trở lại đây, tất cả các kế hoạch điệp báo có mức kinh phí đáng kể của Tổng cục II đều ít nhiều mắc sai phạm về mặt kinh tế, tài chính. Nếu thanh tra, kiểm tra, kiểm toán một chác chặt chẽ, chắc chắn sẽ phát hiện ra nhiều vụ tham nhũng lớn, nhiều tên tham nhũng lớn.

Trên thực tế Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã biến Tổng cục II thành cái ao nhà ở đó điều lệnh, chế độ của quân đội, điều lệ, quy chế, quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đều bị chúng biến báo theo hướng có lợi cho chúng. Chúng đã xô đổ nguyên tắc – chỗ dựa, chỗ bấu víu cuối cùng của cấn bộ, đảng viên, quần chúng, đã vô hiệu hóa khá triệt để các cấp ủy Đảng và các cơ quan chính trị trong công tác lãnh đạo, công tác Đảng – công tác chnhs trị liên quan việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, đã làm tê liệt, lũng đoạn phần lớn tổ chức Đảng, phần lớn cơ quan chính quyền ở Tổng cục II.

Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã đẩy Tổng cục II vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, hữu danh vô thực khiến quân đội và Đảng có như lãng, có mắt như mờ.

Trong lịch sử của mình, đây là lúc cơ quan tình báo chiến lược về quân sự có tổ chức với quy mô lớn nhất (gấp hàng chục lần thời chống Mỹ), có lực lượng đông đảo bậc nhất, có cơ sở vật chất - kỹ thật và cơ sở pháp lý đầy đủ nhất, thuận lợi nhất, có mấy chục phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân tình báo (điều mà mấy chục năm trước không hề có và có lẽ Việt Nam là nước mà tỉ lệ thạc sỹ, cử nhân tình báo quân sự trên tổng số dân cao nhất thế giới), mấy trăm trợ lý nghiệp vụ giỏi (được công nhận ở các kỳ thi ở cấp cục và cấp tổng cục), có cả ngàn sỹ quan cấp cao (với gần một chục sỹ quan cấp tướng), có những tài liệu mang những cái tên rất kêu như “Những vấn đề cơ bản về lý luận và nghệ thuật tình báo Việt Nam” (tháng 4-1997), “Lý luận và nghệ thuật điệp báo chiến lược bất hợp pháp của ngành tình báo quân sự Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,(tháng 4-1007), “Những bài học kinh nghiệm của 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của điệp báo chiến lược bất hợp pháp trong ngành tình báo quốc phòng Việt Nam.”, (tháng 10-1999), “Giáo trình lý luận nghệ thuật điệp báo bất hợp pháp”, (gồm 4 tập, năm 2002), “ Tổng kết 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Tình báo quốc phòng Việt Nam (năm 2005)”, “Chiến lược tình báo quốc phòng những năm đầu thế kỷ 21 (tới năm 2020)” (tháng 1-2006) , có hàng chục đề tài, công trình “nghiên cứu khoa học.” đủ để xét đặc cách phong học hàm giáo sư, phó giáo sư, học vị tiến sỹ cho vài chục cán bộ chủ tri, chủ chốt, lại đang ở trong môi trường hoạt động có thể nói là rất thuận lợi – nước ta có quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước – song công tác chẳng những không phát triển mà còn có nhiều bước thụt lùi. Tổng cục II đã lộ liễu dính chùm hơn bao giờ hết, đã trở nên rệu rã, hủ hóa cả về chính trị lẫn nghiệp vụ, thật sự trở thànhmột cái bong bóng xà phòng và đang chực vỡ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Việc Nguyễn chí Vịnh và phe lũ liên tục đưa ra và thường xuyên nhấn mạnh các “nguy cơ.” Đe dọa Tổng cục II cả từ bên ngoài lẫn ở nội bộ, nội địa càng cho thấy Tổng cục II đang rất yếu kém. Nếu thật sự mạnh về chính trị và nghiệp vụ, thật sự làm tốt chức năng, nhiệm vụ, Tổng cục II đã chẳng phải sợ hãi điều gì, đã chẳng cần dẫn ra các “nguy cơ ” để biện minh, lấp liếm cho mình.

Nguyễn chí Vịnh và phe lũ luôn la lối rằng Tổng cục II là trọng điểm phát hiện, đánh phá của các thế lực thù địch đối với dân tộc ta, cách mạng nước ta song thử hỏi 10-15 năm qua đã có bao nhiêu người của Tổng cục II bị các thế lực thù địch bắt bớ, giết hại? Chắc chắn là ít hơn số bị lực lượng cảnh sát, an ninh ta bắt giữ. Trên thực tế, chính Nguyễn chí Vịnh và phe lũ mới phá hoại tổng cục II toàn toàn diện nhất, triệt để nhất. Trước sự phá hoại ghê gớm của chúng, trước thực trạng bi đát của Tổng cục II hiện nay, có người nêu câu hỏi :Phải chăng chugs là “điệp viên ảnh hưởng” của các thế lực thù địch ?

Đánh giá như vậy về Nguyễn chí Vịnh và phe lũ có quá mức không? Hoàn toàn không nếu nhớ rằngtháng 6-1951, trong thư gửi Hội nghị tình báo Hồ chí Minh đã viết: “ Tất cả mọi công tác, nhất là công tác tình báo phải kiên quyết tránh những bệnh chủ quan, khinh địch, hiếu danh, cá nhân chủ nghĩa. Đó là những kẻ địch “vô ảnh, vô hình.” Có nép trong tâm lý của cán bộ và nguy hiểm hơn mấy Phòng Nhì Pháp cộng lại”. Hoàn toàn không nếu nếu đã đọc hàng loạt tin tức, tài liệu mà trong đó Tổng cục II nhận định Nguyễn mạnh Cầm, Phan Diễn, Trần bạch Đằng Võ nguyên Giáp, Nguyễn nam Khánh, Trương tấn Sang, Võ viết Thanh, Phan văn Trang, Nguyễn ngọc Trừu … là có yếu tố địch. Hoàn toàn không nếu đánh giá thực trạng Tổng cục II hiện nay một cách khách quan, chặt chẽ, theo đúng phương pháp tư duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và theo đúng yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Hồ chí Minh dạy : “Cán bộ là gốc của công việc.”. Trong lịch sử hơn 53 năm của mình, tình báo chiến lược về quân sự đã nhiều lần được tiếp máu, thay máu, cụ thể là được điều hàng loạt cán bộ từ bên ngoài vào nắm các vị trí, chủ chốt và rất nhiều người trong số này đã mau chóng trở thành điệp viên, tình báo viên giỏi, trở thành cán bộ tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm,nghiên cứu chủ trì, chủ chốt trong một thời gian dài.

Ví dụ: Mai Bảo, Phan Bình, Vương thúc Châu, Phan Dĩnh, Nguyễn hữu Đà, Phan chí Hiếu, Trần Hiệu, Vũ đình Hòe, Trần văn Hội, Trần quốc Hương, Nguyễn mạnh Koát, Nguyễn văn Kỷ, Phùng hồng Lâm, Nguyễn xuân Mạnh, Nguyễn văn Mính, Lê trọng Nghĩa, Vũ ngọc Nhạ, Bạch ngọc Phách, Lê hồng Phú, Vũ hữu Ruật, Trần Sinh, Lê Chinh, Nguyễn trọng Tề, Vũ Thắng, Nguyễn đắc Thân, Phan sỹ Thị, Tống trần Thuật, Lê hữu Thúy, Nguyễn thúc Tịnh, Nguyễn như Văn, Đinh thị Vân …

Nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, đang bị chuyển hóa thành khối u ác trong lòng quân đội, trong lòng Đảng, ít nhiều phát tác tới bộ óc của quân đội, của Đảng thì rõ ràng tình báo chiến lược về quân sự cần được mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ tận gốc những mạng lưới xấu xa, cần được mau chóng thay máu triệt để để trước hết là trong sạch về chính trị, sau đó là khỏe mạnh về nghiệp vụ chứ không phải thay màu da trên xác chết, duy trì một Tổng cục II của Nguyễn chí Vịnh mà khôg có Nguyễn chí Vịnh. Đó là kết luận của bài viết này.

Hà Nội ngày 16-12-2008
Vũ Minh Trí

Những Người Lính Không Bao Giờ Tan Hàng - Phạm Khắc Châu




Phạm Khắc Châu

Ngày 15-09-2009, giờ 18:18

Cuộc chiến đã chấm dứt 34 năm, thời gian đủ dài để các thế hệ đàn em, thế hệ con cháu của những người lính QLVNCH năm xưa ngồi giở lại trang sử viết về cha anh mình. Một trang sử bảo vệ tổ quốc vô cùng đau thương đẫm máu nhưng rất oai hùng.

Đọc để biết tội lỗi của bọn vong nô đã đem CNCS áp đặt vào nước ta gây ra biết bao nhiêu đau thương đổ vỡ cho cả hai Miền. Trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam khỏi rơi vào tay cộng sản, quê hương đã có nhiều nơi xác ngập lối đi, mùi tử khí tối trời. Những trận đánh ở Khe Sanh, Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào dữ dội kinh hoàng hơn cơn ác mộng.

Đọc để biết có “An lộc điạ, sử ghi chiến tích, Biệt Kích Dù, vị quốc vong thân”, nơi mà máu xương của người lính VNCH trộn lẫn với đất để bảo vệ từng tấc đất. Để biết trong trận hải chiến lịch sử bảo vệ Hoàng Sa, 58 vị anh hùng quân đội đã vùi thây trong lòng biển cả.

Đọc để hiểu ra trong cuộc chiến đó, người lính VNCH là người trực tiếp hy sinh nhiều nhất. Cùng với tổ tiên, máu các anh đã làm đất địa-linh. Tấc đất quê hương thật qúy giá vô cùng.

Có những mất mát nào có thể so sánh được với vành khăn tang cô phụ không nhận ra được xác chồng?, có sự bù đắp nào cho những đôi mắt ngây thơ chưa bao giờ biết mặt cha?.

Hy sinh tuổi trẻ cho tổ quốc các anh chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”. Sự chiến đấu bảo vệ Miền Nam tự do của các anh là sự lựa chọn quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Không biết có dân tộc nào trên thế gìới mà có nhiều người lính tuẫn tiết vì vận mệnh dở-dang của đất nước như trong cuộc chiến bảo vệ tự do vừa qua không, trong những người vị quốc vong thân đó có từ binh sĩ cho đến cấp tướng.

Cho nên thật căm phẫn khi có những kẻ xưng học thức nhưng vô liêm sỉ xuyên tạc hình ảnh người lính quân đội VNCH. Những kẻ học thức đó, không biết hay giả vờ không biết, ai, mới chính là kẻ gây ra tang thương cho đất nước chúng ta và ai, mới chính là người đang bảo vệ cho quê hương này.

Ngày 30/04/1975 là ngày đất nước chuyển sang một trang sử đau thương mới, là ngày mà người lính VNCH và cả Miền Nam bị phản bội. Các anh đã phải gạt nước mắt thay áo xếp cờ. Nhưng thực ra đây chính là ngày mà người dân cả hai miền đất nước bắt đầu tập trung lại nhận diện rõ kẻ thù của dân tộc.

Đây chính là ngày người dân Miền Nam nhận diện rõ kẻ nội-thù. Đây chính là ngày mà người dân Miền Bắc bắt đầu nhận ra sự xảo trá, lừa bịp của những kẻ cầm quyền Miền Bắc lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để nhằm phục vụ cho một chủ nghĩa ngoại lai hoang tưởng.

Đất nước ly tan, đàn chim Việt tan đàn bay tản mác khắp các phương trời. Người lính VNCH năm xưa nơi đất khách quê người bằng tất cả ý chí nghị lực đã xây dựng laị từ đầu cuộc sống cho chính mình, xây dựng tương lai cho thế hệ con cháu. Giờ đây họ và gia đình đã có được hầu như tất cả những gì mà hàng triệu người VN trong nước đang mơ ước, đó là cuộc sống tự do bình yên no đủ và ổn định.

34 năm trôi qua, ánh mắt sáng quắc ngày nào, những mái đầu xanh cuả các chàng trai mười tám, đôi mươi đầy ước mơ đã thay đổi thành những mái đầu bạc. Giấc mơ quê hương than h bình chưa thành, nhưng lời thề “Danh-dự, Trách-nhiệm, Tổ-quốc” đã thốt lên một lần là mang theo mãi mãi.
Vì thế trái tim của người lính VNCH vẫn thổn thức nổi trôi theo mệnh nước khi bọn cầm quyền CSVN còn đang mê muội áp đặt một thứ chủ nghĩa không tưởng lên quê hương, một chủ nghĩa đã bị cả loài ngườì khinh bỉ lên án là diệt chủng.

Kẽ thù của dân tộc chúng ta là ĐCSVN, chúng dùng đủ mọi phương tiện mánh khóe để xuyên tạc hình ảnh người lính VNCH, xuyên tạc lý tưởng tự-do dân-chủ nhân-quyền mà các anh đã xả thân một đời để phục vụ. Đó là lý tưởng mà hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất đã và đang chiến đấu để bảo vệ.

Để ngu muội lòng dân, bọn chúng đã gán ghép cho người lính VNCH chính những tội lỗi của chúng.

Bọn chúng mới chính là kẻ bán nước. Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, chính ĐCSVN chứ không ai khác đã đem dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc. Chính chúng đã cắt thác Bản Giốc, ải Nam Quan dâng cho địch, chính chúng đang rước giặc vào nhà để giặc chém ngang lưng tổ quốc với dự án Tây Nguyên.

Chính chúng đã qụy lụy ôm chân Mỹ để cầu mong được Mỹ quay trở lại VN. Chúng bán rẻ nhân phẩm con người VN chỉ để kiếm vốn đầu tư, xin tiền viện trợ.

Chính chúng đã dùng bạo lực khủng bố để trấn áp mọi tiếng nói ôn hòa đòi lẽ phải. Chúng đã gây nên biết bao thảm cảnh dân oan trên khắp cả nước.

ĐCSVN đã làm cho hơn 80 triệu người VN trong nước phải xấu hổ khi ra nước ngoài. Không xấu hổ sao được khi một đất nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến, từng ba lần đánh thắng quân Mông-cổ, từng phá tan một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, từng lật đổ một trăm năm nô lệ của Tây, mà chính quyền CSV N hiện tại chỉ giỏi đàn áp dân nhưng lại cúi đầu khiếp nhược trước kẻ thù.

34 năm trôi qua, để mong giữ cho ngọn lửa lý tưởng tự-do dân-chủ cháy mãi không bao gìờ tắt, ngưòi lính già vẫn đang cặm cụi bảo vệ và vá lại ngọn cờ tổ quốc, lá cờ mà kẻ thù và những kẻ phản bội đã nhiều lần mưu toan xé nó thêm một lần nữa.

Không ai ghê sợ chiến tranh hơn ngưòi lính, người quân nhân QLVNCH với tấm lòng nhân bản không lấy hận thù làm vũ khí, đang trải lòng mình ra cho nhân dân khắp miền Tổ quốc, bao dung với cả những người ngày xưa từng ở bên kia chiến tuyến, vì thật ra họ cũng chỉ là nạn nhân của bọn cuồng tín lấy chủ nghĩa CS dối trá phi nhân làm chân lý.

Bài viết này xin tặng tất cả các chiến sĩ VNCH đã và đang hy sinh vì Tổ quốc. Xin được chân thành tặng riêng cho các anh cựu quân nhân QLV NCH trong Khối 1906 Úc Châu, các anh chưa bao giờ tan hàng dù tóc đã bạc, sức đã mòn. Các anh vẫn đang âm thầm chia sẻ tình yêu của mình cho những dân oan đau khổ, chia sẻ khoản thu nhập chỉ vừa đủ sống cho phong trào dân chủ chung trong nước. Các anh mãi mãi xứng đáng là người lính QLV NCH trong lòng dân tộc.

34 năm cặm cụi vá cờ giữ lửa của các anh, hôm nay lửa đó đang lan dần khắp các miền tổ quốc chỉ chờ ngày bùng lên, các thế hệ đàn em sẽ tiếp nối, và vá lại mảnh đất rách nát của quê hưong chúng ta.

Hậu duệ Phạm Khắc Châu – 07/07/2009

CÚ ĐÁ CỦA LINH MỤC NGUYỄN VĂN LÝ: „ĐẠP ĐỔ VÀNH MÓNG NGỰA“


Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Nhận tin Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị tai biến mạch máu:

Chiều nay, thứ năm, ngày 27/8/2009, chúng tôi nhận tin khẩn, Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị tai biến mạch máu.

Nếu Việt Cộng không có chủ mưu ám hại Linh Mục Nguyễn Văn Lý trong tù, thì chúng phải cho Linh Mục khẩn cấp đi nhà thương chữa bệnh. Hoặc cho bác sĩ trong nước hay nước ngoài vào điều trị.

Đây là thủ đoạn hèn hạ của Cộng Sản muốn thủ tiêu Linh Mục Nguyễn Văn Lý.

Nếu Linh Mục Nguyễn Văn Lý có mệnh hệ gì trong tù, thì thủ phạm giết cha Lý chính là nhà nước côn đồ Cộng Sản Việt Nam, không phải vì bệnh!

-------o0o-- ----

Trở lại đề tài!

Vụ xử án man rợ đối với Linh Mục Nguyễn Văn Lý và những nhà đấu tranh dân chủ, vào ngày 30/03/2007 tại Huế, được truyền bá rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Không riêng gì trên những báo chí người Việt, mà cả những tờ báo lớn quốc tế, cũng đều đăng tải sự kiện Linh Mục Lý phản kháng chống lại tòa án bất nhân và bất chính này.

Hình ảnh Linh Mục Lý bị bịt miệng vừa là dấu chỉ, và vừa là đánh dấu hình ảnh lịch sử sống động nhất, trong công cuộc dân chủ hóa Việt Nam. Cuộc PHẢN ÁN của Linh Mục Lý, đánh mốc lịch sử sự phản đối tổng khởi dậy, chống lại cách hành xử vô luật công khai của nhà nước độc tài toàn đảng trị.

Phiên tòa 30/03/2007 là phiên tòa ô nhục cho chế độ Cộng Sản. Đồng thời nó đánh dấu lòng quyết tâm đấu tranh quyết liệt chống lại bạo quyền bán nước hại dân làm tay sai cho Hán Cộng.

Để phản cự và đả đảo phiên tòa phi pháp, phi lý và vô luật của nhà nước côn đồ Cộng Sản, Linh Mục Nguyễn Văn Lý „đưa chân đá vào vành móng ngựa, khiến nó bị xê lệch“. Lời khẳng định của Linh Mục Lý vào dịp thăm của chị Nguyễn Thị Hiểu (13/07/2009) .

Hoan hô tư cách dũng cảm cha Lý! Ngài thật cương nghị làm gương sáng cho mọi người mở mắt! Tại sao không? Phải đá vào cái vành móng ngựa này cho nó xệ lệch và sụp đổ! Vì tôi là Linh Mục yêu chân tiện, yêu chính trực nên tôi phải đá! Còn anh?!

Tại sao phải đá vào vành móng ngựa này? Có nhiều lý do:

Đá vào cái vành móng ngựa, là đá vào cái gọi là Hiến Pháp Nhà Nước Côn Đồ Ma Cô, để nói lên sự bất mãn của cái guồng máy cai trị bất nhân này!

Đá vào vành móng ngựa, nói lên tính bắt người vô cớ!

Đá vào vành móng ngựa của nhà nước du đãng để nói lên tính phiên tòa hết sức vô lý, với những luật rừng rú viễn vông và thật bất công!

Đá vào vành móng ngựa của chế độ bạo tàn Cộng Sản Việt Nam, là bày tỏ sự phẫn nộ, chống lại sự bất công của cái Hiến Pháp vô tưởng của người Cộng Sản!

Đá vào vành móng ngựa là bộc lộ và vạch trần luật rừng, luật của kẻ dã thú, luật của Sói lang đội lốt chiên!

Hãy đá vào luật giang hồ của kẻ cả tiện, bạ đâu làm đó, của tập đoàn nô lệ Bắc thuộc Việt Cộng!

Đạp đổ vành móng ngựa, là đạp đổ cảnh tượng bất nhân, đã và đang núp dưới bóng của cái gọi là Pháp Luật nhà nước Cộng Sản tham nhũng gây ra!

Đạp đổ vành móng ngựa là đạp đổ „luật du côn xã hội đen“! Luật du côn tượng trưng cho pháp lý bất công và phi lý của chế độ phản bội dân tộc.

Tại sao không đạp đổ cái luật pháp bất công và điêu ngoa của chế độ này?! Tại sao không?

„Vành móng ngựa của chủ nghĩa xã hội Việt gian“ phải đạp đổ! Cần đạp đổ, vì nó chính đáng, cấp bách và rất cần thiết phải đạp đổ! Bao nhiêu những nhà luật sư bênh vực cho Công Lý đã bị sách nhiễu, hăm dọa và cầm tù? Luật gì mà ma quái qúa vậy? Luật đưa ra nhằm bắt người Công chính và chỉ bảo vệ bọn cớm, bọn phản bội dân tộc?

Trong hai tháng vừa qua, hàng loạt những nhà dân chủ bị bắt, trong đó hầu hết là những nhà luật sư dũng cảm với đầy lòng lương tâm trong sáng bị bắt, bị sách nhiễu. Ngoài ra, nhà cầm quyền Cộng sản còn cấu kết với bọn du côn tấn công người giáo dân. Những sự kiện này, nói lên tính cách nhà nước vô pháp luật, và biểu lộ sự vô lý của luật nhà nước rừng rú.

Ai tin vào luật pháp công minh của Việt Cộng? Luật pháp đưa ra, để trù giập những tiếng nói chân chính, chân thật. Những người lên tiếng bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ dân tộc khỏi bị diệt vong, thì bị giam cầm khủng bố. Còn những kẻ điêu ngoa xảo trá, những kẻ phản bội tổ quốc nhân dân, bán đứng tổ quốc cho Tầu cộng, thì được luật pháp duy trì bảo trợ nuôi dưỡng. Một xã hội, một quốc gia như thế, thì sẽ đi về đâu?

Một chính quyền bảo kê bọn côn đồ (bọn Cớm) để đánh đập giáo dân và tu sĩ thì loại chính quyền đó là loại gì? Chúng tôi khẳng định rằng, đây là hành vi và lối cư xử của một nhà nước côn đồ, một bạo quyền du đãng. Luật của giặc cướp.

Một luật pháp bảo vệ cho những kẻ lưu manh, thì chính chế độ đó hiện hữu và hiện thân của những kể côn đồ du đãng. Cứ nhìn những kẻ tay sai cho chế độ này sẽ rõ!

Một chế độ như thế, là môi trường thuận lợi cho những sự gian dối gianh manh phát triển. Và chúng ta đang chứng kiến cảnh tượng hiện nay trong nước. Dối trá là một hiện tượng đau buồn hiện nay cho dân tộc.

Một quốc gia vọng ngoại, với tâm địa bành trướng thôn tính lãnh thổ và địa hải, thì chắc chắn dân tộc đó sẽ bị đồng hóa tiêu vong. Mãnh đất thương yêu Việt Nam đã và đang bị mất dần mất mòn. Bạo quyền bán nước Cộng sản Việt Nam là nội thù, cấu kết với kẻ ngoại xâm (Đế quốc bành trướng Trung Cộng). Một tội đồ dân tộc.

Tại sao cần phải đá vào vành móng ngựa này?

Linh Mục Lý đấu tranh dành quyền làm người, đòi hỏi tự do tôn giáo và tự do lập hội lập đảng. Đây là những điều chính đáng căn bản con người, trong một nước dân chủ văn minh.

Tại sao bắt tôi? Tôi làm đúng, sao lại xử tôi?

Thật vậy, chế độ này biểu hiệu cho sự gian dối qúa rõ ràng, qúa minh bạch! Chế độ này bao che cho những điều gian manh qúa lộ liễu. Đạp đổ vành móng ngựa là đúng! Và không riêng gì một tu sĩ, mọi người dân có lòng với đất nước, yêu thương đồng bào, yêu qúi sự thật, công chính, đều phải có thái độ phải đạp đổ „vành móng ngựa bất công, bất chính và gian manh“ này cho bằng được! Đạp đổ „vành móng ngựa“! Vì, vành móng ngựa này tượng trưng cho trò hề diễn tuồng pháp lý vụng về bất chính!

Linh Mục Lý đã đạp cái vành móng ngựa! Chúng tôi cho rằng: đây là cú đá tiên khởi đạp đổ Luật pháp của cái gọi là Hiến Pháp Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam! Đá vành móng ngựa này! Đây là gương sáng, gương anh dũng mà chúng ta cần noi theo. Phải đạp đổ cái vành móng ngựa bất nhân này!

Không phải riêng gì Linh Mục Lý, mà mọi người công dân, không phân biệt tu sĩ giáo dân, không phân biệt tôn giáo, ai có lòng thiện tâm, có lương tri chính trực, có lòng với đồng bào thương yêu dân tộc, đều có trách nhiệm đạp đổ „vành móng ngựa của chế độ Cộng sản côn đồ, lưu manh và du đãng“. Đây là việc làm chính danh, cần thiết và xứng đáng, vì đạo đức, công lý và hòa bình của những người con yêu thương tổ quốc đồng bào, chống lại kẻ phản bội và bội vong dân tộc!

Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã đá vào vành vóng ngựa. Nó đã bị xê dịch rồi. Mọi người, tất cả những ai yêu chuộng Công Lý, trọng Lẽ Phải và yêu Sự Thật, hãy góp thêm một BÀN CHÂN đá vào vành móng ngựa của nhà nước côn đồ này! Vậy chúng ta hãy chung sức đạp thêm nữa cho nó mau chóng sụp đổ. Và chắc chắn nó phải sụp đổ! Đây không những là điềm trời, mà còn là ý dân!

(Đức Quốc, ngày 15_09_ 2009, Lễ Kính bảy sự thương khó Đức Mẹ Maria)

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Trường Sa hành – Tô Thùy Yên

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học qua Petrus Ký và Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cấp bậc Thiếu Tá trong quân đội Miền Nam trước 1975. Sau 1975 ông đã bị giam giữ cải tạo hơn mười năm. Hiện ông sống tại Houston (Mỹ).

Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ Tự Do” trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển tập thơ Thùy Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Mỹ sau khi ông đến định cư ở quốc gia này vào năm 1993.

Bài thơ Trường Sa hành Tô Thùy Yên viết tháng 3/1974, chắc là sau một chuyến hành quân công vụ của ông ra vùng đảo này. Xin nhớ là, hai tháng trước thời điểm bài thơ ra đời, Trung Quốc đã cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974). Chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh trả. Máu binh lính Việt Nam đã đổ xuống trên vùng biển vùng đảo của Tổ quốc để quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.
    Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng!
    Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
    Lính thú mươi người lạ sóng nước,
    Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
    Mùa đông bắc, gió miên man thổi
    Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
    Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
    Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
    Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
    Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
    Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
    Lên xác thân người mãi đứng yên.
    Bốn trăm hải lý nhớ không tới
    Ta khóc cười như tự bạo hành
    Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
    Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
    Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
    Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
    Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
    Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
    Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
    Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
    Đám cây bật gốc chờ tan xác
    Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
    Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
    Những cụm rong óng ả bập bềnh
    Như những tầng buồn lay động mãi
    Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
    Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
    Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
    Kinh động đất trời như cháy đảo…
    Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
    Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
    Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
    Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
    Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
    Chú em hãy hát, hát thật lớn
    Những điệu vui, bất kể điệu nào
    Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
    Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
    Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
    Như người bị bức tử canh khuya
    Xé toang từng mảng đời tê điếng
    Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
    Ta nói với từng tinh tú một
    Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
    Bãi lân tinh thức, âm u sáng
    Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
    Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
    Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
    Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
    Con chim động giấc gào cô đơn.
    Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
    Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
    Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
    Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
    Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,
    Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
    Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
    Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
    San hô mọc tủa thêm cành nhánh
    Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
    Thời gian kết đá mốc u tịch
    Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

    Tô Thùy Yên
    3. 1974

Monday, September 14, 2009

Cáo phó Đại Tá Hòang Đạo Thế Kiệt qua đời

CÁO PHÓ

Đau đớn báo tin buồn, Em, Anh, Chồng, Cha, Ông của chúng tôi là:

Đại Tá HOÀNG ĐẠO THẾ KIỆT

Pháp danh: THIỀN NĂNG

Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 1 Nam Định
Nguyên Cục Trưởng Cục Chính Huấn Quân Lực VNCH
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương

ừa tạ thế lúc 1:37 chiều ngày 9 tháng 9 năm 2009
(Nhằm ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Sửu)

Tại Bệnh viện HOAG, Newport Beach, Orange County,
California, Hoa Kỳ

Hưởng thọ 79 tuổi

Linh cửu hiện quàn tại:
    Pacific view memorial park
    Số 3500 Pacific view Dr
    Corona del Mar, CA 92625

    Điện thoại: 1-949-644-2700

    Lễ Phát Tang: 2:00 giờ chiều ngày 13 tháng 9 năm 2009
    Thăm viếng: từ 3:00 giờ chiều đến 5:00 giờ chiều ngày 13-9-2009
    Lễ di quan và an táng: lúc 11:00 sáng ngày 14 tháng 9 năm 2009 tại Nghĩa Trang của nhà quàn

    Vợ: Bà Hoàng Đạo Thế Kiệt, nhũ danh Vương Thị Lan Hương
    Chị ruôt: Ba Hoàng Thị Dư, chồng và các con cháu
    Chị ruột: Bà Hoàng Thị Quỳnh
    Anh vợ: Ông Bà Vương Đình Long và các con cháu
    Em vợ: Bà Vương Thị Tố Loan, Chồng Trung Phan và các con
    Em vợ: Vương Thị Yên Chi và các con
    Em vợ: Vương Thị Liên Hương
    Trưởng nữ: Hoàng Lan Khanh, Chồng John Tan
    Thứ nữ: Hoàng Vân Khuê
    Cháu ngoại: Madeleine Tan
TANG GIA ĐỒNG KHẤP BÁO
XIN MIỄN PHÚNG ĐIẾU


*
* *
Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến





Cờ Vàng lại tiếp tục tung bay trên nền trời Hòa Lan


Amsterdam 12/9/009

Bản tin báo Viet Nam Nguyệt San/Hòa Lan

“Chúng tôi sẽ tiếp tục trương cao ngọn Cờ Vàng Trong suốt chặn đường 80 km từ tối hôm nay thứ bảy 12/9) đến trọn ngày mai ( chủ nhật 13/9 )…”. Đó là câu trả lời của ông Nguyễn Trung Cang, trưởng Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng, và cũng là một trong 3 thành viên của Nhóm, có mặt trong số trên 3000 người tham dự cuộc đi bộ “ Thâu đêm suốt ngày 80 km Waalwijk năm 2009”.

Tại sao lại “tiếp tục“? ông Lưu Phát Tấn, một trong năm sáng lập viên của Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng – (Nhóm được thành lấp năm 2004) – ân cần giải thích: “Anh trưởng Nhóm nói chúng tôi tiếp tục đi, vì mới đây, vào cuối tháng 7 vừa qua, Nhóm cũng đã cử người tham dự cuộc đi bộ Quốc Tế 4 Ngày Nijmegen, qua chặn đường dài 160 km trong 4 ngày. Bây giờ đi nữa. Tiếp tục là vậy đó.” ngừng một lát, ông tiếp: “Nếu có cơ hội nào để Vinh Danh Lá Cờ Vàng, hễ nơi nào có thể nâng cao Lá Cờ Vàng để cho thế giới bên ngoài biết sự hiện diện của Người Việt tỵ nạn cộng sản, là anh em trong Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng chụp liền cơ hội ấy …

Tham dự ngày đi bộ Quốc Tế Nijmegen tháng 7 năm 2009

Được biết Waalwijk là một trong những thị xã thuộc tỉnh Noord Brabant, nằm giữa đường Nam Bắc Hòa Lan. Hằng năm Thị Xã tổ chức cuộc đi bộ 8o km trong hai ngày cuối tuần lễ thứ 2 của tháng 9.

Đứng về phương diện tổ chức, con số người tham dự và tầm mức trên thế giới, thì cuộc đi bộ Waalwijk không thể nào so sánh với cuộc đi bộ Quốc Tế Nijmegen. Nhưng xét về thể lực va quyết tâm của người tham dự thì phải nói rằng những người tham dự ở Waalwijk vượt hẳn Nijmegen.

Sau 40 km ở Nijmgen tham dự viên được nghỉ một đêm lấy sức, ngày hôm sau tiếp tục; nhưng ở Waalwijk, phải tiếp tục suốt 80 km. kể cả ban đêm, không ngủ!

Được hỏi động cơ nào thúc đẩy các anh đã can đảm cầm cờ Vàng, đi không ngủ đêm va suốt ngày qua đoạn đường 80 km, các anh trong nhóm Vinh Danh Cờ Vàng không chần chờ giải thích: “vì chúng ta là người tỵ nạn cộng sản! Chúng ta phải có bổn phận gin giữ và vinh danh Lá Cờ Vàng ở bất cứ nơi nào va vào bất kỳ thời điểm nào“.

Trong lúc tin này đến với quý vi hữu trên khắp thế giới là lúc 3 thành viên của Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng Hòa Lan, ông Nguyễn Trung Cang, ông Nguyễn Ngọc Thành và ông Lưu Phát Tấn, đang tung 3 Lá Cờ Vàng cùng với hàng ngàn ngừơi khác lướt đi trên khắp đường phố của thị xã Waalwijk, trước hàng vạn người dân chào đón bên đường.


Nhóm phóng viên Báo Việt Nam Nguyệt San Hòa Lan sẽ tường trình tiếp diễn tiến của cuộc đi bộ 80 km Waalwijk trong bản tin nay mai.

CĐNVTD-Vic Úc châu - Lên án ông Trần Bá Phúc bắt tay và hợp tác với csVN

THÔNG CÁO BÁO CHÍ CỦA BAN CHẤP HÀNH CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA

V/V: CỘNG ÐỒNG VICTORIA LÊN ÁN ÔNG TRẦN BÁ PHÚC ÐÃ CÔNG KHAI BẮT TAY VÀ HỢP TÁC VỚI NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT-NAM.

Trong số báo ra ngày 12-08-2009 của tờ Ti-Vi Tuần San, trong tiết mục “Từ Thành Hồ đến Hang Pắc Pó” có đăng tải bản tin “Diễn Ðàn Doanh Nghiệp Việt Kiều Tại Ôxtrâylia và New Zealand” trích từ tờ báo điện tử của Ðảng CSVN. Bản tin này cho biết ông Trần Bá Phúc, Hội trưởng Hội Người Việt Kiều Úc Châu đã dẫn đầu một phái đoàn gồm các luật sư và doanh nhân ở Victoria để gặp gỡ với phái đoàn Bộ Công Thương CSVN khi phái đoàn này đến Melbourne. Ông Trần Bá Phúc đã tuyên bố rằng “Các Việt kiều rất mừng được nghe về những chính sách tạo thuận lợi cho bà con về nước làm ăn”.

Nhận được tin trên và sau khi đã kiểm chứng trên báo điện tử của đảng CSVN về bản tin này, Ban Chấp Hành CÐNVTD-VIC đã gởi cho ông Trần Bá Phúc, một thành viên của Hội Cựu Quân Nhân VNCH và cựu thành viên của Ban chấp hành CÐNVTD-Vic nhiệm kỳ 89-91, một văn thư chính thức đề ngày 24-8-2009 yêu cầu ông này cho biết bằng văn thư rằng ông có còn coi ông là thành viên cá nhân của CÐNVTD-VIC nữa hay không. Nếu còn thì CÐNVTD-VIC sẽ triệu tập một phiên họp khoáng đại của các hội đoàn đoàn thể trong cộng đồng người Việt tự do để cho ông Trần Bá Phúc trình bày và giải thích về việc tường thuật của tờ báo điện tử Ðảng CSVN về vai trò, hành động và lời phát biểu của ông ấy trước khi đi đến quyết định về tư cách thành viên cộng đồng của ông.

Quá ngày cộng đồng hạn định cho ông Trần Bá Phúc phải phúc đáp (28-8-2009), trong khi Ban Chấp Hành CÐNVTD-VIC không nhận được một sự hồi đáp nào của ông Trần Bá Phúc thì 2 tờ báo điện tử khác của CSVN là tờ: Người Ðại Biểu Nhân Dân và tờ Thanh Niên ra ngày 14-09-2009 đã cho đăng tải hình ông Trần Bá Phúc chụp hình lưu niệm chung với Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Ðức Mạnh tại Canberra vào ngày 7/9/2009 vừa qua và tường thuật những lời phát biểu cũng như những buổi gặp gỡ của ông Trần Bá Phúc, với tư cách là Chủ tịch Hội Người Việt-Nam tại Úc, đối với Chủ tịch Quốc Hội CSVN Nguyễn Phú Trọng vào tháng 3 năm 2008 và với Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Ðức Mạnh vào 7/9/2009 vừa qua.

Trong khi CÐNVTD Úc Châu biểu tình chống đối sự hiện diện của cấp lảnh đạo CSVN tại Úc Châu và lên án họ về những hành động vi phạm nhân quyền, bán đất dâng biển cho Trung Cộng thì Trần Bá Phúc lại dẫn dắt bọn Việt gian đi gặp gỡ và bắt tay với nhà cầm quyền phản quốc CSVN, Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria vì thế:

1. Không công nhận cái gọi là Hội Việt Kiều Việt-Nam Úc Châu do ông Trần Bá Phúc làm Chủ tịch.
2. Cực lực phản đối và lên án hành động gặp gỡ, giao lưu, liên lạc và đối thoại của ông Trần Bá Phúc với nhà cầm quyền CSVN. Ðây là một hành động đi ngược lại với chủ trương không hoà hợp, hoà giải hay giao lưu dưới bất kỳ hình thức nào với CSVN của CÐNVTD Úc Châu và Victoria.

Ðể biết thêm chi tiết, xin quý vị vui lòng vào trang mạng của Tờ Thanh Niên www.thanhnien.com.vn, mục Chính trị-Xã hội xem bài có tiêu đề “Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh gặp gỡ kiều bào tại Australia” và bài “Cộng đồng người Việt tại Australia: Không ai mang trái tim Việt Nam ra khỏi quê hương Việt Nam” trên tờ Người Ðại Biểu Nhân Dân www.nguoidaibieu.com.vn trong mục Chuyên Ðề. Cả hai ra ngày 14-09-2009.

TM. Ban Chấp Hành CÐNVTD-VIC
Nguyễn Thế Phong
Chủ tịch xử lý thường vụ.

NGUYỄN KHOA ĐIỀM, TÊN ĐỒ TỂ ĐÃ SÁT HẠI ĐỒNG BÀO HỒI TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ - Hồ Đinh

Hồ Đinh

Ngày 30-12-1960, VC thành lập tại Hà Nội cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dùng làm bình phong, để che đậy ý đồ xâm lược cưỡng chiếm VNCH bằng quân sự. Để hoàn thành giấc mộng nhuộm đỏ toàn cõi VN bằng ý thức hệ Mác-Lê, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, một mặt bắt các cán binh, bộ đội gốc Miền Nam, đã tập kết ra Bắc năm 1954 phải hồi kết, qua đường mòn Trường Sơn. Số này sẽ kết hợp với các cán binh nằm vùng năm xưa và một vài trí thức địa phương, đang bất mãn chính phủ Ngô Đình Diệm, vì đa số thuộc thành phần địa chủ, thượng lưu có quốc tịch Pháp, mà xí nghiệp, ruộng đất đang bị quốc hữu hóa, theo luật pháp của Quốc Gia VN. Tất cả sẽ dấy lên một phong trào tranh đấu giả tạo, để lật đổ chính quyền hợp pháp của Miền Nam, qua kế hoạch ba mặt giáp công là chính trị, binh vận và quân sự của Miền Bắc, quyết tâm chiếm cho được nửa phần đất nước còn lại, từ bờ nam sông Bến Hải (Quảng Trị), vào tới Mũi Cà Mâu.

Cuộc binh biến ngày 01-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào tình trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên, suốt những năm 1964-1967. Nắm bắt lấy thời cơ, mà Hồ Chí Minh cho là đã chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ Y tế, Giáo dục, Văn hóa Thể dục Thể thao, Nhà văn, Nhà báo, Nông nghiệp, Bưu điện, Tiếp vận... khắp đất Bắc, để học tập, huấn luyện, lên đường vào Nam, tiếp tay với bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản, đang dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Đợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn Luyện Đặc Biệt ở Phú Thọ, mang tên là Đoàn K-33.

Ngày 22-12-1964 lớp học bế mạc. Tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Để che mắt và lừa bịp công luận quốc tế, mọi người được trang bị như VC chính hiệu ở Miền Nam, với quần áo bằng vải kaki Nam Định, mũ tai bèo may bằng vải rộng vành dép râu Bình Trị Thiên, cổ quàng khăn rằn và ai cũng thuộc bài "Giải Phóng Miền Nam" của Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước, lúc đó cũng đang có mặt tại Cục R ở Nam phần.

Trong số cán bộ trên, hiện còn nhiều người sống sót và được đảng thưởng công rất hậu như Nguyễn Trung Hậu (Bí thư tỉnh ủy Thượng Hải), Trần Ngọc Trác (Chủ tịch tỉnh Thuận Hải), Ngô Triều Sơn (Q.Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận),Nguyễn Tường Thuật (Chủ tịch tỉnh Phú Yên)...

Ngoài ra còn có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến, Lê Anh Xuân, Tô Nhuận Vỹ, Dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Võ Quảng, Nguyễn Thới Nhậm...

Nhưng lên chức cao nhất, chỉ có Nguyễn Khoa Điềm, được vào Trung ương đảng VC khóa IX năm 2001, đứng hàng 15 trong Bộ chính trị và hàng thứ 5 trong Ban bí thư trung ương.
Qua bài thơ "40 Năm Gặp Lại" đăng trong tờ Xuân Ất Dậu 2004 của VC. Bình Thuận, Nguyễn Khoa Điềm đã viết: "Những người cùng đi trên chuyến tàu lửa ngày ấy Qua khu bốn, qua sông Xê Bang-Hiên, đường chín nhìn thấy đêm Noel trong một chớp sáng Vâng, chúng ta đã chia tay nhau ở Xê-Phôn Tôi rẽ theo vĩ tuyến ..."

Lời thơ đã xác nhận, từ cuối năm 1964, khi vào Nam, Nguyễn Khoa Điềm đã được chỉ định hoạt động tại các tỉnh miền hỏa tuyến, thuộc Vùng I chiến thuật của VNCH, trong đó có Thừa Thiên-Huế, là quê hương của đương sự, trước khi tập kết ra Bắc năm 1954.

Nhưng tại sao, trong bài viết "Một cõi đi về" của Lê Đức Dục, đăng trong tờ Kiến Thức Ngày Nay số 266 ngày 10-12-1997, xuất bản tại Thành Hồ, có kê khai danh sách những hung thần VC, nằm vùng trong các trường Đại Học Huế từ 1963-1966 như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Minh Trường, Trần Vàng Sao..., lại không hề đề cập tới tên Nguyễn Khoa Điềm. Ngược lại trong bài viết của Nguyễn Khoa Điềm, cũng chẳng hề nhắc tới Trần Vàng Sao và Tô Nhuận Vỹ ?
Trong lúc đó, trên Mạng Lưới Dân Chủ, ngày 14-11-2005, có phổ biến bài viết liên quan tới Vụ Án Tổng Cục 2 của Đinh Văn Toàn, phần mở đầu, tòa soạn có ghi chú về sự liên hệ của ba nhân vật xứ Huế, cùng tập kết, hồi kết và vào nằm vùng trong Viện Đại Học Huế. Đó là Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đính và Tô Nhuận Vỹ.

Ngoài ra, báo chí nào của VC khi nhắc tới những năm loạn lạc ở Huế từ 1965-1966, đều nhắc tới Trần Vàng Sao, mà chú thích của Mạng Lưới Dân Chủ, nói là bí danh của Nguyễn Đính, lại không hề nhắc tới hoạt động của Nguyễn Khoa Điềm, dù rằng hắn từ cuối năm 1964 đã về hoạt động, trà trộn trong Đại Học Văn Khoa Huế. Lạ một chỗ là Điềm cũng nín như hến, chẳng bao giờ tiết lộ một lời, về những ngày hoạt động của mình tại Miền Nam từ 1964-1975.

Là người trong cuộc, cùng là VC tập kết, hồi kết và hoạt động trong các trường tại Huế, Thanh Thảo mượn cớ phê bình thơ của Nguyễn Khoa Điềm, để nói toạc móng heo về chân tướng của tên xếp chúa ngụy quân tử nhưng nhỏ mọn (khi nói những điều cao lớn, nhưng không bao giờ quên cúi nhìn những vật bé nhỏ), thâm độc, bất chấp thủ đoạn để đạt tới ý muốn. Bởi vậy, vì hám danh, nên hắn đã dám bước khỏi giới hạn của mình, qua các hành động như chỉ điểm khai báo đồng đội, khi bị bắt vào những năm 1964-1966, lúc đang hoạt động, để đổi điều kiện chỉ bị giam ở Nhà Lao Thừa Phủ, mà không bị giải ra Côn Đảo như đồng bọn.

Khi VC làm chủ được thành phố Huế, vào những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968, Nguyễn Khoa Điềm được đồng bọn giải thoát và trở thành xếp chúa lúc đó, vì là một cán bộ chính quy có đảng tịch, cho nên chắc chắn y đã ban lệnh hay đề nghị thảm sát đồng bào bị kẹt lại trong thành phố, để trả thù "Ngụy quân-Ngụy Quyền".

Mấy năm nay, nhờ theo phe cánh thân Trung Cộng tại Bắc Bộ Phủ như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đình Hoàn, Nguyễn Văn An, nên Nguyễn Khoa Điềm được đồng bọn cất nhắc lên rất mau và được giao cho giữ chức "Trưởng Ban Tư tưởng và Văn Hóa" với trọng trách là phải tận diệt những kẻ dám chống lại đảng đang bán nước cho Tàu, hay dám ngăn cản đảng cộng sản VN tiếp tục cầm quyền, để phát huy đạo đức và trí tuệ Hồ Chí Minh, chẳng những trong quá khứ mà sau Đại Hội X càng phải tiến nhanh, tiến mạnh lên xã nghĩa thiên đường.

Lâu nay nhiều người thắc mắc về sự liên hệ giữa Nguyễn Khoa Điềm và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thậm chí không ít người quả quyết cả hai chỉ là một nhưng quan trọng nhất vẫn là câu hỏi là tại sao Nguyễn Khoa Điềm chỉ là con của Hải Triều, lại không có kiến thức về tư tưởng, kinh tế hay khả năng quản lý, còn tư cách cá nhân cũng không có. Như vậy chắc phải có một động lực nào, đã đẩy Điềm tiến nhanh vào vị trí vô cùng quan trọng, trong Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư Trung Ương Đảng VC?

Nhiều chục năm về trước, Tố Hữu vì lợi danh, mà dám làm nhiều chuyện tàn ác kinh thiên động địa, trong đó có Vụ Án Nhân Văn-Giai Phẩm, để bia miệng khinh chê nguyền rủa mỗi lần có dịp nhắc tới. Nguyễn Khoa Điềm bây giờ cũng vậy, vì lợi ích cá nhân, chẳng những chạy theo bọn thân Tàu để toa rập bán nước, mà còn thẳng tay đàn áp đồng bào, bóp chẹt tất cả tự do của mọi người, bất chấp miệng đời và lưới trời nhân quả.

bây giờ mùa mưa đã qua giọt nước đầu hiên đặc quánh bây giờ bạn đã quay lưng
chén trà một chân đóng cặn Anh là kẻ phải đánh trận sau cùng kẻ được xé vé cuối cùng trong rạp hát sự may mắn của anh dính dáng ít nhiều tới những rễ cây" (thơ Nguyễn Khoa Điềm)


Thơ là người, thơ đã thay Điềm nói lên chân tướng của mình, nhất là lúc này dưới áp lực của mọi phía, về cái gọi là "vụ án siêu nghiêm trọng T4", có liên hệ tới 11 ủy viên Bộ Chính Trị, trong số này có Nguyễn Khoa Điềm, cần đưa ra xét xử trước khi họp Đại Hội X. nhưng như lời thơ ở trên đã khẳng định "sự may mắn của Anh, dính dáng ít nhiều tới rễ cây". Như vậy ai là kẻ chống lưng Điềm, chắc chắn ngoài Lê Đức Anh, Đỗ Mười... còn có Trung Cộng nhúng tay vào chỉ dạy đảng, cho nên ai dám bứng hắn ra khỏi quyền lực đang nắm khi VC vẫn còn làm tôi tớ cho người Tàu?

Có lẽ vì thấy không thể bưng bít được miệng người, nên sau Đại Hội Đảng X, bọn chóp bu Hà Nội đã hất Điềm ra khỏi trung tâm quyền lực, để chờ giờ vắt chanh bỏ vỏ. Đó cũng là nguyên lý của luật chơi giang hồ, có vay thì phải trả, đừng thấy thiên hạ làm thinh mà ngở là có thể quịt được những nợ nần đã vay của thiên hạ từ trước.

1.CHÂN TƯỚNG CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM:

Nguyễn Khoa Điềm là con Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, cháu nội của Nguyễn Khoa Tùng và Nguyễn Phúc Đồng Canh hay Công Nữ Đồng Canh mà báo chí thường gọi là Đạm Phương Nữ Sử.

Đọc qua gia thế của cha con Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng thấy đó là một thế gia vọng tộc, con vua cháu chúa thời Nhà Nguyễn, lừng danh tại kinh thành Huế. Tiếc thay, cả cha lẫn con đều là quốc tặc, chạy theo Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, phản lại tiên tổ, bán nước cầu vinh, hãm hại đồng bào, chắc chắn sẽ lưu xú danh ngàn đời trong những trang sử Việt.
Căn cứ theo tài liệu của Nguyễn Khoa Diệu Biên và Nguyễn Cửu Thọ, xuất bản tại thành Hồ năm 1995, nên biết được Đạm Phương sinh năm 1881 tại Huế và mất năm 1947 ở Thanh Hóa. Vì từng làm nữ quan thời Nhà Nguyễn, phụ trách việc ghi chép và dạy các công chúa cũng như cung nữ trong nội cung, nên người đương thời gọi bà là Nữ Sử.

Đạm Phương là con ruột của Hoàng tử 66 của Vua Minh Mạng, tên Nguyễn Phúc Miên Triện, tước Hoằng Hóa Quận Vương. Bà Đạm Phương là chính thất của ông Nghè Nguyễn Khoa Tùng, sinh được sáu con ruột là Nguyễn Khoa Diệu Nhơn, Nguyễn Khoa Diệu Duyên, Nguyễn Khoa Tú, Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), Nguyễn Khoa Châu (Hải Châu) và Nguyễn Khoa Diệu Vân. Ngoài ra Nguyễn Khoa Tùng còn có vợ hai tên Hồ Thị Lệ, sinh được năm con tên Nguyễn Khoa Vỹ, Nguyễn Khoa Diệu Kỳ, Nguyễn Khoa Diệu Dung, Nguyễn Khoa Tiếu và Nguyễn Khoa Diệu Cầu.

Như vậy xét về gia phả, Hải Triều, Hải Châu cũng như Nguyễn Khoa Điềm sau này, đều là tôn thất của Nhà Nguyễn, nhưng bọn chúng đã tán tận lương tâm, tin lời Hồ Chí Minh và cộng sản, đã tận tuyệt dứt điểm nhà Nguyễn vào tháng 9-1945, khi bắt ép vua Bảo Đại phải dâng ấn kiếm thoái vị.

Sau đó thực dân Pháp theo chân quân Anh-Ấn vào tái chiếm lại thuộc địa VN. Vì vậy năm 1947, Hải Triều phải đưa mẹ là Đạm Phương, chạy ra Quảng Bình rồi Thanh Hóa và mất ở đó trong năm.

HẢI TRIỀU:

Hải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh ngày 01-10-1908 tại An Cựu (Thừa Thiên). Gia nhập đảng Tân Việt (tiền thân của đảng cộng sản Đông Dương), vào năm 1927, được đánh giá như là một lý thuyết gia của cộng sản. Năm 1931, Hải Triều bị bắt tại Sài Gòn, tòa kêu án rất nặng nhưng không biết vì lý do gì, lại được thả vào tháng 7-1932 tại Huế.

Bắt đầu từ đó, Hải Triều công khai hoạt động cho cộng sản, dùng ngòi bút để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lê, cùng với quan điểm của đảng qua chiêu bài "nghệ thuật vi nhân sinh". Nhiều tác phẩm được xuất bản như Chủ nghĩa Mác Xít Phổ Thông (1935), Văn Sĩ và Xã Hội (1937), Duy Tâm Hay Duy Vật (1935)... Năm 1939, Hải Triều, Hải Thanh và Phan Đăng Lựu, mua lại tờ Sông Hương của Phan Khôi, biến thành cơ quan tuyên truyền của cộng sản tại Miền Trung nhưng cũng chỉ được vài số, thì đình bản.

Tháng 8-1940, Hải Triều lại bị bắt và an trí tại Phong Điền (Thừa Thiên) và được thả vào tháng 3-1945. Tháng 9-1945 cùng đồng bọn đến Hoàng Cung, bắt ép vua Bảo Đại thoái vị, nhường ngôi, nên được Hồ Chí Minh thưởng công, cho làm Giám đốc Sở tuyên truyền Trung phần. Từ năm 1947 ra Bắc và được phong chức Giám đốc Sở tuyên truyền Liên Khu IV kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội Văn Nghệ và chết ngày 06-08-1954 tại Hà Lăng, Thanh Hóa. Sau tháng 5-1975, VC đã cho cải táng phần mộ của Đạm Phương và Hải Triều từ Thanh Hóa, về chôn trong Khu Di Tích Phan Bội Châu, tại Bến Ngự (Huế).

Nhắc tới Hải Triều là phải nói những bài luận chiến đăng trên báo sặc mùi lý luận Mác xít, duy vật, ảnh hưởng từ các triết gia thiên tả thời đó như Henri Barbusse, Romain Rolland, Maxime Gorki ... Tuy nhiên đảng chỉ xài Hải Triều lúc còn phôi thai, vào những thập niên trước 1945, là thời điểm rất cần để tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào đảng. Điều này cũng dễ hiểu, vì sau tháng 9-1945, Hồ Chí Minh và Đảng cộng Sản đã chiếm được chính quyền, nên quyền hành lớn phải được giao cho những bộ hạ thân tín. Đó là lý do, Hải Triều chỉ được công tác tại Thanh Hóa, còn những bài lý luận, được đánh giá thuộc loại dao to búa lớn nhưng đâu có ma nào để ý tới như trước.

Nguyễn Khoa Điềm là con của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, hiện nay là một trong những tên cán bộ gộc theo Trung Cộng, nắm quyền sinh sát đồng bào và vận mệnh của cả Quốc Gia Đân Tôc. Tuy là hai cha con nhưng Hải Triều thăng tiến một thời, nhờ cái lưỡi không xương ngụy luận, để dụ dỗ tuyên truyền những người nông dân xóm biển, theo chúng làm giặc. Trái lại Nguyễn Khoa Điềm vừa tàn bạo bất nhân, lại là một kẻ xu phụ cấp trên nhưng không tha kẻ dưới, độc tài độc đoán, căm thù giai cấp và trên hết là rất kiên trì tôn thờ chủ nghĩa Maoit. Cho nên việc Nguyễn Khoa Điềm đã ra lệnh tàn sát đồng bào Huế vào Tết Mậu Thân (1968) để trả thù rửa hận, vì bị Chính phủ VNCH bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ Huế hay chạy theo đuôi bọn thân Trung Cộng, tại Bắc Bộ Phủ để tiến thân, xét cho cùng, thì cũng đâu có lạ gì với một kẻ tán tận lương tâm, hại dân bán nước.

2. NGUYỄN KHOA ĐIỀM, TỪ THẢM SÁT ĐỒNG BÀO HUẾ (1968), TỚI HÀNH ĐỘNG BÁN NƯỚC CHO TRUNG CỘNG:

Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Đồng. Tỉnh lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện tích 380km2 với 209.043 người. Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN.

Nghĩ về Huế, dù là địa phương hay kẻ viễn khách, ai cũng đều ưa thích những công trình kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Những gì còn lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công trình của cố đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968.

Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, Chợ Đông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt. Nói tới Huế để nhớ về những hình ảnh nổi bật dịu dàng của người dân đất thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng, chiếc nón bài thơ, những giọng hò, câu hát ... tất cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống với sông núi thời gian.

Cuối cùng nhớ Huế là nhớ đến công trình mở nước vĩ đại của các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Phúc Chu, Phúc Trú ... cho ta một giải giang sơn gấm vốc tới tận mũi Cà Mâu no giàu để con cháu về sau một đời sung mãn. Những đấng Tiên Vương công đức và sự nghiệp ngất cao như núi trên, từ khi VC lên nắm quyền, đã bị chúng hủy diệt, để dành công, dành tiếng và dành địa vị độc tôn yêu nước trong dòng sử Việt.

Từ năm 1967, Hà Nội đã quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh thị tại miền nam bị đột kích, thì Sài Gòn và Huế là quan trọng và bị thiệt hại nhiều hơn cả. Trận chiến mở màn vào sáng mồng hai Tết, nhằm ngày 31-01-1968, bằng hai cánh quân với nhiều tiểu đoàn chính qui Bắc Việt. Cũng nói thêm là VC đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viện tại địa phương. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội, lúc đó thật bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNC.

Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Đoá. Ngoài ra còn có Nguyễn trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-02-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê văn Hảo làm chủ tịch, còn Đào thị xuân Yến và Hoàng phương Thảo làm phó.

Ngoài ra còn có cái Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (01-02-1968) cũng do Lê văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Đại Học Huế và Sài Gòn làm chủ tịch liên minh. Theo Hảo vì trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản của Trần văn Khê, Nguyễn khắc Viện, nên vào các năm 1965, 1966 dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng lại được trốn lính nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng phủ ngọc Tường và Tôn thất Dương Tiềm vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12/1967.

Trong Liên Minh Ma này còn có Hoàng phủ ngọc Tường, Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đoá, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân ... Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, Trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, còn Tống hoàng Nguyên và Nguyễn đình Bảy Khiêm thì lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm, chính Y đã giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ, công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Đức dạy tại Đại học Y Khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đã tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Tóm lại không còn lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau gãy xập. Hỡi ôi sắt thép, gỗ đá còn biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vỗ tay cười.

Những hành động dã man nhắm vào dân lành tại Huế, làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cộng sản, dù chúng là ai chăng nữa, tất cả đều giống nhau vì cùng chung một tổ, một lò.

Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sở dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng, do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit.

Trong số các hung thần can dự tới bữa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một sinh viên, Nguyễn đắc Xuân từng tổ chức đoàn "Phật Tử Quyết Tử" quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội "Công tác thanh niên" và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh ...

Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, đã bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài... Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 07-02-1968 VC giựt xập cầu Trường Tiền. Ngày 15-02 Quân Ủy cộng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng tình hình càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-02 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu.

Nói chung cộng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tềt đến 22-02-1968 mới được Biệt Động Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh duổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phù Lương, Phú Xuân,Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài ... tổng cộng đếm được 2326 xác.

Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ nguyên Giáp thì đểu giả hơn khi bị các ký giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả lời là Bắc Việt không hề biết vì đó chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thì động cơ cộng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài một lý do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, thì tàn sát theo kế hoạch phá hủy và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đã được ghi lại trong một tài liệu của cán bộ VC, bị SD1 Không kỵ Hoa Kỳ bắt được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-06-1968. Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên Chúa Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưỡng chiếm được miền Nam mới chấm dứt vì VC độc tài đảng trị, cấm biểu tình xuống đường, nên bốn bên bốn phía bình đẳng chịu sống chung hòa bình, nên gần như không thấy tự thiêu, tuyệt thực và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bữa thời VNCH.

Chỉ vì dã tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong cuộc chiến Mậu Thân đã giết hại hàng chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại Huế vẫn coi như không hề xảy ra một chuyện gì và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệm, ngoài việc công khai đổ hết nợ máu cho Lê văn Hảo, Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn Đoá, Nguyễn đắc Xuân.

Năm 1998, ngày giỗ chung của gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến cũng là ngày VC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ Trưởng quốc phòng Bắc Việt lúc đó là Võ nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch, Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, chỉ đạo Trung Ương Cục Miên Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng chính Võ nguyên Giáp đã trâng tráo dám nói láo với nhà báo Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm.

Gần đây Nguyễn Đính, tức Trần Vàng Sao, một thời nằm vùng trong Đại Học Huế, có viết "Thơ của người yêu nước mình", trong đó có nhắc tới Nguyễn Khoa Điềm. Thật ra ai cũng biết Điềm hồi kết về Nam, trong Đoàn K-33 vào cuối năm 1964, vì là một cán bộ chính trị, nên Điềm được lệnh trà trộn vào trong Đại Học Văn Khoa Huế, để móc bối, tuyên truyền, dụ dỗ các sinh viên nhẹ dạ, chạy theo VC.

Tuy vậy, không lâu chân tướng Điềm bị lộ tẩy nên bị an ninh VNCH bắt và giam tại Nhà lao Thừa Phủ-Huế cho tới Tết Mậu Thân, mới được đồng bọn giải thoát. Có một điều lạ, là hầu hết những VC nằm vùng tại Huế như Ngô Kha, Phan Duy Nhân hay những sinh viên theo VC tại Sài Gòn, khi bị bắt, đều bị giam cầm tại Côn Đảo, mặc dù họ chỉ là những kẻ liên hệ hay cán bộ địa phương.

Trái lại Nguyễn Khoa Điềm là đảng viên cộng sản, cán bộ chính qui nhưng tại sao chỉ bị giam giữ ở Huế, mà không bị đưa ra Côn Đảo, Phú Quốc hay các trại giam tù phiến Cộng ở Biên Hòa, Pleiku? Chính điểm này, khiến cho các nhà viết sử sau này, đã khẳng định là Điềm đã khai báo với Chính quyền Quốc Gia, những bí mật có liên hệ tới tổ chức. Vì vậy vào cuối năm 1966, coi như phong trào nổi loạn của VC nằm vùng tại Huế Đà Nẵng, gần như bị phá vỡ hoàn toàn. Bọn đầu sỏ như Lê văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường... nhờ mật báo nên nhanh chân, trốn vào núi.

Mặc khác, tuy Điềm được sinh trưởng tại Huế nhưng từ năm 1947, cả gia đình đã di tản hết ra Thanh Hóa và sống tại đó, nên đã bị đảng cộng sản nhồi sọ, tuyên truyền và dạy dỗ từ tuổi nhỏ, đến lúc trưởng thành. Bởi vậy Điềm rất căm thù giai cấp, dù mình và gia đình cũng xuất thân từ chốn cung đình, con quan cháu chúa, ăn trên mặc sướng và làm cha thiên hạ. Do bản tính đã biến thành thú người, nên khi được thả ra khỏi tù vào những ngày đầu Tết Mậu Thân, Điềm đã góp ý cùng đám hung thần Xuân, Phan, Tường ... cứ thẳng tay tàn sát hết bọn ngụy dân, ngụy quân, ngụy quyền, đang bị kẹt tại Huế.

Sở dĩ đến nay, chuyện kín của Nguyễn Khoa Điềm chưa bị phanh phui trước dư luận, tuy rằng đã có kẻ thầm thì bàn tán. Chuyện này cũng dễ hiểu, vì Điềm vốn là tên sát nhân giết người không gớm tay. Cái sự y dám rút súng bắn Nguyễn Đắc Xuân vào năm 1977, khi cả hai cùng công tác tại Ban Tuyên Huấn Thành Ủy Huế, khiến cho mọi người, kể cả bạn thân như Tô Nhuận Vỹ hay Trần Vàng Sao, dù biết rõ chân tướng của Điềm nhưng đâu dám tố cáo, vì sợ bị trả thù.

Hơn nữa, từ lâu Nguyễn Khoa Điềm đã thuộc phe cánh của Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần đình Hòan, Nguyễn Chí Vịnh... đều là những cán bộ then chốt trong Bộ Chính Trị. Từ năm 2001 được cất nhắc vào Trung Ương Đảng, giữ chức Trưởng Ban Tư tưởng và văn hóa, Điềm đã thẳng tay kiểm soát báo chí và mạng internet cả nước, độc tài độc đảng và luôn luôn trung thành với tư tưởng Mao Trạch Đông, thù hận giai cấp và sắt máu với đồng bào.

Thư của một nhân chứng còn sống
    Cách đây chừng 5, 6 số báo tôi đọc thấy 1 cậu trả lời của 1 độc giả khác trước đó về các câu hỏi tại sao vụ Tết Mậu Thân Việt Cộng (VC) giết nhiều người ở Huế như thế và giết bằng cách nào. Tôi nghĩ rằng 2 người đó là 1 và mục đích là làm lợi cho sự tuyên truyền của Việt Cộng.

    Với tư cách là người chiến đấu trong cuộc từ đầu đến cuối tôi biết tường tận về việc đó nay tôi xin viết lại cho rõ: Tôi là một đại đội trưởng thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 3, sư đoàn 1 Bộ binh. VC đã qua mặt được lực lượng Cảnh sát, An ninh quân đội, phòng 2 của Sư đoàn 1 Tiểu khu các lực lượng diện địa để đưa trước 3 tiểu đoàn chính quy vào ếm trong thành nội Huế. Ðúng 3:30 sáng ngày 1 tháng 1 năm Mậu Thân, tức là 1/12/1968 thì bắt đầu nổ súng, ban đầu chúng chiếm trung tâm cải huấn Thừa Thiên và kho lương thực của đồn quân cụ, lực lượng rằng phối hợp với bọn nằm vùng đi từng nhà bắt quân dân cán chính của ta mà chúng đã theo dõi từ trước, đồng thời hướng dẫn bọn chính quy (gồm 12 tiểu đoàn) từ ngoài vào.

    Chúng bắt tất cả 5800 người, giết tại nhà độ 100, đưa ra Bắc độ 100, còn lại bị giết tập thể tại 4 địa điểm:

    1. Khe Ðá Mài thuộc quận Hương Thủy.
    2. Bãi Cát Xuân Ô Ðiên Ðại quận Phú Vang.
    3. Sau chuà áo vàng - quận 2 đường Chi Lăng.
    4. Bãi Dâu - quận 2 phía Bao Vinh.

    Sau khi quân ta đánh tấn VC ra khỏi Huế tôi bị thương điều trị tại quân y viện Nguyến Tri Phương. Tình cờ gặp đoàn xe của Tiểu nhị Thừa Thiên đi đào xác hai hố tập thể Xuân Ô Ðiên Ðại, tôi đi theo xem. Vùng đó tôi quá quen thuộc vì hơn 2 năm qua đơn vị tôi bảo vệ an ninh cho vùng đó. Ðoàn xe đi theo tỉnh lộ rãi đá về hướng Tây Bắc thành phố Huế. Ðến chợ Sam xe dừng lại vì chỉ còn cách xa 1 cây số, chúng tôi đã ngửi trong gió biển mùi hôi thối Ðoàn người đi bộ tiến về bãi chôn người cách 500m thì một cảnh tưởng hãi hùng xảy ra. Rõ ràng là 1 bức tranh của Quỷ trong truyện Liêu Trai: Trên các giòng (lằn) của bãi cát là NHỮNG NGƯỜI ÐƯỢC ÐỨNG BỞI 1 CỌC TRE HOẶC SẮT GỔ XUYÊN TỪ ÐÍT LÊN TỚI ÐẦU chừng 40 cụm , mỗi cụm 5 đến 10 người, phía dưới chân là NHỮNG NGƯỜI BỊ CHẶT NGANG CỔ, CÓ NGƯỜI BỊ CHẶT CHÂN NGANG BỤNG. Phía dưới chân các giòng cát thì nước còn rịu rịu vì trời còn mưa lay ray suốt cả tháng là những người BỊ CHÔN SỐNG, 2 TAY BỊ BUỘC CHẶT SAU LƯNG RỒI CHÔN QUAY MẶT LẠI NHƯ ÐANG NÓI CHUYỆN VỚI NHAU, có người trên đầu có mủ, có người có 1 tàn thuốc gắn vào nón. Tất cả đều tím đen hoặc rỉ nước vàng hôi thối ghê gớm. Sau cùng là các hầm, hầm được lấp đi sả thừng lòi chân tay ra ngoài, mỗi hầm có 4 đến 5 câm, xâm xuyên qua lòng bàn tay bằng dây kẽm gai và bị đánh bằng vật cứng ở sau đầu, cũng có người bị tan nát mặt, tất cả đều bị rữa thối rất khó nhận dạng.

    Những người được hưởng đặc ân thì được chết tại nhà, như Trung Sĩ Rốt Cảnh Sát, bọn chúng vào bắt tại nhà, buộc dây dắt đi ngoài đường gọi người khác ra hàng: "Tôi là Trung Sĩ Cảnh Sát Nguyến Văn Rốt đây, tôi nghe lời cách mạng kêu gọi ra hàng nên đã được khoan hồng tha thứ, các anh em hãy ra hàng để được khoan hồng tha thứ như tôi". Ðến gần sáng ấy đem về trước sân gọi vợ con ra xem và bắn 1 phát vào đầu. Hiện nay tiệm Bún "Mụ Rớt" rất ngon nổi tiếng ở đường Chi Lăng Quận 3 Huế.

    Còn thiếu tá Cứ tỉnh đoàn trưởng xây dựng nông thôn Huế, đã núp kỹ trên máng xối VC vô lục soát 2 giờ không ra, sau đó chúng dụ mụ vợ gọi Anh ra để nhận chức vụ cũ không có gì thay đổi hết, bây giờ cách mạng thiếu người.

    Bà vợ kêu: "Anh ơi, xuống đi, cách mạng đang cần Anh hợp tác, không bắt chi mô đừng sợ". Cứ ta bò xuống bắt quỳ giữa sân và bắn 1 phát vào đầu.
    Bọn chỉ điểm hồi đó tôi có biết mấy tên:

    - Nguyến Ðắc Xuân - Ðại học sư phạm văn khoa Huế
    - Hoàng Phủ Ngọc Phan - sinh viên
    - Hoàng Khiêu - Huấn luyện viên thể dục ở tại bang Washington
    - Nguyến thị Ðoan Trinh - sinh viên - Con ông Nguyến Ðóa dạy Pháp văn trường Bồ Ðề Huế
    - Nguyến Khắc Từ - huynh trưởng gia đình phật tử toàn quốc - sau đó vượt biên bị bắt chết trong tù.
    Tôi viết bài nầy thân tặng các bạn trẻ chưa từng chứng kiến hoặc các bạn già ở ngoài cuộc hoặc ngoài Huế đang còn tin theo sự bóp méo của VC mà coi thường sự độc ác gian manh của chúng. (Hồi ký của người lính già)
Hồ Đinh


Friday, September 11, 2009

QUÁI TƯỢNG NGOẠI GIAO - Đỗ Thái Nhiên


Đỗ Thái Nhiên

Nhu cầu tìm kiếm lương thực và nhiên liệu để nuôi sống trên một tỉ 300 trăm triệu dân đã làm cho Trung Quốc ngày càng trở nên hung hãn trong việc lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia lân bang. Đối diện với tình huống vừa kể, Hoa Kỳ, các tổ chức quốc tế, tổ chức ASEAN, đặc biệt là Việt Nam không thể không quan ngại. Giải pháp nào có thể giúp cho các quốc gia Đông Nam Á được sống ổn định bên cạnh ông khổng lồ Bắc Kinh đói ăn và khát nhiên liệu? Câu trả lời nằm ở các bản tin sau đây:

Ngày 22/07/2009 Hoa Kỳ ký thỏa ước bất tương xâm với các quốc gia trong tổ chức ASEAN. Theo ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton, thỏa ước kia là lời khẳng định: Hoa Kỳ đã trở lại Á Châu.

Tháng 07/2009, trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Bloomberg, Honolulu, ông Raymond Burnhardt, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam các năm 2001-2004, nhận định rằng: “ Các bất đồng ý kiến về quần đảo Trường Sa và các vùng phụ cận có vẻ êm xuống một thời gian, bây giờ căng thẳng trở lại, một phần lý do là Trung Quốc muốn bành trướng thế lực”.

Ông cựu đại sứ Raymond Burnhardt nhấn mạnh: “Mỹ và Việt Nam cùng có chung nhiều lợi ích chiến lược, trong số đó có cả sự duy trì cân bằng (thế lực) ở Đông Nam Á”.

Ngày 19/08/2009, từ giả Miến Điện TNS Jim Webb đến Việt Nam. Ông Jim Webb là chủ tịch Tiểu Ban Đông Nam Á Thái Bình Dương, Ủy Ban Đối Ngoại, Thượng Viện Mỹ. Trong một cuộc họp báo tại Hà Nội, khi đề cập tới những tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á, TNS Jim Webb tuyên bố: “ Hoa kỳ nên xác định rõ ràng, chi tiết và cụ thể công việc bảo vệ chủ quyền của các quốc gia trong khu vực này. Tôi không ám chỉ một đối đầu quân sự, nhưng tôi muốn nói đến vai trò ngoại giao. Với tư cách của một quốc gia, ý muốn của Hoa Kỳ sẽ trở thành một lực cân bằng-không phải để chống đối mà để cân bằng thế lực- đối với Trung quốc trong vùng này”.

Ngày 27 tháng 08 năm 2009, ông Lê Công Phụng, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho Thông tấn Xã Việt Nam biết; Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao CSVN đang chuẩn bị tới Mỹ. Đồng thời, ông Lê Công Phung còn nói thêm: Mỹ và Việt Nam đang thảo luận việc tướng Phùng Quan Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam đến thăm Hoa Kỳ.

Các tin tức vừa trích dẫn cho thấy: Cả Hoa Kỳ lẩn Việt Nam đều đồng ý với nhau trên quan điểm rằng: Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam cần Hoa Kỳ đóng vai trò đối lực hữu lý trong việc đương đầu với tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Vấn đề còn lại là làm thế nào biến quan điểm kia thành hành động cụ thể? Chúng ta hãy khảo sát hành động cụ thể của CSVN và Hoa Kỳ :

Về phía Hoa Kỳ

Ngay khi đến Hà Nội, TNS Jim Webb đưa ra nhận xét: Trung Quốc đã tạo điều kiện để Miến Điện phải sống bám vào Trung Quốc như một loài ký sinh: sống dở, chết dở; không thể phát triển được. Nói cho Hà Nội nghe về Miến Điện, TNS Jim Webb có hậu ý cảnh báo CSVN rằng: Bám vào Bắc Kinh, Hà Nội không thể không trở thành Miến Điện.

Mặt Khác, nhằm trấn an CSVN về lo sợ mất đảng, TNS Jim Webb đã không đề cập đến dân chủ, nhân quyền vào dịp Jim Webb đến Hà Nội ngày 19/08/2009. Tuy nhiên, do nhu cầu hợp lý của chính trị quốc tế, Hoa Kỳ không thể thực tâm hợp tác chiến lược với một chế độ độc tài và tham ô kiểu Hà Nội. Vì vậy, khi trả lời báo chí về dân chủ nhân quyền tại Việt Nam, ông Jim Webb chỉ nói vắn tắt: Vấn đề vừa nêu “là một tiến trình đang diễn ra”. Tuy nói là “vắn tắt” nhưng Hà Nội phải hiểu là quốc hội Hoa Kỳ, do đòi hỏi của cử tri, không thể nuôi dưỡng lâu dài một chế độ tham ô kiểu CSVN.

Về phía Cộng Sản Việt Nam

Bản chất của nhà cầm quyền Hà Nội là tham lam và thiển cận. Hà Nội tin là chế độ hèn kém và tham ô của họ có thể vừa van xin Trung Quốc bảo vệ CSVN ở vị thế thống trị Việt Nam, vừa dùng Hoa Kỳ để ngăn cản sức bành trướng của Bắc Kinh. Nhằm thực hiện âm mưu kia, Hà Nội đã đón tiếp TNS Jim Webb bằng cách: vào ngày ông Jim Webb tới Hà Nội, CSVN rầm rộ cho trình chiếu trên các hệ thống truyền hình của CSVN đoạn video ghi nhận bốn nhà đấu tranh dân chủ Việt nam đang “nhận tội và xin khoan hồng”. Bốn nhà dân chủ kia bao gồm: thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, cựu trung tá Trần Anh Kim, luật sư Lê Công Định. Kịch bản “nhận tội và xin khoan hồng” của Hà Nội nhằm nói lên hai điều:

1. Nói với Trung Quốc: CSVN quyết tâm bảo vệ quan hệ nước mẹ và nước con giữa Trung Quốc và CSVN. Quyết tâm vừa nói được CSVN thể hiện bằng hành động thẳng tay đàn áp tất cả người Việt Nam nào dám đấu tranh đòi hỏi tự do dân chủ, hoặc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược.

2. Nói với Hoa kỳ: CSVN rất cần Hoa Kỳ đóng trọn vai trò đối trọng đối với tham vọng bành trướng của Bắc Kinh tại Đông Nam Á. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là CSVN để mặc cho Mỹ tùy nghi dân chủ hóa Việt Nam. Chủ trương bất biến của CSVN là: Thà mất nước còn hơn mất đảng.

Trong quan hệ với Mỹ, vì quá cực đoan với công việc bảo vệ đảng độc tài, CSVN đã để lộ cho thế giới thấy Hà Nội vừa mới thực hiện một quái tượng ngoại giao có một không hai trong lịch sử bang giao quốc tế. Thực vậy, trong đoạn video được gọi là “Nhận tội và xin khoan hồng” nói ở trên, guồng máy thông tin, tuyên truyền của chế độ Hà Nội đã làm cho công luận chú ý tới tiết mục Luật Sư Lê Công Định đọc lời nhận tội. Từ tài liệu nhận tội này luật sư Định cho biết ông đã có lần gặp mặt nguyên thứ trưởng ngoại giao Hoa kỳ John Negroponte và đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak. Mang các cuộc tiếp xúc vừa kể đặt vào phần nhận tội của luật sư Lê Công Định, CSVN muốn thông báo cho toàn thế giới văn minh biết rằng: tại Việt Nam nói chuyện với giới chức ngoại giao cao cấp của Mỹ là một tội phạm hình sự.

Theo tập quán bang giao quốc tế, quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và CSVN chỉ có ý nghĩa, chừng nào quan hệ này hội đủ bốn chuẩn mực sau đây:

Thứ nhất: tình thân hữu, gọi tắt là thịnh tình. Tình thân hữu không thể thành hình trên điều luật: công dân Việt Nam nói chuyện với giới chức ngoại giao của Mỹ là một tội phạm hình sự.

Thứ hai: CSVN và Hoa Kỳ phải thực sự đứng ở vị trí của hai quốc gia hoàn toàn độc lập, gọi tắt là đắc vị. Không thể có yếu tố đắc vị nếu CSVN vừa bang giao với Mỹ, vừa run sợ đôi mắt trông chừng của quan thầy Trung Quốc.

Thứ ba: mỗi quốc gia trong cuộc bang giao phải làm trọn nghĩa vụ của mình, gọi tắt là tận phần. Nói cách khác tận phần có nghĩa là “có đi, có lại mới toại lòng nhau”. Làm gì có được tận phần khi CSVN toan tính vừa làm tay sai cho Trung Quốc vừa lấy tiền Mỹ, vũ khí Mỹ để cùng với Trung Quốc quấy nhiễu Hoa Kỳ?

Thứ tư: tính hợp lý hàng đầu trong bang giao quốc tế đòi hỏi các quốc gia trên cuộc bang giao phải thường xuyên trung thành với hai mục tiêu: một là phục vụ quốc gia mà mình đại diện, hai là xây dựng một cộng đồng quốc tế hòa bình và thịnh vượng chung. CSVN chỉ phục vụ quyền tham ô của đảng, không phục vụ quốc gia. Mặt khác, đối với CSVN, không có xã hội quốc tế hiểu theo nghĩa lành mạnh. Hãy nhìn cung cách CSVN phục vụ Olympic 2008 của Trung Quốc để hiểu rằng CSVN chỉ biết quốc tế Tàu và chối bỏ mọi hình thái quốc tế khác. Đi tìm tính hợp lý của chế độ Hà Nội trong bang giao quốc tế chẳng khác nào mò tìm mặt trăng dưới đáy giếng.

Khảo sát bốn yếu tố căn bản của bang giao quốc tế, người khảo sát thấy rằng CSVN không thực tâm mời gọi Hoa Kỳ đóng vai trò đối lực trong mục tiêu ngăn cản âm mưu bành trướng của Bắc Kinh. Bang giao Việt Mỹ chỉ là một loài hoa giấy. Nó chỉ có tác dụng làm cho dư luận quốc nội và quốc tế có cảm nghĩ là CSVN đang tìm đường thoát ra khỏi vòng tay của Trung Quốc. Xin nhấn mạnh cảm nghĩ kia chỉ là ảo tưởng. Từ vùng ảo tưởng vừa xác định, nhìn về tương lai Việt Nam, chúng ta chỉ thấy một khối mây xám khổng lồ. Ngoại giao gây ảo tưởng gọi là quái tượng ngoai giao vậy.

Đỗ Thái Nhiên

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu kêu gọi ký thỉnh nguyện thư phản đối đài phát thanh SBS quảng cáo

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Email: BCH@CDNVTD.com
This e-mail address is being protected from spambots.
You need JavaScript enabled to view it



THÔNG BÁO VÀ LỜI KÊU GỌI CỦA
CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

V/V: KÝ THỈNH NGUYỆN THƯ LÊN HỘI ÐỒNG QUẢN TRỊ ÐÀI SBS

Trong hai tuần lễ vừa qua, trong khi Cộng Ðồng Người Việt Tự Do tại Victoria đang chuẩn bị để tổ chức hai cuộc biểu tình chống đoàn văn công CSVN sang trình diễn tại Crown Casino - Melbourne để ăn mừng ngày Quốc Khánh 2-9 của Cộng Sản thì đài SBS lại cho phát thanh những quảng cáo bán vé cho các buổi trình diễn này trong khi vẫn không loan tải những thông báo kêu gọi biểu tình của cộng đồng.

Trước sự phản đối mạnh mẽ về việc quảng cáo và lời yêu cầu điều tra tư cách hợp lệ của những công ty tổ chức các buổi trình diễn, Ban giám đốc đài SBS đã cho tạm ngưng chương trình phát thanh quảng cáo này từ thứ 7, 22-8 đến 25-8 để điều tra và yêu cầu cộng đồng trình bày viện dẫn những lý do và chứng từ đưa đến sự phản dối của mình.

Mặc dù Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Liên Bang và Tiểu Bang Victoria đã trưng dẫn những bằng chứng cho thấy đây chỉ là những đoàn văn công trá hình, công cụ tuyên truyền và thừa hành nghị quyết 36 của Ðảng CSVN nhằm đánh phá và gây chia rẽ và rối loạn trong tập thể người Việt tỵ nạn và yêu cầu SBS đóng vai trò trung lập đối với cã đôi bên bằng cách không quảng cáo hay loan tin cho bên nào cả. Ban giám Ðốc của đài SBS đã quyết định cho tái phát thanh những quảng cáo này tại Melbourne từ ngày 26 đến 29-9-09 viện cớ rằng nội dung của quảng cáo không có điều gì tạo tranh cãi. Ban Giám Ðốc của SBS đã không lưu tâm đến lý do phản đối chính yếu của công đồng chúng ta: đó là SBS đã không đóng vai trò trung lập và quân bình của một cơ quan truyền thông công cộng khi chỉ cho đơn phương đăng tải tin tức (qua hình thức quảng cáo) của một bên.

Việc SBS quyết định cho đăng tải những quảng cáo trực tiếp mâu thuẩn với sự chống đối và tẩy chay của người Việt tỵ nạn là một diễn biến cực kỳ nghiêm trọng và là một thái độ coi thường lập trường, quan điểm và yêu cầu chính đáng của cộng đồng và tập thể thính giả người Việt tỵ nạn tại Úc Châu.

Trong tinh thần đó, Cộng Ðồng Người Việt tự Do kêu gọi toàn thể đồng hương đồng loạt lấy những mẫu thỉnh nguyện thư do cộng đồng soạn thảo từ các Văn Phòng Cộng Ðồng trên toàn quốc để thu thập chử ký và gởi về lại cho cộng đồng qua địa chỉ ghi trên Thỉnh Nguyện Thư trước ngày 30-09-2009.

Với quyết tâm của toàn thể đồng hương và thính giả của đài SBS, những đòi hỏi chính đáng của cộng đồng chúng ta về vai trò trung lập và phục vụ quyền lợi của người đóng thuế Úc gốc Việt sẽ phải được Ban Quản Trị của dài SBS giải quyết thoả đáng.

Trân trọng kính mời,
    Ô. Nguyễn Thế Phong Chủ tịch CÐNVTD-UC
    Ls. Võ Trí Dũng Chủ tịch CÐNVTD-NSW
    Ô. Nguyễn Văn Bon Tân Chủ tịch CÐNVTD-VIC
    Bs. Bùi Trọng Cường Chủ tịch CÐNVTD-QLD
    Ô. Ðoàn Công Chánh Phú Lộc Chủ tịch CÐNVTD-SA
    Ô. Phạm Lệ Hoàng Nam Chủ tịch CÐNVTD-WA
    Ô. Lê Công Chủ tịch CÐNVTD-ACT
    Ô. Lê Tấn Thiện Chủ tịch CÐNVTD-NT
    Bà Nguyễn Thị Kim Dung Tân Chủ tịch CÐNVTD - Wollongong
---o0o---

Thỉnh nguyện thư

Thưa tất cả quý vị,

Được sự đồng ý của Chủ tịch BCH CĐNVTD Úc Châu, tôi đã thực hiện xong Petition online.

Quý vị có thể chọn option ký tên online, nếu vậy xin vào link http://www.gopetition.com.au/online/30679.html và ký tên online. Danh sách này cũng được sử dụng chung với danh sách ký tên ngoài giấy để đệ trình.

Rất cám ơn quý vị đã ủng hộ Thỉnh Nguyện Thư này. Kính nhờ quý vị tiếp tay phổ biến đến càng nhiều người càng tốt bằng thủ tục khẩn cấp nhất.

Thân kính
--

Dong Tran
ARCHIVE OF VIETNAMESE BOAT PEOPLE
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam
www.vktnvn.com www.vnbp.org
'+61 403 578 467 ' 403 578 467 (Australia only)
Other email: dongthtran@yahoo.com.au

Video Thảm Sát Thiên An Môn

Không cho phép mình quên! - Nguyễn Khánh Vũ


Nguyễn Khánh Vũ

Nhiều người cho rằng chiến tranh đã kết thúc hơn 30 năm rồi, vả lại Việt cộng cũng thay đổi rồi, sao lại chống hoài?

Với tôi, những bài học, những kinh nghiệm thương đau mà thế hệ Cha Anh đã có với Việt Cộng nhắc tôi phải cảnh giác luôn luôn.

- Bài học số 1: Việt Cộng giết người Quốc Gia ngay trong thời kỳ phôi thai kháng Pháp, đánh Nhật, vì Việt Cộng muốn cướp quyền lãnh đạo đất nước, để có thể toàn quyền làm tay sai cho Cộng Sản quốc tế trước kia, và nay cho quan thầy Trung Cộng.

- Bài học số 2: Trong những kỳ cải cách ruộng đất, Việt Cộng đã giết biết bao người dân vô tội, giết ngay cả những người mà có lẽ chẳng bao lâu trước đó đã hào phóng bỏ ra vàng, tiền của đóng góp trong các cuộc quyên góp cho Việt Cộng.

- Bài học số 3: Ký kết ngưng bắn với Việt Cộng chưa ráo mực thì Hồ Chí Minh xua ngay quân giết hàng ngàn đồng bào miền Nam vô tội trong Tết Mậu Thân 1968.

- Bài học số 4: Việt Cộng xé ngay bản hòa đàm Paris mà chúng vừa ký 1973.

- Bài học số 5: Trường học Cai Lậy, nơi bao trẻ thơ đang ê a bên trang sách, sao lại là mục tiêu pháo kích của Việt Cộng? Sao Việt Cộng lại nhẫn tâm bắn vào hàng ngàn đồng bào vô tội đang trốn chạy "giải phóng quân" trên đại lộ kinh hoàng?

- Bài học số 6: "Nhà nước thông báo để nhân dân đừng tin vào các tin đồn thất thiệt. Nhà nước sẽ không đổi tiền". Và việc đổi tiền, thực chất là một cuộc ăn cướp tài sản của người dân miền Nam, được tiến hành chỉ một ngày sau đó. Đây là một nhóm thổ phỉ cai trị, chứ không phải là một nhà nước pháp trị. 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Hồ! Việt Cộng có cái gì để mà đổi?

- Bài học số 7: "Ngày mai em sẽ chở các con đến đây thăm anh", Mẹ tôi bịn rịn chia tay Ba tôi, sau khi chở Ba tôi đến địa điểm tập trung "cải tạo".

- "Em về ráng lo cho Thầy Mẹ và các con. Đêm nay chắc chắn anh sẽ bị đem đi nơi khác. Và em cũng đừng mong anh sẽ về sau 10 ngày ", Ba tôi căn dặn.

- "Nhưng ... Cách mạng thông báo tập trung 10 ngày mà!", Mẹ tôi trả lời.

Ôi thương thay cho người dân hiền lành, thật thà của đất nước tôi. Và chắc đâu đó ở Hà Nội, đã có một nhóm người ngồi cười khoái trá.

Trên đây là một ít trong số những bài học "cơ bản" mà tôi luôn tự nhắc mình và “không bao giờ cho phép mình quên!”

Có nhiều người cho rằng Việt Cộng đã thay đổi rồi. Với tôi, Việt Cộng chỉ là một loài tắc kè dỏm và hạ cấp. Nó thay đổi màu để tồn tại, để tiếp tục lừa bịp, che đậy cái bản chất bất biến của chúng là tàn ác và đê hèn. Với những người cùng một dòng máu Việt thì chúng chẳng chừa một hành vi bẩn thỉu nào, nhưng với kẻ thù phương Bắc, kẻ thù mà ngàn năm trước cha ông ta đã chỉ mặt đặt tên, thì chúng lại quì gối. Khi đọc bản tin Giang Trạch Dân vào tắm ở Đà nẵng, rồi vào Saigon gặp mặt hoa kiều Chợ Lớn, sau đó mới bay ra Hà nội để gặp bọn đàn em ở Ba Đình, lòng tôi sôi sục căm hờn, tủi nhục.

Với cái thằng Tàu phù này, Việt Nam xem chừng chỉ là cái ao làng của nó. Khi đọc bản tin thấy đám du khách Trung Cộng phất cờ, đón đuốc thế vận trên đường phố Saigon trong khi những người dân Việt bị cô lập, bị đẩy ra xa, tôi biết rằng tôi vẫn còn sáng suốt. Tôi vẫn thấy rõ cái tồi tệ, xấu xí của Việt Cộng dù đang được che đậy dưới một cái áo màu mè bên ngoài của một con tắc kè. Việt Cộng đã thay đổi?

Tôi may mắn có một người cha sáng suốt với những phân tích sắc bén, thuyết phục. Ông luôn là người đầu tiên tôi tìm đến để tham khảo và hỏi ý kiến khi nghe hoặc đọc thấy những biến động nào trong xã hội. Là một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ở tuổi ngoài 70, ông vẫn canh cánh trong lòng chuyện vận mạng đất nước. "Muốn chống Cộng, mình phải hoặc là có tiền hoặc là có quyền", Ba tôi nói. Và trong tình thế không có cả hai, ông vẫn chống Cộng theo cách riêng. Ông hun đúc tinh thần yêu nước cho con cháu trong gia đình qua các câu chuyện kể, qua những nhận định tình hình, nhắc nhở con cháu tỉnh táo trước những mưu chước của Việt Cộng. Ông nhắc con cháu dành chút thời gian thắp một nén nhang, đặt một ít hoa, nơi đài chiến sĩ Việt-Mỹ nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong. Ông cố gắng đến với các cuộc biểu tình nghiêm túc trong cộng đồng. "Mình đến dù không làm được gì nhưng mình phải đến để thể hiện chính kiến của mình, đồng thời động viên anh em", ông thường nói như vậy. Ông đến với các buổi ra mắt sách có liên quan đến lịch sử, đến quân đội và luôn ủng hộ mua sách từ những đồng tiền ít ỏi ông nhận được hàng tháng. Tôi được nghe rất nhiều lần từ những người bạn của ông, từ sơ giao đến thân tình, "Mỗi lần gặp anh, tôi hiểu ra nhiều vấn đề quá!".

Tôi luôn cố gắng theo Ba tôi tham gia các cuộc biểu tình nghiêm túc trong Cộng Đồng. Tôi phụ giúp giảng dạy Việt ngữ cho các em nhỏ với hy vọng góp một bàn tay phá vỡ cái nghị quyết 36 mà Việt cộng đã và đang cố gắng thực hiện tại hải ngoại qua sách báo, qua các chương trình ca nhạc của chúng. Tôi tranh thủ giờ ăn trưa trong công ty, để viết bài và tham gia tranh luận trên các diễn đàn với cố gắng "giành dân, lấn đất" với Việt cộng trên mạng điện toán. Tôi luôn mua băng gốc các chương trình ca nhạc, các tài liệu lịch sử để ủng hộ các trung tâm, các cơ sở có đường hướng chống Cộng rõ ràng. Tôi cố gắng giải thích cho các con tôi khi chúng thắc mắc về lá cờ máu chúng thấy trong sách báo.

Bạn bè tôi, có người cho tôi chống Cộng cực đoan. Là người Việt nên tôi vẫn nhớ Ông Bà ngày xưa có dạy "một câu nhịn, chín câu lành". Tôi cũng cho mình là một người Công giáo kiên định và vâng phục. Chúa tôi có dạy rằng "Nếu có kẻ tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho kẻ đó tát".

Kính thưa Ông Bà,

Việt cộng ngày xưa đày Ba con nơi rừng sâu, chỉ thả về khi Ba con khập khễng trên đôi nạng gỗ với một bệnh án sống thêm được vài tháng là hết. Mấy chị em con bị xếp vào hàng cuối cùng trong xã hội vì "trúng" đủ mọi "tiêu chuẩn" của Việt Cộng, dân Bắc di cư - đạo Công giáo - con Ngụy quân Ngụy quyền. Ngày xưa Việt Cộng gọi chúng con là đĩ điếm bám chân "đế quốc" thì nay là "khúc ruột ngàn dặm", một khúc ruột mà hàng năm có thể gửi về trong nước gần 10 tỉ "tiền đế quốc". Bao nhiêu đồng bào nghèo lê lết sống bên Cambodia hay còn kẹt lại ở Philippines, bao nhiêu công nhân làm "tôi mọi" khắp nơi, bao nhiêu cô gái bán thân khắp vùng Đông Nam Á, thì sao không là "khúc ruột"?

Trước, Việt cộng giết dân miền Bắc trong "cải cách ruộng đất", chôn sống dân miền Trung trong Mậu Thân, đày đọa, thủ tiêu quân cán chính miền Nam sau ngày "giải phóng", nay Việt cộng lại tiếp tục cướp đất của bao người dân thấp cổ, bé miệng, tiếp tục tàn phá quê hương, phá bỏ đạo đức làm người. Người dân đã chẳng những "một nhịn", mà trăm ngàn "nhịn", mà "lành" vẫn không thấy.

Ông Bà kính, làm sao có "lành" với quỷ?

Lạy Chúa, Việt Cộng đánh đồng bào con thê thảm trong "cải cách ruộng đất". Việt Cộng chôn sống đồng bào con trong Tết Mậu Thân. Việt Cộng đánh gia đình con và biết bao gia đình miền Nam tan nát sau "ngày giải phóng". Việt Cộng đày đọa áp bức đến nổi dân chúng miền Nam phải rời bỏ quê hương vượt biển Đông. Hàng ngàn người đã bỏ mình, đã ô nhục, nhơ nhớp dưới tay hải tặc. Nay Việt Cộng tiếp tục đánh phá các Cộng Đồng người Việt hải ngoại, nơi chúng con đang xây dựng lại cuộc sống mới cho thế hệ mai sau. Lạy Chúa, chẳng những cả hai má chúng con đã để cho Việt Cộng tát, mà toàn thân, lục phủ ngũ tạng cũng tang thương. Thì nay xin Chúa cho con theo câu "có lúc con phải hiền như con trừu, có khi con phải khôn ngoan như con rắn". Tôi có cực đoan không khi tôi chống Cộng hay Việt Cộng đã thay đổi chăng?

Tôi sẽ còn chống Cộng ngay cả khi Việt Cộng không còn trên quê hương tôi. Ngày quê hương thanh bình, tôi sẽ về lại vùng quê Mỹ Tho hiền hòa, mở một ngôi trường dạy học cho các em nhỏ. Và lồng trong những bài học Việt văn, toán học, tôi chắc chắn sẽ kể cho các em nghe những tội ác của Việt Cộng, nhắc cho các em những kinh nghiệm thương đau của cha ông, với một hy vọng các em sẽ không bao giờ để cái chủ nghĩa quái thai này xuất hiện một lần nữa trên đất nước thân yêu dưới bất kỳ hình thức nào.

Tôi viết bài này trong niềm tưởng nhớ người Chú, người Cậu, những sĩ quan anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong cuộc chiến, những đứa em và bà con xa gần chết trên biển Đông, vì lý tưởng tự do.

Nguyễn Khánh Vũ