Wednesday, August 5, 2009

Tuyên Cáo khẩn của CDNVTD/UC - Nhà cầm quyền CSVN yêu cầu Chính phủ Indonesia huỷ di tích của trại Tỵ nạn Galang

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Email: vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com


TUYÊN CÁO KHẨN CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

V/V: NHÀ CẦM QUYỀN CSVN YÊU CẦU CHÍNH PHỦ INDONESIA
PHÁ HUỶ DI TÍCH CỦA TRẠI TỴ NẠN GALANG

Thể theo tin loan báo trên tờ Jakarta Post ra ngày 30-07-2009, Chính phủ Indonesia đang cứu xét việc nhà cầm quyền Cộng Sản VN yêu cầu phá huỷ mhững di tích duy nhất còn sót lại của trại tỵ nạng Galang hiện đang được chính quyền và cư dân địa phương của thành phố Batam trùng tu và bảo quản như một di tích lịch sử và địa điểm thu hút khách hành hương và du lịch.

Sau khi áp lực phá huỷ tượng đài thuyền nhân Việt Nam tri ân đất nước và người dân Indonesia tại Galang vào năm 2005, nay bạo quyền Cộng Sản Việt Nam lại một lần nữa, tìm cách xoá bỏ di tích lịch sử tỵ nạn duy nhất còn sót lại tại Indonesia đó là trại Galang, Batam nơi đánh dấu sự trốn chạy chế độ Cộng Sản tàn ác và vô nhân đạo của người dân Việtnam.


Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Úc Châu:

Cực lực lên án và phản đối hành động vi phạm trắng trợn chủ quyền của CSVN trên nội bộ và quyền tự quyết của chính phủ và người dân Indonesia.
Ủng hộ những quyết định đúng đắn, nhân đạo và hợp lý của chính quyền, các thương nghiệp và người dân Batam, Indonesia trong việc bảo tồn và phát triển trại tỵ nạn Galang.

Thỉnh cầu chính phủ Indonesia tiếp tục bảo trì trại Galang như là một biểu tượng thiêng liêng của tấm lòng nhân đạo và văn hoá tốt đẹp của đất nước và người dân Indonesia đối với thế giới và người tỵ nạn VN.

Kêu gọi các cộng đồng và tập thể người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới đồng thanh lên án hành vi vô liêm sĩ và tán tận lương tâm này của CSVN. Ðồng thời tận dụng mọi phương tiện có được để vận động chính phủ Indonesia, bằng mọi giá, bảo vệ và bảo tồn di sản văn hoá, lịch sử và lòng nhân đạo lớn lao này của đất nước và người dân Indonesia cho các thế hệ mai hậu.

Úc châu, ngày 04-08-2009

Ðồng ký tên
    Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu
    Ls. Võ Trí Dũng, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do New South Wales
    Ô. Nguyễn Văn Bon, Phó Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria
    Bs. Bùi Trọng Cường, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Queensland
    Ông Ðoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Nam Úc
    Ông Phạm Lê Hoàng Nam, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Tây Úc
    Ông Lê Công, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do ACT
    Ông Lê Tấn Thiện, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Bắc Úc
    Bà Trần Hương Thuỷ, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Wollonggong.
---o0o---

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Email: vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com.

To:
    His Excellency the Hon. Susilo Bambang Yudhoyono
    President of the Republic of Indonesia
    C/o His Excellency the Ambassador of Indonesia

      Indonesian Embassy
      8 Darwin Ave
      Yarralumla – ACT 2600
Dear Mr President,
    Re: The reported consideration of the Indonesian Government to close the former Galang Refugee Camp
Our Vietnamese Community in Australia was profoundly shocked to learn that the Government of the Republic of Indonesia is reportedly considering a plan to close the last remaining of the former Indochinese refugee camps on Galang Island. Disappointingly, we have also learned that this planned closure of the Galang Refugee Camp was initiated at the request of the Government of the Socialist Republic of Vietnam.

We, the overseas Vietnamese and the Vietnamese-Australian communities, are indebted to the Indonesian Government for its noble humanitarian efforts in providing invaluable shelter to the Vietnamese refugees from the late 1970’s till the time the Galang Camp was closed in the mid 1990’s. The Camp indeed has a significant humanitarian value, and more importantly, a high historical value not only for Indonesia and its people but also for the ASEAN region. The Galang Camp epitomizes the generosity of the Indonesian people and therefore should be retained as part of Indonesia’s proud tradition for its future generation.

We noted the media comments made by the Chairman of the Association of Indonesia Tour and Travel Agencies in Batam, “…it is a popular tourist attraction for both domestic and foreign visitors…closing the former camp is equal to lowering the wages of Batam tour operators” (The Jakarta Post, Batam 30 July, 2009; “Closure of Former Refugee Camp Stirs Protest”)

We strongly believe that, for economic, humanitarian and historical reasons, the Indonesian Government together with the Batam Industrial Development Authority should work together to promote the Galang Camp as a “must to visit” place in Indonesia.

Last but not least, we note that it was the Vietnamese Government which has requested the closure of the camp. For whatever reasons, such a request by a foreign government may constitute a violation of the Indonesian sovereignty and interference into its internal affairs.

We strongly and respectfully appeal to the Indonesian Government to preserve this former refugee camp on Galang Island for its unique cultural, historical and humanitarian values and for the economic benefits that the camp has generated and continue to do so for the local Indonesians.

We are anxiously awaiting your government’s reply and thanking you in advance for your time and careful consideration on our community’s heartfelt request. We can be contacted on + 61 3 9547 7939 or at vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it

Yours respectfully,

Phong Nguyen
Federal President
On behalf of the Vietnamese Community in Australia

Co-signatories:
    Mr. Tri Vo, President, Vietnamese Community in Australia – New South Wales Chapter
    Mr. Bon Nguyen, Vice-President, Vietnamese Community in Australia – Victoria Chapter
    Dr. Cuong Bui, President, Vietnamese Community in Australia – Queensland Chapter
    Mr. Loc Doan, President, Vietnamese Community in Australia – South Australia Chapter
    Mr. Nam Pham, President, Vietnamese Community in Australia – Western Australia Chapter
    Mr. Cong Le, President, Vietnamese Community in Australia – Australian Capital Territory Chapter
    Mr. Thien Le, President, Vietnamese Community in Australia – Northern Territory Chapter
    Ms. Teresa Thuy Tran, President, Vietnamese Community in Australia - Wollongong Chapter.

Cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa và chiếc cầu ở Đông Hà



Richard Botkin – Giang chuyển ngữ

Vào giữa trưa ngày 30 tháng Ba, 1972, Bắc Quân bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lớn hơn cả về tầm vóc và mức độ của cuộc tổng công kích Mậu Thân, lần nầy Bắc Quân gần như đánh một trận đánh quy ước.

Với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất, Bắc quân đã đạt nhiều thắng lợi. Bộ tổng tham mưu Nam Việt Nam và các cố vấn Mỹ ở mãi tận Sài Gòn đã không tin nổi các báo cáo về sức mạnh và những thắng lợi của Bắc quân trong những ngày đầu tiên.

Ba ngày rưỡi đầu tiên của cái mà về sau được gọi là cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hầu như chỉ toàn là tháo lui. Yếu tố bất ngờ của lực lượng chiến đấu quy ước của Bắc Quân đã gây tổn thất nặng cho lực lượng bạn. Những trận pháo không phân biệt mục tiêu, dữ dội như những trận pháo mà các chiến binh kỳ cựu từng trải qua, đã gây thiệt hại cho từng đoàn nông dân, giờ đã trở thành dân di tản ở tỉnh Quảng Trị. Thời tiết xấu và tầm nhìn bị giảm đã hoá giải lợi thế về không lực của miền Nam. Thật không ngờ tình hình có thể xấu đi trong một khoảng thời gian ngắn đến thế.

Ngay từ đầu thị trấn Đông Hà rõ ràng đã là một mục tiêu chiến lược của Bắc Quân. Biết được rằng chiếc cầu duy nhất ngang qua Cam Lộ – sông Cửa Việt, với khả năng chịu được sức nặng của xe tăng T-54, có thể được dùng với hiệu quả khổng lồ, quân địch cần chiếm được chiếc cầu này còn nguyên vẹn. Kiểm soát được chiếc cầu này sẽ mở được cánh cửa phía Nam cho các lợi thế về sau. Ít nhất, nếu chiếm được Đông Hà thì chắc chắn sẽ chiếm được các tỉnh phía bắc.

Đơn vị đồng minh duy nhất gần vùng bão tố đang vần vũ ở Đông Hà là Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Như định mệnh đã an bài, Đại Úy John Ripley người cố vấn của đơn vị, ngày hôm ấy chuẩn bị bước vào đấu trường.

Cho đến năm 1971, John Ripley đã thực hiện hầu như tất cả những gì mà một đại úy có thể hoàn thành để xứng đáng với cương vị của mình. Sau khi đã phục vụ thành công ở Việt Nam trong cương vị một cấp chỉ huy đại đội vào năm 1967, trong khoảng thời gian này Ripley bị thương và được tưởng thưởng huân chương, sau đó ông lần lượt phục vụ với lực lượng thám sát của Thủy Quân Lục Chiến và là sĩ quan trao đổi trong lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến của Hoàng Gia Anh (những chức vụ trong Thủy Quân Lục Chiến của Hoàng Gia được tuyển chọn vô cùng khó khăn, và thường chỉ có các sĩ quan có nhiều triển vọng mới đạt được). Có một gia đình hạnh phúc và là bố của ba đứa con thơ, Ripley không cần phải trở lại Việt Nam. Thế mà ông đã trở lại.

Sự dữ dội của cuộc tấn công của Bắc Quân đã gây ra đủ thứ vấn đề về chỉ huy và kiểm soát của đồng minh. Vì tình hình vô cùng khẩn cấp, Trung Tá Gerry Turley, người vừa đặt chân đến để phục vụ với chức vụ cố vấn trưởng của vùng phía bắc, được lệnh chỉ huy tạm lực lượng tiền phương của sư đoàn 3 bộ binh. Ý thức được việc phá hủy cây cầu là một điều cần thiết, mặc dù thượng cấp ở bộ chỉ huy (vì không nhận ra được tình hình đang tan rã về mặt chiến thuật) đã ra lệnh cho ông không được làm việc này, Turley vẫn ra lệnh. Ông biết chắc rằng ông đang đưa Đại Úy Ripley vào cõi chết.

Đại úy John Ripley và "Ripley Raider" trung sĩ Chuck Goggin, Cà Lũ, 1967. Nguồn: wnd.com
Với hỏa lực bảo vệ của Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến và sự hỗ trợ của Thiếu Tá Bộ Binh John Smock, Đại Úy Ripley hoàn thành được điều coi như không thể thực hiện được: Ông xông tới và giựt xập chiếc cầu.

Không thể dùng một hình ảnh tương tự nào về thể thao để so sánh với việc Ripley làm. Không giống như chạy 1 mile (1.6 km) chỉ có 3 phút, hay là cử được quả tạ 700 lb (317.5 kg) hay là lật ngược tình thế dành được chiến thắng giải vô địch Super Bowl. Không có đám đông ngưỡng mộ. Điều Ripley làm đơn giản là điều không thể thực hiện được. Giả sử như ông thất bại trong khi cố gắng làm việc ấy, nhiều lắm các đồng đội của ông chỉ nghĩ về ông như là một người mã thượng và can đảm.

Giá trị của việc phá hủy đúng lúc chiếc cầu ở Đông Hà không nói sao cho hết – cả về tinh thần anh dũng của cá nhân Ripley và ảnh hưởng của nó đối với toàn bộ cuộc tấn công của cộng sản. Đối với những người thích suy tưởng về những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, họ có thể lý luận một cách dễ dàng rằng nếu như Bắc Quân chiếm được chiếc cầu và thị trấn vào lúc ấy, cái đoạn kết kém may mắn của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 tháng Tư, 1975 có thể đã đến sớm hơn.

Được xây dựng bởi lực lượng công binh Seebees của Hải Quân Hoa Kỳ vào năm 1967, chiếc cầu dài 200 mét, bằng bê tông cốt thép. Sự phá hủy chiếc cầu nầy đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo, thông minh và gan dạ. Mà gan dạ là chính. Ripley cần phải có cả ba để có thể gài 500 lb (227 kg) chất nổ vào gầm cầu.

Phải mất hơn một chục lần di chuyển qua lại giữa bờ sông phía nam và gầm cầu, mỗi lần ông mang khoảng 40 lb (10 kg) chất nổ, đánh đu dưới gầm cầu, chuyền bằng tay đến những nhịp cầu và những đà ngang khác nhau, phơi mình cho hỏa lực của đối phương từ bờ sông phía bắc. Công việc đạt chất nổ và gài dây nổ mất hơn hai tiếng đồng hồ.

Khi việc gài chất nổ đã xong, không kèn không trống, Smock và Ripley cho nổ tung chiếc cầu.

Kỳ công của Ripley ngày hôm ấy vẫn còn tiếp tục làm say mê lòng người. Đây không phải là hành động của một người bình thường. Sự can đảm của ông không phải là một phản ứng liều lĩnh hay là cú đấm trả đũa sau khi bị ăn đấm của kẻ thù. Hành động của ông trong cái khung thời gian ba tiếng ấy – trong khi thế giới đang sụp đổ chung quanh ông – là có ý thức, có chủ tâm, có chủ định trước. Toàn bộ tinh thần và thể xác của ông được tập trung cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ cần thiếu đi một chút là ông đã thất bại. Ngay cả trước khi bắt đầu ông đã mệt mỏi lắm, đến khi hoàn thành xong nhiệm vụ ông ở trong trạng thái không phải là trống rỗng, mà còn hơn thế nữa.

Nhờ sự phá hủy chiếc cầu, cuộc tấn công của cộng sản bị khựng lại, nhưng giao tranh vẫn tiếp diễn. Luôn luôn được giao cho những nhiệm vụ khó khăn, Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến – còn có biệt danh là Sói Biển – là một đơn vị được truyền tụng nhiều trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Trong khi hành động của Ripley vào ngày chủ nhật năm 1972 đã biến ông thành huyền thoại giữa các cố vấn và các quân nhân chuyên nghiệp cùng thời, ít nhất cũng có một nhân vật ngang ngửa với ông, người chỉ huy của Sói Biển.

Thiếu Tá Lê Bá Bình là “Thủy Quân Lục Chiến của Thuỷ Quân Lục Chiến”. Trong 18 năm lịch sử của binh chủng, ông đối với binh chủng Thủy Quân Lục Chiến giống như Chesty Puller, Dan Daly và Pappy Boyington cộng lại trong lịch sử 196 năm của Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Trạc tuổi với người bạn thân tín John Ripley, Bình đã từng thụ huấn tại The Basic School ở Quantico (Virginia) nơi mà tất cả các thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được huấn luyện quân sự. Bị thương hàng chục lần, ông đã được trao thưởng huân chương 7 lần trước khi xảy ra cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa.

Bình là một cấp chỉ huy quân sự chuyên nghiệp. Luôn luôn ở phía trước khi giao tranh đang ác liệt nhất, ông được các binh sĩ kính trọng và ông sẵn sàng chấp nhận gian khổ để đánh bại những người cộng sản mà ông căm ghét. Với thế giới quanh ông và các binh sĩ của ông đang sụp đổ và khả năng chiến đấu kém cỏi của nhiều đơn vị Việt Nam Cộng Hòa của vùng 1, ông vẫn giữ ý định tuân theo mệnh lệnh mà ông đã nhận được – giữ vững vị trí bằng mọi giá.

Các trận đánh bên trong và chung quanh trị trấn Đông Hà chỉ là một phần của cuộc tấn công rộng lớn của cộng sản. Trong khi nhiều đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Hoà lúc đầu sụp đổ trước áp lực của Bắc Quân, những tiểu đoàn của lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam, cùng với các cố vấn, đã chiến đấu kiên cường và bất đắc dĩ mới chịu lui quân.

Đối diện với cả sư đoàn gồm 20000 quân và khoảng 200 xe tăng, hơn 700 người của Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến đã giữ được Đông Hà trong bốn ngày, cho đến khi họ hoàn toàn bị vây kín và buộc phải chiến đấu để mở đường rút lui ra khỏi khu vực. Gần một tháng sau, khi những người lính còn sống sót đứng nghiêm để nghe diễn từ của cấp chỉ huy tại bộ chỉ huy vùng ở Huế, Thiếu Tá Bình chỉ đọc lên được tên của 52 người sống sót. Hai đại đội bắn bảo vệ cho Ripley khi ông và Đại Úy Smock phá hủy chiếc cầu, rồi ở lại cố thủ, chiến đấu với xe tăng và bộ đội của Bắc Quân, đã bị xóa tên cho đến người lính cuối cùng.

Cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa chấm dứt với sự thất bại của Bắc Quân, một phần không nhỏ nhờ vào những nỗ lực của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam và các cố vấn trung kiên của họ. Bất hạnh thay, gần ba năm sau sự tự do ở vùng Đông Nam Á bị kết liễu. Trong lúc đó các cố vấn Gerry Turley, John Ripley, George Philip và các người khác nữa trở về nhà, hội nhập trở lại binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và xã hội Hoa Kỳ.

Không có chuyện trở về nhà – không có chuyện hết hạn luân phiên phục vụ – cho những người như Thiếu Tá Bình và các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của ông. Họ chiến đấu với cộng sản cho đến ngày 30 tháng Tư, 1975. Lê Bá Bình không được may mắn như một số ít người tìm được một chỗ trên những chiếc trực thăng bốc người vào những ngày cuối tháng Tư. Bị bắt, ông bị tống giam vào các trại tù “cải tạo.”

Trong một khoảng thời gian dài hơn sáu lần thời gian Mỹ tham dự Thế Chiến II, Bình lao động khổ sai trong các trại. Trong suốt nhiệm kỳ của năm tổng thống Mỹ, Bình lao động khổ sai. Khi thị trường chứng khoán nhảy vọt năm 1982, Bình lao động khổ sai. Trong khi đa số những người từng phục vụ ở Việt Nam sống tiếp đời mình và hướng tới tương lai, Bình vẫn kẹt lại trong những khu rừng tre tù ngục. Rồi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1987, vụ Thiên An Môn, sự xụp đổ của Liên Bang Sô Viết, cuộc chiến vùng Vịnh, qua biết bao những thăng trầm của thế sự, Bình vẫn cứ lao động khổ sai. Luôn luôn ngạo nghễ, không bao giờ khuất phục. Những chủ nhân ông của đám nô lệ chỉ hoài công.

Thiếu tá Lê Bá Bình ở Quảng Trị trước khi bị thương lần thứ 9 (1972). Nguồn: wnd.com
Niềm Vui

Bất cứ khi nào tôi ở bên cạnh những người lính Thuỷ Quân Lục Chiến, dù là những người bạn thâm giao hay là những người bạn mới quen, những lúc ấy tôi cảm thấy một cảm giác dễ chịu và hạnh phúc rất lạ lùng. Tôi không thể nào diễn tả thành lời được. Nó khác hẳn với những khoái cảm khi được làm cha, và hơn cả những sự thích thú và sự vui sướng hồn nhiên khi tôi hồi tưởng thuở còn là một đứa bé đang chờ mong ông già Noel đến cho quà. Tôi sẽ chỉ biết gọi tên tình cảm này là vui sướng. Khi tôi kề cận các anh em Thủy Quân Lục Chiến, tôi thấy vui … vui sướng … hân hoan. Chỉ đơn giản có thể thôi. Tất cả chỉ đơn giản có thế thôi.

Trong ba ngày tôi được kề cận, đắm mình trong ánh hào quang của hàng tá những anh hùng mà tên tuổi và công trận của họ hàng triệu người Mỹ và Việt Nam sẽ không bao giờ biết đến. Những cố vấn trẻ nhất giờ đây cũng gần 60. Đa số thì già hơn, và ngoài trừ những sợi tóc bạc, tất cả vẫn còn phong độ, dáng vẫn hiên ngang, lửa vẫn còn trong mắt. Những điều đó cho thấy họ vẫn còn là – và chỉ là – Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Những nhân viên tuyển mộ cho lực lượng đã bỏ quên một lợi khí quảng cáo lớn nhất, mà hiệu quả của nó không thể lường hết được. Cứ mỗi lần tôi gặp các bạn TQLC, những điều hiển nhiên ấy lại tràn ngập lòng tôi. Đó là cái đám TQLC cùng với những người vợ, và nhờ những người vợ, trông rất thành công. Các hàng huy chương của các cố vấn vẫn không bằng các bà vợ, những người đã giữ gìn tất cả. Đây không những chỉ là những người đàn bà đẹp. Họ quả là những người đàn bà đẹp. Nhưng đây còn là những người đàn bà mà nghị lực, can đảm và nhiệt tình có khi còn hơn cả những ông chồng của họ. Đây là những người vợ có cá tính, tin tưởng vào chồng, và chính nghĩa mà chồng họ đã phục vụ, trong khi rất ít những bà vợ khác giữ được niềm tin như vậy.

Quả là một tập thể đáng để gần gũi. Rồi còn những con người Việt Nam nữa chứ.

Tôi không nghĩ rằng tôi là kẻ duy nhất nhìn lịch sử qua cái nhìn duy ngã của “kinh nghiệm của nước Mỹ” – Kinh nghiệm của Mỹ trong đệ nhị Thế Chiến, kinh nghiệm của Mỹ ở Đại Hàn, Việt Nam, chiến tranh Lạnh … hoặc bất cứ nơi nào khác. Hiếm khi nào tôi nghĩ đến đồng minh, nhất là đồng mình từ một đất nước và chính quyền đã không còn chính thức tồn tại. Thế mà họ đang có mặt ở đây với chúng tôi, hay chúng tôi đang có mặt cùng họ cũng thế. Tất cả những người lính TQLC Việt Nam, vợ con họ, đều có vẻ hãnh diện, sung túc và thành đạt. Cũng như các cố vấn anh em, những người lính TQLC Việt Nam, với bộ quần phục rằn ri, trong vẫn oai hùng, vẫn còn toát ra vẻ nhiệt tình, sẵn sàng vì nhiệm vụ.

Khi tôi được cho biết về những gì mà những gia đình này – nay đã là công dân Hoa Kỳ- phải trải qua để đặt chân đến nơi đây, những bài nói chuyện của họ, những lời kể lại của họ về tình đồng đội, sự dũng cảm và hy sinh, bằng tiếng Anh hoàn hảo hơn cái tiếng Việt của tôi nhiều, bỗng dưng trĩu nặng những ý nghĩa.

Trong toàn thể dân số của Hoa Kỳ, nhiều lắm chỉ có chừng một triệu người đã từng chiến đấu, xáp lá cà, bằng lưỡi lê, không lùi bước để bảo vệ tự do. Trong toàn thể những người sinh trưởng nơi đây, ngoại trừ những người bị bắt làm tù binh, không một người nào bị tước mất tự do của mình. Ngay cả giữa những chiến binh của chúng ta, đa số chưa từng bị nguy hiểm tới bản thân để bảo vệ tổ quốc. Với người Mỹ tự do là chuyện đương nhiên.

Tôi tự hỏi không hiểu tự do ngọt ngào như thế nào, không hiểu một người đến từ Hungary vào năm 1957, Cuba vào năm 1962, Đông Âu và Đông Nam Á sau năm 1975 yêu quý đất nước này như thế nào và hiểu như thế nào về những phước lành mà chúng ta đang thụ hưởng. Lê Bá Bình hiểu.

Sống lại với nhau những giây phút chỉ có hai người, Ripley và Bình dạo bước trong sảnh đường trống rỗng của The Basic School nơi họ có những kỷ niệm chung dù từ những thời gian khác nhau. Bao bạn bè đã ra đi. Biết bao là hy sinh. Thân thiết còn hơn là anh em, họ không cần phải giao tiếp bằng lời. Xưng hô với nhau vẫn như thời 1972, không phải vì kỷ cương quân cách nhưng phát xuất từ lòng quý mến và kính trọng, đối với Ripley thì Bình bao giờ cũng vẫn là “Thiếu Tá.”

Bình, người đã hoàn thành quá nhiều, đã từng nhìn thấy quá nhiều, đã từng trải qua tất cả những cảnh đời, là một người ít nói. John Ripley đã không thể diễn tả hết những câu trao đổi ngắn gọn sau cùng, mà không phải ngừng lại để dằn nỗi xúc động. Dừng bước để quay lại nhìn quang cảnh một lần cuối trước khi từ giã, Bình bày tỏ với người cố vấn của mình: “Ripp-lee. Tôi hạnh phúc.”

“Quả là tuyệt, Thiếu Tá. Tôi cũng sung sướng nữa”

“Không, không, không phải vậy, Ripp-lee” – như thế muốn nói với Ripley rằng ông vẫn chưa hiểu gì cả. Vỗ vỗ lên ngực mình, Bình tiếp tục. “Tôi hạnh phúc … ở tận đây. Tôi hãnh diện.”

Lê Bá Bình, chúng tôi hân hạnh ông có mặt nơi này.

Mừng ông đã về nhà, Thiếu Tá. Mừng ông đã về nhà.


Nguồn: http://www.wnd.com/news/article.asp?ARTICLE_ID=34046

(1) The Easter Offensive and the bridge at Dong Ha. World Net Daily, 12 August 2003
(2) "Mùa Hẻ Đỏ Lửa" là tựa đề của một cuốn sách của nhà văn Phan Nhật Nam, nói về cuộc tấn công của quân đội chính quy Bắc Việt vào địa đầu giới tuyến của miền Nam năm 1972.
(3) Chức vụ cuối cùng của ông Lê Bá Bình là Trung tá binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.


*****
    The Easter Offensive and the bridge at Dong Ha
By Richard Botkin

Editor's note: The following commentary is the conclusion to yesterday's column, King Kong lives!

At midday on March 30, 1972, almost by complete surprise, the North Vietnamese Army launched its single biggest assault of the Vietnam War. Larger in size and scale than the very costly but politically effective 1968 Tet Offensive, the NVA this time were fighting an almost conventional battle.

Generously supplied with seemingly unlimited artillery, Soviet armor and the latest air-defense weapons, reports of the NVA strength and battlefield successes were, for the first few days, not believed by the South Vietnamese general staff and their senior American advisers way down yonder in Saigon.

The first three and a half days of what came to be known as the Easter Offensive of 1972 were a near rout. The shock value of the new conventional NVA juggernaut was wreaking havoc with friendly forces. Indiscriminate artillery barrages, as intense as any experienced by the old hands, were especially deleterious for the uncounted masses of peasants turned refugees in Quang Tri Province. The poor weather and low visibility temporarily neutered the South's advantage in air power. It was hard to believe things could turn so negative in such a short time.

It was clear early on that the town of Dong Ha was a strategic target for the NVA. Offering the only bridge over the Cam Lo-Cua Viet River capable of supporting the heavy T-54 tanks now being used with such tremendous effect, the enemy needed to take it intact. Control of that one bridge would open the South for further exploitation. At a minimum, the turnover of Dong Ha would assure the loss of the northern provinces.

The allied unit closest to the gathering storm at Dong Ha was the Vietnamese Third Marine Battalion. As fate would have it, Capt. John Ripley was the covan (the Vietnamese name "co-van" for U.S. Marine Corps advisers means "trusted friend") that day about to enter the arena.

By 1971, John Ripley had done almost everything a Marine captain could accomplish commensurate with his rank. Having already successfully served in Vietnam as an infantry company commander in 1967, during which time Ripley was decorated and wounded, he had had subsequent tours with Marine Force Recon and as an exchange officer with the British Royal Marines. (Postings with the Royal Marines are extremely competitive and go only to the most promising officers.) Happily married and the father of three very young children, Ripley did not really need to be back in Vietnam. But he was.

The ferocity of the NVA offensive caused all manner of problems with allied command and control. Due to the extreme emergency, Lt. Col. Gerry Turley, who had recently arrived to serve as the senior covan in the northern region, was ordered to also assume control of the Third ARVN Division Forward. Recognizing the need to destroy the bridge, even though higher headquarters (who were unaware of the deteriorating tactical situation) ordered him not to, Turley gave the order. He was certain he was sending Capt. Ripley to his death.

With some cover fire provided by the men of the Third Marine Battalion and aided by U.S. Army Maj. John Smock, Capt. John Ripley accomplished what was not possible: He went out and blew up the bridge.

There is no sports analogy for what Ripley did. It was not like running a three minute mile, bench pressing 700 pounds, or pulling out a come-from-behind Super Bowl upset victory. There were no adoring crowds. What Ripley did was simply impossible. Had he failed while attempting to do it, his peers would have only thought him noble and brave for trying.

The significance of the timely destruction of the bridge at Dong Ha cannot be overstated – both in terms of Ripley's personal heroism and the impact it had on the entire communist offensive. Those who ponder alternative history could easily argue that had the NVA been able to secure the bridge and the town at that time, the unfortunate end of the Republic of Vietnam on April 30, 1975, might have been markedly speeded up.

Built by U.S. Navy Seabees in 1967, the bridge was a 200-meter concrete and steel leviathan. Its destruction required deliberate planning, intellect and guts. Mostly guts. Ripley would provide all three as he needed to distribute 500 pounds of dynamite on the structure's underside.

Making a dozen-odd trips between the southern bank of the river and the belly of the bridge, each time he shuttled roughly 40 pounds of explosives as he swung, hand-over-hand, out to the various spans and stringers, all the while exposed to enemy fire from the northern side. Placement of the dynamite and requisite wiring took more than two hours.

With the rigging complete, and without fanfare, Smock and Ripley blew the bridge. (For a superbly chronicled read of the entire action, see "The Bridge at Dong Ha" by Ripley friend and fellow covan U.S. Marine Corps Col. John Miller. For the view from the senior adviser who effectively ran the entire show during this period of the war, pick up Col. Gerry Turley's compellingly honest and painstakingly fair "The Easter Offensive." Both available at the U.S. Naval Institute or the Marine Corps Association.)

Ripley's performance that day continues to fascinate. These were not the deeds of a regular man. His bravery was not some gut reaction or counterpunch to a blow struck by an enemy. His actions in that three-hour window – with the world collapsing around him – were deliberate, willful, premeditated. Every ounce of his spiritual and physical fiber was focused on mission accomplishment. Anything less and he surely would have failed. Exhausted prior to the start, when he was finished he was way past empty.

With the bridge's destruction, the communist offensive was blunted but the fighting continued. Always seeming to draw tough assignments, the Third Marine Battalion – known as the Soi Bien or "Wolves of the Sea" – was a storied unit within the Vietnamese Marine Corps. While John Ripley's actions on Easter Sunday of 1972 would make him a legend among his brother covans and professional contemporaries, he was at least evenly matched with the man who led the Soi Bien.

Major Le Ba Binh was a Marine's Marine. He was to the Vietnamese Marine Corps, in its by-then 18-year history, what Chesty Puller, Dan Daly and Pappy Boyington combined were to the by then 196-year history of the U.S. Marine Corps. About the same age as his trusted friend John Ripley, Binh had even served as a student at The Basic School in Quantico where all American Marine lieutenants are schooled in the warrior arts. Wounded at least a dozen times, he had already been decorated for valor on seven separate occasions when the Easter Offensive began.

Binh was the consummate combat leader. Always out front where the action was heaviest, he was revered by his men and would endure any burden to defeat the hated communists. With the world crumbling around his Marines and the generally poor showing being put forth by most ARVN units in Military Region 1, he intended to follow the orders he received – to hold at all costs.

The battles in and around Dong Ha were only part of the much larger communist offensive. While many other ARVN units initially collapsed under NVA pressure, the various battalions of the Vietnamese Marine Corps, along with their covans, fought with tenacity and gave ground grudgingly.

Facing an entire 20,000 man division with an estimated 200 tanks, the 700-plus men of the Third Marine Battalion held Dong Ha for four days, until they too were completely surrounded and were forced to make a fighting withdrawal from the area. Less than a month later, as those who remained stood in formation to be addressed by their commandant at the regional headquarters in Hue, Maj. Binh would muster only 52 survivors. The two companies which had provided Ripley with cover fire while he and Major Smock destroyed the bridge, and then remained in place to battle the NVA armor and infantry, had been wiped out to the last man.

The Easter Offensive ended in failure for the NVA, in no small part thanks to the efforts of the Vietnamese Marine Corps and their faithful advisers. The unfortunate demise of freedom in Southeast Asia would come nearly three years later. In the meantime, covans Gerry Turley, John Ripley, George Philip and all the others headed home to be reabsorbed back into the regular Marine Corps and American society in general.

There was no going home – no rotation date – for Major Binh or his Marines. They fought the communists right up until and past April 30, 1975. Le Ba Binh was not among the fortunate few able to secure spots on the extraction helicopters that last day of April. Captured, he was sentenced to the "re-education camps."

In a time period six times longer than America's involvement in World War II, Binh labored in the camps. Through the terms of five American presidents, Binh labored. When the Great Bull Market lifted off in 1982, Binh labored. While most who served in Vietnam moved on and pressed ahead, Binh was stuck in the bamboo gulag. Through the stock market crash of 1987, Tiananmen Square, the collapse of the Soviet Union, the Gulf War, the ups, the downs – through it all, Binh labored. From 1975 up until the time of his release in 1998 and subsequent movement to the United States, Binh labored. Ever defiant, never broken, his slave masters toiled in vain.

Joy

Whenever I am with Marines, whether long-time friends or new acquaintances, there is a peculiar level of comfort and happiness unique always to those times. I am not quite able to reduce those feelings to words. It is different than the pleasure that comes from being a father, and exceeds the delight and youthful exuberance I recall as a little boy awaiting Santa's arrival. I would describe it simply as joy. When I am with brother Marines, I feel joy ... joyful ... joyous. That's it. That's all.

For three days I was allowed to hang with, to bask in the reflected glory of several dozens of heroes whose names and deeds the many millions of Americans and Vietnamese they served will never know. The youngest covans are now in their late 50s. Most are older, and except for a touch of graying hair they all – to a man – have that same comportment, the ramrod-straight bearing, the fire in their eyes that identifies them still as – only as – U.S. Marines.

Recruiters for the Corps have left one of their greatest, unquantifiable marketing tools completely off the table. Each time I am with Marine friends, the evidence overwhelms me yet again – that is how well Leathernecks do with and by the women they marry. More impressive even than the array of valor and Purple Heart medals among the covan warriors were the wives who kept it all together. These were not just women who look good. They do. These are women equal to or greater than their men in terms of grit and pluck and spirit. Women of character who kept the faith in their men and the cause they served when few others did.

What a group to be around. And then there were the Vietnamese.

I doubt I am unique in my viewing of history always from the solipsism of the "American experience" – the American experience in World War II, the American experience in Korea, Vietnam, the Cold War ... wherever. Rarely is my consideration for allies, especially allies from a country and government which no longer officially exists. Yet, here they were with us, or we with them. All these Vietnamese Marines, their wives and children, looking proud, prosperous, accomplished. Like their covan brothers, the Vietnamese Marines, clad in their signature tiger-striped uniforms, still formidable, retain that eager-for-action, lock-and-load aura.

When I was told what so many of these now-American families had been through to get here, their speeches, their testimonies of comradeship and bravery and sacrifice, in English far more perfect than my Vietnamese, became heavy with meaning.

In the entire American population there are, at most, a million men living who have actually really fought the up-close and personal, fixed bayonets, give no quarter fight for freedom. Of the entire native born, except maybe for those who have been prisoners of war, there are none who have had their freedom taken from them. Even among our own warriors, most have never had to risk more than their own lives in our nation's defense. For Americans, freedom is a given. It is assumed.

I wonder how sweet freedom must seem and how much someone who came from Hungary in 1957, Cuba in 1962, Eastern Europe or Southeast Asia after 1975 must love our country and truly know the blessings we enjoy. Le Ba Binh knows.

Spending time alone together, Ripley and Binh toured the hallowed halls of The Basic School where they had common memories from different times. So many friends gone. So much sacrifice. More familiar with one another than brothers, the communication was mostly non-verbal. Referring to each other as they did in 1972, not because of rigid formality but out of love and respect, Binh is still "Thieu Ta" – Vietnamese for "Major" – to Ripley.

Binh, who has done so much, seen so much, experienced it all, is a man of few words. John Ripley cannot describe their brief, final exchange without pausing to acknowledge his own emotions. Stopping to look back one last time before leaving, Binh reflected to his covan: "Ripp-lee. I am happy."

"That is good Thieu Ta. I am happy too."

"No, no, no Ripp-lee" – as if to tell John Ripley he did not quite get it all. Tapping his fingers over his own heart, he continued. "I am happy ... in here. I am proud."

Le Ba Binh, we are glad you are here.

Welcome home, Thieu Ta. Welcome home.



Nước mắt cho Mai Cồ Giắc Sần trong nước và vấn đề giáo dục của CSVN - Phan Trần

Phan Trần

Một số tuổi trẻ của thủ đô Hà Nội đã xụt xùi nhỏ lệ trước cái chết của MJ, trong khi mắt lại ráo hoảnh đối với sự tồn vong của tổ quốc, cũng như đối với biết bao thảm trạng khổ đau của người dân. Ðiều này đã chứng tỏ là vấn đề giáo dục của CSVN đã ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và suy tư của một thế hệ thanh niên.

Trong giới trẻ VN ngày nay, bao nhiêu phần còn coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất, và còn quan tâm tới vấn đề đạo lý đạo đức?

Một khảo sát của Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn thuộc Ðại học Sư phạm của Sàigòn, được tờ Việt Báo điện tử của CSVN phổ biến ngày 14/7/09, cho thấy:

"41% sinh viên không thích sống cao thượng, thiếu hy sinh vì cộng đồng; 36% sinh viên đồng tình rằng làm việc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt; 32% sinh viên chấp nhận hành vi vô ơn, không xem đó là chuyện phi đạo đức; 28% sinh viên có tư tưởng trả thù, báo oán."

Nội dung bản khảo sát này của Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn cùng với hình ảnh người trẻ VN, đầm đìa nước mắt khóc thương MJ đã phản ảnh rõ nét về hậu quả của chính sách giáo dục ngu dân của nhà cầm quyền Hà Nộị Không cần phải lục lọi tìm kiếm những tài liệu liên quan tới vấn đề giáo dục của CSVN, chỉ cần liếc qua vài trang báo điện tử của CSVN về một số tin tức liên quan tới giáo dục và thi cử, cũng quá đủ để thấy được sự thật nàỵ

- Ðối với học sinh, sinh viên:

Dưới đây là một vài nhận xét của những người chấm thị Theo tờ Xã Luận ngày 12/06/09: "Chúng tôi bắt gặp vô vàn các bài văn hạn chế, yếu kém. Chữ viết cẩu thả, trình bầy tệ hại, sai chính tả, câu văn què cụt, diễn đạt ý tứ sai lạc. Thí dụ "Lỗ Tấn sinh năm 1985, mất năm 1963" hay "Tô Hoài sinh năm 1920, quê Nghệ An, năm 1960 ông có 200 bài thơ và ÐẠT KỶ LUẬT (kỷ lục) nhà thơ VN".

Còn trên tờ Dân Trí, thì: "Về kiến thức văn học, càng tệ hại hơn, khi có một em viết Bình Ngô Ðại Cáo là của Lý Thường Kiệt" và: "kiến thức về lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn hoá dân tộc của sinh viên ngày nay đang ở mức "báo động đỏ". Một bộ phận sinh viên đang dần lãng quên các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc"

- Ðối với giới thầy cô:

Ngày 09/01/2007, trong mục "Ai là triệu phú" trên đài truyền hình VTV3 Hà Nội, cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Ðại học Sư phạm Thái Bình, khi được hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn, đã trả lời Tự Lực Văn Ðoàn là một gánh hát cải lương, và Nhất Linh là một kép hát; và nhờ một đồng nghiệp mách cho biết Hoàng Ðạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh và Thạch Lam. Kiến thức của hai giảng sư đại học Sư phạm là như thế đấy!

Tin trên tờ Tuổi Trẻ ngày 14/07/09 cho biết: "Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở Dăkman tỉnh Komtum Bùi Công Nam cùng hai giáo viên khác đánh một giáo viên đến phải nhập viện". Còn tờ Việt Báo ngày 15/6/09 loan tin là 8 cán bộ giảng viên trong đó có cả Tiến sĩ của Học viện Tài chánh đánh bạc ngay trong trường.

Với kiến thức và tư cách của thầy cô như vậy mà học sinh sinh viên không ngu mới là điều lạ!

- Về thi cử:

Vấn đề gian lận trong việc thi cử hầu như là chuyện bình thường không những đối với thí sinh mà còn với cả giám khảo nữa. Vì thế mới có cảnh theo như tờ Việt Báo đưa tin: "Chiều ngày 29/05/08 Thứ trưởng Bành Tiến Long cùng đoàn thanh tra bộ Giáo Dục/ Ðào Tạo đã chứng kiến cảnh "phao" rải trắng phía sau phòng thi ở Thanh Hóa "Phao" cũng xuất hiện nhiều ở Hà Tây, Ninh Bình, Hà Nội v.v....". Còn tờ Pháp Luật ngày 18/06/09 cho biết "nhiều trường Trung học phổ thông ở Huế đỗ tốt nghiệp 100%, và số ra ngày 19/06/09, thì: "17 trường Trung học Phổ thông ở Saigon tốt nghiệp 100%", trong khi đó, thực tế cho thấy "hơn 99% điểm Khối A Ðại học Kỹ thuật Công nghệ dưới điểm trung bình" theo như tờ Việt Báo loan tin ngày 23/07/09. Về môn Toán của Ðại học Lạc Hồng, 99.41% dưới điểm 5, nghĩa là chỉ có 16 người trong tổng số 2711 thí sinh có số điểm trên 5. Ðối với Ðại học Ðà Lạt, hầu hết các môn thi đều có điểm dưới 5, tỷ lệ này chiếm 95%. Ðó là theo những tin tức trên tờ Tuổi Trẻ những ngày 22 và 23 tháng 7 năm 2009. Còn theo tờ Vietnam Media ngày 09/07/09 tại trường Ðại học Luật "đa số thí sinh đều hoảng về môn Sử". Về đề thi, tờ Dân Trí ngày 19/07/09 trích lời Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải là: "Lịch sử thi cử ở VN trong 15 năm nay, năm nào cũng có đề thi sai ở cấp huyện, cấp tỉnh và cấp bo^.. Chu+a bao giờ những người ra đề sai nhận rằng là đề sai". Năm nay đề thi Vật lý cũng lại saị

- Về đào tạo Tiến sĩ:

Tờ Ðại Ðoàn Kết ngày 22/07/09 đã viết một câu quá ngắn, nhưng lại rất nhiều ý nghĩa: "Quá nhiều tiến sĩ giấy". Còn tờ Tổ Quốc ngày 15/07/09 trích lời PTT kiêm Bộ trưởng Giáo Dục/Ðào Tạo Nguyễn Thiện Nhân như sau: "Có lần tôi gặp hiệu trưởng của một trường đại học có uy tín về đào tạo tiến sĩ, tôi có hỏi, trong luận án tiến sĩ của nghiên cứu viên ở trường có gì mới lạ không, vị hiệu trưởng trả lời là không có gì mới cả, vì những cái mới thì thế giới đã làm hết rồi!". Tiến sĩ của CSVN là thế đó. Ấy là chưa kể loại tiến sĩ mua bằng cấp, tiến sĩ thuê người làm luận án, và một số "chuẩn" tiến sĩ đi Pháp để lấy bằng tiến sĩ đã bị đuổi về vì không thông hiểu Pháp ngữ như tin tức được loan tải mấy năm trước đâỵ

Thực trạng giáo dục của CSVN như thế cũng không có chi lạ, vì đó là "ý đồ" của CSVN trong chiều hướng giáo dục ngu dân, ngõ hầu triệt tiêu được tinh thần yêu nước thương nòi của người dân, để chúng dễ dàng duy trì được quyền và lợi, và lại cũng dễ dàng thi hành bổn phận đầy tớ đối với quan thầỵ

"Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau", một câu hát rất mộc mạc bình dị nhưng lại chuyên chở một ý nghĩa vô cùng trọng đại: học sinh, sinh viên chính là tài nguyên quý báu của quốc giạ Hôm nay là học sinh, sinh viên, ngày mai sẽ là những người điều hành đất nước, sẽ là những người lãnh đạo quốc giạ Tổ quốc và dân tộc Việt Nam trông đợi được gì ở đa số giới trẻ VN ngày nay dưới chính sách giáo dục của CSVN!.

Ðể có một tương lai tươi sáng cho tổ quốc và dân tộc VN, chỉ có một cách duy nhất là chế độ và đảng CSVN này phải bị thay thế.

Vậy thôi!

Phan Trần

Monday, August 3, 2009

Hãy Gọi Nước Tàu Là Trung Cộng, Đừng Gọi Là Trung Quốc - Kim Khôi

    Không Tán Trợ Tham Vọng Bành Trướng Của Hán Tộc:
    Hãy Gọi Nước Tàu Là Trung Hoa, Đừng Gọi Là Trung Quốc

    Kim Khôi (Hiến Chương 2000), Cập Nhựt 2009/07/26
(Lời mở đầu: Bản tính của người Việt “Quốc Gia” (từ nầy để chỉ người Việt Nam sống ở Miền Nam trước đây, đặc biệt là người Việt đang tỵ nạn Cộng sản tại Hải Ngoại) là Giàu Tình Cảm và Dễ Dãi.

Vì giàu tình cảm nên chúng ta đã chống Cộng theo một cách thức rất trái khoáy: Vừa chống lại tập đoàn cầm quyền trong nước – với mục đích giải thể chế độ Cộng sản - vừa ồ ạt gởi tiền về để nuôi dưỡng chế độ (theo thống kê của giới hữu trách CSVN thì năm 2007 Việt Kiều gởi về đến 6 tỉ usd theo đường chính thức !). Đó là chưa kể có rất nhiều người Việt tại Hải Ngoại tình nguyện xin đi “đổ vỏ ốc” (chữ của Đỗ Văn Phúc) để đảng/nhà nước rảnh tay thi hành các biện pháp kềm kẹp dân chúng, vơ vét tài sản quốc gia, ăn chận tiền viện trợ, tiền vay của nước ngoài, và, để giai cấp thống trị có thì giờ ăn tiêu phung phí số tiền vơ vét kia mà khỏi phải bận tâm gì đến sự bất hạnh, nỗi cùng cực của những người già yếu bệnh tật. Vì dễ dãi nên Hải Ngoại “tiếp thu” vô điều kiện những sản phẩm “văn học, nghệ thuật” từ trong nước, rõ nét nhất là việc dùng từ ngữ. Các phương tiện truyền thông, báo chí … Hải Ngoại có khuynh hướng bắt chước cách dùng từ ngữ trong nước, bất luận đúng sai, nên hay không nên, chỉ cần mới là được ! Những từ “động thái” (hành động + thái độ) được dùng để thay thế cho từ “hành động” mặc dù nó không chính xác, “nội hàm” dùng thay cho “nội dung” (không cần thiết phải thay !), “chí ít” thay cho “ít nhất” (không chính xác: ít nhất / nhiều nhất , chí ít = đến ít (?) / chí nhiều (? !). Thảm hại hơn cả là dùng từ “chất lượng” (phẩm chất + định lượng / số lượng) để thay thế cho từ “phẩm chất”. Cách dùng từ “chất lượng” như vậy vừa thể hiện sự dốt nát, vừa nói lên sự thiếu tự tin, ưa bắt chước. Lại có những trường hợp dùng từ ngữ vô ý thức đến độ phải đau lòng như khi chính những sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (đã từng bị VC bỏ tù) hoặc gia đình họ, sau khi ra Hải Ngoại kể lại chuyện cũ vẫn còn dùng nhóm chữ “hồi mới giải phóng” (giải phóng ai ?). Đã được giải phóng sao còn bỏ nước ra đi ?), hay “ngụy quân”, “ngụy quyền” (tự mình sỉ mạ mình mà không hay !). Không đơn giản như mấy trường hợp trên, việc dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa lại mang một ý nghĩa chính trị. Hiện nay Hải Ngoại vẫn đang tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc” ngay trong thời điểm làn sóng phẫn nộ đang dâng cao trong lòng người Việt tại năm châu bốn bể khi hay tin Trung Hoa, vào ngày 06/12/2007, hợp thức hoá hành động xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ta. Vậy chúng ta có nên xét lại thói quen dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa hay không ?. Cách gọi như vậy có cần thiết và thích đáng không ?. Có nên cải bỏ thói quen bất lợi đó không ?. Đó là lý do có bài viết nầy. Tôi vẫn biết thay đổi một thói quen không phải là dễ dàng gì, mà lại là thói quen có từ cả ngàn năm rồi thì càng khó khăn vô cùng, nên tôi rất đắn đo khi định viết bài nầy. Thế nhưng đứng trước hiện trạng đất nước đang bị Trung Hoa dùng mọi thủ đoạn để lấn chiếm, lại gặp phải tập đoàn cầm quyền Hà Nội vừa hèn nhát, vừa ngu muội đang tâm chịu cúi đầu làm nô lệ cho Bắc kinh, sẵn sàng bán biển, bán đất của Tổ Tiên cho kẻ thù truyền kiếp Bắc phương, và còn nhiều nhượng bộ thảm hại hơn nữa … miễn sao bọn chúng được Trung Hoa hứa bảo đảm cho chúng giữ được độc quyền cai trị đất nước. Vì thế tôi quyết định viết bài nầy, xem như đốt đóm lửa của một que diêm hầu mong quý vị thức giả, những ai còn quan tâm đến tiền đồ của Dân Tộc Việt tiếp tay, thêm sức thổi bùng ngọn lửa yêu nước đang ngầm cháy trong trái tim của mỗi người dân Việt, may ra có xoay chuyển được tình thế, cứu vãn được đất nước thoát cơn nguy biến !. Với khả năng rất hạn hẹp, chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, kính mong các bậc trưởng thượng, quý vị thức giả châm chước và chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm tạ trước.

Hiện nay trên thế giới có vào khoảng 184 nước. Mỗi nước đều được đặt cho một cái tên, trước hết là để thể hiện ý nghĩa mà dân tộc của nước đó muốn nói lên, thứ đến là để bày tỏ chế độ chính trị hiện hành, cuối cùng là để phân biệt với các nước khác hầu tiện việc giao dịch trong các sinh hoạt trong cộng đồng các khu vực hay trong cộng đồng quốc tế. Như vậy việc đặt tên cho một nước là cần thiết và tất yếu. Tên của một nước lại có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh chính trị của nước hay dân tộc đó, chính vì thế một nước có thể có nhiều cái tên cũ mới khác nhau, và do đó, cũng có thể được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau – Ví dụ Thái Lan, Xiêm La, Xiêm; Mỹ, Hoa Kỳ; Đại Hàn, Cao Ly, Triều Tiên; Tàu, Trung Hoa, Trung quốc … – Tuy nhiên trên giấy tờ hành chánh, mỗi nước chỉ có một tên có giá trị pháp lý và được cộng đồng thế giới công nhận. Trong bài nầy chúng ta quan tâm đến việc dùng tên của một nước trên thực tế, nghĩa là dùng theo thói quen hay trên các phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở …

Như trên đã trình bày, trên thực tế một nước có thể được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau. Việc gọi tên một nước cũng khá rắc rối vì nước nào cũng dùng ngôn ngữ và chữ viết riêng của nước mình để gọi tên nước mình, mà trên thế giới hiện nay có khá nhiều thứ tiếng nói và chữ viết được xem là phổ thông. Để thuận tiện cho việc gọi hay viết tên các nước trong cộng đồng thế giới, từ lâu người ta đã đồng thuận “la tinh hoá” tên của nước đó, đồng thời tên của một nước được chấp nhận viết hay gọi bằng Anh hay Pháp ngữ là hai thứ chữ tương đối phổ biến trong việc giao dịch quốc tế. Nhờ sự “la tinh hoá” nầy mà các văn thư chính thức và báo chí có thể viết và gọi tên các nước một cách tương đối thuận tiện hơn. Tôi nói “tương đối” vì trên thực tế mỗi nước khi viết hay gọi tên của một nước khác đều dùng ngôn ngữ và chữ viết của chính nước mình – dù tên nước đó đã được “pháp hoá” hay “anh hoá” – để cho dân chúng trong nước có thể đọc và hiểu được. Do tình trạng trên, một nước có thể dùng cả hai dạng: Dạng “phiên âm” và dạng chính thức để gọi tên một nước khác.

Để rõ ràng hơn chúng ta có thể dùng việc gọi và viết tên một nước của người Việt chúng ta, tức dùng chữ /tiếng Việt để gọi và viết tên các nước khác. Từ lâu người Việt chúng ta có thói quen dùng dạng “phiên âm” để viết và gọi tên một số nước quen thuộc như Anh-Cát-Lợi, Pháp-Lang-Sa, Cao-Ly, Ấn-Độ, Ma-Rốc … đó là do ảnh hưởng của Trung Hoa trong việc họ “phiên âm” tên của những nước nầy để dùng cho thuận tiện. Lại nữa cũng do tình trạng ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, nên người Việt chúng ta lại còn có thói quen dùng từ hán việt “QUỐC” đặt sau tên của một số nước quen thuộc (sau khi đã được tỉnh lược hay “biến dạng”) để gọi nước đó, ví dụ: Mỹ quốc, Pháp quốc, Anh quốc, Hồi quốc, Hàn quốc … Như vậy việc dùng chữ “quốc” đặt sau tên của một nước để gọi nước đó là rất bình thường. Thế thì tại sao trong bài nầy chúng tôi lại đặt vấn đề “Nên gọi nước Tàu là Trung Hoa hay Trung quốc” ? Đó có phải là “vẽ rắn thêm chân” hay “chẻ sợi tóc làm tư” hay không ?. Chúng tôi xin thưa là KHÔNG, trái lại đây là một vấn đề cần được xem xét lại. Lý do chúng tôi sẽ xin trình bày như sau:

Tuy chúng ta thường dùng chữ “quốc” để viết và gọi một số nước quen thuộc như Lào quốc, Anh quốc, Ý quốc … thế nhưng khi dùng chữ “quốc” đặt sau chữ “Trung” để gọi nước Trung Hoa (hay Tàu) là Trung Quốc nó lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác những trường hợp trên. Vấn đề nầy nó đã bắt rễ từ quá khứ xa xăm, cho nên muốn lý giải cho rõ ràng cần phải điểm qua một chút về lịch sử Trung Hoa, và sự ảnh hưởng của Trung Hoa đối với Việt Nam từ trước đến nay.

Như chúng ta biết, qua những khảo cứu mới nhất đã xác định người Hoa không phải là dân bản xứ trên lục địa Trung Hoa ngày nay, kể cả nơi mà Trung Hoa thường cho là địa bàn phát tích của người “Hán” là vùng bình nguyên hợp bởi các sông Hoàng Hà, sông Vị, sông Hoài, sông Hán. Nguồn gốc của họ là một giống dân du mục từ miền tây bắc tràn xuống. Sinh kế của giống dân nầy là chăn nuôi và săn bắn nên họ chuyên dùng vũ lực và chiến đấu rất giỏi. Khi tràn xuống đến vùng bình nguyên tạo thành do các sông Hoàng Hà, sông Hoài, Sông Hán thì họ nhận thấy vùng nầy đất đai màu mở nên đã đánh đuổi các thổ dân đã định canh định cư ở đây lâu đời, chiếm đất dựng nên nước Trung hoa thời cổ đại. Quá trình phát triển của nước Trung Hoa ngay thời bấy giờ đã là một quá trình chiến tranh xâm lược, bành trướng, thôn tính và đồng hoá các dân tộc khác.

Tương truyền rằng họ lập quốc từ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, nhưng mãi đến đời vua Nghiêu mới xưng danh hiệu. Vua Nghiêu có họ Đào Đường nên lấy quốc hiệu là Đường. Vua Thuấn kế nghiệp vua Nghiêu đóng đô ở Bồ Bản thuộc đạo Hà Đông, tỉnh Sơn Tây, lấy quốc hiệu là Ngu. Đến đời nhà Thương (1766 – 1122 trước TL) họ xưng là “Trung Quốc” vì tự cho mình là nước văn minh nhất ở trung tâm thế giới. Từ “Trung Quốc” được tìm thấy trong các thư tịch cỗ như Thượng Thư, Kinh Thi. Trong Kinh Thi có câu “Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy tứ phương* nghĩa là lấy ân huệ của Trung Quốc để an định bốn phương.

(*) Cội Nguồn Việt Tộc, Phạm Trần Anh, trang 48.
“Trung quốc” là nước có nền văn minh cao nhất mệnh danh là văn minh Hoa Hạ. Chính hai chữ Hoa Hạ đã biểu lộ tính tự cao, tự đại của giống dân nầy, vì theo Hán tự Hoa có nghĩa là tinh hoa, rực rỡ, thịnh vượng và Hạ là to lớn, nước ở giữa. (Cũng có thuyết cho rằng Hoa Hạ là vùng đất có núi Hoa, sông Hạ tức sông Hán, nơi “phát sinh” giống dân nầy, nhưng thuyết nầy ngày nay không còn đứng vững nữa vì nhờ các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đã giúp cho các môn Nhân chủng học, khảo cổ học … xác định là nguồn gốc của người Hoa không phải phát xuất từ vùng đất nầy).

Với bản chất kiêu căng đó, họ cho rằng Trung Quốc là nước văn minh nhất nằm ở trung tâm thế giới, còn tất cả các nước khác ở chung quanh đều là man-di-mọi-rợ, vì thế Trung Quốc được giao cho trọng trách thay trời cai trị và khai hoá thiên hạ. Họ chủ trương “Dĩ Hạ biến Di” (lấy nền văn minh Hoa Hạ để khai hoá các dân tộc mọi rợ). Địa bàn do giống dân nầy cư ngụ gọi là Trung Hoa (nước có nền văn minh rực rỡ và cường thịnh nằm ở trung tâm), cư dân gọi là Hoa nhân (người Hoa). Sự thực vùng đất mà vương triều nhà Thương trực tiếp cai trị chỉ là vùng đất hẹp gần kinh đô gồm phía đông tỉnh Sơn Tây, phía tây tỉnh Sơn Đông, phía nam tỉnh Hồ Bắc và phía bắc tỉnh Hồ Nam được gọi là “Trung Nguyên” còn các vùng chung quanh đều do các chư hầu cai quản, phần lớn là dân bản địa đã bị đồng hoá sống chung với người Hoa.

Nhà Chu tiếp nối nhà Thương đại diện cho vương quyền của người Hoa, có thiên mệnh cai quản và giáo hoá thiên hạ, nên vương triều ở Trung Nguyên được xưng là Thiên Triều, hoàng đế là Thiên Tử để phân biệt với vua và triều đình các nước chư hầu. Lối xưng hô trịch thượng nầy trở thành truyền thống và sau khi nhà Tần thống nhất đất nước không còn tình trạng cát cứ của các nước chư hầu nữa thì lối xưng hô nầy được áp dụng đối với các thuộc quốc như Việt Nam, Triều Tiên … về sau nầy. Đến thời Chiến Quốc nhà Chu đã suy yếu nhiều, các nước chư hầu lớn thôn tính các nước nhỏ (nước phụ dung) và gây chiến tranh với nhau để xưng Bá dưới danh nghĩa “Tôn Chu diệt di” (Tôn phù nhà Chu, tiêu diệt mọi rợ) nghĩa là vẫn theo đuổi chủ trương xâm lăng, tiêu diệt các dân tộc khác để bành trướng đất đai.

Cuối thời Chiến Quốc, Tần Thỉ Hoàng gồm thâu lục quốc, thống nhất “thiên hạ”, lập nên một quốc gia theo chế độ trung ương tập quyền chuyên chế. Về mặt địa lý đất nước nầy đã được mở rộng về phía tây và phía nam: Phía tây đến tận Lũng Tây, phía Nam bao gồm cả vùng Hoa nam hiện nay. Tần Thỉ Hoàng cũng thống nhất chữ viết, đơn vị đo lường, kích thước đường sá, xe cộ trong toàn cõi đế quốc do ông cai trị nhờ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hoá cho các triền đại về sau. Vì Tần Thỉ Hoàng quá bạo ngược nên nhà Tần chỉ kéo dài đến đời thứ hai là Tần Nhị Thế thì bị Hạng Võ rồi Lưu Bang tiêu diệt.

Lưu Bang lập nên nhà Hán, tuy vẫn theo chế độ trung ương tập quyền và thừa hưởng những kết quả cải cách của Tần Thỉ Hoàng nhưng đã khôn khéo giảm nhẹ thuế khoá, bồi dưỡng sức dân, tạo nên cảnh an cư lạc nghiệp nên đất nước được phát triển về mọi mặt từ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … Có thể nói đây là triều đại đầu tiên xây dựng nên một nước Trung Hoa thống nhất, ổn định, cường thịnh và phát triển. Về phía Tây, địa giới của nhà Hán bao gồm cả Mông Cổ và Tân Cương. Họ đã mở ra con đường tơ lụa để giao thương với Tây Phương. Vì cả vùng Trung và Đông Á đều được hưởng sự thái bình trong một thời gian dài nên được các sử gia Tây Phương gọi là Thái Bình Trung Hoa (Pax Sinica) tương đương với thái bình La Mã (Pax Romana). Chính do thời đại phát triển rực rỡ đó nên người Hoa tự xưng là “Hán Tộc”, một sắc dân đông đảo nhất của Trung hoa, nắm quyền cai quản các sắc dân khác đã bị đồng hoá trong quá trình bành trướng lãnh thổ. Và cũng từ đó, chữ viết của họ được gọi là Hán tự.

Hán triều tiếp tục dùng vũ lực xâm chiếm các nước nhỏ yếu chung quanh để mở mang bờ cõi theo chủ nghĩa Đại Hán. Vẫn với não trạng tự tôn cố hữu, Hán tộc tự cho mình là giống dân cao quí nhất, văn minh nhất trong thiên hạ được trời giao cho trách nhiệm giáo hoá các giống dân khác. Người Hán rất kỳ thị chủng tộc, khinh khi tất cả các dân tộc sống chung quanh, gán cho các giống nầy những cái tên thật thấp hèn để thỏa mản bản chất kiêu ngạo của họ. Họ gọi người sống ở phía đông là Di (Triều Tiên, Nhật Bản), phía tây là Nhung (Thổ Phồn, Tây Hạ), phía Nam là Man (người Việt, người Choang ở Quảng Tây, người Mân ở Phúc Kiến) phía bắc là Địch (Hung Nô, Kim, Khiết Đan, Hồ, Đột Quyết). Để thể hiện thái độ khinh thị nầy, trong chữ Hán có kèn theo các bộ “khuyển” (chó), bộ “trãi” (trĩ, loài sâu bọ), bộ “mã” (ngựa) để gọi những giống dân sống chung quanh. Các triều đại về sau, kể cả chính quyền Trung Hoa hiện nay vẫn theo đuổi chính sách nhất quán của nhà Hán là “Đại nhất thống thiên hạ” để lấn chiến đất đai. Chủ nghĩa nầy ngày nay thường gọi là “Chủ nghĩa Đại Hán”, còn chính quyền Hà Nội trong thời gian xung đột với Trung Hoa thì gọi là “Chủ nghĩa sô-vanh nước lớn” hay “Chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc”.

Sự thật Hán tộc không phải là một dân tộc thượng đẳng được trời giao cho nhiệm vụ cai quản và giáo hoá các giống dân khác như họ tự tôn xưng, “Trung Quốc” cũng không phải là một nước hùng cường bách chiến bách thắng mà họ cũng bị chi phối bởi định luật “thịnh suy” như tất cả các dân tộc hay quốc gia khác. Qua quá trình lịch sử ta thấy dưới đời nhà Tống, Trung Hoa đã bị nước Liêu và Kim liên tiếp quấy nhiễu. Năm 1126 quân Kim đánh chiếm kinh đô Khai Phong, bắt vua Tống Huy Tông, tiêu diệt Bắc Tống. Về sau Tống Cao Tông phục nghiệp đóng đô ở Lâm An gọi là Nam Tống. Sau đó Trung Hoa bị người Mông cổ xâm lăng lập nên nhà Nguyên, cai trị Trung Hoa gần một trăm năm (1271 – 1368). Đến thế kỷ 17 Trung Hoa bị người Mãn Châu xâm lăng. Năm 1644 người Mãn Châu chiếm Trung Hoa lập nên nhà Thanh, cai trị 267 năm (1644 – 1911). Điều trớ trêu là hai dân tộc Mông Cổ và Mãn Châu tuy đã chiến thắng, chiếm đóng và cai trị Trung Hoa trong một thời gian khá dài, nhưng vì căn bản văn hoá thấp (không được như Việt tộc chúng ta) lại quá sùng bái nền văn minh tại Trung nguyên, nên bị nền văn minh của Trung Hoa âm thầm đồng hoá. Khi đế quốc Mông Cổ cũng như Mãn Châu bị tan rả, chẳng những hai dân tộc nầy bị hán hoá mà cả đất nước của họ cũng bị sát nhập vào Trung Hoa dưới sự cai trị của người Hán.

Tệ hại nhất là vào hậu bán thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 Trung Hoa bị các nước Tây Phương lấn áp phải ký các hiệp ước Nam Kinh 1842 và hiệp ước Thiên Tân 1854 dành cho người Tây Phương quá nhiều đặc quyền. Nước Trung hoa bấy giờ ngày càng suy yếu mặc sức cho người Tây Phương xâu xé, khinh khi, nhục mạ (như cấm người Hoa và chó vào các công viên của Tây Phương ngay trên đất Trung Hoa chẳng hạn). Thêm vào đó cuôïc chiến tranh Trung Nhật năm 1894 -1895 đã làm cho người Trung hoa càng thêm mất mặt khi hạm đội Bắc Hải bị hạm đội của Nhật Bản tiêu diệt. Năm 1932 Nhật chiếm Mãn Châu, Nội Mông, ngày 07/7/1937 Nhật dựng lên vụ Lư Câu Kiều để khai chiến với Trung Hoa và chiếm thêm nhiều đất đai thuộc miền duyên hải và phong tỏa bờ biển Trung Hoa. Mãi đến tháng 8/1945 khi thế chiến thứ 2 chấm dứt, Nhật mới rút quân khỏi Trung Hoa. Trong thời gian chiếm đóng, người Nhật đã ngược đãi và nhục mạ người Hoa bằng mọi cách kể cả gọi người Hoa là “Cẩu Hán” không khác gì người Hán gọi các dân tộc thiểu số phía tây là “Khuyển Nhung” trong các thế kỷ trước. Trong thời kỳ bị ngoại nhân cai trị bởi những dân tộc bị người Hán khinh bỉ từ lâu nay, cũng có rất nhiều người Hán tự nguyện làm tay sai cho chế độ đương quyền, hãm hại người đồng tộc. Điều đó chứng tỏ rằng người Hán cũng hèn kém, tồi tệ, xu thời, dễ biến chất… chứ không phải là một dân tộc “thượng đẳng” như họ đã tự phong !

Nước Tàu quá suy yếu và lạc hậu so với các nước Tây Phương, kể cả Nhật Bản đã sớm biết canh tân. Uy lực của “thiên triều” không còn nữa, chủ trương “Đại Nhất thống thiên hạ” truyền thống từ nhiều thế kỷ trước không còn điều kiện để thực hiện. Hai nước Triều Tiên, Việt Nam từ lâu bị lệ thuộc Nước Tàu nay bị Nhật Bản và Pháp cai trị, ảnh hưởng của Nước Tàu bị phai nhạt nhiều. Đây là thời kỳ duy nhất trong lịch sử Nước Tàu mà chủ nghĩa Đại Hán bị gián đoạn. Sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch, thống nhất toàn nước Tàu dưới chế độ Cộng sản, cái não trạng thực dân Đại Hán chẳng những được phục hồi mà lại có phần phát huy mạnh mẽ hơn. Nhà cầm quyền Trung Cộng cố ý cổ xúy chủ nghĩa quốc gia cực đoan để dân chúng thỏa mãn tự ái dân tộc, trả mối thù bị người Tây Phương và Nhật Bản chiếm đóng, xâu xé nhưng lý do chính được khéo léo che đậy là để cho nhân dân Tàu không thấy thực trạng bị kềm kẹp và nghèo khổ, sẵn sàng chấp nhận sự cai trị độc tài, hà khắc, bất nhân của tập đoàn Trung Nam Hải.

Đó là xét về đất nước và con người Tàu, còn về phương diện văn hoá thì ngày nay khoa học kỹthuật đã chứng minh được rằng nền văn minh Nước Tàu không phải do chỉ người Hoa tạo lập mà có sự đóng góp tích cực của dân tộc bản xứ đã định cư lâu đời tại địa bàn Nước Tàu ngày nay, nếu không muốn nói là người Hán đã cướp đoạt các thành quả văn hoá của người bản xứ - sau khi thôn tính đất đai và tiêu hủy mọi di tích văn hoá của các dân tộc bị bại trận - đem về nhào nặn lại rồi lớn tiếng rêu rao là do Hán tộc tạo dựng rồi đem “giáo hoá” các dân tộc bị trị để đồng hoá họ.

Minh chứng thứ nhất là các di vật thuộc thời kỳ đồ đá cũ (như rìu có vai) phát xuất từ Hoà Bình, Bắc Việt. Ngày nay được các nhà bác học về các môn khảo cổ gọi là nền văn hoá Hoà Bình có niên đại cổ nhất, sau đó do hiện tượng “biển tiến” khoảng từ 18.000 đến 8.000 năm, nền văn hoá nầy được các cư dân miền bắc Việt Nam mang lên phía bắc mà “hậu duệ” của nó được tìm thấy ở Ngưỡng Thiều thuộc tỉnh Thiểm Tây.

Minh chứng thứ hai là Cây Lúa Nước. Về cây lúa nước, trong quyển “Eden in the East” của Stephen Oppenheimer cũng đã chứng minh được rằng nguồn gốc của Cây Lúa Nước được tìm thấy sớm nhất ở Đông Nam Á mà các di vật được phát hiện rải rác ở vùng Bắc Việt, Bắc Lào và Bắc Thái Lan. Thêm vào đó những nghiên cứu về Nước Tàu còn xác định là thực phẩm chính của người “Hán” vào đời nhà Thương là lúa mì, lúa tắc chớ không có gạo, mãi đến đời nhà Hán họ mới ăn gạo. [Do sự kiện nầy, có giả thuyết cho rằng “Thần Nông” (vị thần dạy dân làm ruộng) là nhân vật người Việt thời cổ đại đã dạy cho dân Việt cách trồng lúa nước, đã bị Nước Tàu chiếm đoạt làm ông tổ của dân tộc mình cũng có lý !].

Minh chứng thứ ba là Trống Đồng. Tiến sĩ W.G. Solheim II là vị học giả có uy tín nhất về việc nghiên cứu và phân loại Trống Đồng, đã kết luận là Trống Đồng Ngọc Lũ là loại trống đồng lớn nhất, đẹp nhất và cũ nhất. Hiện nay các nhà khảo cỗ học nổi tiếng trên thế giới đều công nhận là Trống Đồng Ngọc Lũ, thuộc nền văn hoá Đông Sơn, phần đất ở Bắc Việt ngày nay, là loại trống đồng tiêu biểu nhất. Nước Tàu – với não trạng tự tôn cố hữu - đã cho tổ chức hội nghị Nam Ninh tháng 8/1980 để cố giành nền văn hoá trống đồng về cho mình nhưng đã thất bại ê chề vì không được các nhà khảo cổ học hàng đầu của thế giới công nhận.*

(* Quý vị muốn rõ hơn về các vấn đề nầy, xin đọc thêm các quyển “Tìm về nguồn gốc VĂN MINH VIỆT NAM dưới ánh sáng của khoa học” của GS Cung Đình Thanh và Cội nguồn Việt Tộc” của Phạm Trần Anh).

Xét về quốc hiệu của nước Tàu. Theo truyền thuyết thì Đế Nghiêu có họ Đào Đường (Đào Đường thị) nên lấy quốc hiệu là Đường. Vua Thuấn dời đô về Bồ Bản (Sơn Tây) đổi quốc hiệu là Ngu (Đế Thuấn họ Hữu Ngu). Các triều đại tiếp theo là Hạ, Thương, Chu, Tần đều lấy tên đất được phong làm quốc hiệu. Triều Hán , Lưu Bang được Hạng Võ phong danh hiệu là Hán vương nên lấy quốc hiệu là Hán. Các quốc hiệu Đường, Nguyên không rõ lai lịch. Triều Tống, Triêïu Khuông Dẫn lấy châu Tống, nơi được phong làm Tiết độ sứ làm quốc hiệu. Triều Minh Chu Nguyên Chương lấy 2 chữ “Nhật, Nguyệt” trong câu : “Sơn hà yểm hữu Trung Hoa địa, nhật nguyệt trùng khai đại tống thiên(*)” (nghĩa là sơn hà bỗng có đất Tàu, nhật nguyệt ghép lại trời bừng sáng) ghép lại thành chữ Minh. Khi nhà Kim thôn tính Nước Tàu đổi quốc hiệu là Thanh vì năm 1626 Hoàng Thái Cực lên ngôi hoàng đế sợ dùng quốc hiệu là Kim sẽ bị người Hán chống đối, nên lấy chữ Thanh là từ đồng vận với Kim. Sau khi cách mạng Tân Hợi thành công, Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng Thống và đổi quốc hiệu là Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 01 tháng 10 năm 1949, sau khi chiếm toàn Hoa Lục, Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập nước Cộng sản lấy quốc hiệu là Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa.

(*) Đàm Thiên Thuyết Địa Luận Nhân, Ngô Bạch, trang 86

Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử, từ thời tối cổ cho đến đời nhà Thanh, các chế độ quân chủ chuyên chế đều lấy tên triều đại làm quốc hiệu, chứ không hề dùng chữ Trung Hoa để làm quốc hiệu bao giờ. Chỉ đến sau khi cách mạng Tân Hợi thành công lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, thành lập một nước cộng hoà, từ Trung Hoa mới được dùng làm quốc hiệu dưới danh xưng “Trung Hoa Dân Quốc”, sau đó từ Trung Hoa lại được dùng làm quốc hiệu trong “Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa” dưới chế độ cộng sản. Còn từ “Trung Quốc” chưa bao giờ được dùng làm quốc hiệu để chỉ nước Tàu, kể cả các thời nước nầy bị qua phân như thời Tam Quốc (Ngụy, Thục, Ngô), thời đại nhiễu nhương từ đời nhà Tấn đến Nam Bắc Triều (Tấn, “Lưu” Tống, Tề, Lương, Tần) mãi đến nhà Tùy. Từ “Trung Quốc” được xuất hiện lần đầu tiên dưới thời nhà Thương, đây chỉ là lối thậm xưng của người Hán để tự đề cao dân tộc và đất nước mình. Với bản chất kiêu ngạo, hiếu chiến, người Hán tự cho mình là dân tộc siêu đẳng, đất nước mình là một đất nước lớn nhất, hùng mạnh nhất và văn minh nhất nằm ở trung tâm thế giới, còn các nước khác chỉ là những nước nhược tiểu, yếu hèn, các dân tộc khác đều là man di mọi rợ, nên người Hán được trời giao cho trọng trách đi chinh phục, cai trị và giáo hoá thiên hạ ! Với não trạng độc tôn Đại Hán đó, họ đề ra chủ trương “Đại nhất thống thiên hạ” để bành trướng đất đai, luôn luôn gây hấn với các nước lân cận, tìm mọi cơ hội để đánh chiếm đất đai của nước khác. Nếu thời cơ chưa thuận tiện cho việc phát động chiến tranh để xâm lăng thì người Hán dùng những phương thức “hoà bình” như gây áp lực, lũng đoạn chính quyền hay mua chuộc giới cầm quyền lân bang để tìm cách lấn đất, lấn biển (như đang áp dụng đối với Việt Nam ngày nay). Chủ trương “Đại nhất thống thiên hạ” là nền tảng của chính sách xâm lăng, bành trướng của đế quốc Trung Hoa được người Hán theo đuổi từ thời mới lập quốc cho đến ngày nay.

Trong sự giao dịch giữa các nước với nhau, từ “Trung Quốc” ngoài người Hán dùng để tự tôn xưng đất nước mình, nhiều lắm thì được lưu hành ở các nước đồng văn như Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam chứ những nước dùng văn tự khác chữ Hán chắc không có mấy người biết đến từ nầy. Đối với thế giới Tây Phương từ “Trung Quốc” lại càng xa lạ hơn. Người Tây Phương biết đến nước Tàu vào triều Tần (Qin) nên họ gọi Nước Tàu là “Sin” theo cách phiên âm chữ Tần của Hoa ngữ [có thuyết cho rằng Tây Phương giao dịch với Nước Tàu từ đời nhà Thương vì cách đọc chữ Thương (Shang) của người Tàu gần giống vời chữ “sin” hơn là chữ Tần]. Về sau chữ “Sin” được viết thành Chine trong tiếng Pháp và China trong tiếng Anh. Ngày nay mọi giao dịch trên thế giới đều dùng Anh hay Pháp ngữ vì thế các phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở và các giao dịch bình thường của hầu hết các nước, khi dùng dưới dạng “la tinh hoá”, - kể cả Đại Hàn và Nhật - đều dùng từ Chine (Pháp) hay China (Anh) để chỉ nước Tàu, chỉ những giấy tờ quan trọng thuộc lãnh vực ngoại giao hay luật pháp mới dùng đủ quốc hiệu của Nước Tàu là People’s Republic of China hay République Populaire de Chine (Côïng Hoà Nhân Dân Trung Hoa).

Mặc dầu Nước Tàu có chung biên giới với 14 nước là : Afghanistan, Ấn Độ, Bhutan, Cao Ly (Đại Hàn), Kazakhstan, Kyrgizstan, Lào, Myama, Mông Cổ, Nepal, Nga, Pakistan, Tajikistan, và Việt Nam nhưng chỉ có Đại Hàn và Việt Nam là nước vừa có chung biên giới với Nước Tàu, vừa chịu ảnh hưởng về văn hoá và chính trị của Nước Tàu nhiều nhất nên có lẽ chỉ hai nước nầy thường dùng từ “Trung Quốc” để gọi hay viết về nước Tàu. Tuy nhiên theo một số sử liệu thì trong quá khứ Cao Ly (Đại Hàn) thường gọi Trung Hoa là “Thượng Quốc” hay “Đại Quốc” hơn là “Trung Quốc”. Ngày nay chỉ Bắc Hàn mới gọi Trung Hoa là “Trung Quốc”, Nam Hàn dùng từ Trung Hoa (Junghwa, Chunghwa (ÉTƯ ; -Nïƒ) hay China để gọi nước Tàu. Còn nước Nhật tuy cũng là đồng văn và có chịu ảnh hưởng ít nhiều từ văn hoá Trung hoa nhưng nhờ cách biệt Trung Hoa bởi eo biển Nhật Bản nên ít bị sự chi phối của nước nầy. Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay, Nhật Bản đã phát triển vượt cả Trung Hoa về mọi mặt, từng là nước đã xâm lăng Trung Hoa nên Nhật Bản không chịu ảnh hưởng gì của Trung Hoa cả. Nhật Bản thường gọi nước Tàu là Chuka (Trung Hoa).

Rốt lại chỉ có người Việt chúng ta là có thói quen ưa dùng chữ “Trung Quốc” để chỉ nước Trung Hoa. Thói quen nầy mang nặng dấu ấn lich sử.

Như chúng ta đã biết, theo Việt sử thì trước làn sóng xâm lăng liên tục và hung bạo của “Hán tộc”, các bộ lạc Việt định cư tại phía Nam sông Dương Tử phần thì bị đồng hoá, phần thì chạy dần về phương Nam nếu không muốn bị “Hán tộc” tiêu diệt. Trong các bộ lạc Việt tộc nầy có Lạc Việt đã lập nên nước Văn Lang ở vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay. Đến đời nhà Triệu nước ta có quốc hiệu là Nam Việt. Năm 111 trước Tây lịch, vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem quân đánh nhà Triệu, chiếm Nam Việt rồi cải tên là Giao Chỉ bộ, từ đó dân Việt bị nước Tàu cai trị gần một ngàn năm ! Với chính sách cai trị hà khắc và chủ trương đồng hoá của Hán tộc, nhất là sự cai trị nầy bắt đầu từ đời nhà Hán, một thời đại mà nước Trung Hoa rất hùng mạnh về mọi phương diện như đã đề cập ở trên - thế mà Tổ Tiên ta vẫn giữ được bản sắc dân tộc đã là một kỳ công hi hữu - thì vấn đề người Việt dùng từ “Trung Quốc” để gọi nước Tàu giống như một người Hoa chẳng những là một điều tất nhiên mà còn có thể được xem như một phương thức dùng cái “mặt nổi” để che đậy cái ý đồ “bất phục tùng” của Tổ Tiên ta ! Đáng tiếc là qua một thời gian dài đằng đẳng cả một ngàn năm, sự xưng hô nầy đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt lúc bấy giờ đến nổi nó trở thành thói quen không còn ai để ý đến lối xưng hô mang tính cách lệ thuộc nầy nữa. Đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, giành lại nền độc lập, tự chủ cho dân Việt vào năm 939, và những triều đại tiếp nối, kể cả hai triều Lý, Trần là những triều đại mà Nho giáo không đóng vai trò độc tôn, nhưng tất cả các lãnh vực khác từ chề độ cai trị, tổ chức hành chánh, quân đội, thi cử … đều còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Hoa, nên thói quen dùng từ “Trung Quốc” để chỉ nước Tàu hẳn vẫn được duy trì. Sang các triều Lê Nguyễn - Đặc biệt là vua Lê Thánh Tông hết sức sùng bái Tống Nho để củng cố uy tín và vương quyền của mình – chế độ cai trị ở Việt Nam hoàn toàn rập khuôn Trung Hoa về mọi phương diện. Nước ta lại là một nước nhỏ yếu sát nách một anh khổng lồ vừa tự cao tự đại, vừa hung hản, vừa tham lam, không lúc nào từ bỏ ý định thôn tính các lân bang nên các vị vua phải dùng đường lối ngoại giao mềm mỏng với “thiên triều” để bảo vệ sự tự chủ, mà cách dùng từ “Trung Quốc” để gọi Trung Hoa là một cách thể hiện đường lối ngoại giao khôn khéo đó. Từ đời Tự Đức trở về sau, tuy bị Pháp cai trị, nhưng ảnh hưởng về văn hoá của Tàu đối với nước ta vẫn còn sâu đậm, cách xưng hô tôn sùng gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” vẫn được duy trì. Tóm lại trong suốt quá trình lịch sử từ khi có nước Văn Lang cho đến cuối triều Nguyễn, Việt Nam ta luôn luôn bị áp lực của nước Tàu khổng lồ sát nách nên đã tự xem mình là một nước nhỏ lệ thuộc vào Trung Hoa, phải xưng tụng Trung Hoa là “Trung Quốc”.

Khi chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt, phong trào độc lập tự chủ sự được Hoa Kỳ và các nước Tây Phương cổ xúy, đáng lý ra Việt Nam phải cởi bỏ được mặc cảm lệ thuộc Tàu, thành lập một quốc gia Việt Nam thực sự độc lập tự chủ. Thế nhưng do vận nước còn lận đận, do sự bất hạnh của dân tộc, ta lại rơi vào tay của Hồ Chí Minh và tập đoàn cộïng sản bất tài cai trị. Như ta đã biết Hồ Chí Minh không những là cán bộ của Cộng sản Đệ tam Quốc tế mà còn hoạt động ở đất Tàu rất lâu nên quen biết và chịu ảnh hưởng của giới lãnh đạo đảng Côïng sản Trung Hoa khá nhiều, nhất là Mao trạch Đông. Khi có thời cơ về nước cầm quyền, Hồ Chí Minh đã dựa hoàn toàn vào Trung cộng để kháng Pháp, tinh thần lệ thuộc vào Trung Hoa lại được tiếp diễn !

Tệ hơn các triều đại thời quân chủ cố bảo vệ sự độc lập tự chủ, chỉ lệ thuộc Tàu về hình thức qua đường lối ngoại giao, Hồ Chí Minh và bọn hậu duệ đặt quyền lợi của tập đoàn cai trị và của đảng Cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi của Quốc Gia Dân tộc nên tự nguyện cúi đầu làm nô lệ cho Trung Cộng. Khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp dưới chiêu bài là đánh đuổi thực dân để giành độc lập nhưng thực chất là thi hành lệnh của Đệ Tam Quốc tế gây chiến tranh với các nước phương tây để mở rộng thuộc địa cho Liên Bang Xô Viết, vì thế Hồ Chí Minh và đồng bọn không quan tâm đến sự thiệt hại của Tổ Quốc Việt Nam. Ngoài việc Hồ Chí Minh sai Phạm Văn Đồng gởi công hàm ngoại giao ngày 24 tháng 9 năm 1958 để bán đứng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng, tập đoàn Hà Nội còn để cho Trung Hoa làm nhiều việc rất phương hại đến nền an ninh, quốc phòng như : Đồng thuận cho Trung Hoa thiết lập đường hỏa xa nối dài từ đất Tàu, xuyên qua Ải Nam Quan, đi sâu vào đất Việt Nam trên 3 km - theo tiêu chuẩn mới, có chiều rộng giống như đường sắt của Trung Cộng - nói là để “thuận tiện cho việc vận chuyển đồ viện trợ cho Việt Nam”. Hậu quả là sau nầy Tàu đã dựa vào đoạn đường sắt ấy làm bằng chứng để lấn chiếm đất của ta khiến Viêt cộng phải ngậm miệng. Hà Nội cũng giao cho Cục đồ bản của Trung Hoa in bản đồ quân sự có tỉ lệ 1/10000, tỉ lệ 1/50000 nên Trung Hoa đã nắm rõ hết các đặc điểm địa hình của Việt Nam, lại để cho 300 ngàn quân Trung cộng sang đóng khắp vùng trung và thượng du Bắc Việt nên trong cuộc chiến tranh Hoa Việt năm 1979 , Tàu cộng đã dễ dàng chiến cứ các vị trí chiến lược quan trọng thuộc biên giới Việt Nam ngay khi khai chiến ... Sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, tập đoàn cầm quyền Hà Nội quay sang quỳ lụy Trung cộng để được bảo vệ sự độc quyền cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Từ cổ chí kim, chưa có khi nào mà giới cầm quyền của nước ta lại chịu làm nô lệ một cách hết sức hèn hạ như tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay. Ngoài việc cắt đất, nhường biển cho Trung cộng qua các hiệp ước bất bình đẳng và đầy khuất tất năm 1999, 2000, Hà Nội còn để cho Trung cộng tự tung tự tác với nhiều sự kiện rất khó coi như : để cho Giang Trạch Dân đến tắm biển Mỹ Khê – Mà do một tay Mỹ gà mờ nào đã đặt cho một cái tên thật vô lý là “China Beach” – trong chuyến công du Việt Nam, như tắm tại hồ nhà mình ; để cho hải quân Trung Cộng tha hồ bắn giết, bắt bớ và hà hiếp ngư dân Việt Nam ; theo lệnh Trung cộng cấm sinh viên học sinh Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng khi chúng hợp thức hoá sự xâm lăng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và gần đây để cho các nam nữ thanh niên Trung Hoa , với thái độ ngang nhiên và hống hách, cầm cờ Trung cộng đi theo bảo vệ cuộc rước đuốc Olympic tại Sài Gòn vào ngày 29/04/2008 vừa qua. Do sự luồn cúi hèn hạ đó mà tập đoàn cầm quyền Hà Nội từ thời Hồ Chí Minh đến nay vẫn chỉ thị cho báo chí và các phương tiện truyền thông, kể cả các giấy tờ giao dịch với Trung Hoa đều nhất nhất dùng từ “Tung Quốc” thay vì dùng từ Trung Hoa, để lấy điểm với Trung Nam Hải.

Nói một cách trung thực thì dưới thời VNCH, báo chí, sách vở chúng ta cũng thường dùng từ “Trung Quốc” khi đề cập đến nước Trung Hoa, nhưng đó là chỉ do thói quen hay vì những liên hệ thuộc lãnh vực văn hoá, lịch sử được lưu truyền từ bao đời trước chứ không do chủ trương chịu nô lệ Tàu như ở miền Bắc !

Đối với Trung Hoa việc dùng từ “Trung Quốc” để gọi nước mình ngày nay là có ý đồ chính trị chứ không chỉ có tính cách lịch sử. Như trên chúng ta đã biết, nước Trung Hoa là một nước lớn, đất rộng dân đông, có nền văn hoá cao và rất hùng mạnh về quân sự ; Hán tộc lại là một dân tộc có đầu óc rất tự tôn, kỳ thị chủng tộc, có não trạng thực dân “Đại nhất thống thiên hạ”, luôn luôn theo đuổi tham vọng bành trướng đất đai và thế lực. Sau thời gian bị Tây Phương, Nhật bản xâu xé và khinh bỉ, khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ Hoa lục tuyên bố thành lập nước Trung Hoa độc lập theo thể chế cộng sản, lòng tự ái dân tộc được vực dậy. Mao Trạch Đông đã khôn khéo kích thích tinh thần quốc gia cực đoan của nhân dân Trung Hoa hầu che đậy sự cai trị độc đoán, tàn bạo và những thất bại về chính trị của chế độ cộng sản. Não trạng bành trướng lại được tái lập và có cơ hội thực hiện. Chính sách Đại Hán được áp dụng triệt để : Trung Cộng muốn chiếm toàn nước Mông cổ nhưng bị Nga sô can thiệp nên chỉ chiếm được vùng Nội Mông. Chiếm lại toàn bộ vùng Tân Cương và đe doạ các nước Hồi giáo vùng Trung Á. Năm 1950 Trung cộng xua quân chiếm Tây Tạng, triệt hạ các tu viện, giải thể Phật giáo Tây Tạng và đang tiến hành kế hoạch xoá bỏ nền văn hoá truyền thống của Tây Tạng, đưa một số rất đông người Hán lên định cư tại đây để lấn áp dân Tây Tạng hầu sớm đồng hoá dân tộc hiền hoà nầy. Trung Cộng cũng đã xua quân lấn chiếm hàng ngàn cây số vuông tại vùng biên giới phía bắc của Ấn Độ. Yểm trợ cho quân du kích Maoist lũng đoạn chính quyền vương quốc Népal. Chiếm một phần lãnh thổ phía đông bắc Tajikistan. Nhưng nạn nhân dai dẳng nhất và hiện nay là miếng mồi ngon nhất màTrung Hoa rất thèm thuồng chính là Việt Nam. Vì nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng : Là cửa ngõ tiến vào Đông Nam Á, bờ biển có nhiều vịnh thiên nhiên rất có giá trị về mặt quân sự, có một thềm lục địa rộng lớn về phía đông với nhiều mỏ dầu khí và nhiều hải sản, là hải đạo quan trọng trong việc giao thương và tiếp tế dầu khí, hàng hoá cho vùng bắc Á. Chính vì lý do nêu trên nên giới cầm quyền của Trung Cộng đang dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, áp lực, khống chế tập đoàn cầm quyền Việt Nam đương đại để thủ lợi tối đa. Hậu quả của chủ trương nầy là bọn chóp bu Việt cộng chấp nhận cúi đầu xin làm nô lệ cho Trung Cộng, bán đứng đất đai của Cha Ông để tiếp tục được giữ độc quyền cai trị như đã trình bày ở đoạn trên.

Mặc dầu các công ước quốc tế qui định rằng mọi quốc gia dù lớn dù nhỏ đều có quyền bình đẳng như nhau, các quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác, và khuyến cáo nên dùng lề lối thương thuyết để giải quyết mọi tranh chấp về đất đai, nếu có, chứ không được dùng vũ lực để áp đảo đối phương, và mặc dù Trung Hoa là một trong 5 hội viên thường trực của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, thế nhưng Trung Cộng không cần quan tâm đến những qui định nầy, luôn luôn dùng vũ lực để lấn chiếm đất đai của các nước lân cận, hoặc dùng những phương cách mờ ám để lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải của các nước khác, rồi lại dùng thái độ kẻ cả của nước lớn giải thích lấp liếm. Trong gần nữa thế kỷ vừa qua, Trung Cộng đã nhiều lần công bố rằng lãnh thổ Trung Hoa bao trùm cả vùng Đông Nam Á và đã nhiều lần đưa ra các chứng cớ giả mạo để chứng minh rằng từ xa xưa những vùng đất đó đã từng là lãnh thổ của tổ tiên họ. Điều đó chứng tỏ rằng Trung Cộng công khai bày tỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ trong vùng Đông Nam Á và còn dòm ngó đến các nước tiếp cận với khu vực trên. Tham vọng của Trung Cộng hiện nay đang đe doạ tình hình an ninh chẳng những của các nước Đông Nam Á mà còn đe doạ cả tình hình an ninh toàn thế giới. Với sự phát triển khá nhanh về kinh tế và với tiềm năng quân sự lớn trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, và với lợi thế là hội viên thường trực của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Trung Cộng đang dùng những phương cách quỉ mị, mờ ám để dụ dỗ, tán trợ lôi kéo các nước kém mở mang có chế độ độc tài, quân phiệt về phe với mình để gây uy thế hầu lũng đoạn thế giới, tạo sự bất ổn thường xuyên trên trường quốc tế để thủ lợi. Bất chấp luật lệ quốc tế, bất chấp các tiêu chuẩn đạo đức của thời đại văn minh được qui định trong các công ước quốc tế mà Trung Cộng đã long trong ký kết, Trung Cộng đang dùng những phương thức lạc hậu thời trung cổ để thực hiện giấc mơ làm chủ thế giới của mình ! Là một nước đất rộng vào hàng thứ ba, thứ tư của thế giới, có dân số đông nhất hoàn cầu, có nền kinh tế đang phát triển nhanh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao và có tiềm năng quân sự đáng kể, đang nuôi một tham vọng vô bờ bến là “Đại Nhất Thống Thiên Hạ” mà lại có thói quen rất nguy hiểm là chuyên dùng vũ lực đểù áp chế kẻ khác, Trung Cộng thật sự là một tai hoạ đối với nhân loại trong tương lai !

Ngày xưa khi kiến thức về điạ lý còn bị hạn chế do phương tiện di chuyển khó khăn, Hán tộc, với sự tự cao tự đại đã lầm tưởng mình là nước văn minh nhất, hùng cường nhất nằm ở “trung tâm của thiên hạ” nên đã tự xưng là “Trung Quốc”. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹthuật, Trung Cộng biết rõ là không có một nước nào là nằm ở trung tâm thế giới về mặt địa lý, thế mà họ vẫn tự xưng nước mình là “Trung Quốc” hẳn có một dụng ý ! Dụng ý đó là họ tự cho Trung Hoa là trung tâm quyền lực của thế giới ! Trung Cộng đang từng bước cố làm hiển lộ cái vị thế “Trung Quốc” của Trung Hoa mà Việt Nam là nạn nhân trực tiếp đầu tiên !

Qua phần trình bày trên, chúng tôi đã nhắc lại cho quí vị thấy rằng tham vọng thôn tính/đồng hoá Việt Nam của Trung Hoa là một chủ trương liên tục và bất di bất dịch. Chúng tôi cũng nhắc nhở cho quí vị thấy rằng Việt Nam ta đang còn vận bỉ nên đất nước bị một lũ vô tài bất tướng, vừa dốt, vừa tham lại vừa hèn thống trị. Bọn chúng chỉ biết quyền lợi của cá nhân và của ác đảng Cộng sản mà không lý gì đến Quốc Gia Dân tộc mặc dầu hàng ngày vẫn dùng chiêu bài “yêu nước”, “yêu Tổ Quốc” để lừa mị dân. Chúng tôi cũng giới thiệu cho quí vị thấy nguồn gốc của từ “Trung Quốc”, ý nghĩa của nó qua các thời kỳ lịch sử và ẩn ý chính trị của từ nầy với tham vọng quyền lực của giới cầm quyền Trung Cộng hiện nay. Chúng tôi cũng đã lượt qua cho quí vị thấy lý do tại sao Tổ Tiên ta chấp nhận đến trở thành thói quen dùng từ “Trung Quốc” để tôn xưng Trung Hoa và cũng chỉ rõ ý đồ hèn hạ của tập đoàn cầm quyền trong nước đã và đang ru ngủ dân chúng tiếp tục thói quen gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” để lấy lòng nhà cầm quyền Trung Hoa. Và… vừa qua, khi Trung Cộng hợp thức hoá việc xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người Việt Nam trên khắp năm châu bốn bể đã phản ứng một cách gay gắt, quyết liệt trước hành động xâm lăng trắng trợn nầy. Đủ thấy tinh thần yêu nước của đồng bào ta vẫn nồng nàn, vẫn tha thiết… Đủ thấy mối thù truyền kiếp của dân tộc ta đối với bọn xâm lăng phương bắc không hề bị phai nhạt ! Đủ thấy người Việt chúng ta không bao giờ quên cái nhục bị Trung Cộng chèn ép, lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải của ta hiện nay. Đủ thấy chúng ta không bao giờ tha thứ cho lũ chóp bu của đảng Cộng sản Việt Nam về tội phản quốc, bán biển bán đất của tiền nhân để lại cho Trung Cộng.

Với những lý do trên đây, chúng tôi đề nghị người VN chúng ta, đặc biệt là đống bào đang sống ở Hải Ngoại, hãy xét lại có nên tiếp tục dùng từ “Trung Quốc để gọi nước Trung Hoa hay không ? Sau đây là những lý cớ để xem xét:

    1. Chữ “quốc” trong từ “Trung Quốc” nó không mang một ý nghĩa bình thường như là một chữ ghép được đặt sau tên một nước để gọi nước đó như Mỹ quốc, Áo quốc… mà nó mang một ý nghĩa chỉ vị trí, có tính cách địa lý : “Trung Quốc” là nước ở trung tâm, hàm ý là “nước ở trung tâm thế giới”. Nhưng ngày nay chúng ta biết rõ rằng trái đất hình cầu nên không có nơi nào là trung tâm cả, không có nước nào nằm ở “trung tâm thế giới” cả.

    2. Từ “Trung Quốc” mang dấu ấn lịch sử : Từ ngàn năm xưa Tổ Tiên người Việt đã dùng như vậy thì nay cứ tiếp tục dùng. Lý cớ nầy không đứng vững vì chúng ta biết vì hoàn cảnh đặc biệt, Tổ Tiên ta bị bắt buộc phải dùng như vậy. Ngày nay hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, bối cảnh thế giới cũng đã khác trước, chúng ta không còn bị áp đặt phải dùng từ “Trung Quốc” như xưa nữa.

    3. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta chống cộng nhưng từ “Trung Quốc” vẫn được dùng để chỉ Trung Hoa, nên nay không có gì cần xem xét lại cả ! Luận cứ nầy chỉ đúng một phần vì lúc đó mặc dầu chúng ta vẫn chống cộng nhưng Trung Cộng không là một đe doạ trực tiếp đối với Việt Nam Cộng Hoà cho mãi đến khi chúng xua quân xâm lăng Hoàng Sa. Hơn nữa cách gọi nầy chỉ là do thói quen, nay cục diện thế giới thay đổi, chúng ta cũng cần thay đổi cách dùng cho hợp lý hơn.

    4. Từ Hồ Chí Minh đến nay, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam chịu làm nô lệ cho Trung Hoa để trục lợi cho tập đoàn cầm quyền nên đã tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc”. Đồng bào trong nước sống dưới ách kìm kẹp của đảng Cộng sản tất nhiên phải làm theo những gì mà đảng và nhà nước muốn. Chúng ta không chấp nhận sự cai trị của Việt Cộng (tức Cộng sản Việt Nam) đã bỏ nước ra đi tìm tự do. Hiện tại chúng ta không bị đảng và nhà nước Việt cộng khống chế, vậy chúng ta cần gì phải làm theo những gì mà đảng và nhà nước Việt cộng muốn ?

    5. Vì tính “dễ dãi”, nghe thấy các phương tiện truyền thông và báo chí trong nước dùng từ “Trung Quốc” để chỉ Trung Hoa nên chúng ta dùng theo ! Đây là một thực tế, nhưng là một thực tế đáng tội nghiệp ! Người Việt sống ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 từng hãnh diện là kẻ được truyền thừa di sản văn hoá dân tộc Việt : Nếp sống, âm nhạc, cách dùng từ ngữ…không bị lai căn bởi ảnh hưởng của Trung Cộng, vậy thì nay người Việt Quốc Gia sống ở Hải Ngoại có còn giữ được bản chất đó không ? Có còn hãnh diện là kẻ thừa kế nền văn hoá dân tộc không ? Tại sao chúng ta lại nhất nhất bắt chước những gì trong nước dùng ? Hay giới trí thức, giới cầm bút tại Hải Ngoại không đủ khả năng sáng tạo ? Chúng ta không quá khích, không chống Cộng theo cảm tính, biết chắt lọc những cái hay cái tốt để dùng, nhưng chúng ta phải có bản sắc riêng, không “dễ dãi” bắt chước càn dở như vậy được. Vấn nạn nầy xin nhường lại cho quí vị có trách nhiệm trả lời !

    6. Tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh đang có tham vọng “Đại Nhất Thống Thiên Hạ”, muốn đặt cả thế giới dưới sự cại quản của Trung Hoa. Họ dùng từ “Trung Quốc” để ngầm chỉ Trung Hoa là trung tâm quyền lực của thế giới, là “cái rốn của vũ trụ”. Nay chúng ta dùng từ “Trung Quốc” để chỉ nước Trung Hoa là vô tình tán trợ tham vọng ngông cuồng của tập đoàn Trung Nam Hải mà nạn nhân đầu tiên chính là Việt Nam ta !

    7. Tên gọi chính thức của nước Trung Hoa được chính chính phủ Trung Hoa công bố vào ngày 01/10/1949 là “Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc”, gọi theo cách Việt Nam là “ Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa”. Nếu tỉnh lược thì gọi là Trung Hoa. Vã lại từ “Trung Quốc” chưa bao giờ được dùng làm quốc hiệu của Trung Hoa cả, vậy tại sao chúng ta không dùng từ Trung Hoa mà lại dùng từ “Trung Quốc” ? Chúng ta đâu phải là người Hoa hay dân nô lệ của Trung Hoa mà bắt chước cách gọi tự tôn đó của họ ?

Tóm lại, qua các biện giải trên, chúng tôi đề nghị từ nay người Việt tại Hải Ngoại không nên gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” nữa. Đề nghị giới cầm bút, quí vị làm công tác truyền thông, báo chí cố gắng sửa cái thói quen không mấy hay ho nầy. Người xưa thường dùng thành ngữ : “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, để chỉ tình trạng bất nhất khi thực hiện một việc gì. Chúng ta phản đối, lên án Trung Cộng lấn chiếm đất đai của chúng ta mà chúng ta lại đi bắt chước Việt cộng tôn xưng Trung Hoa là “Trung Quốc” e có trái khuấy lắm không !

Vã lại chúng ta vẫn đang theo đuổi cuộc chiến đấu để giải thể chế độ Cộng sản độc hại hầu cứu đất nước thoát khỏi nạn trì trệ, tham ô nhũng lạm, ô nhiểm môi trường, cứu dân tộc thoát khỏi tình trạng phá sản về luân lý, đạo đức, giáo dục … nên cần có một chiến tuyến vững, một hậu phương mạnh. Hải Ngoại có đủ điều kiện để đảm trách nhiệm vụ nầy. Chúng ta phải biết suy nghĩ đúng, vì tư tưởng sẽ dẫn dắt hành động. Trước hết chúng ta cần điều chỉnh thói quen, không gọi Trung Hoa là “Trung Quốc” nữa, để thể hiện tính độc lập không những đối với trong nước mà còn đối với quá khứ, và cũng chứng tỏ rằng việc chống tham vọng bành trướng của Trung Cộng là một việc làm có ý thức chứ không phải một phản ứng nhất thời theo “phong trào”. Đây tuy là một việc làm đơn giản, có vẻ nhỏ nhặt, nhưng rất quan trọng, vì là điểm khởi đầu, điểm then chốt ! Một khi Hải Ngoại tuyệt đối không dùng từ “Trung Quốc” để “gọi” nước và người Trung Hoa nữa thì sẽ khiến cho quốc nội suy tư về thái độ nầy, sẽ “ngộ” và dần dần tìm cách gở cái ách nô lệ tinh thần mà tập đoàn cầm quyền Hà Nội cố ý tròng vào cổ của họ. Quốc nội sẽ tin tưởng quyết tâm của Hải Ngoại, sẽ ý thức được vai trò và tiềm lực của mình. Quốc nội sẽ tiếp tay với Hải Ngoại. Ban đầu chỉ là để phản đối hành động xâm lăng của Trung Cộng bằng hình thức “tiêu cực” và vô hại nhất, lần lần sẽ phát triển đến chỗ lơ là đối với các lệnh lạc (bất tuân xã hội dân sự) mà đảng/nhà nước Việt cộng không có đủ lý cớ để đàn áp. Ngược lại nếu người Việt Hải Ngoại không từ bỏ nổi thói quen đơn giản là "không gọi Trung Hoa là Trung Quốc nữa” thì chẳng những chủ trương chống tham vọng bành trướng của Trung Hoa chỉ là phong trào, có tính cách nhất thời, sẽ mai một theo thời gian mà cả hoài bảo giải thể chế độ Cộng Sản tại Quốc Nội mãi mãi chỉ là hoài bảo mà thôi !

Kim Khôi

Tài liệu tham khảo:

- Cung Đình Thanh. Tìm về nguồn gốc Văn Minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học. NXB Tư Tưởng, Sydney, Australia, 2003.
- Phạm Trần Anh. Cội Nguồn Việt Tộc. Việt Nam, 2004.
- Ngô Bạch. Đàm Thiên, Thuyết Địa, Luận Nhân.(Trương Huyền lược dịch). NXB Mũi Cà Mâu, 1997.
- Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. NSB Miền Nam, 1971.
- Lịch sử Trung Hoa. Tự điển mở Wikipedia.