Saturday, June 13, 2009

Nguyễn Thị Bích Hạnh - Đỗ Thái Nhiên

Nguyễn Thị Bích Hạnh

Đỗ Thái Nhiên

Xã hội là môi trường sống của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giúp con người giao lưu với xã hội. Sống đồng nghĩa với đối thoại. Tuy nhiên ngôn ngữ là ngôn ngữ chung. Xử dụng ngôn ngữ chung để diễn tả tâm tình riêng vốn là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Dưới chế độ độc tài hà khắc, người thực thi quyền lên tiếng đã phải vừa vận dụng năng lực lên tiếng với tất cả khó khăn của ngôn ngữ chung, vừa tinh vi lách tránh công an văn hóa, công an giáo dục bằng kỹ thuật: dùng cái hư làm nổi bật cái thực, nhắc đến cái thực với ẩn ý đẩy sự suy nghĩ hướng về cái hư. Đó là lý do giải thích tại sao trong lòng của chế độ CSVN đã xuất hiện một số hiện tượng lên tiếng mang nội dung kỳ bí gần như huyền hoặc. Không khí kỳ bí và huyển hoặc kia là cả một lời mời gọi, thiết tha bao nhiêu, xoáy tim óc bấy nhiêu. Mời gọi công luận hãy chiêm ngưỡng các chiến sĩ lên tiếng đang ngày đêm bay lượn để tìm cho được quyền tự do ngôn luận trong nền trời tràn ngập kẽm gai và rào cản trên quê hương Việt Nam. Đầu tháng 06 năm 2009, tin từ trong nước cho biết có một người đã thực sự gặp tai họa chỉ vì đương sự quyết tâm dành lại quyền lên tiếng, mặc dầu hành động dành lại kia đã được diễn ra một cách rất cao cấp và tinh vi.

Câu chuyên như sau:

Thac sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh, tốt nghiệp Đại Học Đà Lạt về môn văn. Tháng 9 năm 2007 theo chương trình thu hút nhân tài của tình Quãng Nam, Bích Hạnh được mời dạy môn văn tại trường trung học phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm, tỉnh Quãng Nam. Ngày 01 tháng 06 năm 2009, sở giáo dục và đào tạo Quãng Nam quyết đinh cho thạc sĩ Bích Hạnh thôi việc.

Cơ quan này nêu lý do: Bích Hạnh đã “sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách nhà nước; xuyên tạc đường lối của đảng, chủ trương pháp luật của nhà nước, vi phạm quan điểm nội dung giáo dục trong việc cập nhật khai thác, truyền bá trang web phản động, phản giáo dục” (Hết lời dẫn)

Ngày 04 tháng 06 năm 2009, qua cuộc phỏng vấn được phóng viên Thiên Giao của dài Á Châu Tự Do thực hiện, Thac sĩ Bích Hạnh cho biết: Trong thời gian dạy học tại Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bích Hạnh có đề cập đến 04 sự kiện sau đây:

1. Sự kiện (1):

Sau giờ giảng dạy về tác phẩm “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam, Bích Hạnh khuyên học trò nên tự nghiên cứu, tim tòi thêm trên internet. Cô giáo thạc sĩ Bích Hạnh ân cần nói cho học trò biết trên mạng internet có nhiều tài liệu “rất thú vị” (chữ dùng của Bích Hạnh).

“Hai Đứa Trẻ” là truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam, Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hai chị em Liên và An là hai đứa trẻ. Họ là cư dân của một phố huyện hẻo lánh. Đời sống ở đây nghèo nàn, buồn chán và không lối thoát. Hàng ngày Liên và An chỉ trông chờ tới tối để được ngắm nhìn chuyến tàu đêm từ xa ghé qua phố huyện. Tàu đêm là một đoàn tàu sang trọng, tiện nghi, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Tàu đêm là cửa sổ giúp người dân phố huyện nhìn ra thế giới bên ngoài. Tàu đêm vừa là tấm gương vừa là giấc mơ để phố huyện vươn mình lên.

So với thế giới tiến bộ ngày nay, đất nước Việt Nam chẳng khác nào phố huyện của Thạch Lam ngày xưa. Nếu tàu đêm là của sổ của phố huyện thì internet là cửa sổ của Việt Nam. Internet mở ra trước mắt Việt Nam, trước mắt lớp học do cô giáo Bích Hạnh hướng dẫn cả một xã hội quốc tế phồn vinh trên nền tảng dân chủ và nhân quyền. Đó là lý do giải thích tại sao sau giờ giảng văn có chủ đề “Hai Đứa Trẻ” thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh đã nói với học trò về internet.

2. Sự kiện (2):

Tiếp tục đề cập tới những tin tức trên internet, Bích Hạnh cho học trò biết Cô có đọc một bài viết trên web mạng của giáo sư Lê Hữu Mục. Bài này chứng minh: Nhật Ký Trong Tù không phải của ông Hồ. Một học trò của Bích Hạnh phản đối ý kiến vừa nêu với lời lẽ nguyên văn rằng: “Bác Hồ là thần tượng của cả dân tộc, tại sao lại có thông tin như vậy?”. Bích Hạnh ôn tồn trả lời học trò: “Cô tin sự thật, cái đẹp, chân lý luôn luôn tồn tại, cho dù ai đó có tìm cách phủ nhận”

Ý kiến của cậu học trò về ông Hồ là ý kiến theo cảm tính, ý kiến của ngừơi có nhiều năm bị dạy dỗ bằng giáo dục nhồi sọ. Ý kiến của cô giáo là ý kiến của lý trí. Bích Hạnh nhấn mạnh: “Chân lý luôn luôn tồn tại dù ai đó tìm cách phủ nhận”. Dĩ nhiên “ai đó” ở đây là đảng CSVN chứ không là giáo sư Lê Hữu Mục. Vấn đề không là ông Hồ có phải là thần tượng của dân tộc Việt Nam hay không, vấn đề chính là ông Hồ có đích thực là tác giả của Nhật Ký trong Tù hay không? Chân lý mà cô Bích Hạnh muốn nói tới chính là chân lý rằng: Ông Hồ là người có biệt tài ăn trộm, ăn trộm tên, ăn trộm vợ, ăn trộm văn thơ và đặc biệt nhất là ăn trộm quyền hành của nhân dân.

3. Sự Kiện (3):

Đối với bài học “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”, bằng vào kiến thức tổng quát, mọi người đều thừa biết: người phỏng vấn phải đặt câu hỏi ngắn gọn, đúng trọng tâm. Người trả lời phỏng vấn phải đáp trả chính xác nội dung câu hỏi. Tránh kiểu trả lời gian dối, nhất là gian dối trắng trợn. Cô giáo Bích Hạnh nhận định về người trả lời phỏng vấn như sau: “Cách trả lời phỏng vấn rất quan trọng. Nó cho người ta biết người trả lời phỏng vấn có kiến thức bao nhiêu, văn hóa như thế nào, văn hóa ứng xử ra sao.” (Hết lời dẫn)

Sau các nhận định vừa kể, cô Bích Hạnh nói với phóng viên đài Á Châu Tự Do rằng: “Tôi có lấy một thí dụ bên lề là khi Nông Đức Mạnh ra nước ngoài, có người hỏi: “Ở Việt Nam nhiều người nói ông là con bác Hồ, ông nghĩ sao về điều này?”. Tôi nói với học sinh, tôi nghe phong thanh ông ta không nói có, cũng không trả lời không, chỉ trả lời “Ở Việt Nam ai chẳng là con, là cháu bác Hồ”. (Hết lời dẫn)

Câu trả lời của Nông Đức Mạnh hiển nhiên là kiểu đối đáp của những tay cờ bạc bịp trên các vỉa hè nơi thị tứ. Vì vậy cô giáo Bích Hạnh chỉ cần thuật lại cho hoc sinh nghe câu chuyện Nông Đức Mạnh mà không cần kèm theo lời bình luận nào.

4. Sự Kiện (4):

Từ Nông Đức Mạnh nhìn lại Hồ Chí Minh, vẫn trong cuộc phỏng vấn ngày 04/06/2009, thạc sĩ Bích Hạnh phân trần với đài Á Châu Tự Do rằng: “Tôi chỉ dạy học trò cách trả lời phỏng vấn. Tôi không có ý định nói bác Hồ có con riêng hay chuyện này chuyện kia. Nhưng ban tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Nam nói cô Hạnh nói bác Hồ có con riêng. Đồng thời, còn có một nội dung trong đó cô nói không nên thần thánh hóa bác Hồ.

Tôi không nói là không nên thần thánh hóa bác Hồ. Tôi nói rằng mọi thiên tài đều là con người. Trước khi nhìn nhận là một thiên tài, hãy nhìn nhận dưới góc cạnh một con người để thấy chất người trong con người của họ”. (Hết lời dẫn)

Những trình bày của Cô giáo Bích Hạnh cho thấy vị giáo viên thạc sĩ này đã khôn ngoan tránh xa vấn đề có nên thần thánh hóa ông Hồ hay không. Thay vào đó, Bích Hạnh đề nghị mọi người hãy nhìn Hồ Chí Minh dưới góc cạnh của một con người trước khi đưa ông Hồ lên hàng thần thánh. Về mặt con người, Hồ Chí Minh là người có nhiều ngày sanh khác nhau, ngày chết không ghi chính xác, suốt đời không một lần nhắc đến cha, đến mẹ. Những ngày gần qua đời ông Hồ chỉ mong được đi gặp ông Karl Marx, ông Lenine. Ông, Bà Tổ Tiên và Trời Phật không có trong đầu của ông Hồ. Hồ Chí Minh là người mang nhiều tên họ khác nhau, đặc biệt là tên Trần Dân Tiên, tác giả những bài Hồ ca tụng Hồ. Mặc dầu ẩn trốn dưới nhiều tên khác nhau ông Hồ vẫn bị dư luận ghi nhận là người phạm nhiều tội ác nhất trong thế giới của những tay độc tài. Không một vị thánh nào lại có quá khứ tồi tệ như Hồ Chí Minh. Nói cách khác chỉ có những người không bình thường về mặt trí tuệ mới thần thánh hóa Hồ Chí Minh. Đó là thông điệp mà thạc sĩ Bích Hạnh muốn gửi cho học trò của Cô chung quanh vấn đề thần thánh hóa Hồ Chí Minh.

Với học vị thạc sĩ do chính chế độ Hà Nội đào tạo, cô giáo Bích Hạnh tiến vào trường trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm theo lời mời “thu hút nhân tài” của tỉnh Quảng Nam. Từ vị trí được chế độ ưu đãi như vừa kể thạc sĩ Bích Hạnh đã lạnh lùng từ bỏ mọi quyền lợi riêng tư để dũng cảm nói lên hai chân lý:

Một là chế độ Hà Nội từ Hồ chí Minh trở xuống bao gồm toàn những ma quỹ, khoác áo thần thánh. Họ là kẻ tham ô không giới hạn, hại dân không cảm giác, bán nước không lưỡng lự.

Hai là muốn đất nước cất cánh tiến bộ, người Việt Nam cần tích cực theo giỏi internet để hiểu biềt tường tận thế nào là sự gắn bó giữa kinh tế thị trường và chính trị dân chủ nhân quyền. Song song với việc học hỏi internet như vừa nói toàn dân Việt Nam cần phải đào thải chế dộ Hà Nội bằng mọi phương cách nhằm mở đường cho sự xuất hiện của thể chế tự do dân chủ.

Điều đặc biệt nhất là thạc sĩ Nguyễn thị Bích Hạnh đã dũng cảm bước những bước cứu nước một cách tinh vi và khoa học đến độ không một viên chức nào của chế độ, kể cả công an, dám trực tiếp đối mặt với Bích Hạnh để thẩm vấn và tranh luận. Nhà cầm quyền Hà Nội chỉ có thể âm thầm cho Bích Hạnh thôi việc. Quả thực, trong mọi tình huống của lịch sử, Việt Nam không bao giờ vắng bóng nữ anh thư.

Đỗ Thái Nhiên

Câu Chuyện Nói Với Nhau - Thanh Trúc

Thanh Trúc

Trong nỗi buồn Quê hương mất dần vùng đất biên giới phía Bắc, vùng biển và hải đảo Hoàng sa và Trường sa, gần đây chủ quyền quản lý và khai thác tài nguyên từ núi rừng cao nguyên cũng đã bị xâm phạm và đe dọa nhiều điều.

Người nông dân, công nhân Tây nguyên đang thất nghiệp đứng nhìn hàng ngàn công nhân Tàu cộng đang cướp cơm cướp việc xây dựng các công trình cho việc khai thác Bô-xít, chẳng những chúng đã cướp cơm gạo hai bữa hàng ngày mà còn đe dọa gieo rắc bao nhiêu tai họa cho đất Nước mai sau. Trên rừng đã vậy, đồng bào ven biển thì khá gì hơn ? hàng trăm tàu thuyền của ngư dân trong thời gian qua đã phải uất hận neo tàu tại bến, không dám ra khơi mặc dầu đang trong mùa thả lưới vì họ lo sợ trước lệnh cấm ngư dân ta đến khai thác vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa trong sơ đồ lưỡi bò màu đỏ mà chúng tự nhận là lãnh hải của chúng trong khi từ ngàn xưa Ông Cha chúng ta làm nghề biển đã bám sống từ vùng biển này, là vùng biển kinh tế chung cùng một vùng Trời của quê hương.

Đứng trước đại nạn hủy diệt môi trường sống và nguy cơ mất Nước Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ đã cất cao lời báo nguy và kêu gọi mọi tầng lớp cùng hiệp lực cứu nguy đất nưóc. Tiếng vang vọng đã lan rộng khắp nơi, đánh động lương tâm mọi giới từ trong ra ngoài Nước. Kết quả như thế nào thì tùy theo cảm nhận của mỗi người và còn tùy vào vận Nước, điều cần nói là tất cả những Tổ chức Đoàn thể, Tôn Giáo và mọi giới từ trong đến ngoài Nước đã đồng tình lên tiếng ủng hộ.

Sự việc rõ như ban ngày nhưng nào có được yên ổn để đồng tâm hiệp lực cùng tiến về một hướng cho đại cuộc chung. Vẫn với những con người có bản tánh cực đoan dị biệt, vẫn cái thói đời ganh ghét bất cứ ai hơn họ. Cho dù họ nhận là kẻ có học nhưng không thấy hạnh, họ khoe có tài nhưng chẳng có đức. Qua bao nhiêu giai đoạn thăng trầm hiểm nguy chẳng thấy họ đóng góp được một kế sách gì thực tế, một thành tích gì cụ thể, mà họ chỉ rình thời cơ đánh lén để phá bỉnh và chuyên đánh giặc mồm, lý luận vu vơ, hàm hồ quyết đoán, lời lẽ kiêu ngạo xấc xược nhằm chụp mũ một cách ngơ ngốc nên chẳng triệt hạ được ai chớ nói chi đến Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ.

Phụ họa với thành phần nầy là một nhóm người tuy khác lối nhưng cùng một mục đích là tìm cách triệt hạ và thủ tiêu con đường đấu tranh giải trừ Pháp Nạn và Quốc Nạn do Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo mà ỏ Hải ngoại tiêu biểu là là Chư Tôn Giáo Phẩm Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Lặp đi lặp lại, Họ không từ nan một phương tiện nào nhằm đặt đều nói xấu và vu vạ đối tượng bất kể là ai. Thấy không có tác dụng với đồng bào Phật Tử sáng suốt, đi Chùa và chọn Chùa theo tiếng gọi của lương tâm, mỗi ngày đến tu học tại Chùa Điều Ngự mỗi đông; cùng đường họ chuyển hướng tuyên truyền nhắm vào Cơ sở mới Chùa Điều Ngự là Chùa của Cọng sãn để đồng hóa cá mè một lứa với một số cơ sở Chùa Viện có Quí Thầy đã về hoặc có ý định về thỏa hiệp cầu an hoặc Quí Thầy chuyên đón Tăng Ni được đào tạo dưới mái trường XHCN ra Hải ngoại chuyên giúp vui hò hát và thuyết giảng toàn những lời ru ngũ Phật Tử hãy quên quá khứ, xoá bỏ hận thù, không làm chính trị, an tịnh tu tập để giải thoát? Nghĩa là mũ ni che tai !.

Nghe qua có vẽ phải đạo, thuận đường tu ! nhưng nghĩ theo Chánh Pháp thì đó là cách dẫn dắt người Phật Tử nhẹ dạ vào con đường tu mù, tu để hưởng thụ an nhàn cá nhân chớ không phải tu để cứu khổ độ sanh. Tu giữ hạnh Từ bi mà quên mất Trí tuệ và Dũng cảm để nhận biết và hành dộng theo đúng Chánh Pháp.

Đạo như thật của Phật và Chính nghĩa Quốc Gia vẫn sáng ngời trong lòng người Phật Tử tỵ nạn Cộng sãn chân chính, Vì vậy cho dù thuyết phục lôi kéo, mạ lỵ, bôi bẩn hay vu vạ đến đâu thì con đường đấu tranh cho tự do dân chủ, cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải do Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ XLTV. Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo lãnh Đạo và ở Hải ngọai là Văn Phòng II Viện Hoá Đạo vẫn giữ đường lối sáng ngời với thời gian không thể dập tắt. Một tỷ tư người Trung Cộng với đủ ma chước không thể che khuất và dập tắt được tiếng nói của sáu triệu dân Tây Tạng trong hơn 50 năm qua, nói chi đến con số hai ba trăm phô khoe lòe loẹt.

Chân lý và thực chất sẽ tồn tại mãi mãi.

Westminter, 8/06/09
Thanh Trúc

Lãnh thổ Việt Nam: SOS ! SOS!

Vũ Quốc Nam

Trái địa cầu với bản đồ nguyên thủy Việt Nam

Trái địa cầu do Trung Quốc sản xuất gần đây với bản đồ Việt Nam bị cắt xén
------------------------------

“Phải có can đảm và có đủ lòng yêu nước để quay lưng lại phương Bắc, và tìm đường ra biển”

Câu văn vỏn vẹn 21 chữ này chính là chủ điểm của bài viết 6050 chữ “Hãy can đảm định hướng đi ra biển” của Nguyễn Văn Lục (NVL), đăng trên Đàn Chim Việt Online ngày 27 và 28 tháng 3 năm 2009. Có thể nói bài viết lòng vòng dài lê thê này làm công việc dọn đường trước cho CS Việt Nam để bình thường hóa việc CS Việt Nam đã dâng cho Trung Cộng (TC) không những ải Nam Quan, thác Bản Dốc, mà còn tất cả những tỉnh thành của Việt Nam giáp giới với Trung Hoa nữa.

Để tạo ấn tượng là người chống cộng quyết liệt NVL đã cực lực đả kích CS Việt Nam lệ thuộc sâu đậm vào TC từ nửa thế kỷ trước, và đã để cho TC mở những thông lộ chiến lược giữa TQ và Việt Nam. Tiếp theo, NVL đã nại ra một số lý cớ để chứng minh dù Việt Nam ngày nay muốn lấy lại những vùng lãnh thổ của Việt Nam mà TC đang chiếm đóng, Việt Nam cũng không đủ sức để có thể đảo ngược được tình thế, dù bằng giải pháp quân sự hay ngoại giao.

Về quân sự, so với TC, Việt Nam thua kém xa, rất xa từ, quân đội tới quân khí, không thể nào đủ sức để chống cự lại TC. Ngoài ra, TC còn một lợi thế khác nữa, đó là số người Hoa đông đảo sinh sống ngay tại Việt Nam. (Mà số người này đã gia tăng nhanh chóng do chính sách cho người Tầu tự do ra vào VN không cần chiếu khan). Bình thường, đám người Hoa này là một đạo quân tình báo; khi xảy ra chiến sự, họ là đạo quân xung kích của TC đã hiện diện ngay trên đất nước Việt Nam.

Về giải pháp ngoại giao, “chỉ còn con đường ngoại giao, nếu Việt Nam ở thế mạnh”. Nhưng so với TC, Việt Nam, cũng hoàn toàn ở vào thế yếu, rất yếu, dù rằng Việt Nam đã được vào Liên Hiệp Quốc.

Vì thế, theo lập luận của NVL, hay đúng hơn, theo lập luận của CS Việt Nam, “Việt Nam không còn lối thoát nào khác hơn là hướng ra biển ... điều tối quan trọng liên quan đến sinh mạng đất nước lại là vấn đề địa lý-chính trị (geopolitics), bắt buộc Việt Nam không nên bám vào đất. Nhất là mỏm đất 6 tỉnh dính liền biên giới với Tầu Cộng sản.”

Chính CS Việt Nam từ Hồ Chí Minh trước kia, tới Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh ngày nay, vì tham vọng mù quáng về quyền lực và quyền lợi phe đảng và cá nhân, bất kể quyền lợi dân tộc và tổ quốc, đã âm thầm, nhường đất, nhượng biển cho TC để nhận được sự bảo hộ của TC, nên mới dẫn đến hiện trạng của đất nước như ngày hôm nay.

Để xoa dịu những xót xa phản ứng của quần chúng đối với tình trạng lãnh thổ đã mất, và, cũng có thể, do TC hối thúc để hợp thức hóa việc xâm lấn đất đai Việt Nam thành đất đai của họ, CS biến thái qua lời của NVL, đã khẳng định: “Việt Nam phải giàu lên từ biển, mạnh lên từ biển. Trời đã ưu đãi cho đất nước Việt Nam một bề dài là biển mà ta chưa tận dụng hết”. Và “biển với kinh tế hải sản”, “biển với du lịch”, “biển với giao thương hàng hải”, “biển với kinh tế khoáng sản”, “biển sẽ là tiềm năng, nguồn hy vọng của Việt Nam”... Những lời này chẳng qua chỉ như trò dỗ trẻ “phần đất bị mất chẳng ăn thua gì, hãy quên nó đi, tài nguyên trải ra của biển mới là chủ yếu của tương lai”.

Và, cũng chính CS Việt Nam đã âm thầm nhượng cho TC một số tỉnh biên giới phía Bắc, nên không phải vì ngẫu nhiên, hoặc vì lầm lẫn, trên bản đồ quả địa cầu thế giới do TC sản xuất, TC đã vẽ bản đồ nước Việt Nam mất hẳn một phần lãnh thổ từ điểm cực Tây Bắc xuống tới điểm cực Đông Nam miền Bắc. Bờ biển Việt Nam không còn là hình chữ S, mà đã trở thành hình chữ J. Thông báo của TQ mới đây cấm ngư dân VN đi đánh cá từ vĩ độ 12 trở lên có ý nghĩa gì nếu không phải là khẳng định cho rõ vùng lãnh hải VN mà Hà Nội đã bí mật nhượng cho từ gần một thập niên nay?

Sáu tỉnh miền bắc dính liền với biên giới Trung Hoa mà VC, qua bài viết của NVL, kể như là bỏ qua đi. Biển đông từ vĩ độ 12 trở lên là TQ kiểm soát, qua các hiệp ước VC âm thầm ký kết với TC, khẳng định bởi thông cáo cấm ngư dân VN đánh cá mới đây; Khai thác bauxite ở cao nguyên Trung phần hiện nay là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Bản đồ trên trái cầu thế giới do TC sản xuất vẽ Việt Nam bờ biển hình chữ J, phần lớn miền Bắc là thuộc Tầu.

Trước những sự kiện như thế, thì từ Hồ chí Minh trở xuống những lãnh đạo CSVN biến thái ngày hôm nay phải gọi là gì? Những kẻ phản quốc, những kẻ bán nước, hay những kẻ tay sai ngoại bang, trước kia là Liên sô Trung quốc, bây giờ là mọi loại tài phiệt lớn nhỏ? Duyệt lại hết mọi điều như thế, mới thấy rằng những lời kêu gọi toàn dân bỏ sang bên mọi khác biệt chính trị để đoàn kết sau đảng và nhà nước chống bành trướng chỉ là quỷ luận, nếu không là ngu xuẩn. Tiếng Việt có một chữ rất chính xác cho những người “đoàn kết” với lãnh đạo tay sai ngoại bang để gọi là cứu nước, là Việt gian.

Vũ Quốc Nam
(6/10/2009)

Friday, June 12, 2009

Hà văn Thịnh với Bài «Chủ trương lớn của đảng ta!» - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

Hà văn Thịnh hiện là giảng viên Sử của Đại Học Huế. Ngoài việc rao giảng lịch sử đảng Cộng sản trong giảng đường cho các em sinh viên thấm nhuần công lao trời biển của đảng ta và «Ơn Bác, ơn đảng» ra, ông còn ký hợp đồng viết bình luận cho báo Lao Động.

Ngày 19/01/09 ông viết một bài về vụ khai thác bô xít trên Tây Nguyên nhan đề «Gánh nặng của thế hệ hôm nay» đăng trên báo Lao Động cùng ngày. Nội dung là lên án việc khai thác tài nguyên bừa bãi, của đảng không cần biết đến hệ lụy về môi trường sống.

Có đoạn rất cứng: (trích) «Có tài nguyên thiên nhiên là tốt, cần lắm. Nhưng, có những đất nước không có tài nguyên vẫn giàu có như thường – bài học từ Nhật Bản là một dẫn chứng điển hình. Nếu chúng ta cứ vắt thật nhanh, bòn thật nhiều «của để dành» cho con cháu, thì mai này lịch sử sẽ ra sao ? Dù muốn hay không, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng chưa bao giờ tài nguyên của đất nước bị khai thác một cách vội vã đến như thế và, chưa đủ tinh thần trách nhiệm đến như thế.

Phải giải quyết xong «bài toán» chất thải từ việc khai thác các loại quặng trước khi khai thác nó, đó là nguyên tắc. Phải tính toán sao cho tài nguyên của đất nước được chia đều cho nhiều thế hệ là bổn phận của người đi trước. Đây không là chuyện hôm nay, mà là lợi ích dài lâu. Nếu không vì lợi ích dài lâu, đất nước ta sẽ không phát triển bền vững».

Sau đó ông cùng nhiều người ký tên trong bản kiến nghị gửi lên đảng để phản đối việc khai thác bô xít.

Thật ra bài báo cũng không có gì đáng nói. Nội dung không có gì mới mẻ hơn và không bằng nhiều bài báo khác của các nhà khoa học hay hai bức thư của tướng Giáp, đã phân tích tỉ mỉ vấn đề thảm họa môi trường, hiệu quả kinh tế, an ninh lãnh thổ v.v… đầy đủ hơn, giá trị hơn nhiều.

Điều đáng nói ở đây là bài viết tiếp theo ngày 27/4 cũng của ông giảng viên sử Hà văn Thịnh, sự việc lại quay ngoắc lại bài trước 180 độ, khiến cho nhiều người đọc phải bất ngờ đến độ sững sờ.

Có người gọi ông là con thò lò hai mặt. Có kẻ kêu ông là con kỳ nhông, một loài bò sát có khả năng đổi màu da rất nhanh ở môi trường thích nghi như ở cát thì màu trắng, ở bụi rậm thì màu xanh.

Số là, sau khi bài báo ngày 19/1 đăng ít lâu thì ngày 24/4 Bộ Chính trị ra Thông báo số 245 TB/TƯ có «Kết luận của Bộ Chính trị về bô xít» về việc quy hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bô xít giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 thì ngày 27/4 ông Hà văn Thịnh lập tức viết ngay bài «Sáng tỏ sự cân bằng đúng» để ca tụng «Chủ trương lớn của đảng ta» là đúng đắn và cần thiết, có nội dung trái ngược hẳn lại bài trước.

Xin trích vài điểm trong 5 điểm ông đã chỉ ra và khen nức nở đảng ta là vô cùng anh minh, sáng suốt trong việc «đường ta ta cứ đi mặc chó cứ sủa» trong việc «cõng» Trung Quốc vào Tây Nguyên để chúng tha hồ làm vương, làm tướng trong việc khai thác bô xít:

«Thứ hai, ‘ hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội’ là sự cân bằng đúng và đủ cho cả hai mặt lợi ích và bền vững. Cách nhìn nhận vấn đề như thế thể hiện sự tỉnh táo cần thiết trong giải pháp trước mắt và cả giải pháp chiến lược lâu dài.

Thứ năm, qua vấn đề bô xít, phải rút ra những bài học sâu sắc về sự hiểu biết và dư luận. Đa số người dân không hiểu tường tận sự thật của vấn đề nên dễ bị lợi dụng và bị kích động, đưa một chuyện riêng về kinh tế thành nguy cơ về chính trị, an ninh. Trong khi đó BCT đã khẳng định ‘không sử dụng lao động phổ thông nước ngoài’, tức là đã nhìn thấy bằng tầm nhìn xa một cách rõ ràng. Mặt khác, một vấn đề ở đây là ‘dân biết, dân làm, dân kiểm tra’.

Trách nhiệm của giới trí thức là rất lớn trong việc đánh giá, xem xét các lợi ích cục bộ và lợi ích tổng thể, kịp thời và chính xác trong việc tham mưu cho Đảng và Nhà nước trước những nhiệm vụ cấp bách, liên quan đến sự nghiệp của dân tộc, tương lai của đất nước. Đảng lắng nghe và thấu hiểu ý kiến trí thức, nhưng không có nghĩa bỏ qua viêc một số người lợi dụng điều đó để xuyên tạc chống phá. »

Sau bài báo «tắc kè đổi màu da», dư luận trong nước rất bất bình về cái ông giảng viên khoa sử Hà văn Thịnh này. Đã có nhiều bài viết phản bác ông rất nặng ký. Nhưng tình trạng càng tệ hại hơn khi ông viết thêm một tâm thư gửi cho những người cùng ông ký kiến nghị phản đối. Vì bức thư này, ông Thầy sử Hà văn Thịnh lại càng bị phạng thêm nhiều quả búa tối tăm mặt mũi vì đã để lộ ra cái hèn của một anh nhà giáo, cam tâm uốn gối, khom lưng làm văn nô, bồi bút quá ư lộ liễu và trơ trẽn.

Xin đan cử hai bài phản bác làm điển hình, các tác giả vừa trích ý thư của ông vừa bình:

1. Ông V. Quốc Uy trong bài 2 viết: «Chữ ký của một kỳ nhông»
và «Đừng xóa tên ông Thịnh», ông Quốc Uy đánh giá: «Trong bài ‘Chữ ký của một kỳ nhông’ tôi đã phác họa chân dung hai ông Hà văn Thịnh trái ngược nhau, một CHÍNH một TÀ, có vẻ trắng đen phân biệt, nên khó tin là một người. Nhưng sau khi đọc ‘Thư ông Hà văn Thịnh’ gửi những người đã gửi kiến nghị’ thì tôi lại tưởng tượng chân dung ông Hà văn Thịnh sinh động hơn. Sự đời không phải chỉ có CHÍNH hay TÀ, mà còn có ‘cải TÀ quy CHÍNH’, ‘cải CHÍNH quy TÀ’, có khi lại ‘TÀ CHÍNH luân phiên’.

Thiên hạ bình phẩm. Người thì cảm động trước ‘lời thú tội’ thành thực của ông Thịnh, chỉ thương chung cho cái kiếp nhà báo, nhà văn Xã hội Chủ nghĩa. Ngược lại, có người càng mất cảm tình với ông Thịnh hơn, vì ông đã lôi cả đám cùng nhúng chàm vào để làm nhòe đi cái trách nhiệm và tư cách cá nhân. Người ta nhại:

Bút nô là tại ‘hướng đình’
Cả làng nô bút, đâu mình Hà Văn… ?


Phải ghi nhận công của ông Hà văn Thịnh trong bức thư này là đã nói toẹt ra (một cách hơi Chí Phèo) về cái ‘hướng đình’ (định hướng) đã làm cho ‘cả làng toét mắt’. Tôi thấy nên cám ơn ông vì với bức thư ấy ông đã cung cấp những sự thực của một ‘người trong chăn’, để nhắc nhở cả làng phải mau mau xoay lại cái ‘hướng đình’ (nếu không thì chẳng những toét mắt mà còn mù cả lũ cho mà xem).

Xin trích mấy câu của ông Thịnh để ghi lại cái công ấy:

«Nói là bồi bút cũng phải, không sai đâu. Thế nhưng, cần phải lật ngược vấn đề rằng có ai ăn lương hiện nay mà đã không từng một lần ‘bồi bút’? CNXH khoa học sai nhiều như thế, ai nói?

Còn nói dối? Không có một nhà giáo dạy KHXH nhân văn nào không nói dối để nhận lương!

Xin các quí vị hiểu biết lịch sử đúng như nó cần phải được hiểu như thế! »

… Nhưng có lẽ ông Thịnh không đến nỗi yên tâm làm công cụ như những người khác, không hỗn hào như thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang, dám văng vào mặt những trí thức mà chính những người lãnh đạo cấp cao cũng phải kính nể những lời khiếm nhã như ‘xuyên tạc sự thật’ - nhằm dụng ý xấu – hoàn toàn mang tính bịa đặt và kích động’. Ông Hà văn Thịnh, không biết do bị bạn bè phê phán, hay do sự day dứt của một người đứng trên bục giảng mà trong giây phút nào đó ông đã không chịu nỗi cái thân phận bồi bút, khiến ông quên cả giữ gìn mà tố cáo ra những điều cần phải tố cáo?Cuộc vật lộn giữa vị giảng viên đại học với tên bồi bút dối trá thường không phải một lần là đã phân thắng bại, nhưng bạn bè và sinh viên cổ vũ cho ai, đâu là vinh đâu là nhục thì người thầy giáo chắc phải cảm nhận được. Nhiều bài nhắc đến tên ông Hà văn Thịnh, vì đó không chỉ là tên một người mà còn là một hiện tượng : Hiện tượng Hà văn Thịnh, đầy kịch tính.

Những người như ông Thịnh không ít. Nhưng nhiều, mà vị nào cũng thấy cô đơn. «Chính quyền cho tôi vào sổ đen, còn người trung nghĩa gạt tên mình ra. Đời thật là bi kịch», ông tâm sự rất thật như thế.

2. Blogger Linh - Tác giả Linh viết trong blog của mình như sau:

(trích) «Ông Hà văn Thịnh viết bức thư nhằm giải bày sự việc ông viết hai bài báo trên báo Lao Động về beauxite có tinh thần trái ngược hẵn nhau vào ngày 19/1 và ngày 27/4. Đọc cứ như hề:

‘Tôi như một kẻ tội đồ. Đảng không tin tôi. Những người chính trực trên đất nước này cũng thế. Có thể, ‘cách đi’ của nhà báo nhọc nhằn, đau đớn đã làm cho tôi không biết cách né tránh hay dùng bút danh. Nhưng đó là số phận. Tôi chấp nhận. Tôi đã lường trước chuyện này lúc toà báo yêu tôi viết khi tôi mới thấy tên mình trong danh sách (ký tên phản đối khai thác beauxite Tây Nguyên) trước đó vài giờ ’.

Muốn kéo cả nhân loại xuống bùn để không phải chịu trách nhiệm cá nhân, ông cho rằng toàn giới nhà giáo (dạy KHXH nhân văn) đều nói dối như ông, toàn giới ăn lương đều từng làm bồi bút như ông.

Và ông thắc mắc với nhũng người phản đối sự tráo trở bất nhất của ông trong hai bài viết trước và sau khi có kết luận của Bộ Chính trị ‘ Hơn nũa, tại sao quí vị không đánh thẳng vào các VIP đi mà lại cứ nhè vào một kẻ phải viết báo để kiếm sống, để mong mỏi chút thay đổi nhạt mờ?’.

… Trong bài 27/4, ông hết lời ca ngợi Bộ Chính trị nào là có chủ trương từ lâu, cân nhắc suy xét kỹ càng, nào là biết tiếp thu ý kiến người dân, nào là có tầm nhìn xa một cách rõ ràng. Thế nhưng trong bài trần tình với những người cùng ký tên vào đơn phản đối việc khai thác beauxite, ông lại viết như thể xoa đầu Bộ Chính trị ‘Lời để kết thúc, tôi muốn nói rằng BCT đã ra thông báo như thế là đã biết sai rồi’.

Vậy là ‘chủ trương đúng đắn’ của BCT là đúng hay sai đây? Hay ông Thịnh là người có biệt tài ngửi gió? Còn ‘thơm’ hay ‘thối’ thì là tùy hướng gió?

Và tác giả Blog Linh kết thúc bài viết dài của mình bằng một câu rất ngắn nhưng cũng rất nặng ký:

«Xem ra ông Thịnh có thể có chữ ‘sĩ’ nhưng ắt là không có chữ ‘sỉ’. Hà văn Thịnh hay Hà Phù Thịnh?

Kẻ sĩ của một nước mà hèn thì quốc gia ấy ắt sẽ phải suy vong. Nhà nước độc tài đảng trị cộng sản Việt Nam đang đi vào vết xe đổ, bắt sĩ phu trong nước thành kẻ hèn để dễ bề cai trị thì con đường bại vong, mất nước đã thấy sờ sờ ngay trước mắt.

Suốt hơn 60 năm dưới gọng kềm sắt máu của đảng cộng sản Việt Nam giới sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ … đều bi o ép, bắt buộc dưới mọi hình thức từ bạo lực đến khủng bố, hăm dọa, bao vây kinh tế, bóp bao tử, trù dập … phải phục vụ tuyên truyền, bẻ cong sự thật, làm lệch lịch sử có lợi cho chúng thì chuyện kẻ sĩ bị hèn không phải là chuyện lạ và đáng trách. Không hèn hôm nay thì ngày mai buộc phải hèn chỉ vì để sống còn.

Kẻ sĩ Bắc Hà, ở trong giai đoạn đảng đang say máu ‘giết lầm hơn bỏ sót’, như cá nằm trên thớt, những ai không cúi đầu nghe theo lệnh đảng như Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần, Phan Khôi … được mấy ai ?

Tuy nhiên điều đáng hổ thẹn ở đây là có người, con số không phải là ít, lại hãnh diện cam tâm khom lưng làm văn nô, bồi bút cho ác quyền mà lương tâm và lương tri không một mảy may ‘bức xúc’ và ‘trăn trở’ với những dòng chữ nhơ nhớp của mình viết ra.

Loại người này luôn luôn chực chờ, rình mò cơ hội để sẵn sàng lập công dâng đảng, bất chấp thủ đoạn cốt chỉ được nhận cái vết … nhơ một thời làm lính văn nghệ cho đảng như Tô Hải đã vạch ra.

Cái đám lính văn nghệ cho đảng hiện nay rất đa số, đa năng, đa hiệu. Ngoài nghiệp vụ của người làm báo là thông tin ra chúng còn làm tài khôn của chó săn, cầm đèn chạy trước ô tô, chiếm luôn quyền hạn của lập pháp, hành pháp và tư pháp nữa. Bài viết của chúng luôn có đủ ba nhiệm vụ: vu cáo, kết tội và hung hăng ra án phạt trong khi đối tượng đang còn trong tình trạng điều tra.

Cứ xem các bài báo của những Xuân Quang (báo Nhân Dân), Như Phong (báo Công An), Anh Quang (báo Hà Nội Mới), Hà văn Thịnh (Báo Lao Động), Thái Nam, Phạm Gia Minh, Nguyễn Ngọc Trân, Thi Nga … và còn nhiều kẻ phải bịt mặt để viết bài vu khống, mạ lỵ, hạ nhục, bôi bẩn đối tượng, ký tên hai chữ tắt P.V để khỏi xấu hổ với chữ nghĩa bẩn thỉu của mình thì đủ biết chúng là loại gì.

Tóm lại, dù chúng có lấy bút danh, bút hiệu gì gì đi nữa để trốn tránh dư luận thì tự thâm tâm chúng cũng là những thứ văn nô, bồi bút, chó săn tệ mạt, hèn nhát.

Một ngày nào đó ‘đảng không tin tôi nữa’ như Hà Văn Thịnh than thở thì rồi chúng cũng sẽ cùng nhau đấm ngực và khóc rống lên, ca bài ca con cá rằng ‘Đời là bi kịch’.

Hãy ngẫm xem hai trường hợp điển hình vừa nêu trong bài, một nhạc sĩ Tô Hải và một giảng viên sử Hà văn Thịnh, ai là kẻ bi, ai là kẻ hài của một kiếp văn nô, bồi bút ?

Nguyễn Thanh Ty
17/5/09

Cuộc chiến đấu của những người lính không còn binh chủng - Nguyên Huy

Nguyên Huy

Bốn người ngồi trong một phòng khách sang trọng. Họ vốn là Sĩ quan đồng khóa 14 Thủ Ðức trước năm 1975. Ra trường người được chuyển về Hải Quân, người Không Quân, người về Bộ Binh, Chiến Tranh Chính Trị. Những năm tháng trong quân ngũ, họ vẫn gặp nhau thường xuyên do tình cờ cùng công tác ở một Nha, Sở. Ba Mươi Tháng Tư Một Chín Bẩy Lăm, họ tan tác. Người di tản được. Người vào tù. Người trốn tù, vượt biên. Ba Mươi tháng 4 năm nay họ gặp lại được nhau. Buổi gặp mặt hôm nay là tiệc mừng đón kẻ sang Mỹ chậm nhất trong 4 người.

Người ngồi trong góc tối mờ của phòng khách bắt đầu kể lại một kỷ niệm. Giọng anh bình thản, đều đều như đọc một trang sử đã qua. Ba người ngồi nghe, nhạt nhòa trong ánh sáng của đèn phòng khách.

Bên ngoài, trời Cali đầu Hè, vẫn lạnh. Không gian tĩnh quá như muốn nhấn mạnh cái lẻ loi, cô đơn của người xa xứ.

Vào những ngày chộn rộn nhất của Tháng Tư năm ấy tôi lại phải ra công tác ngoài Huế. Chả là vị giám đốc của tôi được lệnh cho thu dọn đài phát tuyến để chuyển vào Nam vì tình hình mất Huế kể như gần chắc rồi. Lòng không muốn, nhưng quân lệnh, khó mà cưỡng. Ở Huế, tôi vội vã cùng nhân viên địa phương tháo gỡ hết và liên lạc xong với 1 đơn vị Hải Quân, xin được 1 chuyến tầu chuyên chở. Nhưng chỉ vào tới Ðà Nẵng thôi vì tầu còn phải trở lại để di chuyển cho nhiều cơ quan khác. Tôi đành đánh điện về xin chỉ thị. Kết quả: bằng mọi giá, tôi phải giữ được dụng cụ vật liệu của Trung Tâm đã tháo ra. Thế là tôi đành ở lại Ðà Nẵng để chờ Trung Ương liên lạc với bên Hải Quân xin chuyên chở vật liệu vào Sàigòn. Bắt đầu là những giờ phút kinh hoàng ập đến. Huế đã thất thủ. Ðà Nẵng lên cơn sốt di tản. Người đổ ra cảng Ðà Nẵng và suốt dọc bờ biển Sơn Trà hỗn loạn. Dân lính hòa nhau trong cuộc chạy đua ra biển. Một cuộc tìm sống hãi hùng. Pháo Cộng Sản bắt đầu nã rải dọc bờ biển là lúc mà con người không còn đối xử được với nhau 1 chút nhân ái nào nữa. “Panique” đã diễn ra. Tôi phải làm sao? Bỏ của chạy lấy người? Ðể rồi vào Sàigòn chắc là sẽ bị ra tòa án quân sự. Ở lại để chờ di chuyển vật liệu. Chắc chết. Tôi không thể nào dứt khoát được. Không phải tôi có tinh thần trách nhiệm cao đâu, mà chính vì sợ phải ra tòa án quân sự khi không hoàn tất được nhiệm vụ. Lúc này, tôi mới thấy mình ngu. Người ta thì bỏ cả đơn vị, công sở, thậm chí cả vợ con để chạy lấy người mà mình thì không dứt khoát được. Tôi cố nhờ một vài đơn vị còn trụ lại để liên lạc với thượng cấp của tôi mà không liên lạc được. Vị Sĩ quan truyền tin bảo tôi, “Ông cứ xuống tầu đi, Trung Ương phải biết tình thế này chứ. Chuyến tầu của đơn vị tôi sẽ nhổ neo lúc 3 giờ. Nếu đi, 2 giờ 30 ông lại đây”. Tôi cảm ơn, chạy về đơn vị mình. Viên Trung sĩ trực, đi cùng tôi vẫn bình tĩnh nằm chờ ở bến. Tôi hỏi:

- Mình tính sao bây giờ?

Hiểu ý tôi, viên Trung sĩ đáp.

- Tùy Ðại Úy quyết định.

- Vậy 2 giờ 30 mình ghé tiểu đoàn truyền tin đi cùng họ.

- Vâng.

Anh ta lặng lẽ xếp lại tấm chăn dã chiến và cái ba lô anh lấy làm gối. Gấp chiếc ghế bố nhà binh để góc tường, anh ngó căn nhà kho rộng chứa đầy những vật liệu tháo gỡ từ một Trung tâm phát tuyến, anh thẫn thờ:

- Bỏ lại kể cũng tiếc thật. Cả chục triệu đô la chứ ít gì.

Tôi hỏi anh là Trung đội Ðịa Phương Quân được tòa tỉnh Huế biệt phái cho đi khuân vác theo đâu.

Anh rắn rỏi đáp:

- Mạn phép Ðại Úy, tôi cho họ về Huế cả rồi.

Tôi trợn mắt:

- Tình thế này mà anh để họ về Huế.

- Họ nôn nóng vợ con gia đình. Biết làm sao.

Tôi định la nhưng chợt nhận ra tình cảnh chung, đành lặng lẽ thu xếp hành trang.

Pháo địch nã lên dữ dội hơn. Tiếng súng nhỏ râm ran khắp thành phố. Nhưng dòng người vẫn chật đầy phố phường. Như một cảnh hội pháo. Nhưng là Hội của Quỷ vì ai nấy mặt mũi xanh rờn, áo quần tơi tả.

Tôi ngó ra bãi biển. Như một cảnh tắm biển Mùa Hè ở các xứ người. Nhưng ở đây, nơi quê hương khốn khổ này, người ra biển không phải là để tắm mà để trốn chạy chính đồng bào của mình. Không có cảnh áo tắm nào đâu. Chỉ là một bãi biển đen kịt những con người khốn khổ. Một đám lính không còn vị chỉ huy nào, hùng hổ vừa bắn chỉ thiên vừa lao những chiếc jeep, dodge ào ào xuống bãi. Chúng gạt mọi người, cướp những chiếc thuyền cao su, thuyền gỗ, hay bất cứ thứ gì nổi trên nước có thể đưa chúng ra nơi tàu Hải quân đậu. Tiếng người la ó, gào thét râm ran. Tiếng đại pháo từng chập rộ lên và bây giờ thì liên tục triền miên. Bỗng đám đông xao động hẳn. Nhiều tiếng la thất thanh:

- Việt Cộng đã vào thành phố rồi đấy.

Tôi hốt hoảng, ngoắc viên Trung sĩ chạy túa theo đoàn người quên cả ba lô hành trang.

Chạy dọc theo bãi Sơn Trà xuống phía Nam cùng dòng người hỗn loạn, tranh cướp nhau lên một chiếc đò gỗ. Người lái đò hét lớn:

- Mỗi người một lạng vàng, tôi mới chở.

Ai nấy gật đầu. Tôi cũng gật đầu.

- Chung vàng ra.

- Cứ cho đò ra khơi đi. Chúng tôi sẽ chung đủ.

Tôi nhìn lại người trên thuyền. Chiếc thuyền khoảng 5m dài hơn 1m rộng mà có tới gần 5 chục người. Nước mấp mé mạn thuyền. Tôi tìm viên Trung sĩ. Không thấy. Chúng tôi đã lạc nhau. Một ông trung niên, dáng như nhà buôn, đứng ra thu vàng cho tên lái thuyền. Thôi thì lại huyên náo. Người không có vàng, chỉ đưa tiền. Tiền cả bịch lớn, chẳng biết là bao nữa. Người lột đồng hồ, tư trang ... Còn tôi? lấy gì bây giờ. Tôi đành lắc đầu.

- Không có gì, lính mà.

Ông thương gia trừng mắt:

- Nhẩy xuống đi. Lính mà cũng chạy à.

Chợt ông nhìn trên tay tôi, hỏi:

- Rolex hả.

Tôi chợt nhớ chiếc đồng hồ đeo tay Rolex quí giá của tôi. Tôi lưỡng lự:

- Cũ rồi.

Ông Thương gia gay gắt:

- Tháo ra đi. Mất thì giờ quá.

Một bà dè bỉu:

- Còn tiếc gì nữa cơ chứ. Sống là may.

Có tiếng la lớn:

- Thuyền chìm! Thuyền chìm!

Rồi hỗn loạn. Tôi chỉ kịp cởi chiếc áo lính thì nước đã tới cổ. Bản năng sinh tồn đã đưa tôi tới mạn tầu Hải quân lúc nào tôi cũng chẳng biết. Lên tầu, vừa lạnh mệt tôi thiếp đi bao lâu để khi tỉnh dậy thoáng nghe thấy tiếng reo:

- Cam Ranh.

Ở lại Cam Ranh chờ chuyến tầu Hải Quân để về Vũng Tầu cả tháng trời, tôi không còn biết phải làm gì. Ngày ngày dạo quanh các khu tị nạn, ngóng chờ các chuyến xe hàng từ Nha Trang vào để đọc nghiến ngấu những tin chiến sự trên báo Chính Luận phối hợp những tin tức nghe được trên đài BBC vào chiều tối, thấy càng sốt ruột. Tôi đã thử lội bộ, tìm đường về Nam nhờ các chuyến xe hàng. Nhưng một xu dính túi không có giữa lúc bạc tiền được tung ra không tiếc để có được một chỗ trên xe hàng chạy về Nam. Vả lại, trên đường bộ xuôi Nam, làm sao có an toàn. Mỗi lúc, câu chuyện di tản chiến thuật của quân dân Miền Nam càng trở nên bi đát, đau thương, kinh hoàng hơn. Ðắn đo mãi, tôi đành ở lại chờ đi bằng đường thủy.

Buổi sáng hôm xuống được chuyến chiến hạm HQ của Hải Quân Việt-Nam, cũng là lúc mà mọi người được tin là Nha Trang đã mất. Khi vào đến Vũng Tầu, tôi mới được biết là Nha Trang đã bỏ ngõ khi Cộng Quân còn ở cách thành phố đến cả nửa ngày đường. Người ta bảo nhau chạy vì tối hôm trước đài BBC có loan tin Cộng Quân tiến vào thành phố Nha Trang.

Từ Vũng Tầu về Sàigòn chẳng còn bao xa nữa. Nhưng tôi vẫn nôn nóng. Trước cảnh chiến địa tan hoang, người người ly tán ở miền Trung, tôi không còn lòng dạ nào ngoài ước muốn được ở bên gia đình lo cho vợ dại con thơ. Nhưng ở Vũng Tầu, ngoài các bến bãi và những nơi tạm trú cho quân đội và dân chúng, thành phố biển này cũng chỉ hơi xao động. Phố xá vẫn buôn bán tấp nập, tầu bè san sát và bãi biển thì đông đặc người. Cũng có người tắm, nhưng phần nhiều là ngóng chờ những chuyến ra khơi. Nghe nói thì tầu Mỹ đã bắt đầu đón người, nên ai nấy đều nhìn ra biển chứ ít ai nghĩ đến trở vào đất liền.

Trong khi đó chiến sự lan mạnh. Có tin Phan Rang đã mất và Cộng Quân đang dồn về Long Khánh. Thoáng trong óc tôi, một hình ảnh một mạng lưới đang thu hẹp lại. Tôi quyết định tìm mọi cách trở về Sàigòn mà không lóng ngóng ở bãi biển để tìm cách ra đi như mọi người khác.

Khi men được về đến Biên Hòa thì Biên Hòa cũng thất thủ. Ðó là sáng ngày 28 tháng 4 năm 1975. Tôi vội lội bộ băng ruộng cùng rất nhiều đồng bào, tìm về hướng Thủ Ðức. Nhiều tiếng miền Trung thốt lên, e ngại:

- Có ai biết đường về Thủ Ðức - Sàigòn không?

- Cứ đi. Qua các thôn xóm hỏi thì rõ.

Tôi quan sát đám người cùng đi. Bấy giờ tôi mới chợt nhận ra, phần lớn là anh em trong quân đội. Có một vài phụ nữ, với con nhỏ, chắc là gia đình của quân nhân. Chúng tôi tập họp nhau lại khoảng 50 người. Một anh bạn trẻ, mặc chiếc sơ mi rách nát nhầu, nhưng cái quần lại là quần “trây di”, chân đi dép Nhật, hăng hái nói:

- Cứ theo tôi.

Tôi hỏi anh.

- Anh biết rõ lối đi không.

Nhìn kỹ tôi một lát, anh mới nói:

- Cách đây 10 năm tôi có ở vùng này 8 tháng.

Hiểu ý anh tôi hỏi:

- Tôi khóa 14. Còn anh.

Anh vui mừng:

- Chúng ta cùng khóa rồi. Vậy anh còn nhớ đêm di hành cuối khóa không?

Tôi ngần ngại thú nhận:

- Ðêm đó tôi trốn hành quân.

Anh không nói gì, quay nhìn bốn hướng. Rồi chợt nhận ra điều gì anh quả quyết.

- Mình đi về hướng này. Chỉ đến trưa là sẽ tới sân bắn mới Thủ Ðức. Tới đó mình tìm xe lam về Sàigòn được rồi. Bọn nó chưa ra khỏi được Biên Hòa đâu.

50 người chúng tôi theo anh lội tắt các khu ruộng. Hết xóm đến thôn, lại đến ruộng, rạch. Ðâu đâu cũng thấy dân chúng nhớn nhác nên chẳng ai để ý đến chúng tôi cả. Một vài nơi đã dám kéo cờ Giải Phóng Miền Nam, nửa xanh nửa đỏ có ngôi sao vàng.

Chúng tôi tới được bờ Nam sông Sàigòn thì cũng vừa lúc tiếng súng lớn nhỏ nổ rộ bốn chung quanh. Anh bạn trẻ nói cho cả bọn:

- Mình đang ở giữa một mặt trận rồi.

- Sao anh biết.

- Kinh nghiệm chiến trường lâu nay.

Một người trong bọn lắng nghe rồi nói:

- Phía này là quân bạn.

Rồi anh kéo một số người đi tiếp. Tôi đắn đo. Anh bạn trẻ lôi tôi đi:

- Phải đi thôi.

- Nhưng lỡ lọt vào trận tuyến địch thì sao.

- Anh quên tiếng M1 nổ rồi à.

Tôi chợt tỉnh, yên tâm đi theo.

Nắng chiều gắt gao. Ðồng cỏ hừng hực hơi nóng. Cỏ lút đầu người. Mới đó mà không hiểu mọi người đã tản đi đâu hết. Tôi đành nhắm hướng các ngọn cỏ lau xao động phía trước mà tiến tràn. Lúc này tiếng súng nổ ran như pháo Tết ở sau lưng, càng khiến bước chân tôi lội nhanh về phía trước. Có lẽ tôi đã lạc bọn rồi. Phía trước chỉ là những làn cỏ lướt trong gió. Không một dấu hiệu nào chứng tỏ đồng bọn tôi đang trú ẩn. Có tiếng đạn réo trên đầu. Tôi cúi xuống chạy lúp xúp. Những ngày ở quân trường năm xưa tôi đã quên hết. Bốn tháng giai đoạn 1 học chiến thuật, 4 tháng sau đó về ngành CTCT rồi ra trường, chỉ ở văn phòng. Bỗng tôi thấy 1 người nằm vắt qua bờ mương nhỏ. Một chiến binh. Bên nào? Bộ quân phục dã chiến đầy bùn quen thuộc, nhưng đôi giầy “saut” lại bằng vải. Quân đội mình làm gì có giầy nầy. Chợt tôi thấy cái nón cối cách xa đó. Tôi hốt hoảng, rẽ về lối khác. Thế là mình đang ở trong chiến tuyến của Cộng Quân rồi. Phải ra thoát. Lúc này 1 cây súng trên tay chắc có ích. Tôi quay lại, nhặt lấy khẩu A.K. bên xác chết. Hình như đâu đó có tiếng nói. Tôi lắng tai cố nghe nhưng không thấy gì. Chỉ là tiếng gió rào rạt làm nền cho những tiếng súng từng hồi rộ lên.

Chiều xuống thấp lắm. Cơn gió đồng mát mẻ thổi trên người bắt đầu se khô mồ hôi đẫm áo. Phía trước mặt tôi, hình như là một thôn xóm. Ðã thấy một lối đi mòn giữa một bãi tha ma trống. Tôi không dám tiến đến bãi tha ma vì sợ làm đích cho cả hai bên. Lại phải đi vòng. Hình như thấp thoáng có một mái tranh. Và những nóc nhà tranh, nhà ngói hiện ra. Một địa danh chợt đến: Linh Xuân Thủ Ðức ư. Không. Ðây phải là Cát Lái rồi. Cánh đồng cỏ lút đầu vẫn trải dài trong bóng chiều thật nhạt. Tiếng súng vẫn từng chập, ở mọi phía. Lúc này, hình như tôi không phải là tôi nhút nhát, mà lại quen được tiếng súng nổ. Thỉnh thoảng có vài phút yên tĩnh trên cánh đồng, tôi lại sợ cái yên tĩnh ấy.

Bây giờ thì tôi khá bình tâm. Một vài dấu hiệu quen thuộc trong cảnh chiều đã xuống thấp. Rõ rồi. Ðây là Ngã Ba Cát Lái. Ðúng con sông này và con đường nhựa nhỏ tôi đang băng qua đây. Ký ức chợt hoạt động mạnh mẽ. Biết bao nhiêu chiều Chủ Nhật tôi đã cùng N. tới nơi này. Dựng xe bên bờ đường, ngồi trên bờ cỏ, ngắm chiều xuống rồi trở về thành phố ăn một bữa cơm tây và chia tay. Chả có gì nhưng đã là những hình ảnh làm tôi nuối tiếc, thèm khát biết bao khi vào quân trường phải thực tập những bài học lính gác giặc tại các khu vực này. Bây giờ, cả chục năm đã qua, trở lại chốn cũ giữa hoàn cảnh khó tả này, hình ảnh người yêu cũ lại hiện ra và cũng cùng lúc hình ảnh gia đình ập đến. Bước chân tôi lại dồn dập. Tiếng súng vẫn ở sau lưng rộ lên nhiều hơn phía trước mặt. Tôi đoán, quân bạn đang rút về thành phố. Cuộc chiến này sắp chấm dứt rồi sao. Chấm dứt ngắn gọn như thế sao. Chúng tôi sẽ còn lại gì. Không thể thế được. Mậu Thân 1968 chúng tôi đã phản công và chỉ sau 2 tuần, lại làm chủ tình thế suốt từ Nam ra đến Thạch Hãn.

Nhưng bây giờ, chúng đang đẩy lùi chúng ta. Cuộc chiến bây giờ là trận địa chiến không phải du kích, đánh lẻ như phần lớn các cuộc đụng độ hồi 1968.

Vậy sẽ thua sao? Tương lai rồi sẽ thế nào cho một Việt-Nam?

- Ðứng lại.

Một tiếng quát nhỏ đưa tôi về thực tại. Tôi bàng hoàng nhìn trong đêm, phía có tiếng quát, và đứng sững người, bỏ khẩu A.K. xuống đất.

- Ðơn vị?

Tiếng nói dịu đi. Tôi vội trả lời vì đoán là quân bạn.

- Chiến Tranh Chính Trị.

- Ở đâu.

- Sàigòn.

Một thân người nhô ra khỏi bức tường. Trong ánh sáng mờ của đêm sao, tôi thấy rõ một chiến binh Việt-Nam Cộng-Hòa vì dáng đứng của anh. Anh ngoắc tay cho tôi lại gần:

- Di tản miền Trung vào hả.

Tôi gật đầu, giải thích:

- Ðang công tác thì chiến sự lan đến.

- Bỏ chạy cả phải không.

Anh chiến binh cười lớn, ngạo nghễ. Một tràng tiểu liên réo trên đầu. Lửa đạn nhoang nhoáng. Anh đẩy tôi ngã sấp, miệng chửi tục. Cùng lúc, phía bức tường, từng tràng trung liên khạc lửa, đinh tai nhức óc.

Anh chiến binh bảo tôi:

- Lấy súng rồi tìm chỗ nấp. Chúng đã dò ra bọn mình rồi đó.

Có tiếng gọi chiêu hàng xa xa:

- Các anh hãy bỏ súng xuống. Hòa bình đã tới rồi. Cách Mạng sẽ khoan hồng cho các anh. Ðừng ngu xuẩn điên cuồng chống lại Cách Mạng, chống lại nhân dân.

Lại một tràng trung liên xuyên về hướng đó. Anh chiến binh chửi tục. Anh nói với tôi:

- Anh rút theo đồng bào hay ở lại chiến đấu với tụi tôi.

Tôi vội vàng:

- Tôi phải về Trung Ương báo cáo công tác ngay không thể ở lại với các bạn được. Bạn có thể cho biết đơn vị nào đang chặn địch ở đây không.

Anh lẩm bẩm:

- Ðơn vị. Chính tôi cũng không còn biết nữa. Rút chạy từ Qui Nhơn, tôi đã lạc đơn vị.

- Vậy anh đang chiến đấu với ai.

Anh hất đầu về phía bức tường.

- Tổ trung liên kia gồm một Dù, một Biệt Ðộng Quân và một Bộ Binh. Họ không nói nhưng nhìn quân phục và huy hiệu.

Tiếng nổ chát chúa ngay bên tai, khói mù mịt. Tiếng những bước chân chạy và tiếng vũ khí va đập. Thoáng có tiếng gọi:

- Rút vào trong thôn đi các bạn.

Thấp thoáng tôi thấy cả chục bóng đen di chuyển. Tôi cố gắng len lỏi theo họ, qua các hàng rào tre, gỗ, kẽm gai, tường gạch. Vẫn là tiếng anh chiến binh lúc đầu:

- Nếu anh không ở lại thì nên đi phía này ra xa lộ mà kiếm xe về Sàigòn. Bọn tôi sẽ về chân cầu xa lộ ...

Tiếng súng chợt nổ rền 4 phía. Chúng tôi đang ở trong một thôn xóm. Hình như chúng tôi đã bị bao vây tứ phía. Anh chiến binh kéo tôi chạy vào trong 1 căn nhà gạch. Có tiếng nói gằn giọng:

- Chạy đâu nữa, kiếm 1 vị trí chiến đấu đi.

Tôi chợt nhận ra quanh tôi có rất nhiều người. Phần lớn là chiến binh. Tôi không rõ họ thuộc đơn vị nào. Nhưng tất cả, quân phục đều tả tơi, nhưng vũ khí lại rất đầy đủ. Một người trong nhóm nói:

- Chúng ta không thể tụ cả lại đây được. Phải phân tán ra.

- Ai chỉ huy ở đây.

- Tôi.

Mọi người đều dồn mắt nhìn về phía tiếng người vừa xưng “tôi” dõng dạc. Nền trời đêm qua khung cửa mở rộng soi rõ một dáng người nhỏ nhắn nhưng vững chãi. Tự nhiên tôi thấy vững tin và có lẽ những người chung quanh tôi cũng vậy. Nhiều tiếng nói:

- Chúng tôi sẵn sàng.

Bỗng có tiếng một người:

- Chiến đấu gì nữa. Tìm đường mà rút thôi.

Người nhỏ nhắn đanh giọng:

- Ðó là ý kiến của một mình anh. Anh có quyền làm như vậy. Và xin anh ra khỏi căn nhà này ngay.

Rồi với một giọng cao hơn, người nhỏ nhắn cương quyết:

- Ai muốn rút cứ việc bỏ vũ khí lại, nhất là đạn và lựu đạn.

Không khí chợt im lặng, làm tiếng súng bên ngoài càng rõ hơn. Không một ai có cử động bỏ ra ngoài. Người nhỏ nhắn bắt đầu phân công tác:

- Hai bạn nào ra nhận định hướng tiến của địch?

Hai bóng người vụt đứng lên, lẻn qua cửa rất nhanh.

- Tổ trung liên án ngữ đường vào thôn.

- Rõ.

Ba người vác súng và đạn chuyền qua cửa sổ ra sau vườn căn nhà.

- Các bạn còn lại, vũ khí đạn dược còn được bao nhiêu?

Nhiều tiếng nói lao xao. Người nhỏ nhắn tiếp:

- Không sao. Chúng ta cố gắng cầm cự, rút đến chân cầu xa lộ là có đủ đạn dược rồi. Ở đó có một đơn vị Dù đang trấn cầu. Bây giờ tôi chia như sau, 3 người một nhóm. Nhóm 1, bên phải căn nhà chế ngự hướng xa lộ. Nhóm 2, bên trái, cũng vậy. Nhóm 3 phía sau nhà, kiểm soát các nhà lân cận. Còn lại là nhóm 4 trừ bị tại đây. Chúng ta chờ “tiền sát” về sẽ tìm đường rút ra khỏi thôn.

Mọi người im lặng thi hành nhiệm vụ. Bây giờ thì mọi người đều không cần biết đến địch ở bên ngoài là bao nhiêu, nhưng cứ nghe tiếng súng thì không thể nào nghĩ là quân số 2 bên ngang nhau được. Nhưng tất cả đều như nhớ lại những bài học chiến thuật xưa và văng vẳng câu nói của cán bộ dạy chiến thuật “phải biết lao vào chỗ chết để tìm ra đường sống khi bị địch vây hãm hay phục kích”.

Tiếng súng bên ngoài thưa thớt. Ðêm hình như đã khuya. Ðã nghe rõ tiếng côn trùng rỉ rả khắp khu vườn tối.

Hai tiền sát viên trở lại. Tôi nghe rõ từng giọng hổn hển:

- Chúng không vào thôn. Chúng đang tiến về cầu xa lộ. Chúng đi từng đoàn nghênh ngang. Dân nói, chúng đông lắm ...

Vị “chỉ huy” của chúng tôi ra lệnh:

- Vậy ta rút. Bây giờ để toán 3 rút trước, rồi toán 2 và toán 1. Trung liên sau cùng với tôi và nhóm trừ bị. Thôi, Chúng ta bắt đầu.

Tự nhiên tôi cảm thấy yên tâm ghê gớm. Hình như tôi đã trút bỏ được hết nỗi lo lắng về gia đình. Trước mặt tôi bây giờ chỉ là một cuộc chiến đấu không cân sức mà chúng tôi phải chấp nhận.

Khi chúng tôi ra khỏi thôn thì trời hửng sáng. Phía chân trời một vài vệt đỏ rõ ràng. Một vài ngọn gió mát lướt trên cánh đồng không xua đuổi được hết cái oi bức của đêm qua.

Tôi quay nhìn vị “chỉ huy”. Anh thấp hơn tôi chút ít, da ngâm đen vì sương gió chiến trường. Dưới chiếc mũ sắt mà chiếc quai vải bỏ không cài, gương mặt anh rắn đanh. Ðôi mắt thật sáng. Dưới bộ quân phục hoa Dù, vẻ người của anh vẫn không hết những nét chân chất của người nông dân miền Nam. Tôi chợt nhận ra nơi ve áo ngực anh cái lon Thượng Sĩ Nhất. Vội sờ lên cổ áo, tôi mừng thầm nhớ ra là đã tháo bỏ lon Ðại Úy của mình. Tò mò tôi nhận xét người chiến binh đi cạnh tôi. Trên ve áo ngực anh có 2 lỗ thủng nơi chỗ thường gắn cấp bực. Phải là một Sĩ quan. Tôi tin thế và hỏi:

- Anh ở đơn vị nào?

- Sư Ðoàn 1.

Anh tiếp luôn:

- Sư đoàn tập trung ở Vũng Tầu nhưng tôi bỏ, tính về Sàigòn tìm xem vợ con ra sao thì lại kẹt. Còn anh?

- Tôi đang công tác ở Ðà Nẵng.

Anh giải thích thêm:

- Anh em ở đây đủ sắc phục, đủ các đơn vị. Chiều qua tụi tôi tình cờ tụ lại với nhau khi chiến đấu ở dọc xa lộ. Trên cùng một chiến tuyến mà tôi chẳng biết thuộc đơn vị nào. Ðến lúc thưa tiếng súng, hỏi nhau mới rõ chẳng có ai biết đơn vị mình đang chiến đấu là đơn vị nào và cũng chẳng có ai là chỉ huy cả. Thế nhưng, anh em vẫn cứ tiếp tục cầm súng mà không ai bỏ hàng ngũ cả. Thật lạ.

- Bây giờ thì có “chỉ huy” rồi đó.

Người chiến binh đi bên tôi, nghiêm chỉnh trả lời:

- Rất tiếc là anh không dự 1 trận phá vòng vây chiều qua của tụi tôi ở Ngã Ba Long Thành. Vị “chỉ huy” này đã một mình ôm cây Trung liên yểm trợ cho mười mấy anh em vượt ngã ba phía Bắc xuống phía Nam vì bên quận Tân Uyên chúng dầy đặc không còn lối nào thoát. Ai cũng sợ phải vượt Ngã Ba vì lộ trống quá mà. Nhưng nhờ có khẩu trung liên mà 1 đơn vị có dễ đến cả đại đội địch không tiến lên được. Có nhìn thấy anh nằm khơi khơi ôm khẩu trung liên ở bến xe đầu ngã ba mới thấy phục. Ai cũng lên tinh thần cả nên mới cùng nhau tiếp tục chiến đấu đấy chứ.

Một chiến binh đi phía sau cũng góp tiếng:

- Chiến đấu không phải để chạy đâu mà chiến đấu để tìm 1 đơn vị bạn, rồi sẽ nhập vào chiến đấu qui mô.

Tôi quay lại. Người vừa nói hất đầu hỏi tôi.

- Phải vậy không?

Tôi gật, Anh định nói tiếp vừa lúc vị “chỉ huy” reo khẽ:

- Cầu xa lộ.

Chúng tôi theo “lệnh”, đi về hướng bờ sông Sàigòn tránh hướng cầu. Dự định tới bờ sẽ đi ngược lên tới chân cầu để tìm 1 đơn vị lớn nào đó đang trấn cầu ngăn đà tiến của địch.

Buổi sáng một ngày như mọi ngày. Hướng xa lộ vẫn có tiếng xe chạy rào rạt. Người đi lại có vẻ đông đúc. Có lẽ dân chạy di tản về Sàigòn. Vậy chúng sẽ tiến quân lối nào, chúng có dùng xa lộ không. Anh em chúng tôi đang bàn hỏi nhau thì chợt nghe tiếng máy nổ dồn dập rồi chiếc T.54 đầu tiên nhô cái nòng lên trước. Mạch máu anh em chúng tôi căng thẳng. Ôi! Chúng kiêu ngạo quá! Chúng dám tiến quân lẫn trên đường di tản của dân. Vị “chỉ huy” thúc chúng tôi tiến nhanh về phía cầu, bỏ không đi về hướng bờ sông nữa. Trên xa lộ, một chiếc T.54 bắt đầu rẽ xuống bên đường quay nòng về cánh đồng. Chúng đang yểm trợ cho bộ binh qua cầu.

Một tiếng nổ từ phía cầu. Một cụm khói bốc lên từ chiếc T.54. Thế là đạn trên tăng vã ra như mưa rào về phía cầu. Chúng tôi quan sát trên cầu. Từng ụ cát trải dài nhưng tiếng súng vẫn không có. Quân bạn đã rút rồi chăng. Trên mặt lộ lúc này vắng tanh. Phía sau 3 chiếc T.54 là từng đoàn địch quân đang mở rộng vòng tiến lên cầu. Bọn chúng chạy lúp xúp. Có đứa chạy rơi cả mũ, vội quay lại nhặt. Những chiếc nón cối mới tinh và những bộ quân phục cũng mới tinh. Chúng tự tin là vào Sàigòn tiếp thu ư? Có thế, chúng mới mặc quân phục mới khi còn phải chiến đấu.

Bây giờ thì chúng đang mở rộng trận tuyến. Có thể như 1 trung đội đang tiến về phía chúng tôi. Vị “chỉ huy” làm hiệu tay triển khai chiến tuyến. Chúng tôi, 3 người một, nhanh chóng tìm các ụ chiến đấu. Chúng đã tới gần. Chúng định làm 2 gọng kìm bẻ vào chân cầu tiêu diệt quân bạn trên cầu. Vị “chỉ huy” khai hỏa. Chúng tôi đồng loạt nổ ròn vào những cái bia sống rất rõ. Lúng túng mất một lúc tôi mới sử dụng được khẩu A.K. Tôi cố điều chỉnh để đạn không ra liên thanh, quên hẳn nút điều chỉnh. Từng loạt người đổ rập, nhưng vẫn là những bóng người nhấp nhô tiến lại. Có một lúc tôi tự hỏi không biết chúng có được học chiến thuật không mà chúng - chiến đấu kỳ lạ thế. Cứ xồng xộc xông vào lưới đạn, đội hình lung tung. Tôi chợt nhận ra qui luật của chúng. Cứ khoảng 5 phút là một đợt tiến lên rồi lại nằm xuống ngay giữa cánh đồng. Như một cái máy. Khẩu trung liên của chúng tôi như cũng tìm ra được khuyết điểm đó của chúng nên cũng cứ 5 phút một lại quạt một tràng. Cuộc chiến đấu căng thẳng. Sức tiến của địch chậm hẳn lại. Trên cầu súng của bạn lúc này cũng nã xuống như mưa. Hai chiếc T.54 đã bốc cháy. Nhấp nhô trùng điệp phía xa, địch quân đang dồn lên. Trên tuyến chiến đấu của chúng tôi đã thủng, cắt rời ba chúng tôi với anh em cùng vị “chỉ huy”.

Khẩu A.K. của tôi đã hết đạn. Tôi quăng súng nhìn 2 chiến hữu. Một người ngoắc đầu bảo tôi rút. Tôi thấy anh nạp băng đạn kép vào khẩu M.16 của anh và say sưa bắn tỉa như muốn yểm trợ cho tôi rút xuống bờ sông.

Không để lỡ cơ hội. Tôi lăn mình vào 1 bụi rậm sau lưng rồi cứ len theo các bụi lau sậy trườn xuống. Tiếng súng mỗi lúc mỗi xa dần. Ðến khi nhìn thấy bờ nước thì tôi đã cách xa hẳn tuyến chiến đấu rồi. Tìm được một bụi lau lớn, tôi để ngập mình trong làn nước, nhìn trở lại phía các bạn đang chiến đấu. Phía đó, không còn tiếng súng nữa. Phía cầu, khói bốc mù mịt. Nhiều tiếng nổ lớn dội lên. Tôi mong chiếc cầu sập xuống. Nhưng không, nó vẫn đó, vẫn vắt qua hai bờ, lưng cầu uốn lên vạch một đường cong trên bầu trời xanh ngắt. Mặt trời đã cao. Nước trên mặt đã ấm nhưng ở dưới chân vẫn còn buốt. Tôi nhìn về phía bờ bên kia. Tân Cảng - New Port. Hai chiếc tầu Hải Quân nhỏ vẫn còn đó. Tầu thuyền san sát. Người đen nghẹt trên bến.

Tôi ước ao bơi được qua sông. Sông quá rộng.

Lúc này tiếng súng phía cầu chỉ còn thưa thớt. Nhưng bầu trời bỗng rền vang tiếng trực thăng. Tôi mừng thầm. Quân ta đang được trực thăng vận phản công. Một chiếc Chinook rồi 2, rồi 3 lượn vòng về phía thành phố. Không có 1 cuộc đổ quân nào cả. Trên cầu đã có bóng nón cối qua lại.

Tôi ngậm ngùi nhớ vị “chỉ huy”, nhớ các chiến hữu trong mấy tiếng đồng hồ vừa qua. Họ còn sống không.

Bây giờ, 18 năm sau, tôi vẫn nghĩ họ còn sống, những người chiến binh không còn binh chủng.

Người kể chuyện vuốt mặt, đứng dậy đi về phía cửa sổ phòng khách. Anh kéo cánh cửa kính. Tiếng rào rạt liên tu bất tận của dòng xe cộ trên đường phố Cali ào vào phòng phá vỡ cái không khí trầm mặc của câu chuyện anh vừa kể.

Cả 4 người chợt nghĩ “Sắp hết ngày Chủ Nhật. Lại sắp bắt đầu một tuần lễ 'đi cày'”.

Nguyên Huy

Xã hội dân sự ? - Cao Huy Thuần

Cao Huy Thuần
Giáo sư Đại Học Amiens (Pháp)

Bài này nảy ra trong đầu người viết sau khi đọc một bài báo trong Le Monde vào đầu năm nay (24-2-2004) nhan đề: «Sự thức tỉnh công dân của người Trung Quốc». Bài báo tóm tắt và bình luận một bài viết của một tác giả Trung Quốc, Qiu Feng, đăng trong một tạp chí Trung Quốc, Zinwen Zhoukan, nói về «phong trào tranh đấu mới đang xảy ra hiện nay cho dân quyền» tại láng giềng của chúng ta. «Phong trào» ! «tranh đấu»! «dân quyền» ! Nghe mà phát sợ ! Xin minquan xingdong ! Tân dân quyền hành động ! Muốn đọc nguyên văn bài viết, nhưng không phải ai cũng thông như cụ Tú Xương, cống hỷ méc xì đây thuộc cả, cho nên đành dựa theo báo Tây để tóm tắt lại chuyện Tàu.

Tác giả Qiu Feng phân tích hơn chục vụ việc đã gây xôn xao trên báo chí Trung Quốc trong năm 2003. Một số những vụ việc đó chẳng có gì mới, vẫn là địa phương nhũng lạm, công an bắt người trái phép: hoặc bắt người rồi lỡ tay đánh chết, hoặc bắt người rồi giam lâu quá, con trẻ ở nhà chết đói, hoặc bắt người vì có chút tư tưởng hơi khác, chuyện quen thuộc cả. Cái mới là trước đây chẳng ai nghĩ đến việc phải làm rùm beng, bây giờ trở thành chuyện phải nói trong dư luận, trong báo chí. Một số vụ việc khác mới hơn: tranh đấu để có thêm ứng cử viên độc lập trong những bầu cử địa phương; tranh đấu để bảo vệ quyền sở hữu nhà cửa ... Mới hay cũ, tất cả các vụ việc đó đều mang ba đặc tính: quy tụ được một dư luận quần chúng; kết tinh được một nhu cầu tôn trọng pháp luật; thúc đẩy được một chính quyền trung ương, lúng túng giữa mở và khép, thỉnh thoảng phải can thiệp để sửa sai các quan chức địa phương, tác giả các vụ việc gây phẫn nộ. Đó là quang cảnh mới diễn ra trước sân khấu. Đàng sau sân khấu là một tấm phông vĩ đại vẽ lên bao nhiêu dâu biển của thời thế: đô thị bành trướng, doanh nghiệp Nhà nước đang đóng hòm, nông thôn khủng hoảng, dân quê kéo nhau lên thành phố, giai cấp trung lưu áo mũ xênh xang, tầng lớp doanh nhân cất mình bay bổng ... Cái mới ngày nay là càng ngày càng đông dân chúng ý thức phải có luật lệ trong một xã hội đang quá xáo trộn. Chơi còn phải có luật chơi, huống hồ làm ăn ! Giữa tấm phông đó, linh động một lớp người mới, một nghề mới : các luật gia. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một trong hai «ứng cử viên độc lập» được bầu vào ủy ban nhân dân địa phương ở Bắc Kinh là một luật gia. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà một luật gia khác, He Weifang, giáo sư luật ở Đại học Bắc Kinh (Beida), cầm đầu chiến dịch đòi hủy bỏ các trại giam nhốt các cô cậu bụi đời. Gọi là tạm giam hành chánh, có người bị ngược đãi đến chết trong đó. Ai tố cáo những vi phạm đó nếu không phải là luật sư ? Cho nên «kinh tế gia thống trị trong giai đoạn những năm 90; luật gia sẽ thống trị trong những năm 2000». Mạnh Đức Tư Cưu đâu, hãy sống lại để nghe tác giả bài báo Trung Quốc tuyên bố như vậy. Lột xác qua kinh tế thị trường, xông xáo hết mình vào toàn cầu hóa, chơi nhanh và chơi trội trong WTO, Trung Quốc định tăng gấp đôi số luật sư hiện có (150.000) vào năm 2010. Từ 1999, khái niệm «Nhà nước pháp quyền» được đưa vào Hiến pháp, tuy là cốt lập kỷ cương trong địa hạt kinh tế, nhưng ai biết lúc nào thì biên giới kinh tế mở ra đón nhận những chuyện chính trị lôi thôi ? Thật ra «Nhà nước pháp quyền» cũng chẳng mới gì; nó đã được khai sinh từ thời Đặng Tiểu Bình, nhưng không phát triển nổi vì báo chí bị kẹt. Cái mới của ngày hôm nay là khái niệm an ninh luật pháp được mạng lưới internet hỗ trợ. Internet ! 80 triệu con chuột ! Mèo nào bắt cho hết ! Trong các vụ việc nêu lên ở trên, phẫn nộ ào ào thổi trên mạng lưới. Cũng như nhiều vụ việc khác xảy ra về sau: một phu nhân lái xe BMW cán chết một phụ nữ nông thôn; một trùm mafia được tòa án xử khoan hồng ... Internet đi trước, báo chí lội nước đi sau, bất công không thể dìm được như trước. Khác với những năm 80, cao trào phản đối vi phạm dân quyền mang nhiều hình thức mới: khỏi cần mất công phối hợp, tổ chức; xuất nhập thiên biến vạn hóa; khỏi cần phất cờ ý thức hệ, cũng khỏi tạc tượng nữ thần Tự Do. Ý thức hệ làm quái gì ? Chỉ cần hô to: áp dụng pháp luật ! Bởi vì pháp luật đã có sẳn rồi ! Đầy tràn trong Hiến pháp ! Cái gì ta chẳng có ? Chỉ thiếu thực hiện thôi ! Cho nên đây không phải là đối lập. Đây là tuân thủ luật pháp. Chỉ có luật, luật và luật, ngoài ra không có gì khác.Tri pháp uý pháp ! He Weifang tuyên bố với Le Monde: «Chúng tôi chuộng kỹ thuật và có tinh thần trách nhiệm hơn hồi 1989».

Tôi không biết phong trào của những He Weifang có tương lai gì không, chỉ thấy rằng đó là cách hành động ít không tưởng nhất. Cái mới ở đây là họ bám sát vào những tranh đấu xã hội cụ thể - xã hội chứ không phải chính trị - và lựa chọn lĩnh vực xã hội để hoạt động chứ không phải lĩnh vực Nhà nước. Thay đổi bộ máy Nhà nước ở trên cao là chuyện lấp biển vá trời, họ không màng. Họ quét dọn rác rưởi ở cấp cuối cùng của bực thang. Ấy cũng là áp dụng chính sách của Mao trước đây: trí thức phải đi vào quần chúng. Ngày trước họ bị «đi vào» để được quần chúng cải tạo. Ngày nay họ huýt gió đi vào, với cái mộng cải tạo xã hội. Một « cách mạng nhung lụa » đang diễn ra ở Trung Quốc, như Le Monde viết ? Một phong trào xã hội có thể làm thay đổi "sinh thái chính trị" như Xinwen Zhoukan tuyên dương ? Trong lịch sử - tờ báo viết - những phong trào xã hội lớn thường chẳng bắt đầu như thế sao, khởi thủy đâu mấy ai để ý ?

Tác giả Qiu Feng nêu lên một kinh nghiệm sống của vấn đề thời sự được mệnh danh trong học thuyết và thực tiễn chính trị là «xã hội dân sự» hoặc «xã hội công dân». Vấn đề có từ lâu, từ lâu lắm rồi, từ trước thế kỷ 18, Hegel và Marx kế tiếp đào sâu, rồi trở nên thời sự từ những năm 80, khi các phong trào chống đối ở Đông Âu tập hợp các đoàn thể - nghề nghiệp, tôn giáo, trí thức, nhân quyền, môi trường ... – nhân danh khái niệm đó để đả kích các Nhà nước áp bức, đòi dân chủ. «Xã hội dân sự», được hiểu như một tác nhân lịch sử mới, đối nghịch với Nhà nước, lan tràn khắp thế giới sau đó. Trung Quốc 2004 là một mô hình đơn sơ nhất, «hòa bình» nhất, hiền lành nhất, hiền lành quá, em hiền hơn cả ma xơ. Tôi mượn chuyện Trung Quốc làm nhập đề để lướt nhìn qua những kinh nghiệm khác, không có tham vọng đi sâu vào vấn đề và xin hạn chế vào hai khía cạnh thôi, hai mối liên hệ : liên hệ giữa xã hội dân sự và các hội đoàn phi chính phủ ; liên hệ giữa xã hội dân sự và Nhà nước trong ước mơ cải tổ. Tất nhiên Việt Nam cũng đang có kinh nghiệm sống này ; tôi nói chuyện người để rút cái hay cái dở.

Bức tường Bá Linh sụp đổ, ngọn gió «xã hội dân sự» từ Đông Âu thổi ào qua Phi Châu, rồi qua Trung Á, nơi Liên Sô đang gặp khó khăn ở Afghanistan, qua Trung Đông, mang theo, trong khái niệm đó, hồi kèn thắng trận của chủ nghĩa tự do. Phi Châu là xứ của nghèo đói, lạc hậu, lệ thuộc, áp bức, độc tài, bóc lột, thối rữa, hút máu. Nhà nước do thực dân để lại chỉ là tài sản của người cầm quyền. Luồng gió Đông Âu làm họ run. Bỗng dưng «xã hội dân sự» đến với họ như một đe dọa cụ thể. Phủ định của Nhà nước, khái niệm đó trở thành khẩu hiệu đầu môi của mọi phong trào chống lại Nhà nước, nhất là của các tổ chức viện trợ quốc tế, chính phủ cũng như phi chính phủ. Họ nói với các nhà cầm quyền Phi Châu: ông phải sửa đổi thì tôi mới cấp tiền; ông không good governance thì tôi cấp tiền thẳng cho các tổ chức xã hội, nghĩa là cho «xã hội dân sự». Đi với «xã hội dân sự» là chính sách não tủy của các tổ chức «nhân đạo» Tây phương, ở Phi châu cũng như ở Trung Á, Trung Đông. Nhất loạt, họ chỉ trích Nhà nước, xem như khái niệm nhập cảng từ Tây phương, chỉ xã hội mới là thực thể. Đúng quá, nhưng «xã hội dân sự» không phải là xã hội: đó cũng là khái niệm nhập cảng từ Tây phương và chính Tây phương cũng chưa định nghĩa được là gì, bao gồm những ai. Thế thì phải tìm cách định nghĩa trong môi trường hoạt động mới. Ai định nghĩa ? Làm sao định nghĩa một khái niệm khi nó vừa là khái niệm trừu tượng vừa là khí giới cụ thể, vừa là chiến lược lại vừa là ý thức hệ ? Đây là công việc của đầu não tư tưởng, nghĩa là của các Quỹ, các Foundations quốc tế lo về phát triển: Ford, Carnegie, Rockefeller, Endowment for Democracy, kể cả Agribusiness Volunteers Program for the Citizen Network for Foreign Affairs được công đoàn nông dân bự của Mỹ tài trợ. Họ tài trợ các chương trình nghiên cứu. Họ tài trợ các hoạt động tại chỗ của các tổ chức phi chính phủ. Nghiên cứu đại học đi đôi với hoạt động chính trị-xã hội : viện Ibn Khaldoun ở thủ đô Ai Cập là một ví dụ. Liên Hiệp Âu Châu, theo gót Chương Trình Phát Triển của LHQ (UNDP) và của Ngân Hàng Thế Giới, cũng tài trợ các tổ chức phi chính phủ địa phương. Hình ảnh của các tổ chức phi chính phủ thường được gắn liền với các hoạt động nhân đạo, nhưng nếu nhìn kỹ tại chỗ thì số lượng các Phi Chính Phủ thuần túy nhân đạo và y tế xấp xỉ số lượng các Phi Chính Phủ hoạt động cho những dự án xã hội. Hơn nữa, các Phi Chính Phủ nhân đạo thường mở ra thêm một hoạt động song song nhắm «tạo ra» xã hội dân sự: cấp học bổng qua Âu châu, giúp xuất bản báo chí, khuyến khích suy nghĩ về dân chủ, nhân quyền ... Trên đường hướng đó, Médecins Sans Frontières đã sáng tạo ra Fondation Liberté Sans Frontières. Người tài trợ, tác nhân lịch sử, và lắm khi người sáng tạo ra khái niệm chỉ là một. Vô ra thằng cha khi nãy ...

Các Phi Chính Phủ được khai sinh như thế ở Trung Á hoạt động trên ba điểm: tư hữu hóa, như giúp các nông dân độc lập ; tạo không gian «công», như giải phóng phụ nữ, mở mang báo chí; lần mò vào hang cọp chính trị, như dân chủ hóa, huấn luyện bầu cử. Kết quả là họ cũng tạo được một vài tủ kính trưng bày thành tích dân chủ, nhưng đàng sau tủ kính thường là một thực tế trái ngược. Các chương trình tư hữu hóa nông trường tập thể (kolkoze) chẳng đưa đến đâu, mà nếu có đến thì lại tái lập một giai cấp đại địa chủ gồm các cựu chủ tịch kolkozes: các vị này là kẻ hưởng lộc, hoặc nhờ giữ nguyên khuôn khổ hoạt động kỹ thuật cũ (kiểm soát đất đai, nước, hạt giống, phân bón, dụng cụ nông nghiệp ...), hoặc biết lợi dụng địa vị để được cấp đất đai thượng đẳng với những điều kiện tối hảo, biết móc ngoặc với chính quyền để hưởng tín dụng, giảm thuế má. Chính họ, chứ không phải nông dân : nông dân vẫn là kẻ làm thuê, là tá điền trên đất nhỏ hơn trước. Ai là xã hội dân sự ?

Tình trạng trí thức làm việc cho các Phi Chính Phủ đó cũng là vấn đề. Họ được lương cao hơn dân bản xứ, gặp lôi thôi với các chính quyền sở tại thì được làm rùm beng, được chuyển đi nơi khác, nghĩa là họ góp phần vào việc làm chảy máu chất xám. Nhiều trí thức đánh mất luôn cả thiên chức trí thức khi được tuyển để làm những việc thừa hành, như viết báo cáo, dù là báo cáo về tình trạng dân chủ, nhân quyền. Họ là cộng tác viên bản xứ của các mạng nhện liên quốc gia, không phải là nhân tố nội tại của một nền dân chủ đích thực, sao gọi là xã hội dân sự được ? Nhiều Phi Chính Phủ nuôi chính trị gia tập sự chờ ngày thay thế độc tài trong viễn ảnh dân chủ hóa. Họ nuôi như nuôi gà đá, quên mất rằng gà đá thì phải ra sân thường xuyên, nuôi mãi trong lồng nó đá hết nổi, chạy thôi.

Khi quốc tế xen vào như thế để làm bà mụ cho «xã hội dân sự», hơn thế nữa, để cho hài đồng mượn bụng từ trứng của mình, họ cũng cho mượn luôn cả tư tưởng về Nhà nước. Nhà nước bị chỉ trích như là một định chế. Một định chế vô ích, vô dụng, cái gì «công» là hỏng bét, sáng kiến là «tư», năng nổ là «tư», tinh hoa là các hội đoàn ở gốc ngọn cỏ, grass-root là đỉnh cao của trí tuệ mới, xã hội dân sự là gốc của phát triển. Nói thế không sai hẳn, chỉ lồ lộ trong ngọc trắng ngà hệ ý thức tân tự do: Nhà nước là hiện thân của cưỡng bức, xã hội dân sự là hiện thân của tự do, bên này lớn thì bên kia nhỏ. Ôi Phi Châu hỡi Phi Châu, dẹp độc tài, dẹp bất lực, đâu có phải là vất Nhà nước vào sọt rác ? Trái lại ấy chứ ! Ví thử dùng xã hội dân sự để chống Nhà nước độc tài, để dân chủ hóa : đến một giai đoạn nào đó của tiến trình tranh đấu, làm sao xã hội dân sự làm trọn vai trò dân chủ của mình nếu không tham gia vào bầu cử, vào sinh hoạt chính đảng, vào đời sống chính trị, nghĩa là vào xã hội chính trị ? Cho rằng xã hội dân sự cứ tồn tại ở mức tự túc, tự quản là tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc người, nếu không phải là nuôi ý định xây dựng quốc gia trong quốc gia như các tổ chức tôn giáo vẫn có trong đầu. Xã hội dân sự có thể tự chủ, nhưng giữa nó và xã hội chính trị phải có qua có lại nếu muốn nói dân chủ. Tình trạng xã hội nuốt trọn Nhà nước là tình trạng gì, các ông Phi Chính Phủ biết rõ hơn ai hết : ấy là tình trạng vô chính phủ. Ấy là Somalie, là Libéria, là Sìerra Leone, là Rwanda, là Congo, là Hutu-Tutsi, là người giết người như ngoé. Hễ Nhà nước yếu thì xã hội dân sự cũng yếu, không đủ sức chế ngự, kiểm soát, vận động tiến lên dân chủ một tập thể bát nháo, hỗn loạn. Ngược lại, hễ xã hội dân sự mạnh, nó tham gia chính trị, nó làm vững chắc Nhà nước, nó tạo tính chính đáng cho Nhà nước, nó thúc đẩy Nhà nước dân chủ. Hình như Ngân Hàng Thế Giới, tổng hành dinh của chủ thuyết tự do, đã thấm bài học Phi Châu rồi. Biểu lộ qua sách vở, tác giả Th. Skocpol hô hào khẩu hiệu mới : Bringing the State back in ! Trả lại Nhà nước cho Phi Châu ! Họ chỉ no độc tài thôi và ai cũng đói Nhà nước dân chủ.

Trong các nước Hồi giáo, khái niệm xã hội dân sự lại còn rắc rối hơn nữa vì ngoài cách nhìn của tự do chủ nghĩa mà ở đâu cũng có người chủ trương, còn cách nhìn của các lực lượng Hồi giáo, và trong lòng các lực lượng này, có phe cực đoan hơn, có phe phóng khoáng hơn, càng nhiều phe phái càng lắm trường ốc, tuy tất cả đều lấy danh nghĩa xã hội truyền thống. Như vậy là có thêm phân biệt nữa : xã hội truyền thống không phải là xã hội dân sự hay công dân.

Nói chung, và để đơn giản hóa vấn đề, theo cách nhìn cực đoan, xã hội truyền thống đã có sẳn phương pháp để giải quyết tranh chấp và tạo dựng một không gian chính trị khác với các chế độ độc tài hiện hữu. Vậy thì Nhà nước không cần can thiệp. Một ví dụ : luật Hồi giáo charia. Charia đã có sẳn rồi, đâu cần Nhà nước, đâu cần có cái gọi là Nhà nước, đâu cần biết đến khái niệm Nhà nước ! Đâu cần phải có Nhà nước làm ra luật để áp dụng charia. Ăn cắp, ngoại tình (đàn bà thôi) ... đã có charia trừng trị ; chặt tay, hành quyết đã được minh định hẳn hoi, các đoàn thể - gia đình, xã hội ... - cứ thế mà áp dụng. Cách nhìn này củng cố vị thế tự quản của xã hội truyền thống chống lại Nhà nước, hay ít nhất cũng hạn chế Nhà nước, xem như đáng nghi.

Phóng khoáng hơn, cách nhìn thứ hai vừa chống độc tài vừa chống cực đoan. Cũng nhấn mạnh vị thế tự trị của tôn giáo, khuynh hướng này muốn đúc kết và phát triển một hạt nhân Hồi giáo trong lòng xã hội truyền thống, xã hội truyền thống và “xã hội Hồi giáo” không nhất thiết đồng nhất. Cái mới của khuynh hướng này là nêu cao sự lựa chọn tự ý của tín đồ trong lĩnh vực công dân khi phải tham gia vào chính trị. Lòng tin tôn giáo là nền tảng của xã hội và của cả tự do cá nhân ; xã hội đoàn kết, củng cố là nhờ xây dựng trên lòng tin. Cũng vậy, hễ có lòng tin dẫn đường chỉ lối thì sự tham gia vào chính trị của tín đồ sẽ không còn tính cách ràng buộc nữa mà thành ra tự ý, tự do. Trong xã hội, lòng tin còn khiến cho tính tôn giáo tách ra khỏi những ràng buộc truyền thống của gia đình, bộ tộc, chức sắc. “Xã hội dân sự Hồi giáo” là một xã hội gồm những công dân mà tương quan với Nhà nước không còn phải đi qua trung gian của các chức sắc tôn giáo, tuy họ là những công dân có tín ngưỡng và khi bầu phiếu lấy tín ngưỡng làm gốc, dập tắt các đam mê khác, kể cả đam mê ý thức hệ. Nước Mỹ đã xây dựng trên các công dân Tin Lành Puritains, tại sao các nước Hồi giáo không xây dựng được trên những công dân Hồi giáo ?

Dựa trên cam kết cá nhân như thế, khuynh hướng này nhắm phát triển những tổ chức liên đới, những mạng lưới hoạt động dệt bằng tham gia tự nguyện tương tự như những tổ chức tôn giáo của Mỹ. Trên thực tế, khi các người Hồi giáo ngày nay nói “xã hội dân sự “, họ nghĩ đến những mạng lưới, những không gian chống đối tự quản, tự chủ, trong đó tương quan phe cánh, bộ tộc không thiếu vắng. Fis, Rafah, Hezbollah được tổ chức như vậy. Đây cũng là một thứ xã hội dân sự chống lại Nhà nước, không đi xa hơn trong việc tổ chức chính trị thành quốc gia. Một quốc gia có bao giờ chỉ bao gồm thuần nhất những người tự nguyện mà thôi đâu ! Sinh hoạt chính trị có những quy luật rộng hơn, ít nhiều cưỡng bức chứ không phải chỉ tự nguyện, và mang một nội dung khác với nội dung “sống theo Hồi giáo “ mà khuynh hướng này chủ trương.

Đó là những cách nhìn khác nhau về xã hội dân sự, khác nhau vì chiến lược đối với các Nhà nước hiện hữu không giống nhau. Nhưng dù định nghĩa xã hội dân sự như thế nào đi nữa, khí giới để xông trận đều cùng một thứ, toàn là xe pháo mã Phi Chính Phủ. Các nhà quan sát trố mắt ngạc nhiên trước sự bành trướng nhanh chóng của hiện tượng phi chính phủ ở các nước Hồi giáo Trung Đông, Trung Á. Ba loại hội đoàn có mặt khắp nơi. Thứ nhất là các advocacy NGO, khỏi cần nói ai cũng biết, can thiệp trong lĩnh vực nhân quyền, dân chủ, môi trường, phụ nữ ... Thứ hai là các hội đoàn kinh tế-xã hội. Toàn cầu hóa và tự do kinh tế khiến các chính quyền phải xoay vần theo tình thế, thả lỏng một số lĩnh vực hoạt động cho các đối tác phi chính phủ - quốc gia và quốc tế - để nhận tiền từ bên ngoài mà vẫn được tiếng là tín đồ thuần thành của good governance. Các Phi Chính Phủ này lãnh thầu các dự án phát triển : nước ở nông thôn, nhà cửa, y tế, tín dụng nhỏ ... Họ tập hợp được một số dân ai giúp thì theo, tiếp tay với chính quyền hoặc thay thế chính quyền mà giúp, tham gia vào cai quản hay cai quản bằng cách tham gia, tiếng Pháp gọi là gouvernance participative. Thứ ba là các hội đoàn tôn giáo – nghĩa là Hồi giáo. Họ kết hợp những hoạt động tương trợ, những sinh hoạt tôn giáo và những dự án chính trị để mệnh danh, và được xem là những hội đoàn “xã hội toàn diện “, khác với hai loại trên chỉ nhắm những hoạt động đặc thù. Trên điểm này, họ tự cho là đã vạch ra đường nét của một “tập thể song song”, một xã hội công dân được quan niệm như giải pháp thay thế cho trật tự chính trị hiện hữu. Họ cho là có cơ sở để nói như vậy, vì mạng lưới của họ khá dày, quần chúng khá đông, quy tụ trong những tổ chức cổ truyền khá lớn, dự án chính trị “tân tiến”.

Đó là sơ lược về khái niệm và chiến lược xã hội dân sự. Bây giờ là kết quả. Các « xã hội dân sự » đó có giúp gì được vào công cuộc dân chủ hóa chăng ? Có hai cách trả lời. Cách thứ nhất lạc quan : thế giới Ả Rập có vẻ đi vào một tiến trình tích cực của hai phát triển song song, về xã hội dân sự và về dân chủ. Tuy đang còn phôi thai, khi lên khi xuống, khi nắng khi mưa tùy thời tiết chính quyền, xã hội dân sự đã sống lại, đời sống chính trị đã mở ra, các đảng phái chính trị mọc thêm, bầu cử được tổ chức, Quốc hội không phải chỉ có một thành phần, cạnh tranh bắt đầu có, ít nhất cũng giữa bảo thủ và tiến bộ trong lòng các lực lượng Hồi giáo, phụ nữ được bầu vào các cơ quan dân cử. Trong vài nước, cuộc chơi tay ba Nhà nước / xã hội dân sự / xã hội tôn giáo cổ truyền đã loại ra khỏi vòng chiến xã hội dân sự, nhưng trong vài nước khác, như Jordanie, Koweit, Yémen, Liban, con đường dân chủ hóa sáng sủa hơn, xã hội dân sự thương thuyết với Nhà nước để làm cải cách và đọ sừng với quá khích không cho lấn tới.

Cách trả lời thứ hai thận trọng hơn. Tính cách đa nguyên vừa nói rất hạn chế, bị kiểm soát chặt chẽ, hữu danh vô thực. Đây chưa phải là dân chủ hóa mà chỉ là mở dây thòng lọng cho dễ thở, libéralisation. Cũng chẳng phải xã hội dân sự là đầu mối của thay đổi ; thay đổi phát xuất từ chính sách của nhà cầm quyền dù ở Ai Cập, ở Jordanie, ở Koweit, ở Tunisie hay ở Maroc, tùy lúc mà thắt hay mở : cái thòng lọng mở ra chính là để tránh dân chủ hóa. Nếu so sánh với chính sách mở thòng lọng tương tự trước đây ở các nước Nam Mỹ - Brésil, Uruguay, Chili - tiến trình đang diễn ra ở các nước Ả Rập cũng giống như cô gái đẹp ngủ trong rừng dụi mắt thức dây nhưng bàng hoàng chẳng biết có ai hôn chưa.

Bây giờ, tôi nói về xã hội dân sự ở một nước gần chúng ta hơn, cũng Hồi giáo nhưng ở Đông Nam Á với chúng ta : Indonesia. Ai cũng còn nhớ, nước này lật đổ Suharto năm 1998, vẫy tay từ giã độc tài, hồ hởi bước vào con đường dân chủ hóa. Trong suốt giai đoạn quyết liệt đó, bốn chữ xã hội dân sự được thêu trên lá cờ tiên phong của phe xung kích, nỏ thần bắn vào Nhà nước độc tài và con mãng xà Thị Trường. Kinh nghiệm sau đó cho thấy anh hùng dân tộc xã hội dân sự có cái tên để gọi mà không có cái mặt rõ ràng để chụp hình : ông gồm những ai ? Ai là các nhóm xã hội cầm đầu cải tổ ?

Suharto lên cầm quyền năm 1965, sau một cuộc đảo chánh tắm máu. Đảng Cộng sản đang mạnh thế kia bị đứt phứt cái đầu. Ai bênh vực hai bàn tay sắt của ông có thể nêu thành tích kinh tế thực hiện được sau 33 năm ròng chuyên chế : Tổng sản lượng quốc nội (GDP) tăng trưởng trên 7% mỗi năm, lợi tức đầu người tăng lên mười lần, số lượng người nghèo giảm từ 60% xuống 11%. Tăng trưởng kinh tế đưa đến những thay đổi cấu trúc trong toàn thể xã hội, nhất là sự lớn mạnh của khu vực tư. Lúc đầu, phát triển dựa trên tư bản Nhà nước và các nhà kinh doanh kề cận chính quyền ; sau, Nhà nước cho phép các tập đoàn lớn hoạt động, do người Hoa điều khiển, làm ăn chung với giới quân nhân và với một nhúm thế lực gân cốt trong đó có gia đình Suharto. Tuy vậy, cùng với phát triển kinh tế, các nhà kinh doanh nhỏ cũng được dịp phất lên - một cách lương thiện hơn - và khu vực tư, từ phía dưới, vươn lên, trổ nhánh, đa dạng. Một thị trường xuất hiện, mức tự chủ càng ngày càng cao.

Song song với việc lớn mạnh của khu vực tư, Nhà nước thu hẹp bớt lĩnh vực của mình, không phải chỉ vì cái luận lý hễ « tư » lớn thì « công » nhỏ, mà còn vì sức ép của các tổ chức tài chánh quốc tế mà thánh kinh là chủ nghĩa tự do. Toàn cầu hóa đòi hỏi phải giới hạn các biện pháp bảo vệ thương mại, rút bớt các trợ cấp, mở toang cửa ngỏ, buồng the.

Tư hữu hóa và cách mạng ngân hàng làm thay đổi bộ mặt kinh tế : kể từ 1988, ngân hàng tự do sáng lập, sinh sản rất nhanh. Nhưng tham nhũng sinh con đẻ cái còn nhanh gấp bội, làm yếu Nhà nước. Đồng thời, các tập đoàn kinh tế gốc Hoa, trước đây nằm dưới quyền sinh sát của Suharto, bây giờ mình đồng da sắt, trở mặt đương đầu chủ cũ ở khúc ngoặc 1997-98, giữa cơn khủng hoảng Á châu, lúc đồng roupie trượt giá như bôi mỡ, thị trường chứng khoán hối hả trụt theo.

Về mặt xã hội, chính sách phát triển kinh tế từ phía trên Nhà nườc cũng đưa đến nhũng thay đổi rộng lớn, nhất là sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là giai cấp tư sản : tiểu tư sản quan chức hành chánh, tiểu tư sản quan chức chính trị, tư sản kỹ nghệ, tư sản tài chánh ... Kỹ nghệ hóa làm phát sinh giai cấp công nhân càng ngày càng đông ; cách mạng xanh làm mọc ra những tầng lớp nông dân mới. Tất cả các tầng lớp xã hội mới đó làm thay đổi tương quan lực lượng giữa giới công chức và giới « dân sự ». Dân chúng không còn bị thôi miên nữa vì hào quang của binh phục hoặc của chức tước bàn giấy, bây giờ ngoảnh mặt nhìn về phía xu hào rổn rảng của các nhà kinh doanh tư. Xã hội nói chung chiếm được một vị thế tương đối tự chủ đối với Nhà nước nhờ bước chân đi lên của thị trường cùng lúc với bước chân đi xuống của những thế lực địa phương cổ truyền. Nhà nước độc tài Suharto làm nảy ra nhiều nhóm xã hội có khuynh hướng, nếu không phải là dân chủ thì ít ra cũng tự do phóng khoáng. Nhưng đó có phải thực sự là xã hội dân sự không ?

Đúng hơn, cảnh sắc xã hội mới ở Indonesia vẽ ra một xã hội tư sản trong đó hoạt náo nhất là các tân phú gia, les nouveaux riches, sống trong các đô thị được chia khu vực tùy mức giàu sang, tùy kiểu sống mới. Khái niệm căn bản được nói nhiều trong những năm 80 là « giai cấp trung lưu ». Tranh luận diễn ra trên thái độ của giai cấp then chốt đó : họ sẽ ngả theo ai, theo gió dân chủ phiêu lưu hay theo quạt nồng ấp lạnh yên ổn của Suharto ?

Giữa lúc trung lưu đang lừng khừng như thế giữa hai hấp lực thì sự biến Đông Âu bùng lên, lan ảnh hưởng đến tận bàn giấy của tổng thống. Dù chỉ là hình thức thôi, Suharto mở dây thòng lọng : trí thức Indonesia nhanh chóng so sánh xứ sở của mình với tình trạng Đông Âu, thấy sao chẳng đẻ sinh đôi mà giống nhau, cũng Nhà nước béo phệ, cũng xã hội dân sự xương bọc da. Nhưng ảnh hưởng chẳng phải chỉ đến từ phía Đông Âu mà còn từ phía Hồng Mao, từ các đại học Mỹ, lò xuất thân của các trí thức mới, cậu ấm cô chiêu trung lưu, đầu óc đầy lý tưởng trong sáng và đầy tam tự kinh « civil society ». Tay trong tay, lòng bên lòng với các Phi Chính Phủ Anh-Mỹ, Hà Lan, Đức, Đan Mạch-Na Uy-Thụy Điển, họ khám phá thiên đường tưởng tượng của chủ nghĩa tân tự do, đánh cuộc trên khả năng sáng tạo của các tập thể quần chúng ở gốc ngọn cỏ. Họ buộc ông vua Nhà nước phải trở về nằm đúng chỗ mà ông phải nằm trên long sàng, nhường chỗ mà ông phải nhường cho bà hoàng hậu thị trường. Tư hữu hoá và phi điều tiết (dérégulation) phải đóng khung Nhà nước vào nhiệm vụ giữ nước, giao phó cho xã hội dân sự - nghĩa là các đoàn thể - những nhiệm vụ quản lý khác. Nhà nước tốt là Nhà nước tý hon, tức là Phù Đổng Thiên Vương lúc chưa vươn vai.

Nhập cảng nguyên si, khái niệm civil society chẳng có gì là Nam Dương Quần Đảo cả lúc khởi thủy. Nhưng toàn cầu hóa tạo tính phổ thông cho nó và gắn cho nó tiếng còi ò e của xe cứu thương lúc Nhà nước Suharto lâm trọng bệnh. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, các tổ chức tài chánh quốc tế buộc tổng thống đã mất hai bàn tay sắt áp dụng chương trình tân tự do của họ - nghĩa là tạo chất sống cho xã hội dân sự và hạn chế Nhà nước. Từ 1998 đến 2001, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế không những bắt Indonesia phải nuốt trôi những biện pháp cải tổ cấu trúc cực kỳ khó nuốt mà còn buộc giải tỏa cả chính sách bảo vệ thương mại. Indonesia phải há họng ra mà nuốt nhục ba tháng một lần vì cứ mỗi ba tháng phải ký thỏa ước lại với Quỹ về những thực hiện cam kết, nếu không thì Quỹ cúp viện trợ tài chánh.

Lắp ghép từ ngoại quốc, khái niệm xã hội dân sự tuy vậy cũng dần dần thích ứng với hoàn cảnh địa phương, rồi được dùng như một khẩu hiệu tranh đấu. Trí thức, Phi Chính Phủ, chính trị gia tập sự, sinh viên, lãnh tụ tôn giáo, nghiệp đoàn bất hợp pháp ... tất cả những lực lượng chống đối đó bỗng tạo ra được một khả năng thay thế với sự xuất hiện của các chính trị gia tên tuổi, lãnh đạo các đảng tôn giáo (Abdurrahman Wahid, Amien Rais) và của bà Magawati Sukarno rất được lòng dân. Danh từ xã hội dân sự bây giờ được dùng để chỉ tất cả những gì không phải là Nhà nước. Ngay cả trong Nhà nước, quân đội trở thành hạt nhân cứng đối nghịch với công chức bây giờ được xem là « dân sự », gần gũi với civil society. Trong ngôn ngữ chống đối, xã hội dân sự được cố ý đồng hóa với xã hội của dân sự, nghịch với xã hội của nhà binh. Mục tiêu của phe xã hội dân sự là tóm cổ Nhà nước để « dân sự hóa » nó, nghĩa là « văn minh hóa » nó, và dùng nó để ... đẻ ra nó theo kiểu vòng tròn đẻ ra vòng tròn. Chế độ tương lai sẽ là dân chủ tự do, xây dựng trên good governance để dẹp cái nạn tam đa tham nhũng - phe cánh - họ hàng. Xã hội dân sự sẽ là tác nhân, đầu tàu cho cải tổ, do đó phải được tăng cường sức mạnh bằng một nội lực mà tôi không biết phải dịch thế nào : empowerment.

Trên cội rễ đó, cây xã hội dân sự có thể chia ra nhiều nhánh mà hai nhánh chính là « thế tục » và « Hồi giáo dấn thân ». Nhánh thứ hai chủ trương không thể phân biệt tôn giáo và chính trị ; nhánh thứ nhất cho rằng được và nên phân biệt. Khác nhau giữa hai nhánh, do đó, là vị thế của Hồi giáo trong lòng xã hội dân sự. Giới Hồi giáo muốn Hồi giáo hóa xã hội dân sự, tẩy bớt ảnh hưởng Tây phương trong đó. Họ nói : thay vì civil society, ta hãy gọi masyarakat medina - xã hội lý tưởng ở Médine, kinh đô của Giáo Chủ. Ở đây, cũng như ở các nơi khác, khái niệm xã hội dân sự vẫn mờ mờ ảo ảo, vừa là phương tiện để đi đến dân chủ chưa rõ nội dung, vừa là trạng thái lý tưởng của xã hội. Masyarakat medina vừa là cứu cánh vừa là phương tiện.

Mờ ảo, vậy mà ai cũng nói, ai cũng nghĩ như là một dự án chính trị mà thành phần chủ lực là giai cấp trung lưu. Rồi nói giai cấp trung lưu, ai cũng nghĩ đến trí thức, nhà báo, nghề nghiệp tự do, doanh nhân, nhất là bộ ba đặc biệt tích cực trong cuộc tranh hùng với Suharto : các đảng phái chính trị dân sự, sinh viên, Phi Chính Phủ. Còn một thành phần nữa, chẳng nghe ai xếp vào xã hội dân sự tuy là giai cấp trung lưu chính hiệu bà lang trọc : các chú Ba Tàu. Được tuyên dương như vĩ nhân của thời đại dân chủ, các Phi Chính Phủ bao gồm đủ loại : nhân đạo, y tế, xã hội, bênh vực phụ nữ, môi trường, advocacy nhân quyền, chính trị, và thường do giới trẻ điều khiển, vì lý tưởng. Nhưng không phải ai cũng lý tưởng, không thiếu gì PCP lập ra để làm bàn đạp cho các NGO Tây phương ráo riết săn lùng tay chân trên khắp địa cầu.

Quan tài của chế độ Suharto được hạ huyệt tháng 5-1998. Kèn thắng trận của xã hội dân sự thổi lên lúc các chính đảng lớn nhất, Nahdatul Ulama và Mahammadiyah, tự xếp mình vào hàng ngũ xã hội dân sự, bên cạnh các Phi Chính Phủ. Với cả chục triệu quần chúng, với tên tuổi chính trị lâu đời, lại thêm được chính nghĩa Hồi giáo yểm trợ, các chính đảng đó chở Wahid và Rais trên xe tăng, húc vảo chiếc gậy ba toong của tổng thống, làm ngài té.

Xã hội dân sự chiến thắng ! Than ôi, khó khăn đầy dẫy. Quân đội chống lại cải tổ, gây ra bế tắc, làm yếu Nhà nước đang lúc mà nó phải mạnh để giữ trật tự. Xã hội xáo trộn, bất chấp kỷ cương, đốt nhà, chém giết, cướp bóc, loạn lạc, đang lúc mà dân chủ cần yên ổn để mọc rễ. Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, thất nghiệp ... gây thêm căng thẳng dân tộc, tôn giáo, đưa đến đòi hỏi tự trị lãnh thổ, ly khai Thế là xã hội dân sự ? Thế là xã hội công dân ?

Kết luận gì đây trong trường hợp Indonesia ? Không thể có xã hội công dân nếu không có Nhà nước xứng đáng với tên gọi. Cũng như thị trường cần phải có nguyên tắc, cơ chế điều tiết để hoạt động đàng hoàng, xã hội công dân cần một Nhà nước ổn định, vững chắc. Mặt khác, thay đổi chế độ đòi hỏi một giai đoạn chuyển tiếp có trật tự, nếu không thì chỉ có thay đổi từ cái xấu này qua cái xấu khác. Dân chủ hóa phải là một sự cộng tác thực lòng giữa Nhà nước và xã hội dân sự.

Đó là kết luận riêng cho một trường hợp cá biệt. Bây giờ kết luận chung. Khởi thủy của vấn đề là sự phân biệt, ở đâu cũng thấy, bao giờ cũng thấy, giữa hai lĩnh vực công và tư trong đời sống con người . Nhưng thế nào là công thế nào là tư, đâu là biên giới giữa công và tư, là chuyện tranh luận liên miên, không dứt, cùng với diễn tiến của tư tưởng chính trị, nghĩa là bao giờ cũng nhuốm đậm màu sắc ý thức hệ. Từ câu hỏi đó, học thuyết kinh tế và chính trị ở phương Tây phát triển ra, đồng hóa tình trạng lưỡng phân công / tư với lưỡng phân Nhà nước / xã hội dân sự hoặc công dân. Chủ nghĩa tư bản tràn vào câu hỏi đó để tách biệt hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại ra khỏi lĩnh vực công, lĩnh vực Nhà nước, và tuyên bố : lĩnh vực kinh tế không phải là lĩnh vực của Nhà nước, đó là lĩnh vực của tư nhân, do đó thị trường thuộc vào xã hội dân sự. Song song với xác quyết đó, chủ nghĩa tự do đưa ý thức hệ vào ngay, quả quyết rằng tự do cạnh tranh mang lại cho xã hội dân sự khả năng tự điều tiết - với điều kiện là không được có một can thiệp nào ngoài can thiệp kinh tế vào những trao đổi kinh tế. Nghĩa là Nhà nước không được can thiệp. Nói như vậy, các lý thuyết gia của chủ nghĩa tự do mô tả đúng một thực trạng mới, khuynh hướng mới, diễn ra trước mắt mọi người, nhưng họ không phải chỉ mô tả, họ còn nâng sự mô tả lên thành nguyên tắc, quy luật, như thử phát xuất từ bản chất của sự vật, của thiên nhiên, của chân lý muôn đời. Từ đó, Nhà nước là xấu, vì cưỡng bức ; xã hội dân sự là tốt, vì tự do. Nhà nước toàn trị xít-ta-lin góp phần đắc lực vào tín xác đó, vun bón cho mầm mống chống đối ở Đông Âu mọc lên cành lá vào những năm 80, tạo hứng cho những phong trào chống đối khác trên thế giới, phô trương xã hội dân sự như phe kháng chiến, như giải pháp thay thế, như « cuộc đời độc lập », như « cuộc đời thứ hai », như « lãnh địa song song » nói theo văn chương của Vaclav Havel, tổng thống Tiệp kiêm cựu tù nhân ly khai.

Đứng về mặt nhận thức khoa học, không có gì lầm lẫn cho bằng, bởi vì không thể vạch ra biên giới giữa Nhà nước và xã hội dân sự cũng như không thể vạch ra biên giới giữa chính trị và phi chính trị. Chỉ vì chế độ toàn trị chủ trương cái gì cũng là chính trị cả, nghĩa là cái gì cũng phải do Nhà nước kiểm soát, cho nên phe đả kích vẽ vòng đai xã hội dân sự phi chính trị để chống lại. Nhưng ai mà chẳng thấy chính trị xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả đời sống thường ngày ? Làm gì có một xã hội chính trị thuần túy nằm cạnh một xã hội dân sự thuần túy ? Lấy đâu ra những tổ chức chính trị, khi phong trào tranh đấu lên cao, nếu không phải từ xã hội dân sự ? Cái này từ cái kia mà ra, hai bên qua lại lưu thông với nhau, nếu không, làm sao ông Vaclav Havel lên được tổng thống ? Từ đó, đứng về mặt hành động chính trị, nói rằng tôi tranh đấu cho xã hội dân sự mà thôi là « nói vậy mà không phải vậy ». Trong đầu người nói, có hình ảnh một Nhà nước đáng ghét và hình ảnh một Nhà nước đáng ưa. Đối tượng tối hậu của người nói là Nhà nước, không phải xã hội dân sự, dù người đó là con châu chấu He Weifang giương hai càng trước cổ xe tăng một cách nực cười.

Ước mơ của người viết bài này là chẳng ai đá ai cả. Tới một mức phát triển kinh tế xã hội nào đó, chế độ chính trị không thể cưỡng lại được quy luật tự nhiên là thay đổi theo. Chẳng lẽ thể xác thanh niên mười tám mà cứ bận hoài quần áo mười ba ? Đừng để bên ngoài can thiệp, cũng đừng bị động nay mở mai khép, Nhà nước hãy chủ động nắm tương lai dân chủ cùng với sự hợp tác tích cực của xã hội dân sự. Giữa Nhà nước tham nhũng với xã hội dân sự vô đạo đức, liên hệ nhân quả xoáy vòng tròn, đây là nhân mà đây cũng là quả, cái này cắt nghĩa cái kia và ngược lại. Thì cũng vậy giữa Nhà nước dân chủ và xã hội dân sự dân chủ : chỉ một Nhà nước dân chủ mới tạo ra được một xã hội dân sự dân chủ ; chỉ một xã hội dân sự dân chủ mới tạo ra được một Nhà nước dân chủ. Hãy như thế với nhau để tiến lên dân chủ, từng bước, thực lòng, thay vì đàn áp, chống đối, hạ bệ, thay thế nhau. Phải chăng Hội Thảo này là một hình ảnh ?

Cao Huy Thuần

Chú thích: Tài liệu về civil society quá nhiều, xin tóm lược vài sách chính cần tham khảo, không phân biệt quan điểm:

Về định nghĩa và lịch sử khái niệm trong học thuyết ở phương Tây, bài viết sáng tỏ nhất, theo tác giả, vẫn là: Danièle Lochak: La socìété civile: du concept au gadget, trong: La socìété civile, CURAPP/PUF 1986. Tác giả là giáo sư luật có tiếng của Pháp, dạy tại đại học Amiens và Paris X-Nanterre. Xem các bài khác trong sách đó.

Về Phi châu, xem René Otayek : Identité et démocratie dans un monde global, Paris, Presses de Science Po, 2000.

Câu nói của Th. Skocpol (“Bringing the State back in”) lấy trong quyển sách cùng tên xuất bản cùng với các tác giả khác, Cambridge, CUP, 1985.

Về các nông trường tập thể (kolkhoz) ở Trung Á, xem Olivier Roy: Kolkhoz and civil Society in the Independant States of Central Asia, trong: H. Ruffin § D. Waugh (eds): Civil Society in Central Asia, University of Washington Press, 1999.

Về chuyện “đơn đặt hàng”, chỉ đưa ra một ví dụ: dự án khổng lồ Civil Society in the Miđle East Project, do Augustus Richard Norton điều khiển, kéo dài trong suốt 3 năm, được Ford và Rockefeller Foundation tài trợ và sau đó được xuất bản thành một chuỗi sách, mỗi quyển dành cho mỗi nước. Kể thêm một ví dụ nữa: trung tâm Center for Civil Society International do Carnegie tài trợ đã điều khiển xuất bản nhiều sách trong đó có thể kể quyển Civil Society in Central Asia. Xem trong sách này danh sách các Tổ chức Phi Chính Phủ (NGO) hoạt động tại Trung Á.

Tôi dùng từ “Phi Chính Phủ“ một cách miễn cưỡng, vì ai cũng biết thường thường đàng sau các “Phi Chính Phủ “ ấy là các chính phủ. Bởi vậy tôi gọi đùa là Phi Chính Phủ cho gọn, thay vì dài dòng “tổ chức phi chính phủ “.

Về Viện Ibn Khaldoun ở Ai Cập: Viện này do Saad Eddin Ibrahim, giáo sư tại Đại Học Mỹ ở thủ đô Le Caire, sáng lập và điều khiển. Tên của Viện là Trung Tâm nghiên cứu về phát triển Ibn Khaldoun. Viện xuất bản một tạp chí tam cá nguyệt lấy tên là Civil Society. Hoạt động của Ibrahim tất nhiên là nhắm đả kích chính quyền hiện hữu. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là trí thức Ai Cập, tả cũng như hữu, không hưởng ứng bao nhiêu hành động của ông vì họ chống lại việc nhập cảng những giá trị từ Tây phương. Ngoài ra, vì Viện do Mỹ tài trợ và độc lập tài chánh đối với chính quyền Ai Cập, trí thức bản xứ, sống với đồng lương thấp kém, không khỏi có chút tỵ hiềm. Ngày 21-5-2001, Ibrahim bị Tòa Án An ninh quốc gia kết án 7 năm tù vì tội hoạt động nghiên cứu về dân chủ và xã hội dân sự. Bản án bị Tòa Phá Án hủy bỏ ngày 6-2-2002. Trong khi chờ đợi xử lại, Ibrahim được “tự do”.

Câu bình luận lạc quan “civil society in the Arab world has revitalised itself in the last two decades “là của Ibrahim. Về quan điểm của ông này, có thể xem một bài viết trong International Political Science Review 19 (4) 1998, nhan đề: The Troubled Triangle: Populism, Islam and Civil Society.

Về xã hội dân sự và Hồi giáo, xem A.R Norton (ed) đã nói ở trên, Civil Society in the Midđle East, vol I, Leiden, E.J Brill, 1995. Xem thêm S. Mardin, Civil Society and Islam, trong: J.A Hall (ed), Civil Society, Theory, History, Comparison, Cambridge, Polity Press, 1995.

Cuối cùng, tạp chí Revue Internationale de Politique Comparée, Vol 9, n° 2, Eté 2002, ra một số đặc biệt về: Démocratie et socìété civile, une vue du Sud.