Sunday, October 5, 2008

Chí Thiện hay Chí Ác

Duyên Lãng Hà Tiến Nhất

Quí độc giả đọc cái tiêu đề trên xin đừng vội cho rằng người viết có ý phỉ báng hay kết án ông Nguyễn Chí Thiện (NCT), người hiện đang sống tại miền Nam California, Hoa Kỳ là kẻ cùng hung cực ác (chí ác). Không, nghĩ thế là sai và tội nghiệp cho người viết. Với tiêu đề trên, chúng tôi chỉ có một suy nghĩ đơn giản là: nếu ông NCT chính thực là nhân vật Vô Danh, tác giả của tập thơ Vô Đề, thì ông đáng được suy tôn như cái tên của ông là chí thiện. Ngược lại, nếu ông NCT không phải là tác giả thật của tập thơ, mà cứ nhận vơ vào là của mình thì đúng là một tên đạo tặc chí ác. Chúng tôi đã đọc và luôn coi tác phẩm Vô Đề (Hoa Địa Ngục 1) như là một bài Trường Hịch viết bằng thơ thúc dục người dân VN đứng lên cứu nước. Với một tác phẩm tuyệt tác cả trên bình diện văn học lẫn chính trị (lịch sử đấu tranh của Dân Tộc) như vậy thì lẽ dĩ nhiên tác giả phải được ghi công xứng đáng. Nhưng trái lại, nếu ông NCT cầm nhầm tập thơ Vô Đề thì sự đạo thơ của ông gây ra hai hậu quả nghiêm trọng là: thứ nhất, làm tan rã hàng ngũ chống cộng của người Việt tỵ nạn, và thứ hai, làm xói mòn tinh thần quật khởi của những người chống bọn VGCS bán nước và nô lệ hóa nhân dân. Việc làm này không thể không bị kết án. Như vậy thì vấn đề ông NCT là chí thiện hay chí ác tùy thuộc vào việc ông có phải là tác giả thật của tập thơ Vô Đề hay không.

Cũng xin được nói cho rõ, người viết không đủ thẩm quyền, khả năng, và điều kiện để đưa ra kết luận, nghĩa là không tự đặt mình đứng về phe bênh hay chống ông NCT, mà chỉ muốn đóng góp một vài ý kiến mong soi sáng thêm vấn đề đang được dư luận bàn cãi. Vậy câu hỏi cần đặt ra là làm thế nào và căn cứ vào đâu để biết ông NCT có phải là tác giả thật của tập thơ quốc bảo kia hay không.

1. Tóm Lược Sự Vụ

Để quí độc giả, nhất là những quí vị không thường xuyên theo dõi và am hiểu tường tận vấn đề, người viết xin được tóm tắt khái quát sự việc xẩy ra như sau.

Vào ngày 16-7-1979, một người đàn ông Việt Nam ốm yếu đã vượt qua trạm gác của công an xông vào bên trong tòa nhà sứ quán Anh tại Hànội. Người này trao cho các nhân viên sứ quán một tập thơ chép tay bằng tiếng Việt, kèm theo một lá thư bằng tiếng Pháp. Lá thư chỉ đề trống không: Monsieur (thưa ông) và không ký tên. Trong thư, người này yêu cầu giúp đem tập thơ ra ngoại quốc để phổ biến dùm. Tập thơ này không có tiêu đề (tên tập thơ) nên ở ngoại quốc người nhận nó để phổ biến thấy vậy gọi là thơ Vô Đề. Tập thơ cũng không đề tên người sáng tác nên người ta gọi tác giả là Khuyết Danh (hay Vô Danh). Qua năm sau (1980) tập thơ ra mắt tại Hoa Kỳ. Con đường đi của tập thơ được ông NCT cho biết như sau:

Hỏi: Xin ông cho biết về chi tiết về bước đường của tập thơ khi nó được đưa vào Sứ Quán Anh?

Ông NCT: Tập thơ được Sứ Quán Anh chuyển về Bộ Ngoại Giao Anh, Bộ Ngoại Giao Anh đưa cho Giáo Sư Holly, một học giả người Anh biết rành tiếng Việt. Ông Holly trao 1 bản photocopy cho ông Đổ Văn của đài BBC. Ông Đổ Văn trao cho ông Châu Kim Nhân, ông Châu Kim Nhân chuyển cho ông Hồ Anh Báo Văn Nghệ Tiền Phong (VNTP). Báo Văn Nghệ Tiền Phong trích 1 số bài và đăng dần. Xin lưu ý! Là vì vấn đề bang giao, Bộ Ngoại Giao chưa muốn xuất bài mà đăng dần. Xin lỗi quý vị ! Bộ Ngoại Giao Anh chưa muốn cho đăng toàn thể tập thơ do đó Bộ Ngoại Giao Anh vẫn giữ lại trang bìa của tập thơ và một số hình ảnh đi kèm với bản thảo tập thơ. (trích từ Radio VNHN phỏng vấn ông NCT ngày 10-12-2003).

Tạp chí VNTP đăng tập thơ và đặt tên cho nó là Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam , còn tác giả ghi là Khuyết Danh. Sau đó không bao lâu, người ta lại thấy xuất hiện hai ấn bản khác với hai tên sách khác nhau là Tiếng Vọng Từ Đáy Vực và Hoa Địa Ngục và tên tác giả là NCT. Đây là nghi vấn đầu tiên về tập thơ. Hai nhà xuất bản này từ đâu mà có tập thơ để in? Trên đất Mỹ này người ta không sợ bị thưa ra tòa về tội ăn cắp bản quyền tác phẩm sao? Tác phẩm này được ông Nguyễn Ngọc Bích dịch sang tiếng Anh. Người giữ bản quyền là ông Bích và ông Thiện.

Ngay sau khi tập thơ ra đời thì đã có một số người lên tiếng phủ nhận tư cách tác giả của ông NCT, đồng thời đặt nghi vấn ông NCT là ông Thiện giả, đầu tiên là cụ Lê Tư Vinh trong mặt trận Cách Mạng Hưng Phục Việt viết trên tờ Vạn Thắng. Ông NCT được sang Mỹ tỵ nạn ngày 1-11-1995 được nhiều cá nhân và đoàn thể đón rước một cách long trọng. Điều này chứng tỏ dư luận lúc đó không tin những người tố cáo ông Thiện. Nhưng càng ngày dư luận xem ra càng ngả về phe chống đối ông NCT qua những bài viết xuất hiện trên NET. Những bài viết này phân tích sâu sắc và dẫn chứng cụ thể những mâu thuẫn về đời tư và thơ của ông Thiện. Trong khi đó cũng có một số khác đứng ra bênh vực cho ông NCT. Trong gần hai thập niên qua, dư luận chống đối có lúc mạnh lúc yếu. Hiện nay là đợt chống đối ồn ào nhất với rất nhiều người có tiếng tăm nữa tham gia vào bên này hoặc bên kia.

Sự thể có hai bên tranh luận là điều tốt, bởi vì như thế sự thật mới dễ lòi ra. Phía chống không thừa nhận ông NCT là tác giả của tập thơ vô đề. Còn phía bênh nỗ lực chống lại quan điểm đó. Mỗi bên đều gồm có những nhân vật tai to mặt lớn trong giới cầm bút, đồng thời cũng không kém năng nổ trong các sinh hoạt chống cộng hiện nay. Phe chống nêu lên rất nhiều điểm nghi ngờ về gia đình, thân thế, sự nghiệp văn chương, cả đến văn phong, ý thơ và khẩu khí trong thơ khi họ so sánh những dữ kiện có được lấy từ 3 nguồn tài liệu, một là từ các cuộc trả lời phỏng vấn và thuyết trình của ông NCT lâu nay, hai là từ các bài viết và tuyên bố của các thân hữu của ông Thiện, và ba là từ trong tập thơ Vô Đề và tập thơ Hoa Địa Ngục II mà ông Thiện mới xuất bản sau này. Đây không phải là một bài biên khảo, nên chúng tôi xin miễn trích dẫn dài dòng. Nhiều tác giả đã nêu những lập luận và dẫn chứng công phu và khá thuyết phục trên mạng lưới toàn cầu. Muốn biết tường tận xin mời rà trên các websites sẽ có đầy đủ. Người viết cũng cần nói thêm là nếu cả tác giả Vô Danh và ông NCT là một người thì là điều tốt, còn nếu là hai người khác nhau thì thật là việc tối nguy hiểm cho cộng đồng tỵ nạn chúng ta, vì CS đã nằm chung và đang đắp chung chăn với chúng ta rồi đấy. Theo phe chống thì ông NCT chỉ là người mạo nhận tác giả, tức là người sang đoạt thơ của người khác, hay gọi là đạo thơ. Mục tiêu của phe chống là trả về cho nhân vật Vô Danh tác phẩm thơ Vô Đề. Trong khi đó phe bênh ông NCT cố gắng chứng minh ông Thiện hiện nay là ông Thiện thật. Họ đưa ra những nhân vật có tiếng tăm hoặc hàng xóm láng giềng, hoặc ở tù chung với ông Thiện xác nhận lý lịch của ông. Phe bênh cho đến nay tỏ ra yếu thế ở 2 điểm. Một là không đưa ra được một dẫn chứng nào cụ thể và có sức thuyết phục cho những điều phe chống tố cáo. Hai là xem ra họ cố ý đánh lạc hướng dư luận theo cung cách “ông nói gà bà nói vịt”. Họ cố thuyết phục dư luận rằng ông NCT hiện nay là ông Thiện thật (chứ không phải giả). Trong khi phe chống không phủ nhận diều đó. Họ chỉ phủ nhận tư cách tác giả của tập thơ Vô Đề của ông Thiện mà thôi. Bà Hoàng Dược Thảo báo Saigon Nhỏ đặt vấn đề thành một Nghi Án Văn Học. Người viết rất hoan nghênh ý kiến này của bà Hoàng Dược Thảo. Chính vì thế nên mới dám tham gia vào cuộc tranh luận mong tìm ra sự thực của vấn đề, mặc dầu người viết chỉ là kẻ tiểu tốt vô danh.

2. Làm Cách Nào?

Câu hỏi đầy đủ là làm thế nào để xác định được ông NCT và tác giả Vô Danh của tập thơ chỉ là một người. Chuyện này thật khó, nhưng khó thiết nghĩ cũng phải làm vì nó liên quan đến văn học và sinh mệnh của Dân Tộc. Người viết xin được đưa ra mấy phương cách sau đây:

2.1- Chờ năm sau

Trong cuộc phỏng vấn trên đài radio VNHN (Vietnam Hải Ngoại) ngày 10-12-2003, ông Trung Chính hỏi ông NCT tại sao Bộ Ngoai Giao (BNG) Anh giữ lại trang đầu và một số hình ảnh như ông vừa nói ở trên? Ông NCT trả lời:

- Xin lỗi quý vị! Bộ Ngoại Giao Anh chưa muốn cho đăng toàn thể tập thơ do đó Bộ Ngoại Giao Anh vẫn giữ lại trang bìa của tập thơ và một số hình ảnh đi kèm với bản thảo tập thơ .... Theo tôi đoán thì vào cuối năm 2009, nghĩa là 30 năm sau ngày tôi đưa bản thảo tập thơ vào Sứ Quán Anh, người ta sẽ giải mật thì trắng đen sẽ rõ.

Câu trả lời cho thấy ông NCT sẽ để cho BNG Anh là người có thẩm quyền sẽ làm chuyện này thay cho ông. Họ sẽ xác nhận ông là người đã vào Tòa Đại sứ Anh (TĐS Anh) tại Hànội và chính là tác giả của tập thơ. Nếu được như thế thật thì quá tốt rồi. Chỉ còn hơn một năm nữa thôi, thời gian chẳng bao lâu nữa, chúng ta ráng chờ thử xem. Tuy nhiên có một thắc mắc lớn ở đây là TĐS Anh hôm ông Vô Danh đột nhập vô có kịp chụp hình và ghi tên tuổi của ông ta không. Nếu không thì mọi việc kể như trớt luốt hết. Làm sao BNG Anh dám chứng thực ông NCT chính là ông Vô Danh, tác giả của tập thơ Vô Đề nếu không đủ chứng cớ hình ảnh và tên tuổi của ông Vô Danh. Căn cứ vào đâu?

2.2- Chẻ mâu thuẫn để tìm sự thật

Phương pháp này rất nhiều tác giả trên internet đang làm. Đó là đi tìm những bất nhất, những mâu thuẫn nội tại nằm ngay trong lý lịch, gia cảnh, văn phong, ý thơ, và khẩu khí trong thơ của ông NCT để tìm ra sự thật. Sự thật tìm thấy dù có sức thuyết phục nhưng vẫn chưa đủ để khuất phục những người đặt tình cảm lên trên lý trí, quyền lợi phe nhóm trên quyền lợi dân tộc. Chính vì thế cuộc tranh luân hai phe bênh/chống vẫn cứ kéo dài. Như đã nói trên, chúng tôi xin được miễn làm công việc này, vì không muốn mất thì giờ làm những việc người khác đã làm. Chỉ có điều hơi đáng tiếc là nhiều bài viết làm theo phương pháp này đã nặng phần kết án hơn là vạch trần sự thật để thuyết phục. Riêng người viết chỉ xin nêu bài thơ “Tôi Muốn Sống Với …” để nói lên lòng thán phục sự kinh luân và khẩu khí của tác giả bài thơ. Đem so sánh bài thơ này với những bài trong tập thơ Hoa Địa Ngục II của ông NCT thì thấy có sự cách biệt rất xa về ý thơ, khẩu khí, và kiến thức uyên thâm của tác giả Vô Danh.

Bài thơ: Tôi muốn sống với …

Tôi muốn sống với Võ Tòng đả hổ
Với Quan Vân Trường mặt đỏ râu đen
Vào lính ngự lân cùng Athos làm quen
Bạn với D'Artagnan, Porthos và Aramis !
Tôi muốn tới Palestine, mồ Jesus Christ
Cùng Ai-Van-Hô làm cuộc Thập Tự Chinh
Sống một ngàn đêm lẻ trong dinh
Dựng lên bởi thần đèn giúp A-La-Đanh cưới vợ
Sang châu Mỹ đất tân kỳ man rợ
Cùng Jack London đi xe chó tìm vàng
Tôi muốn sang Nga yến tiệc với Nga Hoàng
tiếp chuyện André một chiều trên bến nước
Cùng Petchorine giữ Caucase dạo bước
Đấu súng, đấu gươm, khiêu vũ chan hòa
Gặp Dostoi trong đêm trắng pha trà
Mặc tuyết rơi, ngồi bên ấm Samovar
An ủi chàng sinh viên giết người Raskolnikov
Khuyên Phillippovna lấy chàng ngốc hiền hòa
Tiếp tục hành trình tôi tới Tây Ban Nha
Theo Don Quichotte đi phò nguy cứu khổ
Sống thỏa thê tôi trở về đất tổ
Vào Lam Sơn tìm gặp vua Lê
Ngồi câu thuyền bên Nguyễn Khuyến ở thôn quê
Thơ rượu với Tú Xương bên bờ sông Vị
Bàn với Nguyễn Du về mệnh tài đố kỵ
Về đời Kiều oan khổ đau thương
Tới phường Khán Xuân cười với chị Xuân Hương
Tới quân Nam Xương viếng vợ chàng Trương chung thủy
Nghe anh chàng Trương Chi nghệ sĩ
Ca lời ca đau khổ mộng mơ
Theo Bắc Bình Vương giống trống mở cờ
Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị
Tôi muốn sống thật nhiều và tỉ mỉ
Ngược thời gian lịch sử bao đời
Cho thỏa lòng ham sống anh ơi
Bị chà xéo trong cõi đời hiện tại
Cõi đời thèm cả sắn và khoai !

(Thơ Vô Đề - 1962)

Một ông NCT mà tôi đã gặp nhiều lần ở vào tuổi 23 (1939-1962), sống trong thời loạn lạc, rồi VGCS lên cầm quyền mà có được cái sở học bao la thông kim bác cổ như thế để sáng tác ra một áng thơ tuyệt tác trên thật là đáng kinh ngạc. Thật khó hiểu.

2.3- Đặt giả thuyết

Đặt ra một giả thuyết rồi chứng minh giả thuyết đó là thật là phương pháp đáng tin cậy nhất để tìm ra sự thật. Trước khi đặt giả thuyết, tôi xin nêu một trường hợp gần như tương tự với trường hợp ông NCT do chính bản thân tôi kinh nghiệm.

Số là vào khoảng năm 1980, tôi ở trại giam K6 Tân Lập, Vĩnh Phú. Người cùng tổ, cùng đội, nằm cạnh tôi là anh Lê Văn Chính, một sĩ quan cảnh sát. Anh làm thơ và toàn là thơ “phảng động”. Anh chửi từ Hồ Chí Minh chửi xuống. Đi lao động hai đứa tôi thường làm việc bên nhau. Anh đọc thơ cho tôi nghe. Tập thơ anh luôn mang bên mình, nhét vào một miếng quần hay áo vá nào đó. Tai nạn xẩy ra vì cái tính hay “cải thiện linh tinh” của anh. Một hôm anh bị tên quản giáo bắt vì trong túi anh nhét đầy rau cỏ. Tên cán bộ khám xét cả người anh mới lòi ra xấp thơ. Tên quản giáo đọc qua không nói gì rồi cho anh về đội. Gặp tôi anh kể lại. Tôi chỉ nói với anh một câu: mày rửa cổ đi là vừa. Vài bữa sau, trong khi đội đi lao động, tên quản giáo miễn lao động cho Chính, kêu anh ở lại nhà lô bắt làm kiểm điểm và viết lại tập thơ mặc dầu hắn đã nắm trong tay tập thơ của anh. Hắn nói thuộc được bao nhiêu viết bấy nhiêu. Trong lúc viết kiểm điểm, Chính được cung cấp nước trà và thuốc lào, đôi khi thuốc lá. Thời gian viết không hạn chế. Anh kéo dài đến gần một tháng trời. Viết xong, anh lại đi lao động như bình thường. Cả hơn một tháng sau sự việc êm ru như không hề có chuyện gì xẩy ra. Tình trạng này khiến tinh thần Chính bị căng thẳng cực độ. Một buổi tối, trong lúc cả đội đang sinh hoạt phê và tự phê, anh quẫn trí chạy đi thắt cổ định tự tử, nhưng anh em cứu kịp. Vì cú tự tử hụt, tên quản giáo ra lệnh cho nhà bếp mỗi ngày cung cấp nước nóng cho Chính tắm rửa. Một thời gian sau, anh bị chuyển trại cùng với một số anh em khác. Trước khi đi, Chính đưa cho tôi một tấm hình 4x6 của anh cùng với địa chỉ của một người bà con ở đường Cô Bắc, Saigon (tôi còn nhớ tên người và số nhà nhưng xin miễn tiết lộ) nhờ tôi nếu có được tha sớm thì liên lạc để báo tin cho gia đình biết về anh. Sau khi ra tù, tôi về sống ở miền Lục Tỉnh và có gởi thơ liên lạc nhưng không được trả lời. Tôi hoàn toàn mất liên lạc vói Lê Văn Chính cho đến bây giờ.

Qua kinh nghiệm trên và căn cứ vào sự hiểu biết hạn hẹp của tôi về CS, tôi suy nghĩ về trường hợp tác giả Vô Danh như thế này.

Ông Vô Danh ra khỏi TĐS Anh liền bị công an túm cổ ngay. Có thể ông bị ăn đòn trên đường về cơ quan, nhưng ở cơ quan thì chắc là không. Công an không thể không muốn biết ông làm gì trong TĐS Anh nên nhất định chúng phải bắt ông viết lại tập thơ Vô Đề. Hơn nữa chúng còn phải khai thác thêm có những ai khác nữa liên hệ trong việc này, cũng như chúng cần phải biết tên tuổi, địa chỉ, thân nhân, và bạn bè của ông. Đó là những chuyện tối thiểu bắt buộc của một cơ quan thẩm vấn. Những suy nghĩ của người viết về trường hợp tác giả Vô Danh phù hợp với những gì xẩy ra cho anh Lê Văn Chính vừa kể trên. Nó được chính ông NCT xác nhận trong một cuộc phỏng vấn trước đây trên đài Radio VNHN như sau:

Hỏi: Sau khi lọt vào Sứ Quán Anh họ đã tiếp ông như thế nào? Ông bị bắt lại trong trường hợp nào?

Ông NCT: Họ đã tiếp tôi, tôi trình bày chi tiết, nhưng vì vấn đề bang giao họ không thể cho tôi tị nạn chính trị. Khi tôi trở ra thì công an vây bắt ngay, và bắt cả đứa cháu của tôi. Tôi bị đưa vào giam ở Hỏa Lò. Ở trong Hỏa Lò, họ đã đối xữ tử tế với tôi cho ăn uống đàng hoàng, trà đường thuốc lá …v..v.. để yêu cầu tôi viết ra. Mục đích của cộng sản là để điều tra xem tập thơ có phải là của một tập thể hay chỉ là một cá nhân tôi. Nếu tôi ú ớ là họ biết ngay tập thơ của nhiều tác giả. Tôi vừa chép lại vừa nghĩ: nếu mình chép ra hết sớm ngày nào thì chúng nó sẽ tống giam hành hạ mình sớm ngày đó. Nên tôi chỉ giả bộ ngẫm nghĩ và chép lại dần dần. Nhưng một thời gian cả tháng sau, chúng nó cũng biết đó là những bài thơ riêng của tôi nên chúng tiếp tục giam tôi từ ngày 16-7-1979.

Chúng tôi nghĩ rằng tác giả Vô Danh có thể đã viết lại tập thơ, vì thứ nhất, dù có chết thì ông cũng đã đạt được mục đích là gởi tập thơ đi, và thứ hai, làm việc này ông đã thí mạng cùi rồi thì không còn sợ gì nữa mà không viết. Nhưng cho rằng ông tiết lộ tên tuổi, địa chỉ và thân nhân, bạn bè thì chắc chắn không. Một người thông minh, can đảm và có quyết tâm như ông, đã mang sẵn tinh thần Kinh Kha “một ra đi là không trở về” rồi, thì ông chấp nhận cái chết cho riêng mình thôi, chứ không muốn gây liên lụy và đau khổ cho bất cứ ai khác. Lý do tập thơ không có tác giả (Vô Danh) là vì để tránh việc rủi ro có thể xẩy ra trước khi vào được trong sứ quán Anh. Cũng chính vì lý do ông ngoan cố không chịu khai ra tên tuổi nên cuối cùng khi không còn khai thác được gì nữa, có thể công an đã thủ tiêu ông. Đó là giả thuyết tôi đặt ra. Cho dù tòa Đại Sứ Anh có muốn can thiệp cho ông, công an chỉ cần hỏi ông Đại Sứ một câu thôi: người đó tên gì. Sứ quán không trả lời nổi thì cũng bằng huề cả làng thôi chứ làm gì được nhau đây.

Đặt giả thuyết như trên đây rồi, vấn đề còn lại là phải chứng minh được tác giả Vô Danh đã chết. Nếu ông đã chết, (chết bình thường hay bị công an thủ tiêu) thì giả thuyết đã được chứng minh. Nếu may mắn ông còn sống thì giả thuyết không cần chứng minh nữa. Truờng hợp này ông Vô Danh và ông NCT là một người hay là hai ngưòi khác nhau đã rõ trắng đen. Trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay, việc chứng minh này rất khó, nhưng thời gian chắc chắn sẽ làm sáng tỏ việc này dù ông Vô Danh còn sống hay đã chết. Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng bị lòi ra thôi.

2.4- Giảo nghiệm bút tự

Ông NCT trước đây có thách thức thử nghiệm DNA để xác nhận nhân thân của ông. Đúng là chuyện ruồi bu. Thật là tức cười. Thử DNA xác nhận được cái gì? Sao ông NCT lại thách thức như thế nhỉ? Nhưng còn giảo nghiệm chữ viết thì khác, nó có thể làm sáng tỏ dược đôi điều, nhưng với điều kện là tập thơ Vô Đề phải là nguyên thủy từ TĐS Anh, và chữ viết của ông NCT phải được viết trước mặt nhân viên giảo nghiệm. Ngoài ra thì chuyện gì cũng có thể nghi ngờ được cả. Chúng tôi xin được nêu lên một số thắc mắc làm tiền đề cho những gì chúng tôi sẽ trình bầy sau đó:

- BNG Anh trước đây đã giao ra bản chính hay bản phụ (copy)? Bộ này chưa hề lên tiếng xác nhận.

- Chính thức giao cho ông Đỗ Văn hay cho ai? Ông Đỗ Văn cũng chưa hề lên tiếng.

- Có thể ông Vô Danh đã viết lại tập thơ cho công an. Vậy thì công an cũng có trong tay bản chính vậy?

- Tại sao ông NCT ra ngoại quốc rồi mà không tới thăm xã giao BNG Anh theo phép lịch sự thông thường để cám ơn người Anh và để xin lại tập thơ, mà lại nhờ ông Nguyễn Ngọc Bích viết thư xin dùm?

- Tại sao người Anh không trả lại tập thơ cho ông NCT mà lại trao cho người khác?

- Nếu ông Vô Danh không viết lại tập thơ do công an yêu cầu khi bị bắt, và BNG Anh giao tập thơ lòng vòng như thế, thì liệu tình báo CS có khả năng biến tập thơ Vô Đề do ông NCT viết lại trong thời gian ông được huấn luyện thành bản chính, còn bản do tác giả Vô Danh viết giao cho TĐS Anh đã bị thủ tiêu rồi không?

Từ những tiền đề trên và căn cứ vào hai sự thật hiển nhiên nhưng không chứng minh được, thứ nhất, tình báo VGCS hoạt động trong các cộng đồng tỵ nạn đông như rươi, và thứ hai, ngay từ hồi chiến tranh VN, thời ông Đỗ Văn làm giám đốc ban Việt ngữ đài BBC, đã có tình báo VGCS len lỏi vào đài này rồi, người viết sau đây vẫn xin đưọc tiếp tục giả thuyết đã nêu trên (tác giả Vô Danh đã bị thủ tiêu) để trình bầy những lý giải của mình.

Khi tập thơ được phổ biến tại hải ngoại, thì để tương kế tựu kế, công an mới tìm một người khác thay thế cho nhân vật Vô Danh hầu sử dụng sau này cho mục đích của VGCS. Người đó là ông NCT. Ông NCT là người có những điều kiện mà công an đã tính toán cho những công việc mà chúng sắp đặt. Chúng huấn luyện và đưa ông Thiện đi giam từ nhà tù này sang nhà tù khác, cho ở chung với các tù nhân chính trị quan trọng mà chúng biết rằng không thể nào giam giữ họ suốt đời được. Cho nên việc cha Nguyễn Văn Lý, ông Nguyễn Hữu Luyện, ông Phan Nhật Nam v.v. lên tiếng xác nhận NCT là ông Thiện thật chứ không phải Thiện giả là chuyện không có gì lạ cả. Họ đều đã bị mắc lừa công an, và công an chỉ cần có thế thôi. Bởi vì tập thơ không đề tên tác giả, và ông Vô Danh không khai tên tuổi với công an khi bị bắt, nên chúng chọn người có bất cứ tên gì. Chuyện đó không thành vấn đề.

Để tìm nhân dạng của một người bằng cách giảo nghiệm chữ viết, cần phải có hai tuồng chữ để xác định cả hai có phải là do cùng một người viết hay không. Chữ của ông NCT thì dễ dàng rồi vì ông Thiện vẫn ở tại nưóc Mỹ này. Còn tác giả vô danh mà ông NCT tự xác nhận là chính ông thì chữ viết phải là chữ trên tập thơ Vô Đề bản chính được trao cho SQ Anh. Phải cẩn thận như thế bởi vì bản chính tập thơ Vô Đề hiện nay vẫn còn là một bí ẩn, tung tích rất mù mờ. Chữ viết trên tập thơ BNG Anh trao cho GS Holly rồi đến tay ông Đỗ Văn nếu là một bản copy đã chuyền qua tay không biết bao nhiêu người trong hàng mấy chục năm trời nay (1979-2008) tại sao nó không thể biến thành chữ của ông NCT được. Điều mà nghề tình báo có thể làm dễ như trở bàn tay. Chỉ cần đánh tráo là xong, và việc đánh tráo có thể xẩy ra ngay tại văn phòng của ông Đỗ Văn bởi chính nhân viên của ông. Người này chụp lén bản văn rồi gởi về cho Hànội. Bọn phản gián Hànội sẽ có một tập thơ khác giống nguyên con về mặt nội dung và hình thức, chỉ hơi khác về tuồng chữ nhưng không mấy người nhận ra để gởi sang Luân Đôn đổi cho ông Đỗ Văn. Ông Đỗ Văn không hề biết gì, đem in và phổ biến. Còn ông NCT ở Hànội chịu khó vất vả một chút, học thuộc tập thơ và những điều phải học khác cho đến khi trơn tru rồi thì được cho đi đóng kịch tại các trại giam. Nếu giảo nghiệm chữ viết trên tập thơ do ông Đỗ Văn đem in thì kết quả ông NCT nhất định sẽ là ông Vô Danh, chắc chắn 100% vì tập thơ đã bị đánh tráo rồi. Chính vì lo ngại như thế nên người viết nhấn mạnh là phải giảo nghiệm chữ viết trên bản chính tập thơ Vô Đề từ BNG Anh trao ra nếu hiện nay họ còn giữ.

Ngoài ra để biết sự thật cũng không nên quên tìm hiểu con đường được sắp đặt cho ông NCT sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ.

Chúng ta chỉ biết có một ông đại tá người Mỹ gốc Nhật tên Masuoko là người vận động và bảo lãnh cho ông NCT qua Mỹ. Tự dưng sao ông Masuoko biết đến người tù NCT? Dư luận đồn đoán Việt Tân là tổ chức mà VGCS dùng để mai mối NCT vói ông Masuoko và móc mối ông đại tá làm công việc này. Đấy mới chỉ là lời đồn đoán. Nhưng sự thực trước mắt là từ khi sang đến Mỹ, ông NCT trở thành con gà nòi của đảng Việt Tân. Ông NCT đi đâu, ở đâu cũng đã có ông Nguyễn Ngọc Bích lo chu đáo. Khi ông NCT bị tấn công, ông Nguyễn Ngọc Bích đưa lưng ra đỡ. Lại nữa hiện nay khi ông NCT lâm nạn thì các con gà Việt Tân như mệ Bút Vàng, nhà văn Chu Tất Tiến nhẩy choi choi lên phản công. Người ta chưa một lần nhìn thấy ông NCT thân mật cặp kè với người ân nhân của mình là ông Masuoko trước đám đông trên đất nước Mỹ này? Tất cả không phải là chuyện bình thường mà đáng nghi ngờ là một kế hoạch được sắp đặt tỉ mỉ và chu đáo.

Hiện nay qua sự phổ biến của BS Tôn Thất Sơn trên internet, nhà văn Phan Nhật Nam vừa đưa ra một xác minh về bản chính của tập thơ Vô Đề như dưới đây:

Theo tài liệu tôi (BS Tôn Thất Sơn)nhận được từ nhà văn Phan Nhật Nam, thì số phận tập thơ như sau: Tập thơ chép tay, nguyên bản được Bộ Ngoại Giao Anh giao trả vào tháng 7/2008 cho GS Lê Mạnh Hùng, chồng bà Lê Phan là con gái của cựu thù tướng VNCH Phan Huy Quát. Tiếp theo, tập thơ được chuyển tiếp cho ông Đinh Quang Thái, đài Little Saigon rồi được đưa đến tay ông NCT đang ở chung nhà với PNN tại 4117 McFadden # 410, Santa Ana- CA 92704 - USA.Tập thơ này được NCT giao cho người anh ruột là Nguyễn Công Giân cất giữ ở Hendron - Virginia - USA. (tin lượm trên internet).

Khi đang viết những dòng này, chúng tôi lại đọc được trên NET báo Saigon Nhỏ cho biết ông NCT thông báo mới nhận được tập thơ Vô Đề từ BNG Anh gởi qua. Thật kỳ la, sao người Anh sớm không gởi, trễ không gởi, lại gởi ngay vào cái lúc dầu sôi lửa bỏng này. Sao BNG Anh không mời ông NCT sang để trao mà lại gởi, gởi tay hay gởi bưu điện? Hẳn còn nhiều chuyện ly kỳ lắm chứ chẳng chơi.

Cẩn tắc vô ưu, có hai câu hỏi được đặt ra để cảnh giác về sự kiện ông Phan Nhật Nam tiết lộ:

- Thứ nhất, Tại sao BNG Anh lại trả tập thơ cho GS Lê Mạnh Hùng? Có phải người Anh không tin ông NCT là người Vô Danh đã đột nhập vào TĐS của họ tại Hànội?

- Thứ hai, tập thơ đi chu du vòng vo tam quốc như thế liệu có bảo đảm nó không ghé thăm một người nào đó của phản gián Hànội không?

Nếu đã như thế thì giảo nghiệm chữ viết trên văn bản này có gì là bảo đảm.

Như trên chúng tôi đã nói, BNG Anh từ trước đến nay chưa nói nửa lời về vấn đề tập thơ. Tập thơ được người Anh đã trao lại cho ai đó luôn luôn chỉ là tin đồn. Đây là một việc quan trọng có liên hệ đến nền văn học VN và vận mạng của Dân Tộc, tại sao người nhận tập thơ do BNG Anh trao lại không công khai mà cứ phải âm thầm dấu đút!

2.5- Cách làm tốt nhất

Vấn đề là phải tìm cho ra thực sự bản chính tập thơ Vô Đề hiện ở đâu. Nếu nó còn nằm trong tay BNG Anh thì kiếm cách để xin lại. Vì vấn đề không còn trong phạm vi cá nhân nữa mà có liên quan đến văn học của đất nước và hơn nữa, vận mệnh của cả Dân Tộc, nên một tổ chức nào đó của ngưòi Việt tỵ nạn có thể đứng ra để xin. Người viết thiết nghĩ Văn Bút VN Hải Ngoại (VBVNHN) là tổ chức chính danh nhất để làm công việc này, vì VBVNHN là thành viên của Văn Bút Thế Giới, còn có tiếng nói quốc tế mà mọi người tôn trọng. Gánh vác việc này, VBVNHN nên nhờ hậu thuẫn của Văn Bút Quốc Tế, nhất là Hội Văn Bút Anh Quốc. Xin được bản chính tập thơ, mọi sự sẽ trở nên rõ trắng đen, và cộng đồng tỵ nạn chúng ta sẽ được yên ổn.

3. Đôi Điều Về Ông Nguyễn Chí Thiện

3.1 Lập trường và đường lối

Người tỵ nạn biết về ông NCT không qua văn thơ của ông cho bằng sự xuất hiện của ông trong những events của cộng đồng với các bài nói chuyện của ông. Ông chống cộng “bằng mồm” khá hấp dẫn, không hùng hồn nhưng dễ lôi cuốn. Các bài nói chuyện của ông thưòng là ứng khẩu. Có thể nói là ông chưa để lộ một dấu hiêu nào trong các lần nói chuyện khiến người nghe có thể nghi ngờ về lập trường chống cộng của ông. Nhưng nếu muốn hiểu lập trường của ông thì cần phải có một đối tượng khác để so sánh thì mới tường tận được. Còn như nếu muốn biết đường lối chống cộng của ông thì nên nhìn vào một số các hoạt động của ông cũng như những thành phần mà ông thường bắt bồ (make friends). Trong số những người miền Bắc không phải là đảng viên CS, đã ở tù CS nhiều năm đi tỵ nạn, có hai nhân vật nổi bật nhất là ông NCT và ông Việt Thường (VT). Người viết đã đọc và nghe hai nhân vật này bầy tỏ quan điểm về các vấn đề của đất nước hiện nay nên có ý muốn nêu lên sự so sánh giữa hai vị này hầu giúp quí bạn đọc được dễ dàng hơn trong việc nhân định về lập trường chính trị và đường lối hành động của ông NCT.

Lập trường của ông Việt Thường tóm tắt trên mấy điểm chính yếu như sau. Ông đã:

a. Dùng chính những văn kiện của đảng CSVN để chỉ ra rằng đảng CSVN chỉ là một cơ sở đảng của đảng CS Liên Sô, nó giữ nhiệm vụ chiếm cứ đất nước VN cho Đệ Tam QTCS, cho nên nó là một đảng Việt gian.

b. Chứng minh một cách cụ thể đảng CSVN trước kia là lính đánh thuê cho Liên Sô. Ngày nay chúng ngang nhiên trắng trợn dâng đất cho Tầu cộng. Do đó nó là một đảng bán nước.

c. Luôn luôn đề cao Quân Lực VNCH và chủ trương chỉ có QLVNCH mới có đủ khả năng chống lại VGCS đưa đến thành công nếu biết đoàn kết và phát huy tinh thần chiến đấu của tập thể này.

d. Đặt một lằn ranh quốc/cộng rõ rệt, và qua sự bầy tỏ của ông, người ta biết ông đứng ở vị trí nào. Ông kiên quyết chống lại việc hòa hợp hòa giải với CS, cho nên ông gọi những thành phần chủ trương đa nguyên đa đảng là dân chủ cuội.

So sánh với bốn điểm lập trường trên của ông VT, chúng tôi nhận thấy ông NCT chỉ hô hào chống cộng một cách chung chung, không xác định được một lập trường rõ rệt là CS bán nước, CS là Việt gian. Ông NCT không hề nói đến vai trò QLVNCH trong vấn dề chống cộng, và đặc biệt, ông chủ trương chấp nhận đa nguyên đa đảng với VGCS. Về điểm này ông phát biểu:

- Về bản chất thì CS không bao giờ có thể hòa hợp với chúng ta được vì điều kiện đầu tiên để hòa hợp là phải bình đẳng. Bình đẳng có nghĩa là phải đa nguyên, đa đảng, cùng nhau bàn chuyện xây dựng đất nước. Chỉ khi nào CS chấp nhận dân chủ đa nguyên thì chúng ta mới có thể bỏ qua những tội ác của họ và mới có thể nói đến chuyện hòa hợp, chung lưng, chung sức xây dựng lại đất nước VN của chúng ta (ông NCT gặp gỡ giới văn nghệ sĩ tháng 11-1995 tại trung tâm Eden, Tall Church, Virginia).

Chính vì chủ trương đa nguyên đa đảng với VGCS nên ông NCT thường sát cánh với những hạng người như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Bùi Diễm, Nguyễn Ngọc Bích, và nhất là đảng Việt Tân. Lập trường chính trị của những nhân vật này và đảng Việt Tân ra sao thiết tưởng mọi người đã rõ. Họ chủ trương đa nguyên đa đảng vói VGCS, nói rõ ràng hơn là hòa hợp hòa giải với VGCS. Riêng đối vói ông Nguyễn Ngọc Bích, chủ tịch Nghị Hội Người Việt Tại Hoa Kỳ, một tổ chức hữu danh vô thực ngoại vi của dảng Việt Tân là người mà ông NCT xem ra gần gũi và gắn bó nhất. Càng ngày người ta càng thấy lằn ranh phân chia rõ ràng giữa hai đường lối đều tự coi là chống cộng. Một bên chủ trương triệt để nhổ cỏ chế độ CS để thiết lập một đất nước tư do dân chủ thực sự. Một bên chủ trương sinh hoạt đa đảng với CS để có được chỗ đứng trong guồng máy cai trị đất nước. Tùy thuộc vào sự thành công của một trong hai chủ trương này trong tương lai, người dân VN hoặc là được hoàn toàn giải phóng, hoặc biến thành một thứ nô lệ kiểu mới, bởi vì khi các thế lực trong và ngoài nước lấy tham vọng quyền hành và quyền lợi tiền bạc làm mục tiêu đấu tranh thì thân phận người dân vốn nô lệ vẫn cứ là nô lên mà thôi. Nói rằng ông NCT chống cộng, đúng, nhưng mới chỉ đúng có một nửa. Ông NCT chỉ chống cộng “bằng mồm”, còn trong hành động, ông chống cộng theo lối Bùi Tín và Việt Tân. Điều này thì chúng ta đã thấy quá rõ ràng. Hành động mới là cái đáng lo. Khi ông NCT thâu tóm được các phe phái chống cộng về một mối, thì lúc đó có lẽ VGCS sẽ phải xuống nước chấp nhận đa nguyên đa đảng thật. VGCS chắc cũng chỉ mong có thế.

3.2- Cá nhân

Người viết vậy mà có chút duyên với ông NCT. Chúng tôi có mặt trong nhiều trường hợp ăn uống chung đông người với ông NCT và một lần khác tại một tư gia, bữa ăn chỉ có ông NCT, vợ chồng chủ nhà và tôi. Lần ăn tại tư gia chúng tôi đã cố tìm hiểu về lập trường của ông và của những người chung quanh ông như ông Nguyễn Ngọc Bích, Bùi Tín v.v. nhưng đều bị thất bại. Ông Thiện rất ít cởi mỏ, nói rất ít, nói chuyện thiếu niềm nở, ông làm như luôn luôn có một cái gì đó giấu kín trong lòng. Đặc biệt ông không bao giờ cười và không nhìn thẳng vào mặt người đang đối thoại. Trong những bữa ăn đông người, ông Thiện thường tìm một chỗ không kín đáo để đứng một mình, hầu như không chào hỏi ai. Khi cần phải phát biểu với mọi người thì ông nói, còn không thì ông lặng lẽ ngồi ăn, rất ít chuyện trò, ăn xong lặng lẽ đứng lên ra về. Tóm lại ông NCT là một con người chính trị khép kín. Khép kín là biểu hiện của một người khôn ngoan, nhưng cũng là dấu hiệu của một con người mang tâm sư mà không thể nói ra được.

4. Thay Cho Lời Kết

Ngay ở trên đầu bài, người viết đã nói rõ mình không đủ thẩm quyền, khả năng, và điều kiện để đưa ra kết luận, nghĩa là không tự đặt mình đứng về phe bênh hay chống ông NCT, mà chỉ muốn đóng góp một vài ý kiến mong soi sáng thêm vấn đề đang được dư luận bàn cãi. Ông NCT chí thiện hay chí ác không phải là kết luận của chúng tôi. Kết luận tùy thuộc vào những khám phá về vấn đề sau khi đã được công luận công bình phán xét. Phần người viết, chúng tôi muốn noi theo lối làm truyền thông của người Mỹ: we report, you decide. Mong được thông cảm.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Bí Quyết Để Thắng


Lê Văn Ấn

Ngày 25.9.2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) đã gởi thư trả lời văn thư của Ủy Ban Nhân Dân Việt Cộng Hà Nội, xác nhận Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và linh mục Vũ Khởi Phụng, các giáo sĩ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật và Nguyễn Ngọc Nam Phong “không làm bất cứ điều gì ngược lại giáo luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo”, kèm theo bản nhận định và quan điểm của HĐGMVN về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, theo đó, HĐGMVN nhận định:

Tình hình:

- Tình trạng khiếu kiện đất đai hiện đang diễn ra khắp nơi trên đát nước chỉ vì tình trạng tham nhũng, hối lộ, và không quan tâm đến quyền tư hữu của người dân.

- Truyền thông, thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại là phương tiện gieo rắt hoang mang và nghi kỵ.

- Một số người có khuynh hướng dùng bạo lực trong các vấn đề lớn của xã hội kể cả lãnh vực gia đình và học đường.

Quan Điểm:

- Phải giải quyết tận gốc vấn đề đất đai bằng cách tôn trọng quyền tư hữu của người dân theo tinh thần “mọi người đều có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” theo điều 17 Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.

- Truyền thông phải tôn trọng sự thật.

- Phải chấm dứt bạo lực mà một số người đã xử dụng trong những ngày gần đây.

Kết luận:

Phải xây dựng đất nước trên nền tảng công bằng, sự thật và tình yêu.

Trong khi đó, đài phát thanh Vatican hôm 20.9.2008 đã cho rằng Hà Nội thất hứa với tín đồ Công Giáo.

Thái độ mà HĐGMVN đã chọn, là thái độ cương quyết hợp thông với Tổng Giáo phận Hà Nội, nhất là với Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt. Công nhận những việc làm của Ngài từ trước tới nay không có gì vi phạm giáo luật. Những điều mô tả về tình hình hiện tại của đất nước rất chính xác, tham nhũng và hối lộ là căn bệnh trầm kha của Việt Cộng, căn bệnh này đưa tới sự chiếm đoạt đất đai và hà hiếp dân chúng. Truyền thông một chiều, không tôn trọng sự thật, trâng tráo đến độ bất kể liêm sỉ khi xuyên tạc lới phát biểu của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đã làm cho thế giới ghê tởm. Nay Hội Đồng Giám Mục vạch trần sự thật này, Việt Cộng không thể chối cãi? Trước mắt mọi người, Việt Cộng đã dùng bạo lực đối với dân chúng trong tay không một tấc sắt, thậm chí, dùng bạo lực cả với ký giả ngoại quốc. Tình hình mà Hội Đồng Giám Mục đưa ra là Sự Thật. Đoạn văn miêu tả tình hình đất nước của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của Việt Cộng trước cộng đồng Công Giáo Việt Nam và toàn thế giới. Lời kết án tuy dịu dàng nhưng rất đanh thép. Một bài học mà những tên chóp bu Việt Cộng rất căm hận, nhưng ĐÓ LÀ SỰ THẬT.

Trước cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Việt Cộng hy vọng 2 điều, một là Hội Đồng Giám Mục một cách nào đó, gián tiếp hay trực tiếp xác nhận việc làm của Đức Tổng Giám Mục là “quá hăng say, vượt qua giới hạn của sự bình tĩnh ….”. Và như vậy, HĐGM đã tách rời Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt ra khỏi đại khối của Giáo Hội Công Giáo. Sau đó, Việt Cộng tha hồ mở chiến dịch tấn công, vu cáo TGM Ngô Quang Kiệt, Giáo Hội Công Giáo chia rẽ …. Điều thứ 2 mà Việt Cộng mong muốn là thái độ của HĐGMVN sẽ như những lần trước, áp dụng kế hoạch “xin – cho”. Chỉ biết xin, còn cho hay không là quyền của Việt Cộng, phú thác vận mạng Giáo Hội cho Việt Cộng.

Trước cuộc họp của HĐGNVN, toàn thể giáo sĩ và giáo dân cũng rất lo ngại, sợ rằng HĐGMVN sẽ có thái độ do dự, sợ hãi, không dám nói lên Sự Thật, đặt mình dưới sự “bảo hộ” của Việt Cộng, như thế sẽ làm cho sức mạnh của Giáo Hội tan biến, như vậy, chẳng khác chi HĐGMVN đã chối bỏ Sự Thật, làm nản lòng mọi người, dư luận thế giới coi thường, Việt Cộng khinh rẻ và thừa thắng xông lên, đàn áp, lấn chiếm, lũng đoạn Giáo Hội. Nếu sự việc này xảy ra, giáo sĩ và giáo dân hết nơi nương tựa, chủ chăn đã đi sau đàn chiên và sẵn sàng bỏ chạy trước đoàn chiên khi có nguy biến xảy ra.

Nhưng đọc bài Quan Điểm của HĐGMVN toàn thể giáo sĩ và giáo dân thở phào nhẹ nhỏm. Các Chủ Chăn đã có thái độ binh vực Sự Thật và Công Lý. Các Chủ Chăn đã xác nhận: Giáo Hội không làm chính trị, nhưng không đứng bên lề xã hội và Giáo Hội “có trách nhiệm rao giảng giáo huấn của Giáo Hội về xã hội nhằm thăng tiến con người và đời sống xã hội cách toàn diện”. Việt Cộng hết đường vu vạ cho Giáo Hội Công Giáo làm chính trị.

Sau khi đã nhận định rõ tình hình hiện tại của xã hội Việt Nam hiện nay, HĐGM đã đưa ra quan điểm của mình: - Việt Cộng phải tôn trọng quyền sở hữu đất đai, tài sản của dân chúng, vì “không ai có thể bị tước đoạn tài sản của mình cách độc đoán” như điều 17 Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt Cộng là một thành viên. - Việt Cộng phải chấm dứt việc dùng các phương tiện truyền thông để bóp méo sự thật, xuyên tạc hành vi và lời nói của dân chúng theo ý Cộng Sản. - Phải chấm dứt việc dùng bạo lực. Nhà Nước mà dùng bạo lực với dân chúng, chắc chắn nhà nước đó không phải của dân chúng.

Trên đây là quan điểm tuy còn tiêu cực, nhưng cũng đã chỉ dẫn cho Việt Cộng một con đường tôn trọng sự thật, tôn trọng sự công bằng và như vậy, mọi người mới được sống trong một xã hội đầy tình thương.

Nếu Việt Cộng còn một chút lương tri của con người, chắc chắn chúng sẽ phải xấu hổ. Nếu Việt Cộng không còn biết xấu hổ là gì, vì đã mất nhân tính thì dư luận cũng đã, qua quan điểm của Giáo Hội, thấy rõ Việt Cộng là những kẻ không thể hợp tác được, những cam kết, những lời hứa của chúng không có giá trị. Giáo dân cũng như dân chúng trong và ngoài nước đã thấy rõ lập trường phục vụ công bằng, sự thật của HĐGMVN.

Có thể nói HĐGMVN đã xóa tan mây mù nghi ngờ của giáo sĩ và giáo dân, xóa tan những hy vọng của Việt Cộng về một HĐGMVN nhu nhược, thậm chí dễ bảo, coi trọng những quyền lợi vật chát mà chúng đã ban phát … hơn nhiệm vụ rao giảng Công Bằng và Sự Thật của mình.

Nhưng, tương lai Giáo Hội Công Giáo phải làm gì để đem lại công bằng, Sự Thật cho giáo dân và dân chúng Việt Nam ? Giáo Hội đã lên án Việt Cộng dùng bạo lực, không thể nào Giáo Hội dùng bạo lực để đối đầu với Việt Cộng. Vũ khí hiện tại và đã chứng minh rất hữu hiệu trong những ngày qua là CẦU NGUYỆN, một hình thức mà khách quan gọi là đấu tranh bất bạo động. Giáo dân đã nhẫn nại, chịu đựng những bạo lực của Việt Cộng khiến chúng không thể dùng bạo lực đáp trả bạo lực, tạo nên một Thiên An Môn Hà Nội. Tuy nhiên: “Hãy cầu nguyện như mọi sự đều do sự cầu nguyện, và hãy làm việc như mọi sự thành bại đều do sự làm việc mà có”. Nói cách khác, cầu nguyện và làm việc có giá trị như nhau. Thánh Phanxicô ngày xưa đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng của Chúa, trong khi đó thánh Terêxa Hài Đồng Giê Su chỉ cầu nguyện với Chúa trong bốn bức tường của Dòng Camêlô, thế mà kết quả truyền giáo của 2 ngài như nhau. Đây là một ví dụ cụ thể giữa cầu nguyện và làm việc.

Các tôn giáo, nhất là Công Giáo lấy cầu nguyện làm gốc, cầu nguyện là hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng, ngoài cầu nguyện ra, Giáo Hội phải hành động. Hành động ra sao chắc chắn các Chủ Chăn phải biết, Ba Lan đã CẦU NGUYỆN. Họ cầu nguyện rất nhiều. Và họ cũng đã HÀNH ĐỘNG. Phát lệnh đầu tiên mà Đức Gioan Phao Lồ II ban cho dân chúng Ba Lan là ĐỪNG SỢ và YÊU NƯỚC. Chính Việt Cộng đã nhận ra đường lối cầu nguyện và hành động của Đức Thánh Cha Gioan Phao Lồ II đã đưa Ba Lan đến tự do dân chủ, do đó, chúng đã cho người dịch quyển sách “His Holyness, John Paul II and The Hidden History of Our Time” (Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II, và lịch sử ẩn dấu của thời đại chúng ta) của 2 tác giả Carl Bernstein và Marco Politi ra Việt ngữ để cho công an của chúng học tập hầu có thể đối phó với Giáo Hội Công Giáo nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam chắc chắn phải khác với Ba Lan ngày xưa. Ba Lan lúc đó phải đối đầu với một thế giới Cộng Sản với những nanh vuốt hiếu chiến, hiếu sát dã man nhất lịch sử loài người. Việt Nam ngày nay, tuy phải đối phó với một đảng Cộng Sản cô đọng tất cả kinh nghiệm tàn ác, dã man, lươn lẹo của hơn 70 năm kinh nghiệm dụng ác của Cộng Sản Quốc Tế, nhưng cũng có những phương diện khiến cho Cộng Sản không còn áp dụng tối đa sự độc ác của chúng.

Trước ngày 14.9.2008, ai nói rằng “Bác Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, là người yêu nước, có công với nước v.v…” chắc chắn sẽ có kẻ đồng ý, và cũng có lắm người không đồng ý, nhưng sau ngày 14.9.2008, mọi người khi nghe câu nói trên đều khinh khi kẻ thốt ra lời nói đó. Vì Hồ Chí Minh đã bị chính các đại đồng chí Trung Quốc vĩ đại của ông ta tố cáo và lên án đích danh Hồ Chí Minh là một tên bán nước, một tội đồ của dân tộc Việt Nam . Bản án đó là công hàm do Phạm Văn Đồng vâng lệnh Hồ Chí Minh ký gởi cho Trung Cộng, công nhận lãnh hải do Trung Cộng vẽ lại, ‘ăn gian’ của Việt Nam hàng triệu mét vuông, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một đòn chí tử đánh vào “bách hội huyệt” của Việt Cộng, vì lâu nay Việt Cộng núp bóng huyền thoại của Hồ Chí Minh để phỉnh gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên Việt. Nay thần tượng sụp đổ.

Các phương tiện truyền thông hôm nay như điện thoại cầm tay, internet, TV, radio v.v… đã vô hiệu hóa hầu hết những xuyên tạc, vu khống, và nhất là xé tan bức màn bưng bít thông tin của truyền thông Việt Cộng, không kể những điều mắt thấy tai nghe của dân chúng nhờ du lịch, về thăm quê hương, trao đổi hàng hóa, v.v… cũng là những lợi khí để hành động. Nhưng điều quan trọng nhất, ích lợi nhất là người dân không còn sợ Việt Cộng. Một Nguyễn Văn Lý coi ở tù là những ngày “làm công tác tông đồ trong 4 bức tường”, một Lê Thị Công Nhân có sắc đẹp, có học thức, có rất nhiều phương thế để giàu sang phú quí, thậm chí có thể thoát khỏi tù tội ra hải ngoại sống một cuộc đời tự do dân chủ, nhưng cô ta đã CHÊ những thứ đó, nhất quyết ở lại cùng dân tộc đấu tranh cho một Việt Nam dân chủ tự do. Còn nhiều nữa kể không hết, dù trước đây mấy năm số người công khai đấu tranh cho tự do dân chủ chỉ đếm đầu ngón tay. Nay chỉ nguyên Khối 8406 đã có hàng vạn người.

Có thể nói Việt Nam có hoàn cảnh thuận lợi hơn Ba Lan ngày trước rất nhiều. Có điều là chúng ta có làm hay không. Đứng lên đồng loạt, đồng lúc, đồng tâm chúng ta sẽ đem lại Công Bằng Sự Thật và Tình Yêu cho dân tộc. Bí quyết để thắng chúng ta đã có, điều tiếp theo là chúng ta phải cầu nguyện theo tôn giáo mình và phải làm.

Lê Văn Ấn


Hội Ngộ Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức




Mai Thịnh

... Bây giờ chúng tôi đã mất hết, may chỉ còn lại cái danh dự của một con người. Danh dự đã nuôi dưỡng chúng tôi, giúp chúng tôi còn đứng thẳng mà không hổ thẹn với con cháu và người bản xứ.

Danh dự của một người cựu sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Ðức. Vì chúng tôi đã chu toàn bổn phận rất khiêm nhường của một người lính. Chúng tôi đâu có để nơi chúng tôi gìn giữ bị mất. Chúng tôi đâu có để pháo địch bắn vào thành phố khi chúng tôi được lệnh bảo vệ vòng đai. Chúng tôi không có ra lệnh rút lui mà chỉ ra lệnh xung phong chiếm mục tiêu. Chúng tôi không bao giờ cãi lệnh dù cái lệnh ấy là cái lệnh thí quân ngu xuẫn. Chúng tôi đã đánh giặc với trái tim đầy nhân bản. Chúng tôi không hổ thẹn bỏ rơi đồng đội. Chúng tôi đã ngẩng đầu khinh mạn dù chúng tôi ở trong tù tội ... Chúng tôi cũng mang trên vai những tấn nợ như cả miền Nam đã mang. Chúng tôi cũng đã vác thập tự giá trên những triền đá sắc của quê hương đất nước như cả một thế hệ đã vác. (Trần Hoài Thư trong Thủ Đức Gọi Ta về)

Hàng năm cứ đến ngày 9 tháng 10 ở các nước có các cựu sinh viên sĩ quan (CSVSQ/TĐ) của trường Bộ Binh Thủ Đức đều tổ chức họp mặt truyền thống để kỷ niệm ngày thành lập trường; có nơi vài chục người họp mặt như ở các nước Âu Châu, có nơi hàng trăm người họp mặt như ở Úc Châu và Hoa Kỳ. Đây dịp họ tìm gặp lại những bạn bè, đàn anh đàn em xa xưa; có những cựu sinh viên nay là ông lão trên dưới 80 tuổi là những người nhập học những khoá đầu tiên , năm 1951, và có những người trẻ nhất cũng trên năm 50 tuổi, những khoá cuối cùng năm 1975.

Trường Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn có nhiều tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của trường như sau:

Ngày 6 tháng 6 năm 1948, Quốc Trưởng BẢO ĐẠI chỉ thị Thiếu Tướng Nguyễn văn Xuân, Thủ Tướng Chính phủ Trung ương của nước Việt Nam Thống nhất cả 3 Miền, xúc tiến việc thành lập QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), khởi sự bằng việc tổ chức TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM HIỆN DỊCH tại Huế (tiền thân của Trường Võ Quốc Gia Đà Lạt)

Ngày 11 tháng 5 năm 1950 Quốc trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, Chính phủ Trung ương của Việt Nam thống nhất cả 3 Miền, chính thức thành lập Quân Đội Quốc Gia. Quân số của Quân Đội Quốc Gia dự trù là 60 ngàn người bao gồm Chủ lực quân và Phụ Phương quân .

Ngày 27 tháng 7 1951 Sắc lệnh số 372/Cab/DN của Chính Phủ Việt Nam động viên Thanh niên nhập ngũ để huấn luyện thành sĩ quan trừ bị của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới thành lập.

Ngày 1 tháng 10 năm 1951 thành lập hai trường Sĩ Quan Trừ Bị, một tại Nam Định (Bắc Phần) và một tại Thủ Đức (Nam Phần).

Ngày 9 tháng 10 năm 1951 cùng một lúc chính thức khai giảng khoá 1 Sĩ quan trừ bị tại hai Trường Thủ Đức và Nam Định.

Tháng 6 năm 1952 sau khi hoàn tất huấn luyện khóa 1 trường Nam Định giải tán và sát nhập vào Trường Thủ Đức.

Trường Thủ Đức trở thành trường duy nhất có nhiệm vụ đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).

Trường Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về hướng Đông Bắc, Nếu từ phía Biên Hòa nhìn về, Trường Bộ Binh là một bức tranh tuyệt đẹp với dốc đồi thỏai mái, những dãy nhà san sát mái ngói và nắng ban mai tô vàng bên những hàng cây um tùm xanh mát.

Sau 4 năm hoạt động trong trách vụ đào tạo Sĩ Quan Bộ Binh đến năm 1955 phạm vi hoạt động của trường được nới rộng, trường được giao phó thêm nhiệm vụ đào tạo chuyên viên các ngành vì thế trường cải danh thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức gồm các trường:

- Trường Bộ Binh
- Trường Thiết Giáp
- Trường Pháo Binh
- Trường Công Binh
- Trường Truyền Tin
- Trường Thông Vận Binh
- Trường Quân Chánh

Vào tháng 10 năm 1961, trước tình trạng khẩn cấp của đất nước, nhu cầu của chiến trường gia tăng, các trường huấn luyện chuyên môn được tách rời khỏi Liên Trường Võ Khoa ngoại trừ 2 trường Bộ Binh và Thiết Giáp để lấy chỗ huấn luyện cho các thanh niên được động viên tới thụ huấn trong một chương trình huấn luyện đại quy mô của thời bấy giờ.

Từ tháng 10 năm 1962, Liên Trường phụ trách huấn luyện những Sĩ Quan Lục Quân (Bộ Binh) về theo học lớp Đại Đội Trưởng Bộ Binh.

Kể từ ngày 1 tháng 8 năm 1963, Liên Trường lấy lại danh hiệu Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam .

Đến tháng 4 năm 1964, trường được giao phó thêm việc huấn luyện lớp Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh.

Để phù hợp với nhiệm vụ hiện tại ngày 1 tháng 7 năm 1964, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được đổi lại danh xưng Trường Bộ Binh cho đến năm 1975.

Các vị Chỉ Huy Trưởng liên tiếp và thời gian phục vụ:

1. Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên là một Sĩ Quan người Pháp Thiếu Tá Bouillet, đảm nhiệm chức vụ từ ngày 09-10-1951 đến 31-10-1953.

2. Đại Tá Phạm Văn Cảm, Chỉ huy trưởng trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 01-11-1953 đến ngày 30-9-1956.

3. Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 01-10-1956 đến ngày 26-5-1961.

4. Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 27-5-1961 đến ngày 27-7-1961.

5. Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, Chỉ huy trưởng Liện Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 28-7-1961 đến ngày 19-5-1962.

6. Đại Tá Lam Sơn, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 19-5-1962 đến ngày 03-11-1963.

7. Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 04-11-1963 đến ngày 07-4-1964.

8. Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 07-4-1964 đến ngày 20-11-1964.

9. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-11-1964 đến ngày 20-2-1965.

10. Chuẩn Tướng Trần Văn Trung, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-2-1965 đến ngày 02-12-1966.

11. Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưỏng Trường Bộ Binh từ ngày 02-12-1966 đến 14-4-1967.

12. Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 15-4-1967 đến ngày 20-8-1969.

13. Trung tướng Phạm Quốc Thuần Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 20-8-1969

14. Trung tướng Nguyễn Văn Minh

15. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi 1975

16. Đại tá Trần Đức Minh 1975

Thành quả của Trường Bộ Binh:

Giữa thập niên 60 cuộc chiến gia tăng mảnh liệt với sự xâm nhập quy mô của Quân Cộng sản Bắc Việt vào lảnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để chận đứng làn sóng đỏ chính quyền VNCH phải gắp rút gia tăng quân của Quân Đội VNCH. Trường Bộ Binh thủ Đức phối hợp với Quân Trường Quang Trung (Saigon) và Đồng Đế (Nha Trang) để huấn luyện hàng chục ngàn Sĩ quan trừ bị mỗi năm. Có những khoá SVSQ Thủ Đức phải học quà hoặc nhiều khác nhau trong 2 hoặc 3 giai đoạn : Quân trường Quang Trung huấn luyến Căn bản chiến đấu của người lính bộ binh, Quân Trường Thủ Đức và Đồng Đế huấn luyện cho sinh viên c ăn bản Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng.

Từ ngày thành lập trường Bộ Binh được chia làm 2 giai đoạn huấn luyện. Giai đoạn từ 1951 đến cuối năm 1967 được xem là thời kỳ huấn luyện bình thường, trong khoảng thời gian này trường bị gián đoạn huấn luyện từ tháng 2 năm 1955 đến tháng 3 năm 1957 vì ảnh hưởng bởi hiệp định Genève năm 1954. Khoá 6 SVSQ/TB được tiếp tục huấn luyện vào ngày 25-3-1957. Mức độ hàng năm tuy có tăng lên nhưng không vượt quá con số 5,619 SVSQ tốt nghiệp, đó là con số cao nhất trong giai đọan này được ghi nhận vào năm 1966.

Giao đoạn từ đầu năm 1968 (tức sau Tết Mậu Thân) đến sau vì nhu cầu cấp bách của chiến trường và sự trưởng thành của QLVNCH nên nhu cầu huấn luyện được gia tăng rất nhanh, năm 1968 số SVSQ tốt nghiệp là 9,479 Sĩ Quan, năm 1969 số SVSQ tốt nghiệp lên đến 10,862 Sĩ Quan. Con số 10,862 là con số cao nhất từ ngày thành lập trường đến nay.

Sau đây là kết quả tổng quát về số lượng các sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh qua 74 các khóa đã được đào tạo:

Tính từ ngày 9 tháng 10 năm 1951 đến tháng 9 tháng 10 năm 1973 qua 74 khoá: (Theo Đặc San Bộ Binh Số Đặc Biệt khoá 8 \ 72 (khoá Bất Khuất) và Bản Phúc trình của James Nach” the RVNAF reserve officer schools at Thu Duc and Nam Dinh”).

80,115 Sĩ Quan Trừ Bị và gần 4,000 SVSQ/TB Đặc biệt

Khóa Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Binh Cao Cấp: 18 khóa trên 1,500 Sĩ Quan trúng tuyển.

Khóa Đại Đội Trưởng: 44 khóa trên 5,000 Sĩ Quan thụ huấn.

Ngoài những khóa trên trường Bộ Binh còn tổ chức các khóa:

- Khóa hoàn hảo Sĩ Quan Địa Phương Quân.

- Khóa Bổ Túc Quân Sự cho các Sỉ Quan Quân Y Trưng tập, và Sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.

- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn.

Từ tháng 9 năm 1973 đến tháng 4năm 1975 không có tài liệu chính xác về số Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức được đào tạo.. Theo sự ước tính qua 14 khoá con số SVSQ Thủ Đức tốt nghiệp không dưới 15 ngàn người. Như vậy tổng cộng lại Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo khoảng 100 ngàn Sĩ quan Trừ bị cho QLVNCH.

Các vị tướng xuất-thân từ các trường Sĩ quan trừ bị :

Rời Thủ Đức có người thành chiến tướng
Cũng có người thành chiến sĩ vô danh.
Đời binh nghiệp là đường sát nghiệp
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô.”

(Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Khóa 1 Nam-Định gồm có:

- Trung-tướng Nguyễn Đức Thắng (Bộ Trưởng Xây Dựng Nông Thôn)
- Trung-tướng Lê Nguyên Khang (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến)
- Trung-tướng Nguyễn Bảo Trị (Tổng Cục-trưởng Quân-huấn)
- Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ, (Tư lệnh Không Quân, Chủ-tịch Ủy-ban Hành-pháp Trung-ương)
- Thiếu-tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tư lệnh Cảnh Sát)
- Thiếu-tướng Nguyễn Duy Hinh (Tư lệnh Sư-đoàn 3 Bộ-binh)
- Chuẩn-tướng Vũ Đức Nhuận
- Chuẩn-tướng Phan Phụng Tiên
- Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm

Khóa 1 Thủ-Đức:

- Trung tướng Trần Văn Minh (Tư-lệnh Không-quân)
- Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục trưởng Quân-vận)
- Thiếu tướng Nguyễn khắc Bình (Tổng Giám-đốc Cảnh-Sát Quốc-gia)
- Thiếu tướng Phạm Hữu Nhơn
- Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính

Khóa 2 Thủ –Đức:

- Chuẩn-tướng Bùi Quý Cảo (Tổng Giám-đốc Tài-chánh và Thanh-tra quân-phí)

Khóa 3 Thủ-Đức

- Thiếu-tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư-lệnh Quân-đoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam lọt vào tay Cộng-Sản Bắc Việt)

Khóa 4 Thủ-Đức

- Trung-tướng Ngô Quang Trưởng (Tư-lệnh Quân-đoàn I)
- Thiếu-tướng Bùi Thế Lân (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến)
- Thiếu-tướng Lê Quang Lưỡng (Tư-lệnh Nhảy Dù)
- Chuẩn-tướng Hồ Trung Hậu
- Chuẩn-tướng Trần Quốc Lịch

Khóa 5 Thủ-Đức

- Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng (Tư-lệnh phó Quân-đoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam bị cưởng chiếm bởi Cộng Sản Bắc Việt)

Khóa 16 Thủ-Đức

- Chuẩn-tướng Cảnh Sát Trang Sĩ Tấn (Chỉ-huy-trưởng BCH Cảnh Sát Đô-thành Sàigòn)

Sinh Viên Thủ Đức, anh là ai?

Những khoá đầu tiên SVSQ là những học sinh, sinh viên tuổi đôi mươi xếp bút nghiêng theo việc đao binh, theo lịnh động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị . Từ năm 1964 và 1968 lịnh Động viên và Tổng động viên gọi nhập ngũ các nam công dân từ 18 đến 45 tuổi bao gồm đủ các thành phần trong xã hội như: Sinh viên học sinh, các Giáo chức thuộc các trường Tiểu học, Trung Học và Đại học; các Viên chức các Tổng bộ của Chính phủ từ Bộ trưởng, Giám đốc cho đến Thơ ký, các người làm nghề tự do như ký giả , văn nghệ sĩ: Võ Long Triều (Bộ Thanh Niên) nhập ngũ khóa 24, Dương Kích Nhưởng (Điện Lực) nhập ngũ khóa 22 , Lưu Tường Quang ( Ngoại Giao) nhập ngũ khóa năm 1868 , Giáo Sư Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa nhập ngũ khóa 24 v .v..

Với sự nhập ngũ đông đảo của giới trí thức và cán bộ cao cấp trong chính quyền đã mang lại sự cảm thông và hoà đồng giữa người lính chiến đấu và người ở hậu phương. Trải qua 9 tháng huấn luyện gian khổ nơi quân trường người SVSQ đã thay đổi từ thể xác đến tâm hồn : Thương đời lính gian truân và yêu đất nước qua từng bàn chân mình bước đi trên mảnh đất quê hương.

Nhà thơ Nguyên Sa, tác giả của những bài thơ tình lảng mạng nổi tiếng qua "Paris có gì lạ không em ?", "Áo lụa Hà Đông" cũng đã thay đổi nhiều sau bao tháng thao luyện trong quân trường Thủ Đức:

bây giờ khẩu garant ta mang trên vai
bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát
trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
những thỏi sắt đó nặng như thế
ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
anh em ta và quê hương ta
vác những thỏi sắt nặng như thế
từ bao nhiêu năm nay
…………

(Xin lỗi về những nhầm lẫn dĩ vãng thơ Nguyên Sa)

Các công chức và Chuyên viên sau khi thụ huấn xong có thể được trở về nhiệm sở cũ nếu có nhu cầu đòi hỏi của Cơ quan liên hệ. Các giáo chức sau một vài năm trong quan ngũ đa số được trở về trường sở cũ.

Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị phải ở lại Quân đội mặt dù nhiệm kỳ trừ bị là 4 năm nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh.

Bây giờ anh ở đâu ?

Không có một thống kê hay sử liệu nào đề biết số lượng chính xác các Cựu SVSQ/TD hiện nay; có một vài tài liệu phỏng đoán có 15 ngàn SVSQ/TD đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ Vùng đất Tự Do VNCH như vậy còn lại hơn 80 ngàn mà một số rất lớn còn ở lại Việt Nam và rải khắp năm châu.

Sau cuộc bể dâu kẻ còn người mất và sau nhưng năm tháng trôi nổi nơi quê người ai được gặp lại người quen là điều hạnh phúc và quý báo vô cùng. Riêng những cựu Sinh viên Thủ Đức Đa số đã trãi qua những năm tháng tù đày trong lao tù cải tạo của Cộng sản. Trong lao tù có ai dám nghĩ tới một ngày nào đó gặp lại bạn bè đồng môn, đồng ngũ cũ, một ngày được nhìn thấy lá Cờ Vàng thân yêu, một ngày được thở không khí Tự do!.

Nước mất nhà tan
Đệ huynh Thủ Đức
Lại lạc nhau rồi, một cuộc bể dâu
Niên trưởng tôi ơi!
Bên trời bạc tóc,
Có nghe không
Tiếng vọng Vũ đình trường
Có nghe không tiếng hờn ai oán,
Binh đao oan nghiệt một kiếp người.

(Tăng Nhơn Phú thơ Túy Hà)

Những mơ ước không bao giờ dám nghĩ đến đó đã trở thành hiện thực : Những cựu SVSQ/TB cũng như các cựu chiến Binh VNCH thoát được ra nước ngoài đã dịp được gặp lại đồng môn đồng ngũ; được nhìn lại màu cờ sắc áo thân yêu, được nghe lại những khúc quân hành qua những buổi họp mặt bên ly rượu chun trà : Mừng cho người còn sống và buồn cho người còn ở lại hay đã ra đi vĩnh viễn.

Người viết xin mượn câu thơ của CSVSQ Túy Hà để kết thúc bài này và câu chúc quý chiến hữu đồng môn Trường Bộ Binh Thủ Đức được nhiều An bình an và Hạnh phúc :

Tăng Nhơn Phú ta sẽ về thăm lại
Đốt nén nhang thơm tạ Đất Trời.
Đã cho ta một thời hào sảng
Đã luyện ta thành thép thành đồng
Nhập cuộc chơi có tên Sinh-Tử
Giữa làn ranh nghiệt ngã chiến trường.
Đã cho ta ngẩn cao đầu ngạo nghể
Thủ Đức làm người không hổ thẹn lương tâm.
Tăng Nhơn Phú - đồi xưa – Ta trở lại
Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam.
Ta sẽ về – dù nương theo gió
Bởi thân tàn , chí lớn còn nguyên.

(
Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Mai Thịnh

(Viết nhân Ngày truyền Thống của CSVSQ/TD tháng 10 năm 2008)

Tài liệu tham khảo:

- Đặc san Bộ Binh Số Đặc biệt Khóa 8\ 72 năm 1973
- The RVNAF reserve officer schools at Thu Duc and Nam Dinh James Nach
- Tìm hiển Ngày Quân Lực 19-6 của Cựu Đại tá Nguyễn Huy Hùng
- Lịch sử Trường Sĩ quan Trừ bị của Đặng GhiKhoá 25
- Thủ Đức Gọi Ta Về của Trần Hoài Thư
- Hình ảnh trích từ Web CSVSQ/TD Úc Châu:
http://csvsqthuduc.googlepages.com/td.html Và KBC4100: http://www.kbc4100.com



Saturday, October 4, 2008

Nghề Chụp Mũ - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh

Ba triệu người Việt Quốc Gia định cư tại nước ngoài chỉ là một số nhỏ so với trên tám chục triệu trong nước, nhưng chính là mối lo sợ hàng đầu đối với ngụy quyền cộng sản Việt Nam. Đây là một cộng đồng đầy đủ thực lực, từ nguồn chất xám, tinh thần đoàn kết, khả năng tài chánh đến vai trò chính trị. Ngoại trừ tại Hoa kỳ, số người tỵ nạn còn lại định cư rải rác khắp toàn thế giới, nhưng cộng đồng người Việt, chẳng những đã thu hút cảm tình người bản xứ mà còn thay đổi được lối nhìn, quan niệm và thái độ của thế giới tự do đối với những người đã bỏ xứ ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tinh thần đoàn kết dưới màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt Quốc Gia đã giúp người dân bản xứ nhận ra sự hiểu biết thô sơ, lệch lạc cũng như những sai lầm của họ trước kia về chế độ cộng sản Việt Nam. Ngoài ra cần phải nói thêm, các nổ lực và thành quả tốt đẹp của người Việt trong việc hội nhập vào xã hội mới cũng như tinh thần chống cộng triệt để đã vô hiệu hóa tất cả những lời tuyên truyền bịp bợm, láo khoét của các cơ quan ngoại giao cộng sản từ trong nước cũng như ở hải ngoại.

Vừa chiếm đoạt Miền Nam, Hà Nội đã vội vàng cướp tài sản, bỏ tù, đày đi kinh tế và xua ra đại dương những người mà cộng sản cho là biếng nhác, ăn hại, phản động, tay sai, đánh thuê và là mầm mống nguy hiểm cho chế độ. Nhưng chỉ một thời gian sau, chính Hà Nội lại âu yếm gọi bằng "khúc ruột ngàn dặm" và trân trọng trải thảm đỏ, mời những người bị chúng đã xua ra biển nên quên hận thù, quay về đùm bọc lấy anh em ruột thịt xây dựng lại quê hương !. Vừa van lạy xin tiền "khúc ruột ngàn dặm", vừa lo sợ trước tinh thần đoàn kết cũng như những thành công về kinh tế và chính trị của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chúng đã tung chương trình kiều vận núp bóng dưới nghị quyết 36. Trên bình diện quốc tế, tập đoàn cộng sản đã thua hẳn cộng đồng người Việt Quốc Gia tại hải ngoại về mọi phương diện. Muốn đánh bại cộng đồng, con đường tốt nhất là phải phá thối và gây chia rẽ nội bộ. Do đó, để đập tan cộng đồng, cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu và dành một ngân khoảng lớn để huấn luyện, tổ chức và thưởng công cho điệp viên, cán bộ nằm vùng và những ai đã lỡ "dính chàm" phải cúi đầu chờ lệnh.

Chỉ có hai sức mạnh khả dĩ đánh đổ được tập đoàn bạo quyền Hà Nội mà thôi, đó là tinh thần Đoàn Kết và Ngoại Tệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, mà tinh thần đoàn kết của người Việt hải ngoại mới đích thực là mối lo trầm trọng của tập đoàn cộng sản Việt Nam. Chúng ta không lạ gì khi Hà Nội đặt vấn đề phá hoại cộng đồng lên hàng đầu và đã chi ra nửa tỷ dollars cho chương trình kiều vận và phá hoại qua nghị quyết 36.

Nghị quyết nầy gồm nhiều tiết mục nhưng chung quy có thể thu gọn trong 3 phần với 3 mục đích chính: Lường gạt, tuyên truyền và phá hoại !

- Lường gạt: Kêu gọi chất xám và tiền của người Việt nước ngoài. Đây là phần nổi của nghị quyết. Làm một công hai việc, vừa đánh bóng chế độ qua tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc và kêu gọi khúc ruột ngàn dặm đem hết khả năng và của cải về phục vụ đất nước. Nhưng thực tế là một sự lường gạt trắng trợn những người dễ tin đem chất xám về phục vụ củng cố một tập đoàn thối nát, bất tài và tham nhũng. Đồng thời chúng khai thác tình thâm ruột thịt, liên hệ gia đình của những "con gà đẻ trứng vàng" ở nội địa hầu móc túi thân nhân nước ngoài.

- Tuyên truyền: Lợi dụng truyền thông, văn hóa để len lỏi vào cộng đồng bằng cách ru ngủ, mua chuộc, lôi kéo từ người lớn xuống trẻ em dưới nhiều hình thức, từ sách báo, ca nhạc, cải lương đến các hoạt động xã hội, tôn giáo và nhất là chú trọng vào chương trình dạy tiếng Việt cho trẻ nhỏ. Các tòa đại sứ cộng sản được cấp những ngân sách khổng lồ để thi hành nghị quyết bằng cách tổ chức những đội ngũ cán bộ, mục đích len lỏi vào các cơ sở của người nước ngoài như báo chí, truyền thanh truyền hình, lập ra nhiều trang báo điện tử, diễn đàn hoặc dùng tiền mua chuộc từ cá nhân đến tập thể trong các tổ chức nầy. Đây là phần chìm mà các cơ quan ngoại giao tại hải ngoại phải thi hành theo lệnh bộ chính trị của đảng.

Trong năm qua cộng sản Việt Nam đã thất bại, các cơ quan ngoại giao nước ngoài không đạt được đích của năm 2006 trong chương trình xâm nhập vào toàn bộ các hiệp hội, đoàn thể, đảng phái của người Việt hải ngoại. Quan trọng nhất là cuối năm 2006 chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu dùng tiền mua chuộc hoặc thay thế các chức vụ chủ tịch của cộng đồng bằng các cán bộ nằm vùng hay những tên cò mồi dễ dạy.

- Phá hoại: Len lỏi vào cộng đồng, đảng phái, đoàn thể để tạo mâu thuẩn, gây chia rẽ, phá rối Cộng đồng người Việt hải ngoại … đồng thời huấn luyện, nuôi dưỡng đám ‘"hó săn’"để chúng theo dõi, bôi xấu, hù dọa, chụp mũ những ai có hành động gây phương hại cho chế độ cộng sản. Đây mới là chính phần trọng tâm của nghị quyết 36 !

Phần nổi và phần chìm tôi đã có dịp trình bày trong những bài trước, trong phạm vi lần nầy xin đề cập đến một đòn ma giáo thuộc phần trọng tâm của nghị quyết 36, là chụp những chiếc mũ cộng sản cho những ai mà Hà Nội xem là thành phần cực kỳ phản động ở nước ngoài.

Chụp mũ hay đội nón cối lên đầu những người quốc gia có tinh thần chống cộng kiên trì, đối với cộng sản là một thượng sách, vừa ít tốn tiền nhưng tạo được nhiều kết quả thật quan trọng. Bất cứ ai có tên trong sổ đỏ thuộc thành phần "cực kỳ phản động" ở hải ngoại mà cộng sản Việt Nam không thể mua chuộc, hù dọa hay bắt bớ được thì cứ việc ra lệnh cho đàn em đội ngay lên đầu họ một vài chiếc nón cối thật lớn là xong chuyện ! Vì cộng sản biết rằng, cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại chẳng những căm thù bọn cộng sản chính hiệu mà còn xa lánh, tẩy chay những tên tay sai ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản như trường hợp Trần Trường ở Cali cách đây vài năm. Cứ việc đội lên đầu người nào một vài cái nón cối thì trước sau gì danh dự của nạn nhân cũng bị tổn thương không nhiều thì ít. Thật vậy, một khi dùng nón cối quật ngã được người nào thì xem như cộng sản đã thắng một trận đánh lớn mà không mất một viên đạn.

Điều tệ hại quan trọng nhất là một số ít người trong cộng đồng thiếu suy tư phán đoán, thiếu tìm hiểu nạn nhân để chận đứng và vạch trần âm mưu của Cộng sản, do đó họ đã vô tình nối giáo cho giặc bằng sự im lặng, sợ bị trả thù. Nhiều người trong cộng đồng tuyên bố chống cộng vung vít, ngồi lại với nhau thì hùng hổ nói thật hay, nhưng khi có việc lại rút vào bóng tối. Chỉ một việc nhỏ như đi biểu tình chống cộng hằng năm vào ngày 30.4 thì thật đáng buồn khi so sánh sự hiện diện của thành phần nầy trong những buổi tiệc liên hoan kỷ niệm thì không sót một ai !

Người chống Cộng nhiệt tình, công khai ra mặt thường bị cô đơn, vì bà con giòng họ, bạn bè, đồng hương, đồng chí trong các tổ chức thường tìm cách né tránh. Chuyện cũng thật dễ hiểu vì những người nầy thường về Việt Nam du hí, thăm bà con, làm ăn, dĩ nhiên phập phồng lo sợ nhà nước Việt Nam sẽ làm khó dễ, gây trở ngại công việc đầu tư, di chuyển, du hí … một khi Hà Nội khám phá ra họ có liên hệ giây dưa với những "tên cực kỳ phản động". Dựa vào thế mặc cảm sợ sệt của những người nầy, cộng sản cứ thẳng tay tiến tới, đội chiếc nón cối lên đầu hết kẻ nầy đến người kia. Do đó, mấy năm trở lại đây, trò chụp mũ phát triển thật nhanh chóng. Thử nghĩ lại xem, đã có biết bao nhiêu người yêu nước nhiệt tình, xã thân cho đại cuộc đã nhụt chí rút vào bóng tối vì những chiếc nón cối trên đầu !

Thành phần chuyên nghiệp hành nghề chụp mũ là những ai ? Có thể là một trong ba hạng người sau đây: Cán bộ điệp viên đội lốt người tỵ nạn. Người nhẹ dạ đã-đang-sẽ hưởng bổng lộc của địch. Người bị "dính chàm" của cộng sản vì một vấn đế nào đó. Vì một khi vết chàm của cộng sản đã dính lên người thì không bao giờ gội rửa được ! Cái bẫy giăng ra thật đơn giản là khi ban ân huê cho một cá nhân nào, cộng sản chỉ cần ghi lại tất cả dấu vết để sau đó áp lực nạn nhân phải thi hành những yêu cầu của chúng. Nhiều trường hợp đi tù, một vài cá nhân đã bán đứng đồng đội, mục đích kiếm điểm với kẻ thù để được làm "cai tù" ăn trên ngồi trước, để chạy tội hay hy vọng rút ngắn thời gian cãi tạo trở về đoàn tụ với gia đình. Lúc cần thì cộng sản xử dụng những bút tích đó để hù dọa, bắt chẹt và ép buộc phải tìm cách đội lên đầu cái nón cối cho những ai mà cộng sản cần phải thanh toán ! Đó là trò đểu của Hà Nội đang mang ra áp dụng tại hải ngoại để tách rời những người chống cộng ra khỏi cộng đồng người Việt.

Các điệp viên núp bóng người tỵ nạn thường xử dụng nhiều tên ảo, dùng những lời chưởi bới hạ cấp, thô tục trên các diễn đàn, gởi thư qua các hộp thư điện tử và dùng điện thoại cộng cộng để chưởi bới hăm dọa. Phương thức nầy chưa được hoàn hảo, vì những lời hăm dọa chưởi bới dưới tên ảo không gây xáo trộn cộng đồng bằng những pháp nhân có thật. Nhưng những người nầy thì không trực diện nói chuyện với nạn nhân mà chỉ dùng lối chuyền tai người nầy qua người khác. Trường hợp nầy thật nguy hiểm vì cộng sản đã thành công trong việc gây xáo trộn cộng đồng, tạo chia rẽ giữa người nầy kẻ kia. Nhân cách của những kẻ thường dùng kỹ thuật rỉ tai đã xấu vì nói lén sau lưng người khác, người "bị" nghe hay "được" nghe thường không chú ý, nhưng nghe mãi nghe hoài cũng thấm vào đầu óc họ. Đó là chiến thuật tuyên truyền của cộng sản, cứ nói mãi thế nào cũng còn lưu lại trong đầu người nghe không nhiều thì ít ! Những người đội tên giả chưởi bới vô liêm sĩ thật ra không nguy hiểm bằng hạng người rỉ tai người nầy người kia thì chúng ta cần phải cảnh giác. Kết quả cộng sản đã thắng bằng lối tuyên truyền cố hữu, chỉ một viên đạn bắn ra đã sát hại nguyên cả đàn chim.

Một ít người ít hiểu biết, ích kỷ, ham danh … muốn trở thành lãnh tụ bằng con đường tắt với vài ba đàn em dưới trướng đã khua chuông đánh trống, đấm đá lung tung để tìm cách vương lên bằng những trò hề rẻ tiền, tranh dành chức vụ rồi bôi xấu, chụp mũ lẫn nhau. Hành động của thành phần nầy đã tạo ra những môi trường thuận lợi cho kế hoạch phá hoại theo nghị quyết 36. Để kết nạp thành phần nầy, địch có thể cung cấp nhân lực cũng như tài chánh mục đích tạo ra thật nhiều hiệp hội, nhiều đoàn thể, đảng phái nhằm chia xẻ tinh thần đoàn kết của cộng đồng. Vô tình thành phần nầy trở thành công cụ không công cho địch, rồi một ân huệ hay hứa hẹn nào đó, họ sẽ trở thành những tay đắc lực phục vụ cho quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam.

Chụp mũ là thủ đoạn của cộng sản, hành động nầy là nghề nghiệp của các diệp viên, những tên cán bộ công an núp bóng trong hàng ngũ tỵ nạn. Những người quốc gia chân chính, đừng vì ganh ghét cá nhân, đừng vì một chút lợi lộc tiền bạc hay những lời hứa hẹn của địch mà nhắm mắt làm theo lệnh quan thầy, đánh lung tung người nầy đến người khác.

Một khi Hà Nội chỉ thị phải đánh một người nào thì phải nghĩ rằng người đó là cái gai trước mặt mà chúng cần phải nhổ bỏ. Nếu đánh gục họ thì xem như một người quốc gia đã dùng vũ khí cộng sản đánh thẳng vào cộng đồng người Việt Tự Do ở hải ngoại.

Việc vạch mặt chỉ tên những tên cộng sản nằm vùng phá hoại cộng đồng là một việc phải làm của tất cả mọi người. Nhất trong giai đoạn nầy để loại những phần tử đang ráo riết gây rối và phá hoại cộng đồng dưới nhiều lãnh vực. Nhưng tuyệt đối đừng nghe lời của những người có thành tích bất hảo, miệng chống cộng vung vít nhưng đàng sau chúng đưa tay nhận tiền bạc lợi lộc của kẻ thù để đội lên đầu những người chống cộng chân chính và nhiệt huyết những cái nón cối. Cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thật chính xác về đời tư, quá trình hoạt động của hai đối tượng, người hành nghề cụp mũ cũng như nạn nhân để tránh việc xét đoán lầm người. Chỉ một hành động chuyền miệng rỉ tai bôi xấu một người nào đã là hành động của kẻ tiểu nhân, chưa kể đến những chuyện bày đặt buồn cười vô căn cứ thì chúng ta nên xét lại và ngăn chận kịp thời, tránh chuyện "tam sao thất bổn" nhỏ biến thành lớn, chuyện ruồi bu thành vấn đề quan trọng.

Thật ra không có chuyện gì có thể bưng bít lâu dài, không nhanh thì chậm. Tất cả sự thật sẽ được phơi bày dưới ánh mặt trời, chừng đó người đời sẽ phê phán hành động của những người hành nghề chụp mũ và con cái cháu chắc sẽ tủi nhục vì những hành động của cha ông mình. Nhưng hiện tại nếu không mau trừ khử những người hành nghề chụp mũ kịp thời thì trong giai đoạn quyết liệt nầy cộng đồng chúng ta sẽ thiếu hoặc mất đi những người tiên phong chống cộng.

Chụp mũ là nghề của bọn công an, điệp viên nằm vùng. Nếu là người quốc gia, những ai đã bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận chế độ Cộng sản thì xin hãy dừng tay, đừng vì cá nhân, tiền bạc, phe nhóm mà nhắm mắt chụp mũ những người đang tranh đấu nhiệt tình trong lòng cộng đồng người Việt. Một điều khẳng định rằng, một khi Cộng sản ra lệnh chụp mũ một người nào thì chắc chắn rằng Hà Nội muốn bịt miệng và tách rời người đó ra khỏi cộng đồng bằng trò chia rẻ.

Cũng xin nhắc nhở những người đang hành nghề chụp mũ, không phải ai cũng sợ chiếc nón cối, mà một số người chống cộng nhiệt tình, có lý tưởng từ trong máu huyết mà họ đã chứng minh bằng những hành động bất vụ lợi từ lúc cắp sách đến trường cho đến ngày nay, thì không bao giờ cái nón cối đánh gục được họ. Đối với những người nầy, càng bị chụp mũ, họ càng đứng dậy, hiên ngang tiếp tục con đường tranh đấu cho đến ngày nhắm mắt.

Mong rằng những người trong hàng ngũ quốc gia thường xử dụng đòn chụp mũ hãy lấy lương tâm tìm hiểu nạn nhân. Thật tình mà nói, những người chống cộng thật cô đơn, chính vợ con họ phản đối vì đã gây cho gia đình biết bao lo lắng buồn phiền mà còn bị những người thường về Việt Nam như bà con, thân nhân, bạn bè cũng như đồng hương, đồng chí … tránh né vì sợ cộng sản khám phá ra có liên hệ thân thiết với những tên "cực kỳ phản động" ở nước ngoài !

Tóm lại, người trí thức quân tử dám nói dám làm, tôn trọng sự thật và sẵn sàng chấp nhận sai trái của mình, nếu có. Tiểu nhân, ngữa tay nhận ân huệ tiền bạc của bất cứ ai để thi hành bất cứ tội ác nào được giao phó, từ ném đá giấu tay, mang tên ảo, rỉ tai, bôi xấu đến chụp mũ những người bị đối phương xếp vào loại "phản động". Thế thì người Việt Tự Do nuôi dưỡng bao che cho tiểu nhân làm gì để chúng tiếp tay Hà Nội, bôi nhọ những phần tử Quốc gia … để rồi cộng đồng sẽ thiếu nhiều chiến sĩ tiền phong trong hàng ngũ chống Cộng sản.

Nếu còn chút lương tri, xin hãy nghĩ lại xem ….

Đinh Lâm Thanh



Bản Chất Bất Lương Của Nền Kinh Tế Cộng Sản


Trương Minh Hòa

Sinh hoạt kinh tế từ sơ khai đến văn minh, luôn ảnh hưởng và tác động vào cuộc sống xã hội, chính trị,văn hóa .... trải qua nhiều thời kỳ trong tiến trình lịch sử loài người:

- Thời bộ lạc với nền kinh tế sơ đẳng, cá thể, tự do, tức là mạnh ai nấy kiếm ăn, không bị ràng buộc luật lệ nào, ngoại trừ luật thiên nhiên; tuy nhiên các thành viên trong các bộ tộc cũng phải đóng góp cho các tù trưởng, thầy mo một số của cải mà họ tìm được; đó là hình thức đóng thuế đơn giản, thời kỳ nầy, giai cấp cai trị được coi là "đảng Cộng Sản nguyên thủy", là những kẻ ăn trên đầu người khác, không lao động mà lại vinh quang, đã thế mà còn nhân danh thần linh để giết người một cách hợp lệ, theo ý của đấng tối cao, bắt người khác làm việc, cung phụng cho mình. Thành phần lãnh đạo "bộ lạc" chính là "giai cấp chuyên chính" theo kiểu hệ thống đảng quyền, nhà nước Cộng Sản vậy.

- Thời quân chủ, nền kinh tế tập trung vào tay một tập đoàn của một gia tộc với các lãnh chúa, từ đó của cải do các địa phương gom lại, đem dâng một phần cho vua, triều đình. Dân chúng làm việc như nông nô.

- Thời kỳ kinh tế tự do, xuất phát từ quan niệm dân chủ, nhất là sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Người dân có quyền sinh hoạt kinh tế cá thể, tự do, nhưng phải tuân thủ theo một số điều kiện luật pháp, để tránh tình trạng lạm dụng việc làm ăn tự do mà đi đến bất lương, gian thương, hay một số danh nhân giàu, tham quyền lực, thường tìm cách huynh đảo chính quyền để thủ lợi. Tại các nước dân chủ, kinh tế thị trường nuôi dưỡng nền chính trị tự do, phát triển xã hội; các đảng phái cầm quyền cũng phải biết thế nào "ý dân là ý trời", họ làm việc cho dân, có nhiệm kỳ, sợ dân bất tín nhiệm, nên bất cứ đảng phái nào cũng đều phải mưu tìm những kế sách kinh tế tốt nhất, hầu được dân tin, bầu cho; do đó các nước dân chủ càng tiến lên, kinh tế, khoa học kỹ thuật thăng tiến là do mọi người đều cạnh tranh để làm ra sản phẩm, dịch vụ tốt, nếu muốn tồn tại. Nhờ các cá thể, tập đoàn kinh tế tư nhân đóng thuế theo qui định phần trăm lợi tức, nên chính phủ mới các tiền để lo đời sống cho dân.

Tuy nhiên, trong cái nền kinh tế tốt nhất nhân loại là tự do, lại phát sinh ra cái nền "kinh tế chỉ huy" là một thứ "quái thai" kinh tế do Karl Marx đề xướng. Đây không phải là do tấm lòng muốn đưa ra một học thuyết nhằm giúp nhân loại phát triển kinh tế, đưa đến thịnh vượng, thái bình, mọi người đều no cơm ấm áo; cũng không phải là sự "tình cờ lịch sử" của một nhà kinh tế tìm một lý thuyết "kinh bang tế thế" như các khoa học gia khám phá ra những mới lạ. Lý thuyết kinh tế tập trung xuất phát từ "lòng ganh ghét hận thù vô cớ" của một kẻ thất thời, nhưng có tâm địa bất lương, vào lúc tại lục địa Âu châu đang trong thời kỳ bùng phát triển kỷ nghệ, bắt đầu dùng máy móc chạy bằng hơi nước để thay sức ngựa, bò trong lãnh vực sản xuất. Từ cuộc cách mạng kỹ nghệ nầy, nên ban đầu trong xã hội Âu Châu xuất hiện những nhà giàu kỷ nghệ gia, dần dần lấn áp giới "giàu xưa" gốc hoàng tộc "Công, hầu, bá, tử, nam". Những nhà giàu mới nầy, ban đầu tung hoàng trên thương trường, vì các quốc gia Âu Châu chưa có luật pháp phù hợp để chế tài, nên họ cũng bóc lột nhân công, khai thác sức lao động cả trẻ em, từ đó phát sinh ra giai cấp công nhân. Karl Marx là kẻ thất thời, sống nhờ vào sự giúp đỡ của người bạn thân, vốn con nhà kỹ nghệ gia giàu có. Nếu là người cái tâm lành, thì cố gắng dùng khả năng, kinh nghiệm để vương lên trong cuộc sống, dù không giàu nhưng cũng tạm giải quyết tình trạng túng thiếu và gầy dựng một mái ấm gia đình; tuy nhiên Marx là kẻ mang tâm địa bất lương, gian manh, dù ăn tiền của một nhà kỷ nghệ Engels, nhưng hắn trút tất cả căm thù vào văn từ, viết sách dạy ăn cướp có "khoa học" với những ngôn từ hoa mỹ: đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, chính quyền vô sản chuyên chính, xã hội chủ nghĩa, thiên đàng Cộng Sản hay nói đúng hơn, từ ông tổ Cộng Sản Karl Marx, xuất phát từ cái bản chất xấu xa: "ăn cháo đá bát" từ lúc bắt đầu suy tư và viết sách dạy ăn cướp, giết người, với những ngụy luận che đậy và một thời đánh lừa nhiều người nhẹ dạ ở các quốc gia Tây Phương qua phong trào phản chiến và ngày nay vẫn còn tác động tại một số nước Á, Mỹ Châu.

Trong tập thể người Việt tỵ nạn hải ngoại, cũng có một số kẻ bất lương "ăn cháo đá bát", từng sống nhờ vào xương máu của các chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, sang trại tỵ nạn cũng nhờ uy danh của lính để sớm được hưởng qui chế tỵ nạn chính trị. Nhưng sau nầy, vì quyền lợi cá nhân mà cam tâm hùa theo băng đảng ăn cướp Việt Cộng, gia nhập hàng ngũ "đón gió trở cờ", trở về làm ăn, du lịch, du hý, du dâm sau khi trở ra hải ngoại bèn tuyên truyền không lương cho đảng cướp để được chúng ban bố quyền lợi, dễ dàng về nước sau nầy.

Lý thuyết dạy cướp của giết người được Lenin khai thác triệt để, nhờ lừa đảo, gian manh, tàn ác mà hắn chiếm được chính quyền từ tay Nga Hoàng vào tháng 10 năm 1917, từ đó lan rộng nhiều nước như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Đông Âu, Cuba .... hầu hết tại các nước bị Cộng Sản cai trị đều có các trường dạy "cướp của giết người", như tại Nga có trường đại học Công Nông Đông Phương tại thủ đô Mạc Tư Khoa, nơi đây từng đào tạo những tên du thủ du thực, lưu manh, đầu trộm đuôi cướp, bất lương khoa bảng như: Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu .... sau nầy, những tên tốt nghiệp cái trường dạy ăn cướp ở Nga Sô trở thành những "tướng cướp" và khi thành công "cướp chính quyền", đó là lời thành thật khai báo của những tên tướng cướp Cộng Sản, thò chúng lại mở trường đào tạo ăn cướp, như tên trùm ăn cướp, sáng lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh chủ trương: "mười năm trồng cây, trăm năm trồng người". Nhằm đào tạo thế hệ ăn cướp "nghiệp chuyên", kế thừa sự nghiệp ăn cướp trường kỳ, man rợ, theo đúng binh thư ăn cướp được thụ huấn từ Liên Sô, nên tại miền Bắc Việt Nam, sau khi cấu kết với thực dân Pháp và hai bậc thầy ăn cướp Nga-Tàu, Hồ Chí Minh thành lập ngay trường Chính trị Nguyễn Ái Quốc và cái Viện Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx Lenin do Hoàng Minh Chính (cũng từng học ở đất Nga) làm viện trưởng là nơi "điều nghiên kỹ thuật ăn cướp, giết người, bóc lột sức lao động "có bài bản, có kỹ thuật, đó là nơi xuất phát tư tưởng, sách lược "dạy ăn cướp tầm vóc quốc gia".

Có thể nói mà không sợ sai là: nguyên viện trưởng viện "điều nghiên sách lược cướp của giết người" Hoàng Minh Chính là "người thầy dạy ăn cướp, giết người, lừa đảo vĩ đại" của đảng Cộng Sản Việt Nam, bậc thầy ra công đào tạo biết bao "tướng cướp" lừng danh, từng "hét ra lửa, mửa ra khói" với nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước; tức là Hoàng Minh Chính là bậc thầy "dạy ăn cướp" lừng danh, đáng được các băng đảng cướp tầm cở như Mafia tôn thờ là "quân sư". Do kiến thức và là bậc thầy trong lãnh vực nầy, nên Hoàng Minh Chính mới lừa được những con cừu non hải ngoại như bác sĩ Nguyễn Xuân Ngải, kể cả cựu đại sứ Bùi Diễm và một số người được coi là các bằng cấp cao, dính liền với chữ "SĨ-SƯ". Hoàng Minh Chính là bậc thầy "lừa đảo nghiệp chuyên" nên mới đóng vở kịch nói "phản tỉnh", được một số con cừu non "khoa bảng hải ngoại" bợ hết hai tay, nên từ "bậc thầy dạy cướp của giết người "thành" người tù lương tâm, nhà đấu tranh dân chủ, người yêu nước", rồi cái thời gian tích cực trong đảng cướp, cũng được trét phấn, bôi son, sơn phết thành "nhà cách mạng lão thành"; tức là ăn cướp mà cũng thành danh "cách mạng" thì mấy ai làm được như Hoàng Minh Chính? Theo văn từ, văn hóa của người Việt Nam, đối với những kẻ bất lương, gọi là THẰNG, chớ bao giờ gọi là ông ăn cướp, ông ăn trộm, ông móc túi, ông giựt hịu .... nhưng "người thầy dạy ăn cướp lừng danh" Hoàng Minh Chính lại được một số kẻ tâng bốc, méo mó văn hóa dân tộc, gọi là CỤ, như đảng Cộng Sản gọi tên tướng cướp Hồ Chí Minh là "Cụ Hồ" vậy. Tụ ngữ có câu:

"Chó đâu có sủa lỗ không.
Không THẰNG ăn trộm, cũng Ông ăn mày".

Năm 2005 được đảng cướp Cộng Sản Việt Nam dàn dựng cho xuất ngoại để tiếp tục "lừa đảo"; cái thành quả lừa đảo là "Tiểu Diên Hồng" được coi là sản phẩm hay là "SẢN PHẨM" chính trị "Made in Việt Cộng", bên trong sản phẩm là nhản hiệu cầu chứng "cờ đỏ sao vàng" làm cho một số người mua nhằm đồ giả, dỏm, nên có người ăn năn cũng đã muộn.

Nền kinh tế tập trung theo lý thuyết dạy "cướp của giết người" do Karl Marx dạy đã thành công thời gian đầu, lúc mà nhiều nước còn lạc hậu, sau đệ nhị thế chiến. Những tên tướng cướp từng châu lục, lãnh địa như Mao Trạch Đông ở Trung Hoa, Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Hồ Chí Minh ở Việt Nam .... nhưng càng ngày, khi nhân loại càng văn minh, tư tưởng dân chủ phát triển, làm cho chủ thuyết Karl Marx qua nền kinh tế tập trung vào tay những tên ăn cướp không còn được thế giới chọn để điều hành đất nước, với cái gọi là "nhà nước vô sản chuyên chính". Đó là thời kỳ cáo chung của cái nôi Cộng Sản Liên Sô, Đông Âu nào đầu thập niên 1990. Tuy nhiên, tàn dư đám ăn cướp "nghiệp chuyên" ở Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Lào vẫn "bám trụ" kiên trì chủ thuyết ăn cướp, trước sau như một qua sách vở cũ, được biên soạn thêm cho phù hợp với "tình huống thời thượng" đó là cái công thức: "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" để tồn tại, duy trì nghề ăn cướp; nếu không thì đảng cướp Cộng Sản bị đào thải và những tên tướng cướp có nợ máu với nhân dân sẽ phải ra hầu tòa án quốc tế về tội" diệt chủng" như Melosevic ở Nam Tư, Saddam Hussein ở Iraq.

Thế giới ngày nay biết rất rõ bản chất bất lương, bất nhân, tàn bạo của các chế độ độc tài do đảng cướp Cộng Sản điều hành, tuy nhiên vì quyền lợi mà họ tạm thời bắt tay giao thương, đợi đến khi chế độ cáo chung, lúc đó mới tính đến chuyện truy tố những tên "tướng cướp" ra tòa án quốc tế và đương nhiên biện pháp phong tỏa tài chánh được áp dụng để hoàn trả những món tiền ăn cướp của nhân dân từ lâu nay, phải trả về cho nhân dân. Đó là giải pháp mà các nước thường áp dụng: khi bắt được tên cướp, có bằng chứng, có nạn nhân truy tố, cứ thế mà đưa ra tòa kêu án. Nhiều tên tướng cướp Cộng Sản tích lũy tài sản hàng tỷ Mỹ Kim, chúng lại phải giao cho các nước "tư bản phản động" giữ, vì cái hệ thống tiền tệ, ngân hàng của chúng, ngay cả nước Cộng Sản lớn và mạnh nhất Trung Cộng, với tiền Yan, cũng không thể được tín nhiệm như "đô la Mỹ". Do đó, hầu như tất cả những tên cán bộ cao cấp nào của đảng Cộng Sản Việt Nam, khi trở thành tỷ, triệu phú, đều phải "vuốt ve" nơi giữ tiền; khi nhìn bề ngoài, có người cho là "thân Mỹ", nhưng thực ra thì không có người Cộng Sản nào "ưa Mỹ" cả, chúng luôn mong muốn "đánh sập đế quốc Mỹ" là bản chất, giáo điều của Karl Marx; Đảng Cộng Sản Việt Nam dù "ăn tiền đô Mỹ ngập mặt" mà chúng vẫn tuyên bố: "luôn trung thành tuyệt đới với chủ nghĩa Marx Lenin".

Nói một cách khác, tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam có hai bộ mặt: bên trong bám trụ Trung Cộng để được bảo kê quyền lực và được quan thầy "tấn phong" chức thái thú lâu dài; bên ngoài thì cố gắng "xạo ke Mỹ" để lấy tiền cho viện và cũng muốn được bảo vệ túi tiền. Do đó, tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sau khi qua Mỹ vào tháng 8 năm 2008, nay lại sang "yết kiến" thiên triều Trung Cộng vào tháng 10 năm 2008. Như vậy khi người Cộng Sản có tiền nhiều, thì họ phải biết bảo vệ túi tiền như "bảo vệ con ngươi trong tròng mắt", nên thời gian gần đây, nhìn cái gương của một số tên độc tài, kẻ khủng bố, tổ chức tài chánh có quan hệ đến Al Qaeda bị phong tỏa tài chánh, thế là chúng "giựt mình", gần đây, hiện tượng "rửa tiền" tại nhiều châu lục, nhất là lợi dụng sinh hoạt tự do tại các nước dân chủ. Thay vì bỏ nhiều tiền trong các trương mục ngoại quốc, cán bộ Cộng Sản Việt Nam rửa tiền bằng nhiều cách:

- Mua bất động sản tại Việt Nam bằng tiền Mỹ, vàng: chính vì rửa tiền theo cách nầy, mà có lúc nhà đất ở Saigon lên cao hơn cả địa ốc ở New York, có lúc 1 thước vuông giá 5 ngàn Mỹ kim.

- Mua bất động sản tại các quốc gia dân chủ, nhất là các thủ phủ, nơi cao giá. Đắc lực trong công việc "rửa tiền" phải nói đến mũi nhọn xung kích là đội ngũ du học sinh, lợi dụng được sang học hành, rồi tìm cách mang tiền của gia đình sang mua đất, nhà, thương nghiệp, nên nhiều "du sinh" đã có những "cơ ngơi" ở các nơi sang trọng, giá bạc triệu, đi học, đi chơi giải trí ở các sòng bạc Casino và nằm mai phục có gia đình "Việt kiều" nào ham tiền, làm đơn bảo lãnh theo diện hôn phối, được ở luôn, từ từ chuyển hết những món tiền ăn cướp vào đầu tư địa ốc và dùng "cơ sở" nầy để bảo lãnh cha mẹ sau khi ăn cướp thu được nhiều tiền, lúc bị thất thời, lớn tuổi, được bảo lãnh sang, hưởng trọn tài sản bất chánh.

- Mua các cơ sở kinh doanh, là các thương nghiệp hải ngoại. Từ đó tạo dựng hệ thống kinh tài, bảo lãnh người từ Việt Nam sang với tư cách thương gia, tăng cường đội ngũ nằm vùng, đón gió. Chính vì có tiền chùa quá lớn, nên người Cộng Sản sẵn sàng mua thương nghiệp với giá cao, những người ham lời sang dần các cơ sở, thế là một thời gian nữa, người Việt tỵ nạn có dịp "mua hàng hóa từ các cửa hàng do Việt Cộng làm chủ". Đó là lý do mà công ty Sandwich Lee do gia đình Lê Văn Chiêu, Lê Văn Hướng, trong dịp ăn tiệc cùng với tên chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết năm 2007, ra giá bán chi nhánh lên đến hàng triệu Mỹ Kim.

- Dùng tiền xây, mua cơ sở tôn giáo, điểm nóng từ mấy năm qua trong lãnh vực "rửa tiền" là chùa, nơi đầu tư mau lời nhất, lại chắc ăn. Ngoài ra rửa tiền chùa vào việc mua, cất chùa cũng là một sách lược trường kỳ, nhuộm đỏ cộng đồng trong tương lai. Chùa trở thành cái tiệm và la nơi bảo lãnh, giao thương, đặt cơ sở, cho bộ đảng, trốn thuế dễ dàng.

Nền kinh tế tập tung với bản chất bất lương từ nguốn gốc, được Hồ Chí Minh mang về áp dụng tại Việt Nam sau khi chiếm được chính quyền miền Bắc năm 1954 và 1975 ở miền Nam. Hồ Chí Minh từng tốt nghiệp trường ăn cướp gốc ở Liên Sô từ năm 1924, nên hắn rành lý thuyết, có lối định nghĩa "dân chủ tập trung" là gom hết tài sản vào tay, đoạn chìa khóa hắn giữ, tùy nghi tiêu dùng. Lý thuyết ăn cướp được đảng biến thành "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo" vẫn là cái vũ khí lý luận của đảng cướp. Do không làm mà vinh quang, hưởng hết tất cả của cải vật chất, nên hệ thống đảng, nhà nước không cần trả lương tương xứng cho cán bộ, đó là "kho lương nhân dân" nên hối lộ, tham nhũng là quốc sách "nuôi, trấn đảng" từ lâu nay.

Từ nền kinh tế bất lương, sản xuất cũng bất lương, từ đó hàng hóa các nước Cộng Sản đều không đạt "chất lượng" nên không được thế giới tin dùng, ngay cả những người Cộng Sản cũng không bao giờ tin những gì do các công ty quốc doanh làm ra, nên khuynh hướng xài hàng ngoại từ các nước "tư bản phản động" được tuyệt đại đa số cán bộ từ trung ương đến địa phương áp dụng trong việc mua sắm. Người Cộng Sản có lối làm việc "làm láo báo cáo hay" nên hàng hóa của họ có nhiều thứ đáng quan tâm: kém phẩm chất, mất vệ sinh, nhiều chất độc ..... xã hội chủ nghĩa cũng là nơi ăn cắp bản quyền, làm hàng nhái, hàng giả, dỏm, đó là vương quốc lừa đảo. Trung Cộng lợi dụng bang giao, đầu tư của các nước "tư bản thù nghịch" nên phát triển kinh tế nhanh, tuy nhiên nơi nầy lừng danh thế giới là "cái nôi làm hàng dỏm, giả, độc" từ đồ chơi trẻ con, hải thủy sản đến quần áo .... khắp nơi nơi đều là "độc hại".

Bản chất bất lương của "vương quốc lừa đảo Cộng Sản" với nguyên lý: "sống chết mặc bây, tiền vào như nước" nên hàng hóa từ Trung Quốc thường gây tác hại sức khỏe cho người tiêu thụ từ lâu nay. Tình trạng các kiện hàng bị hoàn trả, tiêu hủy từ Âu, Mỹ châu ....l à báo động cho người tiêu thụ và có khả năng làm hao thâm thủng ngân sách y tế, khi có nhiều người dùng phải hàng "made in China" bị bịnh, hay nguy hại hơn là ung thư. Việt Nam cũng là "vương quốc chư hầu lừa đảo" nằm trong hệ thống Trung Cộng, nên lối làm việc phải "rập khuôn" theo quan thầy, từ nhiều năm qua, tình trạng thức ăn bị trộn chất Formal (dùng trong nhà xác) tìm thấy ở bánh phở, hủ tiếu, bánh tráng .... các chất độc nằm trong thủy hải sản và việc làm biến chế "kinh rợn" với đội quân ruồi, vi trùng, nơi sản xuất dơ dái; đó là những lý do khiến cho nhiều người Việt tỵ nạn, dù có yêu mến quê hương cách mấy như "chùm khế ngọt" cũng ơn ớn khi nhìn thấy các sản phẩm đề "made in Vietnam". Cho nên, trong thời gian gần đây, nhiều tiệm thực phẩm Á Châu có đặt hàng mua từ Việt Nam đều bán không chạy, kể cả bánh mứt.

Mới đây, sau Olympic, Trung Cộng lại làm cho toàn thế giới hốt hoảng khi sữa của họ có pha trộn chất độc Melamine, dùng trong nhựa dẻo, phân bón. Ngay tại Hoa Lục, có 4 trẻ bị chết, 54 ngàn em bị bị sạn thận. Lập tức, khắp nên trên địa cầu, nhiều sản phẩm sữa "made in China" bị lấy ra khỏi kệ các siêu thị, nhất là các nước như Nhật, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân và Úc cũng có. Tuy nhiên Việt Nam là "chư hầu" của Trung Cộng, nên nhiều hàng hóa "thông thương" như thứ "tình hữu nghị, núi liền núi, sông liền sông, đất liền đất, đời đời bền vững như răng với môi". Chắc chắn là lượng sữa Trung Cộng xâm nhập vào Việt Nam từ lâu, thế mà đảng không dám la, ngay cả công dân của mình là kỳ sư Trần Trung Lưu, bị một đám du khách Trung Cộng đánh chết tại một quán ở thủ đô Hà Nội, mà công an không dám đụng tới. Nhưng khi giáo dân ở Thái Hà, Hà Nội cầu nguyện ôn hòa tại vùng đất bị ăn cướp từ thời thằng chó đẻ Hồ Chí Minh, thì công an lại đàn áp, dàn dựng cho du đảng quậy phá, đe dọa. Như vậy đảng, nhà nước, công an Việt Cộng là lũ "KHÔN NHÀ DẠI CHỢ" chỉ có "mặt mạnh" là ăn hiếp dân, còn đối với Trung Cộng thì quì mọp, tôn kính như ông cố nội. Việt Nam từng ngậm miệng, căm như hến từ lúc Trung Cộng dạy bài học năm 1979, lúc đó còn có quan thầy Liên Sô. Nhưng ngày nay "mẫu quốc Trung Cộng là một, đảng và nhà nước tay sai là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi", nên Việt Nam càng không dám hó hé, dù bị Trung Cộng chơi sỏ, chiếm quần đảo, lấn lướt đất đai, mang cả hàng giả, tiền giả, đổ dỏm, độc sang giết dân mình.

Bản chất bất lương của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa càng ngày càng để lộ ra nhiều điều mà cả thế giới đều quan ngại, ghê trợn, nên dần dần, hàng Trung Cộng mất tín nhiệm dù giá rất hạ trên thị trường khi hàng hóa đủ dạng không còn nhiều người tiêu thụ, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy không an toàn, an tâm làm ăn; rủi sản phẩm do công ty mình làm ra gây bịnh tật, ung thư thì khó tránh khỏi luật bồi thường quốc tế (như công ty Tân Tây Lan Fronterra, có 43% phần hùn với hãng sữa Trung Cộng, cố né tránh khi vụ melamine bùng nổ vào 11 tháng 9 năm 2008). Khi các công ty rút ra khỏi, là điều mà đảng và nhà nước Bắc Kinh lo sợ, đó là ngày tàn của một chế độ lừa đảo: lợi dụng kinh tế thị trường để làm hàng giảm dỏm.

Trương Minh Hòa



Truyền Thông Hầm Chông

Đỗ Thái Nhiên

Đầu tháng 08 năm 2007, ngay sau khi nhận được chức bộ trưởng Thông Tin và Truyền Thông, ông Lê Doãn Hợp đã “làm quen” với báo chí dưới chế độ Cộng Sản bằng cách nói lên một sự thực vô cùng sống sượng. Sự thực rằng:

“Qui chế báo chí chính là để chúng ta tự do hơn, lâu nay chúng ta quản lý theo mệnh lệnh, chúng ta hoàn toàn tự do, nếu đi đúng theo lề đường bên phải.” (Hết lời dẫn)

Không cần giải thích dông dài, mọi người đều thừa biết lề phải là lề đòi hỏi nhà báo vừa viết báo vừa tìm moi cơ hội đê nhét vào giữa đoạn tin, giữa bài báo những sáo ngữ có nội dung hết lòng ca tụng đảng và nhà nước. Ngược với lề phải là lề trái. Lề này dành riêng cho những nhà báo độc lập và bất khuất kiểu nhà báo Điếu Cày, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, luật sư Lê Thị Công Nhân, bác sĩ Phạm Hồng Sơn và vô số nhà dân chủ khác … Dọc theo lề trái là công an văn hóa, là tòa án luật rừng, là đủ các loai lao tù Cộng Sản. Tuy nhiên, dưới chế độ CSVN truyền thông không chỉ đơn giản bao gồm hai luồng: lề phải và lề trái. Chế độ Hà Nội còn cài đặt vào mạng lưới truyền thông của họ một luồng truyền thông thứ ba hiểm độc hơn nhiều lần, dày đặc hơn nhiều lần, đó là truyền thông hầm chông.

Hầm chông là kỹ thuật giết người rất bất ngờ và hiểm ác mà CSVN thường áp dụng trong chiến tranh Việt Nam. Hầm chông có chiều sâu cao quá đầu người, diện tích khoảng 1 hoặc 2 thước vuông, hoặc rộng hơn nữa tùy theo địa hình và nhu cầu nơi thiết lập hầm bẫy. Đáy hầm cắm sẵn vô số cây sắt hoặc tre có đầu vót nhọn và sắc hướng thẳng lên trời. Miệng hầm đựợc ngụy trang bằng một đoạn đường mòn hiền hòa, một khoảng cỏ xanh thơ mộng. Khi rơi vào hầm chông, nạn nhân bị các loại cây nhọn đâm từ bàn chân lên tới ngực. Chết đau đớn và tức tưởi.

Bây giờ hãy nói về những tương đồng giữa hầm chông du kích và hầm chông truyền thông. Cả hầm chông du kích lẫn hầm chông truyền thông đều dùng âm mưu hiểm ác để đẩy con người đi vào cõi chết Hầm chông du kích giết chết thân xác của nạn nhân. Hầm chông truyền thông giết chết khả năng nhận định của người dân về phải-quấy, hư-thực. Nó tạo ngăn cách trầm trọng trong lòng dân tộc. Nó làm cho người dân rất khó khăn trong việc phân biệt bên này là dân chủ nhân bản, bên kia là độc tài gian ác.

Ngày 16 tháng 09 năm 2008, báo Công An Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của bộ Công An CSVN đã đăng tải một bài phỏng vấn được gọi là ý kiến của giáo dân nhằm lên án các linh mục, tu sĩ, và giáo dân Công Giáo trong vụ đòi lại đất ở Thái Hà. Thế nhưng, ông Vũ Kim Mỹ, thẩm phán tòa án huyện Kim Sơn, một trong những người mà bài phỏng vấn kia có nêu tên lại viết văn thư xác nhận trước công luận rằng: “Tôi (Tức là thẩm phán Vũ Kim Mỹ) khẳng định không nói gì đến những ngày qua ở Thái Hà, và không đả động gì đến việc đòi xử nghiêm minh, cũng không nói tới Chúa trong câu trả lời”. (Hết lời dẫn)

Rõ ràng là báo Công An Nhân Dân đã bịa ra những điều mà ông Vũ Kim Mỹ không hề nói. Bịa tin có nghĩa là bố trí tin tức thành một bẫy sập nhằm gài cho dư luận rơi vào hoàn cảnh phải hiểu sai tình hình và sự hiểu sai này có lợi cho vai trò thống trị xã hội của đảng CSVN. Đó là truyền thông hầm chông.

Ngày 20/09/2008 trong khi thảo luận với UBNDTP Hà Nội, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt có nói một đoạn như sau:

“Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ! Chúng tôi mong muốn mình mạnh lên.” (Hết lời dẫn)

Vin ngay vào câu nói “Chúng tôi rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam” toàn bộ hệ thống truyền thông của Hà Nội đã đồng loạt và ầm ỉ lên án Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã miệt thị dân tộc Việt Nam đã coi thường tổ quốc Việt Nam. Hành động chặt đầu, chặt đuôi câu nói để kết tội một người trong hồ đồ và huyên náo hẳn nhiên không phải là một hoạt động truyền thông nghiêm chỉnh và khoa học. Muốn xác định chân ý nghĩa câu nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, người đi tìm chân lý cần tiến hành công việc khảo sát theo ba bước:

- Bước thứ nhất: Trước khi nói tới hộ chiếu Việt Nam, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và UBNDTP Hà Nội đã nói với nhau những gì?

Như chúng ta đã biết, sau 1954 cũng như sau 30/04/1975 CSVN đã cưỡng chiếm nhà đất của nhân dân cũng như của các tôn giáo theo phong cách thảo khấu: đuổi chủ nhà, chủ đất ra khỏi bất động sản của nạn nhân. Các đương sự đi đâu, đảng không cần biết. Nếu khiếu nại, đảng sẽ cho đi “học tập cải tạo” hoặc đi kinh tế mới. Việc tịch thu tài sản của nhân dân hoàn toàn không tuân theo bất kỳ luật lệ nào, không do bất kỳ văn thư hành chánh hay tư pháp nào.

Ngày nay, tình hình đã hoàn toàn thay đổi. CSVN phải đầu hàng kinh tế thị trường. Lãnh đạo đảng trở thành đại gia đỏ, họ không còn đại diện cho quần chúng vô sản nữa. CSVN phải nhìn nhận vai trò của luật pháp trong khi luật pháp của xã hội dưới ách cai trị của Hà Nội đang lâm cảnh trống đánh suôi, kèn thổi ngược.

Hiện tình Việt Nam chính là lúc hợp thời để người dân chất vấn nhà cầm quyền Hà Hội về căn bản pháp lý của những hành động cưỡng chiếm nhà đất do CSVN thực hiện nhiều thập niên về trước. Cuộc nói chuyện giữa Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và UBNDTP Hà Nội không ra ngoài nội dung của những chất vấn vừa kể. Nhằm tránh né cuộc chất vấn không có câu trả lời kia ông chủ tịch UBNDTP Hà Nội đã “dịu giọng” gợi ý Tòa Tổng Giám Mục hãy nói tới vấn dề đất đai tại tòa khâm sứ bằng tình chứ không bằng lý. Lý ở đây dĩ nhiên là pháp lý, là luật pháp.

- Bước thứ hai: ý nghĩa đích thực của điều được gọi là “Rất là nhục nhã khi phải cầm cái hộ chiếu Việt Nam”.

Đáp lời kêu gọi xem tình nặng hơn luật pháp của UBNDTP Hà Nội, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt chủ trương: “Về phương diện pháp luật, chúng ta phải làm theo pháp luật, thì cái gì cũng phải có cơ sở pháp lý” (Hết lời dẫn).

Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt giải thích thêm: “Muốn có cái hài hòa trong cái mối thống nhất thì đâu chỉ có cái tình mà phải có lý nữa” .Tổng Giám Mục nhấn mạnh: “Chúng ta phải sống theo pháp luật” (Hết lời dẫn).

Xã hội sống không theo luật pháp có nghĩa là xã hội đầy dẫy những người phạm pháp. Tại sao Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt than phiền “Đi đâu cũng bị soi xét” ! Phải chăng “soi xét” để tìm cho ra mức độ nghèo yếu của người cầm hộ chiếu Việt Nam? Phải chăng “soi xét” để lượng định tầm vóc chia rẽ giữa người dân và nhà cầm quyền Việt Nam?

Thưa rằng: Không phải như vậy! Soi xét chỉ để lùng kiếm xem những người cầm hộ chiếu Việt Nam có buôn lậu hay không? Có làm điều gì bất hợp pháp hay không? Đây chính là lý do đích thực khiến Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt mạnh mẽ cảnh báo cho mọi người Việt Nam đặng biết: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét”.

Bước thứ ba: Muốn cảm thấy hãnh diện khi cầm hộ chiếu Việt Nam, muốn đi đâu cũng không bị soi xét, người Việt Nam phải làm gì?

Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt phát biểu ý kiến như sau: “Tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thực sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.” (Hết lời dẫn)

Muốn đất nước lớn mạnh ư? TGM Ngô Quang Kiệt trả lời: Chúng ta không phải chỉ có tình cảm mong muốn là được mà phải có lý luận xây dựng thật vững chắc trên nền tảng pháp lý”. (Hết lời dẫn)

Nói tóm lại, muốn lớn mạnh, muốn hãnh diện là người Việt Nam thì dân tộc Việt Nam, nhất là nhà cầm quyền Việt Nam, phải sống theo luật pháp. Luật pháp mang lại giàu mạnh và đoàn kết. Luật pháp mang lại công lý và hòa bình. Như vậy, rõ ràng là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã khởi đi từ vấn đề căn bản pháp lý của lô đất Tòa Khâm Sứ. Sau đó, dùng “Câu chuyện hộ chiếu Việt Nam” để chuyển ý thành quyết tâm đòi hỏi công lý và hòa bình cho toàn khối nhân dân Việt Nam, cho trọn vẹn dòng sống Việt. Đó là tất cả ý nghĩa nghiêm chỉnh và đích thực nằm trong câu nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt nhân khi nhắc tới hộ chiếu Việt Nam.

Bản tin về Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và về thẩm phán Vũ Kim Mỹ là hai trong vô số bằng chứng cho thấy guồng máy truyền thông của CSVN bao giờ cũng sẵn sàng gán cho một người nào đó đã nói những lời mà đương sự không hề nói, hoặc cắt đầu, cắt đuôi câu nói của một người bất đồng quan điểm với chế độ Hà Nội nhằm kích động dân chúng chống đối người này. Đây là loại truyền thông gài bẫy. Loại truyền thông gài bẫy này hiểm ác không khác gì hầm chông. Vì vậy nó được gọi là truyền thông hầm chông. Như vậy dưới ách cai trị gian ác của CSVN, hoạt động truyền thông được chia thành ba luồng.

Luồng một bao gồm những ngòi bút ngoan ngoãn phục tùng độc tài và tham ô. Luồng một được CSVN gọi là truyền thông lề phải.

Luồng hai bao gồm những ngòi bút độc lập, yêu chuộng tự do dân chủ. Luồng hai bị CS gọi là truyền thông lề trái. Vì vậy những ngòi bút luồng hai là khách hàng quen thuộc của ngục tù bao la dưới chế độ CS.

Luồng ba là luồng truyền thông hầm chông. Luồng này chuyên bịa đặt tin giả, bưng bít tin thật, chặt đầu chặt đuôi tin tức quan trọng nhằm đầu độc dư luận hoặc lèo lái dư luận suy nghĩ theo hướng có lợi cho độc tài tham ô.

Nhờ có sự tham dự của tư tưởng giới, con người là một loài động vật có khả năng và có nhu cầu truyền thông. Truyền thông giữa người dân với người dân. Truyền thông giữa người dân với nhà cầm quyền. Truyền thông giữa cộng đồng dân tộc với cộng đồng thế giới. Truyền thông là cội nguồn của cảm thông và hợp tác, của hòa bình và công lý. Tuyền thông của CSVN, đặc biệt nhất là truyền thông hầm chông đã thực sự giam cầm người dân trong môi trường mù loà, môi trường xa cách ánh sáng văn minh hàng vạn dặm. Muốn Việt Nam tiến lên dân chủ và thịnh vượng, hành động tiên quyết của nhân dân Việt Nam là phải nhanh chóng giải thoát người dân ra khỏi nanh vuốt của truyền thông hầm chông. Có như vậy người dân mới đủ hiểu biết chân xác để nhận ra tính chất tuyệt hảo của thể chế tự do dân chủ. Có như vậy người dân mới tích cực dấn thân vào con đường phá vỡ tảng đá độc tài và tham ô hiện đang đắp mô trên dòng sử Việt.

Đỗ Thái Nhiên


Friday, October 3, 2008

Ðừng đánh sai mục tiêu

Nguyễn Ðạt Thịnh

Trong cuộc thắp nến tối thứ Sáu 26-9, của 10,000 người Việt tại Quận Cam yểm trợ cuộc đấu tranh tại Giáo Xứ Thái Hà và Toà Khâm Sứ, dân biểu Trần Thái Văn cho biết ông và phái đoàn Nam Cali đã lấy được hẹn và tuần tới sẽ lên đường đến Washington DC gặp các đại diện chính phủ Hoa Kỳ và đại diện của Vatican để tường trình và yêu cầu đặt Việt Nam trở lại danh sách "các nước cần quan tâm đặc biệt" về tự do tôn giáo.

Thiện chí của dân biểu Văn vô cùng đáng ca ngợi, và hiệu năng làm việc nhanh chóng, lấy hẹn với hành pháp Hoa Kỳ ngay trong tuần sau, cũng là điều cử tri gốc Việt phải tri ân.

Tuy nhiên, ông dân biểu nên tái xét điều ông dự định làm. Ý định của ông có thể cao quý, nhưng việc ông làm không yểm trợ cho cuộc đấu tranh Thái Hà, phố Nhà Chung, và đường Kỳ Ðồng vì ông đánh sai mục tiêu.

Nếu theo dõi các cuộc đấu tranh này, dân biểu Văn đã hiểu mục đích đấu tranh không phải là đòi hỏi quyền tự do tôn giáo mà là đòi quyền tư hữu đất đai cho nguời Việt Nam, điều mà Việt Cộng không thể nhượng bộ.

Trong đêm thắp nến chính linh mục Trần Công Nghị cũng đã tóm lược tình hình đấu tranh tại Hà Nội. Linh mục Nghị cho biết cộng sản Việt Nam đề nghị Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt lựa chọn một trong 3 khu đất khác tại Hà Nội, nhưng Tổng Giám Mục đã khẳng khái từ chối với lý do là Giáo Phận Hà Nội đòi lại đất tư hữu của mình chứ không xin đất. Cha Nghị cho biết cuộc đấu tranh tại Thái Hà và Tòa Khâm Sứ là đòi công lý, đòi quyền tư hữu chứ không phải chỉ là sự đòi đất thuần túy.

Nếu theo dõi cuộc đấu tranh trong nước, hẳn dân biểu Văn cũng biết Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn viết thơ phúc đáp Hà Nội, trong thư có câu, “… luật đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.”

Ông Văn đi can thiệp với Hoa Thịnh Ðốn và Vatican để yểm trợ cho cuộc đấu tranh của giáo dân quốc nội mà không hiểu mục đích đấu tranh. Ông đòi bộ ngoại giao Hoa Kỳ bỏ Việt Cộng trở vào cái cũi CPC, việc giáo dân quốc nội không đòi, và cũng là việc ông xô một cánh cửa đã được bộ ngoại giao Mỹ xác nhận là không mở, ít nhất trong một năm nữa.

Mỗi năm một lần, bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra một bản tường trình về tình hình tự do tôn giáo trên toàn thế giới và nêu tên những quốc gia không tôn trọng tự do tôn giáo. Hai tuần trước, ngày 19 tháng Chín, Hoa Kỳ đã công bố bản tường trình về tự do tôn giáo trên thế giới; và đại sứ lưu động đặc trách tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, ông John V. Hanford. nói, “Chúng ta đốt lên một ngọn nến -- ngọn nến (là bản tường trình) dầy 800 trang-- rọi sáng mọi bất công, ngọn nến chúng ta tin tưởng là sẽ khuyến khích công lý và một tình trạng tôn trọng tự do tôn giáo hơn nữa trên khắp thế giới.”

Bản tường trình 800 trang đó chỉ ghi tên 8 quốc gia không tôn trọng tự do tôn giáo là Trung Cộng, Miến Ðiện, Eritrea, Iran, Bắc Hàn, Saudi Arabia, Sudan, và Uzbekistan.

Ðược hỏi về trường hợp Việt Nam, ông Hanford nói cuộc đấu tranh tại Việt Nam không đòi hỏi tự do tôn giáo mà đòi quyền sở hữu đất đai. Ông còn lập lại lập luận của Hà Nội cho rằng miếng đất phô Nhà Chung phức tạp vì có nhiều vấn đề; ''Một trong những vấn đề là tài sản được sang tay nhiều lần”, Hanford nói: “Trong trường hợp miếng đất nhiều người biết đến ở Việt Nam, tôi nghĩ trước đây của người Phật giáo sau nhờ người Pháp mới thành của người Công giáo cho nên rất phức tạp.”

Hanford nói “tôi nghĩ”; nhưng có thật chính ông nghĩ không? Hay Việt Cộng mớm lời cho ông.

Tuần sau, dân biểu Văn bay lên Hoa Thịnh Ðốn để vận động một việc chỉ có thể xẩy ra sang năm, khi bộ ngoại giao Hoa Kỳ lại tái xét danh sách CPC cho năm 2009. Chuyến bay yểm trợ của ông làm tôi nhớ đến những chuyến bay của các phi công Hoa Kỳ yểm trợ bộ binh Việt Nam trên chiến trường ngày xưa.

“Lạy trời cho con nhà Mỹ nó sáng suốt đừng đánh sai mục tiêu”, là câu tôi thường nghe các bạn đồng đội của tôi nói trong lúc khu trục phản lực cơ Mỹ gầm thét trên bầu trời. Ðánh sai mục tiêu không những vô ích mà đôi khi còn tạo ra cảnh “chết vì hỏa lực bạn.”

Nguyễn Ðạt Thịnh



Thông Cáo Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội Việt Nam


    DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM
    Tu viện Thái Hà
    180/2 Nguyễn Lương Bằng
    Đống Đa, Hà Nội
    Đt: 04. 8511 239
    Hà Nội ngày 15 tháng 9 năm 2008


    THÔNG CÁO

    VỀ VIỆC TRỢ GIÚP VÀ ĐÓN NHẬN TIỀN BẠC, VẬT CHẤT

    Để Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không bị hiểu lầm, để sứ mạng làm chứng cho công lý và sự thật của toàn thể quý linh mục, tu sĩ và quý ông bà anh chị em giáo dân trong ngoài Giáo xứ không bị tổn hại, Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội chúng tôi xin thông cáo:
    1. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không xin bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong ngoài nước trợ giúp tiền bạc, vật chất.

    2. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không uỷ nhiệm cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong ngoài nước tổ chức quyên góp tiền bạc, vật chất.

    3. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không nhận bất cứ sự trợ giúp tiền bạc, vật chất nào từ bất cứ cá nhân hay tổ chức nào gửi về từ ngoại quốc cách trực tiếp hay gián tiếp.

    Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội rất cảm động trước tấm lòng yêu thương bác ái của quý vị ân nhân trong ngoài nước đã vì tình thương mà tự nguyện quan tâm, giúp đỡ chúng tôi, đặc biệt là giúp đỡ các nạn nhân của các vụ trấn áp.

    Tuy nhiên trong hoàn cảnh tế nhị và phức tạp hiện nay, Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội chúng tôi chỉ xin được đón nhận từ quý vị ân nhân ở ngọai quốc những lời cầu nguyện tha thiết và sốt sắng mà thôi.

    Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị ân nhân. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ban cho quý vị và mọi người thân của quý vị muôn ơn lành.

    Giáo xứ Thái Hà - Tu viện DCCT Hà Nội
    Phát ngôn viên
    Lm Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT