Wednesday, October 1, 2008

Bùi Tín: Một Lỗ Đen Thảm Họa !


Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)


Mấy ngày qua, đặc công đỏ Bùi Tín cùng Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện … được SBTN đưa lên để ba hoa chích chòe. Đây là hai thành viên sáng giá trong đoàn kịch "Tiểu Diên hồng", do Cuội Hoàng minh Chính, được lệnh Phan Diễn (nguyên thường trực ban bí thư việt-gian-cộng-sản, giống vị trí của Trương tấn Sang hiện nay), đem kịch bản sang Mỹ để cho ra mắt Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản (xin tham khảo lá thư của Hoàng Tiến, một chiến hữu thân cận của Chính, mô tả ngày Chính lên đường xuất ngoại). Vở kịch trong lộ trình của nghị quyết 36 của việt-gian-cộng-sản bị thất bại thảm hại. Các diễn viên vào núi thao dợt lại lần cuối, chưa kịp công diễn đã bị công chúng chửi cho te tua. Thế là mạnh ai nấy chạy té đái ra núi. Bùi Tín nhanh như con gián, dzọt về Paris. Còn lừa- sĩ-Nguyễn chí Thiện, ngỡ rằng sắp thành nhân vật Hồ-việt-gian, trong cuộc họp ở Tân Trào (8-1945), ra khỏi núi sẽ giữ ghế "lãnh tụ tối cao" của Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản, thay mặt Cộng đồng sẽ họp bàn tròn với "Phe đổi mới" hay còn gọi là "Phe thân Mỹ" trong nội bộ tổ chức việt-gian-cộng-sản. Nội dung cuộc họp dù che đậy kiểu gì thì cũng chỉ là "Quên quá khứ, Xóa bỏ hận thù" tiến tới "Hòa giải, Hòa hợp". Như thế có nghĩa là Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng sản sẽ bỏ hai chữ TỊ NẠN đi như tụi phở bò và tên già mất nết, trí thức Ngựa, tức Ls Trần thanh Hiệp đã "đề xuất". Sau đó sẽ lập 4 quỹ tình thương như đặc công đỏ Bùi Tín đề nghị, và bố của Trúc Hồ (chủ nhân SBTN và ASIA) cũng như Vũ thành An đã và đang tích cực hưởng ứng, cũng như những tên công an đầu trọc và áo trùng thâm, và nhiều thằng nhiều con vong bản khác. Đoàn viết Hoạt thì vận động để Cờ Vàng cho cờ đỏ chung chỗ; Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh thì KHUYÊN con em người tị nạn việt-gian-cộng-sản HÒA ĐỒNG với du sinh, con em TƯ BẢN ĐỎ! Và những trò hề rẻ tiền của bè lũ Phan nhật Nam, Chu tất Tiến và nhiều kẻ nội gián khác trong Cộng đồng đang dần dần bị bóc mẽ, để quý bạn đọc thấy những bộ mặt chuột khi cháy nhà sẽ như thế nào!

Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện đã và đang bị lột mặt nạ. Nhưng lũ nằm vùng cũng như một số mắt quáng gà và bị bệnh "nghễnh ngãng lý luận" cứ giả vờ lái chuyện nọ lộn vào chuyện kia. Mọi người đưa ra tang chứng rất rõ ràng, rất cụ thể mà ai ai có thiện chí và có óc phán đoán khách quan, đều có thể nhận ra Nguyễn chí Thiện, hiện nay cư ngụ tại Mỹ, đi theo diện HO, KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ LÀ TÁC GIẢ TẬP THƠ VÔ ĐỀ. Cái gọi là GIẢ nghĩa là MẠO NHẬN LÀ TÁC GIẢ TẬP THƠ VÔ ĐỀ. Nếu có muốn "cãi" hộ Thiện thì nên đặt việc phản biện ở cái tội ĐẠO VĂN (là ĐÚNG hay SAI; nếu sai thì sai ở chỗ nào). Còn giả ngây ngô để CHE mắt thiên hạ thì KHỜ lắm, như con đà điểu rúc đầu vào cát và cứ tưởng không ai nhận ra mình. Thật tội nghiệp!

Hôm nay, Nam Nhân tôi xin một lần nữa lật mặt tên đặc công đỏ Bùi Tín, để quý bạn đọc thấy cái chất lưu manh việt-gian-cộng-sản trong đầu óc của hắn, chưa bao giờ phai nhạt mà chỉ lưu manh hơn mà thôi. Xin được dẫn chứng qua bài "Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen" của Bùi Tín, có đăng trên tờ lá cải danchimviet.com và trên tờ lá đa ánh dương của Thị Nở Bút vàng…khè! (1)

Bùi Tín chỉ làm cái việc tóm lược tất cả những sai phạm mọi mặt của tập đoàn việt-gian-cộng-sản, mà những sự việc đó đã được Bạch Hóa ngay chính trên báo chí của việt-gian-cộng-sản. Cái lưu manh trong nghề đặc công đỏ giúp Bùi Tín biết rằng phần nhiều mọi người bận làm ăn, lo cho con cái, gia đình, ít có thời gian cập nhật tin tức hàng ngày, nên cứ nghĩ đó là những điều còn trong bí mật, bị Bùi Tín phanh phui ra. Lũ nâng bi cho Bùi Tín hãy thử tìm xem trong bài viết nói trên của Bùi Tín có một thông tin nào chưa xuất hiện trên báo chí của việt-gian-cộng-sản không?

Lồng giữa những thông tin đã bạch hóa đó, Bùi Tín đưa người đọc bị ngấm nhè nhẹ cái nọc độc mà hắn đã viết trong các sách của hắn nhằm PHỦ NHẬN TRÍ THỨC QUỐC GIA (tức ở VNCH), ĐỀ CAO cái gọi là TRÍ THỨC việt-gian-cộng-sản (tức trí nô) và vẫn coi ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN là ƯU TÚ!!!???

Thí dụ 1: Trong cuốn Mây mù thế kỷ của Bùi Tín, hắn viết nơi trang 54 như sau: "Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài-gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng "Nếu chúng tôi chiến thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn."Ngay một số trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy lãnh đạo của chế độ VNCH trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhiều người trước đây đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với chúng tôi: "Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chể độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ ấy đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ chạy ra nước ngoài." Ở trong nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cũ, cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người "quốc gia" ở nước ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước, trong khi phần đông họ chỉ cổ vũ hận thù và một thời gian còn có không ít người chủ trương dùng bạo lực."

Thí dụ 2: Ở Mây Mù thế kỷ, trang 89, Bùi Tín viết như sau:"Tôi xin nói thật rằng những người "quốc gia"chưa tạo được niềm tin đối với đồng bào trong nước. Bà con ta đại khối gần 80 triệu người trong nước, tuy bị bộ máy tuyên truyền trong nước khống chế, điều kiện hóa, đã qua kinh nghiệm bản thân, hiểu được sự thật, chán ngấy với sự lãnh đạo cổ lỗ của đảng cộng sản, nhưng vẫn chưa được thuyết phục bởi người"quốc gia". Có người tuy biết rõ sự thật, hiểu tình hình đất nước, nếu phải lựa chọn, họ vẫn lựa chọn những người "cộng sản" hơn là người "quốc gia". Không phải họ mù quáng đâu mà họ thận trọng. Họ cần tìm hiểu, đánh giá qua thực tế đã. Họ băn khoăn tự hỏi: những người quốc gia từng cầm quyền ở miền Nam, từng có cơ hội biểu lộ khả năng kinh bang tế thế, sao lại gắn mình với thực dân Pháp? sao không xây dựng được miền Nam cho tốt đẹp? sao lại thất bại đến thế trong chiến tranh? Nay để họ cầm quyền thì sẽ ra sao? Họ đã nhìn lại mình ra sao? Hơn nữa họ hận thù như vậy thì họ sẽ trả thù như thế nào?"

Quan điểm chính trị của Bùi Tín, trên giấy trắng mực đen thật rõ ràng nhé, không có ai chụp mũ cả, vì "chụp mũ" là nghề đảng truyền của việt-gian-cộng-sản, hễ đuối lý thì chụp cho cái nón "phản động" hoặc bôi đen bằng những chuyện bịa đặt, không chứng cứ (như kiểu mấy thằng "Lao Ái của mụ Nứng"). Nghĩa là KHINH chính khách, tướng lãnh, trí thức VNCH như mẻ. Cho nên trong bài "Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen", Bùi Tín chỉ dẫn chứng từ nhận xét của một tên cuội "đổi mới", có cái gốc ngụy quân việt-gian-cộng-sản như hắn, coi là một hình ảnh tượng trưng cho "trí thức" của cái gọi là "trí thức xhcn" để mà bốc thơm. Đó là Nguyễn Trung, được Bùi Tín tô vẽ như sau:"Ông Nguyễn Trung nguyên là cán bộ quân đội nhân dân, chuyển ngành sang bộ ngoại giao, làm đại sứ tại Bangkok (Thái Lan) rồi về hưu. Ông là một trí thức hiểu biết khá rộng, có tấm lòng với đất nước, có tư duy độc lập, không a dua nói theo đuôi để giữ mình."

Xin lưu ý quý bạn đọc rằng, chỉ vài ba dòng, Bùi Tín đã có thể ca ngợi cùng một lúc: nào là tầng lớp sĩ quan ngụy quân việt-gian-cộng-sản cũng trí thức lắm đấy; nào là ở dưới sự cai trị của việt-gian-cộng-sản mà trí thức cũng giữ được tư duy độc lập (?); không a dua nghĩa là không cần quan thầy, thế mà có sao đâu, vẫn được trọng dụng (làm đại sứ kia mà); vẫn thoải mái góp ý với "đảng"(việt-gian-cộng-sản), nghĩa là có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng đấy chứ (?).

Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, bảo vệ môi sinh…ở VN thì biết bao bài viết của người Việt ở hải ngoại như Ts Nguyễn phúc Liên, Mai vĩnh Thăng và cả hai chí hữu Tiểu Diên hồng của Bùi Tín là Ngô nhân Dụng, Âu dương Thệ… xem ra bị Bùi Tín cho là chưa xứng được chiếu cố tới? (mặc dù cả hai làm "ngựa bình kho", trò chơi của con nít, theo Tín vào núi họp hội đồng chuột để lập tổ chức họp bàn tròn với mèo cộng sản!).

Tại sao vậy? Bởi quan điểm về "nhân tài ưu tú" của Bùi Tín như hắn đã trình bày trên giấy trắng mực đen, là: "Có thể có một Góoc-ba-chốp nào đó, nhưng lại ở ngoài bộ chính trị". Và Bùi Tín khẳng định:"Sớm muộn sẽ có những con người như đã nói ở trên. Ở ngoài đảng khó có những con người như vậy. Bởi vì như tôi đã nói, ở miền Bắc từ trước đến nay, hầu hết những người ưu tú, hiểu biết, hoặc là ít nhiều tự nguyện, hoặc là bị thúc ép vào đảng." (Mây mù thế kỷ, trang 76). Và, Bùi Tín đã nói toạc móng heo rằng:"Cả trong quân lực VNCH và bây giờ họ có những quan điểm tiến bộ gần gũi với tôi."(Bùi Tín không nêu rõ tên nên không biết là ai: Lý tòng Bá hay Toàn phong Nguyễn xuân Vinh, chí hữu thân cận của Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện, hay Nguyễn cao Kỳ???). Cuối cùng Bùi Tín khẳng định: "Chính chúng tôi, một số ít ỏi ở ngoài nước (chắc là đám ngựa và đà điểu theo Tín vào núi tập kịch Tiểu Diên Hồng) cùng với số anh em dân chủ trong nước đang ngày một đông đảo (chắc gồm tên ăn cắp xe của bạn gái và chôm tiền của dân oan là "nhà báo tự do" Nguyễn khắc Toàn; tác giả "chủ nghĩa Hồ chí…bất Minh" là "giáo sư" chưa học qua hệ phổ thông cấp 3, Trần Khuê, sao khuê của nhà văn Tưởng năng Tiến, và hiện nay Khuê còn là tổng thư ký của đảng dân chủ 21; "viện sĩ mua 200USD", chiến sĩ thi đua lao động khi còn cắp cặp cho các quan Nga-xô ở tổng cục địa chất, bạn thân của Trần Độ, Trần đức Lương, có bố đẻ là Mỹ gốc Việt, bạn thân của Trần đại Sơn, trưởng ban ám sát của Hồ việt-gian, đó là Nguyễn thanh Giang, kẻ lên tiếng bảo vệ báo ViệtWeekly; và có thể cả Lm Phan văn Lợi, người tin là nhiều đảng viên cộng sản tốt, và cũng đang kiên nhẫn mút chỉ chờ một Yeltsin Việt Nam! Đại loại là những tên cuội dân chửi mèo mả gà đồng như vậy!!!), sẽ tạo nên một lực lượng đối lập xây dựng (chắc là kiểu canh tân cách mạng đảng, canh tân phở bò sang phở đà điểu hoặc phở chó) không phải kiểu phá phách, gây hỗn loạn". (Mây mù thế kỷ, trang 80 - 81).

Chính do cái đầu óc lưu manh của đặc công đỏ dẫn giắt, nên trong bài "Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen", Bùi Tín giả mù để chỉ kết tội có 14 thằng trong số hơn 3 triệu rưỡi đảng viên của cái tổ chức việt-gian-cộng-sản đó. Hắn giả vờ la lên như đau sót cho vận mệnh của nhân dân và đất nước VN:

"14 cái đầu bảo thủ của bộ chính trị không thể kìm hãm và bức tử toàn xã hội!"

"14 bộ mặt ấy nay đã lồ lộ tội làm tôi đòi cho bọn bành trướng cướp đất, cướp biển, cướp tài nguyên nước ta."

"14 gương mặt đen tối mang màu sắc tử thần của dòng sông Thị Vải mà họ góp phần bức tử vì tư lợi và tư thông với tư bản nước ngoài."

Bùi Tín cố tình làm cho mọi người quên là TOÀN BỘ TẬP ĐOÀN CỘNG SẢN từ hình thành cho đến tiếm được quyền đô hộ, với mọi cương lĩnh chính trị của các đại hội đảng của chúng và việc thực thi những cương lĩnh đó ĐỀU BIỂU HIỆN TỔ CHỨC CỦA CHÚNG LÀ MỘT TỔ CHỨC VIỆT GIAN, BAO GIỜ CŨNG LÀM HẠI NHÂN DÂN VÀ ĐẤT NƯỚC VN, LÀM LỢI CHO NGOẠI BANG. XƯA CŨNG THẾ, NAY CŨNG THẾ. CHỪNG NÀO CHÚNG CÒN NẮM HAY ĐƯỢC THAM GIA VÀO BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THÌ CŨNG VẪN CỨ NHƯ THẾ, KHÔNG THỂ "CANH TÂN" HOẶC "ĐỔI MỚI" CHÚNG ĐƯỢC. CHỈ CÓ CÁCH DUY NHẤT LÀ LOẠI BỎ CHÚNG KHỎI BỘ MÁY QUYỀN LỰC VÀ SINH HOẠT CHÍNH TRỊ, CÀNG SỚM CÀNG TỐT CHO NHÂN DÂN VÀ ĐẤT NƯỚC VN TRÊN MỌI BÌNH DIỆN!!!

Hơn 60 năm trong nghề giết dân lành (ông Võ tử Đản ở Cali là nhân chứng sống), bối bút đỏ và đặc công đỏ, Bùi Tín giả làm cậu Phước (nhân vật của nhà văn tài ba Vũ trọng Phụng) để cất tiếng "em chã, em chã!" trong nách của chị vú em Bút Vàng… khè, rằng: "quyền lực nằm trọn vẹn trong tay 14 vị trong bộ chính trị, không có lấy một lá phiếu bầu của người công dân. Ai kén họ, ai chọn họ, ai cử họ? có ma biết!"

Đúng là ma không biết, nhưng đại đa số nhân dân VN trong và ngoài nước (kể cả hằng hà người nước ngoài), kể cả lũ lâu la đang theo điếu đóm cho Bùi Tín, như Bút Vàng, và chính ngay Bùi Tín cũng biết là CÁI TỔ CHỨC VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN ĐÃ THAM GIA CÁCH NÀY, CÁCH KHÁC BẦU RA 14 THẰNG ĐÓ (trong đó có cả Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng…mà Bùi Tín và Vũ thư Hiên…từng hướng dẫn lũ truyền thông bất lương rằng đó là "Phe đổi mới, cấp tiến và thân Mỹ" nữa kia đấy; mồm Bùi Tín là cái gì của con nít mà hay phọt bậy thế (ấy vậy mà Bút Vàng… khè cùng chí hữu húp lấy húp để và khen ngon, nên hễ Bùi Tín xuất hiện là vội cho nằm lên Ánh Dương, càng lâu càng khoái tỷ). Còn nếu bất mãn vì chẳng lợi lộc gì thì LÀM ĐƠN xin vào đảng (việt-gian-cộng-sản) làm gì???

Rồi Bùi Tín, cục cưng của Bút Vàng, lại tiếp tục làm cậu Phước, đóng vai ngây thơ tuổi hơn 8 bó để ngây ngô giở trò mà cha ông ta gọi là "đánh bùn sang ao": "Khi vài chục vạn công dân lương thiện (Tín cho thử thí dụ công dân nào không lương thiện? Dưới sự đô hộ của việt-gian-cộng-sản thì dù một tên trộm cho đến gái điếm, lũ cờ bạc bịp, rượu trà, trai gái cũng CHẮC CHẮN LƯƠNG THIỆN HƠN BẤT KỂ TÊN NÀO CÒN LÀM ĐƠN XIN VÀO ĐẢNG VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN, HOẶC CÒN CHƯA DÁM XÉ CÁI THẺ ĐẢNG VIỆT-GIAN!) có dũng khí lên tiếng, khi vài chục vạn đảng viên thường ở cơ sở chia sẻ với nhân dân nỗi nhục không có tự do…". Nam Nhân tôi thấy không cần trích hơn nữa. Quý bạn đọc có thể xem bài của Bùi Tín mà Nam Nhân tôi cho đính kèm dưới (để thấy thêm bộ mặt đặc công đỏ của Tín mà cho tới nay Bút Vàng vẫn ôm ấp cưng chìu như bà Phó Đoan cưng Xuân tóc đỏ vậy).

Tóm lại, tên đặc công đỏ Bùi Tín lại xuất hiện ở Cali, vì dựa vào tay sai Phan nhật Nam cõng lên SBTN cùng với Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện để làm cái việc trấn an tụi truyền thông bất lương của các đảng phái, tổ chức cờ bạc bịp, đón gió trở cờ, và gây nhiễu thông tin, khiêu khích Cộng đồng Người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản. Nếu không có phản ứng thì chúng cùng đồng bọn lấn tới. Nếu bị lột mặt thì chúng lu loa rằng "bao nhiêu sự kiện trong nước như vụ việc Giáo xứ Thái Hà bị cướp đất, Tòa Khâm sứ cũng thế, cùng các vụ việt-gian-cộng-sản hợp đồng tấn công Đức TGM Ngô quang Kiệt và các vị Linh mục khác…, thế mà lại tấn công bọn chúng, thực thi âm mưu chia trí của bạn đọc".

Xin bạn đọc hiểu cho rằng, những vụ việc trên đã có nhiều quý vị anh minh tố giác và phân tích, cũng như nhiều hội đoàn đã tổ chức cầu nguyện hiệp thông. Từ vụ làm lễ tưởng niệm thằng việt-gian già, cuội dân chủ Hoàng minh Chính đến nay, những tên tay sai của việt-gian-cộng-sản đã phải lộ diện. Tuy nhiên, chúng vừa lưu manh theo bài học đã được việt-gian-cộng-sản cải tạo, vừa có phương tiện để nhiệt tình thực thi nghị quyết 36 của việt-gian-cộng-sản, nên việc lật mặt để vô hiệu hóa ngòi bút bất lương của chúng cũng cực kỳ quan trọng không kém. Quân lực VNCH xưa có những đơn vị chiến đấu trực diện với địch ngoài chiến trường thì cũng vẫn phải có đơn vị truy tìm lũ giặc len lỏi trong hàng ngũ ta. Hai nhiệm vụ đó bổ túc cho nhau và quan trọng như nhau.

Đọc bài: "Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen" của Bùi Tín, quý bạn đọc sẽ thấy:

Thứ nhất: Bùi Tín vẫn bảo vệ toàn đảng việt-gian-cộng-sản của nó. Và chỉ kết tội 14 thằng trong chính trị bộ của chúng mà thôi; cố tình làm lu mờ tội của lũ tội đồ đầu xỏ là các ban chấp hành trung ương của chúng trong 9 khóa trước, nghĩa là cả Hồ, Đồng v. v…;

Thứ hai: Bùi Tín vẫn lễ phép gọi 14 thằng tội đồ đầu xỏ (của khóa 10 này thôi) là "vị"; ngôn ngữ là biểu hiện của tư tưởng. Điều đó việt-gian-cộng-sản hiểu, và chúng ta cũng phải hiểu là Bùi Tín trân trọng, tùng phục 14 tên tội đồ đó. Ls Nguyễn văn Chức, nhà báo Việt Thường … có làm hại gì quyền lợi của nhân dân và đất nước VN không, thằng Bùi Tín đã gọi các vị đó là gì?

Thứ ba: Bùi Tín đề cao những gì là của việt-gian-cộng-sản, như đã chứng minh ở trên về nhân vật Nguyễn Trung. Không thèm đả động gì đến Trí thức Quốc gia đang ở hải ngoại.

Quý bạn đọc có thể còn tìm ra nhiều kẽ hở khác nữa của Bùi Tín mà Nam Nhân tôi chưa nhận ra. Xin được chỉ giáo.

Anh-quốc, ngày 1 tháng 10 năm 2008

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)


Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen

Tác Giả: Bùi Tín

Đăng ngày 24.09.08

“Thời cơ vàng” và “thảm hoạ đen” là 2 khái niệm của ông Nguyễn Trung thường dùng trên báo mạng Tia Sáng ở Hà Nội từ 3 - 4 năm nay.


Ông Nguyễn Trung nguyên là cán bộ quân đội nhân dân, chuyển ngành sang bộ ngoại giao, làm đại sứ tại Bangkok (Thái Lan) rồi về hưu. Ông là một trí thức hiểu biết khá rộng, có tấm lòng với đất nước, có tư duy độc lập, không a dua, nói theo đuôi để giữ mình.


Theo ông Nguyễn Trung, nước ta bước vào thế kỷ 21 với nhiều thời cơ thuận lợi quý hơn vàng. Hoà bình, thống nhất, mở cửa, đổi mới, thời đại của nền kinh tế tri thức, cuộc cánh mạng thông tin với computer, internet, vị trí đất nước nhiệt đới dựa vào Trường Sơn nhìn ra Thái Bình Dương, gia nhập tổ chức WTO, một dân tộc nhiều sinh lực, trẻ, cần cù cầu tiến ... là những nhân tố thuận lợi tạo nên thời cơ vàng ngay trước mắt của nhân dân ta.

Ông Nguyễn Trung nhận định rất đúng rằng tất cả vấn đề là ở lãnh đạo, là ở đường lối chính trị - kinh tế - văn hóa - đối ngoại, là ở bộ chính trị có ở tầm cao trách nhiệm và thử thách hay không; hoặc là sẽ dẫn đất nước vào thời kỳ phát triển cao, hài hòa, bền vững, có công bằng xã hội, có luật pháp nghiêm minh, có tình nghĩa dân tộc, có môi trường trong sạch, lành mạnh, nghĩa là có hạnh phúc cho toàn dân; hoặc là sẽ dẫn đến một xã hội sa sút về mức sống, đổ vỡ vì tham ô lãng phí, rạn nứt vì bất công, rữa nát về môi trường sống, nghĩa là đưa đất nước chìm dần vào thảm họa đen.


Vậy thì đến nay ta đã có thể sơ kết tình hình để phỏng đoán xem 14 vị trong Bộ chính trị hiện tại đang dẫn đất nước đến đâu, đến bến bờ “hạnh phúc cho toàn dân” hay đến bờ vực của “thảm họa đen”? Xin kính mời bà con ta trong cả nước cho ý kiến.


Theo tôi, theo dõi tình hình chặt chẽ hơn một chục năm nay, xu hướng hiện nay là nguy hiểm, cần báo động, vì bến bờ hạnh phúc cho toàn dân ngày càng xa vời, còn thảm họa đen thì cứ hiện dần lên lù lù ngay nhãn tiền, khá là đậm nét.


Đây rất nên là đề tài nghiên cứu, tìm hiểu kỹ, đánh giá một cách khách quan, khoa học, ngay cả trong cuộc họp Trung ương đảng CS cuối năm nay và cuộc họp thứ 4 của Quốc hội khoá XII sắp khai mạc vào ngày 20-10- 2008 tới, nếu như có một số vị quan tâm.

Những nét tiêu biểu của thảm hoạ đen


Chỉ xin chỉ ra vài dẫn chứng về môi trường. Khu vực Đồng Nai – Bà Rịa Vũng Tàu là khu vực trọng điểm hàng đầu về công nghiệp, đầu tư, khai thác dầu khí, du lịch của cả nước. Cả nước vừa được biết - quá ư chậm chạp - rằng dòng sông Thị Vải tại đó đang chết, nghĩa là bị ô nhiễm rất nặng nề bắt đầu từ năm 1994 đến nay, nghĩa là suốt 14 năm nay rồi; từ đó đến nay tôm cá quanh vùng vốn sung mãn đã chết dần và nay đã chết sạch; cuộc sống của 20 vạn cư dân ở 2 bên dòng sông Thị Vải vốn xanh tươi trù phú đã trở nên không thể sống nổi cho trẻ em, người già, cho cả người lao động, nghĩa là cho mọi người. Nước con sông Thị Vải nay ngả sang màu xám, mùi hôi tanh nồng nặc, chỉ cần nhúng tay xuống nước sông là móng tay đen sạm, bàn tay nhớp nháp, sau đó bị ghẻ lở. Không còn ai dám lội qua sông, chưa nói đến tắm rửa giặt rũ dọc theo 14 kilômét của dòng sông vốn nên thơ và trù phú này. Những thử nghiệm cho biết nhiều chất độc hại trong nước sông đã đạt đến gấp từ 1 nghìn đến 3 nghìn mức độ cho phép. Tội phạm gây nên thảm hoạ môi trường tại đây là nhà máy chế biến bột ngọt VEDAN, do tư bản Nam Hàn đầu tư 100%, dùng 1.800 lao động người Việt, bắt đầu xây dựng từ năm 1991, khai trương năm 1994, dùng nguyên liệu chính là sắn tươi (1 triệu tấn/năm). Cái gian xảo tội ác của bọn tư bản Nam Hàn VEDAN là tìm cách tẩu tán mỗi ngày 5.000 mét khối nước thải thối bẩn chưa hề thanh lọc xuống sâu dưới đáy sông, bằng nhiều ống bơm và ống xả chồng chéo nhau, thoát khỏi mọi kiểm tra kiểm soát của phía Việt nam từ trung ương đến địa phương, vốn cực kỳ vô trách nhiệm, lại dốt nát và tham nhũng, rất dễ bị mua chuộc bằng quà cáp và đôla (xin nhớ: tư bản Nam Hàn nổi tiếng là hung dữ với lao động Việt nam và rất ranh ma trong hối lộ, đút lót quan chức Việt nam. Bà con ta không quên Đỗ Mười khi sang Séoul trên cương vị tổng bí thư CS, đã nuốt mấy triệu đôla hối lộ nhưng không chùi sạch mép). Điều kinh dị ở đây không phải là mưu ma chước quỷ của tên phó chủ tịch hội đồng quản trị VEDAN tên là K.H.Yang mới đây leo lẻo xin lỗi phía Việt Nam và hứa bồi thường thiệt hại (bao nhiêu cho đủ!), hoặc thủ đoạn bịp bợm của 2 tên kỹ thuật viên Nam Hàn tên là Lâm Mậu Phủ và Vương Kim Điền được chủ giao cho việc điều hành hệ thống ống bơm và ống xả ma quỷ, luồn sâu đến 9, 10 mét dưới mặt sông. Điều kinh dị là sự im lặng, tê liệt của cả một hệ thống chính quyền từ xã Phước Thái, huyện Long Thành, đến chủ tịch tỉnh và bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai, là sự mù mờ ấm ớ của các quan chức ở bộ Tài nguyên - Môi trường, ở bộ Kế hoạch - Đầu tư, các ban ngành của 2 bộ này, cho đến các đại biểu quốc hội của tỉnh Đồng Nai, cho đến các phó thủ tướng và thủ tướng. .. đều im re suốt 10 năm trời, kể từ khi vấn đề này bị phát hiện, qua hàng trăm lá thư tố cáo và kêu cứu của chính anh chị em lao động của VIDAN bị chủ đuổi vì dám nói lên việc làm tệ hại của chúng; và hàng trăm lá thư của nhân dân 2 bên bờ sông kêu cứu gửi chính quyền, trung ương đảng, thanh tra chính phủ, bộ y tế, hội phụ nữ, uỷ ban bảo vệ phụ nữ và nhi đồng, gửi các báo ... Tất cả đều rơi vào im lặng. Cả một hệ thống vô hồn, vô cảm, theo gương ù lỳ của Bộ Chính trị.


Cho đến nay, bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường mới mở mồm “yêu cầu nhà máy SEDAN báo cáo về việc này”! (sau một cuộc kiểm tra không có kết luận, vì quá phức tạp rối rắm(!)). Ở bất cứ một nước dân chủ nào, công luận sẽ cất tiếng quyết liệt, và 2 bộ trưởng Môi trường và Đầu tư đã bị truy tố và mất chức từ lâu.


Một hệ thống chính quyền tê liệt, yếu ớt, quan liêu trước một thảm cảnh môi trường kéo dài 14 năm, một chính phủ lo chuyện đàn áp lương dân đòi lại đất, bắt bớ các công dân đòi tư do cho xã hội, làm ngơ trước sự tàn bạo tham lam của tư bản nước ngoài, một bộ chính trị 14 vị buông trôi trước mọi đau khổ của nhân dân thấp cổ bé họng đang lâm vào cõi chết tập thể, khi môi trường sống bị đe doạ tận gốc, vậy chính quyền ấy, bộ chính trị ấy có thể “biến thời cơ vàng thành hạnh phúc của toàn dân” hay không?


Môi trường đầu tư và môi trường chống tham nhũng sa sút rõ


Vụ án hối lộ của PCI - Pacific Consultant Institute (Nhật Bản ) và vụ án 4 nhà đầu tư Hoa Kỳ thuộc công ty kỹ thuật Nexus Technologies hối lộ một loạt công ty quốc doanh Việt Nam (từ dầu khí, điện lực, hàng không đến ngân hàng, quốc phòng...), 14 vị Bộ Chính trị bị dồn vào thế bí. Nếu hăng hái lao vào điều tra và xử lý thì những vụ bê bối bị phơi bày, có thể đụng đến những cấp cao nhất, nhưng nếu khoanh lại, ỉm đi như vụ Tổng cục II thì không thể được nữa, vì bộ máy tư pháp nghiêm của Nhật Bản và Hoa Kỳ đã khởi động không sao quay ngược. Đành phải chơi trò mua thời gian, miễn cưỡng, đủng đỉnh, từ từ vào cuộc, trì hoãn một cách bất lực sự bùng nổ của sự thật.


Hậu quả là các nhà đầu tư Nhật Bản, Hoa Kỳ (là 2 nước có vốn thực tế ODA và FDI, viện trợ và đầu tư, cao nhất) sẽ chờ đợi, cân nhắc kỹ và có thể nản chí.


Không phải ngẫu nhiên mà người phát ngôn của Ngân hàng thế giới WB cùng với báo Echos (Pháp) đều chỉ trích bộ trưởng dầu tư và kế hoạch Việt nam là “quá ngớ ngẩn và vụng về” khi chỉ trưng ra con số hứa hẹn đầu tư là 46 tỷ đôla, mà che dấu con số tiêu hoá, thanh khoản được có hơn 10 tỷ một năm. Họ lên lớp cho ông bộ trưởng Hà Nội là con số dự định đầu tư, có ý muốn đầu tư, chỉ là con số hứa hẹn miệng và trên giấy, chẳng có mấy ý nghĩa, một Bộ trưởng Đầu tư hơn ai hết không được tự ru ngủ mình, mà phải nhìn cho rõ sự thật là “vì sao mà tiếp thu đầu tư chậm như rùa bò”, chỉ hứa hão là “một cửa”, “thủ tục chỉ cần 2 tháng” mà thường vẫn kéo dài đến 2 năm!


Môi trường chống tham nhũng bị ô nhiễm và phá hoại bởi chính những người cầm đầu bộ máy chống tham nhũng, khi họ ngang nhiên bắt giam và tịch thu thẻ hành nghề của những nhà báo hăng hái chống tham nhũng nhất, kéo dài lê thê việc xét sử vụ án số 1: PMU 18 gần 3 năm trời mà chưa kết thúc cuộc điều tra! Chính phủ Anh, Thụy Điển, Nhật Bản... nhất loạt cảnh báo rằng họ sẽ không tiếp tục viện trợ nếu như việc xử dụng tiền viện trợ vẫn không minh bạch, phung phí tiền của chính phủ và của công dân đóng thuế của nước họ. Họ ghi nhận những lời hứa kiên quyết và vẫn còn chờ đợi việc làm.


Môi trường pháp lý vẫn còn tù mù


Trong thời đổi mới, vài chục bộ luật đã được thông qua, trường đào tạo luật sư mở rộng, toà án các cấp hoạt động, việc khiếu nại tăng nhanh, nhưng môi trường pháp lý vẫn tù mù, lạc hậu. Đầu tháng 9 này, Viện Điều tra Quốc tế vừa xếp Việt Nam vào thứ áp chót, nghĩa là gần “bét dem” về mặt pháp lý ở châu Á, nghĩa là về tôn trọng pháp luật, xử án công minh và thi hành án nghiêm chỉnh thì Việt Nam thua kém Thái Lan, Philipines, Indonesia, và cả Cambốt nữa.

Xin hỏi 14 vị trong Bộ Chính trị là các vị có quan tâm đến sự xếp hạng trên đây của cơ quan điều tra quốc tế về mặt pháp lý, để còn biết hổ thẹn và sửa chữa khuyết điểm rất nghiêm trọng của chính quyền do quý vị lãnh đạo, vì một nền pháp lý lạc hậu, trì trệ đến vậy thì làm sao có thể bảo đảm công bằng và hạnh phúc cho toàn dân.


Viết đến đây tôi nhận được điện thoại từ Hà Nội báo tin rằng ông Phạm Quang Nghị, uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội đang đích thân cùng viên giám đốc Sở Công an chỉ đạo cuộc đàn áp giáo dân đang cầu nguyện để đòi lại quyền sở hữu toà Khâm sứ công giáo 42 Nhà Chung, bằng biện pháp xử dụng công an, cảnh sát, dân quân cho đến bọn lưu manh của xã hội đen, được uống rượu để lao vào đập phá, hành hung, chửi bới và doạ nạt dân lành tay không. Vậy thì pháp lý ở đâu? bạo lực đến từ phía nào? Đâu là công bằng xã hội, là lẽ phải ở đời? Ông bí thư thành uỷ đang bảo đảm hạnh phúc cho toàn dân thủ đô như vậy hay sao? Ông có thích thú trước việc người dưới quyền ông đập chảy máu vỡ đầu trưởng đại diện hãng thông tấn AP ở Hà Nội Ben Stocking, rồi ông có xui người phát ngôn Lê Dũng chối bay chối biến? Pháp luật nào vậy, hay theo luật rừng?


Cuối năm nay, các đạo Luật về đất đai và Luật về báo chí sẽ được bàn cãi tại quốc hội, công luận đã và đang lên tiếng khá mạnh, với đầy đủ lý sự là: không phải sửa đổi, bổ xung luật đất đai, đã đến lúc đảng CS sòng phẳng trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, sau khi đã trả lại quyền sở hữu tư nhân cho các nhà thương nghiệp và công nghiệp. Về luật báo chí không thể trì hoãn việc công nhận quyền tự do báo chí của tư nhân nghĩa là của mọi công dân như đã ghi rõ trong Hiến pháp, trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền mà Việt nam đã cam kết tôn trọng.


Môi trường văn hoá suy đồi đến bi thảm


Nhiều trí thức, nhà văn hoá, nhà kinh tế đã nêu lên, cuộc đổi mới từ 1986 đến nay ngày càng lệch hướng. Văn hoá bị coi rất nhẹ, theo nghĩa văn hoá là đề cao vị trí “con người” trong xã hội, phục vụ người công dân, chứ không phải đề cao vật chất, tiền bạc, quyền lực; “văn hoá đầu tư” cũng lệch hướng vì xây dựng khách sạn, sân golf, casino, khu du lịch cao cấp nhiều hơn là các nhà máy kỹ thuật hiện đại, trường học và bệnh viện. Chưa có lúc nào nạn nghiện ngập, xì ke ma tuý, cờ bạc, chơi đề, buôn lậu, buôn phụ nữ, trẻ em, nhảy nhót trần truồng ... có xu hướng phát triển không ngừng như hiện nay. Nhà nước tổ chức nhiều lễ hội, thi hoa hậu đủ kiểu hào nhoáng tốn kém để che dấu sự băng hoại về đạo đức và lối sống trong xã hội. Môi trường kinh doanh cũng phản văn hoá vì sự khống chế, hiếp đáp của các Tập đoàn kinh tế Quốc doanh đối với các nhà kinh doanh tư nhân ngay thật lương thiện và có tài năng.

Môi trường chính trị hư hỏng từ gốc


Vấn đề môi trường là vấn đề nóng bỏng, cấp bách ở Việt Nam. Môi trường mọi mặt đang kêu la cấp cứu.


Vấn đề con sông Thị Vải ở Đồng Nai bị bức tử 14 năm nay đang rẫy chết. Cả nước hãy quan tâm, lên tiếng và cấp cứu bà con ta ở huyện Long Thành đang sống dở chết dở. Hãy mời 2 bộ trưởng Tài nguyên - Môi trường và Đầu tư vào xắn quần lội xuống dòng sông đen ngòm ấy để may ra có thể giật mình nhận ra trách nhiệm của mình, không còn nể sợ tư bản Nam Hàn như cọp nữa.


Nhưng cần nhận rõ cái gốc của vấn đề là môi trường chính trị, là chế độ độc quyền của một chính đảng duy nhất, là quyền lực nằm trọn trong tay 14 vị trong bộ chính trị, không có lấy một lá phiếu bầu của người công dân. Ai kén họ, ai chọn họ, ai cử họ? có ma biết!

Cái gốc của vấn đề có thể gọi là “dòng sông Thị Vải về chính trị”, là chế độ độc đoán độc đảng phi nhân tính, là chế độ độc quyền đảng trị phản dân chủ lạc lõng giữa thời đại mới, gây ô nhiễm xã hội ngày càng nặng nề suốt hơn nửa thế kỷ, đã đến lúc phải xoá bỏ gấp; phải thay thế nó bằng một dòng sông chính trị đa nguyên đa đảng từ lá phiếu tự do của toàn dân, dòng sông chính trị trong trẻo, xanh mát, với hoa thơm quả ngọt, làng mạc trù phú, ấm no, hoà thuận, có môi trường pháp lý công bằng cho mọi người, môi trường đầu tư có văn hoá vì hạnh phúc nhân dân, môi trường kinh doanh lành mạnh có ganh đua bình đẳng, hội nhập hẳn vào thế giới dân chủ và văn minh.


14 cái đầu bảo thủ của bộ chính trị không thể kìm hãm và bức tử toàn xã hội!


14 bộ mặt ấy nay đã lồ lộ tội làm tôi đòi cho bọn bành trướng cướp đất, cướp biển, cướp tài nguyên nước ta.


14 gương mặt đen tối mang màu sắc tử thần của dòng sông Thị Vải mà họ góp phần bức tử vì tư lợi và tư thông với tư bản nước ngoài.


Khi vài chục vạn công dân lương thiện có dũng khí lên tiếng, khi vài chục vạn đảng viên thường ở cơ sở chia sẻ với nhân dân nỗi nhục không có tự do, nỗi nhục đất nước bị mất đất, mất biển, mất đảo, để dấn thân vì Tổ quốc, khi môt bộ phận ưu tú của tuổi trẻ nước ta vào cuộc, xuống đường, đòi tự do, đòi quyền làm chính trị, đòi trong sạch hoá mọi thứ môi trường, thắng lợi sẽ chắc chắn trong tầm tay.


Môi trường tự do như dưỡng khí cho cuộc sống xã hội. Môi trường chính trị tư do là then chốt, là chìa khoá để lành mạnh hoá các môi trường văn hoá, đầu tư, pháp lý, kinh doanh, mở đường cho phát triển bền vững, mà thế giới gọi là “phát triển xanh, sạch” - le développement vert, propre - tránh khỏi sự phát triển xô bồ, khập khiễng, phát triển bệnh hoạn, giả tạo và bất công.

Không có một con đường nào khác dẫn đến hạnh phúc cho toàn dân.


Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)

Sám-hối hay dám chối?

Việt-đạo Quang

Nhờ sự phát triển của kỹ thuật hiện đại, việc thông tin và liên lạc trên thế giới nay đã trở nên dễ dàng hơn. Do đó mà người ta nhận thức được thực chất của chính-trị và của tôn-giáo. Ít ai còn công nhận rằng tôn-giáo không dính líu đến chính trị. Qua tín ngưỡng, con người nhận thức được mối tương quan và trách nhiệm của mình với tha nhân, và như vậy là có dính líu đến chính-trị. Tuy nhiên, trong chính-trị, người ta cũng biết dùng khái-niệm tôn-giáo để chơi ván cờ ăn thua giữa các phe phái. Điều hiển nhiên là người trong tôn-giáo nào cũng có cái tôi của mình. Vậy nên, muốn gây chia rẽ thì chỉ cần khơi lên cái tôi của họ. Tuy nhiên, khi lá bài chia rẽ tôn-giáo không còn hợp thời thì họ phải chuyển qua trò mê tâm pháp: hiện thân thành những hình ảnh của Thần Thánh, Tiên, Phật, hay Chúa Bà gì đó để khiến các tín đồ vái lạy và hít mê hương cho đến khi ngã gục.

Gần đây, bọn Việt gian cs đã nhân danh từ bi, bác ái, yêu thương và tha thứ để xúi dục các tín đồ ngưng việc đấu tranh cho nhân quyền và chính nghĩa ở Việt-Nam. Tuy nhiên, người Việt tự-do ngày nay không còn là cô Tấm ngây thơ trước thời bị bức tử. Họ đã đi qua cái chết để thành cô Tấm mới, biết và dám nói thật với Cám rằng: muốn đẹp thì phải bỏ cái tà tâm đi.

Đã là người có tín-ngưỡng, không ai không muốn tỏ lòng từ bi, bác ái. Đối với kẻ thù, dù tội có to lớn bao nhiêu cũng phải tỏ lòng tha thứ. Tuy nhiên, tha thứ không phải là tìm chỗ tránh kẻ thù hòng mong được an thân mà là giúp kẻ thù thức tỉnh, dù phải hy sinh mạng sống mình. Để kêu gọi bọn người có dã tâm sám hối quay về, nhà Phật có lời khuyên: buông dao đồ tể, quay đầu thành Phật. Bên Kytô giáo cũng khuyến khích: nếu ăn năn sám hối thì tội gì Chúa cũng tha.

Việc sám-hối ăn năn là một việc đáng khen ngợi. Tuy nhiên, sám-hối có sám-hối thật và sám-hối giả. Có người lý luận rằng việc sám-hối là của lương-tâm, ai có thể xét đoán được? Thế nhưng, không một tôn-giáo nào có thể phủ nhận rằng sám-hối không phải là chỉ lo tìm ơn tha thứ cho cá nhân mình, mà là từ bỏ cái dục vọng cá nhân để mở rộng tâm hồn đến với tha nhân, hòng mong xoa dịu được nỗi thống khổ, đặc biệt là những vết thương do chính mình tạo ra. Khi giác-ngộ, các vị La-hán đã để lại cho đời bài học rằng: họ ý thức được tội ác của họ trong qúa khứ và dốc lòng từ bỏ, mà không nối tiếc. Vì cái quá khứ đó là xiềng xích gông cùm họ và gây nên bao nhiêu tội nghiệp. Người trộm lành bị đóng đanh bên cạnh đức Giêsu cũng vậy: anh ta mạnh dạn thú nhận rằng, ‘chúng ta chịu như vầy là đích đáng…’ Chính mình gieo nhân thì chính mình phải nhận lấy quả. Chỉ khi nào dám chấp nhận cái quả của tội ác mình mới thực sự giác ngộ, mới được cứu rỗi. Tội mình phạm có dính líu đến xã hội, thì tại sao lại cho là việc ăn năn sám hối là việc cá nhân? Nếu là cá nhân thì đã không có gương của các vị La-hán, đã không có cuộc đối thoại giữa người trộm lành với đức Giêsu. Vì thế, chỉ cần xem cách kẻ dữ thi hành phép sám-hối là biết họ sám-hối thật hay giả. Khi người ta thực sự sám-hối, họ thành tâm từ bỏ quá khứ tội lỗi mình. Khi người ta đóng kịch, họ tìm lời biện bạch, chạy tội cho bản thân.

Hẳn nhiên, từ xưa đến nay có rất nhiều các lãnh đạo chính-trị hối-hận, ăn-năn các lỗi lầm quá-khứ của mình. Có thể, trong bè phái Việt gian cs cũng có những người bị lương-tâm dày vò. Tuy nhiên, sự hối hận của họ, nếu có, vẫn chưa được bọn Việt gian cho phổ biến. Ngược lại, những lời chạy tội của phường lưu manh thì được loan truyền dưới mọi hình dạng. Điển hình là bài ‘Đôi Điều về Những Sai Lầm và Bài Học Cấp Thiết’ của JB Nguyễn Hữu Vinh, được đính kèm với thư của ĐHY Phạm Minh-Mẫn.

Ngay từ phần mở đầu, Vinh đã vội vàng chạy tội cho Việt gian cs:

Trong quá trình lịch sử của đất nước Việt Nam hay bất cứ đất nước nào trên thế giới, không có cá nhân, tổ chức hay nhà nước nào thể nói rằng mình không có những sai lầm.

Không biết vì Vinh ít học hay quen miệng nói dối mà cho là sai lầm cũng đồng nghĩa với tội ác. Sai lầm thì có thể cảm thông, nhưng tội ác thì chỉ có thành tâm sám-hối mới rửa sạch được. Nếu nói là trong thời chiến cuộc sai lầm và tội ác giống nhau thì xét lại xem bọn Việt gian đã làm gì với dân tộc sau thời chiến? Vì kẻ thắng không có chính nghĩa nên sau cuộc chiến vẫn còn đổ máu, vẫn còn hận thù, vẫn còn loạn lạc. Người dân, từ lớn đến bé, vẫn bị đoạ đày, phải đi làm công, bị áp bức, bóc lột, bị buôn bán, không những trong nước mà cà nhiều nơi trên thế giới, thậm chí thua cả hàng súc vật. So ra họ còn khốn đốn và chiụ nhục hơn cả thời chiến. Chứng tích còn đó. Vậy đủ biết họ phạm sai lầm hay tội ác trong cuộc chiến.

Kế đó Vinh bắt mọi người, kẻ cướp cũng như nạn nhân, đều phải gánh chịu:

Những sai lầm của từng giai đoạn lịch sử, để lại cho hậu thế những hậu quả mà dù muốn hay không, tất cả đều phải gánh chịu và tìm cách sửa chữa.

Nếu tội của các nạn nhân của Việt gian cs là vì họ là người Việt-Nam thì làm sao họ sửa chữa được? Trong lãnh vực lương tâm, có thể cho rằng tất cả người Việt-Nam đều bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến do bọn Việt gian gây nên: một số chỉ biết thủ lợi cá nhân mà quên mất chính nghĩa. Việc sửa đổi tất cần khôi phục lại công tâm trong lòng người. Tuy nhiên, ở đây Vinh đang bàn đến việc sửa chữa trên lãnh vực lịch sử. Nếu cho rằng nạn nhân và bạo tặc đều phải chịu trách nhiệm về những đổ nát thì chỉ có bọn theo đóm ăn tàn, bọn buôn thần bán thánh mới nói được.

Vì sự thật không thể chối cãi, Vinh đành phải nêu lên trò chơi sám-hối của bọn Việt gian:

Nhiều quan chức Việt Nam đến cuối đời bước ra khỏi bộ máy nhà nước mới có thể nói lên những ân hận, những suy nghĩ và cả những nhận xét của mình về những việc làm có liên quan, về một giai đoạn nào đó có những sai lầm, khi đó họ mới có thể có thời gian nhìn lại mình chăng?

Hình như Vinh tuổi con tôm nên lý luận rằng về hưu là ly khai khỏi đảng cướp. Khổ nỗi con tôm này bị táo bón nên cứ đi ngang như cua: đã là đảng cướp thì giai đoạn nào là không làm ác mà còn cho là ‘về một giai đoạn nào đó có những sai lầm’?

Sau đó Vinh nêu điển hình lời tường trình của võ văn kiệt:

“Tiếc rằng một số năm sau đó, tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều. Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế.

Cái đại đoàn kết của đảng cướp không dính líu gì với nạn nhân của chúng. Nó không phải là cái đoàn-kết của dân-tộc. Tại sao lại cho là cái đại đoàn kết mà võ văn kiệt nêu ra đây là của đảng cướp mà không phải là của dân? Không phải y đã nhìn nhận lỗi lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất sao? Xin thưa, vì võ văn kiệt vẫn ngầm ám chỉ rằng kế hoạch gây chiến tranh trên nước Việt-Nam vẫn là đúng, vì thế y mới nói: ‘Tiếc là một số năm sau đó…’ Như thế thì đâu phải là buông dao đồ tể, đâu phải là từ bỏ quá khứ tội ác.

Trong khi trích dẫn lời võ văn kiệt:

Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh VN trên trường quốc tế?

thì Vinh muốn ám chỉ ai cảm hóa ai? Rồi khi nói đến giả thuyết ‘hận vì bại, kiêu vì thắng’ Vinh có phân biệt giữa hận thù và bảo tồn chính nghĩa không? Khi người ta nhỏ mọn cố chấp những thiệt thòi cá nhân, họ nhớ cái thiệt thòi của cá nhân họ trong quá khứ. Tuy nhiên, người lính Việt-Nam Cộng-Hòa không nhỏ mọn như thế đâu. Họ tưởng niệm sự mất mát và thiệt thòi của dân-tộc như một nữ thuyền nhân đau đớn vì bị hải tặc xâm phạm tiết hạnh. Mà cái thiệt thòi đó không phải chỉ trong dĩ vãng nhưng vẫn còn diễn tiến trong hiện tại. Người lính Việt-Nam Cộng-Hòa mang thanh gươm báu trên mình không phải để trả thù cá nhân mà để bảo vệ chính nghĩa và dân tộc. Trái lại, đảng cướp Việt gian thì có cái kiêu điên rồ vì thắng: chúng ăn mừng Tết Mậu Thân, ngày 30 tháng Tư 75, chúng đưa tiết hạnh của các thiếu nữ Việt Nam ra làm mồi nhử khách du lịch. Đã làm cướp xưng hùng một cõi thì cũng có cớ để mà kiêu hãnh, đằng đây chúng đi cướp của dân để rồi bao phen dâng cúng tài nguyên, sông núi do cha ông gậy dựng nên cho bọn cướp cs quốc tế.

Khi nói đến việc cướp tài sản của dân thì Vinh cho đó là sự sai lầm

mới xảy ra cách đây chỉ hơn vài chục năm và nguyên nhân vụ việc đó, chỉ do một câu nói theo ý nghĩ của ông Đỗ Mười.

Việc nhỏ như lên mạng để lấy tin tức cũng bị đảng cướp kiểm soát chặt chẽ từ khi mạng lưới vi tính lan đến Việt-Nam, vậy mà việc làm có dính líu đến thể diện của đảng, xảy ra trong vài chục năm mà cho là vì lơ là. Ý nghĩ của đỗ mười quả có sức huỷ hoại như ý nghĩ của Tần Thủy Hoàng.

Khi nhìn đến hậu quả của kế hoạch cướp của giết người của đảng thì Vinh nhận sét rằng:

Những hậu quả lâu dài của nó là gì nếu không nói là những nạn nhân và những người biết sự thật sẽ mất đi niềm tin ở một nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản luôn được cho là sáng suốt tài tình.

Ai cho là đảng cướp Việt gian cs sáng suốt tài tình? Nếu là Vinh thì làm gì có chuyện ‘mất đi niềm tin’, có chăng cũng chỉ là việc lo lắng giấy không gói được lửa.

Sau đó Vinh nêu lên việc Toà Khâm Sứ và đất của giáo sứ Thái-Hà, nhưng luôn luôn trung thành với sứ mạng bảo vệ danh dự của Việt gian hồ chí minh, bằng đưa ra những bánh vẽ do cáo hồ tạo nên. Ý rằng: hồ khơi mào cuộc chiến bất nhân nhưng vẫn có lý tưởng yêu nước. Ôi, nếu cứ nắm chặt lá bùa bịp bợm thì biết đến chừng nào mới hồi tỉnh ăn năn?

Việt-đạo Quang


Cái chết của bạo chúa

Cái chết của bạo chúa

LM. Anphong Trần Đức Phương

(Hãy Xỏ Gươm Vào Vỏ… (Mat-thêu 26,51)

Bạo chúa Phalaris hành hình dân chúng
Có một câu chuyện cổ nói về lãnh chúa Phalaris (Khỏang 570-554). Phalaris sinh ở đảo Crete, sau đó di chuyển đến ở Agrigente (Đảo Sicile, thuộc nước Ý hiện nay). Nhờ thời cuộc và mưu trí, ông đã lập nên sự nghiệp và ông đã trở nên một ‘lãnh chúa’; rồi khi đã nắm trọn quyền hành, ông trở nên một ‘bạo chúa’, hà hiếp dân lành, bắt dân chúng phải chịu ‘sưu cao thuế nặng’, chiếm các đất đai của dân chúng để xây các lâu đài. Càng nhiều quyền thế, ‘bạo chúa’ càng trở nên tàn bạo, không còn biết nghe lời nói phải. Ai chống đối và chỉ trích chính sách tàn bạo của ông đều bị bắt bỏ tù hoăc giết chết; kể cả nhà hiền triết Zenon rất được mọi người mến chuông thời đó, cũng bị buộc tội vì dám can gián ‘bạo chúa’. Nhưng ‘bạo chúa’ cũng có nhiều nịnh thần tâng bốc ông, làm ông ta càng ngày càng trở nên hống hách, tàn bạo hơn. Có một kẻ nịnh thần tên là Bedilos nghĩ ra một khổ hình để giết những người mà ‘bạo chúa’ không ưa. Anh ta làm một con bò mộng bằng đồng, bụng rỗng có thể đút vừa một người vào trong đó rồi nung nóng lên để xử tội. Bạo chúa thấy sáng kiến đó rất tốt để ông trừng trị những kẻ nào dám chống đối việc cai trị tàn bạo của ông. Nhưng ‘bạo chúa’ này cũng có tính ‘quái gở’ như thường thấy nơi các ‘bạo chúa.’ Ông liền bảo Bedilos là người có công sáng chế ra một khí cụ tuyệt vời như vậy, sẽ được ‘danh dự’ thử nghiệm trước. ‘Bạo chúa’ sai nhốt Bedilos vào trong bụng con bò đồng và nung lên. Thế là kẻ nịnh thần Bedilos phải lãnh khổ hình trước tiên. Tiếp theo là bao nhiêu người khác mà ‘bạo chúa’ không ưa đều bị giết như vậy. ‘Bạo chúa’ cho đốt lửa chầm chậm để nung con bò đồng, có ý cho người bị tử hình trong đó phải chết đau đớn từ từ và phải la hét lên những tiếng khủng khiếp để răn đe kẻ khác. Còn ‘bạo chúa’ thì cười nói vui vẻ khi nghe những tiếng rên la đau đớn khủng khiếp đó.

Nhưng bạo chúa nào cũng chỉ có một thời! Dân chúng càng ngày càng khổ cực và uất ức vì bị áp bức bất công (mà "đâu có áp bức, đấy sẽ có bùng dậy!") Dân chúng thấy không còn cách nào chịu đựng được sự cai trị độc tài và quá tàn bạo của ‘bạo chúa’ và các kẻ nịnh thần, nên liều chết vùng lên và lật đổ được chế độ, bắt tên bạo chúa Phalaris và những kẻ nịnh thần phải đền tội bằng chính khổ hình khủng khiếp mà bao người dân lành đã phải chịu.

Trong lịch sử nhân loại, đã có biết bao bạo chúa và những nịnh thần. Tât cả đều tàn bạo cách này hay cách khác, nhưng tất cả đều ‘mù quáng’ (nhất là do các nịnh thần tâng bốc) cứ tưởng như chế độ của mình là muôn đời tồn tại, mà quên rằng ‘cái chết đến cho mọi người’ và mọi sự ở đời này đều qua đi cùng với thời gian. Những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng, Néron… thời xưa, và những Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… thời nay, cũng đã lần lượt phải bước qua ‘cửa tử’ để lại cả một quá khứ xấu xa cho bao đời phỉ nhổ, chẳng bao giờ có thể phai mờ, như cha ông chúng ta đã nói: “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ…”

Nhìn vào những cuộc đàn áp ngày nay trên quê hương Việt Nam, đặc biệt trong vụ chiếm đất ở Thái hà và đất Tòa Khâm Sứ (Hà Nội), chúng ta thấy sự kiện ‘đàn áp bất công’ vẫn tiếp tục tái diễn ở Việt Nam. Đây không phải là sự chiếm đất duy nhất. Chúng ta nhớ lại những cuộc chiếm đất đai của nhân dân, của các tôn giáo ở Miền Bắc Việt Nam, được mệnh danh là ‘Cải cách ruộng đất’, đi kèm theo là những cuộc đấu tố dã man vào giữa thập niên 1950, giết bao nhiêu người lành, vô tội; vừa bị mất nhà cửa, mất ruộng vườn, còn bị vu oan cho bao nhiêu điều xấu xa. Sau khi chiếm Miền Nam cũng có bao nhiêu cuộc lấn chiếm đất đai của nhân dân. Các cán bộ địa phương đã dựa vào quyền thế, lộng hành chiếm đất đai ở các địa phương, kể cả chiếm đất của những người dân thiểu số để cho gia đình cán bộ làm nhà ở; hoặc để bán cho các công ty nước ngoài khai thác. Hầu hết người dân vì ‘bé cổ thấp họng’ nên đành đau khổ chịu đựng, chỉ có một số lên tiếng chống đối, như ở vùng Hố nai (Biên Hòa), ở Thái Bình (Bắc Việt), hoặc một số rất nhỏ đi lên tỉnh để khiếu nại. Nhưng cuối cùng cũng thất bại, không lấy lại được gì, mà nhiều trường hợp còn bị tù đày khốn khổ.

Bây giờ đến việc lấn chiếm đất đai tại Thái hà, phá khu vực Tòa Khâm Sứ. Giáo dân và hàng giáo sĩ không biết làm gì hơn là cầu nguyện và muốn nói lên những bất công chung của dân tộc thay bao nhiêu người uất ức khác. Nhưng cuộc bầy tỏ ý kiến này cũng đang bị đàn áp mạnh mẽ. Nhà nước đã dùng lại những chính sách của cộng sản Sô viết xưa: dùng thông tin một chiều để vu cáo bậy bạ, xúi dục một số kẻ vô lương tâm (những kẻ nịnh thần) để viết những bài chửi bới lung tung, thu tập các nhóm ‘cao bồi du đãng’, biến thành những kẻ hung bạo đến đập phá tại Thái Hà, tấn công những nhóm tín hữu đang cầu nguyện; ngoài ra, còn hăm dọa ‘bỏ tù’ họ.

Tuy nhiên, cuộc bầy tỏ ý kiến lần này ở Thái hà và Hà nội đã không còn phải chỉ là riêng của Thái hà, của Hà nội nữa, mà đã trở thành tiếng nói của toàn dân Việt Nam. Hơn nữa, những biến cố này đã có tiếng vang khắp thế giới, chẳng những nơi các công đồng người Việt nam ở hải ngoại, mà còn vang vọng mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông quốc tế.

Nhìn vào thái độ của người tín hữu âm thầm cầm cầu nguyện, không bạo động, có người cho là Giáo hội Công giáo đã quá ‘nhẫn nhục’ khi đứng trước những phản ứng hung bạo của công an và cán bộ và những lối cư sử bất công của nhà nước. Hơn nữa lại có một số kẻ xấu ‘xúi xiểm’ dương đông kích tây, để xúi bẩy hàng giáo phẩm và giáo dân đi đến ‘bạo động’; nhưng Chúa Thánh Thần vẫn làm việc trong Giáo Hội, vẫn soi sáng cho giáo dân và hàng giáo sĩ khôn ngoan, sáng suốt và khéo léo, như chính Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Thày sai các con đi như chiên giữa sói rừng: Hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu.” (Matthêu 10,16). Giáo hội không gây bạo động, chỉ cầu nguyện, và tiếp tục ‘chịu những đau khổ, những nhục mạ, như cha ông trước đã từng chịu đựng và đổ máu ra qua hàng thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn trước đây. Rồi triều Nguyễn cũng đã qua đi, còn Giáo hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển.

Ngày xưa trong vườn ‘Cây Dầu’, khi nhóm người hung bạo đến bắt Chúa Giêsu, có những cử chỉ rất hỗn xược, Chúa Giêsu vẫn dịu dàng chấp nhận. Phêrô (theo Phúc Âm Thánh Gioan 18, 10) thì không chịu nổi thái độ xấc xược đó, nên đã rút gươm chém một tên, nhưng Chúa Giêsu ôn tồn bảo Phêrô: “Con hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm!” (Matthêu 26,52); rồi Chúa Giêsu nói tiếp: “Con tưởng Thày không thể kêu với Chúa Cha được sao? Người sẽ cấp ngay cho Thày hơn mười hai đạo binh thiên thần…” (Matthêu 26,53) và như vậy chắc chắn sẽ quét sạch mọi kẻ gian ác đang đứng đó!

Nhưng chương trình chịu khổ nạn để cứu nhân lọai của Thiên Chúa thì khác hẳn lối suy nghĩ của loài người. Trong dinh Tổng Trấn, Chúa Giêsu đã nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc thế gian này, những người của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. (Phúc Âm Gioan 18, 36…). Ở mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội Chúa luôn bị bách hại cách này hay cách khác (Bóng tối luôn ghét Ánh sáng). Nhưng noi gương Chúa, Giáo hội vẫn âm thầm chấp nhận chịu đựng, không bạo động, mà trái lại còn theo Lời Chúa “cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình” (Mat. 5, 44… Luc. 6, 27…) Vâng lời Chúa, Thánh Phaolô cũng nhắc nhở các tín hữu: “Hãy chúc lành cho những người bách hại anh em, chúc lành chứ đừng chúc dữ… (Thơ Rôma 12, 14).

Tuy không bạo động, nhưng Giáo hội cũng không sợ hãi, luôn giữ vững Đức Tin trước mọi mọi cuộc bách hại tàn bạo qua từng thế kỷ, theo lời Chúa đã bảo: “Chúng con đừng sợ…” (Luca 12,4…). Thánh Phaolô cũng nói với Giáo dân thành Philipphê: “Anh em đừng sợ những kẻ chống đối anh em…” (Phil. 1,28..). Khi trao quyền điều hành Giáo Hội trần gian cho Thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã nói: “Con là Đá, trên đá này, Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày, và không quyền lực nào có thể thắng nổi…” (Matthêu 16,18…) và Chúa đã hứa “Chúa vẫn ở cùng Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế” (Matthêu 28,20) để che chở gìn giữ và giúp Giáo Hội vượt qua mọi cuộc bách hại tàn bạo nhất qua mọi thời đại.

Hơn nữa, nhờ ơn Chúa Thánh Thấn soi sáng, dù luôn bị bách hại, Giáo hội vẫn có những giáo dân, những tu sĩ nam nữ hiến thân cả cuộc đời để phục vụ nhân loại, không phân biệt mầu da, chủng tộc, tôn giáo. Giáo hội vẫn cố gắng hiện diện các nơi: làm các trường học để mở mang văn hóa; xây cất các bệnh viện, các nhà cô nhi, viện dưỡng lão, các trại phong cùi để săn sóc giúp đỡ những con người đau khổ trên thế giới. Ngay ở Việt nam hiện nay, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng Giáo hội cũng vẫn hiện diện nơi các trại phong cùi qua các tu sĩ nam nữ để săn sóc các bịnh nhân.

Luôn tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, các tín hữu cùng toàn thể Giáo Hội của Chúa luôn cầu nguyện và phó thác; đồng thời chấp nhận mọi đau khổ, khốn khó để sống Tin Mừng và tiếp tục đem tình thương của Chúa đến cho mọi người, kể cả những ai bách hại họ. Chính những đau khổ, những hy sinh, những giọt máu đổ ra vì chân lý là mầm mống để tình thương của Chúa được phát triển khắp nơi trên thế giới, và Đức Tin, qua các thử thách, tôi luyện, sẽ được tinh tuyền và vững mạnh trong những tâm hồn thành tâm thiện chí trên thế giới.

Xin dâng các hy sinh và hiệp lời cầu nguyện nhiều cho Quê hương và Giáo hội Việt nam, cho toàn thể Gíáo hội, nhất là các nơi đang bị bách hại.

LM. Anphong Trần Đức Phương



Tuesday, September 30, 2008

Lần Giỗ Thứ 7 Tưởng Niệm TT Nguyễn Văn Thiệu

Lần Giỗ Thứ 7 Tưởng Niệm TT Nguyễn Văn Thiệu
(29.9.2001 - 29.9.2008) tại Falls Church - Virginia

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ & HÌNH ẢNH HOẠT ÐỘNG NHỮNG NĂM LÃNH ÐẠO (1965-1975)

Phạm Phong Dinh

Nước Việt Nam Cộng Hòa chỉ tồn tại được hai mươi năm, trải qua hai nền Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của bốn đời tổng thống: Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Một đất nước nhỏ bé chỉ có mười tám triệu dân đã anh dũng chiến đấu chống lại một đại khối cộng sản mười ba nước với số dân hơn một tỉ người, với đạo quân tiền kích hiếu chiến hiếu sát của chúng là quân đội cộng sản Bắc Việt. Dẫu Bắc Việt đã nhận được sự viện trợ gần như vô giới hạn của khối cộng, đặc biệt Liên Sô và Trung Cộng từ sau ngày Hiệp Ðịnh Ba Lê 27.1.1973, dẫu Việt Nam Cộng Hòa đã bị cái gọi là “đồng minh, bạn” bỏ rơi một cách tàn nhẫn, quân đội Bắc Việt vẫn phải rất khó khăn khi tiến vào ngưỡng cửa Sài Gòn ngày 30.4.1975, và sẽ không hy vọng thắng bằng quân sự, nếu Ðại Tướng Dương Văn Minh quyết định đánh tới cùng. Hai chiến thắng ở Thủ Thừa, Long An, của Sư Ðoàn 7 Bộ Binh với người hào kiệt Ðại Tá Ðặng Phương Thành, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 12 Bộ Binh và người dũng tướng Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh ở Xuân Lộc, đã khẳng định rằng, khi mặt đối mặt trên chiến trường, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chắc chắn chiến thắng.

Quân dân Việt Nam Cộng Hòa trong thế tứ bề thọ địch, phía trước là quân giặc hung hãng, bên cạnh là một người bạn phản trắc, từng nhiều lần giở trò đâm sau lưng, đâm ngang hông và thậm chí ngổ ngáo đâm ngay trước mặt, vẫn ngẩng cao đầu hiên ngang chiến đấu đến giờ thứ hai mươi lăm, thậm chí sang đến những ngày kế tiếp khi cuộc chiến đã tàn. Sau hơn ba mươi năm, sự thật lịch sử được phơi bày qua những hồ sơ đã được giải mật của từ mọi phía tham chiến, bức màn che giấu cái chết bi thảm của QLVNCH và Việt Nam Cộng Hòa đã được vén lên. Cộng sản Hà Nội sẽ hoàn toàn không thắng được quân dân Việt Nam Cộng Hòa, nếu không có sự trực tiếp hỗ trợ vô hạn của khối cộng, sự khiếp nhược và tiếp tay tích cực của điều gọi là “đồng minh”, và sự hèn nhát, thờ ơ và lãnh đạm của cái gọi là “thế giới tự do”. Ðiều gì chờ đón các binh đoàn cộng sản, một khi hàng trăm ngàn tay súng dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn giữ vững từng vị trí và thề tử sinh với giặc.

Ba mươi năm dài đã trôi qua mà niềm uất nhục của từng Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn như những vết thương hãy còn sưng tấy và nưng mủ, khi mỗi lần nhớ lại khoảnh khắc quá khứ người ta buộc các anh phải buông súng. Cộng sản Hà Nội nên nhớ rõ rằng, Người Lính QLVNCH chỉ buông súng theo lệnh của hàng tướng Minh, chứ không phải chiến bại trên chiến trường. Lịch sử đã ghi nhận rõ ràng điều đó, các thế hệ sau cũng sẽ rõ được uẩn khúc đó. Ngày nay, Trung Cộng đã công khai công bố bản văn bán nước của cộng sản Hà Nội thông qua việc Hồ Chí Minh lệnh cho Phạm Văn Ðồng gởi công hàm ngày 14.9.1958 công nhận lãnh thổ lãnh hải của Trung Cộng, trong đó bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản công bố này chắc chắn sẽ được bộ máy tuyên truyền của Trung Cộng phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam và toàn thế giới, để người dân biết được bộ mặt bán nước của cộng sản Hà Nội, và để hợp thức hóa chủ quyền và quyền khai thác tài nguyên trên những quần đảo này của Trung Cộng. Thế giới sẽ đương nhiên được an toàn khi ký kết những công trình khai thác dầu và khí ở đó. Nhân dân Việt Nam sẽ quăng vào mặt cộng sản Hà Nội kèm theo những bãi nước bọt bản văn bán nước nhục nhã này, chúng còn gì để rêu rao và để bào chữa nữa.


Ðất nước và nhân dân Việt Nam bất hạnh, Miền Nam dũng cảm kiêu hùng cũng bất hạnh. Bất hạnh không phải vì không đánh đuổi được giặc cộng, mà là vì chiến đấu trong nỗi cơ đơn cay đắng và cơ cực. Những người lãnh đạo của hai nền Cộng Hòa đã gồng gánh trên vai sức nặng của cuộc chiến đối đầu với quân địch đã đành, mà còn còng lưng dưới sức nặng phi lý và không cần thiết của những sự thiếu hiểu biết, kiêu ngạo với đồng minh nhưng khiếp nhược trước kẻ thù của người Mỹ. Chính những tướng lãnh và sử gia Hoa Kỳ đã khẳng định sự thật đó. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị giết chết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị buộc phải từ chức, đều phản ảnh nỗi bất hạnh của quân dân Việt Nam Cộng Hòa.

Trong lần tưởng niệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhân ngày Giỗ Thứ Bảy của ông, chúng ta cùng ngậm ngùi lật lại vài trang sử cũ có liên quan đến đời binh nghiệp và những năm lãnh đạo đất nước của ông. Một người lãnh đạo trong tư thế đối đầu với mọi thế lực bạn lẫn thù, một cá nhân nhỏ bé mà phải đương cự với hầu hết những tay lãnh đạo sừng sỏ nhất của thế giới, một con phượng hoàng ở giữa bầy hổ lang: Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh, Lê Ðức Thọ, Breznev, Kossygyn, Nixon, Kissinger. Và còn nhiều nữa, chưa kể đến nội thù mang đủ mọi màu áo tôn giáo và chính kiến. Thế mà ông đứng vững được đến tám năm, mà có lúc đã đem đến cho Miền Nam một nền kinh tế thịnh vượng trong bối cảnh tàn phá của chiến tranh. Tưởng công nghiệp ấy không phải người lãnh đạo nào cũng có thể làm được. Trong thời gian qua, chúng tôi may mắn tìm thấy được một vài tài liệu về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đặc biệt phần lược sử chính thức về ông do Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa biên soạn và phát hành năm 1971. Chúng tôi xin lược dịch toàn bộ văn bản này. Ðồng thời chúng tôi cố gắng sắp xếp và bổ sung thêm một ít hình ảnh theo thứ tự những năm chấp chánh của Tổng Thống Thiệu, cùng chia sẻ với độc giả, huynh trưởng quân đội và chiến hữu, để gọi là thay thế cho những nén hương hoài niệm về những cống hiến của ông cho dân tộc và tổ quốc.

“Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị Tổng Thống thứ hai của Việt Nam Cộng Hòa và cũng là vị Tổng Thống thứ nhứt của của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa sau Hiến Pháp ngày 1.4.1967.

Ông Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5.4.1923 tại làng Trị Thủy, tỉnh Ninh Thuận, thuộc phía Nam miền Trung. Ông Thiệu xuất thân từ một gia đình nông dân có một cuộc sống trung lưu nhờ vào sự cần mẫn trong công việc đồng áng. Ông bà thân sinh của ông Thiệu luôn chăm chỉ làm lụng để nuôi dưỡng đàn con năm người, ba trai và hai gái. Nhưng người anh chị em này cũng đã luôn giúp đỡ lẫn nhau trong sự sinh sống. Những năm niên thiếu, ngoài việc cắp sách đến trường cho đến khi vào trung học, ông Thiệu đã giúp hai người chị gái trong công việc buôn bán.

Trong những năm cuối của Ðệ Nhị Thế Chiến, từ 1945-1946, như hầu hết những người trai trẻ trong thời chiến, chàng thanh niên Nguyễn Văn Thiệu tạm xếp bút nghiên theo tiếng gọi đất nước, tham gia vào những nhóm thanh niên yêu nước trong phong trào có danh xưng là Tái Kiến Thiết Quốc Gia (National Reconstruction), một tổ chức trá hình của Việt Minh. Tuy nhiên, chàng thanh niên Thiệu đã sớm nhận ra rằng trong thời hỗn mang ấy, cộng sản đã lợi dụng lòng yêu nước của những người Quốc Gia để áp đặt lên nhân dân Việt Nam một chủ nghĩa xa lạ, ngoại lai. Ông Thiệu quyết định từ bỏ hàng ngũ Việt Minh để theo đuổi lý tưởng của riêng ông. Ðó là lý tưởng Quốc gia chân chính.

Năm 1948, Trường Võ Bị Quốc Gia được thành lập. Khóa học thứ nhứt của Trường Võ Bị được khai giảng tại Huế để đào tạo sĩ quan chỉ huy cho Quân Ðội Quốc Gia. Trước khi vào Trường Võ Bị, ông Thiệu cũng đã tốt nghiệp Trường Hàng Hải Thương Thuyền, nhưng ông đã nhận thức rằng chỉ là ở Quân Ðội ông mới có cơ hội thực sự chiến đấu chống giặc cộng sản. Năm 1949, chàng sĩ quan trẻ Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp Khóa I Võ Bị Quốc Gia với cấp bậc Thiếu Úy.

Suốt cuộc chiến tranh 1949-1954, từ chức vụ Trung Ðội Trưởng lên đến Trung Tá Trung Ðoàn Trưởng, rồi Tiểu Khu Trưởng, bước chân của ông Thiệu đã từng đặt lên mọi miền đất nước từ Nam, Trung và Bắc. Từ đồng bằng Miền Tây đến Hưng Yên, Phủ Lý ở Miền Bắc, trở vào Miền Trung trong chiến dịch năm 1954. Trong khoảng thời gian chỉ huy trên nhiều mặt trận đó, là một người lính chiến đúng nghĩa nhất, ông Thiệu đã góp vào những trang chiến sử những chiến thắng lừng lẫy. Ông được chiến sĩ và quân đội biết đến như là một người lính dũng cảm và chân chính, với tài lãnh đạo đơn vị và chỉ huy trên chiến trường. Ông còn chứng tỏ tài năng trong lãnh vực tham mưu quân đội.

Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu được đề cử đi tham dự nhiều khóa học ở ngoại quốc, như ở Trường Bộ Binh tại Coetquidan, Pháp quốc năm 1949. Tám năm sau, ông được củ đi học khóa Chỉ Huy Và Tham Mưu cao cấp ở Hoa Kỳ tại Trường Leavenworth, rồi năm 1960 tại trường Forth Bliss. Ngoài ra, Trung Tá Thiệu đã tham dự một khóa học ở Okinawa năm 1959.

Với những kinh nghiệm già dặn ở cả hai lãnh vực quân sự và lãnh đạo chỉ huy trong chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Khu II và Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, Trung Tá Thiệu được cất nhắc làm Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Ðà Lạt năm 1956. Trung Tá Thiệu đã góp công đào tạo hàng ngàn cấp chỉ huy hiện dịch ưu tú cho Quân Ðội trong bốn năm trách nhiệm. Với những thành quả to tát đó, ông xứng đáng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vinh thăng lên Ðại Tá, rồi được bổ nhiệm làm Tham Mưu Phó Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Liên Quân trong năm 1960. Sang năm 1961, Ðại Tá Thiệu được đề cử trông coi Sư Ðoàn 1 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 11 Chiến Thuật, chịu trách nhiệm giữ yên bình cho toàn khu vực gọi là Khu Phi Quân Sự (Demilitarized Zone) bao gồm luôn phần lãnh thổ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tháng 12.1962. Ðại Tá Thiệu từ giã Sư Ðoàn 1 Bộ Binh trở về Miền Nam trông coi Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 32 Chiến Thuật bao gồm phần lãnh thổ của 9 tỉnh thuộc khu vực Miền Ðông.

Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng tín nhiệm trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, kiêm Tổng Thư Ký Hội Ðồng Quân Lực (The Armed Forces Council). Cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Thiệu vẫn xoay chuyển không ngừng, với chiều hướng đi lên, khi ông được đề bạt lên làm Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật. Khi từ giã Miền Tây, ông lại được đề cử làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng.

Tháng 6.1965, khi chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước cho Quân Ðội, Hội Ðồng Quân Lực với 10 ủy viên đã bỏ phiếu kín bầu Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, một chức vụ hành xử như Quốc Trưởng của Việt Nam Cộng Hòa. Tiếp nối truyền thống dân chủ của nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa, Trung Tướng Thiệu đã đắc cử Tổng Thống trong lần bầu cử ngày 3.9.1967, với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng Thống. Tổng Thống Thiệu tuyên thệ nhậm chức, tuyên thệ trung thành với dân tộc và tổ quốc ngày 31.10.1967, mở đầu cho một trang sử mới và là bước đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.

Là một vị tướng chiến trường xuất sắc, Trung Tướng Thiệu đã được trao gắn rất nhiều huy chương Quân Ðội như sau:

- Ðệ Nhị Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Lục Quân Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Không Quân Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Hải Quân Huân Chương

- 11 huy chương các loại

- Lãnh Ðạo Bội Tinh, v.v..

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng bà Ðệ Nhứt phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh, người sinh quán ở Mỹ Tho, tỉnh Ðịnh Tường, có hai người con (ở thời điểm 1971) là Nguyễn Thị Tuấn Anh, 17 tuổi và Nguyễn Quang Lộc, 10 tuổi. Bà Thiệu là đương kim Chủ Tịch Hội Bảo Trợ Gia Ðình Binh Sĩ QLVNCH (National Association for the Protection of Military Dependents). Bà còn là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội Việt Nam (Vietnamese Women-In Service to the Society Association), đã khởi công xây dựng Bệnh Viện Vì Dân, là bệnh viện tân tiến nhất của Việt Nam”.

Từ năm 1971-1975, Tổng Thống Thiệu tiếp tục cương vị Tổng Thống nhiệm kỳ 2 với cụ Trần Văn Hương làm Phó Tổng Thống. Sau chiến thắng ngoại biên Kampuchea của cả ba Quân Ðoàn II, III và IV từ tháng 4.1970, quân cộng chạy trối chết ẩn náu sâu trong nội địa đất Miên, Tổng Thống Thiệu và nội các chánh phủ đã có được chút thời gian để phát triển kinh tế quốc gia. Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa được hồi sinh, doanh gia bắt đầu mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, nền kinh tế sáng sủa và có nhiều thành quả lớn. Hãng Citreon Pháp thiết lập lập cơ xưởng ráp xe ở Sài Gòn, Quân Ðội xúc tiến việc thiết kế sản xuất xe “Jeep Citreon” thay thế cho lại xe Jeep chính cống của Mỹ. Những cơ xưởng kỹ nghệ điện tử, truyền thanh truyền hình phát triển mạnh. Nền tài chánh Việt Nam gặt hái nhiều tiến bộ đáng kể với việc thành lập nhiều ngân hàng tư thu hút tiền vốn từ quần chúng. Nhưng đặc biệt và nhiều ý nghĩa hơn hết phải là việc ban hành Luật Người Cày Có Ruộng (Land for Tillers) được Tổng Thống Thiệu long trọng ban hành ngày 26.3.1970 tại Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, trong đó mỗi nông dân chưa có ruộng riêng được cấp phát 3 mẫu ruộng (mỗi mẫu rộng 10.000 thước vuông, 100mx100m) miễn phí. Thuế viên trạch hàng năm chỉ đóng vài trăm đồng Việt Nam tượng trưng, tất cả số huê lợi từ ruộng rẫy, nông dân hoàn toàn sử dụng, không phải giao nộp chánh phủ một hột lúa hay một củ khoai nào. Các cửa hàng doanh thương mua bán nhỏ, thí dụ như những tiệm chạp phô, tiệm may, quán ăn, v.v... cũng chỉ đóng thuế môn bài vài trăm đồng cho một năm. Chúng ta cũng nhớ lại rằng, lương tháng một công chức hay một giáo sư trung học lúc đó trong khoảng 20 đến 25 ngàn đồng, hoặc lương một anh binh nhì khoảng 18.000 đồng, thiếu úy chừng 21.000 đồng, thì thuế nông nghiệp và doanh nghiệp hằng niên chỉ có khoảng 200 ố 300 đồng, là một con số thật nhỏ bé.

Với sự giúp đỡ tích cực của đoàn chuyên gia nông nghiệp Ðài Loan, Viện Lúa Gạo IRRI ở Phi Luật Tân phổ biến các loại lúa mới Thần Nông 5, Thần Nông 8, sản lượng lúa của VNCH tăng vùn vụt. Các kinh tế gia thế giới và Việt Nam đã nhìn thấy triển vọng gần, rằng Việt Nam không còn nhập cảng gạo nữa, chẳng những thế mà trong tương lai còn có thể xuất cảng ra nước ngoài để lấy ngoại tệ về. Tổng Thống Thiệu và nội các của ông đã đưa đất nước lên mức phồn thịnh trong vòng hai năm 1970 và 1971, các chuyên gia đã thiết kế những kế hoạch ngũ niên phát triển nông, công, thương, khai hoang. Giáo sư Vũ Quốc Thúc được mời cầm đầu một nhóm chuyên gia nghiên cứu kế hoạch tái thiết và phát triển quốc gia.

Có thể nói rằng, hình ảnh những vị nguyên thủ quốc gia Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu bận rộn đi khắp mọi miền đất nước thường rất được thường xuyên nhìn thấy trên báo chí, truyền hình và phim thời sự. Hai vị Tổng Thống siêng năng đi thăm viếng những nơi chốn hẻo lánh nhất. Có khi là một chiếc cầu nhỏ của một toán tiền đồn Nghĩa Quân, một cái đồn lẻ loi giữa ruộng đồng của các anh Ðịa Phương Quân. Có lúc Tổng Thống Thiệu đến ăn Tết cùng các chiến sĩ ở trên một vùng cao nguyên đèo heo hút gió, hay ra tận miền hỏa tuyến để chia sẻ nắng bụi mưa bùn với những người lính ngày đêm trực diện với quân thù ở biên thùy, hoặc về những vùng sình lầy Cà Mau, Chương Thiện trao gắn huy chương cho những chiến sĩ lập kỳ công. Tổng Thống Thiệu còn là một người lính can đảm phi thường. Mặt trận Kontum tháng 6.1972 hãy còn nghi ngút khói than chưa tàn lụi mấy, mà ông đã cùng Trung Tướng Toàn đáp trực thăng xuống vinh thăng cấp bậc cho những chiến sĩ Kontum Kiêu Hùng, trong lúc pháo địch còn nổ ùng oàng chỉ cách mấy trăm thước.

Cũng trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm đó, khó ai có thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra, khi ngày 7.7.1972, chiếc trực thăng của Tổng Thống Thiệu bất ngờ đáp xuống giữa lòng thành phố An Lộc đổ nát, trong lúc pháo địch nhểu xuống cách ông có 400 thước. Ông còn gọi điện về bảo bà Thiệu: “Bà ăn cơm trước đi, đừng chờ tôi. Tôi ở đây với chiến sĩ An Lộc”. Những người lính Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, mà ký ức về vị Tư Lệnh thân mến của các anh còn chưa phai mờ mấy, đã hân hoan công kênh Trung Tướng Thiệu lên trong những tiếng reo hò chiến thắng vang dội. Tổng Thống Thiệu đã vinh danh tất cả những người lính, bất kể quân binh chủng nào đã đóng góp vào cuộc vinh quang, là Những Người Lính Của Bình Long Anh Dũng.

Ngày 28.6.1972, đại quân Việt Nam Cộng Hòa, với Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Kỵ Binh, Pháo Binh, Công Binh, Không Quân, Hải Quân, cùng tất cả các binh chủng yểm trợ tiếp vận xuất phát từ chiến tuyến Mỹ Chánh, dưới quyền tổng chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I & Quân Khu I ngồi trên một chiếc thiết vận xa M113 đốc thúc và quan sát, hùng hậu xuất phát. Mấy ngày sau, Tổng Thống Thiệu cùng nhiều yếu nhân quân đội, chánh quyền, quốc hội, ngoại giao đoàn đã ra đến tận bờ sông Mỹ Chánh khích lệ tinh thần binh sĩ. Là một vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Trung Tướng Thiệu không cần thiết và không nên lặn lội ra đến chỗ đầu sóng ngọn gió, nơi lửa đạn hiểm nghèo. Nhưng là một người lính từng dầm sương trải gió ngoài chiến trường, và cái cá tính can đảm, năng động, Trung Tướng Thiệu biết rằng sự hiện diện của ông bên chiến hào, ở tận tiền tuyến, là một việc phải làm, thế nào cũng phải làm. Nó nói lên được rất nhiều điều rất ý nghĩa hơn muôn vạn lần những lời động viên suông ở hậu phương. Ông cũng không quên đến Huế lần thứ nhì thăm đồng bào và xem người ta tái thiết chợ Ðông Ba như thế nào sau cơn hỏa hoạn đầu tháng 5.1972 (Chợ Ðông Ba cháy là do Việt cộng mặc quân phục VNCH phóng hỏa, rồi chúng la làng lên, rằng người lính của chúng ta làm chuyện ấy. Ðó là sự vu cáo bỉ ổi của bầy âm binh ngạ quỷ, với những tội ác kinh thiên mà chỉ có những loài quỷ cộng mới có thể làm được. Trong tác phẩm Biến Ðộng Miền Trung của ông Liên Thành, nguyên Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên, kể lại lời khai của tên Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan khi ông thẩm vấn nó. Hoàng Kim Loan xác nhận hỏa hoạn tại chợ Ðông Ba là do Việt cộng nằm vùng ở Huế đốt, rồi vu cáo người lính VNCH). Ðồng thời, người Tư Lệnh ngày xưa cũng dành thì giờ đến thăm Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, mà giờ đây ông rất yên tâm phú thác sư đoàn cho vị dũng tướng Phạm Văn Phú.

Sau Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 27.1.1973, đồng minh Hoa Kỳ đã có kế hoạch rút bỏ khỏi Miền Nam, điều khoản quy định về việc tiếp tục yểm trợ chiến cụ cho QLVNCH đã dần dần bị quên lãng. Việc Một Ðổi Một những vũ khí và dụng cụ chiến đấu hư cũ hay mất mát không còn được thực hiện, đi dần đến cắt giảm hoàn toàn. Hai trăm ngàn binh đội miền Bắc được văn kiện Hiệp Ðịnh hầu như hợp thức hóa sự hiện diện ở Miền Nam, cộng thêm người và chiến cụ bổ sung rùng tuôn vào Nam theo con đường Hồ Chí Minh, giờ đã được rộng mở thênh thang mà không bị một sự trừng phạt nào từ phía Hoa Kỳ, thể theo quy định của Hiệp Ðịnh Ba Lê. Sự thất thủ Phước Long tháng 1.1975, rồi đến Ban Mê Thuột tháng 3.1975, cuộc trắc nghiệm thái độ của Hoa Kỳ đã được xác định: người Mỹ đã thực sự bỏ rơi đồng minh. Cộng sản Hà Nội khởi động cuộc tổng tấn công quyết định chiếm toàn bộ Miền Nam, đưa đến quyết định rút bỏ các Quân Khu II và Quân Khu I trong tháng 3.1975 của Tổng Thống Thiệu. Hai Quân Ðoàn II và I bị thiệt hại nặng, quân số sụt giảm nghiêm trọng, nhiều sư đoàn và đơn vị chiến đấu bị tan rã một cách bi thảm. Những yếu tố đó buộc người ta phải nghĩ đến giải pháp thay thế Tổng Thống Thiệu, bởi ngại ông vẫn cứ lệnh cho QLVNCH tiếp tục chiến đấu. Ông Thiệu phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho một nhân vật nào đó mà phía cộng sản có thể “chấp nhận” nói chuyện được. Cái ảo tưởng đó đến ngày 30.4.1975, Hà Nội sẽ chứng minh nó hoàn toàn là điên rồ, vì chúng chỉ muốn chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng vô điều kiện.

Ngày 21.4.1975, Tổng Thống Thiệu lên đài truyền hình quốc gia đọc diễn văn từ giã dân chúng và Quân Ðội. Ông cay đắng nói nhiều lời trách cứ Hoa Kỳ tàn nhẫn bỏ rơi đồng minh. Chức vụ Tổng Thống được trao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tổng Thống Hương làm việc chỉ được một tuần lễ, ông là một chiến sĩ quốc gia có tinh thần chống cộng cứng rắn. Người ta lại phải áp lực cụ trao quyền Tổng Thống cho một nhân vật mềm dẻo và biết điều hơn. Trước mọi sức ép, Tổng Thống Hương đành bàn giao Dinh Ðộc Lập cho Ðại Tướng Dương Văn Minh ngày 28.4.1975. Ba ngày sau, vị Tổng Thống thứ tư của Việt Nam Cộng Hòa đọc lời đầu hàng trên hệ thống truyền thanh quốc gia buộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng ngừng chiến đấu. Lúc đó là 10 giờ sáng ngày 30.4.1975.

Sống đời lưu vong ở xứ người, thoạt tiên Tổng Thống Thiệu tạm cư ở Ðài Loan, thời gian sau ông sang cư trú ở Anh quốc, rồi cuối cùng sang định cư hẳn ở Hoa Kỳ, thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts. Mang mển trong lòng nhiều uẩn khúc và bí mật quốc gia, ông Thiệu lặng thinh cam chịu sự trách cứ của đồng bào và chiến hữu, về những thất bại và hậu quả ông đã gây ra cho đất nước. Thời gian dần trôi, ba mươi năm hơn, nhiều bí mật đã được phơi bày cho thấy còn rất nhiều yếu tố đóng góp vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Ðiều mà chúng ta có thể thấy được là, trong cương vị Tổng Thống của một nước nhược tiểu, Tổng Thống Thiệu đã làm tất cả những gì có thể để cứu vãn đại cuộc. Ông đã từng từ chối thẳng vào mặt Kissinger không chịu ký Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 31.10.1972, bất chấp sự bực tức điên người của ông Nixon, lúc đó đã sắp vào ngày bầu cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai của ông. Tổng Thống Thiệu còn quyết tâm không ký Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 27.1.1973, tỏ rõ chủ quyền quốc gia. Nixon buộc phải gởi một bức thư với lời lẽ rất cứng rắn và hằn học: “Nếu chánh phủ ngài không chịu ký vào văn bản ngừng bắn, thì chúng tôi buộc phải tiến hành ký đơn phương. Ngoài ra, chúng tôi sẽ thông báo với thế giới rằng chánh phủ của ngài ngăn trở hòa bình. Vì lý do đó, chúng tôi buộc phải cắt đứt viện trợ quân sự và kinh tế cho Miền Nam Việt Nam ngay tức khắc”.

Bức thư của Tổng Thống Nixon đã có thể trả lời cho những trách cứ đổ lên sự câm nín của Tổng Thống Thiệu. Dù ông Nixon có cắt hay không viện trợ, thì số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được quốc hội Hoa Kỳ với đảng Dân Chủ chiếm đa số quyết định trong những tháng cuối cùng: “Không một xu nào nữa cho chánh phủ ông Thiệu”. Ngày nay, cũng đảng Dân Chủ đang rục rịch muốn bỏ chạy ra khỏi vũng lầy Iraq và có thể cả Afghnistan, nếu họ thắng được cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11.2008 tới đây. Lịch sử như một chiếc bánh xe luôn lăn tiến về trước, nhưng có lúc nó cũng trở về khởi điểm ban đầu. Một cường quốc giàu có như thế, một quân đội hùng mạnh nhất thế giới như thế, chỉ đáng tiếc không có được những vị tổng tư lệnh đúng nghĩa, có tài thao lược bình định thiên hạ, có hùng tâm tráng chí đạt đến vinh quang, mà chỉ luôn nghĩ đến việc bỏ chạy trước địch quân. Một lần bỏ chạy ra khỏi Việt Nam là đã đủ. Nếu chạy nữa, không khéo thiên hạ sẽ đặt cho quân đội ấy, tổng tư lệnh ấy cái biệt danh “tướng chạy và quân đội chạy bậc nhất thế giới”.

Tổng Thống Thiệu mang những nỗi niềm u ẩn và nhiều bí mật ấy vào thế giới bên kia ngày 29.9.2001. Nhưng hẳn rằng, thời gian càng trôi qua thêm, thì các sử gia nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng như cuộc đời của Tổng Thống Thiệu sẽ còn khám phá ra được nhiều điều còn chưa sáng tỏ nữa.

Phạm Phong Dinh


Tác giả thi tập "Vô Đê" đã chửi thẳng vào mặt Bác và Đảng

    Tác giả thi tập "Vô Đề" đã chửi thẳng vào mặt Bác và Đảng, là hai thần tượng úy kỵ của csvn, bằng những lời thơ tuyệt độc, làm sao còn được sống sót sau ngày 17-07-1987!? Vậy, Nguyễn Chí Thiện nào ở hải ngoại, nếu không tá danh cũng nhận vơ tác phẩm
Đăng Văn Nhâm

Có lẽ đây là một trường hợp hãn hữu trong giới sinh hoạt văn học hải ngoại: Một thi phẩm ra đời không mang một cái tên, ngay cả hàng mấy trăm bài thơ tuyệt tác của thi nhân cũng chẳng được tác giả đặt tên sau khi thai nghén. Mặc dù đó là đứa con tinh thần yêu dấu, cưng quí nhất đời cuả thi nhân. Ông đã thai nghén đứa con tinh thần độc nhất vô nhị ấy lâu dài suốt bao nhiêu năm trời trong nhà tù, dưới gông cùm xiềng xích dã man của bọn quỉ đỏ đội lốt người ở miền Bắc VN.

Tập thơ ”Vô Đề” của Nguyễn Chí Thiện gớm 377 bài, đủ thể loại, đã do tác giả ném vội vào sứ quán Anh tại Hà Nội ngày 16.7.1979. Riêng theo lời giới thiệu tập Ngục Ca của VV Ái, có đoạn nguyên văn: ”... Tối 02.04.1979 anh (NG.C.Thiện) nhờ người bạn khâu vào ve áo một viên thuốc độc, rồi cắp tập thơ ” HOA ĐỊA NGỤC” (tên này do Ái tự đặt cho tác phẩm), một mình lấy tàu lên Hà Nội ...”

Theo tôi,việc khâu vào ve áo viên thuốc độc là việc sinh tử tuyệt mật trong xã hội CS tai vách mạch rừng đầy rẫy, huống chi lại không phải là chuyện khó đến nỗi một người đàn ông không tự làm được, phải nhờ tới một người bạn. Sau này lại còn đẻ thêm ra một nhân chứng Trần Nhu tự nhận đã ”tháp tùng” theo Ng. Chí Thiện đến tòa đại sứ Anh. Nhưng chỉ một mình Ng. Chí Thiện bị bắt ngay sau đó. Tại đây, một câu hỏi cần đặt ra: Tại sao công an đã không bắt luôn Trần Nhu? Sao Ng. Chí Thiện đã không dùng đến viên thuốc độc ấy khi bị công an bắt rồi lại cùm thêm một thời gian nữa khi chính tác giả đang bị bệnh lao hành hạ đến thời kỳ thứ 3, khạc ra máu trong hoàn cảnh không có thuốc men và thiếu hẳn mọi phương tiện dinh dưỡng vệ sinh ...?

Từ đó hiển nhiên không một ai ngoài đời biết được số phận của tác giả ”Vô Đề” ra sao , ngoại trừ bàn tay đẫm máu hận thù của đảng CS. Còn tác phẩm Vô Đề thì đã được nhân viên sứ quán Anh trao lại cho một tạp chí VN ở hải ngoại. Vì thế thân phận của tác phẩm này cũng chẳng khác nào một đứa con rơi, vô thừa nhận ngay từ lúc mới mở mắt chào đời. Nó đã được truyền qua tay nhiều người. Trong số văn nhân, thi sĩ cũng có, con buôn chữ nghĩa và bọn lưu manh ăn cắp tác phẩm cũng chen vào để mong kiếm chác chút đỉnh tiền bạc! Vì thế, tác phẩm đặc biệt này đã bị những bàn tay ấy đặt cho nhiều tên khác nhau.Như: Hoa Địa Ngục (nhà XB Quê Mẹ), Quê hương Tù Ngục (Phong trào thanh niên hành động xã hội), Bản chúc thư của một người VN (nhà XB Tú Quỳnh)... Ngoài ra còn có bản NGỤC CA phổ nhạc của Phạm Duy, do nhà XB Quê Mẹ ấn hành.

Theo lời giới thiệu nhạc phẩm Nhục Ca của nhà XB/ QM thì tác giả Nguyễn Chí Thiện sinh vào tháng 6 năm 1933, tại phố hàng Bột ở Hà Nội. Riêng trong tác phẩm gốc, Ng. Chí Thiện cho biết ông ra đời năm ngày 27.02.1939. Điều nào đúng điều nào sai?

Hiển nhiên và hợp lý nhất mọi người đều phải tin vào lời của Ng. Chí Thiện và gạt bỏ ngay lời suy đoán hay nghe hơi nồi chõ của VV Ái!

Nhưng đáng kể nhất, vì từ hồi nào đến giờ không thấy một ai nêu lên điểm then chốt này. Hoặc giả vì không biết, hoặc có người biết mà không cho là quan trọng?

Đó là tin: NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN ĐÃ CHẾT TRONG NGỤC TÙ C.S., THÁNG 7.1987.

Tin này do Ủy Ban Văn Nghệ Sĩ bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế (PEN CLUB INTERNATIONAL) đã thông tri nghiêm chỉnh đến các hội viên. Nên biết UBVNSBCT (anh ngữ viết tắt là: WIPC) do bà Leedom Arckeman làm chủ tịch và sưu tầm viên của WIPC là cô Sarah Whyatt. Bây giờ , thời gian trôi qua đã lâu, có lẽ những người khác đã được bầu thay thế vào 2 chức vụ đó. Nhưng,nếu muốn truy tầm tin tức người ta vẫn có thể liên hệ với Ủy Ban WIPC/ PEN Club Inter ....!

Đến bây giờ nghi vấn ”NG. Chí Thiện thật hay giả” bỗng nhiên lại được vài người nêu lên trên các diễn đàn diện tử khiến dư luận lại trở nên sôi nổi.Nhưng nhìn chung, từ đầu, dư luận đã chia thành 2 khuynh hướng rõ rệt. Một bên sáng suốt, cấp tiến, gồm một số nhà văn, nhà thơ quen thuộc đưa ra những nghi vấn có phần cụ thể, song vẫn chưa đủ chứng liệu cụ thể để minh thị: con người bằng xương bằng thịt gọi là Ng. Chí Thiện hiện nay ở Mỹ chỉ là Ng. Chí Thiện giả, hoặc chỉ là người soán đoạt thi phẩm ”Vô Đề” của một tác giả vô danh nào đó đã bị CSVN thủ tiêu ngay sau khi vừa ném được đứa con tinh thần của mình vào tòa đại sứ Anh như một tiếng kêu uất hận đầy tuyệt vọng để lại cho đồng bào và hậu thế!

Ngược lại, vẫn còn một số người tâm hồn đơn giản, chất phác cứ chấp nhận bừa ... cho xong chuyện!

Theo tôi, vấn đề này , bây giờ mới được đặt trở lại trước công luận cả trong lẫn ngoài nước vẫn chưa trễ lắm. Vì con người mang tên Ng. Chí Thiện (thật hay giả chưa biết) vẫn hãy còn đang sống sờ sờ. Bắt buộc ông ta phải tái chứng minh thân thế của mình trước pháp luật và công luận. Trong khi chờ đợi chuyện điều tra và tự minh xác nguồn gốc của ông Ng. Chí Thiện hiện hữu, kể cả khảo sát và trắc nghiệm trình độ Pháp ngữ của đương sự, thiết tưởng, chúng ta cần trăn trở tư tưởng chung quanh 2 luận điểm sau đây:

1. Giả thiết: tác phẩm VÔ ĐỀ vốn dĩ của một tác giả vô danh. Sau khi đã ném được đứa con tinh thần của mình vào tòa đại sứ Anh rồi, tác giả liền bị CACS bắt và thủ tiêu luôn. Nhưng CSVN sợ sẽ bị các cơ quan Quốc Tế Nhân Quyền, hội Ân Xá Quốc Tế, các hiệp hội Văn Hóa trên thế giới, như PEN INTERNATIONAL, UNESCO ... lên tiếng, đòi hỏi được tiếp xúc với tác giả hay can thiệp cho tác giả v.v... Trong khi đó tác giả Vô Đề (thiệt) đã bị CACS thủ tiêu mất rồi, thì thực là rắc rối to! Đó là một hành động giết người cực kỳ vô nhân đạo. Có thể bị dư luận thế giới kết án nặng nề!

Bởi vậy, để bưng bít hành vi dã man phi nhân tính, CSVN đành phải đẻ ra một Ng. Chí Thiện giả mạo, rồi cho ra ngoại quốc luôn. Thủ đoạn này là một tuyệt chiêu chỉ có đảng CSVN mới dám thực hiện, để che mắt nhân loại trên thế giới . Như vậy, một mặt, CS đã dùng Ng. Chí Thiện giả , để giấu nhẹm vụ án thủ tiêu tác giả Vô Đề. Không ai còn lý do gì để bới đống tro tàn ấy làm chi. Mặt khác,với trò ”linh miêu tráo chúa”, đảng CS còn dùng Ng. Chí Thiện giả này làm một nhân chứng sống, tuyên truyền cho Việt Kiều hải ngoại và toàn thể thế giới tự do thấy rằng đảng CSVN nhân đạo vô cùng và đã xử rất khoan hồng đối với một nhà thơ ”cực kỳ phản động” dám làm thơ lôi đích danh đảng CSVN và Bác Hồ muôn vàn kính yêu của người CS ra chửi rủa thậm tệ. Đó vốn là 2 thứ TABOUS (sujets tabous) tuyệt đối cấm kỵ của CSVN. Tuyệt đối không một ai được phép động chạm đến, dù chỉ bằng lời nói bóng gió xa xôi. Nếu kẻ nào vô tình ”phạm húy” lập tức bị bọn CACS vồ ngay và đem đi cùm liền đến mút mùa Giao chỉ luôn.

Để chứng minh điều trên đây là sự thực, có cơ sở kiểm chứng và lý luận hẳn hoi, tôi xin mạn phép trưng dẫn 2 thí dụ điển hình sau đây để bạn đọc bốn phương thế giới có dịp đối chiếu giữa những lời thơ chửi đảng, chửi bác của tác giả tập thơ Vô Đề rất nặng nề, đau đớn đến mức bất khả dung tha, với một câu chuyện ”tiếu lâm” mà bọn CSVN gọi là: ”khôi hài đen” rất nhẹ nhàng của danh ca Anh Ngọc.

Trong 377 bài thơ của thi phẩm Vô Đề, tác giả đã chửi đảng CS như thế nào? Đây mời bạn hãy nghe:

Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp,
Giải phóng đàn bà thành đĩ, thành trâu,
Giúp người già bằng bắt bớ rể, dâu,
Và cải tiến dânh sinh thành xác mướp,
Đảng thực chất chỉ là đảng cướp,
Dựng triều đình mông mọi giưã văn minh
Sống tạm thời nhờ thủ đoạn yêu tinh,
Nhờ súng đạn Tàu, Nga, bắt bớ,
Đảng tắt thở cuộc đời mới thở,
Đảng còn kia bát phở hóa thành mơ ...

Về Tabou bác Hồ muôn vàn kính yêu của CS, tác giả Vô Đề đã lôi cáo Hồ ra chửi bới như thế nào? Xin mời bạn đọc thưởng thức:

Hôm nay 19.5.
Tôi nằm
Toan làm thơ chửi bác
Vần thơ mới hơi phang phác
Thì tôi thôi
Tôi nghĩ bác
Chính trị gia sọt rác
Không đáng giá để tôi
Đổ mồ hôi
Làm thơ
Dù là thơ chửi bác
Đến thằng Mác
Tổ sư bác
Cũng chưa được tôi nguệch ngoạc vài câu
Thôi hơi đâu
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu , xoa đầu, mơn trớn bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ Cha bác!

Trên đây là 2 bài thơ của tác giả Vô Đề đả chửi đảng CSVN và Bác Hồ hết sức tàn bạo. Nếu đem so với câu chuyện khôi hài đen sau đây của Anh Ngọc, hồi còn kẹt trong nước, bạn sẽ nghĩ thế nào về trường hợp Nguyễn Chí Thiện tự nhận tác giả thi phẩm Vô Đề mà vẫn còn sống nhăn và béo tốt hồng hào qua Mỹ rong chơi ?

Một hôm ngồi quán cà phê Anh Ngọc đã vui miệng kể chuyện tiếu lâm cho mấy người bạn thân nghe. Anh Ngọc kể:

- Trong một cuộc tham quan miền Nam, một vị tổng bí thư muốn tỏ ra thân dân, bèn hỏi một người lao động:

- Đời sống lúc này như thế nào?

- Dạ, thưa ngài tổng bí thư ... như đi xe buýt ạ! Một người lái cả đám ngất ngư!

Sau khi Anh Ngọc vừa dứt lời tên CA bàn kế bên liền bước đến trước mặt Anh Ngọc, chĩa súng mời về đồn CA làm việc ngay. Sau đó Anh Ngọc đã bị cùm trong trai giam suốt 3 năm.

Khi được tha, anh ra khỏi nhà tù với tấm giấy chứng nhận được trả tự do vì tội đã kể chuyện ... khôi hài đen! Đơn giản và dễ như chơi vậy thôi!

· Ghi chú: Khi Anh Ngọc qua Mỹ, nhân một dịp gặp lại nhau ở Santa Ana, Cal, tại báo quán Người Việt, Anh Ngọc đã kể lý do đi tù CS này với tôi và đã chụp chung với tôi một tấm hình kỷ niệm!

Tóm lại, chỉ vì câu chuyện tiếu lâm nhẹ nhàng, bóng gió kể trên mà Anh Ngọc đã phải trả giá đến 3 năm ngục tù cùm kẹp. Vậy, nếu đem so với tác phẩm Vô Đề, thì cái giá tác giả phải bị thủ tiêu ngay là điều dễ hiểu và rất thường diễn ra cả ngày lẫn đêm dưới chế độ CS.

Tất nhiên, từ đó ta suy ra, sau ngày 020.4.1979, tác giả tập thơ không thể nào còn sống sót, nhất là người ấy đã bị bịnh lao phổi đến thời kỳ thứ 3, đã khạc ra máu trong tù không thuốc men và vệ sinh, dinh dưỡng.

Trên căn bản sự kiện này ta có thể kết luận ngay mà không sợ bị sai lầm bao nhiêu: Nguyễn Chí Thiện hiện hữu hoàn toàn không phải là tác giả thi tập Vô Đề!

2. Ngược lại, giả thiết, nếu Nguyễn Chí Thiện ngày nay ở hải ngoại là Ng. Chí Thiện thật, thì ông ta vẫn không thể là tác giả thi phẩm Vô Đề. Bởi tìm hiểu trong tác phẩm ”Vô Đề”, trước hết ta thấy rất nhiều mâu thuẫn trầm trọng về tuổi tác, về thời gian bối cảnh lịch sử cùng với vô số nghi vấn nghịch đảo, mù mờ về sự việc. Sau đó nếu đem so sánh với những chi tiết lý lịch và những hoạt động chính trị hiện hữu của Nguyễn Chí Thiện trong đảng Việt Tân, con đẻ của tổ chức kháng chiến bịp Hoàng Cơ Minh, ai cũng thấy Nguyễn Chí Thiện bằng xương bằng thịt ngày nay ở hải ngoại chẳng giống với tác giả Vô Đề chút nào. Sao kỳ cục vậy? Vải thưa bưng mắt thánh được sao?

Chú ý: Bạn đọc nào muốn tìm hiểu thêm những chi tiết chính xác về những mâu thuẫn này ,xin tìm đọc bài: NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ QUAN ĐIỂM VÀ THÂN THẾ GIỮA TÁC GIẢ TẬP THƠ VÔ ĐỀ VÀ NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN. [Bài của THẾ HUY, 1997] hoặc vào xem trang nhà đang loan tải: www.dangvannham.com

Tóm lại, để khỏi phí thì giờ với chuyện Ng. Chí Thiện thật/ giả, nhất là để tránh thói quen đã trở thành cố tật của đa số người Việt là ” đánh trống bỏ dùi”, sau vài hôm tranh luận rùm beng rồi tắt lịm luôn, hơn thế , tránh khỏi bị Ng. Chí Thiện và phe nhóm cười vào lỗ mũi những người nêu vấn đề lên trước công luận, tôi mạn phép đề nghị những ai có nhiệt tâm đối với vấn đề này xin cùng nhau lập tức lập ra một ủy ban điều nghiên về tác giả thi tập Vô Đề. Vấn đề này phải lồng nó trong khuôn khổ văn hóa và chính trị, diệt CS nằm vùng ở hải ngoại thì mới kêu gọi được nhiều người hưởng ứng.

Đặng Văn Nhâm


Gởi “học giả” Nguyễn ngọc Bích


TamBaDang

Đọc “cái gọi là” bức thư của Nguyễn Ngọc Bích gởi cho TamBaDang và ông tieudietcs nào đó, đọc giả trên các web thấy anh Bích đã mất bình tĩnh rõ ràng, nếu không muốn nói Bích sợ mất phần ăn nên phát Điên chăng? Bích nói: “HAI ÐỨA CÙNG MỘT DUỘC VỚI TRIỆU LAN, nghĩa là một trong ba tên ngồi đáy giếng ở Luân Ðôn...”. Rõ ràng là Bích vì sợ mất ăn nên Điên. Ông tieudietcs nào đó ở đâu không ai rõ, ông/bà Triệu Lan đang ở Luân Đôn, riêng TamBadang hiện nay đang ở Á Châu, mà lại đang ở trong khu Gia Binh thì làm sao mà “CÙNG DUỘC” với mấy người kia hả anh Bích? anh Bích cũng là loại thầy Mò nên anh mới mò sảng và nói sảng. Anh Bích tự cho mình là “học giả”, mà anh Bích “nghiên Kíu” kiểu này thì hỏng to, chứng tỏ là anh Bích đếch có đọc những gì trước đây TamBaDang thách đố anh “nhà văng” Chu tất Tiến, khi Tiến tính “vinh danh” tên gian tà Hoàng Minh Chính mấy tháng trước đây. Dân bình thường thì làm sao có thể trú ngụ trong khu Gia binh phải không anh Bích? Bích đúng là một thằng Điên. Không tin anh Bích làm ơn “Nghiên Kíu” trong quân đội xem có ai tên TamBadang không? Tìm thử mới tin chứ anh Bích.

Anh Bích là người dịch tập thơ Vô Đề ra tiếng Anh! Đúng. Nhưng anh Bích chỉ nên là sở hữu của phần Anh ngữ của tập thơ mà thôi. Chuyện này anh Bích nên viết ra giấy trắng mực đen cho rõ ràng là: “Nguyễn Ngọc Bích Chỉ Làm Chủ bản Quyền của Phần Anh Ngữ tập thơ Vô Đề”, chứ anh Bích đừng nói khơi khơi là: tập thơ Vô Đề “Hoa Địa Ngục copyright by Nguyen Ngoc Bích”, thì cái này kỳ lắm, chôm chỉa đấy anh Bích ạ. Anh Bích lập lờ kiểu này mai mốt hay vài chục năm nửa mấy đứa nhỏ chúng không hiểu thì chúng sẽ cho rằng: “anh Bích là tác giả tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục) cả bản Việt ngữ cùng Anh ngữ” thì bỏ mẹ. Cả một quyển sách “Hoa Địa Ngục” dầy hơn 500 trang chỉ có mỗi câu Hoa Địa Ngục “copyright by Nguyen Ngoc Bích” vậy là sao?. Anh Bích nên ra chiêu khác đi, chiêu này xưa rồi anh Bích.

10 điều do anh Bích đưa ra thì chả có dính gì tới tác giả tập thơ Vô Đề, nhưng sao anh Bích lại hỏi TamBaDang. Anh Bích đã mất bình tĩnh nên anh hỏi sảng chăng? Chưa hiểu người mình đang gửi thư kia là ai thì đã anh Bích đã phán rằng: “Gửi hai tên Công An hạng bét TamBa Dang va tieudietcs” Bích đúng là một tên hồ đồ. “Giáo sư, học giả” kiểu của anh Bích thì làm sao anh dạy người khác đây. Nếu bình tĩnh thì anh Bích nên tìm xem 4 lá thư tay của anh Thiện do báo Saigon nhỏ đăng lên, để anh Bích xem chỉ có 4 trang giấy do NCT viết thì đã có mấy dòng chữ khác nhau. Tại sao lạ vậy? Cái xạo của NCT đã hé lộ từ ngày đầu anh Thiện bước chân đến Mỹ kia, chưa hết cả một miền Bắc từ năm 1954 đến 1995 duy nhất chỉ có 1 mình anh Thiện được đi qua Mỹ theo diện HO là sao?

Đọc báo Saigon nhỏ thấy anh Thiện kể về cách anh quăng tập thơ Vô Đề vào sứ quán Anh vào năm 1979 mà bật cười. Anh Thiện còn dám dựng chuyện “cởi quần móc ra.... tập thơ Vô Đề.... làm “cô gái ng: Anh sợ quá há hóc mồm”. Anh “láo sĩ” Thiện chỉ có thể “cởi quần móc ra...” con gà để quăng vào mặt của Nguyễn Ngọc Bích. Chứ cô gái “ng: Anh” nếu cô “sợ” khi thấy Thiện “móc ra...” con gà thì cô cũng móc ra “chó lửa” chứ làm sao cô phải “há mồm đánh rơi cả lược” ngay trong sứ quán Anh. Mấy em làm trong sứ quán và nhất là sứ quán trong các nước cộng sản, nếu không là “ram bong” thì cũng là “jane bong” cứ làm gì có kiểu sợ để “há mồm”. Đúng là cả một đám bịp kiểu tam đại bần cố nông.

Bằng chứng về anh Thiện nhiều người đã viết ra ràng ràng như vậy mà mấy anh gà mờ không chịu hiểu, chứ đem chuyện Thiện thiệt, Thiện giả, Thiện ở tù ra và làm loạn trên các web-site. Anh Thiện bằng xương bằng thịt đang sống ở vùng Nam Cali là anh Thiện Thật, nhưng anh Thiện Thật có ở tù thì ăn nhậu gì đến anh Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Đề?! Anh Thiện ở tù với người này người kia thì cũng đâu có đồng nghĩa anh Thiện là tác giả của tập thơ Vô Đề?! Rồi lại đi thử DNA hay lấy dấu tay của anh Thiện thì có dính dáng gì đến anh Thiện không phải là tác giả của tập thơ nói trên?! Từ đây về sau xin các ông gà mờ đừng nên nêu lên vấn đề Thiện Thật hay Thiện Giả nửa. Mà nên hỏi rằng: Nguyễn chí Thiện có phải là tác giả của tập thơ Vô Đề hay không? Thế thôi. Vậy ra công chúng chứnh minh như báo Saigon nhỏ yêu cầu kia?!

Thuộc lòng thơ trong bụng thì ai chẳng thuộc được, bằng chứng TambaDang này thuộc lòng bài thơ “Giai Nhân Và Tráng Sĩ” của Hoàng Cung Khanh hơn mấy mươi năm nay. Bài thơ này rất dài tựa như bài Đồng Lầy trong tập thơ Vô Đề vậy, bây giờ đọc ra không sai một chữ thì sao đây? Vậy bài thơ này của Hoàng Cung Khanh hay là của TamBadang? Ông cụ Đàm Quang Thiện thuộc làu làu, đọc ngược đọc xuôi Truyện Kiều thì chẳng lẽ Truyện Kiều của ông ấy viết ra chắc!. Cho nên người học thuộc lòng thơ khác với tác giả của bài thơ hay tập thơ chứ. Các bạn đọc nên nhận thức ra điều này để đừng lầm lẫn, rồi cứ mãi Thiện Thật, Thiện Giả. Vậy các bạn nên chấm dứt vấn đề đặt câu hỏi Thiện Thật, Thiện giả. Vì bọn Cộng nằm vùng sẽ đem vấn đề Thiện Thật, Thiện Giả để lái chúng ta sang mục tiêu khác, hơn là tìm ra tác giả đích thực của tập thơ Vô Đề.

Nếu Bố ông Bích còn sống anh em chúng tôi thừa tang chứng để đem Bố ông ra tòa, và phát động một cuộc truy tố cho tất cả những tên Cộng sản đã nhúng tay vào tội ác tương tự, bọn này chúng đang sống nhở nhơ trên các xứ tự do. Nhưng chúng tôi không muốn làm như thế, vì đời sống mỗi nạn nhân đó dính liền với sự thăng trầm của đất nước họ, những đau khổ của cá nhân rồi cũng sẽ vơi đi, nhưng chính chúng tôi là những người tha thứ các tên Việt Gian đã tàn sát người thân của chúng tôi và chính chúng tôi quên đi tội ác của chúng, chứ không phải các tên gây nên tội lỗi chỉ viết vài ba câu xạo xạo cãi chầy cãi cối mà buộc chúng tôi quên đi tội ác của chúng được. Ông Bích nếu thách đố, thì anh em chúng tôi sẽ đưa ra ánh sáng tội ác này cho ông xem, ông Bích dám thách đố không?!. Chuyện bức tranh Monalisa trăm năm sau người ta còn tìm ra được bằng chứng kia mà, huống hồ tội ác đây có nhiều nhân chứng đang còn sống chẳng lẽ lại không tìm ra sao?! Ông Bích nếu biết lỗi thì ông nên câm cái mồm ông lại đi và đừng gây thêm tội. Quá đủ rồi ông Bích. Bố ông gây tội ác với những người cách mạng yêu nước, thì tại sao ông không làm những điều tốt để linh hồn của ông cụ của ông được thanh thản, mà ông lại tiếp tục đi trên con đường gian trá, lập bè kết đảng với những tên tội phạm Việt Gian?

Ông có nghĩ rằng hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ chết bên Việt Nam có phải là đồng đội của những người Việt Nam hiện đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ bây giờ không? ông hiểu được những người lính này họ nghĩ gì về tụi Cộng sản hiện nay không? ông chưa đi lính ngày nào thì làm sao các ông hiểu được tình “huynh đệ chi binh” trong quân đội?.

Sẳn đây tôi cho ông biết luôn Bà Cụ của tôi sinh năm 1914 năm nay 2008 vẫn còn sống khoẻ mạnh và còn rất minh mẫn, người chị lớn của tôi sinh năm 1931 cũng còn đang sống khỏe mạnh, ông tưởng những người của thế hệ trước họ đã chết cả rồi sao, ông nhầm rồi còn nhiều người nửa ông Bích ạ. Những người này họ đang sống bên Mỹ và họ sống không xa ông bao nhiêu.

TamBaDang

T.B “học giả” Nguyễn ngọc Bích dịch cụm từ: “A Voice from the Hanoi Underground” ra thành (Một tiếng nói chui từ Hà Nội) - trang số 9 hoa địa ngục. Dịch như vậy là số dzách rồi còn gì đúng hông anh Bích. Đúng là học ... giả.