Saturday, August 9, 2008

Dllas, Texas, USA: Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam 2008

  • Tâm Thư
Kính gửi Toàn Thể Các Anh Chị Em Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam

Thưa Quý Anh Chi,

Trong cơn quốc nạn 30 tháng 4 năm 1975, anh chị đã phải chịu nhiều gian truân và cay đắng tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần.

Sau hơn 33 năm, nay nhìn lại đoạn đường dài đã qua, biết bao ký ức lại hiện về. Những năm tháng đau khổ, nhục nhằn trong trại tù, những tuyệt vọng xen lẫn những hy vọng mong manh trong tăm tối, và những chia xẻ của người đồng cảnh ngộ...

Nhiều người bạn của chúng ta không còn nữa vì đã bỏ xác nơi thâm sâu cùng cốc. Nhiều người tuy thoát cảnh tù đày vẫn phải kéo dài cảnh sống đen tối trên quê hương do các quyền sống căn bản của con người đã bị tước đoạt. Nhiều người khác đã mạo hiểm vượt biển, hoặc băng rừng bất chấp mọi hiểm nghèo để đi tìm tự do. Do đó, không ít người đã phải bỏ thây trên biển cả hoặc nơi rừng sâu, núi thẳm.

Biết bao thảm cảnh đã xảy ra cho tới khi có Chương Trình HO cho phép tù nhân chính trị VN ra đi một cách chính thức. Tính đến hôm nay, đã có trên 300,000 cựu tù nhân chính trị và gia đình được định cư tại các nước tự do, đa số đã định cư tại Hoa Kỳ.

Trên vùng đất tự do, đời sống của các anh chị chắc chắn vẫn còn nhiều điều khó khăn cần vượt qua, nhưng đã tương đối ổn định. Không ít con cháu của các anh chị đã thành đạt và có một tương lai tươi sáng, đầy hứa hẹn. Cảnh "tre già, măng mọc", thế hệ con cháu của chúng ta đang lớn lên và trưởng thành. Nhưng thời gian không bao giờ dừng lại. Tuổi đời chúng ta nay đã sang buổi xế chiều và biết bao anh chị đã ra đi vĩnh viễn.

Chúng ta phải làm gì cho thế hệ con cháu hiểu được những hy sinh mà chúng ta và chiến hữu của chúng ta phải trả bằng máu và nước mắt để các thế hệ nối sau ở vùng đất xa quá nửa quả địa cầu này hiểu được cảnh sống bi thảm từng xảy ra cho quê huơng VN cùng những gian khổ hiểm nghèo mà thế hệ cha ông của các em đã phải đối đầu.

Đó là mối ưu tư mà nhiều anh chị em đã chia xẻ với tôi. Từ mối ưu tư này, đã nảy sinh ý kiến kêu gọi tất cả các anh chị em cựu tù nhân chính trị khắp nơi trên thế giới hội tụ về "NGÀY TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 2008" với bốn mục đích:

1.- Là ngày hội ngộ tù nhân, hàn huyên nhằm thắt chặt mối liên hệ, chia xẻ kinh nghiệm và nâng đỡ tinh thần giữa những người đã bỏ một phần đời trong lao tù CSVN. Nay họ được đi định cư ở đất nước tự do bằng bất cứ phương diện nào.

2.- Thực hiện một cuộc triển lãm tiêu biểu các trại tù suốt từ Nam chí Bắc.

3.- Đóng góp, gìn giữ và phổ biến những trang sử bi hùng cho thế hệ con cháu chúng ta bằng những nhân chứng sống, không thể xuyên tạc...

4.- Chia xẻ mát mát, hy sinh của các thương phế binh Quân, Dân Cán Chính VNCH, một phương châm của người TNCT: “không quên bạn tù, không quên đồng bào đau khổ”

Lý do khiến chúng tôi kêu gọi các anh chị em đóng góp vào công cuộc gìn giữ và phổ biến những thực cảnh của một giai đoạn lịch sử bi hùng cho thế hệ con cháu chúng ta là vì không ai có thể làm việc này chính xác, đầy đủ và sống động bằng những nhân chứng sống. Những nhân chứng sống này chính là các anh chị em, những cựu tù nhân chính trị VN.

Các anh chị em đã phải hy sinh chịu đựng quá nhiều trong không ít cảnh ngộ đày ải trầm luân. Không thể để những thực tế ấy chìm vào quên lãng theo thời gian. Trước khi chúng ta đã nhắm mắt xuôi tay, chúng ta cần phải lưu lại cho con cháu chúng ta những câu chuyện thực về đời mình, về đời của những người Việt Nam yêu chuộng tự do đã phải trả giá bằng máu và nước mắt như thế nào. Những câu chuyện, những hình ảnh mà chúng ta sẽ tái tạo về nhà tù và những cảnh đày đọa mà các anh chi em từng trải qua sẽ là những minh chứng hùng hồn cho những trang sử đau buồn của đất nước, là những bài học vô giá cho con em chúng ta, và là hành trang quý báu vào đời để chúng luôn ngửng đầu hãnh diện về cha ông và nguồn gốc của chúng trên đất nưóc Hiệp Chủng Quốc này và trên toàn thế giới.

Những ý nghĩ trong Bức Tâm Thư này là một lời kêu gọi gửi đến toàn thể anh chị em cựu tù nhân chính trị. Kính mong được các anh chị em hưởng ứng, phổ biến rộng rãi NGÀY TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM sẽ tổ chức tại Dallas, Texas trong 3, 4 & 5 tháng 10 năm 2008 làm nơi hộïi ngộ của chúng ta. Để việc tổ chức được chu đáo xin quý anh chị em ghi danh bằng phương tiện nào thuận tiện nhất cho quý anh chị.

Kính chúc quý anh chị em cùng gia đình nhiều sức khỏe và mọi điều tốt đẹp.

Trân trọng,

Khúc Minh Thơ

· Ghi danh qua website: Hoigiadinhtnct.org vào phần ghi danh: NGAYTUNHANCHINHTRI

· Điện thoại: (703) 560-0058

I. Lệ Phí tham dự “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam 2008” tại Dallas.

• Nhằm tạo điều kiện cho nhiều Cựu Tù Nhân Chính Trị và gia đình khắp nơi về tham dự đông đủ, và tất cả Dân, Quân, Cán, Chính mỗi người ghi danh tham dự sẽ đóng góp:

• $25 Mỹ Kim cho một người (cũng là vé tham dự Ðại Nhac Hội)

• Quý cựu TNCT sẽ được đãi ăn trưa tại nơi Picnic do Hội Quãng Ðà thiết đãi và ăn tối tại đêm Tâm Giao tại Hội trường giáo xứ Thánh Phê rô -ngày Thứ Sáu 3/10: do Ban tổ chức và Hội Gia đình Việt Mỹ phụ trách.

• Quý vị cùng quý đồng hương được mời ăn trưa trong ngày thứ Bảy 4/10 khi đến tham dự nghi lễ, triển lãm từ 9:30am – 2:00 pm tại Special Events Center.

• Quý vị ở xa xin ghi danh bằng các phương tiện thích hợp:

• 1. Vào website: hoigiadinhtnchvn.org - tìm phần ghi danh.
• 2. Email về: nvdallasus@ont.com
cadao@tapchicadao.com
nguyen.t.q@sbcglobal.net

• Xin ghi rõ tên người tham dự hoặc số người nếu một nhóm, BTC sẽ gửi ticket đến quý vị.
Hoặc biên thư , kèm theo check gửi về các địa chỉ sau đây:

1. Người Việt DFW: 2115 E.Buckingham Rd., Richardson, TX 75081 hoặc
2. Ca Dao: P.O.Box 451704, Garland, TX 75045-1704.

Check xin ghi trả cho: HGDTNCTVN hoặc FVPPA

============================================================
Chương Trình:

1. Thứ Sáu: Oct. 3, 2008: Chủ đề ”Trở Về”
Tại White Rock Lake Park và Hội trường giaó xứ Thánh Phê Rô Dallas

• 10am – 2pm – Picnic
Tại White Rock Lake Park – Winfrey Point Building
Ðịa chỉ: 1298 E. Lawther Dr., Dallas, TX 75218-3308
(PLEASE CONFIRM ADDRESS FOR US … THX)

• 6pm – 11pm - Ðêm Tâm Giao
Tại Hội trường giaó xứ Thánh Phê Rô Dallas
Ðịa chỉ: 10123 Garland Rd, Dallas, TX 75218

2. THỨ BẢY: OCT. 4, 2008: Chủ đề: “Tạ ơn người - Tạ ơn đời”
Tại Special Events Center
http://www.specialeventscenter.com/
Ðịa chỉ: 4999 Naaman Forest Blvd, Garland, TX 75040

• 9am – 2pm - Nghi Lễ- Triển lãm -Hội thảo

• 6pm – 11pm Ðại Nhạc Hội - “Một hình ảnh- ba cuộc đời”

3. CHÚA NHẬT: OCT. 5, 2008: trước giờ Chia tay

• 10am – 11am:

• Lễ Chúa nhật tại nhà thờ ÐMHCG, xin lễ cầu cho các TCTVN đã mất
• Lễ cầu siêu tại Chùa Ðạo Quang

• 11am – 12 Noon
• Thăm viếng mộ phần cựu TNCT
• Thăm viếng các Cựu TNCT đang nằm dưỡng lảo.
• Giờ giấc chi tiết sẽ được phổ biến trong ngày họp mặt

Hotel & Airport:
1) Comfort Suites (TXB02)

• 2301 E George Bush Fwy , Plano, TX, US, 75074 Phone: (469) 429-0702
• Khách sạn này vừa hoàn tất nên mọi thứ đều mới mẹ
• Rate: $79.00 + thuế, tuy nhiên nếu quý khách trên 55 tuổi thì được giãthêm chút ít $ 71.00 + thuế.
• Phòng rộng rãi và có microwave va tụ lạnh. Co 2 giường (theo sự chọn lựa)
• Dưới 5 miles tới “Special Events Center”

2) Holiday Inn Select Richardson

• 1655 North Central Expressway, Richardson, TX 75080 972-238-1900 800-972-2518
• Rate: $79 per night (double bed), exercise room, indoor
• and outdoor swimming pools.
• 6 miles tới Special Events Center

Hotel: When booking hotel, book under event called “Vietnamese Political Prisoners Day”
Airport: Fly into DFW (Dallas Fort Worth Airport) or Dallas Love Field

Tú Gàn "Ngôn Quá Kỳ Hành "


Vũ Lâm

TinParis.- Chúng tôi đăng bài dưới đây với tất cả mọi dè dặt vì tác giả đã cho biết TÚ GÀN đã cộng tác với báo Nhân Dân dưới bút hiệu là LỮ GIANG. Đây là một sự cáo buộc rất nặng và chúng tôi sẳn sàng đón nhận mọi ý kiến khác biệt để làm sáng tỏ vấn đề. Nghe nói người biết rõ Tú Gàn nhất là Ls Nguyễn văn Chức !

Trích Con Ong Việt số 84 tháng 7- 2007

  • Lần này là lần thứ 3 Nguyệt San Con Ong Việt viết về Tú Gàn kèm theo tranh vẽ hí họa, biểu tượng người viết mướn và cũng là chân dung Tú Gàn. Đã có quá nhiều người viết về anh Gàn! Chửi mắng: nặng, nhẹ, thanh có, mà tục cũng có. Vũ Lâm tôi thì chưa một lần viết, chưa một lần đánh giấy nhám gương mặt anh Gàn, nhưng hôm nay Vũ tôi phải viết! ... đề tài Tú Gàn chán như cơm nếp! Hơn thế nữa, nói chuyện với người bình thường chứ có ai muốn nói chuyện với loại gàn dở.

    Sở dĩ Vũ tôi phải động bút viết về anh Gàn cũng vì khó chịu với đoạn viết trong bài "Chuyện Minh Bạch Quốc Tế" đăng trên tờ Sài Gòn Nhỏ ngày 1 tháng 6 -2007 dưới đây:

    - . . . Vì thế, trước khi nói về các phúc trình của tổ chức "Minh Bạch Quốc Tế", chúng tôi thấy cần xác định lại một lần nữa chúng tôi là người làm báo chứ không phải một chính khứa hay một nhân viên của bộ thông tin, nên cách khai thác của chúng tôi không giống cách khai thác của những người này.

    Người làm báo có nhiệm vụ truy tìm và ghi nhận những tin tức hay tài liệu liên quan đến các biến cố xẩy ra và công bố một cách trung thực cho dân chúng biết, hay dựa vào những sự kiện hay tài liệu đã ghi nhận được, đưa ra những phân tích hoặc nhận xét giúp làm sáng tỏ vấn đề.

    Người làm báo không tranh cử các chức vụ công hay các chức vụ trong cộng đồng nên khi viết báo không cần vuốt đuôi "cảm tính" của số đông để được vỗ tay hay có thêm phiếu. Người làm báo cũng không phải là thành viên của một tổ chức chính trị, nên không làm tin và viết "nhận định" theo kiểu viết tuyên ngôn tuyên cáo, diễn văn hay truyền đơn để cổ võ cho một chủ trương. Người làm báo cũng không phải là nhân viên của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Bộ Thông Tin Văn Hóa hay JUSPAO, phải viết tin hay "nhận định" theo chỉ thị hay theo đơn đặt hàng, bỏ đi tất cả những gì bị coi là "không có lợi cho phe ta" hay "có lợi cho phe địch" và thêm vào những gì được coi là "có lợi cho phe ta" và có tác dụng "bôi đen phe địch", v.v... Trái lại, tiêu chuẩn của người làm báo là loan tin trung thực và đưa ra những nhận định khách quan để giúp người nhận suy nghĩ và có những nhận thức đúng về biến cố đang xẩy ra chứ không phải vuốt đuôi hay đánh lừa dư luận để được vỗ tay hoan hô.

    Khi trích đăng đoạn viết trên, Vũ tôi đã phải tô đậm những lộng-ngôn, loạn-từ của anh Gàn để đọc giả chú ý đến những điểm Vũ sẽ luận bàn với anh Gàn: chúng tôi là người làm báo - tiêu chuẩn của người làm báo - loan tin trung thực - nhận định khách quan.

    Khỏi cần diễn giảng thì mọi người cũng biết, đoạn viết trên chỉ là cái tiền đề, mở đầu cho bài viết để anh Gàn trình diễn "trung thực", loại trung thực láu-cá. Giống nhưng trong các bài viết khác, Anh Gàn thường rào trước đón sau, hoặc kênh kênh lên mặt bậc thầy, dậy mọi người cách làm báo, cách chống cộng, xoa đầu mọi người ... Giả mù sa mưa để hoặc là ca tụng Đảng và nhà nước Cộng Sản, hoặc khen khéo đống cứt thối Việt Tân, hoặc đăng nguyên văn một bản tin, một nghị quyết của chính quyền Cộng Sản đang cần được phổ biến ở hải ngoại mà không ai có thể ọ oẹ phản đối ... Đấy, kiểu "Trung Thực" láu cá của Anh Gàn!

    Bậc Thầy

    Trước hết, nói về cái kênh kiệu, lên mặt bậc thầy dậy bảo, xoa đầu người khác của anh Gàn, Vũ tôi phải cau mày mà trực ngôn rằng: Anh Gàn, Ngôn Quá Kỳ Hành, hãy nhìn chính mình trong gương, nhìn lại suốt cuộc đời mình xem có gì để anh hãnh diện? Học thức, kiến thức, bằng cấp có gì uyên bác cao trọng để anh lên mặt "Bậc Thầy"? Nam nhi đại trượng phu mà đến gần cuối đời không tự mình tạo được sự nghiệp, vẫn còn phải nương tựa, sống nhờ, làm thuê viết mướn cho một người đàn bà (Lời viết thô bạo trong nhiều bài viết mà Vũ tôi đã được đọc: sống trong đũng quần Đào Nương) ... đó là cái thấp kém, cái nhục, nhục vì anh Gàn còn thua cả những người ít học nhưng thành công khi ra hải ngoại, thành công không nhờ ở bằng cấp mà ở khả năng, sáng kiến và ý chí kiên cường tự lập.

    Nói nhẹ nhàng cho anh một tí, anh Gàn chỉ là người ở mức bình thường, có thể dưới trung bình một chút.! Vũ tôi khuyên anh nên coi lại cách viết, chỉ nên trình bày, diễn đạt những điều mình muốn, sai đúng để tùy đọc giả nhận định, đừng hỡm hịnh lên mặt kẻ cả, thầy đời, dậy bảo, xoa đầu người khác, kênh kênh ta đây uyên thâm nhìn xa biết rộng. Cái hiểu biết, kiến thức của anh nhỏ bé, mới chỉ được bằng cái "chũm cau".

    Phác Họa Qua Cuộc Đời Tú Gàn.

    Lúc tuổi trẻ, sống trong thời chiến thì phá hoại thân thể, chạy chọt để được miễn dịch, hưởng đặc quyền ăn học trong khi những thanh niên khác xả thân nơi địa đầu chiến tuyến, giữ yên ổn thành thị cho anh Gàn ngồi học làm thầy cãi, anh cũng thừa biết, trường Luật ở Việt Nam có hàng chục ngàn sinh viên và người tốt nghiệp, ai sau khi có tú tài 2 cũng có thể vào học trường luật và cũng có thể tốt nghiệp, không cần thông minh xuất chúng, nữ sinh viên luật có thể nói là nhiều nhất trong các phân khoa đại học và lính chúng tôi, nếu được ở gần SàiGòn hoặc không phải đi hành quân mút chỉ thì cũng ghi danh luật lê lết rồi cũng tốt nghiệp. Anh Gàn cũng chỉ là một trong số những người tầm thường, không có gì xuất sắc và nổi tiếng, chỉ nhờ ở may mắn, thế lực và chạy chọt anh leo lên đến chức Thẩm phán. Nhưng rồi cũng chỉ được vài năm ... mới vừa được hưởng tí vinh thân "phì ra" thì 30 tháng 4 năm 1975 anh đã tuột dốc vào trại tù Cộng Sản, với tinh thần và thể chất èo ọt, siêu vẹo, anh đã có biệt danh "thằng Cánh Cụp Cánh Xèo" trong trại tù Thanh Cẩm tỉnh Thanh Hóa. Anh gánh phân trong đội rau xanh. Rồi ngấm ngầm anh thành loại super ăng-ten nhờ thiên khiếu nịnh nọt, nhờ ở tư cách hèn mọn, ganh tị hay nhờ ở cách hành sử được lòng cán bộ, biểu lộ cho cán bộ thấy thái độ thù ghét dân Kaki! Điểm ăng-ten của anh cao lắm nên ra tù mới được viết báo Nhân Dân. Dưới chế độ Cộng Sản, một tù nhân mới ra lò mà được viết báo thì anh chắc chắn phải được xếp hạng super bồi bút và super luồn cúi, bằng chứng rõ ràng là trong một bài viết năm 1991 trên tờ Nhân Dân Chủ Nhật anh ca tụng công trạng linh mục quốc doanh đảng viên Cộng Sản thâm niên Võ Thành Trinh, và một bài anh ca tụng chủ tịch xã Hòn Gai, anh gọi họ là đồng chí!

    Đấy, hình ảnh Tú Gàn, người có cốt phản sau đuôi, người biết gió chiều nào xoay chiều ấy, một loại gian thần thờ hai ba chúa!! Ra đến hải ngoại, tính nào vẫn tật ấy, cũng hèn mạt, chui lòn, bất tướng bất tài, vẫn ngòi bút ấy, cong cong để kiếm ăn, ẩn núp trong hang Đào Nương. Ba cái "Viết Mà Chơi" của anh Gàn không tài giỏi gì để anh kênh kiệu, chỉ là loạt bài "edit", gom góp tài liệu bài vở từ trong nước, từ nhóm Nhân Dân, thêm thắt, sửa chữa những bài đã được cung cấp và viết lại cho đúng giọng "Gàn". Một lần nữa, này anh Gàn, chẳng có gì để anh hãnh diện, để anh kênh kênh cái mặt "thầy đời".

    Nói trước, Vũ tôi không có thói xấu chụp mũ. Ai chụp mũ cho Tú Gàn là Cộng Sản, là thằng nằm vùng là sai. Anh Gàn không phải là người quốc gia mà cũng chẳng phải là Cộng Sản, chỉ là loại viết mướn, dắt mối kiếm tiền, một thứ ma cô trong làng viết, con điếm nào cho nhiều tiền thì ca ngợi, dắt mối cho con điếm ấy, ở thời điểm này, hai con điếm chi nhiều tiền nhất là điếm Cộng Sản với nghị quyết 36, điếm Việt Tân, anh Gàn dắt mối cho cả hai và dĩ nhiên cũng phải dắt mối cho ... bà chủ Sài Gòn Nhỏ!

    Chúng Tôi Là Người Làm Báo, Nhà Báo

    Anh Gàn không phải là nhà báo, đừng nhận vơ! chỉ là người viết mướn kiếm ăn, có lợi nhuận thì viết. Khi viết cho tờ Nhân Dân cơ quan ngôn luận của nhà nước Cộng Sản với bút hiệu Lữ Giang và khi viết cho tờ Sài Gòn Nhỏ của Đào Nương cũng cùng ngòi bút ấy, viết cho tờ Nhân Dân trong nước thì viết theo chỉ thị chiều hướng tuyên truyền của đảng và nhà nước. Ra hải ngoại thì viết cho người "đặt hàng" (đơn đặt hàng, chữ nghĩa của anh), người đặt hàng có thể là nhà nước cộng sản, là đảng phái, là sư, cha quốc doanh, là đoàn thể, là băng đảng Việt Tân. Đặt hàng qua trung gian chủ Đào Nương, đặt hàng trực tiếp với anh, cuối cùng thì chủ tớ cùng kiếm ăn. Nhắc lại, viết theo chỉ thị hay viết theo đơn đặt hàng thì Tú Gàn không phải là nhà báo! Đúng với ý câu viết của anh trong đoạn trích dẫn: - "Người làm báo không phải là nhân viên của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Bộ Thông Tin Văn Hóa hay JUSPAO, phải viết tin hay "nhận định" theo chỉ thị hay theo đơn đặt hàng".


    Loan Tin Trung Thực - Nhận Định Khách Quan

    - Anh Gàn không trung thực , cũng chẳng có khách quan ... đã là viết mướn thì làm sao có trung thực, khách quan! bằng chứng rành rành là anh Gàn đã phải lên đài radio hàng đêm, vươn cổ ra nhận tội rằng, tôi đã nói láo, tôi đã viết láo theo lệnh của tòa. Này, da mặt anh Gàn dày lắm nhá. Ngày xưa trong làng, thằng ăn cắp, ăn trộm bị bắt quả tang, bị nọc ra sân đình đánh năm mươi hèo, thường thì sau đó nó xấu hổ, bỏ làng bỏ xứ đi nơi khác làm ăn ... còn anh Gàn, tư cách thua xa thằng ăn trộm, ăn cắp! không biết xấu hổ, vẫn mặt dày, quanh quẩn Little SàiGòn! Lại còn trâng tráo liếm lại bãi nước bọt của mình, ong ỏng lớn lối về: - tiêu chuẩn của người làm báo - loan tin trung thực - nhận định khách quan (shit!).

    Dẫn chứng thêm về loan tin trung thực - nhận định khách quan kiểu Tú Gàn:

    - Ngụy biện vòng vo, cù nhầy, để bênh vực Trần Trường trên SGN số 116, phát hành ngày 5 tháng 3 năm 1999 tại Seattle, khi tên này treo hình già Hồ và cờ đỏ sao vàng trong tiệm video của hắn ở Bolsa. Tú Gàn lên giọng dậy dỗ cộng đồng rằng: "Trần Trường có quyền tự do hiến định ở xứ này, sẽ không ai làm gì được hắn".

    - Trên một số SGN khác, khi Cộng Sản Hà Nội cắt đất nhường biển cho Trung cộng, Tú Gàn cũng lên giọng "bậc thầy" là: "Ải Nam Quan là của Tàu, CS Hà nội làm đúng. Đất của Tàu thì trả lại cho Tàu, đâu có gì là sai?"!

    - Vận động yểm trợ cho John Kerry với bài viết tựa đề "Nghệ thuật ôm cẳng", đăng trên SGN số 134, phát hành ngày 13/02/2003. Trong bài này, Tú Gàn đã kênh kiệu là người nhìn xa, hiểu rộng, "thầy đời" là ông Bush đã hết thời, và Hanoi John chắc chắn sẽ thắng, đúng rập khuôn theo luận điệu của quan thầy bắc bộ phủ! Hắn mai mỉa rằng, những người không ủng hộ John Kerry, là những người "mê tín dị đoan"!

    - Bôi bẩn Linh Mục Nguyễn Văn Lý đang bị cộng sản giam cầm, qua bài viết "Ván bài lật ngửa" đăng trên SGN số 347 phát hành ngày 8/8/2003 tại Seattle. Lập luận này vô tình hay cố ý trùng hợp rập khuôn với lập luận mà đại diện CSVN vẫn dùng để phân bua với các cơ-quan quốc tế đang can thiệp giúp đỡ Linh Mục Lý. Trong bài viết gần đây, Tú Gàn viết: Linh mục Nguyễn Văn Lý là người sụp lỗ liên tục, hết lỗ nhỏ đến lỗ lớn và đáng được gọi là người sụp lỗ liên tục trong lịch sử.

    Còn rất nhiều bài viết dẫn chứng cái loan tin trung thực - nhận định khách quan kiểu "Bậc Thầy", kiểu "Xoa đầu mọi người", kiểu kênh kiệu nhưng trật lất của Tú Gàn ... có thể là đúng! nhưng chỉ đúng theo đơn đặt hàng của Cộng Sản trong nước. Này nhá, Vũ tôi không có ý chụp mũ Anh Gàn là Cộng Sản đâu đấy, Cộng Sản cũng chẳng thâu dụng loại gàn dở. Vũ tôi chỉ coi tú Gàn là cai thầu, ai đặt hàng thì làm ... Quốc Gia, Cộng Sản, Việt Tân nhận tuốt. Còn chú Chánh ngu dại, không chịu chi, không chịu "đặt hàng" nên bị "bậc thầy" dậy cho tơi bời hoa lá. Một lần nữa Vũ tôi nhắc lại, người viết theo đơn đặt hàng không phải là "Nhà Báo".

    Tú Gàn - Ngôn Quá Kỳ Hành.

    Suốt cuộc đời anh Gàn, chưa thấy anh làm được việc gì công ích cho người, cho đời, chưa làm được gì gọi là phục vụ cho quốc gia, dân tộc, cho cộng đồng, từ trước năm 75, đến những ngày trong tù, khi ra tù và cả khoảng thời gian dài ở Hoa Kỳ. Ở trong nước, kể cả trước 30 tháng 4 năm 75, kể cả ở tù và ra tù, chỉ thấy anh hại đời hại người, rồi chui lòn phản bội. Cho đến khi ra hải ngoại, anh kiếm sống chật hẹp bằng cây viết mướn, anh giở những trò bỉ ổi, xuyên tạc từ dân đến quan, từ sư đến cha mà một lần quan tòa bắt phải đưa cái mặt dầy lên đài thú nhận rằng tôi viết sai, nói láo ...

    Bây giờ tuổi anh đã xế chiều, anh cũng chưa đạt được gì cho chính bản thân anh để gọi là thành công, thành đạt. Ấy thế mà mỗi khi đặt bút xuống viết, vẫn giọng kẻ-cả, giọng "bậc thầy" dậy bảo hết người này đến người nọ, hội đoàn này đảng phái kia. Anh Gàn, anh hãy nhìn ra ngoài đời xem, anh đứng ở vị trí nào trong số bao nhiêu bậc thức giả, quyền cao, chức trọng, kiến thức uyên thâm, nghề nghiệp vững chắc, học cao biết rộng, nhưng họ vẫn thầm lặng, nhún nhường, khiêm cung. Chưa cần so với những người ngoài xã hội, chỉ thu gọn trong cái tòa soạn nhỏ bé giữa anh với người đàn bà ấy, để thấy tài sức của anh, thân tầm gửi, tôi tớ, ăn nhờ ở đậu. Người đàn bà ấy, nữ nhi thường tình, nhưng cũng hơn xa so với anh về tài về sức, người đàn bà ấy còn biết tự lập, từ hai bàn tay trắng, tự tạo dựng được cơ nghiệp ... Người đàn bà ấy, Con Ong Việt ngay từ số đầu tiên đã tặng cho một bài phú: - "Phú Thương Hoa" với đầy đủ khen, chê, thương, ghét ... Vũ tôi đăng lại bài phú dưới đây để anh đọc và ngẫm lại cái thân tầm gửi của anh. Anh Gàn ơi! Nam nhi chi chí ... về vườn đi!

      Phú Thương Hoa
      Hoa khai hoa lạc niên niên xuân.
      Tiên hậu tri đào ưng cơ nhân?
      Đản kiến Đào Nương anh nhật nguyệt.
      Bất tri phiến phiến lạc ngô thần.

      Ai người hồng nhan?
      Đâu người tri kỷ?
      Hương sắc tài hoa ấy.
      Tiếc thay một đóa Quỳnh hương!
      Có một người: khổ dạng trâm anh, thuở cài trâm thắt bím, khuê môn bất xuất, thân kiêu nương nào có ai bì.
      Thời con gái nơi dược khoa dùi mài kinh sử, tà áo sinh viên phách tán đám nam nhân.
      Đất trời nổi cơn gió bụi.
      Sài Đô khóc buổi loạn ly.
      Quốc phá, gia phong ly tán.
      Cha con, chồng vợ phân kỳ.
      Chồng Hồ vợ Hán vạn dặm tầm phu, một nách hai con, thân thục nữ bơ vơ nơi đất khách.
      Triều Tần, mộ Sở, con tim sẻ đôi, cuộc tình hai ngả, phận hồng nhan lạc bước chốn tha hương.
      Trăm công ngàn việc, từ bỏ báo đến giữ em.
      Dạy hai con đèn sách nên người, nàng thay bố làm cha . . .
      Con tạo đa đoan ghẹo người hồng diện, nhắm mắt đưa chân, gọi dượng của chúng nó bằng chồng . . .
      Trời không phụ kẻ kiên tâm
      Đất không bạc người có chí
      Giữa chốn lao xao, cùng đám mày râu chen vai thích cánh, nàng đứng nhô cao . . . loại đàn bà dễ có mấy tay . . .
      Trong chốn quần hùng, giữa Nam Kỳ Bắc Đẩu đụng vai, nàng múa gậy vườn hoang . . . như nữ nhân vượt thác . . .
      Quan, nàng không tha. Cha, nàng không từ.
      Sư, nàng chửi theo sư. Vãi nàng mắng theo vãi.
      Bút Nam Tào, Dao thầy thuốc, cả vú lấp miệng em, nàng lấy quyền cha mẹ nói oan.
      Ngôn quá kỳ thực, ngữ quá kỳ biên, đánh trống qua cửa nhà sấm, nàng dùng quyền kẻ quan nói hiếp.
      Bọn giá áo, túi cơm sợ nàng như . . . vào hang sợ cọp.
      Người chính nhân quân tử, ghét nàng như . . . đào đất đổ đi.
      Nàng đôi khi:
      Sáng nắng, chiều mưa, buổi trưa . . . hâm hấp.
      Lẻ vui, chẵn buồn, ngày thường . . . tưng tửng.
      Cho nên:
      Người ngay kẻ gian, cá mè một lứa, nàng chửi người ta:
      ba làng cãi nàng không lại.
      Việc đúng, việc sai, đổ đồng một đám, nàng phang tới bến:
      cho lạc chợ trôi sông.
      Kẻ nịnh tôn bằng mợ, bằng bà.
      Đứa ghét gọi bằng mi, bằng mụ.
      Còn ta thương nàng . . .
      Vì Phụng Hoàng không màng tới muỗi . . .
      Chỉ khuyên nàng:
      Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên mây.
      Đừng khua tổ kiến trên cây, không đánh cáo cầy ngoài nội.

      Nàng ơi!
      Phú ta chỉ có bấy nhiêu.
      Càng cay nghiệt lắm, càng nhiều oan khiên.

      Lê Vũ
      (đừng lầm với Lê Vũ Việt Weekly)
    Trở lại chuyện Tú Gàn. Tú Gàn không là gì cả, con số dê-rô thật to, rỗng ruột mà oang oang, Ngôn Quá Kỳ Hành.

    Ngôn Quá Kỳ Hành, là lời của Lưu Bị căn dặn Khổng Minh trước giờ lâm chung khi nhận xét về Mã Thốc, có nghĩa là "Nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được".

    Sau này Khổng Minh chọn tướng đem binh giữ Nhai Đình, Mã Thốc xin đi, Khổng Minh nói:

    - Nhai Đình chỉ là một mảnh đất nhỏ nhưng quan trọng vô cùng, nếu chỗ ấy thất thủ thì cả đại quân ta nguy hết đường cứu. Ngươi tuy thâm thông mưu lược nhưng hiềm nơi ấy không có thành quách, lại cũng chẳng có thế hiểm nào mà dựa. Khó giữ vô cùng.

    Thốc nói: Tôi làu thuộc binh thơ từ nhỏ lại biết phép dùng binh, lẽ nào không giữ nổi một chỗ như Nhai Đình.

    Thấy Thốc cương quyết xin đi, Khổng Minh bắt lập "Quân lịnh trạng" cấp cho 2 vạn 5 ngàn tinh binh lại cho thêm thượng tướng Vương Bình theo trợ giúp. Kết cuộc, Mã Thốc tự cao tự đại, không nghe lời khuyên của Vương Bình, ngu dốt, không đóng quân vào chỗ ngã năm để canh giữ năm mặt đường mà lại hãm quân vào chỗ hiểm yếu trên núi, nên Nhai Đình thất thủ. Mã Thốc phải nhờ Vương Bình, Cao Tường, Ngụy Diên đem binh tiếp ứng mới được toàn mạng.

    Mã Thốc bị xử tử theo quân pháp. Khi võ sĩ dâng đầu Mã Thốc dưới thềm, Khổng Minh òa lên khóc! có người hỏi rằng:

    - Mã Thốc phạm tội bất khả dung. Thừa Tướng cho lệnh giết đi để minh chính phép quân, sao bây giờ lại sầu não?

    Khổng Minh sụt sùi nói:

    - Có phải ta khóc Mã Thốc đâu! Vì ta nhớ lúc tiên đế lâm chung đã dặn rằng:

    - "Mã Thốc là kẻ nói quá sức mình, không nên giao cho việc lớn". Nay quả đúng như thế. Ta giận ta ngu tối, nên nhớ đến đức sáng của tiên đế mà đau lòng nên ta khóc.

    Trở lại chuyện Tú Gàn ... Ngôn Quá Kỳ Hành ... bao giờ thì bị chém?

    Vũ Lâm

  • Mặt trận lừa đảo, kháng chiến cuội,chiến khu dổm, đảng phái gian


    Trương Minh Hòa

    Thằng Nguyễn Sinh Cung là tên gọi ở nhà, khi đi học, nó có cái tên là Nguyễn Tất Thành, là đứa bé ma ranh, nổi tiếng "láu cá vặt" và được bà chị ruột là Nguyễn Thị Thanh hay lập lại lời của cha để tiên đoán đứa em gian manh từ nhỏ, nếu nó sống lâu nơi vùng quê, thì sẽ trở thành "điếm nông thôn". Tuy nhiên gã bỏ nhà đi hoang, lây lếch kiếm ăn đầu đường xó chợ ở các thành thị, "tiếp thu" thêm nhiều thói hư tật xấu của đám du côn, du đãng, bụi đời thế là hắn "được trang bị" hai "tuyệt kỷ, bí kíp gian manh, xỏ lá, lừa lọc, điếm đàng" từ hai giới: điếm nông thôn và bồi thành thị, là cái "quá trình cách mạng" để hắn tự xưng là "cha già dân tộc" khi mới 57 tuổi, với cái tên giả khác là Hồ Chí Minh. Trôi sông lạc chợ một thời gian, năm 1911, hắn mò tới Bến Nhà Rồng, lấy tên là Nguyễn Văn Ba, tên Tây là Paul Thành, lúc đến Saigon, nổi tiếng Hòn Ngọc Vìễn Đông, hắn trổ tài luồn cuối, nịnh hót, nâng bi một gã đầu bếp Tây để được xuống tàu buôn tên là D'admiral La Touch Tréville, nhận được một chân làm nghề đốt lò, phụ bếp, sai vặt, rửa chén không biết có kiêm luôn nghề đấm bóp, đổ bô cho cai bếp, nếu có thì đảng và nhà nước phải dấu nhẹm như mèo dấu cứt. Sang Tây để kiếm ăn, hai lần nộp đơn xin vào trường thuộc địa để được học với "mục đích yêu cầu" là được làm quan cho Tây, nhưng vì trình độ văn hóa mới có lớp 5 trường làng, bị xù vì thiếu tiêu chuẩn, khiến hắn thất vọng, ở nấn ná một thời gian, nhờ vài người Việt thương tình cho tá túc, đã vậy mà còn dê đạo lộ, tỏ tình với con đầm tên là Bourbon, bị chê nên hắn tức lắm.

    Cuối cùng bỏ Pháp, qua Mỹ, và sau đó tìm được nơi dung dưỡng vững chắc là nước Nga; vào khoảng cuối năm 1923, hắn được "nâng cấp" cho tòng học ở Trường Công-Nông Đông Phương, nơi có "nghiệp chuyên" đào tạo gián điệp, khủng bố, làm tay sai cho đế quốc đỏ nầy; ở Nga, hắn lấy tên là Nilovsky và được quan thầy cung cấp cho một phụ nữ Nga để "trao dồi tư tưởng Marx Lenin", từ đó tên Hồ Chí Minh trở thành tay sai đắc lực của Nga, hoạt động tại Á Châu, được cấp phát lương hàng tháng. Thế mà đảng Cộng Sản Việt Nam lếu láo tuyên truyền là: "từ bến Nhà Rồng, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước". Sau khi được hai quan thầy Nga Sô, Trung Cộng ủng hộ vũ khí, Hồ Chí Minh thành công trận Điện Biên Phủ là nhờ lợi dụng xương máu của dân chúng qua chiêu bài yêu nước, rồi manh tâm cấu kết với hai quan thầy và thực dân Pháp để chia đôi đất nước qua hiệp định Geneve ngày 20-7-1954, từ đó hắn trở thành "QUAN TOÀN QUYỀN" của cả hai quan thầy Nga, Tàu; hay nói đúng hơn là Hồ Chí Minh và toàn đảng Cộng Sản Việt Nam là tập đoàn "quan lại cai trị của Nga, Tàu, nhưng khác hơn là gốc Việt". Một tập đoàn thái thú, quan cai trị, chỉ có một quan thầy là cũng dã man rồi, huống chi làm "đầy tớ cho hai mẫu quốc cùng một lúc" thì dân nước Việt còn gì là "độc lập, tự do, hạnh phúc?", đó là hậu quả của hàng triệu người bị giết oan và đất nước kéo dài nghèo nàn, lạc hậu cho đến ngày nay. Khi hai quan thầy nghịch nhau là đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm sao vừa lòng cả hai, đó là cái bần của "tập đoàn lòn trôn, bợ háng, nâng dái" của hai thầy cũng một lúc, mà kẻ bợ kỹ nhất phải là tên gian ác Hồ Chí Minh:

    "Ai về nhắn với Hồ Chủ tặc.
    Được cả lòng Nga, lẫn bụng Tàu".

    Sau 1975, thời mà "cao trào" quan thầy Nga nghịch với Tàu, thì tập đoàn đầy tớ Việt Cộng đành phải dựa vào thầy Nga, nên đã đổ phí biết bao biết bao xương máu của bộ đội để đương đầu với quan thầy cũ Trung Cộng ở phía bắc và tay sai Pol Pot ở mặt trận Tây Nam, chớ nào "bảo vệ tổ quốc" như lời tuyên truyền láo. Sau khi quan thầy Nga sụp đổ, thì Việt Cộng lại trở về làm "quan cai trị Trung Cộng gốc Việt" ở Việt Nam.

    " Bác dắt giống nòi thành NÔ LỆ
    Đảng đưa nhân dân với CÁI CÒNG".

    Do đó, trong suốt quá trình từ ngày đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 đến nay, đảng nầy chỉ là tập đoàn thái thú, toàn quyền ngoại bang gốc Việt, thật là nguy hiểm vô cùng. Nước Việt Nam đã mất "độc lập, tự do" từ năm 1954 mà dân hãy còn chưa biết nhiều, ngay cả việc đảng Cộng Sản công khai nhường hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng từ năm 1958 đến nay, mà dân cũng chỉ biết lờ mờ, ai nêu lên là bị chụp mũ phản động, tù đày. Nói tóm lại, bản chất của tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là tay sai ngoại bang, lợi dụng lòng yêu nước của dân qua chiêu bài "đánh Tây giành độc lập, đánh Mỹ cứu nước", rồi "yêu nước gắn liền với xã hội chủ nghĩa" để duy trì chế độ, công thức kinh tế dị mô "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Áng mây mù Cộng Sản bao trùm cả đất nước gần 80 năm qua, kẻ làm tay sai, thái thú, toàn quyền, nhà cai trị Nga, Tàu gốc Việt vẫn lừa đảo dân chúng từ đời ông, cha, cháu, chắt nên nhiều người vẫn còn tự hào thời kỳ đi làm tay sai cho ngoại bang, góp phần đắc lực giúp cho tập đoàn cai trị nước ngoài gốc Việt là Cộng Sản, Hồ Chí Minh với "mùa thu rồi ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu san hà nguy biến" hay là "giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước"...v....v... là thời "làm cách mạng", thì quả là ngây ngô, mù quáng, đi ngược lại công lý, đạo đức. Trên đời nầy có ai mà "tự hào" thời kỳ tham gia đảng cướp, giết người là thời kỳ "vàng son, lương thiện bao giờ?, ngoại trừ là có ăn chia, có nhiều quyền lợi. Có ai xem thời kỳ đi theo giặc, làm tay sai cho ngoại bang là "làm cách mạng"?.

    Đương nhiên là tên thành lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam, tên thái thú, toàn quyền đầu tiên của Nga, Tàu là Hồ Chí Minh, không phải là người yêu nước, làm cách mạng gì cả. Tuy nhiên, ngày nay vẫn có những "quái thai phản tỉnh" được coi là thành phần "phản phé, phản thùng" trở thành "nhà phản dân chủ" chớ nào là "nhà dân chủ" mà vài cơ quan truyền thông cò mồi, nằm vùng, đón gió ở hải ngoại đánh bóng, như cựu đại tá Việt Cộng Bùi Tín, cựu phát ngôn viên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Nguyễn Ngọc Giao, Hoàng Minh Chính .v..v...tự nhận là phản tỉnh, nhưng coi thời kỳ làm tay sai cho giặc, ngoại bang là "làm cách mạng", được một số cơ quan truyền thông trịnh trọng gọi là "nhà cách mạng lão thành" và Hồ Chí Minh là người yêu nước, dù có nhiều sai lầm giết người hàng loạt, làm đầy tớ cho Nga, Tàu là lối biện minh như câu "nhân vô thập toàn" nhằm chạy tội cho tên toàn quyền, thái thú đầu tiên của Nga, Tàu là người yêu nước và cái đảng cướp tay sai là có chính nghĩa, là làm cách mạng.

    Ngày nay, tại Việt Nam, từ sau 1975 đến nay, những tên du kích, khủng bố Việt Cộng, sau khi chiếm được miền Nam, bị các ĐỒNG CHÍ miền Bắc ĐÌ CHỐNG, đá văng ra khỏi những cơ quan quyền lực, chức vụ béo bở; một số còn bị chiếm đất, lấy nhà, trở thành "dân oan khiếu kiện" tức lắm, nhưng vẫn chưa sáng mắt, có người còn tin tưởng là: "Phải chi Bác Hồ còn sống, thì đâu có chuyện nầy". Họ đã lầm, lầm to, vì chưa thấy được quan tài chưa đổ lệ, như nhà thơ miền Nam Bảo Định Giang nhắm mắt làm thơ:

    "Miền nam đẹp nhất bông sen.
    Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ".

    Dễ hiểu là những người miền Nam chưa sống ở miền Bắc mà biết được "Bác Hồ vĩ đại" ra lịnh cho đàn em là Trường Chinh, Hồ Quyết Thắng tàn sát hàng trăm ngàn người dân sau chiến dịch cải cách ruộng đất, trong đó có hàng chục ngàn người từng đóng góp công lao đánh Tây giành "đập lột", có nhiều người từng "nuôi cán bộ trong nhà" thời "tam cùng". Ngay cả anh chị ruột mà "Bác Hồ" còn bị giết, thì người thường, cán bộ, thuộc cấp hề hấn gì. Sau khi được danh hiệu "cha già dân tộc", Hồ Chí Minh sợ anh chị "tiết lộ thân thế và sự nghiệp" nên ra lịnh cho tỉnh ủy Nghệ An quản chế anh là Nguyễn Sinh Khiêm, chị là Nguyễn Thị Thanh ở một nơi bí mật cho đến khi chết mới an tâm.

    Tại hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều tổ chức phục quốc, kháng chiến, qui tụ người, thu tiền, lập chiến khu, trở về nhưng tất cả đều thất bại, vì hầu hết cả tổ chức ấy không đi đúng thời cuộc, nhất là những người hô hào thì không kháng chiến thật, chỉ lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để "hốt bạc" chớ nào yêu dân mến nước, đó là những "thương nghiệp kháng chiến được thành lập. Được biết sau 1975, Hoa Kỳ và các nước đồng minh không còn dồn nỗ lực quân sự để đương đầu với khối Cộng Sản Quốc Tế do Nga lãnh đạo trong cuộc chiến tranh lạnh trên chiến trường, đó là thời kỳ "âm mưu diễn biến hòa bình", cho nên điểm nóng ở Việt Nam nguội dần sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhất là Hoa Kỳ, dù không còn tham chiến tại Việt Nam, nhưng chuyện quân nhân Mỹ mất tích là vấn đề mà các chính phủ quan tâm đặc biệt, với con số thất tung lên đến hơn 2 ngàn.

    Năm 1976, tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter cử phái đoàn đi các nước Á Châu, trên đường ghé Hà Nội, gặp giới lãnh đạo hung hăn, đại diện là tên đánh xe Bù Ệt ở Bến Thủy Lê Duẩn ngạo mạng cho là: "muốn bang giao thì trả 4 tỷ Mỹ Kim theo hiệp định Paris". Theo điều 21 hiệp định Paris, nếu hai miền tôn trọng cam kết, sống trong hòa bình như Nam-Bắc Hàn, Đông-Tây Đức, thì Hoa kỳ sẽ chi viện mỗi miền 2 tỷ Mỹ Kim để tái thiết, xây dựng; nhưng Việt Cộng và Bắc Việt vừa ăn cướp vừa la làng và vừa đòi tiền một cách trơ trẽn. Phái đoàn Mỹ khuyến cáo là: "Việt Nam đã đất mất một cơ hội tốt". Thật ra người Mỹ không phải "hèn nhát, bạc nhược và sợ Việt Cộng" như lời tuyên truyền "đánh thắng giặc Mỹ, tên đế quốc sừng sỏ..." và những bầy ếch xuất phát ở hang Pác Pó, sau nầy dời ra ở cái hang mới ở Bắc Bộ Phủ tự hào là: "Việt Nam anh hùng, đánh bại cả đế quốc Mỹ, kẻ thù số một" là vô địch, bách chiến, bách thắng.

    Nhưng vì vấn đề tìm quân nhân mất tích, nên các đời tổng thống phải tìm đến Việt Nam, nếu tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản có chút khôn khéo, hay là có trí khôn "trung bình" thì cũng đã nắm bắt lấy cơ hội nầy mà phát triển đất nước ngay từ lúc ấy chớ đợi đến khi ông tổng thống Bill Clinton xả vận 1994 là coi như quá trễ, bị đàn anh Trung Cộng bỏ quá xa. Tuy nhiên, đảng, nhà nước Việt Cộng là nơi qui tụ "những bộ óc đần độn" nhất nước, như gã đánh xe Bù ỆT Lê Duẫn, tên thiến heo Đỗ Mười thì làm sao khá nổi?. Được biết, lối trả thù hèn hạ "trại cải tạo, tắm máu khô" là sản phẩm "đỉnh cao trí tuệ của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ" và cuộc đánh nhau đổ máu ở biên giới Việt Trung, Việt Miên cũng là do bọn chúng gây ra.

    Do đó người Mỹ tìm phương cách khác là nhờ những quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa, là những người có nhiều kinh nghiệm chiến trường, biết địa thế và có quyết tâm chống Cộng, họ lợi dụng lòng nhiệt thành để tìm hài cốt, quân nhân Mỹ mất tích. Những người có tấm lòng yêu nước tỏ qua quan ngại, khi bị Mỹ lợi dụng để tìm hài cốt, chớ không thực tâm giúp cho người Việt Nam đánh Cộng Sản, nên không tâm đắc với lối nầy; trong đó có cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, là người không bị lọt vào quỹ đạo của Mỹ, nên ông sớm nhận thức ra việc giải phóng đất nước bằng giải pháp quân sự là không đi đến đâu; nếu khi người Mỹ hết nhu cầu và được vào Việt Nam là coi như có hại hơn là lợi, do đó ông và một số người quốc gia phát động giải pháp đấu tranh chánh trị, mà ngày nay vẫn còn áp dụng hữu hiệu tại hải ngoại, cũng như trong nước.

    Một điều chắc chắn là: cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là người có tâm huyết với đất nước với lập trường vững chắc là "không bao giờ hòa hợp hòa giải với Cộng Sản". Tiếc thay, có một số người trong tổ chức của ông đã đi ngược lại, họ lợi dụng uy tín của ông để "bắt tay với Việt Cộng", đi theo một số tổ chức cò mồi, nhằm tìm lợi lộc riêng. Những kẻ nào làm chuyện nầy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tổ quốc, lương tri và hương hồn cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

    Trước tình hình nầy, có một số kẻ thời cơ, muốn nhân cơ hội, lợi dụng "quyền lợi" của Mỹ để hốt bạc như kế "thuận thủ thu dương" hay "tương kế tựu kế", nhân cơ hội người Mỹ cần tìm người mất tích, tổ chức kháng chiến, nếu vớ được hài cốt thì có tiền thưởng và lại nhận được tiền ủng hộ của người dân tỵ nạn hải ngoại; đúng là lối làm ăn, đầu tư bằng kháng chiến, phục quốc, không cần tốn kém tiền vốn mà thu nhiều. Một trong những tổ chức "làm thương nghiệp bằng lòng yêu nước" là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và các anh em của ông là Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long, cùng với một số kẻ thời cơ, làm giàu bằng cách kháng chiến cuội.

    Số tiền thu được rất cao, năm 1982, nghe đâu là 7 triệu (thời ấy là số tiền lớn), tổ chức nầy có cả cơ sở thu tiền là Phong Trào Quốc Gia yểm Trợ Kháng Chiến do ông Phạm Ngọc Lũy đảm trách, nên dần dần, chỉ sau thời gian ngắn, nhiều nơi hưởng ứng, lập ra "cơ sở mặt trận, yểm trợ", đương nhiên là những người làm thương nghiệp kháng chiến rất ư là "hồ hởi phấn khởi". Mặt Trận Hoàng Cơ Minh gặp thời như diều gặp gió, tổ chức đại hội chánh nghĩa, được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt và Mặt Trận còn nó láo là có tới 10 ngàn tay súng ở biên thùy, nghe qua ai cũng phấn khởi, tờ báo Kháng Chiến còn thổi phồng nhiều "kháng đoàn kháng chiến" trong nước hoạt động như chỗ không người, nay chiếm xã nầy, đánh quận kia làm nức lòng người đóng tiền; chớ ai nào dè đây là thủ đoạn tuyên truyền láo như kiểu Cộng Sản trước đây ở các vùng nông thôn.

    Do ăn chia không đều mà cựu đại tá Phạm Văn Liễu ly khai, tố khổ, từ đó gây ra nhiều sự kiện và bộ mặt lừa đảo kháng chiến dần dần phơi bày ra ánh sáng. Vì là tổ chức kháng chiến cuội, nên cái cửa hàng khách chiến cũng phải là "chiến khu dổm", cùng với Mặt Trận lừa đảo được thành lập tại đất Thái Lan, chớ không phải tại Việt Nam hay sát biên thùy Việt nằm trên đất Miên, Lào. Trong bất cứ cuộc chiến nào, một đơn vị được gọi là "đánh giặc" mà đồn trú ở nơi xa chiến trường "cách ngạn quan hỏa" hay là "đường ra trận giờ nầy đẹp lắm" với đơn vị không tiếp cận với kẻ thù như: "nghìn trùng xa cách" nơi "chiến trường đi mà không tiếc ngày xanh", thì đánh đấm với ai? Đó chỉ là đơn vị lính kiểng mà thôi, điều nầy lộ rõ bộ mặt dổm của chiến khu, nhưng Mặt Trận cũng cất trại, láng, có quay phim màu "quảng cáo" với các đoàn vũ trang kháng chiến cuội, được ngụy trang bằng chiến khu dổm; theo tác giả Hoàng Xuyên, là người đã từng đi vào chiến khu cho biết: Mặt Trận Hoàng Cơ Minh phải mướn cả người Lào để có đông quân lính, làm lễ trình diện các đơn vị như kháng đoàn 72, 81 là lối quảng cáo khá ăn khách, thu được nhiều tiền, có thời làm say mê biết bao người có tấm lòng mà tin tưởng rằng:

    "Ai đi kháng chiến mà khiến chán?.
    Có thấy chiến khu dỏm quá mà.
    Có thấy kháng đoàn giương cờ xí.
    Khăn rằng quàng cổ, Hoàng Cơ Minh".

    Một điều đau lòng là: thời gian cao độ khách chiến, những ai từ hải ngoại có tấm lòng, tình nguyện trở về chiến khu là coi như "đời tàn", khi tới biên thùy Thái Lan, họ bị tịch thu tất cả giấy tờ, nhất là Giấy Thông Hành (passport), rồi từ đó không có phương tiện để trở ra nếu "khiến chán" sau khi nhìn thấy tận tổ chức "kháng chiến" cuội, lại thêm kỷ luật tàn bạo nữa. Đây là biện pháp nhằm bưng bít những điều giả dối trong tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, nếu họ ra vào thì bể hết, làm sao mà thu tiền. Đó là lý do mà một số người trở về chiến khu mà không bao giờ trở lại, vì quyền lợi tiền bạc mà tổ chức nầy đã làm những việc tán tận lương tâm.

    Nhờ quảng cáo ăn khách, biết khai thác đúng lòng yêu nước nhiệt thành của hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, nên sau đó mới có hệ thống kinh tài Phở Hòa, lừng danh là "Mặt Trận phở bò" hay là "Mặt Trận Bán Phở", là lối kinh doanh của anh em nhà họ Hoàng Cơ "dùng tiền kháng chiến kinh doanh", khỏi cần đi vay ngân hàng. Trái lại, ở nơi chiến trường chánh thì ở cách xa đất nước, nhưng Mặt Trận mở rộng chiến trường ở hậu phương, là các cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại, nơi nầy đâu có "đánh đấm" nguy hiểm, chết chóc gì, nhưng có rất nhiều thuận lợi là thu tiền là mặt mạnh, là "mục tiêu kháng chiến CHÁNH, khẩn trương"; như vậy, bản chất của Mặt Trận đã lộ ra từ lâu, nhưng nhiều người chưa nhìn thấy mà tiếp tục ủng hộ, là cơ hội cho anh em ông Hoàng Cơ Minh trở thành triệu phú, không cần lao động mà vinh quang hơn bất cứ những người lao động nào. Hay nói khác đi, anh em nhà họ Hoàng Cơ và những kẻ lãnh đạo Mặt Trận đã dùng chiêu bài kháng chiến, chống Cộng để vắt kỹ mồ hôi của hàng triệu người Việt tỵ nạn, vừa làm mất lòng tin dần dần, có lợi rất nhiều cho Việt Cộng trong việt "đánh sập tinh thần" của người Việt hải ngoại, để dọn đường cho cái mũi văn hóa vận trí vận, tôn giáo vận, kinh tài vận, kiều vận đây là tội rất lớn mà Mặt Trận gây ra từ nhiều năm qua và họ tiếp tục phát huy thêm qua các cơ quan truyền thông như đài Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới do lợi dụng lòng yêu nước để làm kháng chiến, nên từ "nền tảng" Mặt Trận Hoàng cơ Minh đã là thứ gian, từ từ mất lòng tin, nên họ tung ra nhiều thủ đoạn để "cứu vớt thương nghiệp không vốn" như thành lập ra cái gọi là Liên Minh Việt Nam Tự Do (đầu tiên do ông Nguyễn Ngọc Đức, du học sinh ở Pháp lãnh đạo), Hội Chuyên Gia Việt Nam, qui tụ những khoa bảng có chữ "sĩ, sư" để thu hút lòng tin của dân (họ tin là dân có bằng tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư nói là có nhiều người nghe, tin) và những khoa bảng lớn tuổi thu hút khoa bảng hậu duệ, trở thành một tổ chức có tầm vóc chất xám, là nơi thu hút, ăn khách nên dể lừa đảo.

    Do đó, dù có giải tán Liên Minh Việt Nam Tự Do, Mặt Trận để đổi "Business name" thành đảng Việt Tân, nhưng cái Hội Chuyên Gia Việt Nam vẫn là cánh tay đắc lực, là cái phao cứu thương nghiệp kháng chiến cuội trong đà "thoái trào lừa đảo". Sau khi người Mỹ mở đường đi tìm hài cốt có cơ dễ dàng, Thái Lan vì quyền lợi giao hảo với Việt Cộng, nên các thương nghiệp kháng chiến cuội ở đất Thái bị chủ nhà đuổi, thế là họ đành phải dời chiến khu dổm đi nơi khác để tiếp tục làm ăn: có tới ba đợt ĐÔNG TIẾN, là cơ hội để cho dân tỵ nạn ĐÓNG TIỀN, từ Đông Tiến 1 với anh hùng Đồng Bò Nguyễn Văn Phùng, Đông Tiến 2 với sự tan hàng bộ phận đầu não, phó đề đốc Hoàng Cơ Minh bị chết vì không rành địa thế, dọn dẹp chiến khu từ đất Thái sang Lào năm 1987 và Đông Tiến 3 với thiếu úy sư đoàn Dù là Đào Bá Kế (bắn hết hết đạn, bị bắt bào năm 1989, nay vẫn còn nằm tù ở Việt Nam)... vì quyền lợi, nên Mặt Trận dấu luôn cái chết của Hoàng cơ Minh đến 14 năm.

    Mặt Trận đâu có thành lập một tổ chức nào khác trong thời gian mở chiến khu dổm trên đất Thái, thế mà sau nầy, vì nhu cầu làm ăn mới mà giải tán thương nghiệp Mặt Trận, vẽ bảng hiệu khác là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng đảng, gọi tắt là đảng Việt Tân. Rồi lục đục chia thành hai cánh "chệch hướng" do Hoàng Cơ Định, Nguyễn Kim, Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng và không chệch hướng là Hoàng Cơ Long, Trần Xuân Ninh hai cánh tố cáo nhau, tranh giành đảng viên, ảnh hưởng, gây nhiều cảnh khó coi tại hải ngoại, chống Cộng đâu chẳng thấy, mà cộng đồng xào xáo, phân hóa. Dù có chệch hay đúng hướng, thì cái tổ chức kháng chiến cuội, Mặt Trận gian, đảng phái gian manh từ nền tảng, lợi dụng việc đi tìm hài cốt quân nhân Mỹ và lòng yêu nước của người Việt tỵ nạn để thu tiền. Đó là tổ chức có nguồn gốc, mục đích không lương thiện, chánh nghĩa như đảng Cộng Sản Việt Nam, nên việc làm của họ không nhằm phục vụ quyền lợi dân tộc, mà cho thiểu số, bè nhóm, cá nhân.

    Một số người từng lãnh đạo Mặt Trận như Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Định, Lý Thái Hùng, Nguyễn Kim, Đỗ Thông Minh dùng mọi nổ lực để đánh lừa người dân từng nuôi dưỡng, ủng hộ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, chiến khu là tổ chức là "kháng chiến vì dân vì nước" chớ không phải kháng chiến cuội, nhằm biện minh cho thời gian sai trái, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để mưu cầu quyền lợi cá nhân. Cũng như đảng viên Cộng Sản phản tỉnh, luôn coi thời kỳ theo đảng Cộng Sản là "làm cách mạng, đánh Tây, đánh Mỹ" và họ tự hào là "nhà cách mạng lão thành". Những người từng nằm trong ban lãnh đạo thương nghiệp Mặt Trận Hoàng Cơ Minh muốn đánh lừa mọi người như là "kháng chiến, yêu nước" nên muốn bảo vệ thành quả gian, uy tín cá nhân, họ biện minh khéo léo, binh vực Mặt Trận, nhất là người lãnh đạo là phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, là vị chủ nhân đầu tiên, có công thành lập "tiệm kháng chiến".

    Sau khi quyển "Hành Trình Người Đi Cứu Nước" của kháng chiến quân "binh nhì" Phạm Hoàng Tùng, được Đỗ Thông Minh xuất bản, giới thiệu rần rộ các nơi, thì việc ông Hoàng cơ Minh có tàn ác, giết người trong chiến khu, ngay cả bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều cũng chỉ là việc "phải làm" để bảo vệ tổ chức, chớ Hoàng cơ Minh là người vì dân vì nước và Mặt Trận cũng là tổ chức kháng chiến cứu nước. Đó là những biện pháp nhằm chạy tội lừa đảo kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để làm giàu. Mặt Trận ngày xưa, đảng Việt Tân ngày nay cũng chỉ là tổ chức gian như Mặt Trận Việt Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam mà thôi và lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như lãnh tụ Hoàng Cơ Minh đều là những kẻ biết lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam để mưu cầu quyền lợi cá nhân, bè phái. Hồ Chí Minh thì nhận được chức "quan toàn quyền Nga, Thái Thú Tàu", còn Hoàng cơ Minh thì thu được nhiều tiền, có công giúp cho gia đình thành triệu phú. Như vậy "đảng Việt Tân không thể canh tân, cách mạng làm gì cho mất thời giờ; tốt nhất là dẹp phức nó đi, là người Việt quốc gia đỡ một mối nguy".

    Người mua nhằm đồ giả không có tội tình gì, nhưng bọn làm hàng giả mới đáng lên án và vạch mặt. Trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, Hội Chuyên Gia, Liên Minh Việt Nam Tự do, ngày nay là đảng Việt Tân (cả hai cánh chệch hay đúng hướng như các lãnh đạo quan niệm), lỡ đi theo, là nạn nhân của món hàng giả "chống Cộng", nếu sớm nhận ra thì họ sẽ "giã từ" và vạch mặt chỉ tên những nơi "sản xuất hàng giả kháng chiến, chống Cộng", còn chưa nhìn thấy hàng giả, cứ nhắm mắt đi theo là vô tình tiếp tay cho hãng sản xuất hàng giả tồn tại, làm hại cho công cuộc chiến đấu bảo vệ lập trường tỵ nạn chính trị và công cuộc yểm trợ dân chủ trong nước.

    Những người đi theo Mặt Trận, Việt Tân, không có tội vạ gì, họ là những người "trông hàng giả mà tưởng thật". Một điều cần lưu ý là: Khi có nhiều người khám phá ra hàng giả cảnh báo mà cứ nhào vô cửa hàng Việt Tân quảng cáo ở các chi nhánh từ Hoa Kỳ, Úc, Âu qua các cơ sở đài Tiếng Nước Tôi, Chân Trời Mới và các cơ quan truyền thông khác, thì người đó chưa "tri giả, tri giả ...." thấy hàng giả mà cứ khen là thiệt, thì mới đúng là "đi chệch hướng", vô tình làm lợi cho Việt Cộng. Người mua hàng giả "kháng chiến" của cửa hàng Mặt Trận Hoàng Cơ Minh không đòi hỏi "refund", nhưng cũng không ngây thơ để bị lừa tiếp, một điều cấp bách là: những người mua lầm hàng dổm chỉ muốn cửa hàng Việt Tân nên đóng cửa càng sớm càng tốt để cho cộng đồng được ổn định, hầu dành sức mà đương đầu với đảng Cộng Sản đang thò bàn tay lông lá qua nghị quyết 36.

    Trương Minh Hòa

    Phạm Đình Chương, những chặng đường âm nhạc


    Nguyễn Mạnh Trinh

    Có nhiều người cho rằng thơ phổ nhạc không còn chất thơ nguyên thủy nữa bởi vì nhạc sẽ làm giảm đi cái nét thâm trầm sâu sắc mà thơ phải chuyên chở. Một người chủ trương như vậy là nhà văn Tạ Tỵ. Khi được hỏi về những bài thơ phổ nhạc mà có sự ví von là nhạc chắp cánh cho thơ trong đó có bài “Thương về 5 cửa ô xưa” của ông.

    Nhưng có nhiều người thì nghĩ khác. Như nhạc sĩ Anh Bằng, người đã phổ hàng trăm bài thơ thì cho rằng thơ phổ nhạc là một nét đặc thù của văn nghệ Việt Nam. Trong khi nói chuyện với tôi ông đã tỏ ra rất trân trọng những bài thơ phổ nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cho rằng đó là một nhạc sĩ phổ thơ hay nhất của âm nhạc Việt nam.

    Riêng với tôi, nghe lại những bản nhạc phổ từ thơ của người ca sĩ chủ chốt của ban hợp ca Thăng Long Hoài Bắc, tôi đã bị lôi cuốn vào một thế giới âm nhạc tuyệt vời. Từ những bài thơ nổi tiếng, nhạc đã mở ra thành những thế giới riêng và cất cao lên những cung bậc ngân nga trong tâm não. Thơ Quang Dũng (Đôi mắt người Sơn Tây) như có phả vào trong nhạc Phạm Đình Chương những nỗi niềm sầu xứ riêng của một người yêu quê hương tha thiết. Thơ Thanh Tâm Tuyền (Lệ đá xanh) những câu thơ tự do trúc trắc lại trở thành những cung bậc mượt mà và hình như trong từng nốt nhạc từng lời ca được chọn lọc trong thơ có một điều gì sẻ chia đồng cảm. Với thi ca, nhạc Phạm Đình Chương là bạn đồng hành.

    Và mỗi khi buồn, những bản nhạc tình của Phạm Đình Chương đã làm tôi da diết hơn nỗi đau và nhức buốt thêm nỗi nhớ. Tha thiết, lãng mạn, như nghe Nửa hồn thương đau, nghe “Người đi qua đời tôi”, những lời và nhạc quyện vào nhau. Ngân lên. Réo rắt.

    Phạm Đình Chương, người nhạc sĩ tài hoa đã làm phong phú cho gia tài âm nhạc Việt Nam. So với các nhạc sĩ nổi tiếng khác số lượng sáng tác của ông không nhiều lắm nhưng đã có rất nhiều ca khúc đã đi vào cõi bất tử. Nhạc của ông còn có tuổi thọ hơn ông nhiều lần. Những ca khúc đã nổi tiếng đến nỗi thành quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.

    Riêng với cá nhân tôi, mỗi lần nghe lại những bản nhạc như “Sáng Rừng” hay trường ca “Hội Trùng Dương”, tôi lại bồi hồi nhớ đến những ngày xưa lúc mới lên trung học. Ở ngôi trường mà trước đây là chỗ nuôi ngựa của quân đội Nhật sau sửa chữa thành Trung Tâm Học Liệu, nơi chúng tôi đã học hát những bài này với thầy Chung Quân ròng rã những năm đệ thất, đệ lục. Những bài hát đã tạo ấn tượng rất mạnh cho tôi từ ngôn ngữ đến âm điệu. Những bài hát làm tôi yêu mến hơn quê hương đất nước tôi. Tôi nhớ cả lớp tôi chia làm hai bè và những câu hát cứ đuổi theo nhau như lượn sóng ào ạt cuồn cuộn: “… Sóng muôn triền tới sóng xô về tới như muôn tình mới vươn sức người. Bừng giữa đời …” Chúng tôi cứ thế mà hào hứng hát trong cái kích động vô cùng của chuyển khúc nhạc … Thầy Chung Quân, tác giả của ca khúc nổi tiếng “Làng tôi“ thì không hết lời giảng giải với bọn học trò chúng tôi những nét hay ý đẹp của những ca khúc này. Thành ra, tuy tôi chưa gặp mặt bao giờ nhưng lại vô cùng quen thuộc khi nghe nhắc tới tên tuổi của nhà nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Hình như trong tiềm thức của tôi, đã có một vóc dáng nhạc sĩ cực kỳ to lớn. Những lờica hằn trong tâm thức và một lúc nào, có chất xúc tác, bùng vỡ cảm xúc như trôi theo suối, theo sông …

    Rồi thời gian trôi, tôi lớn lên, vào đại học rồi đi lính, đi tù, rồi vượt biên, rồi lưu lạc xứ người, mãi thời gian khoảng thập niên 80 tôi mới gặp lại ông. Và hình như, cái vóc dáng ngày xưa mà tôi tưởng tượng dường như không sai biệt mấy. Trong một buổi họp mặt văn nghệ ở quán Doanh Doanh của anh chị Thái Tú Hạp, ông hát bản nhạc mới sáng tác phổ từ thơ Du Tử Lê “Đêm nhớ trăng Sài Gòn“ và bản “Hạt bụi nào bay qua“ từ thơ Thái Tú Hạp. Dáng ông cao gầy, nói chuyện có duyên với giọng thật đặc biệt Bắc Kỳ Sơn Tây, mặc dù lúc đó hơi men đã ngấm. Ông hát rất truyền cảm và tạo được những phút giây lắng đọng trước khi chấm dứt làm người nghe ngưng một giây sững sờ trước khi vỗ tay vang dội. Trong tiếng nhạc, có tâm sự tỏ bầy. Trong lời ca, có mênh mông những khung trời quá khứ…

    Theo tài liệu của nhạc sĩ Phạm Thành là con ruột ông thì nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ, thân phụ ông đánh đàn tranh rất tuyệt trong khi thân mẫu ông chơi đàn bầu cũng rất hay. Thành ra nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, tác giả Nắng Chiều đã rất hữu lý khi phát biểu rằng nhạc của Phạm Đình Chương đã biểu lộ được những tinh túy của âm điệu ngũ cung. Sống trong một gia đình nghệ sĩ “nòi “ như vậy thì hấp thụ được những tinh hoa của nguồn nhạc dân tộc tính là chuyện dĩ nhiên.

    Ông bắt đầu học nhạc lý từ khi còn thơ ấu. Lúc mười bẩy tuổi ông đã sáng tác bản nhạc đầu tay “Ra đi khi trời vừa sáng“ với lời nhạc trong sáng nhịp điệu vui tươi tới bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Thí dụ như Đài phát thanh Little Sài Gòn ở Orange County đã dùng làm bản nhạc khởi đầu chương trình “Chào bình minh“ mỗi buổi sáng.

    Thời kháng chiến chống Pháp sau năm 1945, cũng như những chàng trai Hà Nội yêu nước, ông gia nhập vào các đoàn văn nghệ lưu động của Liên khu 4 và Liên khu 3. Ông đi đến nhiều nơi: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên. Thời kỳ này, ông sáng tác những bài hát kích động tinh thần yêu nước, chấp nhận những khó khăn, có bóng dáng của chiến tranh nhưng không hận thù chém giết. Như ca khúc “Được Mùa“ âm điệu vui tươi, chứa chan tình cảm với lòng tin tưởng vào tương lai. Trong khi những bản nhạc cùng thời sáng tác như “Ngày Mùa“ của Văn Cao, “Gánh Lúa “ của Phạm Duy, hay “Dân Ca Lúa Vàng“ của Mặc Thy, thì lời ca tiếng nhạc có bóng dáng của chém giết chiến tranh hơn.

    Nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay thường kể về những ngày tháng đầy hào hứng của tuổi trẻ của những thanh niên lớp tuổi ông và Phạm Đình Chương, vai đeo bạc đà tay bút tay đàn rộn rã với sinh hoạt văn nghệ thời kỳ toàn dân chống giặc. Nhà văn Tạ Tỵ trong hồi ký viết về các văn nghệ sĩ mà ông quen biết cũng nhắc đến quán cà phê của gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long thuở ấy. Vừa lưu diễn vừa sáng tác, tay đàn tay bút, từ đồng nội đến núi rừng, sinh lực tuổi trẻ và tâm tình yêu nước đã thể hiện trong từng ca khúc của Phạm Đình Chương.

    Sau chính sách Cải cách Ruộng Đất và những ngày rèn cán chỉnh quân, bộ mặt Cộng sản dần dần ló dạng, ông và gia đình trở về thành và vào Sài Gòn sinh sống. Ơû đây, ông cùng với anh ruột là nhạc sĩ Hoài Trung, chị ruột là ca sĩ Thái Hằng, anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, em ruột là ca sĩ Thái Thanh lập thành Ban Hợp ca Thăng Long. Đôi khi còn tăng cường ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp ca Thăng Long đã hoạt động liên tục trong một thời gian dài. Có khi trình diễn ở Hà Nội thì đổi tên là Ban Hợp Ca Gió Nam với sự góp mặt của nhạc sĩ Nam Tiến (tức Trần Văn Trạch) Kỷ niệm những ngày lưu diễn này nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã nhắc đến và tâm sự nhiều lần trước khi qua đời và coi như một kỷ niệm đẹp trong đời ca hát của người nghệ sĩ lão thành này.

    Những ngày ở miền Nam là những ngày sáng tác sung mãn của ông. ‘Ly rượu mừng” bài hát vui tươi tràn dầy mộng ước, là lời chúc rất nhân bản đã trở thành một bài hát mở đầu cho những buổi họp mặt của hầu hết mọi người dòng dã mấy chục năm về sau. Hay “Tiếng dân chài”, theo lời kể của tác giả là một sáng tác từ cảm hứng trên bờ sông Mã khi mục kích sinh hoạt của những người dân chài lưới.

    Thời kỳ này Ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng đến nỗi bìa của giai phẩm xuân “Đời Mới” của nhà báo kiêm chính khách Trần Văn Aân có hình ban Thăng Long có hai cô Thái một cô Khánh (Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc) phải in thêm để có đủ số lượng bán.

    Là linh hồn của Ban Thăng Long, những sáng tác của ông đã góp phần làm rạng rỡ những thành công vượt bực. Như Sáng Rừng, như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, như Tiếng Dân Chài, như Bài Ca Tuổi Trẻ,

    Như Anh Đi Chiến Dịch, như Ly Rượu Mừng, … Những bài hát đã thật quen thuộc đến trở thành một phần đời sống của những người dân ở miền Nam Việt Nam.

    Nhưng một gia sản to lớn cuả nhạc sĩ để lại cho âm nhạc Việt Nam là trường ca “Hội Trùng Dương”. Theo Phạm Thành cho biết thì thời gian sáng tác để hoàn tất là bốn năm dòng dã. Nhiều người đã xếp hạng “Hội Trùng Dương” ngang hàng với những “Trường Ca Sông Lô“ của Văn Cao hay “Hòn Vọng Phu“ của Lê Thương, những nỗi niềm và những khát vọng của dân tộc được thể hiện. Sáng tác trong thời gian đất nước bị chia đôi, ông muốn nói lên cái tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi cũng xuôi về biển Mẹ. Sông Hồng, với thao thiết âm thanh Quan Họ. Sông Hương, với đồng vọng giọng hò mái đẩy xứ thần kinh. Sông Cửu Long, với tiếng dân ca mộc mạc. Tất cả, trộn lẫn lại để thành tiếng hát đầy tình tự dân tộc và trong sáng. Thấp thoáng trong nốt nhạc, lời ca là sự lạc quan của những người tin tưởng vào tương lai của đất nước.

    Năm 1967, ông nhận tổ chức và điều khiển phòng trà Đêm Mầu Hồng (cũng là tên của một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền). Những sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của Ban Hợp Ca Thăng Long đã biến phòng trà này một chỗ nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng đầu của đô thành Sài Gòn.

    Trong nhạc Phạm Đình Chương, thi ca đóng một vai trò quan yếu. Hình như bắt nguồn từ sự đồng cảm với thi sĩ, nhạc đã tháp cánh cho thơ vút cao. Những vần thơ của Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Quang Dũng, Trần dạ Từ, … trước năm 1975 hay Du Tử Lê, Kim Tuấn, Thái Tú Hạp, … sau năm 1975 ở hải ngoại đã thành những ca khúc có sức lôi cuốn mạnh mẽ và nói lên được tâm tư của thời đại. Thơ, với chất lãng mạn sẵn có, hợp cùng âm điệu của nhạc để thành những nhớ lại từ liên tưởng những cuộc tình, những phận người. Để rồi có sự chia sẻø với suy nghĩ, vớiø ngôn ngữ, với thanh âm, đã mở hướng đi xa đến vời vợi hơn những cửa ngõ này, những chân trời kia.

    Nhạc sĩ Vũ Thành đã có lần nhận xét rằng phổ thơ như Phạm đình Chương từ bài thơ “Tự Tình Dưới Hoa“ của Đinh Hùng thành “Mộng Dưới Hoa“ là việc hình thành một “tuyệt tác đáng phục“. Nhạc sĩ khéo léo phổ toàn bộ bài thơ với một ngôn ngữ óng mượt trữ tình và kỹ thuật chuyển âm tuyệt diệu. Nhất là, chất lãng mạn được giữ nguyên nếu không nói là tăng thêm bội phần.

    Một trường hợp khác, ông đã phổ thành công những bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Nhiều nhạc sĩ nhận xét rằng phổ những bài thơ tự do, âm điệu phóng túng, với nhiều vần trắc, như thơ Thanh Tâm

    Tuyền không phải là việc dễ dàng. Thế mà, với Dạ Tâm Khúc, với Bài Ngợi Ca Tình Yêu, với Đêm Mầu Hồng, cái ý thơ cảm được nhưng khó diễn tả bằng lời đã được truyền cảm trọn vẹn. Thơ, đi gần tới hơn đối tượng và bằng nhịp điệu lôi cuốn người nghe với nghệ thuật riêng của nhịp cầu âm điệu. Không biết thành công này có phải bắt nguồn từ sự đồng cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ qua mối thâm giao lâu đời chăng?

    Biến cố tháng tư năm 1975 khiến ông phải làm nhân chứng cho một cuộc đổi đời. Sống ở Saigòn những năm tháng nghẹt thở rồi sau cùng ông và gia đình vượt biển năm 1979 rồi sang định cư ở xứ người. Đời sống thúc bách của sinh kế không làm ông ngưng sáng tác.

    Tâm sự một người lưu lạc chất ngất nỗi niềm khiến cho ông cảm thấy gần gũi với những vần thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Những bài thơ như “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển”, ”Đêm, nhớ trăng Sài gòn“, hay “Quê hương là người đó“ được phổ nhạc trong sự chia sẻ ấy. Quê hương mới đây mà đã cách biệt ngàn trùng. Những không gian, thời gian đã xa mất hút nhưng sao còn gần gũi. Tâm sự chúng ta đôi khi khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số. Mẫu số của một thời đại lưu vong.

    Có lẽ trong những nhà thơ, Du Tử Lê là người có duyên với các nhạc sĩ nhất cũng như thi sĩ Đinh Hùng thời trước. Gần một trăm bài thơ được phổ nhạc với rất nhiều ca khúc gần như “bất tử“ phải là một hiện tượng trong đời sống văn học Việt Nam.

    Nhà văn Mai Thảo đã viết về người bạn tâm giao của mình với dẫn chứng từ những tài năng âm nhạc khả tín:

    “… Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn, những điểm xuất sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến thức có thẩm quyền hết lời khen ngợi. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi. Là đường nét của âm điệu (ligne melodique) cách thế hòa âm, tiết điệu và bố cục từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và thuần phục. Cao và sang nhưng không khó không xa rất hợp rất gần với tâm hồn đại chúng. Như một phân tích tóm gọn của nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn.

    Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ thuật nhạc hiện đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ dược âm điệu, yếu tính (essence) và tâm hồn Việt Nam… “


    Riêng tôi, qua hơn sáu chục ca khúc cho một khoảng hơn bốn mươi lăm năm sáng tác, tôi đã nhìn thấy rõ một vóc dáng nhạc sĩ lớn. Là người ngợi ca tình yêu, với những ca khúc để đời : Mộng Dưới Hoa, Ngợi Ca Tình Yêu, Người Đi Qua Đời Tôi, Mầu Kỷ Niệm... Là người yêu quê hương, tin tưởng vào tương lai dân tộc, với Tiếng Dân Chài, với Được Mùa, với trường ca Hội Trùng Dương, … Là người lưu lạc tha hương, nhớ về chốn cũ nhà xưa, với Mưa Saigòn, Mưa Hà Nội, với Đêm, Nhớ Trăng Saigòn, với Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi ra Biển, … Là người nhạc sĩ yêu đời mang nghững bài ca tươi thắm với Sáng Rừng, với Trăng Rừng, với Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, … Tất cả, thành một vóc dáng âm nhạc đa diện. Ở mặt nào, cũng là đặc sắc. Ở cõi nào, cũng là khai phá bước chân. Mỗi mỗi, là những hiển lộng nghệ thuật. , những dụng công tinh vi. Aâm nhạc và đời sống có những bổ túc để thành một nhất quán cho sáng tác.

    Dù nhạc sĩ đã qua đời vào năm 1991, nhưng tuổi thọ của những ca khúc hầu như bất tử sẽ còn dài hơn rất nhiều 62 tuổi hưởng thọ. Đã có những chương trình hát và tưởng niệm cố nhạc sĩ. Đã có những ca khúc được trình bày như một cách thế cảm tạ những công trình mà có người gọi là những bông hoa tô điểm cho đời.

    Ngày trước, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã than thở rằng “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”. Bây giờ, với những cõi nhạc như Phạm Đình Chương, có lẽ đến vài thế kỷ sau vẫn còn đồng vọng những ca khúc như Hội Trùng Dương hay Mộng Dưới Hoa chăng? Có thể lắm chứ sao không? Đã gần nửa thế kỷ rồi mà lời nhạc vẫn xanh và bóng mát vẫn tỏa cùng trên quê hương mà âm điệu còn vang xa ra trên phần đất mà con dân Việt nam sinh sống trên toàn thế giới !!!

    Nguyễn Mạnh Trinh

    Bài Tango Việt Nam

    • Việt Nam, sáu tháng đầu tiên của năm 2008
    Tình hình thế giới
      Trong thời gian 6 tháng của đầu năm 2008, tình hình kinh tế thế giới bỗng nóng bỏng hơn. Vi xăng dầu tăng giá, vì nguyên nhiên liệu cũng tăng giá theo nên đời sống dân chúng thế giới đâm ra khó khăn hơn do mãi lực suy kém. Lạm phát đã và đang bắt đầu như một bóng ma đe dọa toàn thế giới. Để làm nguội lại cơn sốt, các ngân hàng từ Trung ương đến địa phương của các quốc gia tiên tiến trách nhiệm kinh tế hoàn cầu đang tìm các phương pháp thoát khỏi vòng khó khăn của những món nợ khổng lồ, do những con nợ khó đòi, nạn nhân của hiện tượng subprimes (cho vay nợ lãi suất thấp - DCVOnline) phát sinh từ năm ngoái ngay ở Mỹ và nay đã lan tràn qua Âu châu và Á châu. Giá cả thị trường bất đông sản đang tuột dốc mọi nơi đang chận đứng sự phát triển của một ngành nghề đang làm ăn sôi nổi mới ngày nào. Ở Mỹ, hàng vạn gia đình không trả nỗi nợ nhà, kẻ bị tịch thu nhà, người bị phá sản. Ở Anh, vì ngân hàng chận không cho vay dễ dàng nữa, nên thị trường nhà cửa cũng đứng luôn. Ở Pháp thị trường bất động sản cũng gặp khó khăn. Những thành phố lớn như Paris, London … tuy là những thị trường vẫn còn tốt, giá nhà vẫn bị xuống giá 10%, 15 % như thường.

      Tình hình Việt Nam

      Việt Nam ta cũng không tránh khỏi. Mặc dù giá xăng, giá gạo và vài nông yếu phẩm cần thiết được kềm giá do sự ủng hộ của chính phủ, nạn lạm phát vẫn không tránh khỏi. Lạm phát từ đầu năm đến nay được đánh giá chỉ là 25% thôi. Giá xăng mặc dù được bao cấp nay đã vượt khỏi một Mỹ kim một lít, giá tăng 50%. Một dĩa cơm bình dân ở chợ giá nay đã là 10 ngàn đồng VN. Một công nhân nếu ăn ngày hai buổi cơm dĩa sẽ tiêu xài chỉ có cá nhân mình thôi trên 2/3 phần lương bổng của mình (trường hợp chung, lương vào khoảng 800.000 đồngVN/tháng) – 16 000 đVN = 1 US$.

      Đấy là chỉ nói tới xăng và gạo thôi, chưa kể tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền củi, học phí con cái, bệnh hoạn. Lớp dân lao động nghèo đã đành. Từng lớp trung lưu cũng vậy, dân “chơi” chứng khoán, phá sản. Dân “đầu tư” bất động sản cũng thế: mượn tiền nhân hàng tiền lời 18 phân, mua nhà, mong bán đi được lời, nay nhà xuống giá 25% có khi 50%. Đã có vài trường hợp phá sản, nghe nói đã có người tự tử vì không trả nổi nợ ngân hàng (mặc dù đã mất nhà, nhưng vẫn còn mang nợ).

      Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đầu năm nay, đi viếng nước Mỹ, xin viện trợ, xin lời “khuyên” của ông Greenspan để làm sao làm dịu cơn sốt lạm phát hiện đang hoành hành Việt Nam. Lời khuyên gì khi Việt Nam không có một tổ chức và một cơ cấu tốt để sửa sai?

      Đồng thời Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cũng dắt một phái đoàn đi viếng giới chủ nhân xí nghiệp Pháp. Hiệp hội Chủ nhân các xí nghiệp tư doanh Pháp, đối thủ của Đảng cộng sản và Công đoàn Lao động Pháp ngày nay biến thành người bạn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Còn đâu tình hữu nghị bất diệt ngày nào của thời Quốc tế Vô sản? của thời “quốc tế Ca” - “Vùng lên hởi những nô lệ của thế gian …”?

      Thế gian tư bản là của những người làm ăn, thế gian tư bản của những người chỉ biết lợi nhuận đang khuyến khích những tay nhà giàu mới, những kẻ tập tễnh làm ăn, kiểu Việt Nam, chạy đua vào nghề thương mãi tư doanh, miệng nói nào thị trường chứng khoán, nào dịch vụ ngân hàng, nào chỉ số phát triển, nhưng thật sự không biết thế nào là chứng khoán? thế nào là một bảng chiết tính Ngân hàng?

      Vì sợ chỉ số Sản xuất đầu người GNP (GNP Gross National Product hay Produit National Brut) làm nản lòng các quốc gia chậm tiến, thí dụ Việt Nam là 550 dollars/năm. Người ta chế ra cái gọi là chỉ sô “tương đương mãi lực” (parité du pouvoir d’achat – equivalent of cost of life – hay equivalent of purchasing power). Thí dụ VN là 2500 US$. Nghĩa là mặc dù dân VN làm ra chỉ 500 US$ một năm thôi, nhưng thật sự họ có một mãi lực tương đương với 2500 US$. Nhưng đó là những chỉ số của những năm qua. Còn năm nay?

      Nhưng vì ở trong một quốc gia có một chế độ chánh trị là Công An trị, nên Đảng cầm quyền mới yên tâm tuyên truyền độc diễn được, tung ra thế giới là hình ảnh một nước Việt Nam đang lên, một con Cọp con, hay một con Rồng con. Nhưng đó là “hình ảnh tươi mát” của bọn người cầm quyền bán cho bọn tư bản nhà giàu quốc tế, và cũng do các anh tư bản quốc tế muốn được như vậy “để trấn an dư luận của mình” nên cũng đang ca tụng để dụ khị các anh “chậm tiến” như VN để chấp nhận các anh tư bản bỏ tiền đầu tư bóc lột sức lao động dân Việt Nam. Nhưng tư bản vẫn là tư bản, chỉ có lợi nhuận mới là quan trọng, khi cần bỏ rơi, họ sẽ ra đi.

      Một bằng chứng. Tuần qua, trong cơn sốt sửa soạn Thế vận Hội Beijing (Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Trung Hoa Cộng sản), Adidas, công ty sản xuất dụng cụ thể thao không ngần ngại tuyên bố sẽ đóng cửa các xưởng sản xuất ở Trung Hoa để dời qua Ấn độ hay các nước Đông Nam Á láng giềng (Việt Nam, Cao Miên, Lào). Viện cớ ở Tàu giá nhân công đã đến một cái mốc gọi là mắc rồi – 120 US$. Ở Ấn độ chỉ 100 US$, còn Việt Miên Lào hãy còn là 35 US$. Adidas, khi tuyên bố như vậy không cần đoái hoài đến vận mạng thợ thuyền địa phương (ở đây là Tàu) và cũng chả cần đến thị trường tiêu thụ địa phương (thị trường Tàu). Việc nầy chứng minh cho ta rõ là các nhà tư bản đặt rất nhẹ vào cán cân, thị trường Tàu với 1 tỷ 300 triệu dân, khi cần lợi nhuận họ vẫn giải quyết như thường, đặc biệt là khi họ đã tạo được nhu cầu và thị trường cho giầy và dụng cụ thể thao. Nói tóm lại Đảng cộng sản Tàu ngày mai có tẩy chay được hàng Adidas không? Chuyện ấy sẽ hạ hồi phân giải, vì, và, sẽ còn nhiều hiệu nữa cũng sẽ ra đi.

      Như vậy chúng ta, nay, khi đã nắm rõ tình hình thế giới trong cái suy nghĩ “trật tự thế giới” ấy, chúng ta phải tiên liệu làm sao để cho tự do, dân chủ, công bằng xã hội đến cho đất nước Việt Nam.

      Còn những tình hình bề mặt?


      Như những quyết định của Quốc hội Việt Nam vừa qua (Quốc hội Cộng sản bù nhìn):

      - Nói về vai trò của Trí thức và vận động người Trí thức để đóng góp cho đất nước.

      Từ nay Việt Nam chúng ta sẽ có một mô hình giai cấp mới theo định nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, ba giai cấp, theo thứ tự mới: Công –Nông – Trí. Quan trọng lắm, 60 năm mới được phục hồi. Trí, từ lúc “Trí Phú Địa Hòa đào tận gốc, giết tận rễ”, nay đã được sống lại và được vào làm thành phần thứ ba của xã hội. Đây cũng để chúng ta suy nghĩ đến cái bế tắc của Đảng Cộng sản. Nhưng khi ta thử so sánh với “Sĩ Nông Công Thương” của thời phong kiến? Chúng ta vẫn thấy Đảng cộng sản và cái giáo điều CS chủ nghĩa vẫn còn sợ chữ “thương” của giai cấp thương mãi.

      Thế giới ngày nay là giai cấp của kinh tế thị trường, của tiếp thị, của ngành thương mãi. Lý luận giáo điều về sản xuất Công nghiệp là lý luận cùa đầu thế kỷ 20. Bắt đầu sau thế chiến thứ hai, sau khi đã xây dựng lại những tàn phá của chiến tranh, Âu Mỹ và Nhựt bổn đã bước ngay vào thời đại của Marketing rồi: Món hàng tiêu thụ được nhin toàn vẹn, từ khâu khám phá, kỹ thuật, sản xuất, gói hàng, thị trường … cho đến tay người tiêu thụ.

      Cộng sản Việt Nam với não trạng thủ cựu mác-xít lê–nin–nít, vẫn còn suy nghĩ của Đại-nhảy-vọt mao-ít, tuy mồm nói là Kinh tế thị trường “xã hội chủ nghĩa” nhưng vẫn sợ Kinh tế thị trường

      Chớ vội mừng vi Nguyễn Tấn Dũng vừa sửa sai Quân khu thủ đô, fire (giải nhiệm) các tướng lãnh. Ta chớ cho đó là một dấu hiệu tốt. Vì sửa sai ấy tuy là của ông thủ tướng đấy, nhưng đạo diễn thật là ai? Có phải của quan Thái thú Tàu không? Cắt lông cắt cánh “quân đội nhân dân Viêt Nam” cũng là tỉa bớt những đối lập có tinh thần “chống Tàu”?

      Chớ vội mừng khi Công An, Nhà Nước và Đảng Cộng sản Việt Nam đang đổi chiến thuật bằng cách trục xuất các nhà đối kháng trong nước: Ls Bùi Kim Thành đã đến Mỹ, rồi nay mai các Ls Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài cũng sẽ đến Mỹ rồi Linh mục Nguyễn Văn Lý. Mỹ cũng đồng lõa trong chiến dịch nầy để “ba phải” làm vừa lòng cả trong lẫn ngoài.

      Đảng Dân chủ Mỹ cũng sẽ đi đến một chánh trị “thoa dịu” để thỏa mãn mọi thành phần trong cái thế giới đầy căn thẳng của ngày hôm nay:

      - Âu châu với Đông Âu, với Vùng Địa Trung hải

      - Trung Đông với Palestine/ Do Thái (Thủ tướng Olmert vừa từ chức giao quyền cho bà Tzipi Livni, ôn hòa hơn) để nói chuyện với Syria và Iran; với những cuộc tự sát khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey – DCVOnline), ở Án Độ, ở Pakistan, ở Iraq – chống Shia, thân Mỹ.

      Thế giới tạm yên lành ngày nay chỉ cón có Đông Á và Đông Nam Á:

      - Đông Á với vai trò lưởng cực Nhựt-Tàu, nhưng với cục xương Bắc hàn mà chỉ có anh Nam Hàn trị được.

      - Đông Nam Á, với vai trò anh Tàu lục địa đang chơi trò “anh cả ăn hiếp đàn em”, nhưng lại gặp hai cục xương khó nuốt là anh Đài loan (đang tiếp tục võ trang mua súng đạn của Mỹ) và anh Singapore – cũng là dân gốt Tàu với nhau. Lại thêm “không khí rất Hồi giáo” của Indonésia (đã từng dám ra tay “Sát” một triệu anh Tàu cộng dưới thời Suharto) và anh Mã Lai. ASEAN rất ô hợp, APEC cũng thế, chỉ có tiếng nhưng chẳng có miếng nào cả. Anh Tàu vẫn là kẻ cả. Hoàng sa, Trường sa, biển Đông vẫn là Nam Sa, Tây Sa và Nam hải (Tàu vừa cảnh cáo hảng dầu ExxonMobil của Mỹ không được ký kết với VN ở Biển Đông ).

      Vai trò Hải ngoại chúng ta, vai trò các Đảng quốc gia

      Bổn phận Hải ngoại chúng ta. Hãy nhận định cho rõ vị trí của mình. Khi rõ vị trí rồi hãy nhận định vai trò, để sống chung là làm bổn phận công dân của quê hương trú quán của mình, để sống chung với các đoàn thể đấu tranh cho nhạn dân Việt Nam cho quê hương gốc gác của mình.

      Tạo một đối lập có trọng lượng kỹ thuật về mặt quản lý chánh trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật khoa học, mội trường, để hỗ trợ và đáp ứng vai trò làm tiếp liệu các đòi hỏi của các lực lượng đối lập chánh trị trong nước.

      Phải có chương trình, phải có viễn kiến, vì vậy phải theo dõi cập nhựt hóa tinh hình kinh tế, xã hội, kỹ thuật thế giới. Nhiếu suy nghĩ cho những chương trình với những giả thuyết khác nhau: giá dầu lên 200 US$/một thùng, Tàu đánh Tibet, Tàu bị loạn Hồi giáo. Mỹ rút khỏi Iraq và Afghanistan nhường vai trò lại cho Tàu, ai sẽ làm chủ Nam Thái Bình Dương? …. Làm sao nâng cấp kỹ thuật công nhân VN? Vì hiện nay, ngay tại VN hay ở khâu xuất cảng Công nhân (Đại hàn, Mã Lai, Jordan, …) Công nhân VN là thứ công nhân hạng tồi không có tay nghế.

      Hải ngoại chúng ta phải có mặt trong cái trận chiến; các Đảng phái quốc gia phải là đầu tàu:

      - Đòi công bằng và đạo đức, trong tranh chấp chủ / tớ. Công nhân các nước chậm tiến phải được bảo vệ, phải cùng với các thế lực thế giới tranh đấu để các công nhân và công dân thế giới nhứt là ở các quốc gia và khu vực chậm tiến có được một đòi sống có an bình và công bằng xã hội. Công việc được bảo vệ, an lành, tình trạng lao động được an toàn, vệ sanh, giờ giấc, hưu trí, sức khoẻ, lỹ thuật được theo dỏi chăm sóc. Theo thế giới để du nhập vào VN. Những của ngõ có thể xâm nhập được, bảo vệ các người đang lao động tại nước ngoài, đang bị những chủ nhân địa phương bóc lột (thí dụ Mả lai, Jordan). Liên lạc với những nghiệp đoàn địa phương để họ bảo vệ người công nhân VN du nhập.

      - Đòi các quyền con người tối thiểu của một nước tân tiến. Quyền lập hội, lập Đảng, làm báo, ngôn luân tự do, Tư do Hội họp … tự do tín ngưởng.

      Thông tin, chuyển tin, biểu tình, nói chuyện, hội luận, viết bài, giữ truyền thống Việt Nam tự do dân chủ, không ngừng, không mệt mỏi. Bổn phận của chúng ta, bổn phận của những nhân chứng lịch sử, của một thời tự do, một thời dân chủ, một thời để thương, một thời để nhớ. Hãy tiếp tục để trả nợ cho các đàn anh đã nằm xuống cho Tự do, đã chết đuối trong biển cả. Bổn phận của chúng ta, bổn phận của những người sống sót.

      Vì cái Việt Nam ngày nay là Việt Nam tuy là của những phái đoàn mang cà vạt mặc áo tây đi du lịch chánh trị ra xứ người; nhưng trong nước vẫn thiếu tự trọng và lễ độ ngoại giao tối thiểu đã đuổi khách ngoại giao quốc tế, đã mua vé máy bay hạng nhứt xuống ngồi ghế cá kèo.

      Cũng đừng quên năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua Roma chào Giáo Hoàng Bê Nê Đíc tô 16 về đến nhà bắt ngay Linh mục Nguyễn Văn Lý và cho bịt miệng trước Tòa án.


      Vì Việt Nam ngày nay là một cô ca–ve đang đi bản Tango trong một vũ trường quốc tế, một bước tiến, ba bước lùi: xập xàng, xập xình, du dương đấy, mê mẩn đấy! khách sộp quốc tế: Mỹ, Tây, Tàu nhưng Việt Nam hãy coi chừng khi thức dậy.

      Khi tiếng nhạc Tango chấm dứt, không biết còn nước Việt Nam của người Việt Nam hay không? hay chỉ là một phần đất của một bộ phận dân tộc Việt, một thành phần trong các thành phần dân tộc: Hán, Mông, Hồi, Thanh, Tạng và Việt của tập thể các bộ phận dân tôc của nước Đại Hán.

      Phan Văn Song

        Friday, August 8, 2008

        Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng mời chuyên gia kinh tế về quê hương vá lại chiếc khố rách


        Mai Vĩnh Thăng

        “Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam vừa cho công bố sự đồng ý trên nguyên tắc việc mời các chuyên gia kinh tế quốc tế có uy tín về Việt Nam trao đổi, tư vấn cho các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp của Việt nam”. Đó là tin tức thời sự do Thiện Giao, phóng viên đài Á Châu Tự Do RFA (Radio Free Asia) ghi nhận ngày 16/7/08. Và sau đây là hai vấn đề do phóng viên Thiện Giao và Trà Mi nêu ra để thảo luận.

        “Các chuyên gia Việt Kiều có thể giúp gì cho kinh tế Việt Nam?” và “Việt Nam làm thế nào để thu hút nhân tài Việt hải ngoại?”

        Người Việt chúng ta vẫn chưa quên hai cuộc di tản lánh nạn Cộng Sản lớn nhất lịch sử nhân loại. Năm 1954 hàng triệu người từ Bắc di tản vào Nam và năm 1975 một lần nữa, hàng triệu người Nam Bắc cùng đào thoát lưu vong khắp nơi trên thế giới. Trong chúng ta những ai đã từng sống với Việt Cộng sau năm 1975 hay bị cầm tù, có lẽ chưa quên luật rừng của bọn chúng. Bất chấp hiệp định Geneva năm 1954 và Paris năm 1973, Bắc Việt xua quân cưỡng chiếm miền Nam tàn sát, tù đày hàng triệu người và đẩy hàng triệu khác ra biển khơi.

        Có người cho rằng đã hơn 30 năm mà vẫn còn nhắc đi nhắc lại câu chuyện cũ rích, đúng là kẻ thù dai! Nhưng nếu không nuôi dưỡng căm thù thì ý chí, lập trường chống cộng có thể sẽ mai một vì thiếu động lực. Có người góp ý, nếu cứ tiếp tục nuôi dưỡng thù hận cũng không được gì, vì một ngày nào đó sẽ mang cái hận mất nước đó xuống lòng đất. Kẻ khác tự cho là thức thời và khuyên: con cháu chúng ta ở Việt Nam ngày nay đang miễn cưỡng sống trong chế độ Cộng Sản, hãy quên đi chuyện cũ mà giúp đất nước, một cách gián tiếp giúp con cháu chúng ta. Bây giờ hãy tạm gác lại chuyện chống cộng để bàn đến việc người Việt hải ngoại chúng ta có thể giúp gì cho kinh tế Việt Nam.

        Trong bài viết nầy chúng tôi chú trọng vào hai phần chính.
        Thứ nhất gồm “Nền giáo dục và tài nguyên trí thức”, và sự khác biệt giữa hai nền kinh tế “Tư bản và Cộng sản”.

        Phần thứ hai gồm chính sách kinh tế “Ngắn và dài hạn”. Đây là những yếu tố căn bản quyết định thịnh suy kinh tế đất nước. Trước nhất tôi xin đề cập đến vấn đề giáo dục đại học Việt Nam.

        Sơ lược tình trạng giáo dục đại học và trí thức CSVN tính đến tháng 12/2007.

        · 322 trường đại học và cao đẳng
        · 52,000 phân khoa các loại
        · 1.5 triệu sinh viên bậc cử nhân hàng năm
        · 7,000 tiến Sĩ
        · 463 giáo sư và 2,467 phó giáo sư

        Trên đây là thống kê do Tiến Sĩ Nguyễn Thiện Nhân Bộ trưởng Giáo Dục và Đào Tạo CSVN cung cấp. Đây là tài nguyên đại học và là số vốn trí thức CSVN. Tính trung bình cứ mỗi trường đại học hay cao đẳng có 10 giáo sư/phó giáo sư và mỗi 510 sinh viên bậc cữ nhân có 1 giáo sư/phó giáo sư, trong khi CSVN lạm phát với 7,000 tiến sĩ, một con số trí thức hàng đầu trong các nước Á Châu.

        Quan niệm rằng giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu nghèo đói, là nền tảng tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại lợi ích như y tế, nam nữ bình quyền, công bình và trật tự xã hội. Hiện nay có trên 77 triệu trẻ em trên thế giới không có điều kiện đến trường, 30% thuộc vùng Á Châu Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Khuyết điểm của chính sách giáo dục sẽ đưa đến thiếu hụt tài nguyên, chính sách quốc gia không hữu hiệu và quản trị yếu kém. Ngân sách dành cho giáo dục chỉ có thể vừa đủ trả đồng lương chết đói cho thầy dạy. Trường sở, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy thường không được tài trợ đầy đủ. Nhìn chung, nền kinh tế suy sụp như hiện nay là hậu quả tất nhiên của chính sách giáo dục tồi tệ không hữu hiệu của CSVN.

        1. Để có khái niệm về nền kinh tế tư bản và xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương về sự khác biệt giữa 2 nền kinh tế trước khi thảo luận đến chính sách kinh tế CSVN.

        Kinh tế tư bản

        Trong bất kỳ nền kinh tế nào, để có thể sản xuất và tiêu thụ, cũng cần nêu ra một số vấn đề căn bản như: loại hàng hóa, số lượng cần phải sản xuất, dịch vụ nào cần phải lập ra để phân phối trong dân chúng, và nhất là giá cả của hàng hóa và dịch vụ đó. Đây là trách nhiệm của từng cá nhân, chính phủ hoặc cả hai phải quyết định việc nầy.

        Trong nền kinh tế tư bản, hầu hết các quyết định do dân chúng thực hiện độc lập. Tư bản chủ nghĩa, con người thiên về tư lợi, và sức mạnh của thị trường được phối hợp trực tiếp từ các quyết định do dân chúng thỏa thuận. Từ nguyên nhân đó, kinh tế tư bản thường được gọi là “kinh tế thị trường”.

        Ích lợi lớn nhất của kinh tế tự do là việc phân phối tài nguyên và hàng hóa hữu hiệu. Nhưng cũng không thể tránh khỏi khuyết điểm, như thị trường có thể bị hỗn loạn khi thiếu vắng sự can thiệp của chính quyền. Kinh tế thị trường đáp ứng các nhu cầu cá nhân và làm giàu cho một số người. Dù vậy không ai có thể phủ nhận vai trò của chính quyền các quốc gia tư bản nơi chúng ta tạm dung, trong việc mưu tìm phúc lợi xã hội cho dân chúng. Và đây là một ước mơ không bao giờ có trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa.

        Kinh tế cộng sản

        Kinh tế cộng sản, thường gọi là xã hội chủ nghĩa, mặt khác, những quyết định cũng do dân chúng thực hiện nhưng thừa lệnh chính phủ, phối hợp và thi hành các quyết định do trung ương đảng hoạch định và chỉ huy. Vì thế nền kinh tế xã hội chủ nghĩa còn được gọi là “kinh tế tập trung chỉ huy”.

        Kinh tế xã hội chủ nghĩa là một lý thuyết đã từng gây nhiều tranh luận trong việc phát triển kinh tế quốc gia song song với phúc lợi xã hội. Theo lý thuyết, giai cấp công nhân sẽ được đặc biệt nâng đỡ vì cho rằng họ luôn bị giới tư bản, người sở hữu tài sản và đất đai, lợi dụng bốc lột.

        Theo lý thuyết, kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ mang lại công bình xã hội bằng cách trao quyền sở hữu tập thể cho giai cấp công nhân, thay vì chính phủ. Karl Max cho rằng thuyết xã hội đóng vai trò trung gian để quân bình sự chênh lệch giữa cộng sản và tư bản. Thuyết căn bản xã hội chủ nghĩa về sản xuất là làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu, theo mô hình cộng sản Nga đã thực hiện từ năm 1936. Theo gót cộng sản Nga là khối cộng Đông Âu, Trung Cộng dưới thời Mao Trạch Đông và Việt Cộng với Hồ Chí Minh.

        Về sau các quốc gia xã hội chủ nghĩa trở thành tham nhũng, viên chức chính phủ quan liêu và nhiều quyền hành không thể kiểm soát. Và từ đó các quốc gia cộng sản không còn nói đến chuyện phúc lợi xã hội, công bình hay dân quyền. Thực tế việc phân quyền hay tản quyền từ trung ương xuống dân chúng không bao giờ được thực hiện.


        2. Chúng ta đã tìm hiểu đại cương về giáo dục và tài nguyên trí thức CSVN. Chúng ta cũng đã phân biệt sự khác biệt cùng ưu khuyết điểm giữa 2 nền kinh tế tư bản và cộng sản. Đến dây chúng tôi xin đề cập đến chính sách kinh tế CSVN.

        Chính sách kinh tế ngắn hạn (Short-run)

        Thực ra CSVN không có chính sách kinh tế mà là thụ động phản ứng theo sự thay đổi bất thường của chu kỳ kinh tế. Họ chỉ tìm cách vá víu tạm thời thay vì mưu tìm một chính sách ổn định lâu dài có thể dự đoán được dựa theo chu kỳ kinh tế. Muốn thực hiện điều nầy, CSVN cần phải có chuyên viên và thống kê hoàn hảo. Hiện nay những con số thống kê CSVN nặng màu sắc chính trị, trình diễn và thiếu trung thực, vì thế không thể dự trù một chính sách kinh tế tương đối hữu hiệu cho quốc gia.

        Vấn đề kinh tế thật mênh mông, nhất là kinh tế quốc gia hay vĩ mô (Macroeconomics) trong khi kiến thức của con người và thời gian có giới hạn. Nếu phân tích chính sách kinh tế của Alexander Hamilton, Henry Ford, Alan Greenspan và George Bush, bài học từ họ là áp dụng các nguyên tắc căn bản kinh tế từ thế kỷ thứ XIV cho đến nay, đó là vấn đề kinh tế quốc gia ngắn và dài hạn. Chúng ta hiện đang sống trong giai đoạn kinh tế ngắn hạn, là một phần trong chính sách dài hạn do những người đi trước để lại.

        Công nhân Việt Nam làm thuê cho các công ty ngoại quốc là một thí dụ cụ thể về kế hoạch kinh tế ngắn hạn và dài hạn. Theo lý thuyết, CSVN cần phải đào tạo chuyên viên khi các nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu thiết lập cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Với kinh nghiệm 10 năm làm thuê cùng với chuyên viên đã được đào tạo, Việt Nam có thể hội đủ điều kiện để sản xuất những hàng hóa gia dụng cần thiết phục vụ đời sống dân chúng mà không cần phải nhập cảng từ ngoại quốc như computer, tủ và máy lạnh, lò, bếp, máy truyền hình . . .

        Mục đích chính sách kinh tế ngắn hạn là tiên liệu và ổn định những biến chuyển bất thường trong tiến trình thực hiện chính sách kinh tế dài hạn, điển hình là tình trạng suy thoái kinh tế Việt Nam hiện nay đã đưa đến lạm phát, thất nghiệp, lãi suất cao và tình trạng kỹ nghệ sản xuất tuột dốc trầm trọng. CSVN đã áp dụng biện pháp nào để có thể ổn định kinh tế? CSVN áp dụng chính sách tiền tệ (Monetary policy) Mỹ nhằm giảm số lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế trong khi in hàng nghìn tỷ đồng VN để mua và dự trữ Mỹ kim. Thêm vào đó số tiền ngoại quốc đầu tư trực tiếp FDI năm 2007 là 21.3 tỷ Mỹ kim và chỉ 7 tháng đầu năm nay đã lên đến 45.3 tỷ. Riêng người Việt hải ngoại gởi về cho thân nhân và đầu tư trong năm 2007 là 4.6 tỷ Mỹ kim và sẽ tăng 21.7% trong năm 2008, nâng tổng số ngoại tệ gởi về Việt Nam lên 5.6 tỷ Mỹ kim (Theo Dow Jones). Vì số lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam không thể kiểm soát cho nên vấn đề lạm phát là hiển nhiên và không thể kiềm chế. Đây là hậu quả tất nhiên của đường lối lãnh đạo độc tài của bọn thất học chỉ biết tranh chấp quyền lực nội bộ, thanh trừng, tham nhũng thay vì hợp tác phục vụ quyền lợi quốc gia.

        Chính sách kinh tế dài hạn (Long-run)

        Gồm có kế hoạch phát triển và tăng trưởng kinh tế, chính sách nhân dụng nhằm tạo công ăn việc làm cho dân chúng, kiềm chế lạm phát, và sau cùng là tìm cách giảm thiểu tối đa ảnh hưởng các số nợ mà CSVN vay trong nước và quốc tế. CSVN đã cố gắng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế 7.9% năm 2007 và 6.5% trong 6 tháng đầu năm 2008 hầu theo kịp các nước đang phát triển trong vùng như Thái Lan 4.8%, Phi Luật Tân 5.7% và Mã Lai 4.6%.

        Sự cố gắng thái quá và thiếu chuẫn bị đã làm cho CSVN là nạn nhân của chính mình. Dù vậy, tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam rất lý tưởng với 5.3% theo thống kê và nếu đây là con số chính xác, Việt Nam sẽ là quốc gia no cơm ấm áo hàng đầu trong khối Cộng Sản.

        Thực tế, ảnh hưởng lạm phát 28% trong tháng 7/08 đã xóa đi thành quả tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua của Việt Nam. Vật giá tăng nhanh, nhập cảng nhiều hơn xuất cảng đưa đến tình trạng thất nghiệp, mậu dịch thâm hụt 14.4 tỷ Mỹ kim trong năm 2007 và 14.8 tỷ trong 6 tháng đầu năm 2008 và nguy hại nhất là ngân sách dự trữ ngoại tệ chỉ còn 20 tỷ Mỹ kim để điều hành hối đoái.

        CSVN điều hành kinh tế theo quán tính, không kế hoạch. Kể từ tháng 11/2006 khi gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO lại càng không thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế vì hàng hóa kém phẩm chất. Sự chọn lựa duy nhất chỉ còn cách xuất cảng một số mặt hàng hạn hẹp (Vertical) tiêu biểu như các loại hải sản, gỗ, thủ công nghệ, nông sản và các mặt hàng may mặt, giày dép. Tuy nhiên Việt Nam vẫn phải nhập cảng phân bón và chỉ sợi. Tệ hại nhất là bán ra dầu thô để mua lại xăng với giá cao. Hiện tại CSVN đang hợp tác với công ty dầu Exxon Mobil Mỹ để thăm dò dầu khí vùng biển Đông nhưng đang gặp sự phản đối từ phía người anh em xã hội chủ nghĩa Trung Cộng.

        Trong năm 2007, CSVN còn nợ thế giới 21.7 tỷ Mỹ kim không kể đến số nợ viện trợ vũ khí của khối Cộng, viện trợ dài hạn không lời và nợ trong nước qua các đợt phát hành công khố phiếu (Treasury bonds). Với nền kinh tế què quặt cùng với hệ thống tham nhũng của đảng, CSVN rất khó thanh toán số nợ khi đáo hạn.

        Tài sản quốc gia và tài sản đảng

        Việt Nam hiện có 3,786 công ty liên doanh và 1,720 công ty quốc doanh; trong số nầy có 6 ngân hàng liên doanh, 26 ngân hàng cổ phần và 5 ngân hàng quốc doanh. Tất cả đều do đảng lãnh đạo, nhất là ngân hàng và những công ty quan trọng.

        Vì áp lực của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, Ngân Hàng Thế Giới WB và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, CSVN buộc phải tư hữu hóa một số công ty quốc doanh. Tuy nhiên họ chỉ bán ra những công ty kém quan trọng, không sinh lợi hoặc phá sản. Những công ty quan trọng đều do đảng điều hành, thao túng biển thủ. Ngân sách quốc gia không cần phải công khai hóa vào cuối niên khóa tài chính như các quốc gia tự do. Với hệ thống đảng trị, bọn lãnh đạo độc quyền sử dụng, phân phối và tham nhũng, không phân biệt tài sản quốc gia hay tài sản đảng.

        Đến đây chúng ta đã có khái niệm về tài nguyên trí thức CSVN, theo thống kê, sẽ không đủ để có thể phục vụ đất nước với 84 triệu dân. Qua khái niệm về kinh tế cộng sản, một nền kinh tế do bọn thất học và độc tài lãnh đạo, chỉ có thể đưa đất nước đến nghèo đói. Với một nền kinh tế què quặt, vá víu, mậu dịch thâm hụt, nợ nần tương đương 25% tổng sản lượng quốc nội, vấn đề phá sản chỉ còn là thời gian. Vì không tin tưởng vào tương lai, đảng viên các cấp đồng lõa tham nhũng, tẩu tán tài sản quốc gia ra ngoại quốc làm của riêng, Việt Nam thực sự đã đến thời mạt vận.

        Với chính sách độc tài và vi hiến (Unconstitutional) do chính bọn đảng lập ra; tư pháp, lập pháp và hành pháp chỉ là công cụ của đảng. Quyền tự do căn bản con người bị tước đoạt; hậu quả là nhân quyền bị chà đạp, tư hữu bị chiếm đoạt, chưa nói đến hệ thống hành chánh quan liêu, cục bộ đầy dẫy những phức tạp và tham ô. Với tập quán làm việc ô hợp thối nát, liệu các chuyên gia gốc Việt hải ngoại có thể giúp được gì cho quê hương?

        Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi 300,000 chuyên gia kinh tế có uy tín, gồm cả thành phần phục vụ dưới thời Việt Nam Cộng Hòa trở về phục vụ đất nước. CSVN ngụ ý nói đến một chính sách cởi mở, dân chủ, hòa giải không còn thù hận, và là môt thông điệp rất quan trọng mà CSVN muốn gởi đến thế giới tự do; một lối tuyên truyền cố hữu của bọn Vẹm. Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng mang bệnh hoang tưởng, tìm đâu ra 300,000 chuyên gia kinh tế người Việt hải ngoại? Hầu hết những chức vụ cao và quan trọng (Senior & Key positions) trong kinh tế, thường làm việc cho chính phủ, ngân hàng, tài chánh, đầu tư và trong lứa tuổi từ 45 đến 55. Với tập quán làm việc (Corporate culture) hủ lậu, quan liêu của Việt Cộng, cái môi trường thối tha nầy không hấp dẫn lớp chuyên viên Việt Nam, trừ bọn cò mồi đỏ.

        Lời nhắn sau cùng với những ai có ý định về quê xây dựng đất nước:

        1. Bằng cách nào quí vị có thể cải hóa một tên du kích Việt Cộng trì độn trở thành một người có nhân tính và khả năng làm việc?

        2. Việt Cộng là bọn vô nhân tính, tàn bạo và thất học; chúng ta sống trong xã hội nhân bản, đạo đức và học thức không thể là Việt Cộng, quí vị đứng bên nào?

        3. Những bài học từ Trịnh Vĩnh Bình ở Bắc Âu, Nguyễn Trung Trực ở Úc Châu và gần đây nhất là Trần Trường ở Mỹ Châu cũng rất đáng suy nghĩ.

        Mai Vĩnh Thăng

        Thông Bạch Vu Lan Của Viện Trưởng Viện Hóa Đạo - Giáo Hội PGVNTN


        GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
        VIỆN HÓA ĐẠO


        Thanh Minh Thiền Viện,
        90 Trần Huy Liệu, Phường15, Quận Phú Nhuận - TP Sài Gòn

        Phật lịch 2552
        Số: 14/VHĐ/TB/VT

        THÔNG BẠCH VU LAN



        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

        Kính bạch chư tôn đức Giáo phẩm các cấp,

        Thưa chư thiện tín Cư sỹ Phật tử trong và ngoài nước,

        Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, tôi xin gởi lời thăm hỏi và chân thành tri ân chư liệt vị đã hết lòng yểm trợ Giáo Hội Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất giữa lúc Giáo Hội đang trong hoàn cảnh pháp nạn nghiệt ngã.

        Đại lễ Vu Lan nhắc nhở mọi người về lòng hiếu thảo, đức từ bi, năng lực thanh tịnh và phẩm hạnh thánh thiện.

        Với lòng hiếu thảo, người Phật tử không chỉ tận lực báo đáp thâm ân đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn trải rộng cõi lòng báo đáp tất cả những ai đã từng cưu mang, giáo dưỡng để giúp mình nuôi lớn pháp thân huệ mạng và trở thành người hữu dụng đối với xã hội nhân loại.

        Với tâm từ bi, người Phật tử không chỉ tận lực giải khổ cho thân bằng quyến thuộc nội ngoại tôn thân mà hết lòng giải trừ khổ hoạn cho mọi loài chúng sanh trong mọi miền thế giới, thế nên trước nỗi khổ của đồng bào, đồng loại, người Phật tử không thể ngoảnh mặt xoay lưng, cũng không thể thoả hiệp với thế quyền nhằm mưu cầu lợi dưỡng để mặc cho dân lành bị cướp mất quyền sống. Đức Phật xuất thân từ giòng dõi vua chúa, thế nhưng Ngài đã không tìm cách nương tựa vào sức mạnh thế tục để tuyên lưu chánh pháp vì tri nhận rõ rằng, những thế lực thế gian đều không ngừng đổi thay tàn tạ, và chỉ là thế lực tạm bợ nhất thời. Không thể nương tựa vào cái giả tạm nhất thời để mong tìm sự trường tồn bất biến. Chỉ nương vào chân lý, sống với và sống như chân lý mới giúp cho chính pháp tồn tại lâu dài. Với tâm từ bi bao la vô lượng, người Phật tử không tự cho phép mình sống đời sống cầu an ích kỷ trước bao nhiêu thực trạng khổ đau của tha nhân. Người Phật tử chân chính luôn tâm niệm rằng, không có bất cứ hiện tượng nào trên thế gian này có thể hiện hữu độc lập mà là một chuổi xích nhân duyên điệp trùng vô tận, trong tương quan vô tận đó, ý nghĩa lợi tha của Phật giáo càng đặc biệt nỗi bật hơn giữa bối cảnh hân thù, bất công và sợ hãi. Đạo Phật có mặt là để cứu khổ độ sanh. Mùa Vu Lan là mùa nhắc nhở chúng ta ý thức thường trực về sứ mệnh độ sanh thiêng liêng cao cả đó.

        Muốn giải trừ khổ hoạn cho người khác, bản thân của mỗi tu sỹ cần có đời sống thanh tịnh, bản thể thanh tịnh của Tăng già là sức mạnh vô biên có khả năng giải thoát mọi khổ đau phiền não, do vậy, xin mỗi chúng ta hãy nỗ lực phát huy nội lực thanh tịnh, sống đời sống phạm hạnh, thánh thiện, tránh xa các tham vọng thế tục, an trú vững chãi trong chánh pháp, không vọng động chạy theo thời thế để đừng tự biến mình thành công cụ chính trị nhằm vừa giải thoát tự thân vừa góp phần cứu nguy sinh chúng. Xin mỗi Cư sỹ Phật tử, hãy dụng công hơn nữa trong việc hành trì chính pháp, nhất là ứng dụng chính pháp vào đời sống thực tế của mình, nhìn ra được mối khổ hoạn của thế gian mà sát cánh với Giáo Hội trong sứ mệnh trừ nguy cứu khổ.

        Dù Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã và đang trải qua những cơn pháp nạn hiểm nghèo, nhưng Giáo Hội quyết không để chướng duyên làm lu mờ bản thể thanh tịnh vốn là thành tố quan yếu làm nên sức mạnh bất khả phủ quyết của Phật Giáo. Trước nội ma ngoại chướng, Giáo Hội thiết tha kêu gọi chư liệt vị hãy vì tiền đồ của đạo pháp và dân tộc, tích cực dấn thân hơn nữa để khỏi cô phụ bản hoài xuât thế độ sinh của chư Phât. Đức đệ tứ Tăng Thống, Đại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang đã vĩnh biệt chúng ta, về cõi Niết Bàn, một sự mất mát to lớn đối với Giáo Hội, bản thân tôi và chư tôn giáo phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện đang gặp nhiều chướng duyên, nghịch cảnh; tuy nhiên, noi theo dấu chân của chư Tổ, của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, và hạnh nguyện sâu dày của chư Phật, chúng tôi quyết một lòng vượt qua mọi khó khăn trở ngại.

        Vì thực tế đe doạ đến vận mệnh sống còn của Giáo Hội, đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống đã ban hành Giáo Chỉ số 09 để cứu nguy Giáo Hội. Nhiều thế lực đen tối đang tìm đủ mọi cách xuyên tạc và phủ nhận Giáo Chỉ số 9. Vì mạng mạch của chánh pháp, chúng ta nhất định không để cho những thế lực vô minh lợi dụng danh nghĩa GHPGVNTN để tiêu diệt GHPGVNTN và tiếp tay cho các thế lực manh động.

        Nguyện cầu mười phương chư Phật thuỳ từ phóng quang tiếp độ cửu huyền thất tổ, quá khứ đa sinh phụ mẫu, lũy thế oan thân, thập loại cô hồn siêu sinh Phật quốc.

        Cầu nguyện thế giới nhân loại chung sống hoà bình, quyền sống của con người được tôn trọng, môi sinh được bảo vệ, lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam vẹn toàn, GHPGVNTN phục hoạt trọn vẹn và nền văn minh Từ bi luôn mãi thăng tiến.

        Nam Mô Vu Lan Thắng Hội vô lượng chư Phật, chư đại Bồ tát, chư hiền thánh Tăng tác đại chứng minh.

        Thanh Minh Thiền Viện, ngày 26 tháng 7 năm 2008.
        Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện.
        Viện Trưởng Viện Hoá Đạo

        (ấn ký)

        Sa môn Thích Quảng Độ