Monday, July 28, 2008

Cứu Cha cứu Chúa cứu Giáo hội

Hải Ngoại Huyết Thư: đối đầu với ma vương

Hoàng Quý


Nguyễn Anh Tuấn vừa tung ra Hải Ngoại Huyết Thư số 1 mang tựa đề "CHIẾU THEO HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, LINH MỤC NGUYỄN VĂN LÝ VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: AI LÀ NGƯỜI ĐANG VI PHẠM HIẾN PHÁP QUỐC GIA?" Đây là kết quả của một công trình nghiên cứu về hiến pháp sau bao nhiêu năm anh dầy công đeo đuổi ngành chính trị học và quản trị công quyền. Bài viết này của anh đang được các giới trí thức và chính trị trong và ngoài nước chăm chú theo dõi. Bài viết của anh đánh thẳng vào huyệt điểm trọng yếu của chế độ CSVN. Riêng tôi trong Lá Huyết Thư này, tôi chú tâm tới một chủ điểm: "Ma vương trong vương quốc bóng tối." Đây, chúng ta hãy nghe anh giải thích:

Trước đây, con người bị ngoại thù dị địch xích hóa và có thể phá tan xiềng xích. Nhưng thê thảm thay, dù đã thoát được ngoại xâm, phần đông lại trở thành nô lệ của chính mình. Mới đây một lãnh tụ của một tổ chức chính trị đã cao niên hỏi chúng tôi hai câu hỏi: "Tại sao một dân tộc có một lịch sử chống ngoại xâm rất hào hùng như VN, lại trở thành khiếp nhược trước người CS?" Và "Tại sao các nỗ lực chống CS của các tổ chức tranh đấu tại hải ngoại đã thất bại?" Đây không phải là sự khiếp nhược của con người, nhưng là sự đầu hàng trước quyền năng của ma qủy. Hay đây là sự phục tòng tạm thời của những con người quá lương thiện trước những con thú man rợ đội lốt người trong lịch sử. Những người CS rất đáng được truy tặng một tước hiệu của thời đại, đó là: "Những con thú man rợ của lịch sử cận đại," hay "ma vương trong vương quốc bóng tối."

Trong bài viết này Nguyễn Anh Tuấn làm nổi bật chân tướng của HCM và đảng CSVN chỉ là bọn tay sai của lũ ma vương đứng đàng sau điều khiển, xiềng xích hoá đất nước chúng ta suốt hơn 60 năm qua. Chúng ta đã dòng dã chiến đấu đến mỏi mòn suốt bao tháng năm qua, nhưng vẫn chưa diệt trừ nổi lũ ma vương và các bộ hạ của chúng, vì chúng ta mới chỉ mới vận dụng những phương tiện, những khí giới của con người, làm sao chúng ta chiến thắng được bọn ma vương? Muốn thắng được bọn ma vương, chúng ta phải vận động được sức mạnh của thần thiêng mới có thể chiến thắng nổi.

Bài học thế giới đã chiến thắng được bọn ma vương tại Ba Lan, rồi Đông Âu, rồi Liên Xô, ngoài những đấu tranh của Tây phương nhằm làm kiệt quệ kinh tế của khối Cộng sản và nhất là Liên Xô bằng cuộc chạy đua vũ trang, bao vây kinh tế và dấy động phong trào vùng lên của Công đoàn Đoàn Kết tại Balan..., chứng minh cho thấy Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã là nhân vật kiệt xuất đứng lên lãnh đạo cuộc chiến đấu thần thánh chống CS , nhờ đó chế độ CS Tây phương xụp đổ tan tành trong 'khoảnh khắc' như bàn cờ Domino.

Ngày nay toàn dân Việt Nam muốn chiến thắng CS cũng phải đi vào học hỏi và thực hiện bài học đấu tranh này. Chúng ta phải vừa vận dụng được các phương tiện và khí giới đấu tranh của con người, đồng thời các nhà lãnh đạo các tôn giáo phải huy động được toàn dân chạy đến cầu viện sức mạnh của Thiên Chúa hay của Thượng Đế, của chư thánh, của Chân Tâm, của Vô Ngã... Từ trước tới nay chúng ta cũng đã nhiều lần chạy đến cầu viện Thượng Đế, nhưng mới chỉ là những lời kêu cầu lẻ tẻ, chứ chưa tạo thành một tổng lực của toàn dân, do đó sức mạnh thần thiêng của chúng ta còn yếu ớt. Giờ đây đã đến thời điểm các tôn giáo cùng chen vai sát cánh bên nhau huy động toàn dân họp thành một tổng lực cầu xin Thượng Đế tiếp sức chúng ta trong cuộc tiêu diệt lũ ma vương và bè lũ tay sai CS trên quê hương chúng ta. Vận mệnh làm nên lịch sử của chúng ta là đây. Thế chiến thắng của chúng ta nằm tại đây. Không học được bài học lịch sử này, chúng ta sẽ khó có thể tiêu diệt được chế độ tay sai của ma vương và giải phóng đất nước chúng ta.

* HY Mẫn: Tha phương cầu thực

Sáng nay mở máy vi tính, tôi nhận được một chuỗi emails đề cập về Hy Phạm Minh Mẫn liên quan đến lời phát biểu tại Nhật:

"Ngài đến Kolbê thăm nơi bị động đất năm 1995 với hơn 6 ngàn người chết , nhà cửa sụp đổ, nhà thờ tan hoang. Tuy nhiên tại một ngôi thánh đường nho nhỏ nơi có khoảng 800 người Việt sinh sống các tượng trong nhà thờ vỡ hết nhưng có bức tượng Thánh Tâm cao khoảng 1 mét do người Việt Nam mang qua vẫn nguyên vẹn. Đức Hồng Y đã hỏi ông hội đồng giáo xứ là người bản xứ: Có bí quyết nào giữ tượng Thánh Tâm nguyên vẹn trong khi nhà thờ đổ nát, suy nghĩ vài giây ông trả lời: Bí quyết đó là niềm tin công giáo của người Việt Nam. Đức Hồng Y nói lúc đó mình vui mừng lắm, vì dù trong hoàn cảnh tha phương cầu thực, người Việt mình vẫn giữ vững được niềm tin."

Sau đây là phản ứng của các emails gửi tới (xin được phép không nêu danh):

- Hy Mẫn đã đụng tới vấn đề chính trị và xã hội rồi, chứ không phải là vấn đề thuần tuý đạo đức hay tôn giáo nữa! Câu nói của HY đã đánh giá quá thấp chính nghĩa của những người Việt Hải ngoại. HY đã nói vậy để làm gì? Chắc chắn HY sẽ không được welcome khi tới Mỹ nữa đâu!

- Đối với cá nhân tôi, tôi rất thông cảm với HY Mẫn, vì thực ra dù là HY hay giáo dân cũng đều giống nhau ở chỗ: "Càng xét mình càng thấy mình tội lỗi." Điều đáng tiếc không phải chỉ là một vài câu nói sai, nhưng là người ta KHÔNG quen xét mình, thậm chí cứ "yên tâm" mình là "nhiệt tình, yếu mến, bác ái... và rất nhiều thành tích..." Và nguy hiểm hơn nữa, làm HY hay GM rồi, RẤT ÍT có dịp được "NGHE."

Trước cửa nhà tôi, dọc đường tôi đi tới nhà thờ, bất cứ chỗ nào trên quê hương này, đều đầy dẫy những người nghèo khó, bất hạnh ..., vậy mà chúng ta vẫn "ăn ngon ngủ yên" mới là điều "kỳ diệu." Chỗ nào cũng lễ lạt, hoành tráng ..., và kêu gọi "người khác" làm phúc bố thí.

- Dù đã uống thuốc ngủ nhưng cũng chẳng nhắm mắt, đành ngồi dậy để viết lá thư này tới quý vị. Gia đình tôi đã bảo trợ cho hai Nữ Tu tại VN. Nhưng khi tôi đọc bản tin này, tôi thành thật xin lỗi Ban Tuyên Uý, Ban Thường Vụ và anh chị em trong Hội Bảo Trợ Tu Sĩ là Gia đình tôi xin huỷ bỏ nhận bảo trợ hai Nữ Tu vì lý do sau đây: Trong bài chia sẻ của Hy Phạm Minh Mẫn đã gọi chúng tôi, những người đi tìm tự do THOÁT NGỤC CỘNG SẢN là "dù trong hoàn cảnh THA PHƯƠNG CẦU THỰC." Ông HY đã nhục mạ Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn CS tại hải ngoại.

Trước bản tin đó và những phản ứng vừa rồi của một số thân hữu, có lẽ phản ứng của tôi nhẹ nhàng hơn. Mang bản chất của người dân miền Nam miền quê chất phát hiền hòa, có lẽ HY Mẫn đã vô tình sử dụng bốn chữ Tha Phương Cầu Thực tại Cộng đồng VN tại Nhật. Một số thân hữu của tôi đã nhận định từ lâu là HY Mẫn khá non yếu về kiến thức chính trị cũng như ít am tường về người CS xảo quyệt, gian manh. HY Mẫn được dư luận coi như con nai tơ trước nanh vuốt CS tại Tổng Giáo Phận quan trọng nhất của Giáo Hội VN. Nếu vị HY này không tận hiệp đủ với Chúa Thánh Linh để tiếp nhận những ơn khôn ngoan và can đảm của Ngài, không tài nào vị HY của chúng ta có thể đương đầu được người CS và điều hành Giáo hội đi theo đường lối của Tin Mừng được.

Giáo hội VN đang phải đối đầu với bọn ma vương, thế mà chúng ta chỉ dựa vào sức con người mà không chạy tới cầu viện sức mạnh của Thánh Thần, chắc chắn chúng ta chỉ từ lết đến bị thương thôi. Điển hình Tổng Giáo phận bề ngoài xem ra thịnh đạt, nhưng thực sự đời sống nội tâm của các chủ chiên ra sao? Bao nhiêu vị đi theo con đường mục vụ của Tin Mừng, bao nhiêu vị đua đòi nhau chạy theo lối sống thế tục với tìm kiếm tiền tài, danh vọng, mở đủ loại tiệc tùng, xây cất nhà cửa riêng, mua sắm xe cộ sang trọng và vui hưởng nếp sống phong lưu, quan quyền, hống hách?

Đạo của Chúa Kitô là vương quốc tâm linh, thế mà nhiều chức sắc của Ngài lại vồ vập chạy theo các bổng lộc của vương quốc trần gian. Nhà thờ, tu viện hay các phẩm phục không che đậy được tâm đạo cho con người. Đạo phải được thể hiện bằng thân sống của mình, tức là đem thân mình ra làm chứng tá cho Tin Mừng của Đức Kitô giữa trần thế hôm nay. Im lặng trước các bất công, các áp bức, các vi phạm nhân quyền và bịt miệng, phải chăng các chức sắc cao cấp của Chúa Kitô đang đem thân mình ra làm chứng tá cho Tin Mừng của Ngài?

Một sai lầm to lớn của hàng giáo phẩm là mang mặc cảm tự tôn, có những thái độ tự mãn khi cho rằng mình hơn người về mọi phương diện, do đó có những lời nói, những hành động tỏ ra coi thường người khác và nghĩ rằng mọi người đều nghe theo mình. Xét về phương diện tri thức, các linh mục đều qua trình độ đại học, tuy nhiên mới chỉ trong lãnh vực thần học, còn ngay lãnh vực triết học cũng chỉ nằm trong khuôn khổ kinh viện, chứ ít vị đi xa trên lãnh vực này. Sánh với nhiều người khác, quý ngài còn thua xa về những kiến thức triết học, xã hội, nhất là khoa học. Như vậy vênh vang được với ai? Phải chăng chỉ với những người giáo dân bình dân. Thời đại độc tôn kiến thức của hàng giáo phẩm đã chấm dứt từ lâu rồi. Bây giờ kiến thức của giới trẻ, con cháu chúng ta vượt xa chúng ta nhiều lắm. Đỗ cụ rồi, đa số hàng giáo sĩ ít còn học hỏi, nghiên cứu thêm, do đó về mặt kiến thức, hàng giáo phẩm mỗi ngảy mỗi tụt hậu, kể cả về lãnh vực sở trường của mình là thần học và tu đức.

Thật may mắn, nhờ trào lưu mạng lưới mở rộng, nhiều giáo sĩ và giáo dân đã khai triển được rất nhiều bài vở về thần học và tu đức thật đa dạng và phong phú trên các mạng lưới toàn cầu. Nhờ đó kiến thức về thần học và tu đức của các giáo sĩ và giáo dân được gia tăng đáng kể. Điều cần nói ở đây không phải là chúng ta đã chứng tỏ được kiến thức mình phong phú và rộng rãi, nhưng chính yếu là phải đem thân mình ra sống với những gì mình viết, mình tin tưởng. Được mấy giáo sĩ và giáo dân sau khi đã cử hành Thánh Thể, có thể đem Thánh Thể đi theo với mình vào cuộc sống như Mẹ Têrêsa Calcutta. Đa số, sau khi bước ra khỏi thánh đường là lao đầu ngay vào một đời sống khác, một lối sống khác và Chúa Thánh Thể bị bỏ rơi lại trong thánh đường rồi. Như vậy ai hướng dẫn cuộc sống của các giáo sĩ và giáo dân đây? Vẫn bon chen danh lợi, vẫn chạy theo hưởng thụ, vẫn đua đòi vật chất, vẫn kết phe kết nhóm và loại trừ người khác, vẫn im lặng trước các bất công, các áp bức, các gian trá, vẫn che đậy tội ác bằng các vỏ nhân nghĩa, kể cả bằng các nghi lễ phụng vụ nữa.

* Một vương quốc trong một vương quốc


Trong Giáo hội, mỗi giám mục là một vị toàn quyền trong giáo phận của mình. Mỗi giám mục đều đem hết tâm lực của mình vào công việc điều hành giáo phận. Hầu hết các giám mục đều có bằng tiến sĩ giáo luật để điều khiển giáo phận, trong khi lại không quân bình về bằng cấp mục vụ và tu đức. Giáo hội thiên về cai trị hơn là chăn dắt, trong lúc Chúa Giêsu truyền lệnh cho Phêrô và các môn đệ: "Hãy chăn dắt chiên của Ta."

Chúa Giêsu đến khai mở vương quốc tâm linh của Ngài giữa trần gian, chính là Ngài khai mở một vương quốc trong một vương quốc. Vương quốc tâm linh của Ngài đến thánh hóa vương quốc trần gian, trong lúc nhiều vị giám mục lại thu hẹp vương quốc của Ngài vào nội bộ của mình, vào pháo đài của mình là tòa giám mục, là các giáo xứ. Rốt cục nhiều nơi, nhất là thời xưa, bên này là làng Công giáo, bên kia là làng lương giáo chỉ cách xa nhau một con đường hay con sông. Hai bên không chơi với nhau, nhiều khi còn kình chống nhau. Thế là bế quan tỏa cảng, rồi quanh quẩn dậy dỗ nhau và truyền giáo cho nhau.

Vào thời hưng thịnh, nhiều giáo sĩ dấn thân vào các lãnh vực trần thế như đi vào các hoạt động văn hóa, giáo dục, xã hội và cả chính trị nữa như thời VNCH, cùng chen vai sát cánh với các tôn giáo khác, các đoàn thể khác, các cơ quan chính quyền. Nhiều vị tạo được những uy thế rất mạnh. Có vị lợi dụng chức quyền, thân thuộc, quen biết để tạo thế lực, để lấn át đối phương, để trao đổi thần quyền thành thế quyền. Các vị này đã tạo cho mình được một vương quốc trong một vương quốc. Cả hai vương quốc này đều mang tính chất tục lụy, chứ không phải vương quốc tâm linh như Đức Kitô đã đến khai mở. Các vị này không chăn dắt đàn chiên, nhưng lợi dụng đàn chiên để kiến tạo công danh, sự nghiệp và lợi lộc cho chính mình.

Bước vào thời vận suy vi, bị đàn áp, hàng giáo phẩm lại co cụm về giữ thế thủ, để tránh đi tất cả các rắc rối phiền hà cho chính mình và để sống còn. Oái oăm thay, chế độ CS kéo dài quá lâu, nên thái độ nín thở qua sông không còn chịu được nữa, thế là nhiều vị đành chấp nhận lối sống thỏa hiệp với địch thù để tồn tại và phát triển. Và thực sự hiện nay Giáo hội Công giáo Việt Nam đang được mọi người nhìn là một Giáo hội hưng đạt, trong lúc các tôn giáo khác lại đang bị đè nén, bắt bớ. Phải chăng GHCG là một Giáo hội phát đạt trong mọi thời đại, ngay cả trong thời đại của ma vương CS, vì hàng ngũ lãnh đạo Giáo hội khéo léo, tài giỏi, lanh lợi, dễ dãi và qua mặt được cả bọn ma vương lẫn các tay sai của chúng? Hay ngược lại các vị lãnh đạo của chúng ta đã bị bọn chúng lợi dụng ban cho một số ân huệ hoặc gài bẫy để rồi bị bọn chúng chăn dắt? Giữa một đất nước nghèo đói, nhất là tại các vùng thôn quê, giữa lúc các tôn giáo khác đang bị bách hại, một số vị lãnh đạo cao cấp của chúng ta lại đi qua đi lại giữa lòng dân tộc một cách hân hoan, vênh vang, trưởng giả với các phẩm phục mũ gậy, với các tiệc mừng linh đình, trong lúc Đức Kitô ngày xưa ăn mặc nghèo khổ và lặn lội khắp nơi đi tìm các con chiên để chăn dắt. Giáo hội càng thịnh đạt bề ngoài, càng đi xa con đường cứu nhân độ thế của Đức Kitô. Cuối cùng đạo của Chúa trở thành một vương quốc mang mầu sắc tâm linh, nhưng thực chất lại bị vương quốc trần thế dẫn dắt và lũng đoạn.

Kinh nghiệm Giáo hội Hoa Kỳ và Ban Lan cho chúng ta thấy gì? Bề ngoài Giáo hội Hoa Kỳ được coi là một Giáo hội hùng mạnh nhất địa cầu. Đùng một cái nổ tung trái bom ngàn cân lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ giữa thế giới. Thế là Giáo hội hiện nay lâm vào tình trạng bi đát đánh mất niềm tin của bao người, phản chứng niềm tin trước thế giới và phải bán cả nhà thờ, cả tỏa giám mục để bồi thường tội lỗi. Hy Law, một hồng y uy thế nhất của Giáo hội Hoa Kỳ phải nhục nhã rời bỏ chức vụ do áp lực của giáo dân và truyền thông Hoa Kỳ vì trọng tội bao che tội ác. Còn Giáo hội Ba Lan được coi là một thứ trưởng nữ của Giáo hội, ngày nay đang phơi bầy nhiều giáo sĩ đã bán mình làm chỉ điểm cho ma vương. Đứng trước những thương đau, những suy sụp của Giáo hội Tây Phương, đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđictô 16 phải lên tiếng cảnh báo Giáo hội: "Giáo hội Tây phương đang hấp hối!"

* Phá vỡ vòng vây quốc doanh trước khi bước vào lòng dân tộc

Vương quốc tâm linh của Đức Kitô được xây dựng trên lối sống từ bỏ mình, quên mình như chính mẫu gương của Ngài. Một vị Thiên Chúa cao quang, vì muốn đến trần gian cứu độ con người, Ngài đã từ bỏ địa vị cao sang của Ngài, từ bỏ quyền uy của Ngài, tử bỏ ý riêng của Ngài để lầm lũi bước vào trần gian sống một cách nghèo khổ, bất hạnh như con người, rồi từ đó vực con người đứng dậy sống nếp sống thiên linh của Ngài. Ngài đi vào trần thế là đi vào những tranh đấu với bọn ma vương ngay từ lúc khởi đầu đi vào cuộc đời công khai với ba chước cám dỗ quyết liệt của Satan. Ba cơn cám dỗ đó vẫn quyết liệt theo Ngài cho đến lúc Ngài toàn thắng chúng trên thập giá.

Ngài có thể sống thỏa hiệp với hàng ngũ tư tế, và Biệt Phái nắm giữ vai trò lãnh đạo quần chúng để Ngài được yên ổn truyền đạo, nhưng Ngài không thể sống tương dung như thế được, vì hàng ngũ lãnh đạo dân Do Thái đã đi ngược lại những lời Giao Ước của Ngài đã ban bố cho các tổ phụ, các ngôn sứ, các vua chúa như Môsê, Salômôn, Đavít... Họ sống đạo, họ điều hành đạo theo hình thức, theo luật lệ bề ngoài, trong lúc tâm hồn họ chấp chứa đầy gian tham, đầy xảo trá, đầy trục lợi.

Ba năm Ngài ra truyền đạo là ba năm Ngài phải đối diện với tầng lớp lãnh đạo giả hình và gian dối này. Đi đâu Ngài cũng bị lớp người này và bọn tay sai theo dõi và tìm cách triệt hạ uy thế của Ngài. Những lời rao giảng của Ngài đã vạch mặt những sai trái và giả dối của họ, trong lúc họ vẫn vênh váo họ là những người thi hành và bảo vệ lề luật của Đạo Chúa.

Để đối đầu với hàng ngũ lãnh đạo suy đồi này, Ngài đào tạo nhóm mười hai môn đệ và các thân hữu đi theo lối sống từ bỏ của Ngài. Ngài chẳng có tiền bạc, chẳng có cơ sở, chẳng có thánh đường nào để trụ trì, để nương thân. Ngài chẳng có vây cánh, chẳng có người đỡ đầu. Ngài tứ cô vô thân và đào tạo các môn đệ cũng sống như Ngài. Ngài vất vưởng và bôn ba khắp nơi đi tìm chiên lạc để chăn dắt, để băng bó, để dậy dỗ. Ngài ban bố triết lý sống và lãnh đạo của Ngài: Ai đi tìm mạng sống mình, họ sẽ đánh mất và ai đánh mất mạng sống mình, họ sẽ tìm gặp. Thật là một nghịch lý quái dị. Nhưng đó lại là nền tảng cho công cuộc khai mở vương quốc tâm linh của Ngài.

Và quả thật sau những vây hãm thật khắc nghiệt của lũ ma vương và đám tay sai là các tư tế và Biệt Phái hủ bại, Ngài đã bẻ gẫy vòng vây của chúng và đã toàn thắng chúng ngay trên thập giá. Như vậy, những nhà lãnh đạo nào nghĩ mình đang chế ngự được bọn ma vương và bè lũ tay sai của chúng là đám linh mục quốc doanh và chỉ điểm, quả thực các vị đó đang sống trong hoang tưởng và sẽ chết theo con tầu của chúng, sau khi chúng sẽ bị đắm chìm giữa lòng dân tộc mai ngày.

Muốn thoát ra khỏi vòng vây của bọn quốc doanh và các chỉ điểm, và đứng đàng sau là ma vương Satan, các nhà lãnh đạo Giáo hội phải trở về cầu nguyện và nghiền ngẫm Tin Mừng, để rồi đi theo đường lối lãnh đạo của Đức Kitô. Trong những ngày sắp tới, tầng lớp giáo dân sẽ phát hành cuốn sách nổi tiếng của nhà thần học tu đức lừng danh thế giới: Linh mục Henri Nouwen với tác phẩm: "Thế nào là nhà lãnh đạo Kitô giáo trong kỷ nguyên 21?"

Một thiên tố khác quan trọng nhất chính là làm thế nào các nhà lãnh đạo Kitô giáo phải tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể ban cho các nhà lãnh đạo chúng ta ơn khôn ngoan và can đảm để đối đầu và thắng lướt được bọn ma vương và bè lũ tay sai của chúng. Đánh với bọn ma vương, nếu Giáo hội chỉ dùng sức con người sẽ vô phương bước ra khỏi vòng vây quốc doanh của bọn ma vương được. Giáo hội không còn chọn lựa nào khác là phải chạy đến cầu cứu với Thánh Thần Thiên Chúa. Chỉ như vậy, Giáo hội mới có thể bẻ gẫy vòng vây quốc doanh để sau đó đi vào giữa lòng dân tộc, cùng chen vai sát cánh với các tôn giáo khác, các tổ chức đấu tranh để tận diệt lũ ma vương CS khỏi quê hương chúng ta.

* Hai hình ảnh Giám mục: TGM. Nguyễn Kim Điền và GM. Nguyễn Sơn Lâm

TGM Nguyễn Sơn Lâm
TGM Nguyễn Kim Điền
Tôi muốn kết thúc bài tản mạn lần này bằng việc so sánh hai khuôn mặt của hai cố Giám mục: TGM. Nguyễn Kim Điền và GM. Nguyễn Sơn Lâm. Cả hai vị đã đi vào lịch sử và văn hóa của Giáo hội CG vào thời điểm lịch sử nhạy cảm này. Cả hai đều là Giám mục đã lãnh nhận các chức thánh, nhưng tư cách, thái độ sống và các hành xử cách nhau biền biệt. Một vị được mọi người xưng tụng như một Vị Tử đạo, một vị đã từ lâu được giới CG gọi là giám mục quốc doanh. Một vị bị CS theo dõi, quản chế như một tội phạm, trong lúc vị kia, ngay vào thời điểm khó khăn nhất của đất nước sau những năm 1975 đã hiên ngang đi đây đi đó, vui hưởng một nếp sống thảnh thơi, phong lưu.

Sau đây là một chứng từ chứng minh điều chúng tôi vừa đề cập. Trong bài tham luận đọc trước Đại hội 8 của Đảng CSVN, GM. Lâm dõng dạc tuyên bố: "Đảng CSVN luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật." Một chế độ xảo trá như vậy, thế mà một giám mục lại đứng lên làm chứng gian. Nhân tiện chúng tôi cũng nên nhắc qua hai hình ảnh giám mục khác cũng được đánh giá như một loại quốc doanh, qua bài viết của LM. Nguyễn Hữu Lễ, mang tựa đề: "Cảm nhận sau khi xem tấm hình Bịt Miệng" : "Chủ tịch Nhà nước Nguyễn Minh Triết đã ban Huân Chương Đại Đoàn Kết Dân Tộc cho hai Giám mục Nguyễn Văn Sang và Bùi Tuần vào ngày 18-11-2006, Giám mục Nguyễn Văn Sang đã hãnh diện thông báo trong một lá thư Mục Vụ." Quả thật các giám mục này trở thành những nhân vật thần thế trong chế độ của ma vương.

Trong khi đó, TGM Nguyễn Kim Điền phải đối diện với những đàn áp của CSVN khi ngài thi hành trách vụ của một chủ chiên tại Huế. Đây, chúng ta hãy đọc một câu trích dẫn của ngài trong bức Thư Luân lưu gửi TGP Huế vào năm 1985:

"Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội, đã có nhiều vị chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẳn sàng liều chết để bảo vệ Nhân quyền chưa? Ngày hôm nay tôi là người được diễm phúc ấy: Thiên Chúa đã gọi tôi để chịu Tù Tội và Chết Chóc vì bảo vệ Nhân Quyền và Công Lý".

Thật là một tấm gương sáng ngời cho các vị chủ chiên cao cấp của chúng ta! Chính vì lập trường và thái độ kiên quyết của ngài bảo vệ Giáo Hội, ngài được Cố GH Gioan Phaolô II xưng tụng ngài là "Vị Giám mục uy dũng" khi ngài đến Roma tham dự Thượng Hội Đồng Giám mục Thế giới năm 1980. (Chúng tôi xin phổ biến sau đây bài viết của tác gi$#7843; Nguyễn An Quý về Cố TGM Nguyễn Kim Điền mang tựa đề: "Vị Giám mục uy dũng, Cố TGM Nguyễn Kim Điền").

Rồi đây chế độ CS sẽ tiêu tan như mây khói, nhưng những bút tích, những chứng tích của các nhà lãnh đạo tôn giáo và thế quyền sẽ còn lưu lại ngàn năm trong lịch sử, trong văn học Giáo hội và dân tộc. Ai cũng muốn con cháu mình mai sau sẽ nở mày nở mặt với tổ tiên anh hùng, tài giỏi, đức độ, và ngược lại chẳng ai muốn con cháu mình và hậu thế sẽ phỉ nhổ mình vì những hành động, những câu nói hèn nhát, cầu vinh và tha hóa của mình. Những vị đã khuất bóng như GM. Nguyễn Sơn Lâm chẳng thể vớt vát cho danh dự của mình trước lịch sử được nữa, tuy nhiên, những vị còn thời gian sống còn, vẫn có thể nghe lại lời Thiên Chúa phán truyền cho vua Salômôn và quay đầu làm lại cuộc đời:

"Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó." (2Sb 7:14)

Hoàng Quý



Phải chăng Giáo hội Công Giáo Việt Nam đang đi vào con đường quốc doanh?

Hoàng Quý

Kể từ Tết Đinh Hợi khi bạo quyền Cộng sản Việt Nam mở chiến dịch tổng công kích "Tết Mậu Thân" thứ hai tại Việt Nam nhằm trấn át và tiêu diệt các lực lượng đứng lên đòi tự do dân chủ, dân quyền, tự do ngôn luận và tự do tôn giáo tại Việt Nam, trong đó nổi cộm hai sự kiện liên quan đến Giáo hội Công giáo: linh mục Nguyễn văn Lý bị kìm tỏa và tượng Đức Mẹ Sầu Bi tại Phát Diệm bị đập phá, dư luận bên trong và bên ngoài Công giáo càng ngày càng xôn xao về "Giáo hội Công giáo hiện nay tại Việt Nam đang bị 'quốc doanh' hóa?"

Chưa bao giờ dư luận bên ngoài lên án các chức sắc cao cấp của Giáo hội Công giáo Việt Nam bằng lúc này. Chưa bao giờ các cây bút giáo sĩ lẫn giáo dân đụng chạm mạnh mẽ đến các chức sắc Giáo hội bằng lúc này, đặc biệt trước sự kiện Đức Mẹ Sầu Bi tại Phát Diệm bị các cán bộ Cộng sản đập phá một cách tàn bạo, dã man. Người ta nêu ra thí dụ trong gia đình, người mẹ bị người bên ngoài đến hành hung dã man, thế mà các con cái đứng nhìn một cách bàng quang, có người con lại sợ thiệt thòi đến quyền lợi của mình, đã khuyên các em út hãy bỏ qua, hãy "khép lại" chuyện này! Và đó là thực tế tại Việt Nam cũng như tại quốc ngoại hôm nay khi đa số mọi người rửng rưng trước việc tượng của Đức Mẹ Sầu Bi bị đập phá. Trong lúc đó, trong cuộc họp báo tại Toà soạn Diễn Đàn Giáo Dân vào ngày 8-3-07 vừa qua, ông Lê Quang Dật, Hội trưởng Gia đình Phật tử miền Quảng Đức, đã đứng lên phát biểu khi ông nhìn thấy hai bức hình Đức Mẹ: một hình chụp nguyên vẹn và một hình sau khi bị đập phá cụt đầu, cụt tay, cụt chân, ông rướm lệ và ông phát biểu chế độ Taliban đã sụp đổ sau khi phá bức tượng Phật tại Afganistan. Như vậy ông muốn nói gì với chúng ta khi tượng Mẹ Cực Thánh của chúng ta bị đập phá dã man như thế tại Việt Nam? Chúng ta đã cư xử với Mẹ của chúng ta thế nào?

Hầu như phía Công giáo, nhất là các giới chức cao cấp cũng như các cơ quan truyền thông Công giáo rất ít ai lên tiếng hoặc có lên tiếng cũng chỉ là qua loa. Phải chăng người tín hữu Việt Nam không yêu mến Đức Mẹ? Không ai phủ nhận được lòng sùng kính Mẹ Maria của người tín hữu Công giáo Việt Nam sốt mến hơn bất cứ một dân tộc nào khác. Thế tại sao trong sự kiện Đức Mẹ bị đập phá lần này người tín hữu Việt Nam lại tỏ ra thờ ơ? Từ trước tới nay Giáo hội Công giáo tập trung mọi việc lãnh đạo, điều động Giáo hội trong tay hàng giáo phẩm. Tất cả như chờ đợi lệnh nơi hàng giáo sĩ. Tất cả phải có phép của các giáo sĩ. Tầng lớp giáo dân đông đảo không hơn không kém chỉ là đàn cừu ngoan ngoãn nghe theo lệnh các giáo sĩ. Và như vậy chúng ta thử nhìn xem trong biến cố tượng Đức Mẹ Sầu Bi bị đập phá tại Phát Diệm, đã có những chức sắc nào trong Giáo hội lên tiếng phản đối?

Người Cộng sản Việt Nam đang thách thức Giáo hội Việt Nam và kể cả Vatican khi phái đoàn đang có mặt tại Việt Nam thương thuyết về chuyện bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Tất cả như đang có những tương nhượng, những thỏa hiệp. Linh mục Đỗ Lực trong bài chia sẻ mới nhất về "ba cơn cám dỗ" mang tựa đề "Hạnh phúc trong tầm tay" phát biểu:

"Trong lịch sử, rất nhiều lần Giáo hội đã thỏa hiệp để cầu an. Có khi Giáo hội hy sinh cả chân lý hay công lý để tìm một chút lợi lộc hay thỏa mãn chế độ “xin cho.” Nhưng rõ ràng con đường thỏa hiệp đã làm cho công cuộc truyền giáo thất bại. Thỏa hiệp là con đường ngắn nhất dẫn đến suy vong. Bài học lịch sử còn đó. Không ai có thể chối cãi được! Càng thỏa hiệp với quyền lực, càng làm cho muôn người xa lánh Giáo hội. Thỏa hiệp với đối phương là phản bội Thiên Chúa." (www.Tiengnoigiaodan.net)

Quả thật, qua biến cố tượng Đức Mẹ bị đập phá và linh mục Lý bị bỏ rơi, Giáo hội Công giáo đang đánh mất căn tính của chính mình, đang bị nhiều người bên ngoài cười chê và xa tránh. Chúng ta cứ thử lắng nghe và tìm đọc những lời phát biểu hoặc những bài viết trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, trang nhà ..., chúng ta sẽ đối diện với những lời bình phẩm thật chua xót.

Nhiều vị chức sắc trong Giáo hội không còn làm chủ được mình nữa, nhưng tất cả như vẫn chờ đợi, vẫn lệ thuộc, vẫn né tránh một quyền uy nào khác không còn phải là Thiên Chúa nữa. Linh mục Chân Tín đưa ra nhận xét thực tế trong một bài phỏng vấn là Giáo hội Việt Nam không mang danh là quốc doanh nhưng thực chất lại nhuốm mầu quốc doanh khi vấn đề nhân sự bị chi phối nặng nề của bạo quyền Cộng sản. Từ việc tuyển lựa tu sinh vào chủng viện, được chịu chức, được thuyên chuyển và được chọn làm giám mục đều phải "được phép" của bạo quyền, đấy là chưa nói tới thủ tục biếu xén tiền bạc để được "đỗ cụ" giống y như thủ tục mua quan bán chức ngoài đời. Chúng ta che đậy mãi được tệ trạng nhục nhã này hoài sao? Giáo hội Chúa Kitô thà thiếu tông đồ còn hơn nhan nhản những tông đồ phản bội như Giuđa. Không trước thì sau Giáo hội Chúa Kitô phải can đảm thanh lọc các tệ trạng này, các nhân sự đi hàng hai này. Chúa Giêsu không chấp nhận các môn đệ của Ngài làm tôi hai chủ.

Cộng sản Việt Nam xuất sắc hơn đàn anh Trung Cộng, thay vì thành lập Giáo hội Tự Trị, họ đã và đang lèo lái Giáo hội Việt Nam bằng đường lối Quốc Doanh từ tầm xa như người ta điều khiển máy truyền hình bằng chiếc "Remote Control." Lấy Tổng Giáo phận HCM (danh xưng ê chề) làm thí dụ điển hình. Cố TGM Nguyễn Văn Bình và Hồng Y Phạm Minh Mẫn thực sự điều khiển tổng giáo phận hay linh mục Huỳnh Công Minh và nhóm linh mục quốc doanh của ông? Thật đau lòng khi nhìn thấy TGP bị điều động do các đảng viên Cộng sản. Rồi các linh mục nào muốn được trọng dụng, được chỗ béo bở hoặc nhận được nhiều ân huệ, cũng phải chiều nể hoặc có khi phải làm công tác cho Đảng.

Trong khi đó Chúa Giêsu tuyển chọn và trao trọng trách lãnh đạo Giáo hội cho những ai dám kiên quyết thề hứa với Ngài ba lần như Phêrô: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy nhất kia mà!" Đường lối tuyển chọn lãnh đạo Giáo hội của Chúa Kitô hình như đang lạc lõng giữa lòng Giáo hội Việt Nam hôm nay. Không có lòng yêu mến Chúa thực sự, những nhà lãnh đạo Giáo hội nào chạy theo thời thế, theo tiền bạc kiểu Giuđa, rồi cũng sẽ phản bội Giáo hội của Ngài và làm tay sai cho cường quyền Cộng sản mà thôi.

Phải chăng Cộng sản Việt Nam cũng đang điều khiển tầm xa nhiều giới chức hải ngoại? Cộng sản Việt Nam xem ra như vô tình, như bỏ ngỏ hải ngoại, nhưng thực chất có phải vậy không? Chúng ta có thấy các cán bộ Cộng sản hoạt động gì sôi nổi bề ngoài tại hải ngoại đâu? Thế nhưng hình như chiếc giây thòng lòng mỗi ngày mỗi xiết cổ một cách tinh vi nhiều giới chức tại hải ngoại bằng con đường du lịch về Việt Nam. Người Cộng sản hải ngoại đã khai thác triệt để con chủ bài về thăm quê hương này, mà nhiều người không ngờ mình đã lọt ổ phục kích.

Chúng ta thử nhìn xem một số sinh hoạt trong tuần lễ vừa qua tại Orange County, Nam California. Ngày 8-3-07 Phong trào Giáo Dân cùng với một số nhân sĩ thành lập "Uỷ Ban phối hợp công tác đấu tranh" (UBPHCTCĐ) cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam đã tổ chức một cuộc họp báo tại Tòa soạn Diễn Đàn Giáo Dân nhằm khơi động dư luận phản ứng trước việc tượng Đức Mẹ Sầu Bị bị đập phá tại Ninh Bình và các nhà đấu tranh cho tự do tại Việt Nam, đặc biệt là linh mục Nguyễn Văn Lý. Trong cuộc họp báo này - có một số nhà báo và nhân sĩ trong cộng đồng không phải Công giáo - sau phần trình bầy ý nghĩa và mục tiêu của buổi họp báo với các ông Đỗ Như Điện và Trần Phong Vũ đứng đầu Uỷ Ban, ông Trần Trọng An Sơn, cựu Chủ tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam Cali nêu lên thắc mắc tại sao trước biến cố tượng Đức Mẹ bị đập phá tàn bạo như thế, người ta lại không thấy một chức sắc nào trong Công giáo nói năng gì cả. Hình như nhiều linh mục hay về Việt Nam đã quên hết rồi: quên mình là dân tị nạn; quên người Cộng sản đã dã man chiếm đoạt miền Nam, đã đầy ải hàng hàng lớp lớp dân miền Nam vào các tại tù cải tạo, đã chèn ép toàn dân khiến hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi và hàng nửa triệu người đã chết giữa đại dương hoặc vùi sâu trong rừng thẳm, để ngày nay vui vẻ "áo gấm về làng;" quên đi hàng ngàn trẻ em và thiếu nữ Việt Nam bị đẩy đi bán dâm tại Cambốt; quên mất hàng ngàn cô dâu Việt Nam bị bán ra ngoại quốc làm nô lệ tình dục ... Các linh mục này đâu dám nói năng gì đụng tới Cộng sản vì sợ phương hại cho các chuyến về Việt Nam sau này. Sau đó ông đề nghị nên tổ chức những buổi tuyệt thực và tịnh khẩu để bầy tỏ ý chí đấu tranh cho quê hương.

Ông Cao Viết Lợi bầy tỏ ý kiến tầng lớp giáo dân phải đứng lên làm nhiệm vụ của mình, còn kệ các giáo sĩ sẽ phải lãnh trách nhiệm đối với lịch sử. Ông Võ Khôi, một chuyên viên đấu tranh phản bác ý kiến của ông Cao Viết Lợi khi cho rằng cộng đồng phải lôi kéo các giáo sĩ vào cuộc đấu tranh chung để dấy lên một cao trào. Ông Hồ Thăng, người đứng đầu "Uỷ Ban phát huy tinh thần Lý Tống," cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy Giáo hội Công giáo hờ hững, đứng bàng quang trước các công cuộc đấu tranh chung cho dân tộc. Ông Trần Thế Cung, chủ nhiệm báo Trách Nhiệm của hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, cũng phát biểu ý kiến như ông Cao Viết Lợi là hàng giáo phẩm không dám lên tiếng trước những vi phạm tôn giáo và nhân quyền này, thì lịch sử sau này sẽ bầy tỏ thái độ.

Đặc biệt ông Lê Quang Dật, một nhân sĩ Phật giáo, sau khi bầy tỏ những cảm xúc rung động khi nhìn thấy hình bức tượng bị đập phá, ông chia buồn với anh em Công giáo và ông nguyện đứng bên cạnh cuộc đấu tranh cho tôn giáo này. Ông hô hào mọi người cần đoàn kết tạo thành một hậu phương lớn nhằm giải trừ pháp nạn và quốc nạn cho quê hương. Trong khi đó ông Nguyễn Duy Nghiêu, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Cộng đồng người Việt tại Los Angeles đề nghị một phương sách phổ biến truyền đơn thật rộng lớn biến cố Cộng sản đập phá tượng Đức Mẹ để đánh động lương tri của các con cái Mẹ và mở chiến dịch hợp quần để đấu tranh cho tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Sang tối ngày hôm sau, ngày 9-3-07, Uỷ Ban đấu tranh này tổ chức một cuộc thắp nến đền tạ và cầu nguyện cho quê hương tại Trung Tâm Công Giáo trước việc cán binh Cộng sản đập phá tượng Đức Mẹ tại Ninh Bình. Chuyện đáng tiếc là linh mục Giám đốc Trung Tâm Công Giáo không tham dự buổi cầu nguyện này được. Nhiều người bầy tỏ ý kiến ngỡ ngàng và phàn nàn về sự việc này. Chính ra linh mục Giám đốc phải là người đứng ra tổ chức và hô hào các tín hữu tham dự buổi canh thức này mới phải.

Điều mọi người thật cảm kích trong buổi thắp nến này là Hội Đồng Liên Tôn thật chân thành đến cầu nguyện. Đặc biệt hiện diện và cầu nguyện thật sốt sắng trong lễ này có ba mục sư Trần Thanh Vân, Vũ Đức Chang và Nguyễn Phú Cam. Bên Phật Giáo Hòa Hảo có giáo sư Nguyễn Thành Long. Chánh Trị Sự Đào Vũ Anh bên Cao Đài và ông Lê Quang Dật, trưởng Gia đình Phật tử cũng đứng lên dâng lời cầu nguyện. Trong khi đó, bên Công giáo có sự hiện diện của hai linh mục Trần Quý Thiện (Cựu Tuyên Uý Quân đội đang hưu trí) và Phạm Văn Chính (từ Florida ghé Cali). Nhiều người ngạc nhiên không thấy những chức sắc như linh mục Mai Khải Hoàn và ông Phạm Văn Phổ có chân trong Hội Đồng Liên Tôn có mặt trong buổi lễ này. Tuyệt nhiên người ta cũng không thấy một chức sắc nào trong giáo phận Orange xuất hiện trong buổi lễ.

Chúng tôi phải đau lòng tường thuật sự thật là như thế đó và chẳng thể che đậy gì được khi thực tế các diễn biến xẩy ra như vậy. Các con cái của Mẹ ngày nay đang đối xử với Mẹ "chính trị" như thế đó! Chúa và Mẹ bị đẩy lui xuống hạng thứ yếu, trong lúc cá nhân của nhiều chức sắc trong Giáo hội trở thành chính yếu!

Về mặt truyền thông, rất ít cơ quan truyền thông của Công giáo đăng tải tin tức hoặc vận động cho công cuộc đấu tranh cho dân chủ, cho dân quyền và cho tự do tôn giáo tại Việt Nam, kể cả cho biến cố tượng Đức Mẹ bị đập phá. Sau một tháng linh mục Nguyễn Văn Lý bị công an hành hạ và đầy ải, mãi cách đây hai ngày linh mục Giám đốc Vietcatholic mới đăng tải tin tức này và biện minh cho lý do chậm trễ của mình vì phải dành thời giờ phối kiểm tin tức. Chắc không có một thông tấn xã nào trên thế giới phối kiểm kỹ lưỡng như Vietcatholic! Dẫu sao Vietcatholic đã có một số tiến triển đáng khích lệ trong cuộc đấu tranh chung của toàn dân. Tuy nhiên Linh mục Nghị nên trả lời thành thật trong các cuộc phỏng vấn của cơ quan truyền thông bên ngoài liên quan đến việc thường xuyên du lịch về Việt Nam. Với thời đại truyền thông đại chúng như ngày nay, chẳng còn ai, kể cả các giới chức cao cấp nhất trong đạo và ngoài đời, lại là những nhân vật bất khả xâm phạm của công luận được nữa. Không sống thành thật và đức độ, các giới chức đều là đối tượng của công luận.

Liên đoàn Công giáo Việt Nam tại hải ngoại là một tổ chức ái hữu hay muốn vươn lên đóng vai trò làm Công Giáo Tiến Hành? Nếu đóng vai trò là một hội ái hữu thì dễ quá, mỗi năm đứng lên hô hào đóng tiền giúp Việt Nam một vài kỳ, tổ chức một số lễ lậy và mời một số giám mục Việt Nam sang cử hành nghi lễ hoặc làm phép khánh thành một số cơ sở nào đó cho thêm phần long trọng thể và bề thế, thế là xong. Nếu như vậy, người giáo dân tại hải ngoại được hưởng những ơn ích nào từ Liên đoàn hay chỉ cần hoàn thành nghĩa vụ giáo dân: cầu nguyện, đóng tiền, vâng phục là đủ? Còn nếu Liên Đoàn đi theo con đường hoạt động Công Giáo Tiến Hành, quả thật sẽ vất vả nhưng rất hữu ích cho Giáo hội và đất nước. Những nhân sự hiện nay của Liên đoàn có thực sự nhiệt tâm và khả năng đi theo con đường này hay chỉ gióng lên mấy hồi chuông, rồi đâu lại vào đó? Dĩ nhiên trong bất cứ tổ chức nào cũng đều có những người nhiệt tình và những người cản mũi kỳ đà. Dĩ nhiên trong các tổ chức của Giáo hội tại quốc nội và quốc ngoại cũng có bàn tay lông lá của Cộng sản tìm cách thọc vào, mà nhiều khi những người trong cuộc không nhận ra. Đã đến lúc mọi tổ chức của Giáo hội phải cảnh tỉnh vấn đề sử dụng nhân sự và các phương tiện, nhất là tài chánh. Cộng sản dư tiền để mua chuộc, để điều khiển từ xa mọi người đi theo mục tiêu của chúng.

Điều đáng mọi người quan tâm nhất hiện nay là chính sách chia để trị của Cộng sản. Chúng ra sức cản ngăn Giáo hội hợp quần thành một sức mạnh phi thường. Chúng khơi rộng hố chia ngăn cách giữa giáo sĩ và giáo dân. Chúng chủ trương chính sách ngu dân khi xúi bẩy giáo sĩ không tạo điều kiện cho tầng lớp đại chúng giáo dân thăng tiến và trưởng thành. Chúng bán la liệt các nón cối trong Giáo hội để chụp mũ những thành phần muốn thanh lọc nhân sự và canh tân Giáo hội theo đường lối Tin Mừng và Công đồng Vaticanô II. Chúng sử dụng chính sách này để làm tê liệt những thành phần muốn thăng tiến Giáo hội, đồng thời ru ngủ đại chúng giáo dân sống thụ động và mù quáng.

Nhìn vào Tin Mừng một cách thấu đáo, chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đến trần gian để cách mạng gian trần, bằng con đường đấu tranh chống tội ác, chống gian dối, chống bất công, chống thỏa hiệp, chống bè phái... Dầu cho Ngài được tôn xưng là "Hoàng tử của Hòa bình" (Is 9:6), nhưng việc Ngài đến trần gian và công bố Tin Mừng đã đem đến chia rẽ, đến đối kháng, đến bách hại giữa các tín hữu và thế giới: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà" (Mt 10:34-36).

Như vậy con đường đi theo Chúa Kitô là con đường đấu tranh chống tội lỗi và nhiều khi chống lại chính mình nữa. Cứ nhìn xem các giới chức và các tín hữu hiện nay đang sống thế nào để có thể nhận ra ai là người đi theo đúng con đường của Chúa Kitô. Ai sống lối sống biết từ bỏ chính mình, người đó đi theo Chúa Kitô và ngược lại, ai sống thu vén cho mình, tìm kiếm an nhàn và danh lợi cho mình, người đó đi ngược chiều với Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài:

"Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được." (Mt 10:37-39)

Tất cả rồi sẽ qua đi: địa vị, chức quyền, tiền tài, tình nhân, công danh... nhưng Lời Chúa sẽ chẳng sai một mảy may. Mỗi người đang tự tạo lấy lịch sử cho chính mình. Chính Thánh Thần Chúa mới đem lại cuộc sống hạnh phúc đích thực cho con người, ngoài ra tất cả chỉ là phù du và tan theo mây gió. Muốn thoát khỏi gọng kìm độc địa của Cộng sản, các giới chức của Giáo hội chỉ còn con đường duy nhất là quay đầu sám hối trở về sống thực sự con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng Cứu Độ đích thực của mỗi chúng ta mà thôi. Chỉ có con đường độc đạo cứu Cha cứu Chúa cứu Giáo hội, chính là trung thành bước đi theo Chúa Giêsu mà thôi. Ngoài ra chỉ là ngụy biện, là che đậy, là phá hoại!

Hoàng Quý

Một Người Như Mọi Người !


Thái Dương Nguyễn Văn Xanh : Một Người Như Mọi Người !

William S Reeder,
Nguyễn Hữu Thiện
dịch

Trong cuộc chiến Việt Nam, có bao nhiêu người được may may mắn như hai đương sự phi công Nguyễn Văn Xanh và William S. Reeder

Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người 'anh hùng' được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).

Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: 'Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích'. Chấm hết!

Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng võ trang Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ.
NHT

Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch 'Việt Nam hóa chiến tranh' của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phi công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.

Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt tấn công mà người Mỹ quen gọi là 'Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972' (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.

[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng 'Mùa Hè Đỏ Lửa' thay cho 'Easter Offensive']

Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.

Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.

Hôm đó là ngày 29 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung với tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ !

Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.

Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.

Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.

Sau khi cất cánh khỏi phi trường Kontum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.

Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc.

Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.

Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngày trước khi bị bắt.

Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá.

Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai cái hamburger còn sống.

Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì cũng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái 'cầu' này để vào trại.

Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bị gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!

Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.

'Nhà vệ sinh' này thực ra chỉ là vài cái hố xí để bạn phóng uế xuống. 'Vấn đề' là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có 'nhu cầu', người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là 'nhà vệ sinh' ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không có bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.

Theo ký ức của tôi thì nước uống không có 'vấn đề'. Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có 'vấn đề'. Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được 'chiêu đãi' bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây 'yucca' ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hề được cạo râu.

Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.

Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.

Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi 'phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi', tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.

Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.

Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái ngược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.

Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.

Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, tôi còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lắm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết.. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.

Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.

Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!

Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậy, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.

Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bước đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây 'cầu' bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống và kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng vào người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!

Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penicillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm công việc áp giải.

Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới 'khách sạn Hilton - Hà Nội' lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.

Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.

Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.

Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho 'trang chủ' mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong một ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.

Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, trở ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.

Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.

William S. Reeder
Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa

Ai là thần bạch mi của người Việt

Trần Thanh
- Viết theo lời kể của một Việt kiều đi du lịch Việt Nam

Kính thưa quý vị, tôi là một play-boy (dân chơi). Tôi thường xuyên đi du lịch Việt Nam là để .... chơi đĩ! Tôi nói thẳng ra luôn chớ không thèm úp mở gì, vì dân chơi tụi tôi nghĩ sao nói vậy chớ không có thói quen màu mè. Tôi sinh ra ở bên Mỹ, toàn bộ gia đình tôi đều đã định cư tại Mỹ. Sở dĩ tôi quyết định đi du lịch Việt Nam vì thấy trên tờ báo điện tử con Tắc-Kè-Nhảy-Xì-Lô có quảng cáo nhiều nơi chơi bời hấp dẫn quá! Giá tiền đối với tôi không thành vấn đề vì gia đình tôi bên Mỹ thuộc thành phần triệu phú. Ở Việt Nam có nhiều kiểu chơi bời quá hay mà bên Mỹ không bao giờ có. Chẳng hạn như "bóc tem" một em còn o-ri-gin 100% mà giá chỉ có bốn ngàn đô! Một chai Thập-Tam-Mạc-Xử-Nữ (13 cái màng trinh của con gái) ngâm với rượu Mao Đài giá ba chục ngàn đô la! Nghe nói loại rượu này uống vô "xung" dữ lắm, nhất dạ cửu giao là chuyện nhỏ! Đó là chưa kể ai mà được uống loại rượu này thì hên vô cùng, làm ăn rất phát đạt, nhất bản vạn lợi, trẻ mãi không già! Nó là thuốc tiên mà, tiền nào của nấy! Mình uống máu .... lồn .... của mười ba đứa con gái chớ đâu phải ít!!! Bởi vậy cho nên tôi nhất định phải đi Việt Nam, tìm cho đến nơi cái động đĩ có bán loại rượu đó, thưởng thức cho biết mùi đời! Các loại rượu như rượu "Minh Mạng" hay "Tam Tinh Đại BỂ thận", tôi đã dùng qua rồi. Dở ẹc và dỏm lắm. Quý vị nào chưa dùng thì đừng có mua mà uổng tiền!

Cái động đĩ đó là một ngôi biệt thự rất sang trọng ở đường Phùng Khắc Khoan, quận nhất thành phố Hồ Chí Minh. Con đường này toàn là những ngôi biệt thự khổng lồ đã được xây từ hồi thời Pháp, dành cho các quan lớn của Pháp. Bây giờ thì chủ nhân những ngôi biệt thự này là những ông lớn việt cộng trong trung ương đảng và bộ chính trị. Động đĩ này không có treo bảng hiệu, rất kín cổng cao tường, lúc nào cũng có khoảng nửa tiểu đội công an đứng gác. Muốn vào chơi phải là thành phần "thứ dữ", tức là phải vừa có tiền, phải vừa có quen lớn, có thần có thế. Giả sử một anh chàng hai lúa nào vừa bán được ruộng đất vài chục tỷ (tiền việt cộng) mà bày đặt vác mặt tới đòi chơi bời thì tụi công an bợp tai, đá đít liền! Khi tôi tới đó chơi bời, tôi thấy tụi khách nước ngoài cũng nhiều lắm, nghe nói có cả những "ngài" .... đại sứ các nước nữa! Các đại gia ở trong nước thì đa số là con của mấy ông lớn, thuộc loại ăn chơi nghiêng trời lệch đất, mồi thuốc lá bằng giấy bạc 100 đô la!

Điều kiện để được vào chơi là phải có thẻ hội viên có dán hình. Nếu mới tới chơi lần đầu thì phải được một người có thẻ hội viên dẫn tới giới thiệu! Tôi nhờ là con của triệu phú việt kiều ở Cali, lại có cái "mác" là tiến sĩ, tốt nghiệp ở bên Mỹ, kiêm luôn đại thương gia, cho nên tôi có điều kiện làm quen với mấy thằng con ông lớn trong trung ương đảng. Tôi muốn nói thêm ở đây, cái bằng tiến sĩ của tôi là bằng tiến sĩ thiệt đó nghen, chớ không phải là bằng tiến sĩ .... chợ trời như ở bên Việt Nam. Hồi mới đi du lịch Việt Nam lần đầu, mới làm quen với đám con của mấy ông lớn việt cộng, tôi tái mặt vì thấy thằng nào cũng có hai, ba bằng tiến sĩ, còn bằng kỹ sư là đồ bỏ, có đứa có tới .... sáu cái bằng kỹ sư! Sau này tôi mới biết đó là bằng cấp .... chợ trời, muốn mua bao nhiêu cái cũng có! Hèn chi mà mấy ông "tiến sĩ" nói một câu tiếng Mỹ cũng không ra hồn, giải một bài toán lớp tám cũng không xong! Hèn chi mà, tôi đọc trên báo Tuổi Trẻ, một đất nước chỉ có 80 triệu dân mà có tới .... 20 ngàn người có bằng cấp tiến sĩ!!! Nước Mỹ dân số đông hơn gần gấp BỐN LẦN nước Việt Nam cũng không thể nào DÁM có tới chừng ấy tiến sĩ! (Hổng dám đâu!)

Bữa hôm đó, sau khi đã lót tay cho mấy thằng con ông lớn một mớ đô la, tụi nó đồng ý dẫn tôi tới chơi bời cho biết thiên đường hạ giới! Đúng là có tiền mua tiên cũng được, người Mỹ cũng thường nói "money is the golden key to open all doors"! Đích thân thằng Võ Văn Kẹo dẫn tôi qua hai ba lớp cửa có công an, bộ đội và chó bẹc giê canh gác mà không có một tên nào dám xớ rớ hỏi "dái" anh Kẹo! Thằng Kẹo nói với tôi bằng giọng tự hào:

- Tôi thường xuyên đóng đô ở đây mà, mấy thằng đàn em biết quá rồi!

Phía bên trong biệt thự được trang trí như một thiên đường, cây cối xanh tươi, hoa thơm cỏ lạ đầy khắp, từng bầy tiên nữ đẹp mê hồn, lượn tới lượn lui như đèn cù, nhoẻn miệng cười, chào mời khách. Thấy bồng lai tiên cảnh hiện ngay ra trước mặt, tôi buột miệng khen:

- Thiệt là .... ấn tượng quá! Cực kỳ hết ý!

Thằng Kẹo cười hì hì tỏ ý hài lòng:

- Bữa nay tôi sẽ giới thiệu ông với vị chủ nhân của "thiên đàng" này. Ông cứ vô tư, thoải mái "làm việc" với cô ta!

Liền ngay lúc đó có hai em tiên nữ xinh như mộng và trần truồng như nhộng xuất hiện, cúi khom người, hai tay chắp lại, vái lạy hai vị "đại gia" ba lạy rồi em mới cất tiếng nhỏ nhẹ:

- Dạ thưa, nhị vị vui lòng ngồi chờ ở phòng thư giãn (phòng khách) Bạch cô giáo chủ sẽ xuất hiện trong giây lát để hầu chuyện nhị vị!

Nghe em tiên nữ xổ "nho chùm", tôi hơi ngạc nhiên, nhủ thầm:

- Ủa, sao giống Tuyệt Tình Cốc trong phim Thần Điêu Đại Hiệp quá vậy!

Tôi và thằng Kẹo vừa ngồi xuống chiếc ghế sofa thì hai em tiên nữ đã vội đến sau lưng, dùng mười ngón thiên thần để đấm bóp. Thằng Kẹo tự động lấy chai rượu để trên bàn, rót ra ly, mời tôi:

- Làm chút xíu đi. Đây là rượu "Bác Hồ" đó, uống vào rất bổ huyết và bổ .... đủ thứ!

Tôi chưa kịp uống thì bỗng thấy một bóng trắng thướt tha xuất hiện, đồng thời cô gái cất tiếng chào:

- Kính chào nhị vị đại gia!

Cô gái mặc loại áo cổ truyền như những cung phi mỹ nữ trong cung vua ngày xưa thường mặc, toàn bộ đều màu trắng. Nàng trạc 25 tuổi, có khuôn mặt rất đẹp, làm tôi phải buột miệng kêu lên:

- Chà, sao giống Tiểu Long Nữ quá vậy!*

Thằng Kẹo bèn giới thiệu:

- Đây là cô Lisa, chủ nhân bồng lai tiên cảnh. Còn đây là anh Tommy, việt kiều Mỹ, đại gia đang làm ăn buôn bán với tụi mình ....

Giới thiệu xong thì thằng Kẹo rút lui:

- Thôi, nhiệm vụ của tôi đã xong. Hai người cứ vô tư dzui dzẻ với nhau nghe!

Còn lại một mình tôi với Tiểu Long Nữ, tôi bèn tấn công liền:

- Anh khen em đẹp như Tiểu Long Nữ, em có chịu không? Sao mà giống quá!

Cô gái cười khiêm tốn:

- Anh quá khen. Em đâu có cái tên bay bướm như vậy. Tên thương mại của em là Lisa ....

Tôi vội nói cắt ngang:

- Anh thích gọi em là Tiểu Long Nữ, một nàng tiên tuyệt vời trong Tuyệt Tình Cốc! Không có li sa, li xéo gì hết! Hay ho gì ba cái tên Tây, tên Mỹ!

Nghe tôi khen ngợi, cô chủ nhân bỗng hồ hởi, phấn khởi, phang luôn một câu tiếng Mẽo, làm tôi nghe muốn lùng bùng lỗ tai:

- Thôi được, I afternoon you! (Tiếng Mỹ bồi: "em chiều ý anh")

Tôi phải cố gắng hết sức, vận dụng tối đa cái trình độ tiến sĩ khoa học của mình trong vòng hai ba phút mới hiểu được ý cô nàng muốn nói gì! Đúng là tiếng Mỹ của "đỉnh cao trí tuệ"! Tôi phá lên cười sằng sặc. Cô nàng cũng cười rồi véo tôi:

- Sao anh lại cười? Anh muốn chế nhạo em phải không?

Nói xong nàng nhẹ nhàng nắm tay tôi:

- Thôi mời anh lên phòng của em để em đích thân phục vụ anh từ A tới Z. Em đã nghe anh Kẹo giới thiệu về anh từ hồi tuần trước, bữa nay em mới hân hạnh được tiếp chuyện!

Thế là tôi theo chân cô chủ nhân lên phòng riêng của cô ta. Phải nói tôi là người rất may mắn, diễm phúc mới được đích thân nữ chủ nhân phục vụ. Mà vị chủ nhân này, theo sự bật mí của thằng Kẹo, chính là cháu ruột của đồng chấy Nông Đứt Mạch! Tên cúng cơm của cô ta là Nông Thị Dân .... Thế rồi, khi vừa bước vào căn phòng thì tôi quá đỗi kinh ngạc vì trên tường có treo một tấm ảnh .... bác Hồ! Thế rồi, cứ tự nhiên như người Hà Lội, nàng Tiểu Long Nữ của tôi, cởi tuột hết xiêm y ra, để lộ tấm thân ngọc ngà không thua gì những người mẫu hạng sang. Nàng đưa tay chỉ lên tấm ảnh bác Hồ:

- Chắc anh ngạc nhiên vì sao lại có tấm ảnh bác Hồ ở đây phải không?

Tôi ú ớ:

- Ờ ờ, đó có phải là bác Hồ hay không?

Tiểu Long Nữ bật cười:

- Bác Hồ là vị cha già của dân tộc ai mà không biết? Chỉ có anh là .... vịt kiều nên mới hỏi ngớ ngẩn thế thôi!

Tôi nêu thắc mắc:

- Nhưng sao em không treo hình "cha già" ở phòng khách mà lại treo trong phòng ngủ?

Tiểu Long Nữ bèn giải thích:

- Bác Hồ vừa là vị cha già của dân tộc đồng thời cũng LÀ VỊ TỔ CỦA NGHỀ LÀM ĐĨ nữa, anh hiểu chưa!!!

Tôi tái mặt:

- Ủa, anh nghe nói ông tổ của nghề làm đĩ là thần bạch mi là ở bên Tàu cơ mà?

Tiểu Long Nữ:

- Đúng vậy, thần bạch mi ở bên Tàu là của người Tàu. Còn người Việt mình thì phải có ông tổ riêng chứ, đâu có thể xài chung một ông tổ với người Tàu! Anh thử nhìn kỹ cặp lông mày của bác xem, có phải giống y chang như lông mày của thần bạch mi hay không?

Tôi nhìn tấm hình rồi gật gù khen:

- Ờ ờ, phải rồi, giống lắm! Bác xứng đáng là ông tổ của nghề làm đĩ, cũng giống như ông Lỗ Ban là ông tổ của nghề thợ mộc!

Tiểu Long Nữ:

- Bây giờ anh ngồi đây chờ em làm lễ cúng tổ một chút nhé. Trước khi hành nghề, em phải cúng tổ, khấn vái tổ!

Tôi tò mò:

- Ông thần bạch mi người Việt này có linh thiêng hay không?

Tiểu Long Nữ nói bằng giọng tin tưởng, thành kính:

- Linh lắm anh ạ! Em để ý cứ lần nào em có khấn vái tổ thì lần đó em được tổ đãi, trúng mánh liên tục! Anh có thấy mấy người đào kép cải lương, sân khấu hay không? Trước khi trình diễn, người nào cũng phải thắp nhang khấn vái tổ hết. Người nào thành kính thì được tổ đãi, ca hay xuất thần, được khán giả hâm mộ, ném tiền lên sân khấu, lượm không hết. Còn người nào lếu láo thì bị TỔ TRÁC, có người bị hộc máu ngay trên sân khấu!

Nói xong Tiểu Long Nữ đốt một nén nhang rồi cắm vào một chiếc ly thủy tinh có đựng gạo ở trên bàn. Xong xuôi, cô nàng bèn trèo lên giường ngồi đối diện ngay trước mặt ÔNG TỔ, thần bạch mi. Hai tay cô nàng chống trên giường, thân hình và đầu hơi cúi xuống, rồi cô nàng từ từ xoạc hai chân ra thật rộng, cái "hang Bắc Pó" của cô nàng banh ra, phơi bày trần trụi hết tất cả "bộ đồ lòng" ngay trước mặt ông tổ để ông "rửa con mắt"!!! Tiếp theo Tiểu Long Nữ lâm râm khấn vái. Tiếc rằng nàng khấn hơi nhỏ nên tôi nghe không rõ, chỉ nghe lõm bõm, câu được câu mất như thế này:

Bác gian hùng cháu cũng gian hùng
Bác cháu ta cùng nghiệp mánh mung
Bác bắt toàn dân làm nô lệ
Cháu ép dân chơi đến tận cùng!
..................
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng TA sự nghiệp đã thành công!

Đọc xong bài khấn, Tiểu Long Nữ, trịnh trọng lấy một tấm hình của ông tổ (bác Hồ), in khổ lớn bằng quyển vở, màu mè rất đẹp, đem chùi đi chùi lại rất nhiều lần vào .... lồn của mình cho đến khi tấm hình nhàu nát bấy! Cô ta giải thích: trước khi hành nghề, phải cho bác "rửa con mắt" rồi "ăn và uống" cho thật đã đời thì bác mới phù hộ cho làm ăn khấm khá!!!

Xong xuôi lễ bái tổ, Tiểu Long Nữ bấm chuông gọi nữ tỳ đem lên cho nàng chai rượu Thập Tam Mạc Xử Nữ mà tôi đã gọi điện thoại đặt trước từ hồi đầu tháng. Tối hôm đó tôi cùng nàng nhâm nhi, "cưa" hết chai rượu rồi cùng nhau bày cuộc mây mưa, chơi XẢ LÁNG cho tới SÁNG LẢ, sụm bà chè đi hết muốn nổi! Sau đó tôi bay về Mỹ để phục hồi sức lực, hẹn ngày chơi tiếp! Nhưng khốn nỗi, không biết có phải là rượu dỏm hay không mà càng ngày xương sống của tôi càng bị đau buốt như bị ai rút hết tủy xương vậy! Tôi đi bác sĩ chuyên khoa thì họ nói tôi bị hư thận và hệ thần kinh tọa! Thế là bây giờ tôi phải tạm thời ngồi xe lăn, lúc mới ba mươi tuổi, không biết đến bao giờ mới khỏi bệnh!

Điều tôi cho là quan trọng nhất chính là tôi đã chứng kiến tận mắt một cô gái làm chủ một động đĩ cao cấp làm lễ bái tổ. Té ra BÁC HỒ LÀ ÔNG THẦN BẠCH MI, LÀ ÔNG TỔ CỦA NGHỀ LÀM ĐĨ CỦA NGƯỜI VIỆT! Bọn cộng sản biết chuyện này từ lâu nhưng bọn chúng dấu rất kỹ. Chính vì bác Hồ là ông tổ của nghề làm đĩ mà từ khi việt cộng chiếm được miền Nam, cả đất nước ta đã bị biến thành một cái động đĩ khổng lồ. Nhà nước xuất cảng đĩ điếm đi khắp nơi trên thế giới. Khách du lịch khắp nơi trên thế giới đổ xô về Việt Nam để chơi đĩ. Tên Sáu Phong (Nguyễn Minh Triết) khi qua Mỹ còn dám lớn miệng quảng cáo:

- Quý dị hãy dề Diệc Nam mà đầu tư. Con gái Diệc Nam đẹp lắm!

Chưa hết, đàn bà, con gái người Việt còn rẻ tới mức, các tay ma cô ở các nước Đông Nam Á đã quảng cáo với khách hàng rằng họ được quyền mua "hàng" về .... xài thử, nếu sau ba tháng không vừa ý thì được quyền trả lại "hàng", nhận lại tiền đặt cọc!!!

Đúng là một tai họa cho đất nước chỉ vì tên chó đẻ "cha già dân tộc", ngoài những nghề chính là việt gian, ma cô, trộm cướp, còn kiêm luôn nghề làm thần bạch mi, ông tổ của nghề làm đĩ! Trong những năm qua, năm 2006 - 2008, việt cộng đã ra sức bắt toàn dân phải học tập "những gương sáng" của Hồ Chủ Tịt. Chúng đã cho in rất nhiều tấm hình chân dung của Hồ Chủ Tịt, phát không hoặc cưỡng bức cán bộ công nhân viên phải mua đem về treo trên bàn thờ để thờ. Sau ba năm thực hiện chính sách "học tập gương sáng" của bác Hồ, sở công an thành phố và sở văn hóa thông tin đã rất hồ hởi, phấn khởi làm một bản báo cáo gởi lên trung ương đảng như sau:

- Thành công, thành công, đại thành công. Toàn dân đã rất hồ hởi, phấn khởi thi đua nhau mua ảnh chân dung của bác Hồ về nhà để thờ! Số lượng bản in đã gia tăng hơn những năm trước gấp trăm lần!

Bọn chúng đâu có biết là 99% những tấm hình của bác đã được các cô gái điếm trong động đĩ dùng làm giấy chùi ... lồn, sau khi họ làm lễ bái tổ xong!

Trần Thanh
Ngày 28 tháng 7 năm 2008

Chú thích:

Tiểu Long Nữ là nhân vật chính trong truyện Thần Điêu Đại Hiệp của Kim Dung. Cô ta rất đẹp, chuyên mặc y phục màu trắng và sống một mình trong Tuyệt Tình Cốc.

Hậu Quả Xấu Của Thế Vận Hộ Trung Cộng

Thuỷ-Triều

Còn đúng hai tuần lễ nữa là ngày lễ khai mạc Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008. Các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp đã đang hết sức gấp rút thực hiện mọi nổ lực để bảo đảm cho buổi lễ khai mạc và tiếp theo đó là các cuộc tranh tài của các lực sĩ thế vận sẽ được diễn ra tốt đẹp. Các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp hiện nay rất lo sợ là họ sẽ bị mất thể diện với cộng đồng quốc tế và làm mất nhiều hơn lòng tin của người dân Trung Quốc đối với họ, nếu có một sự cố gì không tốt dù lớn hay nhỏ xảy ra trong thời gian có thế vận hội ở Bắc Kinh.

Cái tâm lý lo sợ bị mất thể diện đó của các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng đã được nhân lên gấp đôi và cộng thêm cái mặc cảm cố hữu "Đông Á Bệnh Phu" của người Trung Quốc khi nghe lực sĩ huy chương vàng chạy việt dã tên Haile Gebrselassie người Ethiopian tuyên bố trong ngày 10 tháng 3 năm 2008 là ông ta sẽ không tham dự tranh tài thế vận hội vào tháng 8 này chỉ bởi vì sự ô nhiễm không khí trầm trọng tại Bắc Kinh chắc chắn không tốt cho sức khoẻ của ông ta, khi ông ta phải chạy ở ngoài trời một quảng đường dài khoảng 40 cây số trên trường đua.

Quả thật trong quá khứ tình trạng ô nhiễm không khí quá trầm trọng cũng đã một lần cản trở Trung Cộng vào năm 1993 không được Uỷ Ban Thế Vận Hội Quốc Tế trao quyền đăng cai thế vận hội mùa hè năm 2000. Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2000 hay còn được gọi là Thế Vận Hội Tân Thiên Niên Kỷ 2000 đã được tổ chức tại thành phố Sydney thuộc tiểu bang New South Wales của nước Úc, bởi vì vào thời gian đó nước Trung Quốc đã không thể nào đạt tới các tiêu chuẩn quốc tế để được trao quyền đăng cai thế vận hội. Chính vì sự thua kém này mà Uỷ Ban Thế Vận Hội Trung Quốc của tập đoàn cầm quyền trung ương đảng Trung Cộng đã có cam kết với Ủy Ban Thế Vận Hội Quốc Tế là bầu không khí của thành phố Bắc Kinh sẽ phải được sạch sẻ trước ngày lễ khai mạc Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 cho tới khi kết thúc.

Những người quan sát và phân tích tình hình của nước Trung Quốc đã nhận thấy các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp tại thành phố Bắc Kinh đã có quyết tâm và rất khẩn trương trong việc làm giảm bớt sự ô nhiễm không khí, nhất là ngay sau khi nghe được lời tuyên bố không tham dự tranh tài của lực sĩ huy chương vàng Haile Gebrselassie vì ông ta sợ phải hít thở cái không khí dơ bẩn ở Bắc Kinh. Giới cầm quyền thành phố Bắc Kinh đã ra lệnh tất cả bếp lò của người dân từ trước tới nay thường đốt than củi bây giờ dứt khoát phải thay đổi bếp lò dùng điện hoặc dùng hơi đốt. Có hàng mấy triệu cây xanh đã được trồng lên ở khắp thành phố Bắc Kinh để chặn bớt bụi bặm bị gió thổi từ các bình nguyên phía bắc và phía tây thổi tới. Tất cả các xí nghiệp gia công chế biến ở trong thành phố đều phải di chuyển ra những vùng ngoại ô xa. Tất cả những chiếc xe tắc xi chạy trong thành phố thuộc đời cũ đã phun ra nhiều khói xăng thì phải được thay thế bằng những chiếc xe đời mới. Những chiếc xe vận tải hạng nặng chở hàng hoá chỉ được phép vào thành phố Bắc Kinh vào ban đêm. Và còn một nổ lực làm sạch không khí mà giới cầm quyền thành phố Bắc Kinh đã thực hiện là một hệ thống đường rầy và xe điện ngầm nối liền phi trường quốc tế vào nội ô thành phố. Họ còn cho biết là nếu cần thì họ cũng sẽ đóng cửa các nhà máy xí nghiệp ở xung quanh thành phố Bắc Kinh trong suốt thời gian có thế vận hội đang diễn ra.

Mọi người đều nhận thấy rằng các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp đã có chung một quyết tâm là họ lợi dụng Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 như một cơ hội rất tốt để phô trương sự phát triển thần tốc thần kỳ của một nước Trung Quốc cải tiến vững chắc để chiếm địa vị một cường quốc thế giới và quan trọng nhất là củng cố niềm tin của người dân Trung Quốc vào sự lãnh đạo của họ. Tuy nhiên, sự thật lại trớ trêu không giống như họ mong muốn, vì họ đã tận hết sức của họ rồi đó mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn thoả mãn được yêu cầu của một bầu không khí trong lành ở thành phố Bắc Kinh. Hơn nữa, trong thời gian vừa qua để chuẩn bị thế vận hội họ đã tạo ra những hậu quả xấu trực tiếp gây thiệt hại cho người dân Trung Quốc cũng như có thể làm tắt-nghẽn nhiều bộ phận đang hoạt động của nền kinh tế Trung Quốc.

Kết quả xét nghiệm phẩm chất không khí của thành phố Bắc Kinh cho thấy hàng ngày mật độ các vi thể trong không khí còn rất cao, so sánh bằng cả năm thành phố Washington DC, New York, Chicago, Atlanta, và Los Angeles của nước Mỹ cộng lại. Nguyên nhân trực tiếp làm cho phẩm chất không khí của thành phố Bắc Kinh càng ngày càng xấu là nhờ vào sức phát triển kinh tế thị trường quá nhanh nên vào năm 2000 thành phố Bắc Kinh đã có 3.000.000 chiếc xe hơi đủ loại, rồi tiếp theo đó mỗi năm thành phố này lại có thêm 400.000 chiếc xe con và xe tải. Năm 2008 bây giờ thành phố Bắc Kinh đang có khoảng 6.200.000 chiếc xe hơi cũ mới đủ loại di chuyển mỗi ngày tới lui trong thành phố.

Cũng kể từ năm 2000 cho tới hôm nay thành phố Bắc Kinh bộc phát công việc xây cất nhà cửa và cao ốc trên tổng số diện tích 1.7 tỉ bộ vuông, nó đã đang góp phần làm cho thành phố mịt mù bụi bặm. Và nói riêng về một số nhiều nhà máy phát điện, nhà máy xi măng, nhà máy luyện thép, nhà máy sản xuất hoá chất hiện còn dùng than đốt ở tại thành phố Bắc Kinh và năm tỉnh ở xung quanh Bắc Kinh; mặc dù họ đã đang dùng loại than sạch hơn và ít khói hơn trước nhưng họ đã tiêu thụ một số lượng khổng lồ chỉ trong một năm. Theo số liệu thống kê thì năm 2007 các nhà máy này đã đốt cháy 30.000.000 tấn than. Riêng năm 2008 hiện nay chưa rõ số lượng bao nhiêu.

Sở dĩ phải nói dài dòng ở trên như thế là vì muốn làm nổi bật ra đây những biện pháp gay gắt mà chúng có hậu quả xấu trực tiếp gây thiệt hại cho người dân Trung Quốc và có thể làm tắt-nghẽn nhiều bộ phận đang hoạt động của nền kinh tế Trung Quốc. Các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp phải giữ lời cam kết làm sạch bầu không khí của thành phố Bắc Kinh trước và trong thời gian có thế vận hội diễn ra, thì họ chỉ còn một cách duy nhất là phải đóng cửa các nhà máy và ra lệnh hạn chế dùng xe hơi riêng để đi lại trong thành phố Bắc Kinh. Căn cứ theo một thông cáo của cơ quan Nhà Nước Quản Trị và Bảo Vệ Môi Sinh thì hiện nay có mười nhà máy gây ô nhiễm không khí nặng nhất đã hoàn toàn đóng cửa rồi, và một số nhà máy còn lại sẽ ngưng hoạt động trong vòng 30 ngày và phải trước ngày 8 tháng 8 bắt đầu lễ khai mạc thế vận hội. Nếu có nhà máy nào còn tiếp tục hoạt động thì cũng phải giảm mức sản xuất; thí dụ nhà máy Shougang chế tạo thép xây dựng lớn hàng thứ nhì ở Trung Quốc sẽ giảm 50% mức sản xuất.

Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 được nhiều người Trung Quốc xem như là một thành tựu cao điểm của sự phát triển kinh tế thần tốc thần kỳ của một nước Trung Quốc lạc hậu dưới sự lãnh đạo của các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp mà họ đã rất phấn khởi nôn nóng muốn sớm được phô trương khoe khoang với cộng đồng quốc tế. Nhưng sau 30 ngày các nhà máy đủ loại bị bắt buộc phải ngừng hoạt động hoặc giảm bớt mức sản xuất để tránh việc tiếp tục gây ô nhiễm không khí cho thế vận hội lại là một chỉ dấu rõ ràng cho thấy nền kinh tế thị trường đi lên quá nhanh của nước Trung Quốc đã chạm mức bắt đầu tuột xuống theo chu kỳ khủng hoảng năng lượng trong nước cũng đồng thời là một cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới.

Hậu quả xấu của Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 là bất ngờ chính nó trực tiếp gây ra những xáo trộn xã hội, chính trị, và kinh tế của nước Trung Quốc. Những xáo trộn mà các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp đã không lường trước được hay đã biết rõ nhưng cố ý làm ngơ chỉ để thu nhập những món lợi tức khổng lồ cho cá nhân đảng viên và củng cố tổ chức đảng Trung Cộng. Những người quan sát và phân tích tình hình của nước Trung Quốc đều có chung một kết luận là "nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Quốc" thực ra chỉ là một nền kinh tế hoạch định đã biến chất còn duy trì độc đảng toàn trị và được tăng cường yếu tố gia đình trị để làm giàu nhanh.

Nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Quốc kia đã đang tạo ra một cái hố sâu ngăn cách xã hội giàu-nghèo, nông thôn và thành thị, càng ngày càng rộng lớn hơn ở trong nước Trung Quốc. Cái bản chất Trung Quốc là duy trì độc đảng toàn trị và tăng cường yếu tố gia đình trị để tạo ra hai tầng lớp đại tư sản và tiểu tư sản xuất thân là đảng viên Trung Cộng đã lột xác để hội nhập vào nền kinh tế thị trường và để tiếp tục khống chế xã hội Trung Quốc. Một thí dụ cụ thể là để xây cất lên một Làng Thế Vận Hội-Olympic Village các tập đoàn cầm quyền ở thành phố Bắc Kinh đã giải toả nhiều khu vực dân cư đông dân nghèo đã sống qua nhiều đời tại thành phố. Số người dân bị giải toả mất nơi ăn chốn ở này là 1.5 triệu người đã bị di cư ở đâu? Đa số họ đã không nhận được số tiền bồi thường cho dù quá ít, trong khi đó một số người có quyền thế lại trở thành những sở hữu chủ đầu tư địa ốc trong khu vực Làng Thế Vận Hội để đẩy giá cả nhà đất lên tận chín tầng mây ở Bắc Kinh. Đây rõ ràng là một hậu quả xấu của Thế Vận Hội Trung Cộng.

Một hậu quả xấu khác của Thế Vận Hội Trung Cộng là việc cung cấp thức ăn sạch sẻ an toàn cho Làng Thế Vận Hội Bắc Kinh. Trong thời gian qua Trung Cộng đã nổi tiếng khắp thế giới về phẩm chất xấu của hàng hoá và thực phẩm độc hại do Trung Cộng sản xuất. Người tiêu thụ ở các nước trên thế giới đã sợ hàng hoá và thực phẩm của Trung Cộng cho dù chúng được bán ra với giá rẻ. Có một vài phái đoàn lực sĩ thế vận hội đã cho biết ý định của họ là họ sẽ tự mang theo thức ăn nước uống sản xuất từ quốc gia của họ trong những ngày họ lưu lại Bắc Kinh. Như thế thì mất thể diện quá rồi! Các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp phải lập tức có biện pháp giải quyết và họ đã phải điều động một hệ thống cung cấp thực phẩm bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn cho cả Làng Thế Vận Hội để phục vụ cho một số lượng ước định là 500.000 người ngoại quốc sẽ tới thành phố Bắc Kinh. Điều này còn có nghĩa là người dân Trung Quốc bản xứ sẽ phải chịu nhiều thiếu hụt thực phẩm hợp vệ sinh, phẩm chất tốt và an toàn hơn trước đây nữa. Thí dụ cụ thể là thịt heo ở Trung Quốc do công ty Qianxihe Food Group cung cấp được lựa chọn từ 10 trại nuôi heo phải đúng tiêu chuẩn nuôi heo bằng thức ăn gia súc tinh khiết không có trộn thêm kích thích tố hoặc độc tố, nước sạch, và không khí sạch ở trại nuôi heo. Nhưng giá thịt heo đã tăng gấp đôi và đa số người dân Trung Quốc trong nước không có đủ tiền để mua thịt heo.

Chẳng những Thế Vận Hội Trung Cộng đã gây những hậu quả xấu trực tiếp làm thiệt hại tới nơi ăn chốn ở của một số rất đông người dân Bắc Kinh và làm thiếu hụt thực phẩm an toàn cho một số rất đông người dân Trung Quốc trong nước. Thế Vận Hội Trung Cộng cũng đã gây nhiều phiền toái cho rất nhiều người nông dân Trung Quốc. Một số lượng dự trù là 320 tỉ lít nước ngọt đã lọc sạch tiêu dùng được trong sinh hoạt hàng ngày sẽ chuyển lưu theo hệ thống cung cấp nước dẫn tới Làng Thế Vận Hội Bắc Kinh, nó tương đương với một số lượng nước tiêu dùng của 535.000 người dân cư ngụ tại thành phố Tucson thuộc tiểu bang Arizona của nước Mỹ đã xài trong một năm. Để có đủ nước sạch cung cấp cho Làng Thế Vận Hội Bắc Kinh như vừa nói trên các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp của tỉnh Shaanxi và các tỉnh lân cận ở vùng tây bắc Trung Quốc đã phải ngừng hoạt động các nhà máy nông nghiệp và hệ thống kênh tưới tiêu dẩn thuỷ nhập điền của họ; như vậy nông dân Trung Quốc ở trong các tỉnh nêu trên đang không có nước để dùng cho sự trồng trọt của họ.

Ở Trung Quốc tình trạng nước bị ô nhiễm trầm trọng đến nỗi nhiều loại cá ở ao hồ sông rạch đã chết hàng loạt. Nhưng thành phố Bắc Kinh lại toạ lạc trên một vùng bình nguyên rất khan hiếm nước khi nó ở cách xa các con sông chính và bờ biển hàng trăm dặm. Người dân Bắc Kinh thiếu hụt nước ngọt trên mặt đất ở ao hồ sông rạch, nên họ phải dùng những mạch nước ngầm dưới đất được bơm lên từ những giếng nước. Trong vòng 30 năm nay khi thành phố Bắc Kinh bắt đầu phát triển cũng đồng thời người dân Bắc Kinh tiêu dùng nước bơm lên từ các giếng quá nhanh và quá nhiều trong lúc lượng nước mưa thiên nhiên cũng không bù đắp lại kịp, nên mực nước ngầm ở các giếng đã tụt sâu xuống gần 2 mét. Thành phố Bắc Kinh đã từng yêu cầu các tỉnh lân cận phải tiếp tế nước sạch tiêu dùng được cho thành phố, nay lại có thêm nhu cầu của Làng Thế Vận Hội thì người nông dân ở các tỉnh lân cận đó sẽ không còn nước sạch ở trong các hồ chứa nước hoặc ở các giếng nước của họ nữa. Ở Trung Quốc đã thường xuyên có xẩy ra những cuộc biểu tình phản đối các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng và đòi hỏi quyền lợi của người nông dân Trung Quốc, nhưng các tin tức và hình ảnh đều đã bị tịch thu và ngăn cấm phổ biến.

Hơn nữa, hiện nay vì tình hình an ninh trật tự của Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008, các biện pháp gay gắt của công an cảnh sát tại thành phố Bắc Kinh cũng đã gây hậu quả xấu cho ngành du lịch và khách sạn của Trung Quốc. Các chuyên viên ngành du lịch và khách sạn của Trung Quốc đã có một nhận định rằng các biện pháp bảo vệ cho Thế Vận Hội Bắc Kinh đã gây ra những tổn thất cho ngành du lịch và khách sạn. Nhật báo South China Morning Post cho biết trong tháng 6 năm nay, số lượng du khách ngoại quốc tới thành phố Bắc Kinh đã giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện nay có rất nhiều khách sạn đang vắng khách mướn phòng hoặc đặt phòng trước. Một nhân viên phụ trách của một công ty du lịch tại thành phố Bắc Kinh cho biết là cái hy vọng làm ăn phát tài nhân dịp Thế Vận Hội Mùa Hè này của các công ty du lịch Trung Quốc đã tắt dần và họ đang mang tâm trạng lo lắng hoang mang vì họ đã kỳ vọng cao hơn thực tế quá nhiều. Một thí dụ điển hình cho sự kỳ vọng quá cao đó là thành phố Bắc Kinh đã khánh thành thêm 20 khách sạn mới hạng sang. Theo tin tức của Sở Du Lịch Bắc Kinh thì hiện nay có hơn một nửa số phòng khách sạn tại thành phố vẫn chưa có ai đặt phòng trước trong khi giá tiền thuê phòng đã giảm gần 50% ở các khách sạn hạng sang 4 sao hay 5 sao. Có lẽ những cảnh báo và những biện pháp an ninh gay gắt của các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng để ngăn ngừa khủng bố cũng đã làm cho du khách ngoại quốc lo sợ và chán nản nên không còn ham thích tới xem Thế Vận Hội Bắc Kinh.

Tóm lại, Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 chẳng những đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho người dân Trung Quốc trong nước, nó cũng còn ảnh hưởng rất mạnh tới những người ngoại quốc đầu tư chứng khoán của Trung Quốc. Cũng như người dân Trung Quốc trong nước, họ mất lòng tin vào các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng. Vì trong thực tế chính giới cầm quyền Trung Cộng mới nắm giữ một số lớn cổ phần chứng khoán. Thí dụ như ở công ty PetroChina thì giới cầm quyền Trung Cộng đã có hơn 88% cổ phần dưới danh nghĩa tư nhân. Và khi các người ngoại quốc đầu tư chứng khoán Trung Quốc không còn tin tưởng vào giới cầm quyền Trung Cộng là đến lúc họ bán bỏ cổ phần của họ để rút lui trong một bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc đang suy thoái. Họ cũng đã rất chú ý đề phòng một cái tuột dốc của chứng khoán Trung Quốc do tình trạng các nhà máy ngưng nghỉ hoặc giảm bớt sản xuất trong thời gian có thế vận hội, rồi tiếp theo đó là cơn khủng hoảng năng lượng trong nước Trung Quốc khiến cho các nhà máy lại tiếp tục đóng cửa.

Thế Vận Hội Mùa Hè Bắc Kinh 2008 được nhiều người Trung Quốc xem như là một đỉnh điểm của sự phát triển thần tốc thần kỳ của nước Trung Quốc mà các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp mong muốn, nhưng khi nó kết thúc nó cũng làm tròn một chu kỳ phát triển của một nền kinh tế quá nóng mà giờ đây nó đang bắt đầu tan chảy.

Thuỷ-Triều

Lá Cờ Vàng: Biểu Tượng của Niềm Tin và Đoàn Kết của Người Việt Nam Yêu Nước



Đỗ Văn Phúc

Thế là đã quá rõ ràng, không ai có thể phủ nhận việc lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng chính thức, duy nhất của người Việt Nam yêu nước, nhất là của những người Việt tị nạn Cộng sản.

Trong suốt những ngày sinh hoạt của Đại hội Thanh niên Công giáo Thế giới 2008 diễn ra ở Sydney, Australia từ hôm thứ Ba 15 tháng Bảy - qui tụ hàng trăm ngàn người đến từ khoảng 170 quốc gia - có ít nhất ba ngàn thành viên Việt Nam - 500 lá cờ vàng khổ lớn và hàng ngàn lá cờ nhỏ cầm tay đã tung bay cùng quốc kỳ các nước khác trong khi không thấy bóng dáng lá cờ đỏ nhuốm máu của Cộng sản Việt Nam.

Theo dõi Lễ Khai Mạc tại Whitlam Center và Thánh lễ bế mạc tại Trường Đua Sydney, được chiếu liên tục trên đài truyền hình WMTN, lòng chúng ta không khỏi dâng lên niềm tự hào, xúc động khi nhìn thấy màu vàng thân yêu của lá cờ Tổ quốc hiện diện khắp mọi nơi, lấn át tất cả cờ của 170 nước khác. Ít nhất, trong đời chúng ta, những người tị nạn, cũng đã có một lần đã bật khóc nức nở khi được lần đầu nhìn lại lá cờ vàng tại hải ngoại sau hàng chục năm dài chịu đựng chế độ lao tù, quản chế trong các trại tù lớn nhỏ và ngay ngoài đời thường ở Việt Nam.

Từ ba mươi ba năm qua kể từ khi đất nước rơi vào vòng nô lệ của Cộng Sản, lá cờ Vàng đã biến mất trên quê hương thân yêu. Nhưng gần ba triệu người Việt di tản đã ấp ủ lá cờ trong tim mình khi đến đất nước tạm dung. Dù qua bao nhiêu biến cố thăng trầm, những bất đồng, tranh chấp về chính trị, chúng ta vẫn coi lá cờ Vàng là biểu tượng duy nhất để từ đó cùng gắn bó với nhau trên con đường đấu tranh chống lại chế độ phi nhân Cộng Sản. Bởi vì lá cờ đó là lá cờ chính thức của Tổ Quốc Việt Nam lưu truyền từ chế độ Phong Kiến nhà Nguyễn, qua hai chế dộ Cộng Hoà. Vì đó là biểu tượng thiêng liêng mà hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam ưu tú đã đổ máu xương để bảo vệ trong hàng thế kỷ qua. Người phụ nữ Việt Nam có thể mặc áo vàng, đỏ, xanh tìm, hồng… nhưng người Mẹ Việt Nam chỉ mặc áo màu Vàng là màu đất quê hương mà bao đời lam lũ, đấu tranh để sinh tồn. Chỉ có người Cộng Sản Việt Nam mới coi những nhà độc tài Lenin, Staline là cha mẹ, ông bà, nên mới khoác chiếc áo đỏ cho bà Mẹ Việt Nam.

Giữa dòng người hành hương mà con số lên đến 350000 người, ba ngàn thanh niên Công giáo Việt Nam đã thực sự cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn một câu trả lời rất xác quyết và minh bạch rằng là cờ Vàng không những không làm cản trở sự hiệp thông của thanh niên Công Giáo, mà còn là một biểu tượng của sự đoàn kết và niềm tin trong tương lai, ngay cả đối với các thanh niên từ Việt Nam đến tham dự ngày Đại Hội.

Những phỏng vấn chớp nhoáng đã cho thấy giới trẻ từ Việt Nam đã tỏ ra vô cùng hân hoan khi được cộng đồng Việt tại Úc và thanh niên Việt Nam hải ngoại đón tiếp chân tình, cởi mở. Họ như bừng tỉnh sau những năm tháng bị tuyên truyền của chế độ Cộng Sản. Có em đã nói: “Em biết lá cờ đỏ sao vàng là cờ của đảng CSVN, mà tại sao họ lại gán cho là cờ quốc gia. Như thế là sai trái.” Có em lúc ban đầu đã yêu cầu đừng chụp hình có dính với cờ vàng “Vì sợ sẽ bị rắc rối khi trở về nước.” Nhưng sau cùng thì: ”Anh cứ chụp đi, em sẽ giải thích cho họ biết ở đâu cũng thấy cờ vàng cả thì làm sao mà tránh được.”

Có em còn thành thật tiết lộ rằng các em được lệnh mang theo cở đỏ trong cặp, nhưng thấy khí thế của cờ vàng, nên không “dám” phất cờ đỏ. Một nhà báo Việt Cộng đã phải yêu cầu một em giương lá cờ đỏ để chụp một vài tầm ảnh hòng đem về nước tuyên truyền.

Sự “hiệp thông” giữa giới trẻ Việt Nam trong nước và hải ngoại đã diễn ra vô cùng tốt đẹp, đầy cảm thông đúng như ý nghĩa của nó. Cao hơn nữa là sự hiệp thông với Thiên Chuá, khi Đức Giáo Hoàng Benedicto đã làm phép cho lá cờ Vàng và đón nhận một cách trân trọng từ tay một thanh niên Việt Nam. Ngài đã quàng chiếc khăn mang màu quốc kỳ Việt Nam đó vào mình như một sự thừa nhận mặc thị.

Từ biến cố vĩ đại “Đại Hội Thanh Niên Công Giáo Thế Giới”, chúng vui mừng khi thấy thế hệ thứ hai của người Việt tị nạn đã trưởng thành về mặt chính trị, có một ý thức và lập trường minh bạch về lòng ái quốc. Đồng thời chúng ta cũng đặt nhiều kỳ vọng vào giới trẻ trong nước rằng không phải vì sinh ra và lớn lên, bị giáo dục nhồi sọ bởi Cộng Sản mà họ không nhìn ra lẽ phải. Họ đã thực sự mở mắt khi ra hải ngoại, dù trong một thời gian ngắn ngủi. Họ đã thấy cung cách sống tự do, dân chủ, tấm lòng bao dung của người Việt hải ngoại. Đó sẽ là những hạt nhân để nẩy lên mầm tranh đấu cho dân chủ, tự do và nhân quyền, nối tiếp các nhà tranh đấu đang tích cực hoạt động trong nước. Sẽ không có một cường lực nào ngăn cản nỗi khi tập thể thanh niên cùng đứng dậy cho quyền sống của mình.

Điểm son trong Đại Hội Thanh Niên Công Giáo Thế Giới này, chúng tôi xin dành tặng cho Cộng Đồng Người Việt tại Úc Châu và tất cả các thanh niên Công Giáo Việt Nam. Chúng tôi cũng ghi nhận sự vận động ráo riết, những phản ứng rất lịch sự, nhưng không kém phần cứng rắn của những người Việt hải ngoại trước lời tuyên bố sai trái của Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Có lẽ do thế, mà ông đã tránh mặt, không đến tham dự Đại Hội Trẻ tại Sydney. Hy vọng từ đây, ông sẽ chiêm nghiệm lại các thái độ và quan điểm của mình để cùng đứng về phiá các tu sĩ và giáo dân đang bị nhà cầm quyền Cộng sản bức hại.

Đây là một bài học đích đáng cho những kẻ manh nha phản bội lý tưởng quốc gia của mình, những kẻ ăn cháo đái bát đối với nền văn minh dân chủ tự do mà họ từng được hưởng, để quay mặt chạy về ve vuốt Cộng Sản chỉ vì chút hư danh hay lợi lộc.

Đỗ Văn Phúc

Sunday, July 27, 2008

Tin mới nhất về Linh mục Tadeo Nguyễn Văn Lý

Phóng viên FNA tường trình từ Huế

Hôm 09-07-2008 mới rồi, anh Nguyễn Công Hoàng, cháu gọi linh mục Nguyễn Văn Lý bằng chú ruột, đã từ Quảng Biên, Đồng Nai, đem vợ và 3 con nhỏ đi thăm vị tù nhân lương đang bị giam tại trại tù Ba Sao, Nam Hà, tỉnh Hà Nam.

Họ ra đến thị xã Phủ Lý lúc 5g30 sáng ngày thứ tư (09-7-2008). Xuống xe tốc hành, họ thuê xe taxi lên trại và tới cổng lúc 6g30'. Khi cậu công an bảo vệ đang ghi danh sách khách thăm nuôi thì chiếc taxi chở họ đã vội quay trở ra. Cậu công an hỏi số xe, anh Hoàng trả lời: "Tôi đâu có biết, tôi kêu thì họ chạy chứ ai để ý số xe làm chi!"

Sau đó họ được cho xách hành lý vào nhà khách chờ. Đi lui tới trong sân nhà khách khá lâu. Lúc này chưa có ai lên thăm nuôi cả. Khoảng 7g15’ có một viên công an ra, đưa tờ giấy "kê khai quà gởi thăm nuôi phạm nhân". Lúc 7g30', người thường xuyên dẫn linh mục Lý ra vào thăm gặp thân nhân từ trước đến nay, kể cả đợt tù 2001-2005 là trung tá Nam xuất hiện và mời tất cả 5 người vào trong khu thăm gặp đặc biệt, y như mọi lần. Ngồi chờ đến 7g45' thì thấy cha Lý đi ra cùng ông Nam.

Các cháu vội chạy tới ôm chầm lấy "Ông Lý" và tất cả cùng nhau vào phòng thăm gặp. Vẫn bộ đồ trắng sọc đen như các lần trước. Cha mở đầu bằng nụ cười rạng rỡ như thủa nào và lên tiếng: "Chúng cháu tưởng ông ở đây buồn lắm sao? Không! Ông không buồn vì có Chúa Kitô Phục sinh ở với ông. Có Chúa ở với mình thì làm sao mà buồn được!"

Cha bắt đầu giải thích cách ung dung cho 3 cháu nhỏ hiểu lý do tại sao cha bị giam ở đây và phải mang bộ đồ này: "Họ bắt giam ông vì ông chống lại luật pháp ở VN. Luật pháp ở VN đi ngược lại Công ước quốc tế, với bản Hiến chương LHQ mà VN đã gia nhập và ký công nhận; và ông đấu tranh cho luật pháp ở VN phải phù hợp với Công ước quốc tế. Họ nói ông làm thế là "có tội", vì vậy họ bắt ông …."

Sau đó, quay sang chuyện học hành của các cháu, cha Lý nói: "Cháu chắt nhà mình không thể tiến xa được, vì chương trình học nặng về "đạo đức cách mạng", mà mình thì có hiểu và sống theo thứ đạo đức đó được đâu mà thăng với tiến!!! Thời gian này, ông có xem các chương trình truyền hình "đố vui để học" của nhà nước thì thấy trong các chương trình đó, các câu hỏi về xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng chiếm gần một nửa rồi! Thật là vô bổ!" Rồi như để giải độc cho mấy cháu yêu, cha Lý trình bày vắn tắt cho chúng nghe về lịch sử đạo Công giáo tại VN, với thời gian bị bắt đạo lúc sơ khai, các chứng nhân đã dùng mạng sống mình để làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh như thế nào. Tay cán bộ Nam chỉ biết trơ mắt nhìn, chẳng dám phản ứng gì cả!

Sau đó anh Hoàng đưa vài thông tin về bà con ruột thịt, thông tin về hiện tượng tại linh đài La Vang, Quảng Trị hôm 13-6-2008, lúc phái đoàn Tòa thánh đang dâng lễ (hiện tượng mặt trời chói chan bỗng dưng dịu lại và có vầng sáng bao quanh, x. xem bản tin trên nhiều trang mạng), về chuyện tranh đấu của giáo xứ Sáo Cát đã thành công (lấy lại được ngôi trường), về thông điệp của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô 16 gởi cho Giáo hội, nói đến Niềm hy vọng cứu rỗi, trong đó ĐGH đã nêu tấm gương của Thánh Tử đạo Lê Bảo Tịnh và cố Hồng y Nguyễn văn Thuận (bức thông điệp nêu 5 vị gương mẫu, trong đó Việt Nam đã chiếm 2), về hồ sơ phong chân phước cho cố Hồng y Thuận. Anh còn nói tiếp chuyện các cộng đoàn Công giáo ở Đức xin cha Lý dâng lễ cầu nguyện cho họ, chuyện vị nguyên chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức đang vận động cho cha được giải Nobel Hòa bình năm nay cũng như chuyện nhiều tổ chức nhân quyền đang vận động cho cha các giải khác. Anh cũng chuyển lời thăm hỏi của 2 vị Giám mục Giáo phận Huế, của vô số bạn bè thân hữu trong và ngoài nước đến cho cha.

Đáp lại, linh mục Lý hỏi thăm về anh Nguyễn Phong, anh Nguyễn Bình Thành, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhân và nhiều thân hữu khác. Nghe biết luật sư LTCN không chịu đi Mỹ, cha nói: "Như vậy là tốt, đấu tranh muốn hiệu quả phải ở ngay trong lòng chế độ! Ngoài ra, cho đi như thế là trục xuất chứ có phải là trả tự do đâu!".

Đoạn cha nhắn nhủ gia đình và các cháu hãy chịu khó đi thăm cha thêm 6-7 năm nữa rồi cha về chứ cha không đi đâu hết (Bộ công an cách đây vài tháng có đến đề nghị trả tự do cho Linh mục nếu Linh mục chịu ra nước ngoài). Cha kính gởi lời cám ơn tất cả bà con bạn hữu xa gần, kính chuyển lời xin Đức Tổng giám mục Huế tiếp tục cầu nguyện nhiều cho cha, cha chỉ thiếu một điều là lời cầu nguyện của tất cả. Còn về các giải thưởng, linh mục Lý xin cám ơn những ai đã quan tâm ủng hộ vận động và trao tặng cho cha, chứ cha "cảm thấy không xứng, một ao ước đời mình chỉ như giọt sương mong manh cho ngọn cỏ tươi mát, chỉ như tấm giẻ rách chùi sạch đồ dùng và chỉ như cái chổi cùn quét dọn rác rưởi trong căn nhà mà thôi".

Hiện nay, nhìn bề ngoài thì thấy linh mục Lý mập mạp, nhưng sắc da lại không hồng như các lần trước mà có phần đen đen! Linh mục ăn chay mỗi tuần vào ngày thứ 6, và các ngày mồng 1, 8, 15 hằng tháng để cầu nguyện cho nhân quyền, cho dân chủ, cho tự do, cho Giáo hội cũng như Quê hương VN. Tuy nhiên cha cho biết mình không thể tuyệt thực được 2 ngày vì vào ngày thứ 2 là vùng phổi sẽ nóng ran lên chịu không được.

Khi đang nói chuyện, thì ông Nam đưa tờ giấy kê khai nhận quà ra, linh mục Lý gạch bỏ dòng chữ "phạm nhân" và viết lại “tù nhân lương tâm” rồi ghi họ tên và ký vào đó. Cha khẳng định:

"Chú đã tuyên bố với trại: nếu có phái đoàn ngoại quốc nào vào thăm thì chú chỉ ra thăm gặp với điều kiện không mang áo tù và vào phòng không treo hình ảnh ông HCM, vì ông này có nhiều vấn đề phải làm sáng tỏ! Bằng không thì chú chẳng gặp. Vì trước đây chú đã trại lừa 1 lần rồi. Và đến nay chú cũng không ký nhận tội gì hết!!!".

Hơn 60 phút trò chuyện, ông Nam bắt đầu nhắc hết giờ thăm nuôi, nhưng linh mục Lý vẫn bình thản ngồi tiếp tục tâm sự. Phải thêm 2 lần nhắc nữa, cha mới đồng ý đứng lên từ giã gia đình đứa cháu ruột. Thời gian nói chuyện tổng cộng kéo dài gần 90 phút! Lần này thì chỉ có 1 mình ông Nam ngồi ghi chép ở bàn bên cạnh chứ không có cán bộ trại giam kè kè sát bên vị tù nhân lương tâm như các lần trước.

Trở ra cổng để về, các cháu nhỏ nói với anh Hoàng: "Ông công an đó cũng sợ Ông Lý của mình nữa ba ạ!" Cả gia đình ra xa khỏi cổng mới gọi xe taxi (vì không muốn cho công an ghi số xe) rồi vừa đi tản bộ vừa chờ xe lên đón. Họ đi bộ khoảng 2 km, xe mới lên đón về Phủ Lý. Ngay trưa hôm đó, họ mua vé về lại nhà ở Quảng Biên, Đồng Nai.

27-07-2008

Phóng viên FNA tường trình từ Huế


Dứt khoát không làm tôi hai chủ

Mai Ly

Cho đến giữa tháng 7/2008, từ trong nước, chúng em được trang bị hành trang tinh thần để đi Đại Hội Thanh Niên Thế Giới tại Sydney dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên đối với từng khía cạnh, chỉ qua vài ngày của Đại Hội, đầy thân ái, đầy thánh thiện, đầy tình người, chúng em đã nhận ra được môt điều là: Chúng em đã lớn thêm lên rất nhiều, và đã quyết tâm: dứt khoát không làm tôi hai chủ.

1- Ở trong nước, chúng em sống trong tâm trạng "thông cảm" cho Việt kiều hải ngoại, tội nghiệp họ, bởi vì họ mất mát nhiều quá khi họ bỏ nước ra đi, mất từ vật chất đến tính mạng, nên họ "cay cú" với nhà nước Việt Nam một cách quá đáng. Hơn nữa, vì ngày xưa nhiều người từng sống thoải mái tại Việt Nam, có nhiều người đã từng quyền cao chức trọng, nên bây giờ họ hoài vọng và luôn tiếc nuối quá khứ huy hoàng.

Thực tế, chúng em thấy các cô các chú và các bạn trẻ Việt Nam mà chúng em gặp trong Đại Hội "cay cú" với nhà nước Việt Nam không phải vì họ hoài vọng, không phải vì họ tiếc nuối quá khứ.

Ngược lại, rõ ràng họ chống nhà nước Việt Nam là vì cái nhà nước này, ngay trong HIỆN TẠI đang làm cho dân chúng điêu linh, điều mà ít chúng em nhận ra được, bởi vì chúng em thấy Việt Nam mình tiến bộ và ngày càng được thế giới công nhận. Bố mẹ chúng em nói răng cách đây 20, 30 năm, Việt Nam chưa có vi tính, chưa có siêu thị, chỉ có vài cái nhỏ ở Sàigòn, nhưng nay thì nhan nhản.

Ra ngoài này chúng em mới thấy những cái tiến bộ đó chẳng thấm vào đâu. Lẽ ra nếu có một nhà nước dân chủ, hễ tham nhũng và làm mất lòng dân, thì bị xuống ngay do lá phiếu bầu cử, thì nước mình còn tiến bộ biết bao nhiêu nữa. Những kiểu "tiến bộ" như kỳ Thi Hoa Hậu Hoàn Vũ hay Lễ Phật Đản Quốc Tế tại Việt Nam, lộng lẫy huy hoàng, thực chất chỉ là ... lòe và đánh lừa thiên hạ.

Người mình cần cù, thông minh, thương yêu đùm bọc nhau - như chúng em đã cảm nhận quá rõ trong vài tuần được ở Úc tham dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới – thì lẽ ra, trong hơn 30 năm vừa qua, nước mình phải khá hơn nhiều. Có đâu mà, vì quá nghèo mà các bạn nữ - ở tuổi chúng em - phải đành đi bán thân ra nước ngoài mặc dù biết cuộc đổi chác đó chỉ mang lại vài trăm đô la cho gia đình mà thôi. Có đâu mà, vì cùng đường mà các bạn nam và cả các bạn nữ cùng tuổi chúng em và các chị phải đem bán sức lao động ra nước ngoài, đành để cho bị bóc lột, tủi hổ, bởi vì dù sao như vậy còn hơn là đói muôn đời ở trong nước, mãi mãi không có lối thoát.

Chúng em hiểu được rằng nguyên nhân của những bế tắc trong cuộc sống của bao nhiêu thanh niên hiện nay là do một đảng phái nắm trọn quyền sinh sát.

Chỉ vài tuần tiếp xúc với thế giới tự do, chúng em đã hiểu được biết bao nhiêu sự thật mà bấy lâu nay chúng em không ngờ. Chúng em đã lớn thêm lên rất nhiều.

Cái hiện tại làm cho người Việt hải ngoại "cay cú" còn là sự mất mát vùng đất, vùng biển vào tay đàn anh Trung Quốc. Đó là những thớ thịt của Mẹ Việt Nam bị cắt xén. Thành thật mà nói, ở trong nước, chúng em không để ý chuyện này lắm, bởi vì chuyện đó nằm quá xa tầm tay với của bọn em. Bọn em như những con cá nằm trên thớt.

Các cô chú và các bạn trẻ hải ngoại mà chúng em gặp, không những không tiếc nuối những xa hoa của quá khứ như chúng em hằng tưởng và hằng bị làm cho hiểu, mà họ còn hướng về tương lai, cố làm sao cho tuổi trẻ chúng em được hưởng những quyền lợi như các bạn trẻ ở nước ngoài: được hưởng sự công bằng trong công ăn việc làm, được tự do đi lại, tự do phát biểu, tự do thực hiện những điều tốt lành mà không bị theo dõi, không bi đi tù. Và người Việt hải ngoại còn lo bảo vệ giang sơn gấm vóc của tổ tiên.

2- Ở trong nước chúng em được dạy rằng: ngoài hải ngoại chỉ có một thiểu số "quá khích" luôn khư khư muốn vực lại cờ vàng. Vì vậy khi đi qua Úc, chúng em được dặn là chúng em sẽ phải cho họ biết là trong nước bây giờ tiến bộ nhiều lắm so với hồi họ bỏ nước ra đi nên họ đừng phí sức dựng lại cờ vàng. Nước Việt Nam Cộng Hòa cũng đâu còn nữa đâu, và vì thế lá cờ của nước đó cũng đâu còn được công nhận đâu mà giữ nó làm gì.

Chỉ vài tuần hít thở không khí tự do, chúng em hiểu tại sao người hải ngoại lại muốn vực lại cờ vàng. Lý do giản dị là vì chỉ có cờ vàng mới giải thoát chúng em khỏi những bất công hiện nay. Cờ vàng sẽ đem lại dân chủ, tự do, công bằng, nhân ái. Chúng em khâm phục các cô chú và các bạn trẻ hải ngoại, tại Úc và từ các nơi trên thế giới đổ về Sydney. Tại sao các cô chú và các bạn có thừa cơ hội để hưởng thụ mà sao lại còn bỏ bao nhiêu công sức để ngày đêm canh cánh tìm cách đem lại tự do công bằng cho Việt Nam? Chúng em cảm động lắm, và càng mừng hơn nữa khi thấy cả rừng cờ vàng vào ngày Lễ Bế Mạc Đại Hội. Rõ ràng chẳng phải là "thiểu số quá khích" như chúng em thường được dạy bảo trong nước, mà là đa số người hải ngoại đều có lòng với người dân Việt Nam và chỉ muốn chấm dứt đau khổ trên quê hương. Và cách chấm dứt đau khổ trên quê hương một cách dứt khoát, không lằng nhằng, là đưa cờ vàng trở lại, trên toàn cõi Việt Nam. Chúng em khốn khổ quá rồi! Người dân Việt Nam thiệt thòi quá rồi!

Từ trong đáy lòng, chúng em chỉ mong làm sao sớm có ngày rừng cờ vàng đó sẽ bay trên giải đất quê hương.

Mà muốn vậy, thì không thể làm tôi hai chủ, chúng em đã dứt khoát.

Không thể nào mập mờ rằng nhà nước tại Việt Nam cũng tốt đấy chứ, hay cũng đã có tiến bộ đấy chứ v.v... Phải rõ ràng trắng đen là phải dẹp CSVN thì nước mình mới khá được.

Là người còn ở trong nước, với một tình thần dứt khoát như vậy, chúng em sẽ có những hành động thích hợp. Khởi đầu là qua những trò chuyện, giao tiếp hằng ngày, sẽ thay đổi lối suy nghĩ của bạn bè. Từ việc tưởng rằng chỉ có một thiểu số người hải ngoại "quá khích" mới "om sòm" bảo vệ cờ vàng, qua chúng em, các bạn chúng em ở trong nước sẽ phải hiểu rằng đa số người Việt hải ngoại đang thực hiện việc đem cờ vàng về quê hương, và chỉ có thế mới chấm dứt tận gốc mọi bất công và mất mát, đau đớn của người dân Việt.

Tư tưởng chuyển đổi sẽ mang đến hành động. Hành động thế nào thì Đức Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng em. Chủ đề của Đại Hội Thanh Niên Thế Giới 2008 là: Hãy lãnh nhận sức mạnh từ Đức Chúa Thánh Thần và hãy trở thành chứng nhân cho Ngài.

Vâng, chúng em sẽ là những chứng nhân, tùy theo hoàn cảnh, để đem lại sự thật, sự an vui, công bình, nhân ái cho người Việt Nam.

Mà nếu chúng em, ở trong nước, mà dứt khoát không làm tôi hai chủ, thì chúng em cũng mong rằng tại hải ngoại đừng ai làm điều gì, cho dù là nhỏ, mà có lợi cho việc duy trì cái đảng cộng sản gian manh đang tiêu hủy đất nước, đang tiêu hủy tương lai chúng em.

Chỉ có một chủ là cờ vàng, tự do, công bằng, chính nghĩa.

Hoàn toàn không có chỗ đứng cho cờ đỏ.

Chẳng gì trong Thánh Kinh cũng từng dạy rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ" (Mathêu 6:24)

Có vậy, các bạn trẻ Việt Nam mới được hiên ngang sánh vai cùng các bạn trẻ các nước, vui tươi, reo hò, thoải mái, một điều mà chúng em thèm thuồng khi tham dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới năm nay, khi đứng cạnh các bạn trẻ của các quốc gia khác.

Mai Ly
Sydney 27/7/2008

(dựa theo tâm tình của các bạn trẻ từ Việt Nam đến tham dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới tại Sydney 15-20/7/2008)