Saturday, April 19, 2008

Adieu Phạm Duy

Suốt Một Đời Không Thèm Khát
Suốt Một Đời Không Vô Liêm Sỉ
Suốt Một Đời Không Vô Lễ Giáo
Và Suốt Suốt Một Đời Không Hèn
Phạm Duy

Tôi viết về Phạm Duy lần đầu tiên năm 1987, tức là cách đây gần hai mươi năm. Tháng 8 năm đó, một nhóm người đòi bỏ bài Quốc Ca Việt Nam “Này Công Dân Ơi”, để thay vào đó bài “Việt Nam Việt Nam” của Phạm Duy. Nhóm người gồm các ông Thái Chính Châu, Nông Anh Ngọc, Vũ Trung Hiền, Bùi Duy Tâm, Phan Quang Đán,v,v...

Cuộc họp “lịch sử” diễn ra tại nhà BS Bùi Duy Tâm ở Cali. Đêm đó, họ đồng ca bài quốc ca Này Công Dân Ơi lần cuối, để vĩnh biệt ngày xưa ... Rồi họ đồng ca bài quốc ca mới, tức bài Việt Nam Việt Nam để ăn mừng kỷ nguyên mới. Duyên Anh lúc đó đang say khướt trên lầu, thì được dưới nhà gọi lên:

- “Duyên Anh ơi xuống đây chứng kiến giờ lịch sử.”

Duyên Anh ngất ngư lò mò từ trên gác xuống, hát cà lăm:

- “Cái nhà là nhà của ta, ông cố ông cha lập ra. Moa đíu chơi với các cậu. Moa đi ngủ tiếp đây”.

Hai hôm sau, Duyên Anh gọi cho tôi, kể cho tôi nghe, rồi cà lăm:

- “Ông ơi, ông đánh bỏ mẹ chúng nó đi. Chỉ có ông mới đánh được chúng nó thôi”.

Và tôi đã lên tiếng để “đánh chúng nó”... Bài lên tiếng của tôi gồm 5 điểm. Riêng điểm 5 dành cho Phạm Duy, như sau:

“Bài Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy đã được nhóm người đưa ra cùng một lúc với vấn đề thay đổi quốc ca. Riêng Phạm Duy cũng đã có lần chỉ trích nhạc của bài Quốc Ca. Trong vụ đòi thay đổi quốc ca, ông im lặng. Dư luận không khỏi nghĩ rằng ông là một trong những kẻ đứng đàng sau.

Phạm Duy là một tài họa. Điều đó không ai chối cãi. Cũng không ai chối cãi việc Phạm Duy bỏ bưng về tề cuối thập niên 1940 là một điều hay cho Người Quốc Gia. CSVN đã mất một thiên tài, người Quốc Gia có thêm một tài hoa, kho tàng nghệ thuật của người Quốc Gia có thêm những bài ca giá trị. Tôi vẫn nghĩ: Người Quốc Gia nên biết ơn Phạm Duy. Ngược lại, Phạm Duy cũng phải biết ơn Người Quốc Gia; ơn này mênh mang như biển cả. Bởi vì nhờ môi sinh nhân bản của vùng quốc gia, Phạm Duy mới có điều kiện phát huy tài năng. Văn Cao, tài nghệ đáng bậc đàn anh, nhưng vì phải sống dưới chế độ súc vật cờ đỏ sao vàng, nên đành phải để tài hoa chết yểu, chưa kể phải sống như con vật, thèm từ củ khoai cọng sắn. Đó cũng là trường hợp của nhiều văn nghệ sĩ dưới chế độ cộng sản. Phạm Duy có phước hơn. Một phần tư sống trong vùng đất quốc gia, Phạm Duy đã tạo được sự nghiệp và tên tuổi trong lãnh vực sáng tác ca nhạc. Người Quốc Gia hãnh diện vì có ông và đã đối xử với ông thật tận tình. Ra đến hải ngoại, người Quốc Gia cũng vẫn một tấm lòng đó đối với ông. Nhạc của ông vẫn được tập thể tỵ nạn nâng niu, con người của ông vẫn được đồng bào quý mến. Các con của ông đã có chỗ dung thân, phần lớn là do tấm lòng của đồng bào đối với chính ông. Cho nên, nếu quả thật Phạm Duy đã tiếp tay cho việc đánh phá bài Quốc Ca VN (Tiếng Gọi Công Dân) để thay vào đó bài Việt Nam Việt Nam của ông, thì thật đáng buồn.

Riêng về bài Việt Nam Việt Nam, không ai phủ nhận giá trị nghệ thuật của nó. Nhưng đó cũng là giá trị độc nhất của nó. Nó chỉ có giá trị nghệ thuật, không có giá trị lịch sử. Nó không mang tinh huyết của cuộc chiến đấu ròng rã và đầy cam go của dân tộc VN chống lại bè lũ CS Hồ Chí Minh tay sai CS quốc tế. Nó không có được một giờ trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Đang khi đó, bài Quốc Ca “Này Công Dân Ơi” đã có ít nhất 40 năm trong dòng sinh mệnh ấỵ”.

Năm 1992, Phạm Duy cùng với Bùi Duy Tâm xuống Houston ra mắt đĩa nhạc thời trang. Buổi họp mặt hôm đó khá đông. Đây là lần đầu tiên tôi có dịp diện kiến người nghệ sĩ tài hoa. Gia chủ đọc tiểu sử Phạm Duy, rồi giơ tay về phía buồng trong, giới thiệu:

- “Đây Phạm Duy”.

Phạm Duy từ trong buồng bước ra, giơ hai tay chào, lớn tiếng tự giới thiệu:

- “Đây, Alain Đầy Lông”.

Cả phòng họp họp vỗ tay.

Sau buổi trình diễn của Phạm Duy, là những giây phút hàn huyên. Tôi được hân hạnh ngồi gần ông. Tôi hỏi:

- “Nghe nói bác đang làm đơn xin về Việt Nam?”.

Phạm Duy trả lời (nguyên văn):

- “Về làm gì. Những thằng như Hoàng Cầm, sẽ ngửa tay xin tiền. Mình cho nó một trăm đô, nó chê ít. Mà đâu chỉ có một thằng Hoàng Cầm, còn bao nhiêu thằng khác, như một lũ ăn mày. Chúng nó tưởng mình bên Mỹ hốt bạc. Về làm đéo gì. Còn chơi gái á, bên này thiếu gì.”

Tối hôm đó, chúng tôi đi ăn nhà hàng. Tôi lại được hân hạnh ngồi gần Phạm Duy, hân hạnh mà tôi không nỡ từ chối. Con người thật của Phạm Duy hiện lên trần truồng.

Năm 1993, tờ Far Eastern Economic đăng tin Phạm Duy làm đơn xin Việt Cộng cho về Hànội để sống những ngày cuối đời, nhưng đơn xin đã bị bác. Phạm Duy đã lên tiếng cải chính.

Hai năm sau, năm 1995, một tờ báo Việt ngữ (tờ Ép Phê) tại Paris loan tin cuộc gặp gỡ thân mật tại tòa đại sứ VC tại Paris ngày 7 tháng 1/1995 để thảo luận về đề tài:

- “Chúng ta cùng hồi hương giúp nước.”

Tờ báo đăng tấm ảnh chụp Phạm Duy đứng giữa, một bên là tên đại sứ VC Trịnh Ngọc Thái, và một bên là Trần Văn Khê. Tờ báo cũng đăng những lời bợ đỡ Việt Cộng của Phạm Duy...

Phạm Duy đã lên tiếng cải chính.

Năm 1997, trong một buổi họp mặt tại Cali, có thi sĩ Cao Tiêu, cựu khoa trưởng đại học Văn Khoa Sàigòn Nguyễn Khắc Hoạch, học giả Nguyễn Sĩ Tế, bác sĩ Trần Ngọc Ninh, giáo sư Lê Hữu Mục v,v... Phạm Duy đã tuyên bố bốn câu bất hủ, đựợc báo chí đăng tải.

Câu một: “Tôi có chống cộng bao giờ đâu, tôi chỉ chống gậy”.

Câu hai: “Ai ngu thì mới thích nhạc của tôi. Nhạc của tôi làm trong cầu tiêu mà”.

Câu ba: “Tôi phải về Việt Nam. Tôi cần có 8 Ái Vân để hát những bản nhạc mới của tôi. Ở đây chỉ có một Ái Vân, quả là không đủ.”

Câu bốn: “Tôi không đồng ý chống Hồ Chí Minh. Về Việt Nam, chỉ cần nhà nước trả cho tôi 10 ngàn đô la, tôi sẵn sàng ca tụng Hồ Chí Minh”.

Phạm Duy đã lên tiếng cải chính, chối không nói những câu vô liêm sỉ đó. Trong dịp sống chung với GS Mục tại nhà anh Nguyễn Trọng (cựu phóng viên của hãng Reurer) ở Oklahoma, tôi có hỏi GS Mục về vụ Phạm Duy GS Mục quả quyết Phạm Duy có nói những lời vô liêm sỉ.

Tôi tin giáo sư Mục.

Thứ nhất: những câu nói của Phạm Duy thuộc ngôn ngữ và khẩu khí đặc biệt mà chỉ Phạm Duy - một kẻ suốt đời không vô liêm sỉ, không vô lễ giáo và không thèm khát - mới có.

Thứ hai: giáo sư Mục đã kê khai tất cả những nhân chứng có mặt hôm đó, giáo sư Mục không thể nào bịa đặt tên tuổi của những nhân chứng.

“Ta Tiếc Cho Một Phạm Duy...”.

Đó là nhan đề một bài tôi viết năm 2002 để phê bình bài hát “ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo” của Phạm Duỵ Nhan đề của tôi bỏ lửng “ta tiếc cho một Phạm Duy” nhưng nhiều người đã tìm ra hai chữ “cùi hủi” cùng âm điệu với hai chữ thạch thảo.

Tôi viết bài đó, để thương hại cho một Phạm Duy cùi hủi. Có ba cái đáng thương hại.

Cái đáng thương hại thứ nhất:

- Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm, viết Hoàng Cầm Ca, để ca tụng Hoàng Cầm, một tên văn nô cùi hủi Việt Cộng. Chẳng những ca tụng Hoàng Cầm, Phạm Duy còn khen vợ cũ của Hoàng Cầm (Tuyết Khanh), và khen con gái của Hoàng Cầm (Kiều Loan).

Trong bài “Một Cảm Nhận Chệnh Choạng, Một Hiểu Biết Chệch Choạc”, Hoàng Cầm từ trong nước đã lên tiếng chửi Phạm Duy thậm tệ. Mà chửi đúng.

Cái đáng thương hại thứ hai:

- Phạm Duy lấy thơ của Apollinaire (bài Adieu), để làm lời ca cho bài “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”. Nhưng Phạm Duy đã hiểu sai thơ Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.

Cái đáng thương hại thứ ba:

- Sau quá nhiều tai tiếng, nhất là sau vụ “bốn câu bất hủ”, Phạm Duy đã phải nhờ một văn phòng luật sư tại Canada lên tiếng minh oan cho cái vô liêm sỉ của mình. Văn thư minh oan ấy đề ngày 28/9/1998.

Chúng ta hãy nghe:

- “Phạm Duy quan niệm và hành động như một người nghệ sĩ phóng khoáng trong lòng dân tộc và đứng trên mọi thể chế chính trị đối nghịch nhau”.

Và chúng ta hãy nghe:

- “Nhạc sĩ Phạm Duy (cho biết) chỉ về Việt Nam khi đất nước có dân chủ và nhân quyền được tôn trọng”.

Mùa thu năm 1978, tức là cách đây gần 30 năm, con thuyền tỵ nạn của gia đình nhạc sĩ Ngọc Chánh tới bến Mã Lai. Trên thuyền, có ba người con trai của Phạm Duy: Phạm Duy Minh 25 tuổi, Phạm Duy Hùng 23 tuổi, Phạm Duy Cường 21 tuổi.

Khi nghe tin các con đã cập bến Mã Lai và thoát nạn cộng sản, Phạm Duy đã sáng tác hai bài ca cho người tỵ nạn, và cho chính nghĩa tỵ nạn.

Tài liệu còn đó, Phạm Duy không thể chối cãi.

Bài ca thứ nhất:

Hát Cho Người Vượt Biển

Này đoàn người đang vượt biển Đông

Kiếp mong manh như áng mây hồng
Người gửi mình trong vùng đại dương
Treo mạng sống giữa hai sợi tóc
Người chập chờn giữa trời biển rộng
Đã bao nhiêu thành đám thây khô?

Này đoàn người đi tìm tự do
Cứu được người thật là khó.
Này loài người dưới mặt trời soi
Hãy giương to đôi mắt của người

Người và người tất cả ngược xuôi
Đi tìm lẽ sống trong trời đất
Người nào còn tin ở Trời Phật
Với đôi tay thành kính đưa ra

Mời đoàn người đi tìm tự do
Đến chia vui với người
Ôi niềm vui, ôi niềm vui
Của loài người biết thương nhau
Lậy Trời Phật cúi đầu mà coi

Bé thơ ngủ trong bão tơi bời
Lậy Trời Phật xin nhìn ngoài khơi
Ông bà lão nghiến răng cầm lái
Và con lậy xin Ngài Thần Biển

Đoái thương đôi trẻ mới xe duyên
Lậy loài người, tôi lậy tổ tiên
Hãy cho tôi thấy đất liền...”.

Bài ca thứ hai:

Hát Cho Quyền Làm Người

Loài người sinh ra như nhau cùng chung có quyền
Đây trước tiên là quyền sống có tự do

Nhưng sao hàng triệu nhân dân
Đương nhiên bị đoạt mất hết
Quyền ăn nói, tín ngưỡng, hay đi lại?
Từ ngày sinh ra chuyên môn đi cướp quyền

Trên thế gian bọn người khát máu thèm xương
Đi gieo hận thù đau thương
Ra tay độc tài áp bức đời sống dân lành
Thương cho quê hương nơi xưa sống thanh bình

Giờ thành trại giam, nhân dân bị tước nhân quyền
Gia tài tổ tiên, chúng nhóm lửa đốt hết
Trẻ già được liệt vào hàng của súc vật

Trên quê hương ta, ôi tan nát gia đình
Chẳng còn tổ quốc, chúng nó là lũ vô tình

Điên cuồng tự kiêu, chúng nó còn chém giết
Và còn đọa đầy một dân nước nghiệt oan
Loài nguời mau mau cùng xúm lại

Tranh đấu cho quyền người sống có tự do
Ta đang ở ngoài kêu to
Bên trong nổi dậy chiến đấu
ĐỂ GIẾT HẾT CỘNG NÔ
ĐỂ SẼ CÓ NHÂN QUYỀN

Như mọi nguời đã biết: tháng 4 năm nay (2005), sau bao nhiêu lần chạy chọt hèn hạ bợ đỡ, Phạm Duy đã đạt sở nguyện. Ông đã được Việt Cộng chấp thuận cho về nước sinh sống, để tiếp tục làm kẻ suốt đời không thèm khát, không vô liêm sỉ, không vô lễ giáo, không hèn hạ.

“ĐỂ GIẾT HẾT CỘNG NÔ”.
“ĐỂ SẼ CÓ NHÂN QUYỀN”.

Nguyễn Văn Chức (Houston 19 /5/2005)


Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Cùng Làm với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh...

Lý Thị Sông Tiên, 2008

Nhà sư cán bộ VC Thích Thanh Tứ.
Sau 1954, trên miền Bắc tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng đều bị nhuộm đỏ mà không chừa ngoại lệ nàọ Chiến lược đồng hoá Phật giáo với cộng sản đã được đảng Già Hồ dàn ra thế trận từ lâu để khi thời thế thuận lợi là bọn họ tiến hành. Cơ sở Phật giáo đều bị chiếm dụng, Trường Phật học bị đóng cửa, sư Tăng trẻ bị buộc trở về thế tục, các sư già bị khống chế, sinh hoạt tôn giáo như ngọn đèn tàn trước cơn gió bão.

Cơ sở Trung Ương Hội Phật giáo Việt nam Bắc Việt, chùa Quán Sứ bị chiếm đoạt, Hoà thượng Thích Tố Liên, Thích Trí Hải v.v... là những cây cột trụ rừng thiền miền Bắc, là lãnh đạo phong trào Phật giáo bấy giờ, đã bị nhà nước xã nghĩa đuổi khỏi chùa Quán Sứ, đưa về nguyên quán quản thúc, thay vào đó là những sư quốc doanh như Thích Trí Độ (thầy của Thích Trí Quang), Kim Cương Tử, Phạm Thế Long ...

Sau 30-04-1975 Phật giáo miền Nam cũng bị nhuộm đỏ: đánh triệt hạ theo mô hình pháp nạn xã nghĩa miền Bắc.

Đến 1992 Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống Giáo Hội Phật giáo Việt nam Thống Nhất (GHPGVNTN) chùa Linh Mụ, Huế viên tịch, nhà nước mở chiến lược mới: đánh phân hoá, một trong những chiến lược nầy là họ âm mưu áp đặt Huân chương Hồ Chí Minh lên Linh cửu Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống, việc nầy gặp phải phản ứng mạnh mẽ, hơn 40, 000 phật giáo đồ Thừa Thiên - Huế đã xuống đường biểu tình, sắp có vụ tự thiêu nỗ lại bị quốc tế nhân quyền lên tiếng can thiệp, nên nhà nước buộc lòng phải tạm dừng tay, chiến lược đánh phân hoá GHPGVNTN chưa thành, nhà nước bèn chuyển sang đánh đồng hoá.

Cũng chẳng cần là nghị quyết 36 hay 63 gì cả mà bấy giờ trong chiến lược đánh đồng hoá Phật giáo, nhà nước XHCN đã "mua" được Hoà thượng Thích Thanh Từ (Đà Lạt), Thích Minh Thành (chùa Ấn Quang, Sàigòn) cùng một số sư Tăng khác trong mô hình "nhà nước với nhà sư quốc doanh cùng làm". Theo đó, UBND tỉnh Lâm Đồng cho đất Hoà thượng Thích Thanh Từ xây dựng Thiền viện Trúc Lâm (Đà Lạt). Phía nhà nước thì mở kinh doanh du lịch qua loại hình cáp treo lấy Thiền viện Trúc Lâm làm điểm xuống du khách.

Hoà thượng Thanh Từ bôn ba Hải ngoại vận động tài chánh đỗ về xây dựng Thiền viện Trúc Lâm(Đà Lạt). Rốt cuộc, qua Thích Thanh Từ, tiền của bá tánh, tín đồ trong ngoài nước đỗ vào đó làm lợi cho nhà nước, mỗi ngày đường cáp treo Trúc Lâm, nhà nước thu vào vài trăm triệu đồng. Hoà thượng Thích Minh Thành (chùa Ấn Quang) đổ công sức, tiền của, vận động hải ngoại về xây dựng Đại tòng lâm Phật giáo Bà Rịa - Vũng Tàu cũng thế. Với những nhà sư ngây ngô chính trị nầy nhà nước chẳng cần nghị quyết 36 hay 63 gì cả mà họ cũng đồng hoá được Phật giáo rồi.

Hoà thượng Thích Trí Tịnh, Phó pháp chủ GHPG quốc doanh đỗ tiền vào xây dựng chùa Vạn Linh, núi Cấm, An Giang thì có khác hơn. Chùa Vạn Linh xây đựng nguy nga đồ sộ vào bậc nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long (Mêkong) do từ nguồn tiền 250 triệu dollars trong tài khoản của Thích Trí Tịnh ở ngân hàng nước ngoàị. Vị trí số 2 trong bản tên: Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sản có tài sản vài trăm triệu Mỹ kim cho thấy Thích Trí Tịnh thuộc loại Đại gia quốc tế cở con cá mập chứ chẳng vừa đâu.

Chủ Xã nghĩa dùng sư quốc doanh như con bài trang điểm cho chế độ hòng lừa đảo tín đồ, qua mắt quốc tế trong mục đích kéo dài thống trị dân tộc Việt. Cũng cần nói thêm, nhà nước xã nghĩa chưa bao giờ cho không một ai cái gì cả, kể cả với đảng viên Cộng Sản. Hoà thượng Thanh Từ, Hoà thượng Minh Thành ra Hải ngoại vận động tài chánh theo cách nào?

Cố Hoà thượng Thích Minh Thành (chùa Ấn Quang, Chợ Lớn) ra hải ngoại vận động tài chánh là do một Giám đốc công ty kinh doanh địa ốc Sài gòn trong "nhãn mác" Phật tử bao thầu trọn gói thủ tục xuất cảnh kể cả sang Hoa kỳ đến đâu, ăn đâu, nghĩ đâu đều có "người nhà" của Giám đốc cùng đi và giành phần độc quyền lo liệu chu đáo cả và dĩ nhiên cuộc hành trình Hoa kỳ của Hoà thượng Thích Minh Thành đều nằm trong tầm quan sát "rada định vị" của "Phật tử ngài giám đốc" mà không bỏ sót. Giám đốc kinh doanh địa ốc trong chiếc áo Phật tử kia là ai?.

Sau đại hội 6, TU đảng kêu gọi đổi mới, từ kinh tế 5 thành phần chuyển sang kinh tế tư nhân, rồi tiếp theo là đảng viên được quyền làm kinh tế. Sau đó, nhiều cán bộ quân đội từ cấp tá đã được biệt phái sang làm kinh tế trong vai giám đốc công ty, chuyên lo kinh tài cho đảng. Số giám đốc công ty Việt nam làm ăn hiện nay trên Campuchia hầu hết đều là đảng viên quân đội biệt phái trong vai trò kinh tài cho đảng; giám đốc công ty sai gòn địa ốc giúp Thích Minh Thanh như nói trên cũng thế, họ là đảng viên!! Một khi đảng viên Cộng Sản nhúng tay vào Thích Minh Thành, Thích Thanh Từ trong việc vận động tài chánh hải ngoại thì hệ quả việc làm đó là có lợi cho ai, cho Đảng mà thôi.

Việc Hoà thượng Thích Thanh Từ nhiều năm làm tôn giáo vận cho nhà nước cũng thế (dĩ nhiên là làm theo kiểu ăn chia 2 chiều). Việc Hoà thượng Minh Thành đổ công sức, tiền của vào xây dựng Đại Tòng Lâm, Bà Rịa - Vũng Tàu, đến gần xong, chỉ cần chính quyền đia phương đánh tiếng: Minh Thành không có hộ khẩu ở Vũng Tàu, là sư quốc doanh Thích Quảng Hiển, Trưởng Ban trị sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gỡ tay Minh Thành đoạt ngang Đại Tòng Lâm dễ dàng, đó là mô hình: "nhà nước với nhà sư quốc doanh chiếm chùa" đó mà. Minh Thành đau khổ, xuất huyết não mà chết!

Thích Từ Thông, Hiệu trưởng trường trung cấp Phật học thành Hồ cũng thế 1999, vừa xây cất xong Trường trung cấp Phật học Thủ Đức thì cũng bị Thích Trí Quảng, Trưởng ban Trị sự Thành hội PG đoạt ngang, Từ Thông hiện nay ôm hận tuổi xế chiều trong xó tối chờ ngày về với Mác Lê Hồ mà không biết có kiện cáo gì được nơi suối vàng hay không. Chỉ biết là ngay cái khối thịt 50 kg của Từ Thông cũng đã làm giấy cúng cho nhà nước để bán nội tạng sang trung Quốc sau khi chết.

Cả đời Từ Thông kể cả sau khi chết đều bị lừa thêm thảm, tội nghiệp quá là Từ Thông, cũng đường đường hiên ngang trên bục giảng, hào khí lừng khắp thiên hạ mà chỉ vì trót lầm trao gởi niềm tin cho cộng đảng mà ra nông nỗi thế, mọi người xin thắp cho Từ Thông ba nén nhang Ngu: một Ngu yêu lầm xã nghĩa; Hai Ngu sự nghiệp tiêu ma; ba Ngu danh vị vùi xuống đống phân trâu. (Việc Lê Mạnh Thát ra nước ngoài vận động kinh tài xây dựng đại học Khuông Việt, cũng cũng thế.

Những năm 1993 nhà nước nâng bi Thích Thanh Từ lên tận mây xanh trong mục đích dùng Thầy Thanh Từ Phân hoá tiềm lực Phật giáo. Nào là dàn dựng cho Thích Thanh Từ rao giảng Thiền Ngủ (Thiền Làng Mai là Thiền Nằm, Thiền Ôm) cho sinh viên đại học Hà Nội. Có điều là do thần thông thượng thừa gì đó mà Thầy giảng Thanh Từ chưa có mặt hiện trường mà người nghe giảng, từ sinh viên, ban giám hiệu nhà trường cho đến cán bộ ngành giáo dục tỉnh, huyện, thị thành đều "có vé mời" của Ban tôn giáo đến dự nghe nhà sư nói chuyện tôn giáo theo định hướng XHCN cả, thế mới là đỉnh cao trí tuệ chứ.

Thế nhưng Thầy Thanh Từ là loại Thiền ru ngủ dành cho dân dã bình dân, thế mà ông nhà nước lại cố nhào nặn, tâng bốc "một lốp xe xì lủn" thì có lăn xê cở nào đi nữa thì nó cũng chỉ hiện hữu không qua 1 canh giờ. Không phải là nhà nước xã nghĩa chọn nhầm diễn viên hay diễn giả đóng vai vụn mà là quá bí, không tìm đâu ra hoàng tử chánh tông nên đành mượn đứa ăn mày trang điểm lại đưa lên làm vua mà ra nông nỗi thế. Đỉnh cao sọ khỉ là thế đó.

Thật là quái dị không thể chịu được. Thích Trí Tịnh bao năm nay nằm mơ thấy mình lên ngôi Pháp chủ GHPG quốc doanh thế mà nào có được đâu, dù Pháp chủ Thích Đức Nhuận đã về chầu Lênin lâu rồi và ghế Pháp chủ GHPG quốc doanh nay lại vào tay Thích Phổ Tuệ, nông dân chưa hết mùa cày - gặt bỗng bị đưa lên Pháp Chủ. Quả là phi phàm hết chỗ nóị. Còn Trí Tịnh, giấc mộng Pháp chủ nay đành gởi áng mây trôi, thương quá! Mô Phật. Một khi sư quốc doanh "bắt tay với Xã nghĩa thì tay đã nhún chàm rồi thì phải biết thân phận, hệ qủa mình rồi sẽ ra sao thì một vài điển hình như trên thì cũng có thể tiên liệu được số phận "những con chiên ghẻ" PG quốc doanh còn lại cũng thế.

Nhà nước mượn Thích Thanh Từ làm con bài "nằm trong bóng tôi" chờ thời cơ lộ diện trong ván bài Tổng Giáo hội Phật giáo Việt nam. Nhưng thật xui xẻo cho nhà nước xã nghĩa, khi thời cơ sắp đến, Tổng Giáo hội Phật giáo Việt nam sắp ra đời thì bổng Thích Mãn Giác hải ngoại thổ huyết mà chết hoạnh tử cho nên con bài Tổng Giáo hội Phật giáo Việt nam đang sắp sanh ra bỗng chết ngay tức tưởi. Ván bài Tổng Giáo hội Phật giáo Việt nam của xã nghĩa 2007 phải thu quân trong lặng lẽ không trống kèn hay gióng chiêng khua mõ gì cả. Con bài Thanh Từ 1993 không xong, con bài Hạnh- Phượng làng Mai 2005 - 2007 cũng cháy, nay xã nghĩa quay sang con bài Thích Huyền Diệu, Ấn Độ, quả là ván cờ tàn: Trâu già cố bám bè mục qua sông.

Năm 1971 nhật báo thứ Gió Nam ra đời do Thượng Toạ Huyền Diệu làm chủ nhiệm, Thầy Huyền Diệu lấy báo nầy làm diễn đàn phản chiến chống Mỹ. Do có bài đăng tố cáo tội ác Mỹ Sơn, Mỹ Lai trước toà án Hoa Kỳ (ngày nay tội ác Mỹ Lai, Mỹ Sơn đã được truyền thông, báo chí hải ngoại vạch trần là do VC gây ra rồi phao tin cho lính Mỹ, việc nầy đã quá rõ rồi) trong phiên xử ngày 21-12-1969, Báo Gió Nam ủy quyền cho luật sư Paul Marting king đại diện quyền lợi nạn nhân trước toà. Do đó báo nầy bị đình bản, Thích Thiện Bảo, Báo chí Phật giáo, Hội nhập và phát triển nói về việc Thích Huyền Diệu chưa chính xác.

Hoà thượng Thích Huyền Diệu (Lâm Trung Quốc), sinh quan Trung phần Việt nam, Sư nội (vai trong đạo) Thầy Thích Huyền Diệu bôn ba vào Nam, đến vùng Thất sơn dừng chân dựng lều trại tụng kinh Mác -Mao- Hồ cộng, lấy chùa làm nơi nuôi chứa Việt cộng (nhiều cán bộ trong số nầy, hiện nay làm đến tỉnh uỷ). Do đó chùa bị bom bỏ cháy tiêu tan, Việt cộng thì núp vào chùa Búm! Bùm!... ba cái rồi chui rút như chuột xuống hang, còn chùa Phật thì bom đạn cháy tiêu hết, với Việt cộng đó cũng là điều tốt, bởi mượn chiến tranh tàn phá hết cơ sở tôn giáo, để trong vùng gọi là "giải phóng" họ khỏi bận lòng "xuống tay" chi cho mang tiếng.

Viện chủ 2 cơ sở Phật giáo xã nghĩa, một là Việt nam Phật quốc Tự, Bồ Đề Đạo Tràng, Bihar, Ấn Độ; hai là chùa Việt nam, Nepal. Võ Tiến, Người quét chùa kiêm chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới đã nâng bi Thầy Thích Huyền Diệu lên hành danh nhân thế giớị Liên đoàn Phật giáo thế giớị Tra cứu bách khoa toàn thư, mục tôn giáo mà nào thấy cái Hội nhà ma nầy đâu! Như có ai vặn hỏi, bí quá, Thầy Huyền Diệu lại giải quẻ Tử vi thế nầy: "Người ta tin tưởng bầu tôi làm chứ thực ra mệt lắm. Cái chức chỉ để làm việc, chết có mang theo mình đâu?". Ông tiết lộ, "chức danh" mình thích nhất là: người làm vườn kiêm quét chùa tại Việt Nam phật quốc tự ở Lumbini (Lâm Tỳ Ni), Nepal.

Thích Huyền Diệu xủ quẻ kiểu nầy, làm người đọc liên tưởng "người làm vườn" Thích Huyền Diệu cũng cùng trường lớp với Bố Láo Già Hồ chín râu không khác. Một Thích Huyền Diệu thì thích là người làm vườn còn một Hồ Chín Râu thì vo ống quần xuống ruộng cùng đứng (chỉ đứng thôi nhé.) với nông dân cho báo đảng quay phim rồi sau đó Bác được truyền thông xã nghĩa ca ngâm, hò, vè nghe thật mùi mẫn:

"Bác Hồ là bạn nhà nông,
Nhà nông thì cứ chổng mông ngoài đồng,
Phụ nữ phải giựt gào sống,
Còn Bác vất vả gõ mồng Nông Xuân.
Bác hôn các cháu nhi đồng,
Các chị Tầy, Nùng Bác cũng "khen ngoan"
Thị Vàng Bác cũng "chào hàng",
Chơi xong bác "xoá", chẳng màng vợ con."

Xem ra "người làm vườn" Thích Huyền Diệu học kinh điển "Người nhà nông" Hồ Chí Minh quả là tuyệt chiêu của hàng Bố Láo lãnh tụ có khác. Tháng 09-2006 Thầy Huyền Diệu đi Ba Lan rao giảng Phật Giáo xã nghĩạ Còn việc đi - về Việt nam - Ấn Độ thì đố đứa hải quan nào dám "soát vé" Sư Thầy Huyền Diệu đấy.

Từ chuyện Hồng Hạc Lâm Tỳ Ni đến voi kéo đất làm chùa Việt nam của Thầy Huyền Diệu.

Những ai hơn một lần trên đường hành hương xứ Phật Ấn Đô, hay Nepal mà ghé viếng chùa Việt Nam đều được nghe Thầy Thích Huyền Diệu kể chuyện Phong Thần diễn nghĩa về Voi kéo đất làm chùa Việt nam với chuyện chim Hồng Hạc. Một khi nghe qua thì ai nấy đều ngẩn ngơ mà chẳng mò ra đâu là bờ bến. Chuyện là vầy, chùa Việt nam, Lâm tỳ ni, Nepal, buổi đầu xây dựng, nơi đây là vùng đất trũng, hoang sơ, bị ngập nước sâu. Thầy Huyền Diệu phải ra sức san lấp mặt bằng tốn nhiều công sức, kế hoạch mới làm nên. Một trong những trí tuệ trong san lấp nền chùa là theo Thầy Huyền Diệu, dân làng đã tự động đem voi đến kéo đất và nói rằng Thần siva báo mộng bảo đến làm công quả chùa Việt nam thì được phước lớn, nên dân làng ùn ùn kéo đến làm công quả.

Sau nghe đứa làm công (người Ấn Độ) kể lạị Làm công quả chùa Việt nam được phước lắm, ai cũng có quà nhu yếu phẩm, tiền, .... đâu có thần Siva, Sivô gì đâu, chỉ có ông người Việt nam đến phát tiền thôi. Thật là Huyền Diệu đến xa sự thật 10 ngàn dậm, mô Phật.

Một dạo nọ, cùng vài người bạn đến viếng chùa, được Thầy lặn lội hướng dẫn ra tận cánh đồng không mông quạnh, cỏ nước um tùm, để xem Chim Hồng Hạc. Đến khi về, bạn bè hỏi lại: sao anh được Thầy Huyền Diệu dẫn đi xem Chim Hồng Hạc thế nào?. Tôi ú ớ chẳng biết trả lời sao, cuối cùng tôi nhớ câu chuyện Cống Quỳnh dựng chòi ngoài bãi cồn đánh phèn la rao bảng: "chuyện lạ bốn phương" lừa thiên hạ để giúp đám đưa đò được một phen lạm phát khách mà đỡ đói. Chuyện Hồng Hạc Lâm Tỳ Ni, Nepal của Thầy Huyền Diệu cũng như rứa thôi. Đến đây mà anh bạn tôi cũng chưa hiểu lại năn nỉ tôi, xin giải thích thêm. Thôi thì:

Hồng Hạc Népal, Lâm tỳ ni:
Khi chưa đến đó luống mơ màng,
Đã đến xem qua không gì khác,
Hồng Hạc Népal, Lâm tỳ nị

Việt Nam Quốc Tự, Bồ đề Đạo Tràng, Bihar, Ấn Độ, đây là công trình của Hội Dân Tây ở Pháp lập ra, Hội dân Tây nầy là ai?. Là nhóm Kiều bào Việt nam yêu nước tại Pháp. Nhóm nầy do Hoà thượng Thích Thiện Châu cùng với Sư nữ Mạn Đà La "đùm bọc nhau mà sống". Thầy Huyền Diệu cũng có phần trong nhóm Việt kiều yêu nước tại Pháp nầy. Công trình xây cất chùa có Ban điều hành quản lý, Thầy Huyền Diệu được cử làm Trưởng ban. Vài năm Hội Dân Tây bên Pháp cử người sang giám sát công trình xây dựng thì được biết tiền Dân Tây đỗ vào chùa thì chỉ có cất làm của riêng là chính còn chuyện xây là chuyện nhỏ! Cho nên chùa xây cất trên 15 năm mà chưa xong (gần đó, chùa Viên Giác của Thầy Thích Như Điển xây dựng không quá 3 năm đã xong). Giới hành hương hiểu biết thì cho Việt nam Phật quốc tự của Thầy Huyền Diệu là chùa Việt cộng (dành cho du khách ba lô) còn chùa Viên Giác của Hoà thượng Thích như Điển là chùa Quí tộc! và hạng khách sang thì mới ghé nghĩ khạch sạn Viên Giác được.
Việt Nam Quốc Tự ở Saigon.

Đến nay có không ít người chưa rõ thực hư về Việt nam Phật quốc tự, Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ và chùa Việt nam Nepal của Thầy Huyền Diệu bởi nhà nước xã nghĩa, Nhà văn hoá Thăng Long, Hà Nội nhún tay "rao hàng" tâng bốc qua nhiều loại hình lại thêm sự tiếp tay "khuyến mãi" của đám sư quốc doanh nữa, cho nên hư thực khó biết tận tường. thiên hạ kẻ bàn ra, người nói vào về việc nầy.

Nay xin phép trích lá thư:

Góp ý cùng Anh ngohaithanhha@gmail.com qua bài Nepal, Việt Nam và Thầy Huyền Diệu.

Bài viết của Anh, tôi xin được góp ý đôi điềụ để góp phần gọi là dệt gấm thêm hoa.

Trước hết muốn biết sản phẩm làm ra là thuộc loại nào, thì điều trước nhất là phải biết người làm ra nó là ai?. Nói rộng ra, muốn đánh giá Sản phẩm thì cần phải thẩm định cơ chế (cái khuôn) làm ra sản phẩm ấy. Ví dụ muốn trừ tham nhũng tận gốc thì phải thay đổi cơ chế gây nên tham nhũng thì mới có hiệu quả.

Ở đây, Thầy Thích Huyền Diệu liên hệ ớ Dân Tây, đi về Việt nam như nước thuỷ triều lên xuống mà không gặp phải ông hải quan nào "xoát vé" cả thì Thích Huyền Diệu là loài Đỏ hay Xanh thì quí thiên hạ cũng tự suy biết rồi.

Thích Huyền Diệu, cùng với Hoàng Nguyên Nhuận núp bóng Hoà thượng Thích Thiện Minh, Trung Tâm Tổng vụ Thanh niên, (trụ sở xưa đối diện chùa Vĩnh Nghiêm, Sài gòn) nay đã bị nhà nước lấy làm trụ sở VP 2 GHPG nhà nước. Thích Huyền Diệu, 1968-70 cầm đầu nhóm sinh viên phản chiến Mỹ, đốt xe Mỹ tại chợ Bến Thành, bị Ông Thiệu truy nã, bỏ chạy lưu vong sang Pháp. Vốn có máu việt cộng, Thích Huyền Diệu nhập cuộc với nhóm Việt kiều yêu nước Pháp (nhóm thân cộng, kiều vận XHCN); cùng thời đó còn có Thích Thiện Châu với sư nữ Mạn Đà La, chùa Trúc Lâm, Pháp; còn có Hạnh - Phượng (Nhất Hạnh - Cao Ngọc Phượng) làng Mai cũng là nhưng nhà sư việt cộng chánh tông, dòng Hồ Chí Minh.

Dòng đời đẩy đưa, rồi đưa đẩy, Thích Huyền Diệu sau một thời vẫy vùng trong thôn làng nước Pháp, có lúc cũng rong chơi hết mực đến mua sắm cả Du thuyền loại sang để rong chơi cùng phu nhân cho thoả chí bình sinh. Hết lên voi lại xuống chó mấy hồị Paris thành phố ánh sáng hoa lệ muôn màu, lắm vẻ, chốn thương trường cũng là chiến trường, dù là thương trường tôn giáọ Bấy giờ dòng Phật giáo của Ngài Thích Huyền Vi "sáng qúa", Thích Huyền Diệu chói cả mắt, nên thầy tự biết phận mà thu gon hết của cải, tiền nông vẫy tay chào Paris hoa lệ mà bay sang đất Phật India mong mở chi bộ Phật giáo XHCN trên vùng đất Phật, vốn có tìm năng thu hút Việt kiền thế giới trên đường chiêm bái thánh địa Phật tích. Đến Ấn Độ, Thích Huyền Diệu học đến lấy bằng PH.D rồi cùng với một nhà sư Miến Điện, cùng nắm tay nhau mà . ra đời để . rong chơi tiếp! cuộc chơi nào mà chẳng tàn! Thích Huyền Diệu lại trở vô chùa làm lại cuộc đời, tiếp tục vai trò làm ăn hai chiều với XHCN.

Được sự tiếp tay của nhà nước XHCN, cứ mỗi lần cán bộ cộng sản VN công tác, tham quan, du lịch Ấn Độ, ai nấy đều có "dừng chân Chùa Việt nam Quốc Tự , Bồ đề đạo tràng, Bihar, Ấn Độ, hỗ trợ chút tiền "công đức để gọi là "nhà nước với tôn giáo cùng làm". Trong vườn chùa Việt nam Phật Quốc tự, Bồ đề đạo tràng, Bihar, Ấn Độ, còn có bản ghi công đức của "Bộ trưởng ngoại giáo Nguyễn Duy Niên, đã cúng dường tiền lợp mái chùa. Dù được hỗ trợ từ 3 nguồn tiền: Việt kiều Pháp mà Thích Huyền Diệu gọi là nhóm Dân Tây; 2 là "quỉ đen" của nhà nước XHCN; 3 là của 4 phương tín thí khắp thế giới, thế mà ngôi chùa Chùa Việt nam Phật quốc tự xây dựng đến 15 năm mà chưa xong, hỏi ra mới biết Thầy Thích Huyền Diệu vận động tiền về Xây - Cất chùa nhưng chỉ có Cất vào túi riêng còn Xây thì cứ kéo dài hơn cả con sông Bến Hải càng tốt. Nói chung là chỉ có Cất là chính mà xây là chuyện nhỏ. Chùa Việt nam tại Nepal cũng là chi bộ của Thích Huyền Diệu Từ 2000 đến nay, Thích Huyền Diệu thường xuyên đi về VN, nếu như nhóm Hạnh - Phượng làng Mai là nhóm "kèn trống rùm ben" thì việc của Thích Huyền Diệu là thuộc nhóm "nhạc giao hưởng thính phòng", cứ lặng lẽ mà chiêu dụ những con nhạn lạc loài, ngây thơ, nhẹ dạ, cả tin VC thì không thoát khỏi mẻ lưới của Thích Huyền Diệụ Nay thấy Thích Huyền Diệu về VN giảng ở chùa Từ Tân, Sài Gòn như Ngô Hải Thanh nói, đó là một sô trong ngàn lẻ một sô vậy.

Dân Tây cũng có 1001 loại Dân tây, Dân Tây mà Thầy Thích Huyền Diệu nói đó, là Dân Tây nào Là dân Tây cộng sản Pháp đó thôị Nay Thích Huyền Diệu kêu gọi phong trào du lịch, hanh hương đất Phật cũng là cách "gỡ ngòi nỗ" cao trào Dân nước đang lầm than thống khổ mà Nhà nước ta đang rao loa đấy thôi. Cho nên muốn thẩm định sản phẩm, trước phải biết người làm ra sản phẩm là ai thì mới khỏi lầm VC. Xin dược bày tỏ đôi điềụ chuyện Con Bạch tuộc XHCN vươn vòi ra khắp trong và ngoài nước là phim dài nhiều tập, xin chờ xem tập tiếp theọ Có điều là XHCN muốn nói gì thì nói, Điều 4 hiến pháp mà không bỏ thì mọi loại hình nói và làm của XHCN chỉ là kéo dài sự thống trị 80, triệu đồng bào (trừ ra 3 triệu đảng viên) mà thôị Xin mọi người lưu tâm cho chỗ đó. . [hết trích].

Công đồng Phật giáo Việt nam hải ngoại của nhóm bát đại Huề thượng Thích Thắng Hoan, một biến tướng của Phật giáo Về Nguồn, của Tăng ni hải ngoại, của Thân hữu già Hồ. Nhóm nầy đang dốc tàn bình dầu tư vào Lễ Phật đản Liên Hiệp quốc 2008 tại Việt nam, một canh bạc lớn có tầm cỡ quốc sách do nhà nước xã nghĩa đầu tư công sức, tiền của mà Lê Mạnh Thát với Thích Tuệ Sĩ hợp đồng với GH quốc doanh ra sức cày cho xã nghĩa thu hoạch.

Thích Quảng Thanh, nhà sư đang chiếm bản doanh Tổng hội Phật giáo Việt nam trên thế giới của cố Huề thượng Thích Mãn Giác, nay mai sư Quảng Thanh sẽ bán cơ sở chùa Việt nam nầy cho Bát đại Huề thượng ra chiêu Tổng tấn công GHPGVNTN đợt 2 vào dịp Phật Đản Liên hiệp quốc 2008 tại Việt nam. Thích Bùi Ngọc Đường rồi Bạch Hoa Mai tốc hành bay về Việt nam, cùng với nhóm Thống soái Già Hồ Sĩ- Thát (Tuệ Sĩ - Lê Mạnh Thát) bàn mưu tính kế. Mới đây giáo gian Hạnh Mãn "cầm cờ chạy hiệu", náo loại Tu Viện Nguyên Thiều, vỡ thói lăng loàn của phường "hàng tôm, hàng mấm". Mụ ta vai diễn, lúc khóc lúc cười, lúc con con, lúc Bồ tát, lúc lạy quí Thầy, lúc tất cả quí Thầy là Ma quỉ hết. Mụ chẳng biết thân phận mình là ai mà lại bố láo trên Tu viện Nguyên Thiều, nơi trường Phật học, là nơi đào luyện Giảng sư, giáo sư Phật học mà mụ lại giảng đạo cho quí Thầy nơi đây, quả là "cùi không sợ lở" mà, biết đâu, giờ mụ giả dạng cùi quậy phá, náo loạn thiền môn tịnh địa rồi nay mai mụ hủi thật đấy, quả là Hạnh Mãn: hũ mắm tôm thúi mà. Long thiên bát bộ quỉ thần chứng giám, Thần Kim cang, thần dạ xoa, la sát những hành giả phát nguyện: "giữ gìn Phật pháp như giữ đôi tròng mắt mình" (kinh Pháp Hoa, Phẩm Đà la ni) thì nay xin quí Ngài hãy thi hành, Phật pháp oai linh, ứng hiện theo cách hành xử của giáo Gian hạnh Mãn; xin Bảo quốc kiếm hãy ra tay trừ gian khử ác cho lý nhân quả sáng tỏ trong niền tin mọi người.

Lý Thị Sông Tiên, 2008


Vụ Sát Nhân Làm "Nhức Nhối" Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu




Lập trường chính thức của Cộng Đồng NVTD Liên Bang Úc Châu về vụ án Ngô Cảnh Phương

VNTB Phỏng vấn BS Nguyễn Mạnh Tiến
Như toàn thể quý bạn đọc đã biết, tối hôm Thứ Hai 07-04-08 vừa qua, trong chương trình 4 Corners của đài truyền hình ABC đã cho trình chiếu suốt một giờ đồng hồ cuộc phỏng vấn hai ông Đinh Thái Duy và Đào Tựật trước đó có liên hệ đến vụ án cựu Nghị viên Ngô Cảnh Phương bị tuyên án chung thân với tội danh chủ mưu trong vụ cố Dân biểu John Newman của vùng Cabramatta bị ám sát

BS Nguyễn Mạnh Tiến trong cuộc phỏng vấn với VNTB

Ngoài ra, cũng trong chương trình này còn đưa ra một số bằng chứng (qua cuộc phỏng vấn những nhân vật liên hệ khác) và tất cả đều cùng có chung một quan điểm cho rằng trong vụ án này còn có nhiều gút mắc, nhiều uẩn khúc. Riêng ông Đào Tự Quang thì đã nói trong làn nước mắt ràn rụa: “Tôi biết chắc chắn rằng ông Ngô Cảnh Phương hoàn toàn bị oan

Sau khi chương trình này được trình chiếu, đã tạo ra những nguồn dư luận khá sôi nổi, không phải chỉ riêng ở Úc Châu mà còn lan rộng qua đến cả Cộng Đồng người Việt ở Hoa Kỳ! Thậm chí một số tờ báo lớn ở Việt Nam cũng đã loan tải vấn đề nàỵ

Hồi cuối tuần vừa qua, tòa soạn Văn Nghệ Tuần Báo đã gặp Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên bang Úc Châu để hỏi ông lập trường chính thức của Cộng Đồng về vấn đề nàỵ

Tưởng cũng cần phải nhắc sơ qua, Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến là một trong những vị Chủ Tịch Liên bang đã làm việc rất tích cực cho Cộng Đồng trong suốt mấy năm qua, với những thành quả sáng chói như vụ tranh đấu thành công buộc đài SBS phải ngưng trình chiếu chương trình đài VTV4 của Việt-Nam, hoàn tất Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng, một công trình mà qua bao đời chủ tịch trước đã bỏ thì giờ thực hiện nhưng vẫn bị dở dang, mạnh mẽ và rất quyết liệt trong việc chống Nghị quyết số 36 về vấn đề Văn Hoá Vận của CS Việt-Nam v.v…

Dưới đây là nội dung của cuộc phỏng vấn

* Chắc Bác sĩ cũng đã có theo dõi chương trình 4 Corners trình chiếu về vụ án Nghị viên Ngô Cảnh Phương

- Vâng, tôi có xem chương trình này rất đầy đủ.

* Nhận xét của Bác sĩ như thế nào?

- Rất hấp dẫn lý thú, có nhiều tình tiết mới lạ, tạo được sự quan tâm đặc biệt cho người xem. Qua những nhân vật mà họ phỏng vấn, đã đưa ra một số chi tiết, những điều mà mình chưa biết, nay mới được tiết lộ, mà thì mình mới biết.

* Với tư cách là Chủ tịch của CĐNVTD Liên bang Úc châu, quan điểm của Bác sĩ về vấn đề này như thế nào ?

- Phải nói ngay rằng đây là một đề tài hết sức nhạy cảm, nên sau khi vấn đề này được phóng viên của đài ABC đưa ra, Ban Chấp Hành của Cộng Đồng LB đã có ngay một cuộc hội ý chính thức và chúng tôi cùng có một quan điểm chung rằng mặc dù chúng ta là người Việt-Nam, hay nói một cách rõ hơn, chúng ta là đồng hương với ông Ngô Cảnh Phương, nhưng đừng quên rằng chúng ta hiện đang sinh sống trên nước Úc, và chúng ta là những công dân của Quốc gia Úc Đại Lợi.

Đã là một công dân, chúng ta bắt buộc phải có bổn phận tuân thủ luật pháp và tôn trọng hệ thống pháp lý của đất nước này, và hơn thế nữa, chúng ta phải tin tưởng vào nó một cách tuyệt đối, vì vậy những phán quyết của tòa án đưa ra nhất định chúng ta phải tin tưởng và tôn trọng. Còn nếu như vì một lý do nào đó mà nó có sự sai sót thì đương nhiên hệ thống tư pháp sẽ có cơ chế để xét lạị Đó là chuyện đương nhiên. Thí dụ như vụ tái xử bà Lindy Chamberlain bị kết án giết con (ở Bắc Úc) và bị tù oan hồi mười mấy năm trước chẳng hạn

* Mới đây, ông Bộ trưởng Tư Pháp của tiểu bang NSW cũng vừa lên tiếng cho biết bản án chung thân đối với nghị viên Ngô Cảnh Phương có thể sẽ được tái duyệt xét, nếu có sự yêu cầu và nếu có những chứng cớ mới.Cộng Đồng có ý định hậu thuẫn hoặc vận động gì cho vấn đề này không ?

- Như tôi đã nói ở trên, đây là chuyện của ngành mà hệ thống tư pháp Úc sẽ phải làm nếu họ thấy chuyện đó họ pải làm và chúng ta hãy chờ xem những diễn tiến mới, nếu có.

* Sở dĩ chúng tôi đặt câu hỏi trên là vì chúng tôi nghĩ ông Ngô Cảnh Phương là một người Việt-Nam, nên nay nếu vụ án của ông được đem ra xử lại mà nếu may mắn ông Phương được tha tội, Cộng Đồng cũng được “rửa mặt” được thơm lây, để khỏi bị mang tiếng. Bác sĩ nghĩ sao ?

- Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng, trước hết, chúng ta là những công dân Úc, nên những ai vi phạm đến luật pháp thì đương nhiên bị chế tài, không cần biết cái ông công dân kia là người Việt, người Iraq hay người Tây Ban Nha. Và một khi bản án đã được tòa phán quyết thì oan hay ưng chúng ta cũng phải chấp nhận. Đó là luật pháp của cả một Quốc Gia, không một cá nhân nào có quyền đưa ra phán quyết của mình để rồi bảo rằng đúng hay sai! Không phải vì người bị lãnh án là người Việt thì chúng ta phải nhảy vào can thiệp, bênh vực vì chúng ta phải tin tưởng vào hệ thống pháp lý của đất nước mà chúng ta đang cư ngụ, mà tôi nghĩ chắc chắn và dứt khoát rằng nhất định nó phải công minh. Và vì tin tưởng vào sự công minh đó, nên tôi lại càng vững tin rằng một khi họ cảm thấy có cái gì không ổn, tự nhiên họ sẽ tự sửa, tự điều chỉnh mà không cần phải có sự vận động của bất cứ ai.

Chúng ta có câu “một con sâu làm rầu nối canh”, quả thực vụ ông Phương cũng hơi làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu một chút, tuy nhiên tôi không cho rằng đây là một vết đen quá lớn đối với Cộng Đồng, vì trên phương diện tích cực, Cộng Đồng của chúng ta cũng có bao nhiêu là chuyện rất tốt đẹp khác đã đóng góp chung cho đất nước này.

* Thí dụ như có một tổ chức hay một cá nhân nào đó đứng ra lập một cái quỹ, ta hãy cứ tạm gọi là “quỹ pháp lý” để kiếm ngân khoản yểm trợ cho việc vận động mở lại vụ án Ngô Cảnh Phương thì ý của Bác sĩ như thế nào ?

- Chúng ta đang sống trong một quốc gia Tự Do Dân Chủ, nên chúng tôi hoàn toàn tôn trọng quyền tự do cá nhân của tất cả mọi người. Do đó, nếu có ai đứng ra làm việc này, chúng tôi không có ý kiến. Nhưng nếu phải nói thẳng thì có ai đó đến yêu cầu Cộng Đồng yểm trợ - dù chỉ là vấn đề tinh thần - thì với tư cách đại diện cho tổ chức CĐNVTD, chúng tôi cũng hoàn toàn không chấp nhận, không đồng ý không thể tham dự, vì những lý do thì như chúng tôi đã nêu rất rõ ở trên.

* Trên bình diện sinh hoạt cộng đồng trước đây, Bác sĩ nhận xét và đánh giá như thế nào vềững đóng góp của ông Ngô Cảnh Phương đối với Cộng Đồng?

- Thật ra, trong quá khứ, ông Ngô Cảnh Phương cũng có một vài sự đóng góp cho Cộng Đồng, nhưng chỉ là một vài sự đóng góp có giới hạn, chúng tôi không thấy gì đáng gọi là to lớn cho lắm. Tuy nhiên, Cộng Đồng vẫn ghi nhận những đóng góp giới hạn đó của ông Phương.

* Theo nhận xét cá nhân của Bác sĩ thì liệu vụ án này có hy vọng sẽ được đem ra tái duyệt xét?

- Như ông Bộ trưởng Tư Pháp NSW đã tuyên bố: Nó sẽ được tái duyệt xét nếu có sự yêu cầu, kèm với những chứng cứ mới cùng với những chứng cứ mà trước đây chưa được tòa xét đến. Tôi không hiểu những gì mà trong chương trình 4 Corners của đài ABC đưa ra có phải là những chứng cứ đủ để tòa tái duyệt xét lại bản án này hay không? chúng ta hãy chờ xem. Tuy nhiên, tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa rằng chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào nền công lý của đất nước nàỵ Do đó, nếu giả dụ như vụ án được tái duyệt xét mà ông Phương vẫn bị y án thì chúng ta cũng không vì vậy mà bất mãn. Còn nếu như ông Phương được tha bổng thì chúng ta hãy cùng nhau chúc phúc cho sự may mắn của ông ta.

* Ban biên tập Văn Nghệ Tuần Báo xin cám ơn Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt này.

Văn Nghệ Tuần Báo Úc châu


Tội Nghiệp Nhà Thơ Tuệ Sĩ

Chu Tất Tiến

Từ sau 1975, chúng ta đã thấy quá nhiều nhân vật, "trước sau không như một", trước thì chống Cộng, sau lại thân Cộng. Có người bỏ lập trường yêu nước mà chạy theo Cộng sản chỉ vì quyền lợi, hoặc vì một chút hư danh. Ông Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi là một thí dụ lớn. Đang làm Phó Chủ tịch Đảng Nhân Dân Hành Động, mà được thư mời của Cộng sản, lập tức về nước ngay, bị Cộng sản chơi "trác" nhốt giam, hỏi khẩu cung 3 ngày, rồi tống trở lại Hoa Kỳ.

Sau đó, để chữa thẹn, ông ta còn ngụy biện: Công an Cộng sản thiếu phối hợp, nên mới xảy ra sự việc đáng tiếc! Bây giờ, thì ông lại chống Cộng tiếp tục, mời Hoàng Minh Chính và bảo trợ cho một số các em sinh viên chống Cộng...

Phạm Đăng Long Cơ, vốn là Bác sĩ Quân Y, được Cộng sản mới, thì lập tức đi theo giặc, chống lại cộng đồng. Hiện nay, thấy không có mời mọc gì nữa, thì trở lại chuyên môn y sĩ. Lê Phước Sang, chống Cộng đến chiều, được móc nối, trở về mong được chút danh, nhưng không thấy chi, trở lại Mỹ. Viet Weekly gồm một nhóm toàn thanh niên chống Cộng dữ dằn, nay theo CS, kiếm chút cháo ...

Về vụ Tuệ Sỹ, tác phẩm của ông rất cao siêu, chống Cộng rất trí thức. Ông đã là một người Tù Lương Tâm, chấp nhận án Tử Hình, là một tấm gương can đảm cho đời sau ngưỡng mộ. Nhưng từ khi ông nhận một chức vụ lớn trong hàng ngũ Giáo Phẩm Phật Giáo, thì chúng ta cũng nên coi lại vấn đề. Nhất là lại đóng một vai trò then chốt trong Đại Hội Phật Giáo, một "chiêu" độc của CS, nhằm phô trương Tự Do Tôn Giáo ở Việt Nam…

Nếu là một người trí thức chống Cộng thứ thiệt, thì dù cho chức vụ cao đến trần nhà, làm Chủ Tịch Nước chăng nữa, cũng không bao giờ nhận. Vì khi nhận lời làm việc cho các tổ chức của họ, dù là tổ chức Tôn Giáo, để rồi đứng chung hàng ngũ, hội họp, thảo luận với các đồng chí quốc doanh, với những con người từng uống máu, sát hại dân lành, thì nhất định không chịu nổi…

Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, nói chuyện với những tên đồ tể – chưa buông dao xuống – ấy, người yêu nước sẽ thấy lợm giọng, buồn nôn, thấy máu mình xông lên mặt. Nếu không làm được gì, không gào lên, tố cáo tội ác, không "đục" cho chúng một quả, nhất định người công chính sẽ xỉu mất! Làm sao mà có thể hội họp, nói chuyện, thảo luận khi nghe thấy những chữ "đồng chí, đồng chuột" quanh đây? Làm sao mà có thể bình tâm được, khi nghe những tiếng cười man rợ, những tiếng cười thỏa mãn của bọn súc sinh? Làm sao mà chịu đựng được, khi nhớ tới hàng triệu dân lành đang khốn khổ, mà chính mình lại ngồi họp hành, ăn uống với lũ đồ tể đó? Làm sao mà cứ tỉnh bơ, làm như không thấy, không biết những tiếng kêu cứu của dân oan vang vang trong đường phố? Không thể nào "mũ ni che tai" với những tiếng kêu cứu của đồng bào, không thể nào tự đánh lừa mình là "ta chỉ làm việc phát triển đạo giáo mà thôi!" Những người tuyên bố: "Tôi bây giờ không nói chuyện Đời nữa, mà chỉ nói chuyện Đạo thôi!" là tự mình dối gạt mình, đánh lừa lương tâm của mình, trong khi đánh lừa cả Dân Tộc…

Nếu quý vị không tin, hãy về THAM DỰ MỘT BUỔI HỌP CỦA CÁN BỘ CỘNG SẢN, lắng nghe họ phát biểu, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và Nhà nước, qua việc xây dựng Tôn Giáo. Nếu ai có thể ngồi họp được một tiếng đồng hồ mà không phát điên, thì kẻ đó một là Điếc Tai, Mù Mắt, hai là "chấp nhận Cộng sản và tất cả những gì họ làm". Chấp nhận là bây giờ Đảng đổi mới rồi, không còn trấn áp tôn giáo nữa! Chấp nhận các tên đồ tể kia đã bỏ dao xuống rồi, thành Phật hết trơn! Chấp nhận có Tự Do Tín Ngưỡng, Tự Do Tư Tưởng, Chấp nhận những hình phạt đối với Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, những cuộc bắt bớ, tù đày các nhà phản kháng là Đúng và cần thiết để Xây dựng Đảng! Chấp nhận dân oan là một lũ ngu ngốc, xứng đáng bị trừng phạt! Chấp nhận việc Hòa Thượng Thích Quảng Độ đến thăm dân oan là vi hiến, là thách thức chế độ! Nói chung là chấp nhận Chế Độ độc tài, đảng trị này là Chân Chính, là hợp hiến, hợp pháp, vừa hợp với lòng dân Việt, hợp với Hiến Pháp Việt Nam, vừa hợp với Công pháp quốc tế.

Một khi chấp nhận như vậy, thì sẽ rất vui khi nghe thông báo:

"Đồng chí Trưởng Ban Chỉ Đạo Tư Tưởng Trung Ương đến thăm hội nghị! Đồng Chí Bí Thư Thành Ủy đến thăm hội nghị! Đồng chí Thủ Tướng Nước CHXHCN gửi lời thăm hỏi và chúc cho hội nghị thành công tốt đẹp! Đồng chí Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc có lời khen ngợi hội nghị!Xin báo cáo các đồng chí được rõ: Đồng chí Bí Thư Thành Ủy thành phố Hà Nội vừa gửi thư chúc mừng kết quả hội nghị đạt hiệu quả 100%. Tiếp theo đây là huấn từ của Thủ Tướng CHXHCN Việt Nam gửi đến hội nghị, chúc các đại biểu tham dự sức khỏe, tiếp tục tiến lên, phục vụ cho Tín Ngưỡng và Tôn Giáo, Tốt Đạo, Đẹp Đời! Đồng chí Chủ Tịch nước khen ngợi những công lao đóng góp của các đại biểu tham dự, Đặc biệt là khen ngợi tinh thần Vô Úy của cụ Tuệ Sỹ, đã bỏ qua mọi tị hiềm, để nắm tay xây dựng một Tôn Giáo làm mạnh trong hiến pháp ... "

Hãy tưởng tượng! Hãy tưởng tượng! Tuy là tưởng tượng, nhưng nhất định sẽ xảy ra giống như vậy, vì đó là bài bản muôn năm của Cộng sản.

Chưa kể là để chuẩn bị họp, phải nộp một bản chương trình, nội dung phát biểu, đóng góp cho Đại Hội. Phải ngồi soi mói từng chữ, từng lời, không dám động chạm đến tất cả những oan sai của các Phật tử, các Tăng, Ni bị trù dập. Mà chỉ dám viết những lời ca tụng chính sách Trước Sau Như Một của Đảng Cộng sản: Tự do Tôn Giáo, tự do Tín Ngưỡng? Viết không khéo một chữ, là có điện thoại gọi đến, đề nghị "cụ" sửa lại cho đúng tình hình...
Hãy tưởng tượng! Suốt ngày có khách đến thăm, suốt ngày có điện thoại reo, từ Bí Thư, Chủ Tịch . . gọi đến thăm hỏi. Mà thực chất là điều tra, theo dõi. Trước cửa, có vài em bán thuốc lá, sau chùa, một lô tình nguyện hốt rác, xa xa vài chú bé đánh giày... Tất cả là những Công An con, công an cháu... theo dõi từng li từng tí... Muốn đi ngủ, tắt đèn, cũng phải tính tóan. Không thể để đèn muộn bất thường. Ăn một miếng cơm cũng phải suy tính, coi chừng có người suy diễn linh tinh, thì bỏ mạng! Có lẽ chỉ trừ khi đi vào Toilet, mới không hồi họp, lo lắng!

Người công chính chịu nổi cảnh này hay không?
Người có lòng yêu nước, có thể chịu nổi cảnh này trong một ngày mà không "Đ.M."?

Cho nên, tuy không ở gần bên "nhà thơ" Tuệ Sỹ, không có bằng chứng gì là nhà thơ đã trở cờ, theo Cộng, tôi cũng có thể tưởng tượng ra trúng bốc! Với tưởng tượng của một người viết văn, làm thơ, tôi hiểu rõ hoàn cảnh của những người đang làm việc cho Cộng sản. Họ khốn khổ, khốn nạn vô cùng, mà không mở miệng được! Há miệng mắc quai!. "Đem thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?"

Tôi chỉ mong có một ngày làm việc như thế, nhưng với nội dung khác: Sửa đổi Hiến pháp, vất bỏ điều 4 đi, rồi làm sao? Tôi chấp nhận có những buổi gặp gở, thảo luận, thăm viếng như thế, nhưng để bàn về vấn đề Giải Thể đảng Cộng sản, trả lại Tự Do, Dân Chủ cho nhân dân. Lúc đó, thì tôi sẽ không "Đ.M." mà vui vẻ góp ý ...

Chu Tất Tiến

Những trò hề kệch cỡm

Lão Móc

Theo một nhân vật đã từng ở vai trò lãnh đạo Mặt Trận (trước đây) thì ông Hoàng Cơ Định (HCĐ), một nhân vật cao cấp trong Trung ương đảng Việt Tân là người chủ quan, kiêu căng và thiếu khả năng lãnh đạo. Ông Định giữ vai trò then chốt trong MT (trước kia) và đảng Việt Tân (hiện nay) chỉ vì ông là em của ông Hoàng Cơ Minh, núp trong bóng tối “làm mưa làm gió” đến nay phải lộ diện và mọi người đã thấy rõ khả năng thực sự của ông ta.

Nhận xét này rất chính xác khi đọc bài viết của ông ta có cái tựa đề: “Tôi đi dự lễ truy điệu cụ Hoàng Minh Chính” được đăng trên mục gọi là “Bình Luận” của tuần báo VTimes có ông “ký giả playboy” Lâm Văn Sang làm Tổng thư ký. (VTimes số 96, Thứ Sáu 11-4-2008).

Xin mời độc giả đọc trích đoạn sau đây để thấy cái “khả năng… bình luận” của ông “Tiến sĩ” HCĐ, cán bộ cao cấp của đảng VT:

“… Tôi hỏi ông Võ Tư Đản, là người vốn hay đi chung xe với tôi lên San Francisco biểu tình trước Lãnh sự quán Việt Cộng là “Tôi là kẻ thù với bác từ hồi nào mà sao đả đảo dữ thế?” Ông Đản trả lời: “Anh vào trong kia truy điệu tên VC Hoàng Minh Chính thì là kẻ thù của tụi tui, trước kia là bạn, bây giờ là thù rồi.” Tôi lấy làm lạ, sao từ bạn thành thù lại có thể dễ dàng như trở bàn tay. vậy! Tôi quay sang hỏi ông Võ Văn Sĩ là người khi mới gặp nhau lần trước còn cùng uống chung ly rượu, chia xẻ với nhau khói thuốc lá Bastos. Ông có vẻ biểu đồng tình (sic!) nhưng khi nhìn vào trong hội trường tôi thấy có cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, cụ Nguyễn Hữu Hãn, luật sư Nguyễn Tường Bá, hết cả là những nhân vật chống cộng đươc đồng bào kính nể nếu không được vào bậc thầy thì cũng thuộc loại đàn anh của ông Sĩ (sic!)…”

Đây là một “phác giác” rất mới lạ do ông HCĐ viết ra giấy trắng, mực đen: Hai ông Võ Tư Đản, Võ Văn Sĩ là BẠN của ông HCĐ, “cán bộ cao cấp” của đảng VT. Qua trích đoạn trên người ta thấy ông HCĐ, người Mỹ gốc Việt có tên Nhật Dean Nakamura rất “bình dân” là “cùng đi chung xe biểu tình chống VC với ông Võ Tư Đản” và “uống chung ly rượu và chia xẻ với nhau khói thuốc lá Bastos” với ông cựu Thiếu Tá Công Binh/QLVNCH Võ Văn Sĩ (sic!). Có điều không biết ông “cán lớn” HCĐ căn cứ vào đâu mà đưa ra nhận xét: “… cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, cụ Nguyễn Hữu Hãn, luật sư Nguyễn Tường Bá hết cả đều là những nhân vật chống Cộng được đồng bào kính nể nếu không vào bậc thầy thì cũng thuộc hạng đàn anh của ông Sĩ.” Chống Cộng mà cũng có “chống Cộng bậc thầy”, “chống Cộng hạng đàn anh” (sic!). Đây mới đúng là “khẩu khí” của “chính trị gia cao cấp” của băng đảng VT!

Về chuyện ông “chính trị gia VT” HCĐ “quay sang nói với ông Trần Văn Loan” thì bình luận gia Đại Dương đã có viết như sau:

“Các chính trị gia bị đoàn biểu tình chất vấn khi tham dự lễ truy điệu Hoàng Minh Chính đã viện dẫn chính sách chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hoà để biện minh. Từ cổ chí kim đã có rất nhiều vụ chiêu hàng, chiêu hồi, nhưng chưa bao giờ nhân loại chứng kiến cảnh người đi chiêu hồi lại tổ chức truy điệu và sỉ sụp vái lạy kẻ được chiêu hồi.”
(Việt Nam nhật báo số 5536, Thứ Ba 15-4-2008 ).

Nhận xét về “khả năng” của ông HCĐ mà chúng tôi đã nêu trên càng đúng khi đọc tiếp những hàng chữ sau đây: “Tôi thấy việc làm của những người biểu tình này chỉ là để biểu lộ mối căm hờn của họ đối với VC, hành động của họ không có tác dụng chống cộng, vì không làm hại gì cho VC, không làm cho chế độ đó suy yếu mà chỉ tạo sự phân hóa trong cộng đồng.”

Thực tình mà nói, chúng tôi tin rằng ít người hiểu được “những lời lẽ cao xa” của ông HCĐ khi ông ta viết tiếp như sau: “… Những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi là nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản, trong khi đó những người đã bước vào hội trường này để bày tỏ cái “nghĩa tử là nghĩa tận” với cụ Hoàng Minh Chính đã bị mạ lỵ lăng nhục bởi những người biểu tình ngoài kia, họ cũng là nạn nhân của một loại độc tài. Đây là thứ độc tài của những người không có vũ khí trong tay, về hình thức tuy có khác, nhưng bản chất vẫn là một.” (Bài báo đã dẫn).

Trong khi đó thì cũng chính tờ VTimes trong bài tường thuật đã viết như sau: “Có một cuộc đối thoại giữa ông Hồ Văn Khởi của ban tổ chức và ông Trần Văn Loan nhưng không giải quyết được sự việc. Người chống đối cho rằng “Những đảng viên này chống đảng để cứu đảng,” “Chống cộng cuội.” Người tổ chức lễ truy điệu thì cho rằng “nên chiêu hồi những người cộng sản phản tỉnh.” Cuối cùng thì lễ vẫn cứ cử hành bên trong nhà vòm, trong khi tiếng hô đả đảo vang dội bên ngoài.” (VTimes, số báo đã dẫn).

Ít ai nghĩ một cán bộ cao cấp của đảng VT như ông HCĐ lại viết lách bịa điều đặt chuyện vu cáo những người biểu tình cứ y chang như là ông “ký giả gia nô mưu sinh bằng đầu gối” là Cao Sơn Nguyễn Văn Tấn và cặp “kép đểu thiên phú, đào lẳng bẩm sinh” Nguyên Khôi, Đoan Trang vừa mới tập tễnh làm truyền thông Việt gian trong “sự biến” Little Saigon! “Đây là thứ độc tài của những người không có vũ khí trong tay (sic!)…” Gớm! Chữ với nghĩa! Nực cười thay cái “đỉnh cao trí tuệ” của ông “bình luận gia” HCĐ!

Xin miễn đề cập đến chuyện ông “cựu Thủ Tướng VNCH 7 ngày” Nguyễn Bá Cẩn “đã ca ngợi cụ Hoàng Minh Chính là người nhiệt thành yêu nước và thật sự dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản (sic!)”

Bài viết này xin được đề cập đến cái mà ông HCĐ gọi là “nhận xét rất sâu sắc” của ông Tổng bí thư đảng VT Lý Thái Hùng. “Nhận xét sâu sắc” của ông Lý Thái Hùng mà ông HCĐ “coi như đó cũng làm cảm nghĩ của ông ta (HCĐ)” là: “cụ Hoàng Minh Chính đã dành cả cuộc đời đấu tranh cho nền độc lập, tự do và dân chủ cho dân tộc (sic!)”

Những người có theo dõi các hoạt động của MT (trước kia) và đảng Việt Tân (hiện nay) đều biết “đảng VT đã khẳng định CSVN là thành phần của dân tộc, họ ca tụng CSVN có công với đất nước, họ vinh danh “cố chủ tịch Hồ Chí Minh” là ân nhân của dân tộc, họ kêu gọi “gác bỏ hận thù” quá khứ để hòa hợp dân tộc, họ động viên tuổi trẻ hải ngoại về xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của bạo quyền, họ phá rối, gây chia rẽ cộng đồng hải ngoại…”

Nhiều bậc thức giả, điển hình là cựu luật sư Nguyễn Văn Chức đã chứng minh CSVN KHÔNG PHẢI LÀ THÀNH PHẦN CỦA DÂN TỘC, MÀ LÀ KẺ THÙ CỦA DÂN TỘC. CSVN KHÔNG CÓ CÔNG, MÀ CÓ TỘI!

Đã có rất nhiều bài viết chứng tỏ ông Hoàng Minh Chính chỉ là CHỐNG ĐẢNG ĐỂ CỨU ĐẢNG – như các ông Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ v.v...

Năm 1996, “tiến sĩ” Nguyễn Bá Long ở Canada và “kỹ sư” Nguyễn Gia Kiểng ở Pháp đã “suy cử” hung thần Nguyễn Hộ lên làm “minh chủ” cho cái gọi là MẶT TRẬN DÂN CHỦ. “Minh chủ” Nguyễn Hộ đã từ trong nước viết thư ra hải ngoại và “ị” trên đầu hai ông “trí thức đầu ruồi” Nguyễn Bá Long, Nguyễn Gia Kiểng như thế nào mọi người đều đã rõ.

Chuyện ông đốc-tờ trọc phú Nguyễn Xuân Ngãi “hãnh diện khoe với phóng viên Việt Hồng của Đàn Chim Việt nhân dịp Hoàng Minh Chính sang Hoa Kỳ chữa bệnh và “rao giảng” dân chủ vào năm 2005: “99% đảng phái lúc đó đồng ý đứng chung trong Phong Trào. Bữa đó cụ HMC làm chủ tọa cuộc họp, có đảng Việt Tân, Đại Việt, Quốc Dân Đảng”.

Việc “một số đảng chính trị của người Việt tại San Jose như đảng Dân Chủ Việt Nam, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã… và đại diện là bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, các ông Hồ Văn Khởi, Nguyễn Tường Bá, Hoàng Cơ Định, Hoàng Thế Dân, Hai Long, Võ Du, Chu Tấn… cùng làm lễ truy điệu” cụ Hoàng Minh Chính thì cũng y chang như chuyện hai ông iến sĩ, kỹ sư Long, Kiểng “suy cử” hung thần Nguyễn Hộ lên làm “minh chủ” của cỗ xe MẶT TRẬN DÂN CHỦ VÀO NĂM 1996.

Trong cái gọi là bài “bình luận”, ông HCĐ phóng bút viết: “Khi tới tham dự buổi lễ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy một số đồng bào cầm cờ và biểu ngữ biểu tình phản đối ở bên ngoài. Chuyện biểu tình này, tôi đã nghe nói từ trước, nhưng vẫn nghĩ là không có, vì dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa, chẳng ai lại đối xử như vậy với một lễ thất tuần của một người quá cố.”

Khi viết những dòng chữ khoe mẽ rằng mình “có truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam,” chê bai những người biểu tình chống lễ truy điệu ông Hoàng Minh Chính, ông HCĐ không biết rằng ông ta đã làm chuyện:

“Chân mình thì lấm lê mê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người!”

Ông ta quên mất rằng chính ông ta và băng đảng Việt Tân của ông ta đã “KHÔNG NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN” ĐỐI VỚI CỐ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH LÀ BÀO HUYNH VÀ CŨNG LÀ CHỦ TỊCH CỦA MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHẤT GIẢI PHÓNG VIỆT NAM.

Xin mời độc giả đọc trích đoạn sau đây trong bài viết VỤ MẶT TRẬN HOÀNG CƠ MINH của cựu luật sư Nguyễn Văn Chức được viết vào ngày 19-8-1999 để thấy rõ ông HCĐ và Mặt Trận (trước kia) cũng như đảng VT (hiện nay) đã NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN như thế nào đối với cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh:

“… Khi một người nằm xuống - trừ trường hợp liên quan đến tôn giáo – ai cũng có quyền định công luận tội. Nhưng không ai được phép riễu cợt. Một người đã chết từ lâu, mà vẫn bị rêu rao rằng còn sống và đang đi đây đi đó, nay từ trong nước gửi thư chúc Tết đồng bào, mai từ quốc nội gửi lời huấn thị đoàn viên, nay từ chiến khu “theo rõi và hướng dẫn công tác đấu tranh của Mặt Trận”, mai chủ tọa Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc tại quốc nội… thì đó là MỘT TRÒ HỀ. Và MỘT SỰ RIỄU CỢT! Riễu cợt đối với vong linh người đã chết, riễu cợt đối với gia đình người đã chết. Không một nén hương, không một lời cầu nguyện, đã là bạc tình bạc nghĩa. Nay lại còn rêu rao rằng người đó còn sống. Thiết tưởng KHÔNG CÓ SỰ RIỄU CỢT NÀO LỚN HƠN.

Trở lại trường hợp đề đốc Hoàng Cơ Minh. Ông đã chết. Nếu những đoàn viên của ông không biết cúi đầu trước vong linh của ông, thì cũng đừng nên riễu cợt.

Huống chi, RIỄU CỢT ĐÃ TRỞ THÀNH THÓA MẠ.

Như mọi người đều biết từ nhiều năm nay, Mặt Trận HCM đã có những hành động bất lợi cho người Quốc Gia, nếu không muốn nói là phản lại người Quốc Gia. Họ khẳng định CSVN là thành phần của dân tộc. Họ ca tụng CSVN có công với đất nước. Họ phổ biến bài ca tụng "cố chủ tịch Hồ Chí Minh". Trong vụ đấu tranh dẹp cờ VC và dẹp ảnh Hồ Chí Minh của đồng bào Cali (1999) vừa qua, họ đã gây cản trở cho đồng bào, đã nhập cuộc vào phút chót, rồi sau đó chiếu phim tuyên truyền cho VC trong đêm thắp nến 26-2-1999 và phổ biến trên Internet của họ bài ca tụng công đức Hồ Chí Minh v.v…

Chúng ta hãy gom những hành vi nói trên vào một nhóm, gọi là SỰ KIỆN MỘT. Và đây, SỰ KIỆN HAI: Mặt Trận quả quyết Đề Đốc Hoàng Cơ Minh “hiện còn sống và đang lãnh đạo Mặt Trận.”

Bây giờ chúng ta hãy đặt SỰ KIỆN MỘT bên cạnh SỰ KIỆN HAI, chúng ta phải bắt buộc đi tới một kết luận. Kết luận đó, là: những hành động phản lại người Quốc Gia của Mặt Trận từ lâu nay đã do Chiến Hữu Chủ Tịch của họ (hiện đang còn sống và đang lãnh đạo Mặt Trận) đã trở cờ, phản bội người Quốc Gia và đang làm tay sai cho CS.

Tôi không muốn đẩy lý luận đi xa hơn. Bởi lẽ: cũng như mọi người, kể cả anh em Mặt Trận, tôi biết ông Minh đã chết. Và bởi lẽ: tôi biết rõ con người ông Minh. Đúng hay sai, người ta có thể tố cáo ông đã lừa dối đồng bào, đã cướp đoạt tiền Kháng Chiến, đã bỏ đói anh em trong trại, đã bắn anh em, đã thủ tiêu cộng sự viên v.v… Nhưng XIN ĐỪNG THOÁ MẠ ÔNG LÀM TAY SAI CS. Những gì của Ceasar, hãy trả lại cho Ceasar.

Thế nhưng, Mặt Trận lại muốn khác. Họ có những hành vi khiến người ta phải kết luận rằng: chiến hữu chủ tịch của họ (hiện còn đang sống và lãnh đạo Mặt Trận), đã phản bội người Quốc Gia và đang làm tay sai cho cộng sản. Đáng buồn là ở đó. Câu hỏi đặt ra: những kẻ đang “lãnh đạo” Mặt Trận là ai?”

“Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ là một tai họa. Từ thiếu trí tuệ đến chao đảo lập trường, không đầy một bước. Từ chao đảo lập trường đến lòn cúi làm tay sai kẻ thù, không đầy nửa bước. Từ lòn cúi làm tay sai kẻ thù đến công khai phản bội anh em, không đầy một phần tư bước.

Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ là một tai họa. Nhất là khi nó đi đôi với sự thiếu lương thiện. Và nhất là khi nó trở thành đặc quyền của những kẻ mang danh lãnh đạo một đoàn thể chống Cộng.

Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ thường đẻ ra NHỮNG TÊN HỀ KỆCH CỠM. Người Quốc Gia cười, thằng Việt Cộng còn cười hơn.”

Theo nhận xét trên của luật sư Nguyễn Văn Chức thì các bác sĩ, kỹ sư “lãnh tụ” của 6 “chính đảng” tại San Jose, từ vụ tiếp tay với bà NV Madison chống lại nguyện vọng của đa số người Việt Quốc Gia tỵ nạn CS trong việc chọn tên LITTLE SAIGON cho khu thương mại trên đường Story đến việc làm “lễ truy điệu kẻ thù” tại Tòa Thị Chính thành phố San Jose là NHỮNG DIỄN VIÊN CỦA NHỮNG TRÒ HỀ KỆCH CỠM - không hơn, không kém!

Lão Móc

Friday, April 18, 2008

Tài liệu mật ĐCSVN chỉ thị đấu tố Thượng tọa Thích Trí Khải


PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail : ubcv.ibib@buddhist.com


_________________________________

Tài liệu "Mật" của Đảng Cộng sản huyện Đơn Dương, Lâm Đồng, chỉ thị đấu tố Thượng toạ Thích Trí Khải và đặt GHPGVNTN ra ngoài vòng pháp luật – Hoà thượng Thích Tâm Mãn viết Đơn tố cáo công an đàn áp chùa Sư Tử Hống ở huyện Đức Trọng, Lâm Đồng

2008-04-16 | | PTTPGQT

PARIS, ngày 16.4.2008 (PTTPGQT) - Trong hai Thông cáo báo chí phát hành ngày 19.3.08 và 2.4.08, chúng tôi đã báo động tình hình đàn áp Thượng toạ Thích Trí Khải, trú trì chùa Giác Hải ở huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Nhận chỉ thị của Đảng Cộng sản, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Nhà nước tỉnh Lâm Đồng ra Quyết định bãi nhiệm chức trú trì của Thượng toạ Thích Trí Khải và đòi tịch thu ngôi chùa Giác Hải là sở hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).

Theo tiết lộ của Thượng toạ Thích Như Tấn, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Lâm Đồng, thì mục tiêu nhằm dẹp bỏ các ngôi chùa thuộc GHPGVNTN và trừng trị những ai theo GHPGVNTN là việc phát quang cho Đại lễ Phật Đản Tam hợp do nhà cầm quyền Cộng sản tổ chức trên 55 tỉnh thành hầu "chứng minh" với thế giới là Việt Nam Cộng sản tôn trọng "tự do tôn giáo".

Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tôn trọng "tự do tôn giáo" đến mức độ nào ? và như thế nào ? Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin trưng bằng cớ về cái gọi là tôn trọng ấy thông qua "Kế hoạch Mật" mang số 44-KH/BCĐ gọi là "Kế hoạch đấu tranh với Thích Trí Khải lợi dụng Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động cho Phật giáo Việt Nam Thống nhất chống lại Ban Đại diện Phật giáo huyện Đơn Dương và Giáo hội Phật giáo Việt Nam".

Kế hoạch Mật này do "Đảng Cộng sản Việt Nam, Huyện uỷ Đơn Dương – Ban chỉ đạo Công tác tôn giáo" viết ngày 13.9.2007, gồm 4 trang, khổ A4, qua 5 đề mục : 1. Tình hình Phật giáo và hoạt động tôn giáo của đạo Phật ; 2. Mục đích yêu cầu ; 3. Phương pháp đấu tranh ; 4. Thời gian tiến hành ; và 5. Biện pháp tiến hành.

Phần tình hình Phật giáo cho biết "Đạo Phật ở Đơn Dương có khoảng hơn 21.000 quần chúng có đạo, cơ sở thờ tự gồm 15 chùa được hình thành trước năm 1975. (...) Đặc biệt từ sau năm 1981 Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội Nhà nước) ra đời (...) đề ra là "đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội". (...) Song bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình trong các chức sắc tăng ni trên địa bàn huyện còn có một số mặt hạn chế (...) và cá biệt có Đại đức Thích Trí Khải trụ trì chùa Giác Hải - thị trấn Thạnh Mỹ chưa chấp hành chỉ đạo của Ban Đại diện Phật giáo huyện, của Ban trị sự Phật giáo Lâm Đồng (...) cụ thể là đã chấp nhận tán đồng và nhận làm việc cho cái gọi là "Phật giáo Việt Nam Thống nhất" dưới sự chỉ đạo của Thích Quảng Độ, nhận làm Phó Ban đại diện Phật giáo Việt Nam Thống nhất của tỉnh Lâm Đồng. (...) Đặc biệt là ngày 2.9.2007 (...) Thích Trí Khải đã tuyên bố và tự nhận là Phó Ban đại diện Phật giáo Việt Nam Thống nhất của tỉnh Lâm Đồng và tuyên bố chùa này (chùa Giác Hải) là chùa của ông ta trụ trì không có ai được chỉ đạo điều hành ông ta ».

« Xuất phát từ diễn biến tình hình như trên. Ban chỉ đạo tôn giáo huyện Đơn Dương xây dựng kế hoạch đấu tranh chống hoạt động tôn giáo trái phép của cái gọi là « Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất » của Thích Quảng Độ và Thích Trí Khải tại chùa Giác Hải như sau :

« II. Mục đích yêu cầu :

« 1. Đấu tranh hoạt động tôn giáo trái phép của cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Thích Trí Khải là đấu tranh của Nhà nước và nhân dân ta (PTTPGQT nhấn mạnh) với âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá Nhà nước, phá hoại truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta.

« 2. Đấu tranh hoạt động tôn giáo trái phép của Thích Trí Khải nhằm vạch rõ những sai trái trước quần chúng (nghĩa là tố khổ như thời Cải cách Ruộng đất, PTTPGQT chú thích) (...).

« 3. Đấu tranh việc lợi dụng Giáo hội của Thích Trí Khải để hoạt động cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là cuộc đấu tranh kiên quyết và tiến tới cô lập vô hiệu hoá Thích Trí Khải với quần chúng có đạo và kể cả trong các tăng ni đồng thời ngăn chặn về tư tưởng cũng như những hoạt động trái phép của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên địa bàn huyện (đây là định nghĩa đúng chính nhất về cái gọi là » tôn trọng tự do tôn giáo » dưới chế độ Cộng sản, PTTPGQT nhấn mạnh và chú thích) ».

Sau đó, Kế hoạch Mật chỉ thị về « Phương pháp đấu tranh » : « Đấu tranh với Thích Trí Khải là đấu tranh giữa Phật giáo Việt Nam với cái gọi là tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên phạm vi địa bàn huyện, phải phối kết hợp chặt chẽ giữa Ban đại diện Phật giáo huyện với Mặt trận và các đoàn thể và các cơ quan chức năng (...) chủ yếu là vận động quần chúng đấu tranh giải quyết với đối tượng lợi dụng tôn giáo. (...) Các cơ quan chức năng phải tập trung thu nhập, củng cố chứng cứ các văn bản khiếu kiện của nhân dân, quần chúng có đạo về phẩm hạnh và đạo đức của Thích Trí Khải trước khi tổ chức triển khai. (...) Các cơ quan chức năng phối hợp cùng với Ban đại diện Phật giáo huyện trên cơ sở về những chứng cứ phẩm hạnh đạo đức và các hành vi hoạt động cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Thích Trí Khải có văn bản báo cáo đề xuất chính kiến của mình đến Ban Phật giáo tỉnh, đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các ngành chức năng ».

Kế hoạch Mật chỉ định « Thời gian tiến hành »« Từ nay đến tháng 10 năm 2007 chỉ đạo thống nhất từng kết quả cuộc đấu tranh ở Ban đại diện, Mặt trận và các ngành chức năng. Đầu tháng 11 năm 2007 họp rút kinh nghiệm ».

Còn « Biện pháp tiến hành » đi ba bước :

« 1. Ban chỉ đạo tôn giáo huyện yêu cầu Ban dân vận, Mặt trận, các đoàn thể, ngành pháp luật, Phòng tôn giáo và dân tộc huyện, Đảng uỷ thị trấn Thạnh Mỹ quán triệt kế hoạch này và tích cực chủ động triển khai.

« 2. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, các đoàn thể của huyện phối kết hợp với Mặt trận, các đoàn thể ở thị trấn Thạnh Mỹ xây dựng kế hoạch tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh với Thích Trí Khải, kế hoạch đều thông qua cấp uỷ 2 cấp trước khi tiến hành.

« 3. Ban chỉ đạo tôn giáo huyện giao cho các đơn vị chức năng phối hợp tổ chức thực hiện gồm : Ban dân vận Huyện uỷ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, Công an huyện, Phòng dân tộc và tôn giáo huyện, Đảng uỷ thị trấn Thạnh Mỹ trong đó có Ban dân vận Huyện uỷ chịu trách nhiệm chủ trì phối hợp hoạt động các đơn vị trên ».

Kế hoạch Mật nói trên do ông Lý Văn Kiệt ký, với chức vụ Phó Bí thư kiêm Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo thuộc Huyện uỷ Đơn Dương của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đọc những trích đoạn quan trọng trong 4 trang Kế hoạch Mật người ta nhận ra các điều chủ yếu sau đây :

Một là, ngay trong việc xử lý một Thượng toạ Phật giáo trên lĩnh vực thuần tuý tín ngưỡng, thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tức Giáo hội Nhà nước chỉ là con bù nhìn. Vì kế hoạch gọi là « đấu tranh » với Thượng toạ Thích Trí Khải do Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo thuộc Huyện uỷ của Đảng Cộng sản huyện Đơn Dương quyết định, sắp đặt, xuống lệnh cho Giáo hội Phật giáo Nhà nước thi hành. Tệ hơn, Giáo hội Nhà nước cũng không được trực tiếp thi hành lệnh của Đảng, mà phải ngồi chơi xơi nước chờ sự phối hợp khai triển kế hoạch của « Ban dân vận Huyện uỷ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện, Công an huyện, Phòng dân tộc và tôn giáo huyện, và Đảng uỷ thị trấn Thạnh Mỹ ». Hoá ra Giáo hội Phật giáo Nhà nước chỉ là anh lính lệ cầm cờ chạy hiệu trước hay sau chiếc kiệu của các ông Quan Cách mạng.

Hai là, xuất phát từ « tội tổ tông » khiến cho Kế hoạch Mật xuất hiện, là Thượng toạ Thích Trí Khải phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chứ không chịu bó thân về với Giáo hội Nhà nước. Nhưng Kế hoạch Mật không xử lý trực tiếp vào « tội tổ tông » này, mà Đảng chị thị « Các cơ quan chức năng phải tập trung thu nhập, củng cố chứng cứ các văn bản khiếu kiện của nhân dân, quần chúng có đạo về phẩm hạnh và đạo đức của Thích Trí Khải ». Nói rõ là tạo sự vu cáo phẩm hạnh đạo đức của Thượng toạ Thích Trí Khải để kích động nhân dân phỉ báng, từ đó đôi đũa thần Cộng sản gõ thành « chứng cứ phạm pháp ». Nghĩa là vu vạ tội vô bằng cớ cho người hiền lương trước khi kết tội thông qua cơ quan pháp lý.

Nhưng lệnh Đảng được thi hành như thế nào ? - Kiến nghị chống Thượng toạ Thích Trí Khải của Ban Đại diện Phật giáo Nhà nước huyện đơn Dương chỉ thu được 13 chữ ký của 13 « Phật tử ». Thế nhưng ngày 19.3.2008, trong một Kiến nghị phản chống sự vu cáo hàm hồ của Giáo hội Nhà nước, 239 Phật tử chùa Giác Hoa ký tên bảo vệ Thượng toạ Thích Trí Khải. Thế mới biết rằng : Đảng nhẹ như bọt bóng, Dân mạnh như thủy triều.

Ba là, « Ban chỉ đạo công tác tôn giáo của Đảng Cộng sản huyện Đơn Dương xây dựng kế hoạch đấu tranh chống hoạt động tôn giáo trái phép của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Thích Quảng Độ và Thích Trí Khải tại chùa Giác Hải ». Thế nhưng Nhà cầm quyền Cộng sản chưa hề đẻ ra được một văn bản pháp lý nào quy định Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trái phép hoặc bất hợp pháp. Vậy thì Kế hoạch Mật do Đảng Cộng sản ở huyện Đơn Dương chỉ rặn ra cái quái thai khủng bố của một Nhà nước khủng bố.

Kết luận cho thấy Kế hoạch muốn « dứt điểm » đối với Thượng toạ Thích Trí Khải vào tháng 11.2007 quy định trong điểm 4 về Thời gian tiến hành. Nhưng đến giữa tháng 4.2008 này vẫn chưa thể « dứt điểm ». Vì sao ? - Vì một lẽ dễ hiểu là quần chúng Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là hậu thuẫn lớn, là cơ sở quần chúng trung kiên và vạm vỡ, tuy thầm lặng, nhưng là thế lực đạo đức làm nghiêng lệch cán cân của nhà nước độc tài.

Hoà thượng Thích Tâm Mãn viết Đơn tố cáo gửi các nhà lãnh đạo ở Hà Nội

Hoà thượng Thích Tâm Mãn vừa viết Đơn Tố cáo đề ngày 4.4.2008 gửi các Ông Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng và huyện Đức Trọng. Bản sao gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến.

Hoà thượng là Phó Ban đại diện Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Lâm Đồng, và trú trì chùa Sư Tử Hống ở xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Đơn Tố cáo đề cập đến việc công an hăm doạ và ngăn cấm Phật tử đến chùa Sư Tử Hống làm lễ An vị Phật, lễ Khai chuông và cầu nguyện cho Quốc thái dân an trong hai ngày 25-26.3.2008 theo truyền thống tín ngưỡng Phật giáo thuần tuý.

Để ngăn chặn sự tự do tín ngưỡng của Phật tử chùa Sư Tử Hống, nhà cầm quyền địa phương thuộc các cấp tỉnh, huyện, xã đã chỉ đạo các ban ngành đàn áp theo các thể thức sau đây:

1. Họp dân hăm doạ, ngăn cấm không cho Phật tử đến chùa và tịch thu Giấy Mời dự lễ ;

2. Mặt trận Tổ quốc và Ban tôn giáo chính phủ họp chư Tăng Ni thuộc Giáo hội Phật giáo Nhà nước tại Tu viện Hương Nghiêm tuyên bố chùa Sư Tử Hống làm lễ « bất hợp pháp », nên công an đang canh gác chặt chẽ, cấm chư Tăng Ni không được đến tham dự ;

3. Công an tỉnh gồm các ông Thu, Trung và Bằng, Công an huyện gồm các ông Thế, Tuấn, Hoà và Nguyễn Quang Minh, Công an xã gồm các ông Lê Đình Trường, Đỗ Ngọc Minh và Lê Hoàng, Công an thôn gồm các ông Thành, Lý và Du Kích hợp đồng với một bọn thanh niên đầu gấu vào canh gác quanh chùa lúc 9, 10 giờ đêm. Tiếp đấy uống rượu say tạo lý do gây xáo trộn và hoảng sợ cho chư Tăng và Phật tử trong chùa.

4. Các cơ quan chức năng ra lệnh cấm giáo viên không cho học sinh cấp 2 nghỉ học hai ngày để tham dự lễ tại chùa Sư Tử Hống như đã dự trù.

Lý do mà Mặt trận Tổ quốc và Ban tôn giáo chính phủ kết án cuộc lễ bất hợp pháp không vin vào một bằng cớ pháp lý nào cả. Vì Hoà thượng Thích Tâm Mãn đã làm đơn xin phép theo đúng thủ tục từ 10 ngày trước. Thế nhưng các cán bộ huyện phán rằng « Báo trình trễ » nên không xét !

Trong hai ngày 25-26.3.2008 khi chùa hành lễ, thì công an rải khắp từ ngã ba đường vào chùa trên một lộ trình dài hai cây số rưởi để ngăn chận Phật tử, hăm doạ không cho họ đến chùa lễ Phật và cầu nguyện cho đất nước huy hoàng và dân sống yên vui.

Sau khi trình bày các động thái bạo tàn và phi nghĩa, Đơn Tố cáo của Hoà thượng Thích Tâm Mãn kết luận rằng :

« Tôi xét thấy đây là sự vi phạm trắng trợn chính luật pháp của Nhà nước Việt Nam và Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia. Cho thấy rằng đến nay tại Việt Nam vẫn chưa có tự do tôn giáo hay nói đúng hơn là Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phi tự do tín ngưỡng, phi văn hoá, phi nhân quyền và phi đạo đức ».