Friday, May 2, 2014

THÁNG TƯ ĐEN UẤT HẬN - Ngô Minh Hằng

THÁNG TƯ ĐEN UẤT HẬN
Ngô Minh Hằng

Năm tháng theo nhau rụng xuống đời
Tháng Tư lại đến, biển sầu khơi
Tháng Tư này nữa là bao nhỉ
Mà vẫn xa quê, vẫn phận hời???

Tóc đã phai xanh, tuổi đã chiều
Vì sầu tổ quốc, vẫn đăm chiêu
Phần thương dân tộc trong hờn tủi
Phần xót quê hương đỏ giáo điều...

Hỡi những trái tim, những tấm lòng
Cơ trời vận nước buổi suy vong
Hãy xin gìn giữ niềm trung nghĩa
Đừng để ngàn sau hổ giống giòng

Đừng để tàn phai nét đẹp xưa
Của trang thanh sử, dẫu giao mùa
Chao ơi, từ đỏ cơn hồng thủy
Bao kẻ xuôi dòng theo gió mưa!!!

Nhìn những lòng thay, những nắng phai
Mà tim thổn thức nhịp u hoài
Mà đau mà xót niềm hưng phế
Thương bóng Loa Thành, thương Ức Trai!

Giọt lệ đôi phen đã ngỡ ngàng
Khi người đổi bến, kẻ sang ngang
Thịnh suy mới rõ lòng đen trắng
Mới thấy thau kia lẫn với vàng!

Dốc thẳm, đường chênh vắng bóng người
Âm thầm chiến sĩ bước đơn côi
Con thuyền chính nghĩa, lòng son sắt
Xin chớ phong ba mãi dập vùi!

Mấy chục năm dài vẫn đợi mong
Đợi anh góp sức, chị chung lòng
Đứng lên trừ hết loài gian ác
Để trả cho tròn nợ núi sông

Rồi sẽ bình minh rực tháng Tư
Quê hương nhất định hết lao tù
Cờ Vàng tô thắm khung trời Việt
Tổ quốc vinh quang, sạch bóng thù

Ngô Minh Hằng


Ai đã vận động cho tự do của Cù Huy Hà Vũ?



Một tổ chức vận động nhân quyền ở Mỹ mới tiết lộ thông tin về những người đứng sau cuộc vận động đòi phóng thích các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam.

Trong thông cáo đề ngày 14/4, tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc Điều hành của Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS), đã cho biết tên của ‘những khuôn mặt đặc biệt’ mà theo ông ‘công luận ít ai biết đến’.

Theo ông Thắng, một trong những người có công lớn giúp tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ được tự do là Thượng nghị sĩ Ben Cardin, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương của Thượng viện Hoa Kỳ.

Ông cho biết, hồi tháng Bảy năm ngoái, vợ ông Vũ, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, đã sang Mỹ gặp thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang Maryland để vận động về trường hợp của phu quân ngay trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang.

Một bức ảnh đang trên trang web của BPSOS cho thấy bà Hà đứng cạnh ông Cardin, và trên tay hai người là một bức tranh chân dung tự họa mà ông Vũ đã vẽ ở trong trại giam.

Qua email, thượng nghị sĩ Cardin nói với VOA Việt Ngữ sau khi ông Vũ được phóng thích: “Tôi hoan nghênh việc thả ông Cù Huy Hà Vũ và hy vọng sẽ chứng kiến thêm các bước đi cụ thể của chính phủ Việt Nam để đạt tiến bộ hơn nữa về nhân quyền, trong đó có việc thả ngay lập tức tất cả các tù nhân lương tâm và các nhà hoạt động cũng như nỗ lực thực chất hơn nhằm duy trì các tiêu chuẩn cao nhất đối với việc bảo vệ các quyền tự do hội họp và bày tỏ ý kiến”.

Hồi tháng Bảy năm 2013, nhiều dân biểu Mỹ đã gửi thư ngỏ tới ông Sang trước chuyến thăm để bày tỏ quan ngại về tình trạng sức khỏe của ông Vũ và kêu gọi trả tự do cho nhà bất đồng chính kiến này.

Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ nói rằng ‘một cử chỉ thiện chí như vậy sẽ phát đi một tín hiệu rằng Việt Nam nỗ lực nhiều hơn trong lĩnh vực nhân quyền’.

Hiện tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ vẫn chưa có phát biểu chính thức về việc ông được trả tự do và sang Mỹ.

Các bức ảnh mới được công bố cho thấy ông Vũ đã được tiến sỹ Thắng cùng với các nhà ngoại giao Mỹ, trong đó có ông Scott Busby, Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, đón tại sân bay khi luật sư bất đồng chính kiến này đặt chân tới Hoa Kỳ.

Sau khi phóng thích ông một tuần, chính quyền Hà Nội cũng đã trả tự do trước hạn cho hai nhà bất đồng chính kiến khác là thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung và ông Vi Đức Hồi.

Tin cho hay, một số dân biểu Mỹ cho biết đã ‘đứng ra đỡ đầu các tù nhân vừa được trả tự do’.

Dân biểu David Price từ tiểu bang North Carolina đỡ đầu tiến sỹ Vũ trong khi dân biểu Alan Lowenthal từ tiểu bang California đỡ đầu Nguyễn Tiến Trung.

Trong thông cáo sau khi kỹ sư công nghệ thông tin được đào tạo tại Pháp được thả, ông Lowenthal nói ông hoan nghênh hành động này, và ‘hy vọng đây chỉ là bước đi đầu tiên của chính phủ Việt Nam tiến tới việc tôn trọng pháp quyền và quyền của người dân được chỉ trích chính phủ’.

Nhà lập pháp này được cho là đã ‘liên tục thúc đẩy [Hà Nội] trả tự do cho Trung’.

Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng cho VOA Việt Ngữ biết lý do mới đây ông công khai ngỏ lời cám ơn các nhà lập pháp Mỹ vừa nêu.

Ông nói: “Chúng tôi thấy rằng họ đóng góp rất nhiều và rất cụ thể cho nỗ lực đòi tự do cho tất cả tù nhân lương tâm mà thành quả đầu tiên chúng ta đã thấy rằng có một số tù nhân lương tâm, nổi bật vừa mới được trả tự do. Những người này họ tranh đấu nhiều năm, đóng góp rất nhiều nhưng ít ai ở bên ngoài biết được. May mắn là chúng tôi có làm việc với họ và biết được, thành ra thấy rằng có trách nhiệm cần phải thông tin ra rộng rãi trong cộng đồng để biết được rằng có những con người đã đóng góp rất nhiều nhưng mà một cách âm thầm từ trước tới nay. Chắc chắn đây là áp lực từ phía quốc hội Hoa Kỳ, đặc biệt là Thượng nghị sĩ Ben Cardin, là người đã đích thân nêu trường hợp của tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ ngay tại buổi tiếp tân, khoản đãi ông Trương Tấn Sang tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trước sự hiện diện của ông Ngoại trưởng John Kerry. Chính Ngoại trưởng John Kerry cũng đặt vấn đề tự do cho tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ là một trong những vấn đề quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam’.

BPSOS là một trong các tổ chức làm cầu nối giữa gia đình các tù nhân và các nhà lập pháp Mỹ.

Ông Thắng cũng đã nhiều lần đại diện cho tổ chức này ra điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam.

Hà Nội luôn khẳng định Việt Nam không có tù nhân lương tâm mà chỉ bỏ tù những người vi phạm pháp luật.

Hãng tin AP mới đây dẫn lời đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng ông Vũ được thả nhờ ‘chính sách khoan hồng’ của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang, và luật sư bất đồng chính kiến này đi Mỹ vì ‘lý do nhân đạo’.


Suy nghĩ và tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư - Janet Nguyễn

Suy nghĩ và tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư
Janet Nguyễn
Cách đây 39 năm, Sài Gòn rơi vào tay cộng sản, và cuộc đời tôi bị thay đổi hoàn toàn. Vào ngày này hôm nay, tôi muốn hồi tưởng lại những năm tháng qua, và ảnh hưởng của “Tháng Tư Ðen” đối với chính bản thân tôi, cũng như hàng triệu người Việt Nam tị nạn khác giống tôi, khắp thế giới.

Những kỷ niệm đầu tiên của tôi là cuộc sống trong trại tị nạn, sau khi gia đình tôi lênh đênh trên Biển Ðông. Chú tôi, một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bị xử bắn ngay ngày Sài Gòn thất thủ. Sợ bị cộng sản trả thù, tất cả chúng tôi phải trốn đi, bởi vì cha tôi từng phục vụ trong quân đội miền Nam Việt Nam. Biết rằng tương lai của chúng tôi ở Việt Nam sẽ rất đen tối, cha mẹ tôi liều mình đưa cả nhà vượt biên đi tìm sự an toàn và tự do cho gia đình.

Ngay khi đến bờ biển Thái Lan, chúng tôi, cũng như nhiều gia đình khác, phải đập bể ghe và bơi vào bờ. Sau một thời gian sống ở các trại tị nạn, chúng tôi may mắn được đặt chân lên đất Mỹ.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự bắt đầu của một hành trình đầy khó khăn.

Trong lúc nuôi dạy các con, cha tôi vừa làm phụ tài xế xe buýt tại một trường đại học cộng đồng, vừa học tiếng Anh. Gia đình tôi phải sống nhờ vào trợ cấp xã hội, trợ cấp thực phẩm. Quần áo chúng tôi mặc là mua ở các tiệm bán đồ cũ, hoặc do nhà thờ địa phương tặng vào dịp Giáng Sinh. Khi bắt đầu học đại học, tôi phải làm 3 việc mới có đủ tiền chi tiêu, trong lúc học toàn thời gian tại đại học UC Irvine.

Qua những khó khăn trong đời sống, cha mẹ tôi khuyến khích anh em chúng tôi học thành tài và cống hiến lại cộng đồng. Chính vì những lời khuyên này mà tôi quyết định đi vào con đường phục vụ công chúng, trong khi người anh trai tôi gia nhập Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Bây giờ, tôi đã là nữ giám sát viên đầu tiên đại diện Ðịa Hạt 1, là người Mỹ gốc Châu Á đầu tiên, và là người Mỹ gốc Việt đầu tiên, trong Hội Ðồng Giám Sát Quận Cam. Tôi cũng là giám sát viên trẻ nhất trong lịch sử Quận Cam, là dân cử người Mỹ gốc Việt cao cấp nhất tại tiểu bang California, và là nữ dân cử người Mỹ gốc Việt cao cấp nhất ở Hoa Kỳ.

Cho dù thành công như vậy, tôi không bao giờ quên những gì tôi đã trải qua để có được ngày hôm nay.

Ðể tưởng niệm và để nhắc nhở các thế hệ sau về sự kiện quan trọng này, tôi đã đưa “Tháng Tư Ðen” vào trong nghị trình họp, để Hội Ðồng Giám Sát Quận Cam công nhận hàng năm. Tôi làm như vậy là để tưởng niệm “Tháng Tư Ðen,” để công chúng biết về thời điểm này, và để thấy rằng chúng ta thật sự cần phải bảo vệ tự do và dân chủ khắp nơi trên thế giới.

Kể từ khi có “Tháng Tư Ðen,” đời sống người dân ở Việt Nam ngày càng tệ hại. Vì thế, tôi luôn tham gia các sự kiện chống cộng sản được tổ chức ở nhiều nơi khắp Hoa Kỳ, điều trần trước Thượng Viện Hoa Kỳ, và mới đây nhất, phản đối ý định của thành phố Irvine kết nghĩa với thành phố Nha Trang ở Việt Nam.

Hiện nay, tôi cũng đang làm việc cùng với Dân Biểu Ed Royce để thông qua HR4254, Dự Luật Chế Tài Giới Chức CSVN Vi Phạm Nhân Quyền, nhằm trừng phạt những cá nhân vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi hy vọng những việc làm này sẽ tạo ra thay đổi tích cực cho người dân đang sống tại đất nước mà tôi được sinh ra.

Qua những gì xảy ra trong cuộc đời, tôi có một cảm giác khó tả mỗi khi đến “Tháng Tư Ðen.” Tôi rất buồn khi thấy rất nhiều người Việt Nam và người Mỹ thiệt mạng trong chiến tranh. Thế nhưng, dù đang sống ở Mỹ, tôi cũng nhận thấy rằng, đấu tranh cho tự do và dân chủ là một điều vô cùng cao quý.

Chỉ có tại đất nước này, một người từng sống nhờ trợ cấp xã hội và trợ cấp thực phẩm nay đã trở thành một nhà lãnh đạo trong một cơ quan dân cử quận hạt, quản trị một ngân sách lớn hàng thứ bảy tại Hoa Kỳ.

Riêng đối với gia đình tôi, quyết định phải rời Việt Nam là một câu chuyện buồn, nhưng lại kết thúc có hậu, và tôi luôn trân trọng nó mỗi ngày. Thế nhưng, tôi sẽ không bao giờ quên quá khứ, bởi vì tôi biết, không phải tất cả người tị nạn Việt Nam đều may mắn.

30 Tháng Tư năm 1975 sẽ luôn luôn là ngày để tưởng nhớ hàng triệu người đã hy sinh tính mạng của họ cho những người như tôi, những người mà cuộc đời được thay đổi mãi mãi.

Janet Nguyễn
oOo
Tháng Tư Ðen: Một thời điểm để nhìn lại

Ngày 30 Tháng Tư đánh dấu ngày kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam và mở đầu làn sóng bỏ nước ra đi của hàng triệu người Việt Nam sau khi Sài Gòn rơi vào tay quân cộng sản vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Ðã nhiều năm qua tôi đã tham dự nhiều buổi lễ lạt ở thành phố Garden Grove và thành phố láng giềng Westminster để tưởng niệm ngày kỷ niệm này mà cộng đồng người Việt gọi là Tháng Tư Ðen. Tôi thấy được những buổi lễ này rất là cảm động khi tôi học hỏi được về những đấu tranh trong lịch sử cho khát vọng dân chủ tự do của một dân tộc.

Nó tưởng nhớ và nó cũng là một lời chứng về lòng can đảm, sự hy sinh, sự quyết tâm và sự thành công tối hậu bằng sự quyết tâm. Chiến tranh Việt Nam là một bi kịch với bao nỗi đau khổ cũng như sự hy sinh mạng sống của nhiều người Mỹ và người Việt. Những người tị nạn và những người di dân từ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa trước đây đã đến Hoa Kỳ như là những người Mỹ gốc Việt tự do. Họ đã được vinh danh và ghi nhớ cho sự hy sinh cho tự do và nhân quyền và cho sự đóng góp không ngừng nghỉ của họ cho xã hội dân chủ của chúng ta.

Tháng Tư Ðen không những là một dịp để nhớ lại những hy sinh trong quá khứ mà cũng là ngày vinh danh sự kiên cường của người Việt. Ðã nhiều năm những người di dân Việt Nam đã vượt qua những rào cản xã hội, kinh tế, và ngôn ngữ với một mức độ chưa từng thấy để tiến lên và trở thành một trong những cộng đồng hội nhập nhất trong bất cứ nhóm sắc dân nào. Người Mỹ gốc Việt đã đạt tới điểm cao nhất của sự thành công của xã hội Mỹ trong mọi lãnh vực, từ kinh doanh sản xuất, đến khoa học kỹ thuật, y học, quân sự, cũng như chính quyền.

Chúng ta phải dạy con cái chúng ta và những thế hệ tương lai những bài học quan trọng từ cuộc chiến tranh Việt Nam. Kể cả câu chuyện về thân phận của những người tị nạn sau khi kết thúc cuộc chiến như là một thí dụ mạnh mẽ cho những giá trị tự do và dân chủ. Tháng Tư Ðen sẽ là một thời điểm đặc biệt cho tất cả mọi công dân để nhớ lại những mất mát của bao sinh mạng suốt trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, và để hy vọng một cuộc sống công bằng và nhân đạo hơn cho người dân Việt Nam, và cũng để vinh danh một cộng đồng đã đóng góp quá nhiều từ nhân sự, văn hóa, kinh tế cho cấu trúc xã hội của Garden Grove, một thành phố cổ vũ cho sự đa dạng văn hóa và sắc tộc.

Kris Beard, nghị viên Garden Grove



ĐÀN BÒ

Ta chán lắm nhìn lũ bay theo cộng
Như đàn bò vào lò sát Lê nin
Nghe vẹm nói mà đã vội vã tin
Kéo về nước dể giải hòa với chúng !

Ta chán lắm nhìn lũ bay tơi tả
Quá thương mày mà chẳng biết làm sao
Cộng đã bẫy mày khó chạy đường nào
Tao chỉ biết thắp nén nhang tiễn biệt !

Ba mưới tháng Tư cộng vào cộng giết
Chúng đọa đày mày cải tạo bao năm
Ra nước ngoài quên mẹ hết hờn căm
Nghe vẹm dụ lại đâm đầu về nước

Rắn độc khôn sao mày không bắt chước*
Đánh nó rồi thù sẽ trả không tha
Nó sẽ tìm không quản ngại đường xa
Mày ngu quá quay đầu về nộp mạng !

Tỉnh dậy đi vì trời đang gần sáng
Cùng toàn dân dẹp cộng cứu giang san
Mày chớ quên việt cộng giống dã man
Chúng bắn giết có khi còn chôn sống !

Cứ về đi rồi ngày mai vỡ mộng
Bọn công an và trộm cướp đang chờ
Gái đẹp nhiều môi mọng đẹp như thơ
Ngu thì chết lũ Vịt cừu theo giặc....
 Baky Hà nội

"Viết tặng những đứa ngu "
* Đùa vậy chứ đừng bắt chước rắn độc trả thù không tốt đâu. Rắn hổ mang và rắn cạp nong cạp nia ở miền Bắc trả thù ghê gớm lắm.



Vì Sao Chúng Ta Để Mất Miền Nam Cho Cộng Sản - LS.Lê Duy San

Vì Sao Chúng Ta Để Mất Miền Nam Cho Cộng Sản
LS.Lê Duy San

Cuộc chiến Việt Nam mặc dầu đã được kết thúc trên ba chục năm nay, nhưng nhiều người vẫn còn tự hỏi: “Quân đội của chúng ta hùng mạnh như vậy, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng ta anh dũng như vậy, nhiều quân nhân còn xâm chữ “Sát Cộng” vào cánh tay, còn đồng bào ta thì sợ Việt Cộng như cùi, như hủi, bọn chúng tới đâu là đồng bào ta bỏ chạy tới đó, vậy mà tại sao chúng ta lại thua Cộng Sản ?”

Đành rằng nguyên nhân gần và trực tiếp là vì chúng ta bị đồng minh tức Hoa Kỳ bỏ rơi Nhưng còn nguyên nhân sâu xa là gì ? Tại sao người Mỹ lại bỏ Việt Nam? Đã có rất nhiều chính trị gia, chiến lược gia, sử gia Việt Nam cũng như ngoại quốc phân tích và đã đưa ra rất nhiều lý do, chủ quan cũng có, khách quan cũng có, nhưng chưa thấy tác gỉa nào nói tới lý do đạo đức, luật pháp và vì sự thiếu hiểu biết của các chính trị gia miền Nam Việt Nam.

1. Vì đạo đức.

Vì đạo đức, chúng ta không thể bắt chước Cộng Sản, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”. Bắt được những tên Cộng Sản, những tên Việt Gian, những tên ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản, chúng ta vẫn đối xử nhận đạo. Hẳn chúng ta còn nhớ, vào năm 1955-1956, một phong trào mang tên là Phong Trào Hòa Bình do các ông Phạm Huy Thông, Lưu Văn Lang, Trần Kim Quan v.v… thành lập. Đây là một phong trào thiên Cộng họạt động với mục đích hỗ trợ cho Việt Cộng và đòi Tổng Tuyển Cử theo Hiệp định Geneve 1954, chính phủ Ngô Đình Diệm cũng chỉ tống xuất một vài tên qua cầu Hiền Lương ra Bắc.

Đến đầu năm 1965 một phong trào khác mang tên tương tự là “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình” do những tên Việt Gian, ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản thành lập như Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Bác Sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Nhà Báo Phi Bằng tức Cao Minh Chiến, Giáo Sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác Sĩ Lê Khắc Quyến v.v.. Gần 30 thành viên của phong trào này đã bị bắt giữ, trong đó có Cao Minh Chiến, Tôn Thất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã đề nghị thả dù bọn này ra bắc vỹ tuyến 17 tức bên kia cầu Hiền Lương cho Việt Cộng. Nhưng Thủ Tướng Phan Huy Quát cũng chỉ vì lý do nhân đạo, sợ làm như vậy bọn chúng có thể gẫy chân, què tay vì bọn chúng đâu biết nhẩy dù, nên đã lấy cớ rằng làm như vậy, quốc tế sẽ chỉ trích, và chỉ đồng ý giải giao bọn chúng cho Việt Cộng bằng đường bộ qua cầu Hiền Lương.

Ngày nay, ở hải ngoại cũng vậy. Những người chống Cộng luôn luôn bị một số người vin vào lý do đạo đức, văn hóa để chỉ trích người khác. Nếu chống Cộng hăng say quá thì bị chỉ trích là quá khích. Nếu dùng danh từ mạnh mẽ quá hay bình dân quá thì bị phê bình, chỉ trích là ấu trĩ, là thiếu văn hóa, là phản tuyên truyền có khi còn bị nhục mạ là hạ cấp, là vô học.

Bọn Việt Cộng mở miệng ra nói là thấy tuyền tuyên truyền giả dối, đối đáp thì ngụy biện, vô học, nếp sống thì tàn ác, vô đạo đức. Vậy mà chẳng thấy ai nói gì. Trái lại, nếu có ai vì chống Cộng nói sai một chút, nói quá lời một câu, mà đâu có phải nói họ mà chỉ là nói bọn Việt Cộng hoăc bọn Việt Gian Cộng Sản là bị chỉ trích, bị phê bình liền, có khi còn bị mạ lỵ. Bọn người này, không biết họ thuộc loại nào ? Có thể họ là bọn Việt Cộng nằm vùng, có thể họ là bọn Việt Gian Cộng Sản, nhưng cũng có thể chỉ vì cảm tình cá nhân nên bênh vực nhau. Nói ra họ lại la làng là bị chụp mũ này, mũ nọ. Có điều chắc chắn là không bao giờ thấy họ viết một bài nào chống Cộng. Hoặc nếu có thì cũng chỉ hời hợt hoặc vô thưởng, vô phạt để chứng tỏ ta đây cũng là người chống Cộng. Còn những bài viết chỉ trích những người chống Cộng thì họ phê bình chỉ trích tới nơi, tới chốn.

2. Vì luật pháp.

Vì luật pháp, chúng ta cũng không thể cho chúng mò tôm, bắt ốc như bọn Cộng Sản đã làm đối với những người quốc gia trong thời chiến tranh. Chúng ta phải đưa chúng ra tòa để xét xử theo luật pháp. Dù chúng có tội thì cũng chỉ giam giữ ít lâu rồi lại thả ra. Trường hợp phạt chúng tội tử hình, thật là hiếm. Thường thì chúng ta cũng rất nhẹ tay với chúng. Không những thế, nhiều khi còn để tình cảm lấn áp. Do đó có những trường hợp kẻ bị bắt có thế lực hoặc có liên hệ với các ông lớn trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được can thiệp và cho tại ngoại ngay từ lúc mới bị bắt hoặc được cho biết trước để mà chạy trốn hoặc phi tang chứng cớ.

Trường hợp điển hình là trường hợp của Nguyễn Đình Ngọc, giáo sư trường Đại Học Khoa Học Saigon. Ông này có hoạt động cho Việt Cộng nên bị bắt. Ông Nguyễn Chung Tú, Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học Saigon đã lấy tư cách và uy tín của mình để bảo lãnh cho ông ta. Vì thế, ông Ngọc không những đã được tại ngoại mà cũng chẳng phải ra tòa lãnh án.

Trường hợp thứ 2 là Trần Đình Minh, cán bộ xã Hải Nhuận thuộc quận Hương Điền Tỉnh Thừa Thiên, một Việt Cộng nằm vùng. Tháng 5 năm 1972 (mùa hè đỏ lửa), để ngăn chận cuộc tổng nổi dậy của Cộng quân tại Huế, Thiếu Tá Liên Thành, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đã mở cuộc hành quân gọi là Chiến Dịch Bình Minh và đã bắt giữ khoảng 1,500 Việt cộng và nội tuyến trong đó có Trần Đình Minh. Chỉ mấy ngày sau khi Trần Đình Minh bị bắt, Thiếu Tá Liên Thành đã nhận được điện thoại của Đại Tá Dương Quang Tiếp Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Vùng I, ra lệnh thả Trần Đình Minh. Lý do là vì Ủy Viên Chính Phủ Tòa án Quân Sự Mặt Trận Vùng I Chiến Thuật, Trung Tá Cao Chánh Hựu là bạn thân của Đại Tá Dương Quang Tiếp đứng ra làm giấy bảo lãnh cho Trần Đình Minh.

Trường hợp điển hình thứ ba là Nguyễn Ngọc Lương. Ông Tạ Quang Khôi cho biết: “Lương là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Sau Lương được nhận vào đài phát thanh Saigon làm biên tập viên phòng bình luận. Lương bị công an bắt, không phải một lần mà nhiều lần. Nhưng không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa xét xử dù biết chắc ông hoạt động cho cộng sản? Không những thế, ông Tổng Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh còn vào khám thăm Lương mỗi khi y bị bắt.

Trường hợp thứ tư là nhà văn Vũ Hạnh, tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Ông là cán bộ văn hoá khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Ông Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho tại ngọai. Người bảo lãnh sau cùng cho Vũ Hạnh là Linh Mục Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
Tên Bảy Lớp không bắn bỏ cũng uổng
Bênh vực cho hắn là đại ngu !
Vụ Tết Mậu Thân 1968, không thiếu gì những tên Việt Cộng giết người một cách dã man, giết người một cách vô tội vạ, giết người hàng loạt. Vậy mà bọn chúng đâu có bị đưa ai ra tòa? Còn chúng ta, nếu vì qúa tức giận trước những hành động qúa độc ác, dã man của bọn chúng mà tự ý giết một tên Việt Cộng nào đó, thì dù có lý do chính đáng đến đâu cũng vẫn bị kết tội là dã man, là vô nhân đạo. Nếu không bị đưa ra tòa thì cũng bị nhiều người phê bình và thế giới nguyền rủa. Đó là trường hợp của tướng Nguyễn Ngọc Loan đã xử tử tên Việt Cộng Nguyễn Văn Lém tự Bẩy Lớp, kẻ đã sát hại cả gia đình một sĩ quan cảnh sát vào Tết Mậu Thân 1968.

3. Vì thiếu ý thức.

Ngày 24-9-1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, thừa ủy nhiệm Quốc trưởng Bảo Đại, ký Sắc lệnh số 94-CP cải tổ nội các. Nhiều chính trị gia tên tuổi đã tham gia như Trần Văn Đỗ Tổng trưởng Bộ Ngoại giao, Bùi Văn Thinh Tổng trưởng Bộ Tư pháp, Phạm Xuân Thái Tổng trưởng Bộ Thông tin và Chiến tranh tâm lý, Trần Hữu Phương Tổng trưởng Bộ Tài chính, Lương Trọng Tường, Tổng trưởng Bộ Kinh tế, Nguyễn Công Hầu, Tổng trưởng Bộ Canh nông, Trần Văn Bạch, Tổng trưởng Bộ Công chính, Nguyễn Văn Thoại Tổng trưởng Bộ Kế hoạch và Kiến thiết, Huỳnh Kim Hữu Tổng trưởng Bộ Y tế, Nguyễn Dương Đôn, Tổng trưởng Bộ Quốc gia giáo dục, Nguyễn Mạnh Bảo Tổng trưởng Bộ Xã Lao, Nguyễn Đức Thuận Tổng trưởng Bộ Cải Cách, Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng trưởng Bộ Lao động và Thanh niên, Hồ Thông Minh Tổng trường phụ tá Quốc phòng, Trần Ngọc Liên, Bộ trưởng ở Phủ Thủ tướng, đặc nhiệm Công vụ, Phạm Duy Khiêm Bộ trưởng đặc nhiệm tại Phủ Thủ tướng, Bùi Kiện Tín, Bộ trưởng đặc nhiệm tại Phủ Thủ tướng,Huỳnh Văn Nhiệm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Nguyễn Văn Cát Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

Khi biết tướng Nguyễn văn Hinh (thân Pháp) muốn lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, họ sợ ông Diệm mất chức nên một số người đã từ chức gây điêu đứng cho TT Ngô Đình Diệm. Sau khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vượt qua được cơn sóng gió và tống cổ được Nguyễn văn Hinh ra khỏi nước và thiết lập nền đệ nhất Cộng Hòa thì cũng lúc các đảng phái quốc gia nói riêng, giới chính trị gia miền Nam nói chung, vì thiếu ý thức, vì quyền lợi phe nhóm và nhất là vì ngu dốt, đã đặt quyền lợi của đảng phái, của phe nhóm lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc tìm cách đả phá, chỉ trích chính quyền và đòi hỏi những điều chính quyền không thể thỏa mãi họ được.

Họ đã gây ra cuộc đảo chính bất thành ngày 11/11/1960 mà trong đó nhóm Tự Do Tiến Bộ còn gọi là Nhóm Caravelle chủ xướng, vụ 2 phi công VNCH Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom Dinh Độc Lập ngày 27/2/1962 do Đại Việt Quốc Dân Đảng chủ mưu làm cho người Mỹ hết tin tưởng vào chính quyền của TT Ngô Đình Diệm dẫn tới cuộc đảo chính ngày 1/11/1963.

Tranh đấu như vậy năm 63 rồi 65 chưa đủ, năm 1975 còn kéo cả đoàn lũ đi rước quân cướp VC vào thành phố nữa mới “đáng khen” chứ !.

Nếu cho rằng trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các chính trị gia, các đảng phái quốc gia đã không có cơ hội để thi thố tài năng. Nhưng trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa, họ đã có cơ hội, nhưng họ đã làm được gì? Hết nội các Nguyễn Ngọc Thơ (11/63 - 1/64), các Trần Văn Hương (8/64 - 10/64, đến nội các Phan Huy Quát (2/65 – 6/65), không nội các nào thọ được hơn 4 tháng và dĩ nhiên cũng chẳng ai làm được trò trống gì. Để rồi lại phải trao quyền cho quân đội để trở lại vai trò chỉ trích và quậy phá. Không biết bao nhiêu là cuộc biểu tình, xuống đường để gây rối cho miền Nam. Nào là Phong trào đấu tranh của ký giả miền Nam Việt Nam tục gọi là Phong Trào ký giả đi ăn mày, Phong trào đòi quyền sống của Luật Sư Ngô Bá Thành, Phong trào bài trừ tham nhũng của Linh Mục Trần Hữu Thanh, Ủy Ban Bảo Vệ quyền lợi lao động của Linh Mục Linh mục hốt rác LM Phan Khắc Từ, LM Trương Bá Cần, LM Trần Thế Luân và LM Nguyền Ngọc Lan, và hơn 140 vụ xuống đường khác của bọn Việt Cộng đội lốt sư sãi súi dục học sinh sinh viên biểu tình “chống Mỹ cứu nước”. Đó là chưa kẻ một số người miền Nam khác đã nuôi Việt Cộng trong nhà hay đóng thuế cho Việt Cộng.

Trong cuộc chiến Nam Bắc Hàn, có lúc Nam Hàn chỉ còn một vùng đất nhỏ bằng tỉnh Cà-Mâu của miền Nam, vậy mà nhờ sự quyết tâm hỗ trợ của Mỹ, Nam Hàn vẫn phản công lấy lại toàn lãnh thổ đã mất. Miền Nam Việt Nam còn Thủ Đô, còn vùng 4 và hơn một nửa vùng 3, nếu Mỹ không quyết tâm ngưng viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì dĩ nhiên quân đội VNCH cũng sẽ tiến chiếm lại được những vùng đã mất như đã chiếm lại được Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Nhưng tiếc rằng chính chúng ta, hay nói cho đúng hơn, chính bọn tướng lãnh côn đồ đã làm xụp đổ nền đệ nhất VNCH, chính bọn chính trị gia ngu dốt, chính bọn sư sãi, linh mục thân Cộng, chính bọn trí thức ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng Sản, đã làm cho người Mỹ thất vọng, không còn muốn giúp chúng ta nữa. Đó là những nguyên do khiến cho miền Nam Việt Nam phải mất vào tay Cộng Sản.

LS.Lê Duy San


Thursday, May 1, 2014

Chết cũng không quên ngày này! - Hoài Mỹ

Chết cũng không quên ngày này!

Hoài Mỹ
(VienDongDaily.Com - 30/04/2014)

Không ít người, cách riêng phần đông những kẻ mà người ta thường vạch một cái mốc thời gian to tổ bố, “Sinh sau chiến tranh” - ý nói các thế hệ chào đời sau ngày 30 tháng Tư, 1975, thường tỏ ra “vô tư” khi phán: Phải quên dĩ vãng, “30 tháng Tư” đã qua lâu rồi, tội gì mà nhớ cho “điên cái đầu, đau cái đít”! - hoặc lên giọng “thầy đời,” tuy cũng có thể thành thật, để “khuyên” rằng phải đoạn tuyệt với quá khứ đen tối ấy để lo cho ngày mai chứ; tuy nhiên nguy hiểm hơn cả là các phần tử không hiểu do bản chất “ngây thơ vô số tội” hoặc đã ăn phải bã của Việt Cộng, hoặc “biết một mà không biết mười” mà mỗi lần “30 tháng Tư” về lại làm ra vẻ tha thiết với tiền đồ đất nước, biểu lộ sự hăng say mà “thuyết minh” văng cả nước bọt, “Việt Cộng cũng là... người Việt Nam; nay đã đến lúc hòa hợp-hòa giải dân tộc. Cứ duy trì mãi “30 tháng Tư” tức là nuôi hoài thù hận; thử hỏi như vậy làm sao mà giúp đất nước tiến được!” v.v. và v.v..

Sức mấy mà quên!

Người Việt quốc gia thứ thiệt khi nghe những “lý luận” tương tự kể trên, cũng dễ nổi sùng lắm; nhiều người - dù gần... làm thánh - cũng muốn chửi thề hoặc ngứa miệng muốn văng tục.

Đúng vậy, có thể nói cụm từ “30-Tháng-Tư-Đen” nay đã trở thành một thứ danh từ riêng kép, khi viết thì phải viết hoa, chẳng hạn giống như họ và tên của một người. Ngày này không những đã mặc nhiên mang tính lịch sử mà còn trở thành thiêng liêng đối với người Việt miền Nam Cộng Hòa. Bởi thế người có lương tâm - dù một chút thôi - và ý thức - dù không nhiều lắm - cũng chẳng bao giờ quên được ngày này. Hơn thế nữa, ngày “30 Tháng Tư” này lại “đen,” nôm na là không sáng sủa mà bóng bảy nhưng chính xác là đau thương, bi thảm, là máu lửa, tuyệt vọng và chết chóc. Vậy mà bảo là “quên,” họa có điên!

Chẳng những không quên, không thể quên, đúng hơn là dứt khoát không muốn quên, vì 30-Tháng-Tư-Đen là một nỗi quốc nhục, một niềm quốc hận do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gây nên. Bởi thế, hàng năm cứ đến ngày 30 tháng Tư, người quốc gia chân chính lại tự “ôn bài” kỹ hơn nữa để không một nét dĩ vãng nào, một sự kiện hay một hình ảnh quá khứ nào thiếu sót. Mặc dù ai cũng quá rõ những hậu quả đau buồn của 30-Tháng-Tư-Đen, nhưng mỗi khi nghe hay đọc lại các sự kiện ấy, phần đông ngậm ngùi, uất hận chứ không quen miệng nói, “Biết rồi, khổ quá nó mãi!”. Đây mới chính xác là “ôn cố tri tân.” Có như vậy mới xác định không ngừng được bản thế của mình, lý lịch hay căn cước và vị trí của mình cũng như trách nhiệm của mình, cách riêng ý nghĩa và mục đích việc “ra đi” của mình. Vậy mà bảo là “quên,” họa có điên!

‘Giải phóng’ hả? ‘Cách mạng’ hả?

Và cũng bởi ngày “30 tháng Tư” này “đen” mà những nạn nhân, những người có ý thức và lương tâm đã và vẫn chẳng bao giờ chịu dùng một danh từ hay một cụm từ nào khác để thay thế hay để “điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”. Chẳng hạn một số người có thể vì quen miệng hoặc bị “lậm” ảnh hưởng của đường lối tuyên truyền từ phía kẻ thù, tức Việt Cộng, mà gọi ngày này là “ngày giải phóng” hay “ngày cách mạng vào.” Láo! - “Láo” là không thật, dối trá, là “xạo chuyên nghiệp.” Tại sao?. Bởi, chữ “giải phóng” đến một thằng bé, con hĩm hỉ mũi chưa sạch cũng dư sức hiểu đó là một việc thiện, giúp người thoát khỏi gông cùm, thoát một hoàn cảnh, một tình trạng đen tối hoặc thoát một cuộc đô hộ. Thế nhưng ở đây, Việt Cộng đã chỉ thực hiện toàn những tội ác, hoàn toàn trái ngược với những gì vừa lược kể trong định nghĩa trên, nghĩa là mang những người đang sống tự do vào xích lại trong gông cùm, ngục tù - nghĩa là tước đoạt sự thịnh vượng, thoải mái của một cuộc sống hạnh phúc, bình an để thay vào đó là sự nghèo nàn, khốn khó, ngu dốt, là mồ hôi, nước mắt và máu, là “thi đua” mà “Xuống Hàng Chó Ngựa” - nghĩa là triệt tiêu một chính thể nhân bản, một chế độ đầy tính dân tộc, tự do, dân chủ để “xây dựng” một chủ nghĩa lai căng, lạc hậu, lỗi thời, phi dân tộc, phi tín ngưỡng, phi gia đình đồng thời thực thi một chế độ độc tài, sắt máu.

Để “đáp lễ” tác dụng của “giải phóng,” tiếng lái bình dân ở miền Nam ngay sau ngày 30-Tháng-Tư-Đen đã nhại thành “phỏng dái.” Quá hay!

Còn “cách mạng”? Cách mạng là sửa đổi chế độ cũ cho tốt đẹp hơn hoặc thay thế chế độ cũ bằng chế độ mới, người mới. Điển hình như cuộc Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền năm 1789 của dân chúng Pháp do giới tư sản hay giới trung lưu lãnh đạo lật đổ chính quyền nhà vua độc đoán để lập ra thể chế dân chủ. Vậy, trước câu hỏi giữa chế độ Cộng Hòa miền Nam và chế độ Công Sản miền Bắc, chế độ nào “thơm” hơn, “ngon lành” hơn chế độ nào?

Ta chẳng cần “nổ” hay vì tâm trạng “mèo khen mèo dài đuôi” hoặc chủ quan, tự ái vặt, cứ “vô tư” mà phát biểu thì phải công nhận chế độ ở miền Nam tuy chưa hẳn lý tưởng, hoàn hảo nhưng đáp ứng được hầu hết nguyện vọng và nhu cầu của người dân. Lấy bất cứ lãnh vực nào để so sánh, người ta thấy ngay đáp số. Mạn phép nhắc lại một vài “sự thật phũ phàng” để chứng minh nhé: Sau ngày 30-04-1975, nhiều đồng bào miền Bắc vào “nước Saigon” cốt ý tìm gặp thân nhân, bạn bè vốn đã xa cách nhau từ năm 1954 do cuộc “bỏ phiếu bằng chân” nhằm phủ nhận chủ nghĩa cộng sản. Nhờ đã được đảng và nhà nước cho “học tập” trước nên họ mang theo nào chục bát kiểu, ký gạo, cân đường, một hai thước vải, đôi guốc sơn - vốn là những “của quý” ở miền Bắc - mà họ có thiện ý “làm quà” cho “bà con đói khổ trong miền Nam vì bị Mỹ ngụy kềm kẹp”; nào ngờ khi thấy tận mắt sự giầu sang, dư dật, thừa mứa... của người trong Nam, họ mới ngã ngửa, bèn “từng bước, từng bước thầm” mà bỏ hết “của quý” ở một bụi rậm nào đó hoặc cứ “thành khẩn khai báo” tình trạng “rách hơn xơ mướp” ở miền Bắc. Từ đó có câu người miền Bắc vào Nam nhận “họ,” về mang “hàng.” Lại nữa, vì mặc cảm đồng thời đã được chỉ thị, bộ đội và cán bộ khoe rầm trời là ở miền Bắc, nào “tủ lạnh chậy đầy đường,” nào “ti vi, đài... chạy đầy đường”- tuy nhiên những khi bắt nạt dân chúng miền Nam hoặc ra chợ trời, họ “tiếp thu” không thiếu bất cứ thứ gì mà chính họ gọi là “tàn dư của Mỹ ngụy” theo chủ trương “tam vê”:

Vào - Vơ - Vét!

Xin thưa, những gì tôi viết trong bài này không có gì mới mẻ cả, vẫn nghe... quen quen; đúng vậy, bởi chúng đã được “cầu chứng tại tòa” lịch sử khiến chết tôi cũng không quên, trái lại hàng ngày tôi vẫn “tụng” để cách riêng đến ngày 30-Tháng-Tư-Đen, tôi lại mang ra tự “trả bài” cho chính bản thân, sau đó đọc cho vợ và các con, cháu nghe...

‘Cách mạng’ đồng nghĩa với lường gạt; ‘giải phóng’ với xảo trá

Kể từ ngày 30-Tháng-Tư-Đen, bởi “cách mạng” và “giải phóng” chỉ biết lường gạt, lại quá xạo, quá láo mà từ ngữ VẸM đã sống động mạnh mẽ trở lại, đặc biệt trong giới cao niên ở miền Bắc Việt Nam. Chữ này thật sự đã xuất hiện gần như cùng thời đảng CSVN được thành lập (khoảng năm 1940). Thuở ấy, để đánh lừa dư luận quốc tế, Hồ Chí Minh và đồng bọn đã trá hình đảng này là một đảng quốc gia với cái tên ngụy tạo “Việt Nam Đồng Minh Hội,” gọi tắt là Việt Minh hay viết tắt là VM. Phần để lột mặt nạ CSVN, phần nhằm giễu cợt bản chất láo khoét của các “đồng chí đồng chuột” lớn, nhỏ, đồng bào Việt Nam đã khôi hài hóa hai mẫu tự VM bằng cách đọc nhanh nhiều lần “vê - em” để rồi cuối cùng lâu dần thành VẸM. Tuyệt vời! VẸM gần như VẸT - một loại chim giỏi bắt chước tiếng người - “Nói như vẹt” nghĩa là nói lập lại những điều mà mình không hiểu, tuy nhiên, từ VẸM sống động hơn VẸT nhiều và giầu tính châm biếm.

Vì bị “cách mạng” lường gạt trắng trợn mà sau ngày 30-Tháng-Tư-Đen hàng trăm ngàn quân, cán, chính của miền Nam Cộng Hòa đã bị đầy đọa thảm khốc trong ngục tù của Việt Cộng vốn được ngụy danh là “trại học tập cải tạo.” Nhiều người đã bỏ thây trong các trại khổ sai này.

Và cũng bởi “giải phóng” xảo trá đến độ “hết thuốc chữa,” chẳng những đúng ngày 30-Tháng-Tư-Đen mà cả hơn chục năm sau, “nếu cột đèn biết đi, nó cũng tìm đường trốn khỏi thiên đàng Cộng Sản” - huống chi là người vốn khát khao Tự Do và Dân Chủ - bất chấp sự ra đi đầy hiểm nguy, “chín phần chết, một phần sống.” Ý nghĩa và mục tiêu đó đã được Nam Lộc diễn tả tuy ngắn gọn, nhưng trúng phoóc trong nhạc phẩm “Xin đời một nụ cười”, “Tôi bước đi - vì không muốn làm kẻ tội đồ - Vì tôi muốn lại kiếp con người - Muốn cuộc đời có những nụ cười - Tự Do ơi, Tự Do, em đổi bằng thân xác - Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong...”

Cũng vì biết bao lý do cay đắng, uất nghẹn kể ra không hết mà hầu hết người Việt tị nạn cộng sản, nhất là các cựu quân nhân, các tù nhân của chính sách “học tập cải tạo” nay nghe người này thay vì phải gọi đúng tên ngày 30-Tháng-Tư-Đen cho danh chính ngôn thuận, lại gọi “ngày giải phóng” hay người khác gọi “ngày cách mạng vào,” thử hỏi làm sao họ không sôi máu-chống-Cộng hay không “tắc-dzăng nổi giận”?

Tóm lại, để mô tả thân phận đất nước Việt Nam nói chung, miền Nam Cộng Hòa nói riêng kể từ 30-Tháng-Tư-Đen, không gì bằng trích dẫn câu thơ của thi sĩ miền Bắc Trần Dần (1926-1997):
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ...
Nói cách khác, dưới chế độ Cộng Sản chỉ có nước mắt (mưa sa) và máu (cờ đỏ). Vậy mà bảo “quên,” họa có điên!

Thì đấy, ngày nay - sau 39 năm - Việt Nam là một trong những quốc gia “cầm đèn đỏ” về tôn trọng nhân quyền nhưng lại chiếm hạng cao cấp trong danh sách các nước tràn ngập nạn tham nhũng, trong khi đó phần đông dân chúng lâm cảnh hoặc “con đóng khố, bố cởi chuồng,” hoặc ngày thì “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi,” đêm lại “vỗ bụng rau bình bịch”. Thì đấy, sau 39 năm, hải phận và lãnh thổ Việt Nam đã bị sứt mẻ, bởi đảng Việt Cộng đã xẻ thân xác Mẹ Việt Nam, đã cắt xuơng, thịt Tổ Quốc Việt Nam đem “dâng” cho Trung Cộng - Thì đấy, sau 39 năm và cho tới ngày nào đảng Việt Cộng vẫn còn độc trị quê hương thì ở Việt Nam vẫn chỉ có toàn những nước mắt và máu đỏ...

Vậy mà bảo “quên,” họa có điên! (hm)

Hoài Mỹ



Hứa Với Tao - Trần Văn Lương

Dạo:
Trải qua một cuộc đổi đời,
Mấy ai còn giữ được lời thề xưa.

Hứa Với Tao
Thằng bạn vàng nối khố của tao ơi,
Đã mấy chục năm trời chưa gặp lại,
Kể từ buổi hai thằng cùng xuống bãi,
Mày thoát đi, tao thất bại quay về.

Tao mừng vui, dù đói rách ê chề,
Đoán mày chửa quên câu thề năm trước,
Vì thiên hạ về ăn chơi lũ lượt,
Chưa thấy mày theo bước họ lon ton.

Nhưng mưa lâu đá núi cũng phải mòn,
Sợ mai mốt mày không còn như cũ,
Nên tao muốn gởi đôi lời nhắn nhủ,
Tạm gọi là để thủ thỉ cùng nhau.

Không cần mày gửi tiền bạc cho tao,
Chung quanh khổ làm sao tao vui sướng.
Cần mày hứa đừng phụ lòng tin tưởng
Của toàn dân đang vất vưởng trông chờ.

Hứa với tao mày sẽ chẳng bao giờ,
Nối đuôi những kẻ trở cờ theo giặc.
Và đừng để lợi danh làm tối mắt,
Mà thay lòng trở mặt với tổ tiên.

Hứa với tao đừng tính chuyện đem tiền,
Về làm chủ rồi ăn trên ngồi trước,
Trong khi đó, kẻ làm công xuôi ngược,
Hiếm khi nào kiếm được bữa cơm no.

Hứa với tao, dù cửa rộng nhà to,
Đừng bày đặt dở trò làm “từ thiện”,
Mà thực tế chỉ tạo thêm phương tiện,
Cho bạo quyền vĩnh viễn ở trên ngôi.

Hứa với tao đừng tính chuyện ăn chơi,
Trên thân xác những người con đất Việt.
Hãy nghĩ đến những đắng cay oan nghiệt,
Quanh dân ta đã siết chặt bao đời.

Hứa với tao dù vật đổi sao dời,
Phải luôn nhớ mày là người tị nạn,
Không chấp nhận lũ bạo tàn Cộng sản,
Nên xuống thuyền liều mạng bỏ ra đi.

Hứa với tao mày sẽ chỉ “vinh quy”,
Khi lũ giặc man di không còn nữa,
Khi dân chúng có tự do chọn lựa,
Khi nhân quyền về lại giữa giang san.

Hứa với tao mỗi độ Tháng Tư sang,
Hãy đứng dưới lá Cờ Vàng khấn nguyện,
Hãy nhớ đến những người cùng chiến tuyến,
Và những ai vượt biển đã không còn.

Hứa với tao mày sẽ nhắc cháu con,
Luôn nghĩ đến dải non sông nước Việt
Đang dần mất vào trong tay lũ Chệt,
Và dân mình đang xiết nỗi lầm than.

Hứa với tao đừng nghe lũ Việt gian,
Sáng “hòa hợp”, chiều oang oang “hòa giải”,
Vì mỗi bận chúng lu loa lải nhải,
Là chúng đang tính kế hại đồng bào.

Hứa với tao, mày hãy hứa với tao,
Dù thời cuộc có thế nào đi nữa,
Vẫn giữ hoài ngọn lửa,
Mai sau về thắp giữa non sông.

Mày hứa đi để tao được yên lòng,
Ngày ngày bán vé số rong kiếm sống,
Nhưng ít nhất còn tí ti hy vọng,
Chế độ này sẽ chóng bị dẹp tan.

Tao tin mình sẽ không mất giang san,
Nếu may mắn toàn dân Nam hết sợ,
Và đâu đó vẫn có người trăn trở,
Vẫn như mày luôn nhớ đến quê hương.
*
* *
Người thương binh hãnh diện đứng rưng rưng,
Nào có biết cách chừng mươi dãy phố,
Thằng bạn cũ – “thằng bạn vàng nối khố” –
Đang xun xoe, miệng hô hố nói cười.

Trần Văn Lương
Cali, 30/4/2014



Hận thù còn đó

Quốc Hận tháng Tư: Hận thù còn đó

Quang Dương

Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư lại trở về với chúng ta trong niềm ngậm ngùi xót xa hơn bao giờ hết. Thật ra, không phải chỉ đến dịp Tháng Tư Đen hàng năm chúng ta mới nhớ về tổ quốc và tưởng niệm ngày Quốc Hận. Nỗi đau mất nước, mất quê hương, mất người thân, mất tài sản cơ ngơi sự nghiệp phải chăng tuy có lúc khắc khoải âm thầm, có lúc trào dâng mãnh liệt nhưng luôn canh cánh bên mình, nung nấu trong lòng tất cả người dân nước Việt, những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản ở trong lẫn ngoài nước.

Kẻ thù của chúng ta, bạo quyền CS miền Bắc VN, với tham vọng điên cuồng, với bản chất hung hăng của quân cướp nước, cộng với sự trợ giúp đồ tể của ngoại bang, đã trắng trợn vi phạm hiệp định Paris 1973, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, tức VNCH. Ngày 30 Tháng Tư 1975 là ngày đen tối nhất của toàn dân miền Nam, ngày tất cả người dân cùng phải chịu cái nhục bại trận và cái tang chung mất nước. Kể từ ngày bi thương máu lệ đó, niềm uất hận, nỗi đau quặn xé trong lòng mỗi người chúng ta vì ngậm ngùi xót xa cho quê hương, vì thương nhớ những người thân đã chết dưới tay CS chưa bao giờ nguôi ngoai.

Quân xâm lược sau khi chiếm được toàn thể miền Nam đã áp dụng những chủ trương và chính sách vừa thâm hiểm, vừa dã man tàn khốc, để đưa người dân trong Nam xuống cuộc sống bần cùng, đói rách, hạ tiện, mất nhân phẩm hầu dễ bề cai trị. Với bản tính hiếu thắng, kiêu căng của kẻ cướp nước, chúng ảo tưởng rằng có thể dùng mọi mánh khóe thủ đoạn, kể cả dụ dỗ ngon ngọt, mua chuộc móc nối, che dấu ngụy biện, thậm chí sử dụng bạo lực quân đội, công an, côn đồ, du đãng để cưỡng chế đàn áp, bắt ép chúng ta phải quên đi mối nhục hận vong quốc. Chúng đã lầm. Những điều bọn CS làm chỉ khiến lòng căm hận của chúng ta càng sôi sục hơn, càng nhận thấy rõ hơn dã tâm của chúng muốn tiêu diệt sức đối kháng của tất cả khối người Việt chống Cộng trong lẫn ngoài nước. Như hai chữ “Sát Thát” đã được xâm bằng máu, thích bằng dao lên da thịt quân dân Đại Việt thời nhà Trần, nhắc nhớ mối căm thù không đội trời chung với giặc Nguyên Mông, hai chữ “Quốc Hận” cũng đã hằn in bằng máu và nước mắt trong trí nhớ, trong tâm tưởng mỗi người dân miền Nam. Nỗi thống hận này sẽ còn mãi trong tim óc, trong xương thịt, trong từng bước đi, từng hơi thở của chúng ta, nhất là của những người từng là nạn nhân của CS.

Mỗi người chúng ta cũng không chỉ mang mối hận CS với tính cách riêng lẻ đơn thuần. Chúng ta còn có trách nhiệm cưu mang và nuôi dưỡng mối hận của những người đã chết vì CS nữa. Đây vừa là bổn phận vừa là nghĩa vụ thiêng liêng bắt buộc. Hàng triệu nạn nhân oan mạng của CS, trong đó những đồng bào vô tội, những thân nhân ruột thịt của chúng ta là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Lý do vì Họ không còn có thể chất chứa mối hận sinh tử với CS và mong có ngày đòi CS phải trả món nợ máu xương. Tuy vậy, u linh oán khí của Họ đã dằng dặc đất trời, trùm phủ núi sông. Oan hồn của Họ chưa thể siêu thoát ngày nào chế độ bạo quyền CSVN còn chưa xụp đổ, và những tên tội đồ đảng viên và tay chân họ Hồ có nợ máu với dân tộc còn chưa bị đưa ra xét xử. Trong âm thầm vô ảnh, Họ vẫn hiện diện một cách tế vi và thường hằng bên chúng ta dưới nhiều hình thức. Thật ra, Họ vẫn đang “sống” trong chúng ta, phù trợ chúng ta, đồng hành với chúng ta trên mỗi bước đường chống Cộng. Hãy nhớ rằng trong mỗi con người chúng ta hiện nay đều đang mang một phần anh linh và thể phách của những nạn nhân đã chết vì chính nghĩa tự do, vì không chấp nhận chế độ CS. Chúng ta chống chế độ và con người CS không chỉ cho riêng chúng ta mà còn vì món nợ tinh thần đối với những đồng bào, người thân đã bỏ mạng trong suốt thời gian đảng CS hoành hành trên đất nước thân yêu nữa.

Nói vậy phải chăng chúng ta thù dai? Hay chúng ta quá khích, chống Cộng cực đoan? Bạo quyền CSVN thường viện lý do rằng chúng ta lòng dạ hẹp hòi, nuôi dưỡng thù hận, chống Cộng điên cuồng quá khích, không chịu mở rộng vòng tay đón nhận lời đề nghị hòa hợp hòa giải của chúng. Rằng đã qua nhiều năm, hãy khép lại quá khứ, xóa bỏ hận thù, xây dựng tương lai. Nhưng hãy tự hỏi ai mới thật thù dai, ai mới là kẻ ngoan cố, hẹp hòi, cực kỳ tham ác hiểm độc, là nguồn gốc của mọi oán thù, chia rẽ?

Không kể thời gian trước 1975, thời CS Bắc Việt tiến hành chiến tranh xâm chiếm miền Nam (vốn đã khét tiếng với những tội ác dã man kinh hoàng của CS đối với quân dân miền Nam mà sửa sách còn ghi chép đầy đủ), hãy chỉ thử nhìn lại trong 39 năm sau ngày mất nước, bạo quyền CSVN đã và đang đối xử với những người dân của một nửa quốc gia bị chúng cưỡng chiếm ra sao? Chúng đã làm được gì cho dân tộc, cho quê hương? Hay chỉ toàn những tội ác và tệ nạn gây thêm căm thù, oán hận, khinh ghét và ghê tởm. Xin tạm chia ra làm hai giai đoạn:
Những tội ác của CS gây hận thù từ 30/4/75 đến 1989
Những năm tháng sau ngày cưỡng chiếm miền Nam VN với chủ trương và chính sách vô cùng nham hiểm thâm độc, CS đã làm những điều sau đây mà chúng bảo là “vô cùng nhân đạo”, “mở rộng vòng tay”, “xóa bỏ hận thù”:
  1. Tập trung cải tạo quân dân cán chính VNCH, thực ra là tù khổ sai vô hạn định nơi rừng sâu núi cao, ma thiêng nước độc mà hậu quả là mấy trăm ngàn người miền Nam bị chết vì bị tra tấn, xử tử, đói khát, bệnh tật, kiệt sức.

  2. Đẩy dân đi kinh tế mới để chiếm nhà chiếm đất, cướp tài sản cá nhân đồng thời một công hai việc, giết bớt dân miền Nam cho dân miền Bắc tràn vào thay thế.

  3. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, thực chất là thu gom cướp trắng toàn bộ tài sản, nguyên vật liệu, khí cụ sản xuất, tài nguyên, nguồn vốn lớn của đồng bào miền Nam đem về Bắc chia chác lẫn nhau.
  4. Hợp tác xã kinh doanh/sản xuất, tổ hợp tiểu thủ công, nông nghiệp chỉ là cái cớ để bần cùng hóa người dân lao động, bóp chết tài năng sáng tạo, triệt tiêu năng lực sản xuất và tạo điều kiện cho đám cán bộ địa phương công khai ăn cướp của cải, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn của dân.
  5. Đổi tiền, cấm đường, cấm chợ, cấm tư bản tư doanh, cấm báo chí tư nhân, cấm hội họp và chính sách hộ khẩu, tem phiếu sổ gạo, công an khu vực, đi khai về trình, tổ dân phố đã bóp nghẹt bao tử người dân vốn càng ngày càng teo tóp sau ngày mất nước đồng thời kiểm soát gắt gao, hạn chế tự do đi lại, tự do lập hội, tự do ngôn luận… Nói chung người dân miền Nam bị tước đoạt tất cả mọi quyền tự do mà họ từng được hưởng thoải mái đầy đủ trong chế độ VNCH.
  6. Về tôn giáo, các nhà thờ, chùa chiền, miếu đền, nơi thờ phượng đều bị kiểm soát chặt chẽ, thậm chí bị tịch thu, giải tỏa. Tu sĩ bị cấm giảng đạo, bắt hoàn tục, giáo dân bị theo dõi, cấm theo đạo.
  7. Đến nghĩa trang mộ phần là nơi an nghỉ của người quá cố cũng không được yên. Hầu hết nghĩa trang đều bị đập phá, san bằng để cán bộ CS cướp đất kinh doanh lấy tiền bỏ túi. Những nghĩa trang lớn như nghĩa trang quân đội Biên Hòa vì bạo quyền còn e ngại phản ứng bất lợi từ tất cả người dân nếu thẳng tay xóa bỏ nên chúng đã ngấm ngầm phá hoại bằng cách một mặt trồng rất nhiều các loại cây muồng, cây sao, cây có rễ ăn xiên phá đất để hủy hoại các ngôi mộ ở chung quanh. Một mặt đập phá, bỏ cho hoang phế đồng thời ngăn cản, cấm đoán thân nhân của tử sĩ đến thăm viếng, trùng tu, đôn đắp mộ phần. Hành động táng tận lương tâm này đã gây nên sự phẫn nộ trong lòng tất cả người dân Việt vì nó chứng tỏ rõ ràng nhất rằng CSVN vẫn còn nuôi hận thù đối với những người lính VNCH đã tử trận dù chiến tranh chấm dứt từ lâu. Về điểm này, bọn chúng đâu khác chi những vua chúa ngày xưa, lòng dạ nhỏ nhen, cựu thù chết rồi mà vẫn sai đào mộ lấy xác đốt thành tro, trộn vào thuốc súng thần công bắn cho tan xác thêm một lần nữa!
  8. Về mặt văn hóa, CS ra lệnh tịch thu, đập phá, thiêu hủy toàn bộ văn hóa phẩm như các loại sách báo, tài liệu tham khảo, họa phẩm, hình tượng, phim ảnh, băng dĩa nhạc…của VNCH với mục đích xóa sạch những tinh hoa nhân bản, văn minh của miền Nam. Thay vào đó, chúng thay bằng những sách báo XHCN rồi ra sức tuyên truyền, bắt ép người dân miền Nam phải học tập những giáo điều khô khan cứng ngắc của một chủ thuyết sắt máu, lạc hậu, lỗi thời. Chúng muốn biến toàn thể dân miền Nam thành những cái máy không còn biết suy nghĩ phải trái, thành nô lệ sẵn sàng làm bất cứ điều gì chúng muốn.
  9. Phân biệt đối xử giữa người thuộc chế độ VNCH và người của bọn chúng. Quân dân cán chính VNCH đương nhiên bị gạt ra ngoài xã hội, chỉ một số rất ít được lưu dụng vì nhu cầu nhưng chỉ có tính cách tạm thời và không có quyền quyết định một điều gì. Tất cả quân dân VNCH bị coi như những công dân hạng hai. Thân nhân, con cháu những người có dính líu đến chế độ cũ không được vào đại học, bị chèn ép nơi học đường. Người đi làm bị nghi kỵ, theo dõi nơi sở làm. Người ở nhà bị dòm ngó xoi mói bởi công an khu vực và cán bộ phường khóm xã ấp.
  10. Dưới chế độ hà khắc, chủ trương trả thù đê hèn của bạo quyền CS, người dân miền Nam đã phải tìm cách bỏ nước ra đi, bất chấp hiểm nguy, vượt biên vượt biển bằng đường bộ, đường biển. Số người mất tích, bỏ xác nơi rừng sâu, khe núi hay đại dương biển cả nhiều không đếm xuể. Thống kê không chính thức lên tới 400.000 người. CS không thể chối cãi là chúng không có trách nhiệm về số lượng khổng lồ những người chết này. Chính cuộc xâm lược miền Nam và chính sách tàn bạo của chúng đã xô đẩy dân miền Nam vào thảm cảnh đoạn trường có một không hai trên toàn thế giới. Nỗi kinh hãi lẫn oán hận và ghê tởm CS của người miền Nam nếu có cũng là điều hiển nhiên.
Trên đây chỉ là vài trong số vô vàn việc làm gây phẫn uất căm hờn trong dân chúng sau ngày CS miền Bắc xâm chiếm miền Nam tự do. Thiết nghĩ chỉ những điều đó cũng đã quá đủ để chứng minh CSVN chính là kẻ tạo ra hận thù. Nhưng không phải tội ác của chúng chấm dứt ở đó.
Những việc làm của CS gây oán hận từ 1990 về sau
Sau thời gian thi hành những chủ trương và chính sách sai lầm đưa miền Nam nói riêng và cả nước đi vào con đường bế tắc, kiệt quệ, oán thù chồng chất, bạo quyền CS suốt trong những năm tháng kể từ đầu thập niên 90 cho đến bây giờ vẫn tiếp tục gây thêm tang thương oán hận bằng vô số những hành động thất nhân tâm. Bọn chúng không chỉ gây tội ác với người dân miền Nam mà còn với đồng bào cả nước.

Vin vào chủ trương đường lối kinh tế mới, bung ra thị trường, gọi nôm na theo kiểu đầu gà đuôi vịt là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” (do chính chúng vẽ vời ra), thay cho Kinh tế tập trung, bao cấp đã bị phá sản, bọn đảng viên cán bộ đua nhau vơ vét làm giàu, tham nhũng hối lộ, lập phe nhóm ăn cắp của công, ăn cướp của dân một cách công khai trơ trẽn. Bọn chúng chia nhau nắm giữ tất cả những công ty, xí nghiệp, ngân hàng, cơ sở kinh doanh quan trọng. Cha mẹ, anh chị em, con cháu, họ hàng và tay chân bọn chúng được giao cho nắm giữ những chức vụ béo bở đầy quyền hành, hái ra tiền dù chẳng có tài cán đạo đức gì. Những tên cùng phe với nhau hợp thành những nhóm lợi ích để bao che thủ lợi. Chúng còn mạnh tay thu gom tài nguyên đất đai, khoáng sản, lâm sản, thủy sản, nguồn vốn công béo bở nhờ lợi dụng chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhà nước (thì cũng do chúng tự đặt ra). Khi kinh doanh bị thua lỗ, sản xuất sa sút đình trệ do khả năng yếu kém, tham nhũng, ăn cắp lan tràn, chúng xoay sở chạy tội, lôi kéo ra cả bầy đàn cán bộ đảng viên chóp bu cùng dính máu ăn phần. Sau những màn trình diễn xử án làm cảnh, tất cả lại huề cả làng hoặc chỉ đem vài “con dê tế thần” cho có lệ vì ngành Tư pháp, tòa án cũng là tay chân bọn chúng và cũng vì rút dây thì động rừng, phe nào cũng ăn bẩn như nhau cả.

Viện lý do thực hiện dự án này, quy hoạch nọ, chúng giải tỏa/cướp trắng nhà đất của dân nghèo, đền bù với giá rẻ mạt do chính bọn chúng ấn định. Khu đất cướp được chúng đem bán cho tư bản nước ngoài với giá trên trời, gấp hàng ngàn lần hơn giá chúng trả cho khổ chủ. Công nhân thì bị bóc lột sức lao động, chèn ép, hạ nhân phẩm, làm tăng giờ, trả lương thấp do chủ nhà máy (đa số là ngoại kiều) toa rập với cán bộ địa phương để ngoảnh mặt làm ngơ. Dân oan hoặc công nhân biểu tình khiếu kiện đòi sự công bằng thì bị đe dọa, trấn áp, đánh đập tàn tệ, thậm chí bỏ tù. Những người dân khác thấy cảnh bất công, tìm đến giúp đỡ đồng bào cô thế thì bị bạo quyền sai công an và côn đồ bao vây, dọa nạt, gây khó dễ trong việc di chuyển và cũng bị hành hung, quấy nhiễu, vu cho tội âm mưu chống phá, lật đổ chính quyền.

Nhiều người dân nghèo không sống nổi ở quê nhà phải tha phương cầu thực, đi làm “lao động xuất khẩu” ở những nơi rất xa. Các cô gái VN nghèo không đường sinh kế phải xếp hàng khỏa thân cho đàn ông ngoại quốc sờ nắn chọn lựa mua về làm vợ như mua một món đồ vật (thực tế nhiều phần là phải làm đầy tớ, vật thỏa mãn sinh lý cho cả nhà chồng). Trong dịch vụ xuất cảng công nhân lao động, mua bán cô dâu VN, bọn cán bộ CS cũng được những công ty môi giới đút lót để chúng đồng lõa ăn chặn tiền công, ăn cướp tiền bán xác thân của những con người bất hạnh.
Kinh tế, xã hội đã vậy còn các mặt khác thì sao?
Về tài chính thì “tiền vào nhà Cộng như gió vào nhà trống”, bao nhiêu tiền bạc của cải đổ vào đám mồm gàu tai quạt, hôn quan ôn vật VC và cái bộ máy tài chính cũ rích rệu rạo ngốn tiền như hạm của chúng cũng không bao giờ đủ. Tiền đồng của CSVN lạm phát theo lối phi mã, người dân không còn tin tưởng vào giá trị đồng tiền và khả năng chi trả của ngân hàng nên không muốn gửi tiền trong đó. Dĩ nhiên, vì ngân hàng nhà nước và các ngân hàng kỹ, nông, công, thương khác chỉ là phương tiện cho bọn cán bộ và đại gia chiêu dụ, phù phép, lừa đảo ăn cướp tiền của dân và của những nhà đầu tư ngoại quốc còn ngây thơ tin tưởng vào lời lẽ ngon ngọt đầu môi chót lưỡi của CS. Do khả năng quản lý yếu kém, hệ thống tài chính và ngân hàng của CSVN đang kiệt quệ, đứng bên bờ vực thẳm khánh tận vì nợ công nợ tư ngập đầu mà không tìm đâu ra nguồn vốn để xoay sở.

Sang đến giáo dục và y tế thì băng hoại, thối nát, chỉ biết chạy theo đồng tiền và cái ghế ngồi, coi rẻ đạo đức xã hội và luân lý chức nghiệp. Thầy cô tìm cách bắt học sinh phải đóng tiền học thêm những lớp luyện thi. Tình trạng mua bán đề thi là phổ biến. Cán bộ có chức quyền ăn hối lộ hoặc gài ép cô giáo trong việc bổ dụng, thuyên chuyển để thỏa mãn dục vọng Thầy giáo mua/ép dâm học trò hay học trò bán dâm để lấy điểm lên lớp. Nhà thương, bác sĩ, nhân viên y tế ưu tiên chữa bệnh cho cán bộ đảng viên. Những kẻ có quyền chức, đại gia đỏ được hưởng sự săn sóc tối đa, nằm bệnh viện tân tiến, bác sĩ giỏi, thuốc men thừa mứa, ăn uống thỏa thuê. Dân thường chỉ được chữa trị nếu có tiền. Ai có đủ tiền trả trước cho dịch vụ y tế thì mới được chẩn bệnh, nhập viện. Ai nghèo túng, khố rách áo ôm thì cứ việc nằm đường chờ chết. Những kẻ cầm đầu bất tài vô hạnh trong hai ngành này đã gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng mà vẫn bình chân như vại dù tội lỗi đã rành rành. Tiếng kêu than, phiền trách, tố cáo của người dân về những tệ nạn trong hai ngành này đã thấu trời xanh nhưng tình trạng đâu vẫn hoàn đó vì bọn chóp bu CS còn đang lo củng cố quyền lực và vơ vét làm giàu, làm gì còn thì giờ lo cho dân cho nước. Hơn nữa dẫu thay người cỡ “Vũ Như Cẩn” bằng “Nguyễn Y Vân” thì cũng rứa! Bọn chúng cùng một ruộc, lấy đâu ra những bậc thiện lương tài đức để cầm cân nẩy mực?

Đến giao thông thì đường xá, cầu cống chật hẹp xuống cấp, lưu thông ứ đọng. Tai nạn xe cộ xảy ra hàng ngày do thiếu kế hoạch tu sửa hợp lý và mở rộng kịp thời. Người dân thù ghét coi thường cảnh sát và luật lệ giao thông cũng vì tai tiếng của ngành này. Sự kiện cảnh sát giao thông vừa hống hách, hành xử vũ phu, coi thường mạng sống của người dân vừa lợi dụng quyền bắt người phạm luật để lấy tiền đút túi đã được phản ánh rất nhiều. Về xây dựng thì các công trình xây cất, nhà cửa, cầu, hầm đều dưới tiêu chuẩn an toàn, có khi đổ xập bất ngờ gây tai nạn chết người thảm khốc vì tệ nạn móc ngoặc tham nhũng, ăn hối lộ, tráo vật liệu trong khi gia công và nghiệm thu. Tại nhiều tỉnh miền cao nguyên, phương tiện giao thông và đề xuất xây dựng còn thiếu thốn đến độ các em học sinh phải đánh đu trên những cây cầu treo đã mục gẫy nghiêng đổ để đi học hoặc phải chui vào bao nhựa để người lớn đưa qua sông qua suối.

Về nội an thì tội ác trộm cắp, xì ke ma túy, cướp của giết người nhiều như rươi. Không ngày nào không có tin tức về giựt rọc, trộm cướp, đâm chém, cờ bạc, hiếp dâm, giết người, nhiều trường hợp rất dã man rùng rợn, bất kể đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục lâu đời. Chính quyền, công an thì bất lực trước những tệ nạn xã hội này nhưng lại rất sành sỏi và nhanh nhạy trong việc quây bắt, trấn áp, tra tấn những người biểu tình yêu nước đòi tự do dân chủ hoặc chống quân Trung Cộng xâm lăng lấn chiếm biên giới, biển đảo của quê hương. Người dân sống trong cảnh hồi hộp lo âu thường trực, không biết lúc nào tai nạn sẽ xảy đến cho mình. Tất cả chỉ vì thượng bất chính thì hạ tắc loạn.

Với bản chất tham lam độc ác lại thêm thói quen chuyên dùng thủ đoạn lường gạt cố hữu từ thời bám váy dân nghèo nhúm nhen lập đảng của đầu thập niên 30, tập đoàn thống trị độc tài độc đảng CSVN hiện nay chỉ biết một điều duy nhất là trong thì cướp bóc, vơ vét và làm giàu cho chính bản thân chúng bất kể cuộc sống của người dân có ra sao. Ngoài thì kể từ sau Hội nghị Thành Đô hồi tháng 9 năm1990, bọn chúng rõ ràng đã quy phục Trung Cộng. Nội dung cuộc họp bị giấu nhẹm nhưng những diễn tiến xảy ra trong thời gian sau đó đã chứng minh những “đỉnh cao trí tuệ” sang triều cống thiên triều chỉ là để xin tha tội và khi về đã đồng lòng răm rắp tuân theo chỉ thị, thực thi tất cả những gì bề trên của chúng đòi hỏi. Chúng nịnh bợ ve vuốt Tàu Cộng đến hèn hạ. Chúng chấp nhận ký những hiệp định về biên giới và biển đảo có lợi cho Tàu, mở cửa ngõ biên giới cho quân Tàu tự do qua lại, đóng chốt, xây dựng căn cứ, mai phục lâu dài tại những địa điểm chiến lược hiểm yếu nhằm mục đích thôn tính đất nước ta trong tương lai. Bọn lính Tàu giả dạng công nhân có vi phạm luật pháp VN thì công an VN cũng không dám bắt giữ, tòa án không dám xét xử. Bạo quyền CSVN còn ngậm tăm không dám phản đối TC khi Bắc Kinh công bố “đường lưỡi bò”, tự tiện phách lối chiếm trọn 80% diện tích biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong đó. Hèn hơn nữa là bọn chúng chỉ dám phản đối suông lấy lệ khi tàu hải giám, tàu tuần của TC cấm cản, chận đánh, phá hoại, gây thương tích cho ngư dân, bắt giữ trái phép, đòi tiền chuộc nhiều lần các tàu thăm dò dầu khí và tàu thuyền đánh cá của dân ta trong hải phận và chủ quyền VN. Bọn chúng còn thậm chí cắt dâng biển đảo đất liền cho chủ với mục đích mong được Tàu Cộng bảo bọc, chống lưng để yên tâm đè đầu cưỡi cổ dân lành, vinh thân phì gia và muôn năm trường trị.

Đất nước, giang sơn của tổ tiên mà cũng chỉ còn là món đồ để mua bán đổi chác trong tay bạo quyền CSVN thì bọn chúng xá gì sự sống còn của gần 90 triệu đồng bào (dĩ nhiên đã trừ ra cỡ một triệu đảng viên CS cốt cán). 39 năm trôi qua quá đủ để chúng ta không còn nghi ngờ bản chất xấu xa hèn với giặc, ác với dân, gặp ai cũng lường gạt, thấy gì cũng vơ vét của con người CS. Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư năm nay là dịp để chúng ta nhắc nhớ nhau thêm những tội ác của CS với đất nước, với dân tộc để mà càng cảnh giác, càng nuôi thêm mối căm hận bọn chúng. Ngày nào bạo quyền CSVN còn thống trị trên quê hương, chúng ta còn cương quyết tranh đấu chống lại. Hãy không tin, không nghe, không làm, không nhận bất cứ điều gì CS dụ dỗ mời mọc. Kinh nghiệm cho thấy CSVN chỉ có thể bị xóa bỏ, tiêu diệt chứ không bao giờ có thể hòa giải hoà hợp, cùng bắt tay chung sống.

Quang Dương (Quốc Hận 4/2014)



Wednesday, April 30, 2014

Người Lính Việt Nam Cộng Hoà

Người Lính Việt Nam Cộng Hoà
“ĐÂY LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM
PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SÀI GÒN…”
Cho đến nay, tiếng nói đó vẫn còn
Vang vọng mãi trong trái tim “Người Lính”
Là hình ảnh của một thời ổn định
Là tiền đồn của Thế giới tự do

Của miền Nam nước Việt rất ấm no
Là thành lũy mang hồn thiêng sông núi
“Người Lính” trẻ đã một thời dong ruỗi
Đem Tình người, Tình lính trấn biên cương

Vẫn một lòng chung thủy với quê hương
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng
“Người Lính” chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng
Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần


Trọn một lòng chỉ vì Nước, vì Dân
Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc
Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc
Đến Cà Mau mưa, lũ ngập đồng sâu

Vết giầy saut lội bất cứ nơi đâu
Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống
“Người Lính” chúng tôi mang trái tim hào phóng
Của tuổi đời đẹp nhất: lúc đôi mươi

Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng
Trong gian truân vẫn nồng ấm nụ cười
Dù đôi lúc có hoang mang, phẫn nộ
Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh

Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh
Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt trận
Rồi cũng đến lúc chào thua số phận
Khi tàn vong đành nước mất, nhà tan


Vì thế cùng, lực tận phải sang bang
Thân nhược tiểu, xót thầm, ôi ngang trái
“Người Lính” chúng tôi không hề chiến bại
Chỉ chào thua định mệnh đã an bài

Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại
Chờ bình minh quang phục của ngày mai

Huy Văn