Friday, March 26, 2010

Thành Viên Kiện Chủ Tich Cộng Đồng - Nguyễn Quang Duy


    Phiên Tòa Lịch Sử: Thành Viên Kiện Chủ Tịch Cộng Đồng
Nguyễn Quang Duy

Lần đầu tiên trong lịch sử tỵ nạn cộng sản Việt Nam một chủ tịch cộng đồng ông Nguyễn Thế Phong (chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự Do tại Victoria - Úc châu nhiệm kỳ 2007-2009) đã bị một thành viên ông Võ Ngọc Anh (tự là Võ Long Ẩn, Chủ tịch Hội Thiện Chí Tỵ Nạn Việt Nam) mời hầu tòa Trung Thẩm Victoria (County Court). Ông Anh thưa ông Phong với tội danh phỉ báng vì trong phiên họp Cộng Đồng ngày 15-3-2009 ông Nguyễn Thế Phong đã nói ông Anh là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng.

Vụ xử đã liên tục 10 ngày từ thứ tư 10/3/2010 đến ngày thứ ba 22/3/2010. Toà án đã phán xử ông cựu chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria Nguyễn Thế Phong đã hành xử đúng vai trò được cộng đồng giao phó và đã không nói như ông Võ Ngọc Anh đã kiện.

Thiết nghĩ đây là một bài học chung cho người Việt hải ngọai, người viết xin không đi vào chi tiết vụ kiện, cố gắng trong khả năng trình bày đến bạn đọc xa gần những sự việc chung quanh vụ kiện nói trên.

Lý do vụ kiện

Ngày 16-2-2009, CĐNVTD-VIC có tổ chức một cuộc biểu tình phản đối cuộc triển lãm quảng cáo du lịch Việt Nam “Impressive Vietnam” tại Crown Casino. Nhiều thành viên cộng đồng quan tâm việc Crown Casino sẽ trở thành một trung tâm văn hóa vận cho cộng sản Việt Nam nên đề nghị Ban Chấp Hành Cộng đồng tổ chức cuộc biểu tình này. (Xin ghép Hình 1: Cuộc biểu tình “Impressive Vietnam ” tại Crown Casino)

Người viết có tham dự cuộc biểu tình và có một kỷ niệm nhỏ khó quên. Trong cuộc biểu tình, khi phát truyền đơn và giải thích đến khách vào chơi Casino, người viết có nói chuyện với một cựu chiến binh Úc đã chiến đấu tại Việt Nam đến từ Queensland. Sau đó người viết mời ông John tham dự cuộc biểu tình và phát biểu cảm tưởng của ông về việc Úc tham chiến tại Việt Nam . (Xin ghép Hình 1036: Người đội nón tay cầm cờ là người viết, bên cạnh là chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân ông Nguyễn Việt Long và người cựu chiến binh Úc ông John)

Vài tuần sau người viết nhận được Thông cáo Cộng đồng mời tham dự một phiên họp đặc biệt ngày 15-3-2009 để nghe tường trình về việc một thành viên đã điện thọai đến Crown Casino cho tin sai lạc về mục đích của cuộc biểu tình nói trên. Người viết không tham dự cuộc họp này. Nhưng sau đó có nhận được thông cáo báo chí kết quả cuộc họp.

Chỉ ít lâu sau có tin đồn là trong buổi họp ông Võ Ngọc Anh đã bị ông Nguyễn Thế Phong quy kết là Việt cộng, bị Việt cộng mua chuộc với dụng tâm đánh phá cộng đồng. Người viết đã liên lạc với một số vị có tham dự buổi họp để kiểm chứng và mọi người đều trả lời không có chuyện trên.

Sau đó ít lâu vào cuối tháng 5-2009, người viết lại nhận được thông báo cho biết ông Võ Ngọc Anh đã kiện ông chủ tịch Nguyễn thế Phong tội phỉ báng vì đã nói ông là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng.

Người Việt tại Úc châu khi bị người khác gán ghép là Việt cộng hay cộng sản thì đúng là một sự phỉ bang, một sự mạ lỵ không thể chấp nhận được.

Một vụ kiện Cộng Đồng khác

Vào tháng 6, một thông cáo khác cho biết ông Võ Ngọc Anh lại đứng đơn kiện cáo buộc CDNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã “tham lũng” công quỹ của cộng đồng. Cùng đứng chung đơn kiện với ông Anh còn có hai ông Nguyễn Thanh Hùng và ông Nguyễn Như Long.

Ngừơi viết vừa từ một tiểu bang khác dọn về Melbourne Victoria sinh sống nên không gần gũi lắm với ông cựu chủ tịch Nguyễn thế Phong. Tuy nhiên vẫn thầm phục chỉ trong vòng vài năm, ông là đầu tầu đã vận động và xây dựng được ngôi Đền Thờ Quốc Tổ. Đền Thờ Quốc Tổ là tên đồng hương tại Victoria gần gũi và trang trọng đặt cho. Còn tên chính thức là Trung Tâm Di Sản Văn Hóa Việt Nam .

Lần đầu người viết đến Đền Thờ Quốc Tổ để tham dự lễ tri ân một chiến sỹ Úc hy sinh tại Việt Nam vừa được cải táng. Bên tay phải của bàn thờ Quốc Tổ là bàn thờ các chiến sỹ Úc đã hy sinh tại Việt Nam. Người viết rất cảm phục sự sâu sắc của những người đã xây dựng đền thờ để con cháu không quên tổ tiên và những ân nhân đã bỏ mình chiến đấu cho miền Nam tự do. Thật đúng với văn hóa Việt vốn trọng ân trọng nghĩa.

Người viết không phải chỉ cảm phục ông Phong mà còn chân thành cám ơn nhiều người đã đồng lòng để xây dựng đền thờ. Trong đó có những người đang đưa, hay ủng hộ việc đưa, ông Phong ra tòa.

Nhưng rồi những bất đồng nội bộ đã xảy ra và mỗi ngày một thêm căng thẳng. Rồi báo chí địa phương đưa tin và dư luận hoang mang về việc sử dụng tài chánh xây dựng đền thờ và chi thu Cộng đồng.

Khách quan nhận xét thì việc tài chánh đều có sổ sách và báo cáo đến Chính Phủ, báo cáo trong các Đại Hội Thường Niên Cộng Đồng đến mọi đồng hương. Cũng theo nội quy mọi chi tiêu trên $500 Úc kim cần có chữ ký của ông chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn Giám Sát, nay chính ông lại đứng về phía những người thưa kiện để đưa Cộng đồng ra hầu tòa. Thật là khó hiểu.

Ngay khi vấn đề được đưa lên báo chí, một ban Kiểm tra Tài Chính đã được các tổ chức trong Cộng Đồng đề cử để xem lại sổ sách kế tóan. Kết quả không tìm thấy điều gì sai sót.

Ngày 12-2-2010, việc cáo buộc CDNVTĐ-VIC “tham lũng” tiền công qũy của cộng đồng đã không đựơc tòa sơ thẩm xét xử. Tòa cho rằng đây chỉ là tranh chấp nội bộ không thuộc phận sự của tòa án. Tòa quyết định đưa sự vụ xuống Trung Tâm Giải Quyết Các Tranh Chấp (Dispute Center) để hai bên tìm cách hòa giải vấn đề.

Trong một cuộc phỏng vấn gần nhất với đài 2VNR, tân chủ tịch ông Nguyễn văn Bon cho biết phía Cộng đồng đã đưa ra tất cả hồ sơ sổ sách kế toán nhưng phía đứng đơn đòi Cộng đồng phải làm lại kiểm toán hàng chục năm về trước. Theo ông Bon đây là đòi hỏi không thể chấp nhận được vì hằng năm Cộng đồng đã có kiểm toán độc lập.

Hơn thế nữa trong mọi phiên họp với bên nguyên đơn, cũng như trong buổi họp ở Trung Tâm Giải Quyết các Tranh Chấp, luật sư Cộng đồng đã nói là hồ sơ tài chánh kế toán của Cộng đồng lúc nào cũng sẵn có để cho bên nguyên đơn nghiên cứu. Trước phiên tòa ngày 12-02-2009, bên nguyên đơn đã gởi một kế toán viên đến xem xét và nghiên cứu các hồ sơ này. Nếu bên nguyên đơn muốn thực hiện kiểm toán lại những hồ sơ tài chánh này thì họ cứ tiến hành, tuy nhiên chi phí kiểm toán phải do bên nguyên đơn trả.

Chính trị hóa vấn đề

Thế rồi việc Đền thờ Quốc Tổ lại lan sang việc đấu tranh chống văn hóa vận cộng sản, trong khi đồng hương biểu tình phản đối cuộc triển lãm “Impressive Vietnam” tại Crown Casino như đã tường trình bên trên.

Gần đến các ngày biểu tình thì hằng ngàn tờ A3 với hình ông Nguyễn Thế Phong và những lời cáo buộc được âm thầm dán khắp các khu vực đông người Việt sinh sống tại Melbourne. Lần biểu tình gần đây nhất, riêng người viết đã tự tay cạo xé trên 20 tấm tại khu Footscray. Nhiều người khác bất bình cũng đã tiếp tay cạo xé. Nhưng có cạo mấy hiện tại các khu đông người Việt sinh sống vẫn còn những dấu tích nham nhở do những kẻ “ném đá dấu tay” gây ra.

Rồi trên báo mạng Công An Nhân Dân, giữa tháng 3-2009, có bài viết xuyên tạc CĐNVTĐ tại Úc châu. Cá nhân ông Nguyễn Thế Phong bị mang ra bôi nhọ, những điều chẳng khác gì nội dung tờ cáo buộc tại khu Footscray. Cũng cần biết ông Nguyễn thế Phong hiện là chủ tịch Cộng Đồng người Việt tự do tại Úc Châu. Bài viết cũng đề cao 3 thành viên đã bất đồng trong việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ. Không hiểu vì sao bài viết được gỡ xuống chỉ sau ít ngày trên mạng báo Công An Nhân Dân.

Ban Chấp Hành Mới

Tháng 9-2009, nhiệm kỳ ông Nguyễn Thế Phong thụ lý chấm dứt. Trước đó CĐNVTĐ tại Victoria đã tổ chức một cuộc bầu cử. Mọi đồng hương sinh sống tại Victoria đều được quyền tham gia ứng cử và bầu cử. Đa số các thành viên trong Tân Ban Chấp Hành vừa đắc cử đều chỉ trên dưới 30 tuổi. Người viết biết được các bạn trẻ nhận ra nỗi bất công nên đã dấn thân gánh vác cộng đồng trong cơn thử thách pháp lý. Thật đáng ngưỡng phục.

Ông Nguyễn văn Bon, tân chủ tịch CĐ đã thông báo đến đồng hương như sau: “Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban Chấp Hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội Quy CÐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của mình.”

Bên cạnh đó là một Ủy Ban Pháp Lý đã được thành lập do cô Nguyễn Lê Thanh Trúc làm chủ tịch. Cô Thanh Trúc cũng chỉ vừa hơn 30 tuổi. Cô đã tuyên bố như sau: "Ủy Ban Pháp Lý không phải chỉ bảo vệ pháp lý cho ông Nguyễn Thanh Phong, Ủy Ban sẽ bảo vệ pháp lý cho bất cứ thành viên nào thực hiện đúng nội quy của cộng đồng mà phải lâm vào vòng pháp lý". Người viết rất cảm phục câu xác quyết trên.

Để đối phó với Nghị Quyết 36, cộng sản sẽ tung tiền ra để các thành viên tích cực của cộng đồng phải bị kiện tụng. Do đó nếu không được hỗ trợ tài chính thì khó có thể nói đến công lý và công bằng. Tại Úc châu hiện đang có một cao trào kiện tụng: nhà sư kiện nhà báo, nhà sư kiện đệ tử, cá nhân kiện cá nhân về những việc có liên quan đến sinh họat cộng đồng ... Có xác quyết như cô Thanh Trúc thì mới có người tiếp tục sẵn sàng dấn thân gánh vác, phục vụ cộng đồng.

Theo lời khuyên của luật sư, trước khi tòa án phán quyết, ông Nguyễn Thế Phong và các anh chị em trẻ trong tân Ban Chấp Hành phải cố gắng không làm một điều gì có thể gây bất lợi cho vụ kiện. Trong khi ấy như một chiến dịch đã đựơc tung ra, nhiều câu hỏi được đặt ra qua các điện thơ, qua diễn đàn một số báo chí, thơ nặc danh được gởi đến một số Hội Đoàn, Đoàn Thể, các cáo buộc được liên tục dán trong những khu đông người Việt ... nếu trả lời hay lên tiếng sẽ có thể vướng mắc các ràng buộc luật pháp. Việc phía Cộng Đồng từ chối trả lời lại gây thêm nhiều câu hỏi từ phía công luận tạo ảnh hưởng bi quan đến đồng hương và ngay cả một số thành viên hết lòng với cộng đồng.

Người viết quan niệm khi tòa án chưa xét xử thì ông Nguyễn thế Phong vẫn hoàn toàn vô tội, ông đã làm đúng Nội quy Cộng đồng và có thiện chí hòa giải nội bộ nhưng việc đã không xong.

Người viết còn phải đứng về phía Cộng đồng vì nếu bị thua kiện sự việc sẽ trở thành một tiền lệ gây khó khăn cho các cộng đồng hải ngoại.

Thêm vào đó người viết cảm thấy có một trách nhiệm rất nặng bắt buộc phải chia sẻ với những người trẻ đã được đồng hương tín nhiệm bầu ra. Nếu không sát cánh với những người trẻ đang nhận lãnh trọng trách sẽ không còn thế hệ tiếp nối để gánh vác việc chung.

Tại Tòa Trung Thẩm

Do không thể thu xếp nghỉ được người viết chỉ có thể thu xếp để dự ngày đầu (thứ Tư 10-3) và ngày cuối. Thế nhưng ngày cuối như dự định là ngày thứ sáu 19-3, đã kéo dài thêm 2 ngày nữa (thứ hai 22-3 và thứ ba 23-3-2010). Như vậy người viết tham dự 4 trên 10 ngày xét xử.

Bài học đầu tiên đã ra tòa thì không thể nào đoán được ngày cuối. Ngay chính bà chánh án người nắm luật và điều hành toàn bộ phiên tòa cũng không ngờ được những chuyện xảy ra ở phút cuối.

Ngày đầu phiên tòa, thứ Tư 10-3-2010, phòng xử án hôm đó đã không đủ ghế ngồi, có một số người phải ngồi chung ghế, một số người phải đứng và một số ngồi ở bên ngoài. Đa số người tham dự là các thành viên ủng hộ Cộng đồng, việc này có lẽ ngoài ước tính của mọi người.

Việc đông đảo đồng hương tham dự là kết quả của một cuộc họp trước đó vài ngày (6/3/2010). Mặc dù trời Melbourne mưa đá và ngập lụt trên 40 người tham dự cuộc họp này. Mọi người đều đồng ý bốn điều.
    Thứ nhất, đây không phải là việc riêng của ông Phong hay của Tân BCH CĐ nên phải tìm mọi cách để có đủ tiền trang trải án phí cho phiên tòa và phải sửa soạn tinh thần vì vụ án có thể còn kéo dài.

    Thứ hai, cần phải có trạng sư giỏi nếu không phần thắng lại càng nghiêng về phía bên kia. Khi đâm đơn thưa lẽ đương nhiên phía đưa đơn đã nắm được hay ít nhất tự tin là nắm được phần thắng.

    Thứ ba, đã bị thưa thì thắng thua là quyết định của tòa, Cộng đồng cố gắng làm những gì có thể làm tốt nhất. Và cuối cùng cần kêu gọi bà con tham dự phiên tòa để hỗ trợ tinh thần cho ông Phong nói riêng và cho Ban Chấp hành Cộng Đồng nói chung.
Bắt đầu phiên tòa là thủ tục cần thiết chọn một Bồi thẩm đòan gồm 6 vị. Các vị này đã được chọn ngẫu nhiên từ công chúng đang sinh sống tại Victoria. Những vị này đều cần phải khách quan phán xét, do đó họ phải hội đủ nhiều yếu tố để không ảnh hưởng đến việc phán xử.

Tại Úc các bồi thẩm viên sẽ lắng nghe hai bên và các nhân chứng. Sau đó họ được chánh án hướng dẫn về luật pháp để có thể phán quyết vụ án. Các bồi thẩm viên sẽ dựa trên những bằng chứng những dữ kiện từ đương đơn, bị đơn và nhân chứng áp dụng vào luật pháp để phán xét vụ kiện. Vai trò bồi thẩm đoàn do đó vô cùng quan trọng.

Tiếp theo, trạng sư hai bên trình bày sơ khởi vụ kiện. Bên phía đưa đơn cho rằng việc ông Phong triệu tập cuộc họp ngày 15/3/2010, tổ chức cuộc họp và thông cáo kết quả cuộc họp đến báo chí, hội đoàn, đoàn thể nằm trong một chiến dịch (campaign) nhắm đến cá nhân nguyên đơn ông Võ Ngọc Long. Trạng sư Cộng Đồng bác bỏ điều này cho rằng đây chỉ là những thủ tục cần thiết theo đúng nội quy cộng đồng. Bà chánh án đồng ý tuyên bố đây chỉ là những phương cách ứng xử (code of conduct).

Trên là điểm chính trong toàn vụ kiện. Nếu xem là một chiến dịch có thể dẫn đến việc cá nhân ông Phong vì một vấn gì đó với ông Anh và tìm cách để phỉ báng ông Anh là cộng sản. Trong khi nếu xem đây là chỉ là những phương cách ứng xử thì lời ông Nguyễn văn Bon tuyên bố là đúng: "Ông Nguyễn Thế Phong và Ban Chấp Hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội Quy CÐNVTĐ-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của mình.” Nghĩa là mặc dù ông Anh đứng đơn kiện cá nhân ông Phong, nhưng vụ kiện chính là ông Anh đã kiện toàn thể cộng đồng. Ông Phong đã thực hiện các việc trên để thực thi bổn phận mà cộng đồng đã giao cho ông. Do đó ông Anh đã kiện những đồng hương mà ông Nguyễn thế Phong đại diện.

Trạng sư bên phía Cộng đồng cũng nhấn mạnh đến những từ ngữ liên quan đến từ cộng sản (communist). Như đã trình bày phía bên trên do đương đơn kiện ông Nguyễn Thế Phong đã tuyên bố ông là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng. Để tránh trường hợp trạng sư bên ông Anh chứng minh rằng ông Phong đã "ám chỉ" ông Anh như trên. Về phía Cộng đồng mọi người biết rất rõ đây chỉ là những điều vu cáo không có bằng chứng cụ thể. Suốt phiên tòa, từ ngữ “cộng sản” đã trở thành trọng tâm của vụ kiện.

Cũng cần nói ngày thứ tư tuần lễ kế tiếp 17-3-2010, ông Nguyễn thế Phong được tòa mời lên làm chứng về những cáo buộc. ông Phong đã phải giải thích rõ ràng cho câu hỏi bà quan tòa về sự khác biệt giữa 2 từ ngữ "làm lợi cho cộng sản" (benefiting communist) và "tay sai cộng sản" (communist henchman). Ông phong cũng giải thích từ "phá họai" trong tiếng Việt chỉ nghĩa là làm giảm tiềm năng (undermining) chứ không phải là phá vỡ hay phá đổ (sabotage) như phía đưa đơn đã dùng.

Tiếp đến ông Võ Ngọc Anh đã được mời lên để làm chứng trước tòa mọi dữ kiện đưa đơn. Ông Anh cho biết ông là một cựu sỹ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau năm 1975, ông bị tù cải tạo và sau đó bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Ông đến Úc và từ lâu đã tham dự các sinh họat cộng đồng. Ông là Chủ tịch Hội Thiện Chí Tỵ Nạn Việt Nam ...

Ông cho biết theo lời kêu gọi của ông Nguyễn thế Phong, ông tham dự một cuộc biểu tình tại Dallas Brook Hall ( Duyên Dáng Việt Nam ) với trên 3,000 người tham dự. Ông cho biết cuộc biểu tình đã xảy ra xô sát (sự thực là một người đàn bà bị ngất xỉu vì trời hôm đó quá nóng, và một cậu bé đã bị an ninh của cộng sản đánh khi em vào bên trong hội trường và hô to các khẩu hiệu "Freedom for Vietnam", "Democracy for Vietnam", "Human Rights for Vietnam"). Ông cũng cho biết không tham dự nhưng tới xem ba đêm biểu tình tại nhà hàng Đại Dương vào tháng 6-2008.

Ông cho biết trước ngày 16-02-2009, ông và bốn người bạn có ý định vào ngày này sẽ đến nhà hàng tại Crown Casino dùng bữa. Ông lên website Ánh Dương và biết đựơc có cuộc biểu tình. Các bạn ông đề nghị ông gọi điện thoại đến nơi này để xem nhà hàng có mở cửa hay không? Ông gọi lại và nhân viên giữ máy có thể không hiểu ông nói gì nên đã ghi sai những điều ông đã nói về lý do cuộc biểu tình. (Theo ghi chú từ nhân viên giữ cuộc biểu tình chỉ do một nhóm người Việt chống việc cờ bạc. Đây chính là lý do ông Nguyễn Thế Phong triệu tập cuộc họp.)

Ông Anh cho biết ông không tham dự cuộc họp ngày 15-3- 2009. Nhưng có một số người đã gọi điện thọai báo cho ông rằng trong cuộc họp ông Phong tuyên bố ông là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng. Như vậy bằng chứng của ông Anh có thể chỉ từ các nhân chứng tham dự cuộc họp nói trên.

Theo ông Anh việc khép ông như trên là một phỉ bang danh dự cá nhân ông. Theo ông khi bị khép như trên người bị khép có thể gặp vấn đề với các thành viên khác trong cộng đồng. Tại các quốc gia Tây Phương khác người bị khép như vậy còn bị tấn công. Vì thế ông đã phải ngủ qua đêm tại các nhà người quen bạn bè ... Trong thời gian qua ông bị suy thoái tinh thần, ăn ngủ không được ...

Một chuyện đáng tiếc đã xẩy ra. Gần 4 giờ chiều, bà chánh án đột nhiên lên tiếng đại khái "đây không phải là chỗ giải trí để ngồi mà mỉm cười, nếu quý vị không thể ngồi thẳng lên, thì xin mời quý vị rời khỏi phiên tòa". Người viết giật mình biết bà chánh án nói về mình, vì người viết ngồi trong góc nghiêng mình hẳn sang một bên để có thể thấy ông Anh đang được trạng sư của ông chất vấn, tay ghi những điểm chánh ông Anh đang trình bày trước tòa. Bà chánh án nhìn người viết và báo cho biết "phải rời khỏi tòa ngay tức thì". Người viết đã tuân thủ lời bà và được biết sau đó bà tuyên bố chấm dứt phiên tòa ngày hôm ấy. Nhiều người nhận xét khuôn mặt của người viết luôn luôn nở một nụ cười. Có lẽ bà chánh án có cảm tưởng là người viết không nghiêm trang tôn trọng tòa án. Là lần đầu tiên dự tòa, người viết nhận đây là điều vô tình đáng tiếc. Người viết thật buồn và biết lỗi do mình gây ra để không tái phạm trong ba ngày sau đó.

Ngày thứ năm 11/3/2010, ông Võ long Anh lại được mời lên tiếp tục làm chứng cho vụ kiện và được trạng sư hai bên chất vấn về các bằng chứng và dữ kiện. Sau đó là nhân chứng của bên đưa đơn lên làm chứng. Chứng cớ duy nhất là một biên bản do ông Trần Đức Vũ (còn được biết dưới tên Vương Thiên Vũ) viết trong cuộc họp và sau cuộc họp. Tuy vậy khi được trạng sư Cộng đồng chất vấn, ông Vũ đã không chứng minh được đây là một biên bản đáng tin cậy. Nói cách khác những lời chứng của ông không đáng tin cậy để có thể sử dụng phán xét vụ kiện. Sau này bà chánh án đã quyết định chứng cớ này không có giá trị để sử dụng trong phiên tòa.

Phía đưa đơn cũng mời một nhân chứng khác là ông Nguyễn Hải Đăng người cũng đã tham dự buổi họp ngày 15-3-2009 lên làm chứng. Ông Đăng cho biết đã không nghe ông Phong nói ông Võ Ngọc Anh là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng. Bắt đầu buổi họp ông Phong có dùng từ tay sai, nhưng đến khi bàn thảo về việc làm của ông Võ ngọc Anh, ông Phong đã không còn dùng từ này. Vào ngày 22-03-2010, phán quyết cuối cùng của Bồi thẩm đòan đã dựa trên lời thẩm vấn của hai ông Nguyễn Thế Phong (bị đơn) và Nguyễn Hải Đăng (nhân chứng phía nguyên đơn). Các lời chứng khác đều đáng tin cậy và minh bạch, các bồi thẩm viên muốn xét thật kỹ hai lời thẩm vấn trên để đối chiếu các bằng chứng.

Sau đó đến phiên ông Phong và các nhân chứng phía Cộng Đồng được gọi lên. Tất cả đều xác nhận không một người nào nói ông Võ Ngọc Anh là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng. Cô Mai Lan Cựu Tổng thư ký đã được chất vấn khá kỹ về biên bản của buổi họp ngày 15-3-2009, để minh xác đây là một biên bản trung thực đáng tin cậy để có thể sử dụng trong phiên tòa.

Ngày thứ sáu 19-3-2010, trạng sư hai bên tóm tắt và trình bày đến bồi thẩm đoàn nhằm thuyết phục các bồi thẩm viên mang lẽ phải về phía mình. Trạng sư bên Cộng đồng tiến sỹ Matthew Collins đã mở đầu đại khái như sau: trong những ngày qua ông đã rất vui khi đại diện cho cộng đồng một tập thể trong đó có nhiều người đã đổi sinh mạng của mình chỉ để được hưởng quyền tự do ngôn luận và hôm nay trước tòa ông đại diện cho cộng đồng này để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của họ trên nước Úc ...

Buổi sáng ngày thứ hai, 21-3-2010, đến phiên bà chánh án chính thức giải thích vai trò của người bồi thẩm viên trong việc phán xét, thủ tục để phán xét và tóm tắt cho bồi thẩm đoàn những điểm chính hai bên đương đơn và bị đơn để có thể quyết định phán xét của mình.

Sau đó các bồi thẩm đòan vào phòng thảo luận để tìm đến một phán quyết tuyệt đối cả sáu vị đều phải đồng thuận.

Sau 4 tiếng đồng hồ chờ đợi các thành viên trong cộng đồng có nhiều cơ hội hơn để tìm hiểu lẫn nhau. Tới phút này mọi người tham dự đều đã nhận rõ bộ mặt nổi của phiên tòa. Mọi người đều tin vào kết qủa của phiên tòa sẽ có lợi cho phía cộng đồng. Tuy nhiên mọi người đều nhận ra một điều kết quả cuối cùng sẽ là quyết định của Bồi thẩm đòan. Những người này lại gần như không có mấy hiểu biết về cộng đồng của chúng ta. Nhiều người, trong đó có người viết, chỉ còn biết dựa vào niềm tin Thượng Đế, Phật, Trời hay hồng ân Quốc Tổ cho phán xét cuối cùng.

Chừng 4 giờ chiều mọi người được mời dự lại phiên tòa để được biết các vị bồi thẩm viên cần hiểu rõ hơn là toàn câu hay chỉ một phần của câu "nói ông Võ Ngọc Anh là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng". Bà chánh án cho biết chỉ cần một phần của câu như "tay sai cộng sản" là có thể trả lời có. Tại Úc nếu bồi thẩm đoàn trả lời có thì họ sẽ tiếp tục trả lời các câu hỏi kế tiếp và căn cứ trên các trả lời kế tiếp mà chánh án sẽ quyết định việc bồi thường danh dự, hay bồi thường các tổn thương về thể xác hay tinh thần và các chi phí pháp luật.

Sau đó bà chánh án hỏi bồi thẩm đoàn có cần bản chuyển âm của vụ kiện hay không? Bà trưởng Bồi thẩm đoàn cho biết cần, bà Chánh án thu xếp với các bồi thẩm đoàn trở lại ngày hôm sau lúc 9 giờ 30 phút để có được bản chuyển âm của hai ông Nguyễn thế Phong (bị đơn) và ông Nguyễn Hải Đăng (nhân chứng phía đưa đơn) để các vị này đọc lại, đối chiếu và phán xét. Ngoại trừ lời chứng của ông Trần Thiên Vũ đáng tin cậy để dùng trước tòa. Các lời chứng khác đều đáng tin cậy và minh bạch, các bồi thẩm viên chỉ muốn xét thật kỹ lời thẩm vấn của hai ông trên để đối chiếu các bằng chứng.

Lại một đêm không ngủ cho nhiều người. Thú thật đêm ấy người viết chỉ thiếp đi chưa đến một tiếng đồng hồ. Sau đó người viết đầu thì nghĩ, tay lại tiếp tục gõ bài viết này, tự tin vào phán quyết công lý, đôi khi nhìn ra sân nhà lên bầu trời mà mong nhờ hồng ân Quốc Tổ .

Sáng thứ ba 22-3-2010, chừng 11 giờ phiên tòa mở lại, sau chừng 10 phút thủ tục, sau câu hỏi của cô thư ký phiên tòa về việc ông Nguyễn Thế Phong (đại diện cộng đồng) có nói ông Võ ngọc Anh là cộng sản, là tay sai cộng sản và đánh phá cộng đồng hay không? Bà trưởng bồi thẩm đoàn đã trả lời không.

Phòng xử vẫn im lặng như tờ. Khi bồi thẩm đoàn rời phòng xử, ông trạng sư Cộng đồng đứng lên xin phép nói chuyện tài chánh. Bà chánh án quay xuống phía dưới tuyên bố đại khái như sau: "như vậy là quý vị đã biết kết quả, bây giờ chỉ còn bàn về vấn đề kỹ thuật, ai muốn rời phiên tòa thì cứ rời". Lạ một điều là mọi ngồi im như cả chục ngày nay. Bà chánh án mỉm cười. Tôi nhận thấy bà rất thích thú nắm vai trò chánh án phiên tòa và cũng rất vui về phán quyết của Bồi thẩm đoàn. Xong một phiên tòa vô cùng phức tạp, một sinh viên luật đến từ Tân Tây Lan cho biết anh tham dự phiên tòa vì xứ anh chưa bao giờ xảy ra việc này, và cũng có thể tại Úc.

Trạng sư bị cáo khi ấy mới cho biết biên bản buổi họp 15-3-2009 chưa được bên nào dịch ra tiếng Anh. Ông lấy lý do trên để xin chỉ phải trả một phần chi phí pháp lý cho phía Cộng đồng. Bà chánh án cho rằng biên bản là một chứng cớ quan trọng lại không được dịch ra để cung cấp cho tòa. Để tránh phải mở lại phiên tòa khác bà cho phép bên nguyên đơn chỉ phải trả một phần chi phí pháp lý cho phía Cộng đồng.

Mọi người rời khỏi phòng xử, có đồng hương lớn tuổi đến hỏi về kết quả ông Phong mừng rỡ trả “thắng rồi chị”. Một số đồng hương tham dự phiên tòa ủng hộ ông Phong chỉ với một niềm tin tuyệt đối vào cá nhân ông Phong một người (ngay cả chỉ tuần trước đây khi phiên tòa đang diễn biến) luôn luôn tuyên bố trước công chúng “Cộng đồng Úc châu là một cộng đồng chống cộng”. Xin nhắc lại ông Nguyễn Thế Phong hiện là chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự Do tại Úc châu. Người ngồi bên cạnh hôm quyết án, đi song song với người viết rời phiên xử đã nói với người viết "có lẽ việc mọi người răm rắp theo anh Phong, bà chánh án có thể nghĩ cộng đồng mình là một cộng đồng rất kỷ luật, do đó bà đã mỉm cười".

Vài bài học rút ra từ phiên tòa lịch sử này

Nếu không có một vị trạng sư tài giỏi như tiến sỹ Matthew Collins và vị luật sư tận tâm Bernard Moore chưa chắc kết quả đã được như trên. Có ngồi tòa mới thấy rõ vai trò của hai vị nói trên. Trong thời gian tới bản chuyển âm (transcript) của vụ kiện sẽ được công khai hóa đến công chúng. Lúc đó chúng ta sẽ có trong tay một tập tài liệu, một chứng cứ hùng hồn giúp cho mọi người thấy rõ trắng đen trong phiên tòa lịch sử “thành viên kiện chủ tịch cộng đồng”. Và thấy rõ khả năng đối ứng của tiến sỹ Matthew Collins, vị trạng sư của Cộng đồng.

Xuyên suốt phiên tòa, số người tham dự luôn vượt quá số ghế phòng xử án. Nhận ra điều này bà chánh án đã phải cho phép mang thêm một hàng ghế ở ngoài vào. Ngày đầu còn từ hai phía. Các ngày sau đại đa số là các thành viên cộng đồng. Nhiều đồng hương đã phải xin nghỉ việc nhiều ngày để có thể tham dự phiên tòa. Điều này nói lên sự quan tâm và đoàn kết ủng hộ Cộng Đồng. Đây là một điều vô cùng khích lệ cho những người trẻ đã và đang có ý đem tâm sức ra gánh vác Cộng Đồng.

Một bạn trẻ cũng chỉ vừa 30 tuổi, xin nghỉ để tham dự chín ngày tòa, đã tâm sự với người viết cô chưa bao giờ sinh hoạt cộng đồng. Nhưng nhờ phiên tòa cô đã hiểu thêm rất nhiều về cộng đồng, cũng nhờ phiên tòa cô biết thêm nhiều anh chị và hiểu rõ tình đồng hương trong những lúc khó khăn. Tôi tự tin sẽ gặp cô sau này trong các sinh hoạt của cộng đồng sắp tới.

Chiều thứ sáu 19/3/2010, tôi nhận thấy có 4 bạn rất trẻ có thể là sinh viên tham dự. Người viết định sau phiên tòa sẽ hỏi xem các bạn là du sinh hay con em trong cộng đồng và lý do tham dự. Nhưng các em đã vội vàng rời ngay khi phiên tòa chấm dứt. Có lẽ như tôi các em này cũng đoán ngày ấy là ngày cuối phiên tòa nên đến xem kết quả.

Phía đương đơn ông Anh trong ngày đầu còn một số thân hữu tham dự. Phiên tòa kéo dài nhiều vị không còn thấy xuất hiện hay chỉ xuất hiện giây lát rồi biến mất. Ông Anh trong những lúc nghỉ trưa thường ngồi một mình. Một đôi lần người viết đã muốn đến trò chuyện với ông. Nhưng lại sợ ông không hiểu thiện ý. Người viết biết ông nhưng chưa bao giờ nói chuyện cùng ông. (Xin ghép hình 2: Luật sư Nguyễn Bá Đại và nguyên đơn ông Võ Ngọc Anh)

Ông Anh vì đã trên 70 tuổi, theo quan sát của người viết với độ tuổi ấy một vụ kiện kéo dài đến 10 ngày đã quá sức ông có thể chịu đựng. Ngày thứ sáu 12-03-2010, sau giờ ăn trưa ông Võ Ngọc Anh xin phép bà chánh án được ra về với lý do mệt mỏi và căng thẳng trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Tại Úc, nguyên đơn phải có mặt trong tòa suốt vụ kiện. Ngược lại ông Nguyễn Thế Phong còn trẻ chưa đến 50 tuổi lại được hưởng sự hỗ trợ hết mình của đồng hương vụ kiện càng kéo dài lại càng thấy vui vẻ trẻ trung hơn.

(Xin ghép hình 3: Ông Nguyễn Thế Phong đeo caravate, trạng sư tiến sỹ Mattheư Collins và luật sư Bernard đang giải thích cho đồng bào diễn biến phiên tòa)

(Xin ghép hình 4: Những nụ cười sau 10 ngày căng thẳng)

Nhờ uyên bác cả hai ngôn ngữ và kiến thức về luật pháp, ông Phong và các nhân chứng trẻ phía Cộng đồng đã góp phần không ít vào kết quả vụ kiện.

Một sự khác biệt rất lớn về tuổi tác giữa phía người đưa đơn và ủng hộ (trên dưới 70 tuổi) và những người trẻ đang gánh vác cộng đồng. Người viết cho rằng vụ án có thể xuất phát từ những xung đột giữa các thế hệ trong cộng đồng.

Các thành viên tích cực trong cộng đồng hiện tại bao gồm ba thế hệ. Thế hệ đàn anh (60-70 tuổi), thế hệ chúng tôi (40-50 tuổi) và thế hệ các bạn trẻ hơn. Mọi chuyện xẩy ra có thể phát xuất từ những bất đồng trong phương cách suy nghĩ, phương cách làm việc, phương cách ứng xử. Rồi đi dần đến việc đối đầu nhau thay vì tìm cách hòa giải vấn đề. Qua kinh nghiệm sinh hoạt cộng đồng, một số người trong thế hệ đi trước thường quy kết nhau là Việt cộng. Có lẽ cũng vì suy nghĩ bị quy kết như trên mà phía nguyên đơn mới muốn việc được giải quyết trước tòa.

Ở thế hệ người viết sự kiện này đã giảm đi rất nhiều. Ôn hòa bất bạo động và tôn trọng luật pháp là kỷ cương hàng đầu của thế hệ chúng tôi. Tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt giữa các thành viên trong cộng đồng là quan tâm của những người đại diện cộng đồng.

Ở thế hệ trẻ hơn 20-30 tuổi, thế hệ của những người hiện đang gánh vác đang lãnh đạo cộng đồng tại Victoria, Úc châu. Nếu ông Nguyễn thế Phong nói ông Võ ngọc Anh như trên (không bằng chứng) sẽ bị quý vị này coi thường và từ chối hỗ trợ vụ kiện tụng. Cũng cần nói thêm chỉ vài ngày trước khi chấm dứt nhiệm kỳ, tháng 8-2009, ông Phong đã ra một thông cáo báo chí khác với những bằng chứng rõ ràng về một thành viên khác. Trong những năm đầu 1990, thành viên này đã là quyền chủ tịch CĐNVTĐ tại Victoria , nay đã có những bằng chứng rõ ràng không tuân thủ Nội quy Cộng đồng. Mong sự vụ đơn gỉan chỉ là những xung đột giữa các thế hệ trong cộng đồng.

Người viết cũng nhận thấy những khó khăn mà phía cộng đồng phải gánh chịu. Các anh chị vừa phải tiếp tục duy trì mọi sinh họat cộng đồng. Năm nay, cộng đồng tại Victoria đã đưa ra một chương trình để kỷ niệm 35 năm ngày Thành lập Cộng đồng. Để hoàn tất tốt đẹp chương trình này đã khó, lại còn phải đương đầu với hai cuộc kiện tụng nói trên. Nhưng cũng nhờ thế mà mọi người tới gần nhau hơn, gát bỏ chuyện riêng tư, để cáng đáng cộng đồng qua những ngày kiện tụng. Khó khăn thường giúp chúng ta trưởng thành.

Việc có nhân viên tình báo cộng sản trực tiếp đằng sau vụ kiện này không ? là một câu hỏi ngoài khả năng người viết. Có lẽ chỉ khi chế độ cộng sản sụp đổ chúng ta mới hy vọng trả lời được câu hỏi này. Tuy nhiên như người viết đã trình bày có nhiều dấu hiệu cho thấy an ninh cộng sản đã lợi dụng sự phân hóa của cộng đồng để làm giảm uy tín, giảm sự hỗ trợ của đồng hương trong vụ kiện.

Chắc chắn rằng phải có an ninh cộng sản tại Victoria. Thí dụ như theo cuộc điều tra của báo The Age, cảnh sát liên bang Úc nghi ngờ ông Lương Ngọc Anh (không phải là ông Võ Ngọc Anh nguyên đơn) đóng vai trò trung gian chính yếu mua sắm trang bị máy móc cho Bộ Công An. Công ty Phát Triển Công Nghệ do ông Anh làm tổng giám đốc có thể chính là một công ty tư nhân thành lập với tiền của Bộ Công An và nhiều viên chức quyền thế của chế độ cộng sản Việt Nam. Ông Anh bị nghi ngờ là một nhân viên an ninh cao cấp có nhiệm vụ kiểm soát an ninh tình báo tại Úc. Ông Anh là một thường trú nhân và có công ty tại Victoria Úc Châu .

Hay theo báo Người Việt, sáng 29-10-2008, có 3 nhân viên FBI đã đến nói chuyện với các nhà báo ở Little Saigon tại quận Cam, họ đã báo động về việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã gởi nhiều cán bộ tình báo sang Hoa Kỳ để thâu nhận tin tức. Với những tin tức này, cộng sản Việt Nam dùng để tuyển mộ những người làm việc có lợi cho cộng sản Việt Nam. Tại cuộc họp báo nầy, ký giả Đỗ Sơn có hỏi rằng theo FBI, “cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ có những nhược điểm nào khiến cộng sản Việt Nam dễ xâm nhập ?”. Một nhân viên FBI trả lời rằng, “một trong những nhược điểm quan trọng nhất là sự chia rẽ !”

Cũng thế tại Hoa Kỳ, ngày 20.11.2008, Uỷ Ban Thẩm Định Kinh Tế và An Ninh Mỹ – Trung (U.S.-China Economic and Security Review Commission) của Hoa Kỳ đã trình lên Quốc Hội một bản báo cáo nhấn mạnh đến việc Trung Quốc đang thực hiện chương trình tình báo đặc biệt nhắm vào hệ thống tin học của Mỹ. Bản báo cáo có phần ghi về tình trạng hiện nay Trung Cộng và phe thân Trung Cộng trong đảng Cộng sản Việt Nam và ngành an ninh Việt Nam (Tổng Cục 4) đã nhắm vào cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ và người Hoa định cư tại Mỹ để phát triển mạng lưới tình báo.

Kết

Ngay sau rời khỏi phiên tòa, người viết có dịp để nói chuyện với ông Phong, được ông cho biết “Trong vụ kiện này người thiệt hại nhiều nhất chính là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, về tài lực cũng như về nhân lực, vì nó đã làm cho sự đòan kết và sức mạnh của cộng đồng bị sứt mẻ. Kẻ vui mừng và đắc chí chính là cộng sản Việt Nam”. Người viết hoàn toàn đồng ý với ông Phong.

Người viết nhớ lại 30-4-2009, lần đầu tiên người viết có dịp nói chuyện với ông Nguyễn Văn Bon, khi ấy là phó chủ tịch, nay là chủ tịch CĐNVTD tại Victoria, khi ông được hỏi “Bon nghĩ sao về cộng đồng của mình”. Ông Bon một người trẻ sinh sau 30-4-1975 thong thả trả lời “em nghĩ cũng như miền Nam trước đây, Việt cộng đánh riết mà mình thì không được quyền đánh trả cho đến khi hết sức chống trả thì chúng chiếm miền Nam”. Lúc ấy tôi nghĩ ông Bon nói đúng thực tế nhưng hơi bi quan.

Một năm qua tôi biết thêm về ông Bon. Ông không phải là một người bi quan. Ngược lại ông Bon đã chuyển cho người viết một tín hiệu các cuộc tấn công Cộng đồng Hải ngoại sẽ chỉ chấm dứt khi Việt Nam trở thành một quốc gia tự do dân chủ. Và muốn làm được điều này chỉ có một phương cách duy nhất là những người, những hội đòan đảng phái yêu chuộng tự do trong và ngoài nước phải liên kết, đồng thuận phương cách đấu tranh, phân công tác, dồn tổng lực để mang lại tự do và dân chủ cho Việt Nam – Quê hương của chúng ta.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Úc Đại Lợi
24/3/2010
__________________________________________

Về Nghị Hội Người Việt Tòan Thế Giới tại Úc Châu: Trả Lời Ông Hữu Nguyên Chủ Bút Saigon Times.

Nguyễn Quang Duy

Lời mở đầu

Hai mươi tám năm trên đất khách quê người tôi luôn luôn gắn bó với các cộng đồng tiểu bang nơi sinh sống (Tasmania, Canberra và Victoria) và liên bang Úc Châu nên cảm thấy có trách nhiệm trả lời bài "Suy nghĩ về Bài trả lời phỏng vấn Saigon Times của Ông Võ Minh Cương", phần số 5 “Quyết Nghị của CĐNVTĐ Liên Bang Úc châu” của ông Hữu Nguyên (HN) chủ bút Saigon Times (số thứ năm ngày 11/3/2010). Trong bài viết này ông Hữu Nguyên đã cố tình gán ghép cho hầu hết các vị đại diện tiểu bang và liên bang là đảng viên đảng Việt Tân, rồi Việt tân Hóa Cộng Đồng với dụng ý xấu. Ông cũng bịa đặt một số chuyện về tôi. Ông lại còn cho biết chờ đợi sự lên tiếng của tôi để “đính chính” những điều hòan tòan sai lạc do ông đưa ra. Nhưng khi tôi gởi bài viết đến Saigon Times thì ông Hữu Nguyên đã từ chối đăng.

Bài này nội dung đựơc giữ nguyên chỉ được sửa lại đôi chỗ để nhờ cậy đăng trên các cơ quan ngôn luận khác. Xin quý cơ quan ngôn luận cho phổ biến bài cậy đăng này để độc giả, thính giả được sáng tỏ hai vấn đề. Thứ nhất giải thích nguyên nhân ông Hữu Nguyên đã có những suy nghĩ riêng tư về việc Việt Tân hóa Cộng đồng. Thứ hai, minh xác ông Hữu Nguyên lời bịa đặt, tôi Nguyễn Quang Duy không phải là đảng viên đảng Việt Tân.

Là một nhà báo tự do, tôi luôn luôn trân quý độc gỉa. Nhưng do việc hành xử thiếu đạo đức nhà báo của ông Hữu Nguyên, mong nhờ bà con thông báo nhau tôi sẽ không có thời giờ đọc hay viết trả lời những gì do Saigon Times viết về cá nhân tôi. Xin thành thật cám ơn.

Việt Tân Hóa Cộng Đồng

Ông chủ bút Saigon Times cho rằng: "chúng tôi nghi ngờ những vị sau đây là đảng viên đảng VT: Đoàn Công Chánh Phú Lộc (Chủ tịch Nam Úc), Lê Công (Chủ tịch Canberra), Bùi Trọng Cường (Chủ tịch QLD), Phạm Lê Hoàng Nam (Chủ tịch Tây Úc). Chúng tôi cũng nghi ngờ những vị sau đây có thể là đảng viên hoặc là thân hữu của VT: Nguyễn Thế Phong (Chủ tịch Liên Bang), Nguyễn Văn Bon (Chủ tịch VIC), Lê Tấn hiện (Chủ tịch Bắc Úc). "

Cuối phần thứ 5 của bài viết ông chủ bút cho biết "... độc giả tại VIC cho biết, NQD là đảng viên quan trọng của đảng VT..." NQD là tôi, Nguyễn Quang Duy.

Chủ trương Cộng Đồng là cộng tác trong tinh thần tương kính và đoàn kết. Khi được đồng hương tín nhiệm giao trách nhiệm đại diện, để chu tòan nhiệm vụ, người đại diện cộng đồng trở thành thân hữu của tất cả Hội Đòan, Đòan Thể, Đảng phái, Tổ Chức trong cộng đồng.

Cộng đồng chúng ta là một cộng đồng chống cộng. Người đại diện lúc nào cũng phải sẵn sàng tổ chức các cuộc biểu tình chống các phái đòan cộng sản hay văn hóa vận. Người đại diện lúc nào cũng cần có một lực lựơng chống cộng, có tổ chức, có năng lực và kiến thức để có thể chu tòan nhiệm vụ đã được cộng đồng giao phó. Vì thế người đại diện luôn gần gũi hơn với các tổ chức như Hội Cựu Quân Nhân, Hậu Duệ, Liên Minh Quang Phục Việt Nam, Phục Hưng hay đảng Việt Tân. Những tổ chức này, vừa có thực lực, vừa là lực lượng tiên phong sẵn sàng gánh vác trách nhiệm bảo vệ bức tường thành chống cộng luôn bị đánh phá.

Còn nếu ông chủ bút cho rằng các người đại diện hiện nay là đảng viên đảng Việt Tân thì ông cần phải có bằng chứng cụ thể để chứng minh, chứ đừng dùng thể nghi vấn bắt người bị cáo buộc phải trả lời. Người làm chủ tịch cộng đồng tình nguyện, có trăm chuyện và luôn luôn đặt mình túc trực để đáp ứng với những vấn đề nan giải của cộng đồng. Họ không có thì giờ để cứ lo trả lời những nghi vấn của báo Saigon Times.

Lại nữa tất cả đồng hương đang sinh sống tại Úc châu qua các thông cáo báo chí đều đã được chính thức mời tham dự Đại Hội Cộng Đồng Liên Bang. Dầu không tham dự Đại Hội ông Hữu Nguyên cho rằng "Ngoài ra, tại Đại Hội còn nhiều nhân vật khác là thân hữu hoặc là đảng viên (có thẻ đảng hoặc không có thẻ đảng) của đảng VT." để từ đó dẫn đến kết luận "... cộng đồng liên bang đang bị Việt Tân Hoá!". Những suy diễn và kết luận của ông Hữu Nguyên, trong thực chất đã có dụng ý của nó, tôi sẽ phân tích ở phần sau.

Bốn năm trước Saigon Times đưa vấn đề phân hóa nội bộ Việt Tân lên diễn đàn. Vài số đầu tôi hòan tòan đồng ý, đó là vai trò của thông tin báo chí. Nay lại đến chuyện gán ghép “Việt Tân hoá Cộng Đồng” cho những người đang gánh vác cộng đồng là xúc cảm cá nhân không đứng đắn.

Trong lúc này chúng ta, những người tự coi mình là chống cộng, phải cần dẹp việc riêng tư sang một bên để dồn tổng lực đánh đổ thành trì độc tài của đảng cộng sản giành lại quyền tự quyết cho dân tộc. Không làm được những điều như trên, thì cũng xin đừng công kích lẫn nhau chỉ tạo hoang mang cho những đồng hương ít tham dự những sinh họat cộng đồng và sinh họat đấu tranh.

Khi đọc xong bài viết của ông chủ bút Hữu Nguyên, tôi cảm thấy buồn cho tổ chức mà ông Hữu Nguyên xưa nay công khai hổ trợ. Buồn vì trong tương lai khi tổ chức này muốn thăm viếng Úc châu hay có công tác nào cần khai triển ở Úc châu sẽ không gặp thuận tiện vì ông đã công khai tuyên bố không bằng chứng trên báo chí "Việt Tân hóa Cộng Đồng". Ngay cả các vị đại diện cộng đồng có bỏ qua, nhưng các thành viên tích cực của cộng đồng cũng khó lòng chấp nhận những câu văn thái quá mà ông chủ bút đã gán ghép cho họ.

Đại Hội lần thứ 19 của CĐNVTĐ Liên Bang Úc Châu và Quyết Nghị Đại Hội

Mỗi hai năm Cộng Đồng cấp Liên Bang đều tổ chức Đại Hội. Tất cả đồng hương đang sinh sống tại Úc châu, qua các thông báo báo chí, đều được chính thức mời tham dự Đại Hội.

Trước kỳ Đại Hội các cá nhân các tổ chức chính trị thường vận động để có tiếng nói trong kỳ Đại Hội. Có tiếng nói là có cơ hội để đóng góp ý kiến xây dựng và được sự chấp nhận như một công tác của Cộng đồng ở cả cấp Liên Bang lẫn Tiểu Bang. Ban chấp hành cấp Liên bang đương nhiệm chịu trách nhiệm chọn lọc những tiếng nói thích hợp và những ý kiến khả thi để đưa vào Đại Hội qua các bài thuyết trình. Tòan Đại Hội quyết định việc gì nên được đưa vào Quyết Nghị. Đại Hội đề cử và biểu quyết một vài nhân sỹ hay đại diện đứng ra sọan Quyết Nghị. Tòan Đại Hội thông qua Quyết Nghị. Tân Ban chấp hành Cộng Đồng Liên Bang có bổn phận phải thi hành Quyết Nghị.

Vì vậy mọi Quyết Nghị của Cộng Đồng Liên Bang là tâm huyết và viễn kiến của rất nhiều thành viên. Trong tinh thần sinh họat dân chủ và mở rộng đến mọi đồng hương cư ngụ tại Úc châu, các Quyết Nghị đều thể hiện nhu cầu trung hạn và trường kỳ của công cuộc đấu tranh chống độc tài cộng sản.

Biết rất rõ điều trên nên ông chủ bút Saigon Times mới đặt ra chuyện "Nhìn vào những người có thẩm quyền thông qua bản Quyết Nghị đó, chúng tôi thực sự nghi ngờ có sự lũng đoạn của đảng Việt Tân." rồi gán ghép cho hầu hết đại diện các tiểu bang và tham dự viên là đảng viên đảng Việt Tân.

Đại Hội lần thứ 19 của CĐNVTD Liên Bang Úc Châu đã diễn ra vào ngày 07 và 08 tháng 6 năm 2008 tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland. Xin xem phần tham khảo để nắm được tòan văn Quyết Nghị Đại Hội.

Điều 1 của Quyết Nghị:

Điều 1. Tái khẳng định lập trường:

. Không chấp nhận độc quyền cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam.

. Không tiếp xúc, không đối thoại, không thoả hiệp, không hoà hợp, hoà giải với tập đoàn CSVN, khi nào họ vẫn còn duy trì độc quyền cai trị đất nước.

. Tiếp tục công tác ngoại vận nhằm hổ trợ các phong trào đòi dân chủ, tự do trong nước; phong trào công đoàn độc lập; các phong trào đòi tài sản và bồi thường của các tôn giáo và dân oan tại Việt Nam.

Điều 1 này chỉ nhằm tái khẳng định lập trường xưa nay của cộng đồng chúng ta. Xin quý vị đọc lại điều 1, xem nội dung có ý nào nói đến việc "hòa hợp hòa giải với cộng sản" như ông chủ bút Hữu Nguyên đã cố tình gán ghép.

Quyết Nghị lần này chỉ là tiếp nối của các Quyết Nghị trước đây. Trong đó có Quyết Nghị có chữ ký của tôi, đại diện Canberra và Úc châu (chủ tịch Canberra và phó chủ tịch ngọai vụ Úc Châu). Các Quyết Nghị này đã nói rất rõ cộng đồng của chúng ta không chấp nhận điều 4 Hiến Pháp do đảng cộng sản Việt Nam vẽ ra để duy trì độc quyền chính trị, và do đó Cộng Đồng quyết tâm đấu tranh để dẹp bỏ điều này.

Gần đây, ngày 27/8/2007 tại Tổng cục Chính trị Quân đội Cộng sản, còn gọi là Tổng Cục 4 một cơ quan do tình báo Trung Cộng trực tiếp chỉ đạo, Chủ tịch nhà nước cộng sản Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố: “… bỏ Điều 4 hiến pháp ... đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát,…” Tiếng nói của ông Triết là tiếng nói chính thức của đảng cộng sản. Việc ông Triết công khai cảnh giác về đòi hỏi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp trước thành phần lãnh đạo quân đội cho thấy ngay trong nội bộ quân đội cộng sản đã có những thách thức về vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cũng như những đòi hỏi đảng cộng sản phải bỏ Điều 4 Hiến pháp, và việc này đã làm cho giới cầm quyền lo sợ.

Như đã trình bày bên trên mỗi Quyết Nghị là tâm huyết và viễn kiến của rất nhiều thành viên. Do đó mỗi đồng hương (thành viên) trong cộng đồng của chúng ta đều có quyền hãnh diện chúng ta đã tiên kiến điều 4 là điểm tự sát của chế độ cộng sản Việt Nam.

Điều 5 của Quyết Nghị:

Điều 5 ghi rõ "Ban Chấp Hành Cộng Đồng Liên Bang nhiệm kỳ 2008-2010 sẽ nghiên cứu việc tổ chức một Nghị Hội của các cộng đồng người Việt tự do trên toàn thế giới." và Đại Hội đã chính thức ủy thác ông Võ Minh Cương trách nhiệm nghiên cứu, vận động và tổ chức Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới này.

Tôi không tham dự Đại Hội lần thứ 19. Nhưng trước Đại Hội tôi có vận động, tham dự bàn thảo về Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới để được đưa vào điều 5 của Bản Quyết Nghị. Và sau Đại Hội trong gần hai năm qua đã cùng làm việc với ông Võ Minh Cương.

Ông chủ bút Saigon times còn tự hỏi "'... Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới” viết hoa của VMC trong bài viết của NQD, do CĐ NVTD tổ chức vào tháng 11 năm nay và cái gọi là “Hội Nghị Người Việt Nam Toàn Thế Giới” do VC tổ chức tại Hà Nội vào cuối tháng 11 năm 2009 có gì khác biệt, ngoài việc đảo lộn chữ “Hội Nghị” thành “Nghị Hội”? "' Một người đã quá sức quan tâm đến Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới tại Úc châu như ông chủ bút tại sao không tự hỏi "cái nào được thông báo trước ?".

Vào tháng 6/2009, khi nghe tin đảng cộng sản Việt Nam sẽ tổ chức Hội Nghị của chúng tại Hà Nội tháng 11/2009, khiến chúng tôi nghĩ rằng đảng cộng sản đã bị động trước Quyết Nghị Đại Hội 19 của CĐNVTD tại Úc Châu. Và vì bị động đảng cộng sản đã phải tổ chức vội vã cái Hội Nghị của chúng.

Nếu để tâm theo dõi cũng vì Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới tại Úc châu đang được vận động và chuẩn bị tổ chức, cộng sản đã tăng cường đánh phá cộng đồng Úc châu trong thời gian qua.

Theo ông Hữu Nguyên: "được biết, hiện tại đảng VT đang tìm cách móc nối mời mọc một số nhân vật, hội đoàn, đoàn thể, tổ chức, chính đảng… có uy tín và có tên tuổi tại hải ngoại tham gia “Nghị Hội” được dự định sẽ tổ chức vào cuối năm nay." Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc Châu không phải là một hội kín. Quyết Nghị Đại Hội đã được chính thức Thông Báo đến đồng hương, các tổ chức hội đòan trong cộng đồng gần 2 năm nay. Ông chủ bút đã tham dự buổi ra mắt báo chí Quyết Nghị 19 của Đại Hội Cộng Đồng Liên Bang Úc Châu tại Sydney như chính ông cho biết.

Nếu đúng như lời ông Hữu Nguyên cho biết thì đây không phải là chuyện lạ, việc tổ chức Nghị Hội là một công tác công khai của cộng đồng, là một công việc chung, các tổ chức các cá nhân đã tình nguyện tiếp tay thay vì còn chờ đợi Ban tổ chức liên lạc. Điều này đã chứng tỏ Nghị Hội đáp ứng được mong đợi của nhiều thành phần trong cộng đồng. Cá nhân tôi xin kêu gọi các tổ chức trong cộng đồng hãy tiếp tay với chúng tôi để Nghị Hội có thể thành công và chúng ta có thể dồn tổng lực đánh đổ bạo quyền Việt cộng giành lại tự do, dân chủ cho đồng bào hiện còn đang bị kềm tỏa trong lao tù Việt cộng.

NQD là đảng viên quan trọng của đảng VT

Tôi đấu tranh chính trị chống cộng. Lẽ đương nhiên tôi không thể hoạt động đơn độc một mình. Ngay sau ngày mất nước cũng như suốt thời gian còn ở trong nước, mẹ tôi và tôi, đã gia nhập một tổ chức đấu tranh chống cộng sản Việt Nam. Một số thân hữu của chúng tôi hiện đang cư ngụ tại Úc Châu và Hoa Kỳ.

Ra hải ngọai, khi đọc Cương lĩnh Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do chiến hữu Hoàng Cơ Minh lãnh đạo. Tôi đã tự tìm đến, sinh hoạt với anh chị em và sau đó xin gia nhập Mặt Trận.

Dầu vậy tôi có cách nhìn và hành động riêng. Khi cộng sản loan tin chiến hữu Hoàng cơ Minh hy sinh, nếu có ai hỏi tôi trả lời :

"chọn đấu tranh là chọn hy sinh điều tôi quan tâm là tổ chức có còn tồn tại và tiếp tục con đường Đề Đốc Hòang cơ Minh đã vạch ra hay không ?".

Hay việc lễ tưởng niệm chiến sỹ Trần văn Bá, nếu ai hỏi tôi đều trả lời:

"với tôi anh Trần văn Bá là một vị anh hùng dân tộc và nếu ai đó muốn kêu gọi cá nhân tôi cộng tác để tổ chức lễ tưởng niệm các vị anh hùng dân tộc tôi sẵn sàng cộng tác và coi việc cộng tác này là một vinh dự cho cá nhân tôi."

Khi lên Canberra học tiếp tôi đã sinh hoạt công khai với cơ sở Mặt Trận tại đây. Năm 1989, tôi tham gia bên cạnh các sinh viên Trung Hoa để hỗ trợ và thâu đạt những kinh nghiệm đấu tranh từ Phong Trào Đấu Tranh Dân Chủ Trung Hoa. Cùng thời gian các du sinh Việt Nam cho tôi biết sinh viên trong nước cũng biểu tình và cần liên kết. Tôi đề xướng kêu gọi anh chị em thanh niên sinh viên gia nhập Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Tranh Đấu. Đến nay tôi vẫn giữ liên lạc với nhiều anh chị em trong Phong Trào. Tôi cũng là thành viên sáng lập Liên Minh Việt Nam Tự Do và là hội viên Hội Chuyên Gia.

Sau đó, tôi được đề cử và được đồng hương Canberra tín nhiệm bầu ra làm đại diện (hai nhiệm kỳ). Tâm niệm của tôi là Tổ Quốc trên hết. Sống ở hải ngoại cộng đồng là một tổ quốc nhỏ của tôi. Tôi luôn luôn đặt cộng đồng bên trên tổ chức Mặt Trận. Tôi quan niệm Mặt Trận cũng chỉ là một tổ chức quần chúng đấu tranh trong giai đọan.

Trong sinh họat cộng đồng tôi chưa bao giờ hành sử thiên vị Mặt Trận. Bất cứ một tổ chức chính trị khi muốn tổ chức biểu tình tại Canberra, nhờ tổ chức gặp gỡ đồng hương hay chính giới Úc, tôi đều hỗ trợ hết khả năng của mình. Sở dĩ tôi phải trình bầy ngọn nguồn như trên, chỉ để làm sáng tỏ sinh họat chính trị và cộng đồng của tôi.

Tôi tự tin rằng trong thời gian tôi đại diện cho cộng đồng Canberra, là lúc sinh họat cộng đồng Canberra có nhiều dấu hiệu chung sức, đoàn kết, gắn bó ... để xây dựng sức mạnh Cộng Đồng. Tết, Tết Trung Thu đa số đồng hương tham dự. Mọi sinh họat đều thu hút hàng trăm đồng hương cùng góp công góp sức. Thâm tâm tôi luôn luôn cám ơn mọi đóng góp, không có đóng góp của các thành viên nêu trên tôi đã không hòan tất được nhiệm vụ. Tôi là sáng lập viên và hiệu trưởng trường Việt Ngữ cho đến ngày rời Canberra (1994).

Để thực hiện điều trên, chính là vì tôi luôn luôn biết đặt cộng đồng trên tổ chức. Nhờ đó tôi đã học được một bài học cho cá nhân tôi “cần độc lập với các tổ chức chính trị”. Từ khi về sống tại Melbourne 1994 tôi không còn sinh hoạt với Mặt trận. Đến nay tôi vẫn xem các anh chị em sinh họat trong Mặt Trận là chiến hữu. Tôi vô cùng đau buồn khi thấy sự phân hóa của tổ chức Việt Tân.

Người đại diện cộng đồng có quyền sinh họat với các tổ chức chính trị hay được các tổ chức chính trị đề cử để tranh cử. Điều cần bàn là khi họ đại diện cộng đồng họ có làm điều gì mâu thuẫn quyền lợi cộng đồng hay thiên vị cho tổ chức chính trị họ sinh họat hay không. Chúng ta đang sống tại Úc một quốc gia dân chủ nên cố gắng gạn lọc điều hay lẽ phải trong sinh họat chính trị của xứ này.

Nhờ hoạt động chính trị tôi đã được nhiều đảng phái chính trị kêu gọi gia nhập tổ chức của họ. Mặc dù tạm coi là một thân hữu kỳ cựu của Việt Tân, cho đến nay tôi vẫn chưa được Việt Tân ngỏ ý hay kêu gọi tham gia. Họ đã biết câu trả lời của tôi để không tốn thì giờ vô ích. Nói trắng ra việc ông Hữu Nguyên quy kết tôi “NQD là đảng viên quan trọng của đảng VT” chỉ vì thói quen đã trở thành chuyên nghiệp.

Với các đảng phái khác tôi đã thẳng thắn trả lời vì muốn được độc lập tôi không muốn tham gia các tổ chức chính trị. Tôi viết bài đưa lên báo lên mạng, tôi cần sự độc lập, trong hành động và trong quan điểm chính trị của mình trước vận mệnh của Tổ Quốc.

Ngày 08/4/2006, Khối 8406 được thành lập từ trong nước. Sau khi đọc cương lĩnh Khối tôi thiết nghĩ có khả năng giúp anh chị em trong nước nên đã tự nguyện xin gia nhập. Khối là một tổ chức quần chúng đấu tranh chống bạo quyền cộng sản. Trong cách nhìn cá nhân, Khối 8406 cũng có thể xem như một Cộng Đồng Người Việt Tự Do Quốc Nội, có ban đại diện và thành viên bao gồm nhiều người từ nhiều tổ chức chính trị khác nhau. Khối cũng chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, bất bạo động. Trong thời gian gần đây (2009) Khối 8406 phát triển ra hải ngọai. Các anh chị trong Khối đã liên lạc với tôi để cùng sinh họat.

Tôi và ông Hòang Ngọc Tuấn

Ông Hữu Nguyên đã viết về tôi như sau: “Tôi được thấy ông lần đầu tại TTVH & SHCĐ trong dịp CĐNSW họp bàn về cuộc biểu tình phản đối Casula Powerhouse vào đầu năm 2009. Khi Sàigòn Times có những bài viết đóng góp với ông Hoàng Ngọc-Tuấn, ông NQD có gửi cho chúng tôi một, hai bài phê phán HNT. Thấy bài viết tương đối tích cực, nên chúng tôi cho đăng trên Diễn Đàn SGT. Nhưng những bài viết sau đó của ông lại chuyển hướng, có vẻ mời gọi ông HNT tham gia cộng đồng, nên chúng tôi đã không đăng.” Trong lời viết của ông Hữu Nguyên có rất nhiều điểm không đúng sự thật.

Mười lăm năm về trước (1995) trong một Hội Nghị do Cộng đồng NVTD tại NSW tổ chức, tôi đã thuyết trình về đề tài với nội dung Truyền Thông Mạng Tòan Cầu sẽ đánh đổ chế độ độc tài cộng sản. Nhìn ra điều này tôi đã sớm gia nhập cộng đồng mạng.

Ngay khi ông Hoàngg Ngọc Tuấn đưa lên mạng bài phỏng vấn về cuộc triển lãm Nambang gây dư luận mạng bất lợi cho cộng đồng, tôi đã sớm lên tiếng. Do là tuần báo, Sàigòn Times sau đó ít ngày cũng có những bài viết đóng góp với ông Hoàng Ngọc-Tuấn. Ngay khi đưa lên mạng tôi đã gởi những bài viết của tôi đến các cơ quan truyền thông Úc châu. Saigon Times có đăng lại hai bài tôi viết trong số báo này.

Tôi đã viết 6 bài liên quan đến cuộc triển lãm Nambang đưa lên mạng và một bài tôi viết riêng cho báo Việt Luận. Bài viết này tôi quyết định không đưa lên mạng vì chủ yếu viết cho đồng hương trong cộng đồng tại Úc châu.

Ngay bài đầu tiên tôi đã kết luận rất rõ ràng: "Tôi theo dõi kỹ lần biểu tình vừa qua, tôi không nghe, không thấy ai hô hào hay viết lách gì mà nêu tên Hoàng Ngọc-Tuấn hay chống đối ông, mặc dù qua quảng cáo, ai cũng biết ông có tham gia, hỗ trợ cho Ban Tổ chức triển lãm. Vậy thì cớ gì ông lại đứng về phía Ban Tổ chức triển lãm trách móc lung tung mà không ngồi lại đối thoại?" Bài này đã được đăng trên Saigon Times.

Nhận vai trò đại diện cho cộng đồng, chúng tôi luôn luôn chủ trương công khai, ôn hòa, đối thoại và tôn trọng luật pháp. Vì chịu trách nhiệm trước đồng hương và trong vai trò người làm việc cộng đồng, tôi không thể làm gì khác hơn kêu gọi ông Hòang ngọc Tuấn đối thoại với Ban chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại NSW.

Việc Saigon Times tiếp tục "mở hồ sơ" ông Hòang Ngọc Tuấn là quyền của tờ báo. Đăng các bài viết sau này của tôi hay không cũng là quyền của tờ báo. Tôi cũng theo dõi kỹ Saigon Times nên đã phát hiện ra một điều là tên tôi đã được sử dụng cho một thơ độc giả, nói rõ hơn thơ này không do tôi viết.

Nhờ ôn hòa và tôn trọng ông Tuấn, ngày nay tôi có thêm một người bạn trong cộng đồng mạng: anh Hòang Ngọc Tuấn. Mặc dù chưa một lần gặp gỡ, chúng tôi vẫn thường hay chia sẻ nỗi vui buồn trong công cuộc đấu tranh chung. Chúng tôi đã nhận rõ sự khác biệt, tôn trọng lẫn nhau và nhận ra một việc mà cả hai chúng tôi cần phải làm là mang lại tự do dân chủ cho đồng bào trong nước.

Các bài viết khác của tôi

Trong vòng năm sáu năm nay tôi đã phổ biến cả trăm bài viết trên mạng tòan cầu. Trong vòng năm qua tôi có gởi bài viết đến một số báo giấy tại Úc châu. Một số báo tại Hoa Kỳ, Canada và Âu châu liên lạc yêu cầu được đăng. Một số bài cũng được các các đài phát thanh như Viễn Xứ, Hậu Duệ, Hoa Mai, Khối 8406,... phát thanh đến đồng bào trong và ngoài nước. Tôi sử dụng tên thật viết bài để sẵn sàng chịu trách nhiệm về các bài viết của tôi. Tôi quan niệm viết để chia sẻ đến bạn đọc, người nghe nên sẵn sàng chấp nhận việc các bài viết của tôi được phổ biến rộng rãi (không giữ bản quyền). Tôi cũng sẵn sàng đón nhận những ý kiến góp ý nếu có.

Trước đây tôi có gởi bài viết đến Saigon times và vì không cùng cách nhìn cách suy nghĩ cách lập luận với ông chủ bút nên các bài viết không được đăng. Không chỉ riêng Saigon Times, tôi cũng gởi và có bài đăng trên cho báo Nhân Quyền, Nam Úc Thời Báo, Dân Việt và Việt Luận ... và nhiều cơ quan truyền thông khác ngòai Úc châu.

Việc ông Hữu Nguyên cho rằng các bài viết của tôi: "... có nội dung cố tình khuấy động lòng thù hận của người Việt với Trung Quốc, để người đọc không thấy được kẻ thù nguy hiểm, ngay trước mắt cần phải tiêu diệt là bè lũ CSVN bán nước và lũ tay sai cò mồi, nên chúng tôi không đăng những bài viết này của ông." Hầu hết các bài viết của tôi đều đã được đăng trên Việt Luận. Việc không dựa trên những bài viết của tôi để tranh luận lại sử dụng báo Saigon Times tuyên bố như trên thì đã có độc giả khách quan đánh giá.

Kết

Trước 1975, khi còn quân còn đất nước, cha anh chúng tôi còn đưa ra chính sách chiêu hồi. Qua hồi ký ông Hữu Nguyên viết tôi nhận ra rằng nếu không có chính sách chiêu hồi và nếu không có người hạ sỹ quan khuyên ông Hữu Nguyên khai xin hưởng chính sách hồi chánh với chính quyền Quốc Gia, thay vì là tù binh, thì chưa chắc cộng đồng Úc châu của chúng ta có được một Hữu Nguyên chủ bút của Saigon Times.

Ngày nay những người đại diện, người làm việc cộng đồng như chúng tôi, không quyền lực, không quyền lợi, chỉ với tấm lòng là chính, chúng tôi đã cùng đồng hương tại Úc giữ vững thành trì Úc Châu nhờ nắm vững phương châm thêm bạn bớt thù mà hành động.

Trong tình hình hiện tại đảng cộng sản đang rối lọan đang hỏang sợ vì cái mà họ gọi là “diễn biến hòa bình” hay “tự diễn biến”. Hai cụm từ trên để diễn tả sự thách thức độc quyền chính trị của đảng cộng sản. Việc gì sẽ xảy ra thật khó biết trước, để chủ động đòi hỏi các cá nhân các đòan thể cần liên kết, đồng nhất phương cách đấu tranh và phân công tác. Nhu cầu trên không nằm ngòai mục tiêu của Nghị Hội. Để từ đó mọi người Việt yêu chuộng tự do trên tòan thế giới dồn tổng lực tấn công đánh đổ chế độ độc tài cộng sản. Phương châm thêm bạn bớt thù sẽ luôn luôn là kim chỉ nam hướng dẫn chúng tôi.

Xin cám ơn qúy vị đã đọc bài viết này và xin đánh giá một cách khách quan. Cũng xin quý vị đồng lòng hổ trợ Nghị Hội Người Việt Toàn Thế Giới tại Úc châu để chúng ta có thể dồn tổng lực mang lại dân chủ và tự do cho đồng bào Quốc nội.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Úc Đại Lợi
24/3/2010

Tài Liệu Tham Khảo

QUYẾT NGHỊ: ĐẠI HỘI LẦN THỨ 19 CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO LIÊN BANG ÚC CHẤU (toàn văn)

Đại Hội lần thứ 19 của CĐNVTD Liên Bang Úc Châu đã diễn ra vào ngày 07 và 08 tháng 6 năm 2008 tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, với sự tham dự của các đại diện các Ban Chấp Hành CĐNVTD Liên Bang, các tiểu bang NSW, Victoria, Queensland, Nam Úc, Tây Úc, các Lãnh Thổ ACT, Bắc Úc và thành phố Wollongong. Sau khi bàn thảo, Đại Hội đã đồng thuận và đưa ra những quyết định như sau:

1. Tái khẳng định lập trường:

. Không chấp nhận độc quyền cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam.

. Không tiếp xúc, không đối thoại, không thoả hiệp, không hoà hợp, hoà giải với tập đoàn CSVN, khi nào họ vẫn còn duy trì độc quyền cai trị đất nước.

. Tiếp tục công tác ngoại vận nhằm hổ trợ các phong trào đòi dân chủ, tự do trong nước; phong trào công đoàn độc lập; các phong trào đòi tài sản và bồi thường của các tôn giáo và dân oan tại Việt Nam.

2. Độc lập với các tổ chức chính trị, các Hội Đoàn Đoàn thể, cộng tác trong tinh thần tương kính và đoàn kết.

3. Đại Hội quan tâm đến tình trạng lao động của người Việt Nam hiện đang làm việc tại hải ngoại và lên án hành động vô trách nhiệm của chế độ Cộng Sản Việt Nam trong việc xuất cảng mà không bảo vệ được người lao động.

4. Đại Hội tích cực hỗ trợ những công tác của Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam (được thành lập tại Ba Lan vào năm 2006).

5. Ban Chấp Hành Cộng Đồng Liên Bang nhiệm kỳ 2008-2010 sẽ nghiên cứu việc tổ chức một Nghị Hội của các cộng đồng người Việt tự do trên toàn thế giới.

6. Để đối phó với nguy cơ cắt giảm các nguồn tài trợ từ chính phủ, Ban Chấp Hành các CĐNVTD tại các địa phương sẽ nỗ lực nghiên cứu những phương cách để tiến dần đến tình trạng có thể tự túc về mặt tài chánh.

7. Nghiên cứu và tìm mọi phương cách để khuyến khích giới trẻ tham gia thêm vào các cơ chế Cộng Đồng cũng như những sinh hoạh chung.

8. Tiểu bang Victoria sẽ phụ trách tổ chức Đại Hội lần thứ 20 của CĐNVTDLB Úc Châu vào năm 2010.

Brisbane ngày 08 tháng 6 năm 2008

. CT/BCH/CĐNVTD/Úc Châu: Ông Nguyễn Thế Phong

. CT/BCH/CĐNVTD/NSW: LS Võ Trí Dũng

. PCT/BCH/CĐNVTD/VIC : Ông Nguyễn Văn Bon

. CT/BCH/CĐNVTD/NamÚc:ÔngĐCChánh Phú Lộc

. CT/BCH/CĐNVTD/Tây Úc: Ông Phạm L.H Nam

. CT/BCH/CĐNVTD/ACT: Ông Lê Công

. CT/BCH/CĐNVTD/Wollongong: Cô Trần Hương Thủy

. CT/BCH/CĐNVTD/Bắc Úc: Ông Lê Tấn Thiện

. CT/BCH/CĐNVTD/Queensland: BS Bùi Trọng Cường



Thursday, March 25, 2010

Tâm Thư Kính Gửi Đồng Hương Tỵ Nạn Cộng Sản Tại California - Bác sĩ Vũ Linh Huy

    Kính thưa Các Bậc Huynh Trưởng,

    Quý Đồng Hương và Các Bạn Trẻ thân mến,
Được tin đồng hương tỵ nạn tại Nam California bàn cãi về việc đối phó với cuộc “Viếng Thăm (để làm) Mục Vụ Di Dân” sắp tới của Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn và việc Đức Hồng Y tới chủ toạ Đại Hội Lòng Thương Xót Chúa tại Long Beach, tôi xin đóng góp vài ý kiến thô thiển sau đây, dựa trên những nhận xét của tôi về vị Hồng y này:

1. - Đại Hội Lòng Thương Xót Chuá là một sinh hoạt tôn giáo, có thể nói là thuần tuý tôn giáo.

2. - Nhưng tôi không tin cộng sản Việt Nam cho HY Phạm Minh Mẫn, hay bất cứ một vị giám mục nào ra ngoại quốc, đặc biệt là qua Mỹ, chỉ vì lý do thuần tuý tôn giáo.

Cộng sản cần đánh bóng chế độ, cần che dấu những âm mưu tiêu diệt tôn giáo hết sức tinh vi thâm độc, quỷ quyệt của chúng, cần lấy lòng các nước phương tây, cần tiền của người tỵ nạn. Tất cả những mục tiêu ấy đều được thực thi mỹ mãn qua các chuyến “viếng thăm (để làm) mục vụ di dân”.

Nếu thực sự cộng sản và các đức cha quan tâm tới đời sống tôn giáo, tâm linh của người di dân thì đồng bào ở Đài Loan, Mã Lai, Thái Lan cần được thăm nom thường xuyên hơn nhiều, tại sao chẳng mấy khi nghe tin các ngài tới viếng thăm, ủy lạo giáo dân bị xuất cảng lao động hoăc bị đi làm “cô dâu” hay nô lệ tình dục ở các nước đó?

Tại sao Cha Nguyễn Hùng làm mục vụ cho cô dâu và nô lệ tình dục ở Đài Loan chẳng được sự hỗ trợ tích cực nào của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng như của từng cá nhân giám mục?

Còn tín hữu ở Mỹ và các nước phương tây thì đã có các giáo xứ, giáo phận địa phương chăm sóc với rất nhiều linh mục tuyên úy, quản nhiệm người Việt, nhiều nam nữ tu sĩ người Việt chăm sóc, tại sao các ngài cứ tới thăm hoài?

3. - Riêng Hồng y Phạm Minh Mẫn thì càng khó tin rằng ngài qua Mỹ chỉ vì lý do thuần tuý tôn giáo.

Ngài đã từng rỉ tai Đức Hồng y Bernard Law của Boston để vị này không ủng hộ công cuộc tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền cho Việt Nam. Khi giảng tại Nhà Thờ Saint Williams ở Dorchester, Boston sau khi lãnh mão hồng y thì ngài “vô tình” hỏi:
    “Sao anh chị em sang đây đã hai mươi mấy, ba muơi năm, đời sống đã ổn định mà còn xưng là người tỵ nạn?”
Đó là chưa kể việc người ta đã phải vội vàng cất dấu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ở tiền đường nhà thờ trước khi ngài tới. Ngài đã từng bí mật hội họp với chức sắc của một hệ phái Hoà Hảo để hệ phái này không những bỏ lý tưởng chống cộng mà còn quay ngoắt 180 độ để ủng hộ cộng sản hết lòng.

Còn khi chuẩn bị đi Sydney dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 thì ngài công khai kết án Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng cuả một “thói đời” mang tính đối kháng và rằng việc mang Cờ Vàng đi dự Ngày Giới Trẻ sẽ cản trở sự hiệp thông của người trẻ Việt Nam.

4. - Đức Hồng y cất công qua tận Mỹ để chủ toạ Đại Hội Lòng Thương Xót Chúa do Dòng Chúa Cứu Thế Hải Ngoại tổ chức, nhưng từ bao nhiêu năm nay, ít nhất là từ khi làm Tổng Giám mục “Tổng Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh” không thấy Đức Hồng y thực thi hay chia sẻ Lòng Thương Xót Chuá cho dân oan mất nhà mất cửa, kể cả dân oan công giáo mất nhà thờ, tu viện, trường học.

Sao ĐHY không tới Nhà Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở ngay đường Kỳ Đồng Sài-gòn để chia sẻ Lòng Thương Xót Chúa với các cha, các Thày Dòng Chúa Cứu Thế và dân oan cầu nguyện ở đó.

Sao ĐHY không viết vài chữ cho các cha các thày Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà khi cộng sản chiếm đoạt trắng trợn tài sản cuả tu viện.

Ban Tổ Chức Đại Hội Long Beach 2010 và Đức Hồng y có thể nói Lòng Thương Xót Chúa "này" là lòng thương xót phần linh hồn người ta, cho người ta được ơn cứu rỗi, không liên quan gì đến nhà cửa, đất đai, dân oan, dân đói …

Tôi tuy không rành thần học, tín lý, nhưng tôi tin chắc chắn rằng Chúa Giêsu, dù đầy lòng thương xót, cũng không thể cho ai rỗi linh hồn nếu như:
    “… xưa Ta đói, con không cho ăn; Ta khát, con không cho uống; Ta là kẻ lỡ độ đường, con không cho trú trọ; Ta bị tù đày, con không thăm viếng …”
5. - Chống cuộc viếng thăm của Đức Hồng y Mẫn là chống một người đã sỉ nhục Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và Căn Cước Tỵ Nạn, không phải chống vì ngài là một chức sắc cao cấp Công giáo, càng không phải là chống Công Giáo hay chống một Đại hội có tính cách thuần túy tôn giáo.

Bởi vậy, đồng hương tỵ nạn thuộc bất kỳ tôn giáo nào hay không có niềm tin tôn giáo, cũng có thể và nên tham gia mà không sợ xúc phạm tới Công Giáo, càng không sợ “gây chia rẽ.” Chỉ những ai nghe Đức Hồng y mà dẹp Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ xoá bỏ Căn Cước Tỵ Nạn mới thực là kẻ gây chia rẽ.

Mấy lời thô thiển nhưng chân tình của một người thày thuốc tầm thường mong được các bậc huynh trưởng, quý đồng hương và các bạn trẻ quan tâm cứu xét.

Trân trọng,
Boston, ngày 24 tháng 3 năm 2010
Bác sĩ Vũ Linh Hu



Tâm Thư kêu gọi biểu tình và biểu dương Lá Cờ Vàng Chính nghĩa vào ngày 11-4-2010

Tâm Thư kêu gọi biểu tình và biểu dương Lá Cờ Vàng Chính nghĩa vào ngày 11-4-2010 khi Hồng y Phạm Minh Mẫn xuất hiện tại nhà hát Pyramid, trong khuôn viên Đại học Cal State Long Beach, Nam California
    Kính thưa quý đồng hương Người Việt quốc gia tỵ nạn csVN
Một lần nữa ngày 30 tháng tư lại sắp đến và mọi người dân Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới đang chuẩn bị tưởng niệm ngày gục chết của tự do dân chủ tại Việt Nam. Đây là biến cố trọng đại khởi đầu cho một chuỗi trầm luân, tang thương uất nghẹn của dân tộc, của tổ quốc Việt Nam trải dài suốt 35 năm qua và tà quyền csVN đã và đang đàn áp tôn giáo vô cùng tàn bạo và khốc liệt.

Trong khi Hòa Thượng Thích Quảng Độ, xử lý Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Mục Sư Tin Lành Nguyễn Công Chính đã và đang bị csVN sách nhiễu, bắt bớ và đánh đập tàn nhẫn. Chúng ta đều biết rằng sự ra đi "chữa bệnh" của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt là một dấu hỏi lớn. Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt là hình ảnh của một vị chủ chăn khả ái, sáng suốt và khẳng khái bất khuất trước chủ trương đàn áp tôn giáo của csVN. Ngài là linh hồn của những đòi hỏi chính đáng và những buổi cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý và Đồng Chiêm. Sự tập trung cả chục ngàn người Kitô hữu trong các buổi cầu nguyện đã làm cho csVN run sợ và lo ngại, cho nên csVN đã và đang thẳng tay đàn áp thô bạo. Cộng đồng quốc tế và nhiều dân cử Hoa Kỳ đã phải lên tiếng phản đối đồng thời đang vận động để đưa CHXHCN Việt Nam trở lại danh sách(CPC) những quốc gia đáng quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Sự ra đi quá đột ngột của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, khiến chúng ta liên tưởng đến Đức Cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận khi ngài còn giữ chức Tổng Giám Mục cũng điều đi Rome và csVN đã cấm không cho Ngài trở lại Việt Nam, chỉ vì Ngài cũng có lập trường như Đức Tổng Giám Mục Kiệt hôm nay vậy. Thì nay được biết csVN để Hồng y Phạm Minh Mẫn xuất ngoại tới Nam California do lời mời của Linh mục Nguyễn Trường Luân, Dòng Chúa Cứu Thế Long Beach và sẽ đồng Chủ Tế trong Đại Lễ "Lòng Chúa Thương Xót"vào ngày 11-4-2010 sắp tới đây.

Kính thưa quý vị.

Như quý vị đã biết:

- Ngày 4-6-2008, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã phổ biến bức thư ngỏ để bày tỏ sự lo ngại về sự hiện diện của Lá Cờ Vàng trong ba kỳ Đại Hội Thế Giới Trẻ trước đây tại Pháp, Đức, Canada mà Hồng y gọi là “sự Cố” cờ vàng làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ Việt Nam. Nhằm mục đích thuyết phục, Hồng y đã trình bày theo lối pha trò, giễu cợt rằng: “người mẹ Việt Nam lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc mặc áo rách …” Hồng y còn sợ những giáo dân tầm thường không hiểu hết ý của ngài nên ngài đã tỏ ra rất minh bạch ở chỗ vừa giễu cợt, vừa giải thích với những từ ngữ đã được đóng trong ngoặc đơn rất cụ thể : áo vàng (cờ vàng), áo đỏ (cờ đỏ) nhằm cố ý nhắn với người Việt tỵ nạn tại hải ngoại rằng: đất nước Việt Nam lúc thì cờ vàng tức chế độ Việt Nam Cộng Hòa, lúc thì cờ đỏ tức nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay, có sao đâu? Cờ vàng hay cờ đỏ, trước sau tôi vẫn sống thoải mái cả mà. Thời VNCH thì tôi đi tu, làm linh mục, xuất ngoại du học. Bây giờ, thời cộng sản thì tôi làm đến chức Hồng y, tôi thường xuất ngoại làm công tác “mục vụ di dân”, và tôi đã đi ra hải ngoại rất nhiều lần, Hồng y đã khẳng định mỉa mai, lăng nhục Lá cờ vàng có chi chỉ là biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng.

- Tại Hoa Thịnh Đốn ngày 24-6-2008, khi đến tiếp xúc với Dịch Vụ Thông Tin Công Giáo (Catholic News Service) Hồng Y đã nói với ký giả Chaz Muth (CNS): “Tôi bảo họ, các bạn đang ở đây, các bạn không còn là người tỵ nạn nữa ...”

Do đó, lập tức cộng đồng giáo dân cũng như Người Việt tỵ nạn khắp mọi nơi đã đáp trả và bày tỏ sự phẫn nộ, dù biết đó là sự đau lòng khi phải đụng chạm đến tước vị Hồng y của Giáo hội:

- Cộng Đồng người Việt ở Úc Châu trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 cũng như ngày bế mạc 20-7-2008 là bằng chứng hùng hồn về lá cờ vàng chính nghĩa cùng sức mạnh của giới trẻ Công giáo và cộng đồng người Việt tỵ nạn tụ tập kéo về biểu dương, tôn vinh để nói lên cho thế giới biết rằng Lá cờ Vàng ba sọc đó chính là biểu tượng cho các giá trị nhân bản, tự do và dân chủ của người Việt Nam.

- Vào ngày 5-7-2008, khi nhận được tin Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ đến dâng Thánh Lễ tại St Maria Goretti lúc 6:30 chiều, và tối Chủ Nhật 6-7-2008 lúc 8:30 giờ tại St Patrich thuộc thành phố San Jose thì giáo dân đã được kêu gọi tập trung tại hai nhà thờ để giương cao ngọn cờ vàng. Cuối cùng thì thông báo chính thức là Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ không đến dâng Thánh Lễ tại các nhà thờ nêu trên.

- Vào ngày 8-7-2008, tại thành phố Seattle, Tiểu bang Washington, được tin Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ đến đồng tế Thánh Lễ tại nhà thờ Chánh tòa nhân ngày Lễ Mừng 50 năm linh mục của Đức Tổng Giám Mục Alexander Brunett và sau đó ngày 9-7-2008 HY Phạm Minh Mẫn sẽ dâng Thánh lễ tại nhà thờ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Lập tức Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Tiểu bang Washington đã chính thức ra Bản Tuyên Bố với nhận định: " Dù kính trọng vị trí lãnh đạo tôn giáo của Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn, nhưng chúng tôi không đồng ý với quan điểm và nhận định của Đức Hồng y về lá cờ vốn đã và đang tôn kính .." và Bản Tuyên Cáo còn kêu gọi đồng hương tham dự cuộc biểu dương Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tại các địa điểm khi Hồng y có mặt tại Seattle. Trước tình trạng không mấy tốt đẹp trong ngày vui của Đức Tổng Giám Mục, Tòa Giám mục đã hủy bỏ sự hiện diện của Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến trong ngày lễ mừng Kim Khánh Đức Tổng Giám Mục và ngày hôm đó chỉ còn lại 4 Đức Hồng Y khác mà thôi.

- Cũng thời gian này, cũng có tin Hồng y từ chối tham dự Đại hội Grotto, Portland vì chương trình được khai mạc bằng Lễ Truy Điệu các chiến sĩ Đồng Minh, các chiến sĩ VNCH và những người bỏ mình trên đường tìm tự do rất trang nghiêm và cảm động. Lễ Đài chính bao giờ cũng được cắm ngọn cờ vàng là biểu tượng của những người bỏ nước ra đi, đang tập trung nơi đây trong những ngày hành hương núi Mẹ Sầu Bi Grotto Porland, Tiểu bang Oregon mà hàng năm có trên chục ngàn tín hữu tham dự. Việc Hồng y Phạm Minh Mẫn từ chối vào những phút chót thì cũng đúng thôi, vì đến đây mà chứng kiến Lễ Truy Điệu và thấy ngọn cờ vàng thì HY sẽ phải nói năng làm sao với bọn chóp bu nhà nước CHXHCNVN đã cho phép ngài xuất ngoại làm "mục vụ xin tiền" khúc ruột nối dài ngàn dặm và tuyên truyền cho nhà nước xã nghĩa.

Chưa hết, tin ngày 11-7-2008, tại Dòng Đồng Công cũng đã ra thông báo hủy bỏ luôn sự hiện diện của Hồng y Phạm Minh Mẫn trong những ngày Đại Hội Thánh Mẫu Carthage, Missouri vào giữa tháng 8 năm 2008 mặc dù Hồng y đã được mời từ trước và có tên trên Thiệp mời cũng như trên Website của nhà Dòng và Đại hội sau đó đã diễn ra êm đẹp.

Năm nay 2010, không biết Linh Mục Nguyễn Trường Luân có thỉnh ý và đã được sự đồng thuận của các Cha Bề Trên để mời Hồng y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giáo Phận Sàigòn đến cùng chủ tế Thánh Lễ Đại Trào tại nhà hát Pyramid, trong khuôn viên Đại học Cal State Long Beach, vào chiều ngày Chủ Nhật 11 tháng 4 năm 2010 trong Đại hội Lễ “Lòng Chúa Thương Xót” hay không? Đặc biệt, các cuộc đàn áp đẫm máu tại Thái Hà, Tam Tòa và mới nhất vụ Cánh Đồng Chiêm, Cồn Dầu khổ hạnh hiện nay đang làm cả thế giới phẫn nộ. Những biểu tượng thờ kính như Thánh Giá, Thánh Tượng, bàn thờ bị đập nát, bôi bẩn, tục hóa. Giáo dân và giáo sĩ bị đánh đập tàn nhẫn, máu loang, đầu vỡ ... diễn ra trước sự im lặng đến khó hiểu, nếu không nói là làm ngơ hay thậm chí đồng tình của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng như của Hồng y Phạm Minh Mẫn mà người đời cho rằng để thể hiện chủ trương đổi chác, đền bù bằng một phúc lợi nào đó chăng?

Linh mục Nguyễn Trường Luân mời Hồng y Mẫn đến chủ tọa Đại Lễ "Lòng Chúa Thương Xót" có thích hợp không? Nói đến Lòng Thương Xót là nói đến những nạn nhân và tội nhân. Chúa thương xót những nạn nhân xấu số, đó chính là nạn nhân của thiên tai, của khủng bố, của chính sách buôn người và đặc biệt là dân Việt đã và đang bị csVN giết dã man, đầy đọa. Nạn nhân là những nông dân miền Bắc bị đấu tố, chôn sống dùng trâu bò cày đứt đầu thật man di mọi rợ, là hơn 5,000 người dân vô tội, lương thiện Huế bị chôn sống tập thể trong Tết Mậu Thân năm 1968 và khi khi Mẹ Việt Nam mặc áo đỏ năm 1975 toàn cõi Việt Nam hàng triệu người Việt bỏ xứ đi tìm tự do và có hàng trăm nghìn người chết trên biển Đông làm mồi cho cá mập và hàng vạn người đi tù bỏ thân xác nơi rừng sâu nước độc. Hàng nghìn phụ nữ, con gái Việt Nam bị hải tặc hãm hiếp ở vịnh Thái. Sự hiện diện của Hồng y Mẫn trong Đại Lễ "Lòng Chúa Thương Xót" có làm vơi đi nỗi tủi hờn, uất nghẹn cho những linh hồn nạn nhân đó không, hay còn làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng Ngày Đại Lễ “Lòng Chúa Thương Xót”. Còn riêng đối với tội nhân, thì những tên khủng bố, những tên cướp đoạt tự do, bịt miệng dân chủ, chà đạp nhân quyền hẳn phải được Chúa thương xót cho thức tỉnh, cải hối, HY Phạm Minh Mẫn có cầu nguyện cho bọn người này cải hối không? hay Hồng y đến chỉ để làm cảnh, để che đậy và khuyến khích tội ác thêm nữa. Thiết nghĩ linh mục Nguyễn Trường Luân, một linh mục trẻ, học vị cao, nhìn xa, thấy rộng và kinh qua chính kinh nghiệm bản thân của Linh mục thì phải thấu hiểu hơn ai hết.
    "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh"
Chúng ta biểu tình, biểu dương lá cờ vàng không phải vì danh, vì lợi mà thay cho hàng triệu linh hồn chết tức tưởi, uất nghẹn. Chúng ta cũng tha thiết mong mỏi các tín hữu, con chiên của Chúa tham dự buổi lễ bên trong nhà hát Pyramid hãy cùng bày tỏ và ứng xử một cách đích đáng khi thấy Hồng y xuất hiện để thể hiện khí thế trong ngoài hợp nhất cương quyết biểu dương lá cờ vàng chính nghĩa thì hay biết chừng nào, mong lắm thay ! Đồng bào, đồng hương tại Bắc California đến Seattle vòng qua Porland, thậm chí ngay cả trong Đại hội Thế Giới Trẻ tại Úc đã làm được và ngài Hồng y Mẫn đã phải tránh né thì không lẽ tại chính nơi được mệnh danh là thủ đô của người Việt tị nạn trên thế giới lại không thể làm được việc này sao?

Rất mong gặp mặt đông đủ quý vị vào lúc 9: 00 AM(sáng)ngày 11-4—2010 tại Đại học Cal State Long Beach.

Trân trọng,

Trần Thế Cung (Cựu tù nhân chính trị VN).
Giuse Phạm Rambo (Cựu thuyền nhân tỵ nạn mafia csVN, phóng viên tự do Nam Cali, Hoa Kỳ)





*** Hướng dẫn đến trường đại học Long Beach.

1. Nếu quý vị đi từ vùng Orange county-Little Sài Gòn:
Đi freeway 22 West >>> chuyển sang 405 North,giữ Lane phải để ra Exit đường số 7, đi khoảng 2 -- 3 miles quý vị sẽ gặp trường đại học Long Beach.Trường đại học Long Beach nằm trên đường số 7(7 street) giữa đường STUDEBAKER và đường BELLFLOWER.Nếu quý vị đi qua đường Bellflower tức là quý vị đã đi lố tìm ngã tư U-TURN trở lại.

2. Nếu quý vị đi từ hướng Bắc xuống (Los Angeles-Norwalk ...) có thể đi 405 south hoặc 605 south Exit đường STUDEBAKER quẹo mặt đi vài miles sẽ thấy trường đại học Long Beach nằm bên phải.

Kính chúc quý vị thượng lộ bình an (Good Luck)

Nếu quý vị lạc đường xin liên lạc Mr Trần Thế Cung: 714-442-9117 hoặc Mr Phạm Rambo 714-653-0349


Phỏng vấn Giáo Sư Carlyle Thayer


(Sau cuộc vận động ký tên yêu cầu Hội Địa Lý Quốc Gia Hoa Kỳ xóa bỏ tên China tại Hoàng Sa)

NTHF - 23.03.2010

Cũng trong ngày kết thúc chiến dịch ký Thư Yêu Cầu, Nhã Trân, trưởng ban báo chí của NTHF, phỏng vấn một chuyên gia về khu vực Đông Nam Á, Giáo sư Carlyle A. Thayer, Giám đốc Diễn đàn Nghiên cứu quốc phòng Đại học New South Wales – Australia, theo dõi và quan tâm đến các vấn đề liên quan đến Việt Nam.

Nhã Trân: Xin được nghe quan điểm của GS trước sự kiện Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (NGS) ghi quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa trong một bản đồ mới đây của họ?

GS Thayer: NGS năm nay đã sai phạm khi ghi là quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Ít ra NGS nên chú thích rằng chủ quyền khu vực này đang trong tình trạng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa.

Nhã Trân: GS khẳng định việc ghi Hoàng Sa thuộc Trung Hoa là sai phạm. Có phải đó là vì quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam mãi cho đến khi bị Trung Hoa dành lấy sau lần xâm lược năm 1974?

GS Thayer: Đúng vậy. Quần đảo Hoàng Sa chia thành hai nhóm, nhóm đảo Amphrite ở phía bắc và nhóm đảo Crescent ở phía nam. Kể từ khi thời kỳ thuộc địa Pháp kết thúc ở Việt Nam, chính phủ miền Nam, sau này là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, được chiếm lĩnh nhóm đảo Crescent. Tháng Giêng 1974, một năm sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Hải quân Trung Hoa đã tấn công Hải quân VNCH và chiếm cứ phía nam Hoàng Sa.

Nhã Trân: Nói đến lịch sử của Hoàng Sa, theo chúng tôi được biết thì khi đó phía chính phủ miền Nam Việt Nam đã mạnh mẽ phản đối hành vi xâm lược của Trung Hoa ?

GS Thayer: Khi Trung Hoa cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phản đối, tuy nhiên không thay đổi được tình thế là mấy. Hoa Kỳ khi ấy đã rút quân khỏi Việt Nam, và không có ý định hỗ trợ một cuộc chiến chống lực lượng quân đội Trung Hoa. Ngược lại với miền Nam, miền Bắc cộng sản khi đó không phản đối hành động của Trung Hoa. Bộ Ngoại Giao miền Bắc sau này viện lẽ rằng kẻ thù chính của họ là chủ nghĩa đế quốc của Mỹ, và họ không muốn Hoa Kỳ thiết lập căn cứ trên Hoàng Sa. Nói một cách khác là chính quyền Hà Nội đã không hề phản đối.

Nhã Trân: Là một chuyên gia về Đông Nam Á và về quốc phòng, GS nhận định ra sao về cơ sở mà Trung Hoa thời gian sau này dựa vào để tuyên bố chủ quyền của họ ở Hoàng Sa?

GS Thayer: Căn bản là Trung Hoa tuyên bố chủ quyền trên toàn thể Biển Đông, trong đó bao gồm Hoàng Sa, viện lý do họ là người khám phá vùng biển này. Chiếu theo luật quốc tế, khi hai xứ sở tranh cãi chủ quyền về lãnh thổ, trong trường hợp này là chủ quyền đối với các quần đảo trong vùng Biển Đông, lợi thế nghiêng về quốc gia chứng minh được sự sở hữu và quản trị.

Nhã Trân: Như GS vừa nói thì Việt Nam có thể ở vào thế bất lợi vì Hoàng Sa đã bị Trung Hoa chiếm đóng từ năm 1974 và chính thức lập đơn vị hành chính thời gian gần đây ?

GS Thayer: Trường hợp Việt Nam có thể được biện luận là chủ quyền [đối với Hoàng Sa] được chính quyền Pháp chuyển giao cho chính quyền Việt Nam lúc chế độ thuộc địa cáo chung vào năm 1954, vùng phía nam của Hoàng Sa được sở hữu và cai quản bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong suốt hai thập niên liên tục.

Nhã Trân: Tranh chấp về chủ quyền Biển Đông, trong đó bao gồm Hoàng Sa, ngày càng căng thẳng. Các nước liên quan, tất nhiên kể cả Việt Nam, đang nỗ lực quốc tế hóa vấn đề, nhưng Trung Hoa một mực phản kháng. Ý kiến GS ra sao về khả năng Trung Hoa không từ bỏ ý định làm bá chủ Biển Đông, và Hoàng Sa nói riêng?

GS Thayer: Lịch sử đã chứng minh rõ rằng Trung Hoa xưa nay vừa cương quyết vừa hung hăng trong việc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông. Trước tháng Giêng 1974 Trung Hoa chỉ kiểm soát được phía bắc quần đảo Hoàng Sa. Kể từ khi đó Trung Hoa đã sử dụng lực lượng quân đội trong hai trường hợp để chiếm hữu các đảo này. Trường hợp đầu xảy ra tháng Giêng 1974 ở phía nam Hoàng sa. Trường hợp thứ nhì vào tháng Ba 1988 khi các chiến hạm của Trung Hoa tấn công lực lượng Hải quân cộng sản Việt Nam gần khu vực đá ngầm Johnston trong quần đảo Trường Sa. Trung Hoa sau đó tiếp tục chiếm thêm nhiều nơi trong vùng. Năm 1992, Trung Hoa lại gia tăng sự chiếm đóng của họ tại Trường Sa bằng cách cưỡng chiếm thêm nhiều vùng hơn. Năm 1995, trong một bành trướng mới, Trung Hoa chiếm vùng đá ngầm Mischief tại biên giới phía đông quần đảo Trường Sa, vùng mà trước kia Phillipines tuyên bố chủ quyền. Kế đó Trung Hoa xây dựng căn cứ quân sự trên Mischief. Cả Việt Nam lẫn Trung Hoa đều quân sự hóa những quần đảo và khu vực mà họ chiếm giữ.

Việt Nam hiện đang ở vào vị trí không mấy lạc quan vì đòi chủ quyền mà không có phương cách để yểm trợ đòi hỏi này. Trung Hoa từ chối thảo luận về vấn đề Hoàng Sa, và điều đó làm hỏng mọi ý định đưa vấn đề này ra tòa án quốc tế. Cả hai chính quyền đang bất đồng về vấn đề chủ quyền phải cùng đồng ý để vấn đề được phân xử. Việt Nam hiện không có biện pháp ngoại giao hoặc quân đội để khẳng định, hỗ trợ cho việc đòi chủ quyền của mình. Lấy ví dụ, trong những năm cuối thập niên 1990 khi Khối Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã cùng Trung Hoa đàm phán về luật lệ hành xử cho vùng Biển Đông, Việt Nam muốn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được bao gồm vào khu vực này thì Trung Hoa đã phản đối, và các nước láng giềng của VN đã nhượng bộ. Hoàng Sa [vì vậy] không được đề cập đến; luật hành xử trong khu vực Biển Đông sau đó phai nhạt, tan biến vào Bản Tuyên Ngôn năm 2002 về Luật của các chính quyền vùng Biển Đông.

Nhã Trân: Trở lại chuyện Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ sai phạm trong phán đoán của họ, GS có nghĩ sửa sai là điều cần thực hiện ?

GS Thayer: Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ lẽ ra có thể chính xác hơn nếu ghi rõ là các đảo thuộc phía nam của Hoàng Sa đang bị Trung Hoa chiếm đóng.

Nhã Trân: Phản ứng của người dân Việt trước sự kiện này có chính đáng, họ có quyền yêu cầu NGS đáp ứng yêu cầu đòi sửa lại chú thích về quần đảo Hoàng Sa để duy trì sự thật và công lý ?

GS Thayer: Có thể hiểu được sự phẫn nộ của những người Việt hải ngoại yêu nước trước sự sai lạc trong phán đoán của Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ. Sự sai sót, lầm lẫn này nếu được để yên có thể trở thành một thí dụ cho thấy sự đồng ý [của người Việt] đối với sự xâm lược của Trung Hoa. Người Việt hải ngoại phải tiếp tục áp lực, nêu quan điểm bằng cách không cho phép kỷ niệm cuộc xâm lăng của Trung Hoa hồi tháng Giêng 1974 trôi qua trong câm lặng. Họ cũng có thể nêu vấn đề này lên với các đại diện quốc hội, các định chế quốc tế thẩm quyền, và nhà cầm quyền Hà Nội.

Nhã Trân: Là một người nghiên cứu chính trị và quan tâm đến tình hình Việt Nam xưa nay, GS có điều gì muốn nhắn nhủ người dân và chính quyền Việt Nam ?

GS Thayer: Luật quốc tế đứng về phía những quốc gia có cơ sở trong việc tuyên bố chủ quyền. Sự yên lặng của Việt Nam có thể phương hại đến việc khẳng định chủ quyền của mình. Ngạn ngữ Anh có câu "sự sở hữu là chín phần mười của luật pháp." Để ngăn ngừa điều này, trong trường hợp của Hoàng Sa, Viêt Nam phải tiếp tục thúc đẩy việc khẳng định chủ quyền của mình, phải phản đối tất cả mọi hành động mà Bắc Kinh sử dụng để xác nhận, khẳng định chủ quyền của họ. Thất bại trong việc duy trì vấn đề này sẽ đưa đến kết quả là Việt Nam đã chối bỏ chủ quyền của đất nước mình.

Nhã Trân: Cám ơn GS đã dành cho Nguyễn Thái Học Foundation cuộc phỏng vấn đặc biệt này.

Source: http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=2303:2303&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58



Wednesday, March 24, 2010

Nhìn người mà NGHĨ đến TA !

NHÌN NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA
    Nhìn người dân gốc Cu Ba
    Việt Nam ơi, ngó lại ta, nghĩ gì ???
(gởi ca sĩ, kịch sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, bác sĩ, dược sĩ, tiến sĩ, tu sĩ v..v..những vị Sĩ đã về Việt Nam để khoe tài với CS. hoặc dùng danh nghĩa nhân đạo làm tay sai cho bọn chúng)

Cô, Gloria, dân Mỹ, gốc Cu Ba
Phục cô, người nữ danh ca kiên cường
Cô đã chọn quê hương Mỹ Quốc
Vì cô yêu ngọn đuốc tự do
Dù cô hạnh phúc ấm no
Tấm lòng vẫn nặn g mối lo nước nhà
Cô thương nhớ quê cha đất tổ
Như mọi người xa xứ thương quê
Và cô đã được mời về
Hát cho thánh lễ ở quê hương mình
Một buổi lễ linh đình trọng thể
Đức Giáo Hoàng chủ tế uy nghiêm
Được mời, vinh hạnh vô biên
Thế mà cô trả lời liền: “Thưa không
“Khi Cộng Sản còn hồng đất nước
“Chính vì yêu tổ quốc, không về
“Ngày nào cái chế độ kia
“Không còn, tôi mới trở về quê tôi
“Và sẽ hát vang trời ca khúc
“Mừng tự do hạnh phúc muôn nhà ...”

Tha Hương

(*) Nữ danh ca Gloria Estefan người Mỹ gốc Cu Ba đã từ chối lời mời của Giáo chức Thiên Chúa Giáo mời cô về Cu Ba hát cho Thánh Lễ cuả Đức Giáo Hoàng John Paul II tại chính quê hương cô cuối năm 1998. Emilio Estefan, chồng cô, cho tờ báo Miami Heralt biết rằng Giáo Chức Thiên Chúa Giáo La Mã Mexico đã nhiều lần yêu cầu Estefan về Cu Ba để hát trước Giáo Hoàng nhưng câu trả lời của cô dứt khoát là "không" Ông nói thêm: "Chúng tôi sẽ không bao giờ hát ở Cu Ba khi chế độ Fidel Castro còn đó. Ngày Gloria hát ở Cu Ba là ngày Cu Ba được Tự Do ..."

"Thương nữ bất tri vong quốc hận"

CA SĨ THANH TUYỀN VÀ LÒNG NHÂN ĐẠO

(theo tin báo Philadelphia Asian News thứ sáu ngày 28 tháng 1/2000, trang 11 và tuần báo địa phương Philadelphia, Thời Mới số 48 thì vào hồi 6:00 chiều thứ bảy ngày 22/1/2000, ông Phan Văn Đạo, chủ tịch Hội Thương Nghiệp Á Mỹ Philadelphia và Phụ Cận đã tổ chức một buổi nhạc hội mừng xuân Canh Thìn tại nhà hàng New Century, 600 đường Washington Avẹ Philadelphiạ Ban tổ chức có mời một số nam nữ nghệ sĩ giúp vui, trong đó có ca sĩ Thanh Tuyền. Sau một vài màn trình diễn, ca sĩ Thanh Tuyền đem CD và một số băng vidio ra bán. Cô kể một chuyện thương tâm ở một làng tại VN và kêu gọi lòng nhân đạo của thực khách có mặt mua CD và băng giúp cho Thanh Tuyền để cô có tiền gởi về giúp cho người già ở VN. "Đồng thời Thanh Tuyền đứng trên sân khấu kêu gọi gây quỹ giúp cho các thương binh bộ đội ..." (trích nguyên văn Asian News) cô cũng nói là vì lòng nhân đạo, cô đã không phân biệt chế độ cũ và mới.

Bài báo cũng ghi nhận là họ thấy có dựng hai lá cờ Mỹ Việt nhưng không có nghi thức chào cờ. Nên có thơ rằng:

XANH VỎ ĐỎ LÒNG

Đầu năm, ca sĩ Thanh Tuyền
Phila cô hát, tân niên tưng bừng
Phan Đạo tổ chức tiệc mừng
Thương Nghiệp Á Mỹ lẫy lừng, nở hoa
Thanh Tuyền xong một bài ca
Cô đem băng, đít (disk) cô ra kiếm tiền
Cô nàng ỏn en? cười dziên
Rằng em nhân đạo thu tiền giúp cho
Cán binh Cộng Sản bác Hồ
Cùng người già lão ốm o, nghèo nàn
Đau thương ở khắp Việt Nam
Phân chi chế độ mà làm tình phai!
Nghe lời cô nói lạ tai
Không phân cũ, mới, thế này, nghĩa chi ?
Cán binh Cộng Sản đói thì
Đảng lo cho họ, cần gì đến cô !?
Đảng viên, giàu triệu tiền đô
Tại sao cô phải bán đồ cô cho ?
Cớ gì cô lại đi lo
Giúp người phá nát cơ đồ, là chi ?
Ngày xưa, cô trốn Vi Xi
Bây giờ cô nói cái gì, lạ không !?
Giời ơi, cúi xuống mà trông
Thế nhân xanh vỏ đỏ lòng những ai !!!

Tha Hương

AI ÁM SÁT AI
(Nhân chuyện ca sĩ Hương Lan trả lời cuộc phỏng vấn sau khi về hát tại VN đã làm nhiều người tỵ nạn CS bất bình, cho Hương Lan là kẻ vô liêm sỉ, phản bội đồng hương. Tuy nhiên, cũng có kẻ đã hô hoán cầu cứu là "xin đừng ám sát Hương Lan". Nên có thơ rằng:

Chẳng ai "ám sát Hương Lan "
Chính cô đưa "Ngụy" lên giàn hỏa thiêu!
Thương nữ nói những điều phản trắc
Đem thân về luồn giặc cầu vinh
Nên dân tỵ nạn bất bình
Dạy cho ca nữ sửa mình đấy thôi!
Kẻ sát hại loài người: Chính Cộng!
Rồi phủi tay: "Bác hổng có làm!"
(Bác và Đoàn, Đảng dã man
Lại còn ăn cướp la làng mới kinh!)
Việc ca nữ cúi mình, qùy gối
Trước cộng thù để đổi lấy đô
Trò này coi đã hổng dzô
Thêm màn to họng hàm hồ, đảo điên!
Thì tỵ nạn không phiền sao được
Phải dạy cho sau trước đôi lời
Rằng xưa, hỏi nữ, ai nuôi ?
Mà nay ca nữ chửi người Quốc Gia?
Đến loài chó giữ nhà, ăn .. .ấy
Cũng không hề cắn bậy người nuôi
Huống chi nữ lại giống người
Hỏi câu Liêm Sỉ nữ thời để mô ?
Nữ luồn cúi nhà Hồ qúa cỡ
Không nhục đời, không hổ nữ sao ?
Lời xưa, thương nữ .... thảo nào!
(Biết chi là nhục, biết sao là hờn!)
Hỡi đàn chị đàn em thương nữ
Còn nhân luân đạo nghiã, chớ về
Về mà lạy để Cộng thuê
Hát đôi ba bản , hỏi về, có nên ?
Chớ mà phản bội dân hiền
Người dân sẽ tẩy chay liền, biết không ?

Tha Hương
__________

(Cảm nghĩ khi nghe những câu trả lời của Khánh Ly trong cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh về cái chết của họ Trịnh)
    TIẾNG HÁT QUẠ HỒNG

    Hỡi này ca nữ Khánh Ly
    Giọng ca cô có, hay thì cũng hay
    Nhưng cô dùng giọng ca này
    Tiếp tay với Trịnh hại ngay nước nhà
    Xâm lăng, cộng chiếm sơn hà
    Cộng gây xáo thịt nồi da đau buồn
    Cô huà theo Trịnh Công Sơn
    Dẫm lên tình cảm máu xương dân lành
    Bài ca phản chiến long lanh
    Trịnh không nhắm bọn lưu manh giặc hồ
    Quốc Gia, Trịnh nhắm thẳng vô
    Cô giúp Trịnh phá cơ đồ, biết không?
    Giọng cô thành tiếng quạ hồng
    Tháng Tư, mất nước, vui lòng cô chưa ?
    Diêm vương gọi, Trịnh đã thưa
    Cô chưa tỉnh, vẫn hàm hồ thế sao ?
    Tuyên con tuyên bố tào lao
    Với cô, Trịnh bự chứ nào với ai !
    Lời xưa quả thật không sai !
    Có đâu thương nữ ai hoài quốc vong!
    Thương cô, tiếng hát quạ hồng!

    Tha Hương


CHÚC "CỤ" KHÁNH LY
(nhân đọc tin ca sĩ Khánh Ly tự gọi mình là "Cụ" và ngỏ ý muốn được đi theo họ Trịnh nên Tha Hương tôi có mấy lời chúc Cụ trước khi cụ lên đường)

Muốn đi theo Trịnh, cứ đi
Có ai giữ cụ làm gì, cụ ơi !
Cụ có biết một thời, cụ được
Sống bình yên, sung sướng, nhờ ai ?
Phải người nếm mật, nằm gai
Giữ an đất nước, trấn ngoài biên khu ?
Để chặn bọn cộng thù phương Bắc
Vào xâm lăng, gieo rắc tang thương
Rứa mà cụ chẳng nhớ ơn
Lại cùng tên trịnh công sơn tưng bừng ...
Cầm dao nhọn đâm lưng chiến sĩ
Bằng lời ca mộng mị liêu trai
Nhạc kia, phản chiến, những bài
Nản lòng chiến sĩ miệt mài hy sinh
Thưa với cụ, hoà bình đất nước
Do hào hùng, đảm lược,đấu tranh
Không do lật lọng, xâm lăng
Hoặc Ba lê, đảng nhập nhằng, bất lương
Cụ cùng trịnh phù phường cờ đỏ
Nên Bảy Lăm, khốn khó Tháng Tư !
Chạy ra ngoại quốc, ngất ngư
Tưởng rằng cụ đã đứ đừ, tỉnh ra
Nào ngờ cụ mù loà lương trí
Vẫn mê tên nhạc sĩ phản thùng
Không nhìn ra tội bất trung
Với tổ quốc, với non sông, giống nòi!
Và bất nghĩa với người giữ nước
Để bao năm cụ được an lành
Oai hùng, sử Việt màu xanh
Cụ và họ trịnh tô thành đỏ tươi !
Nay trịnh đã về nơi Bắc Pó
Cụ từng ngày lệ đỏ nhớ thương!
Cụ mong sớm được lên đường
Đi theo anh trịnh công sơn dzô hòm
Cụ đã muốn, ai còn dám cãi
Muốn thì đi, đi đại xem nào !
Chần chờ ... cụ ... sợ hay sao ???
Cụ cần ai ... đẩy cụ vào giúp không ?
Hương tôi chúc cụ duyên nồng
"Anh sơn" và cụ chuyên hồng cùng nhau ...

Tha Hương

LẮM KIỂU BƯNG BÔ !
(nhân tin chàng ca sĩ Tuấn Vũ bị bác và đảng nhà ta không cho phép hát tại thành hồ- nhờ các bác gởi đến chàng Tuấn giùm cho, nhà cháu xin cám ơn.)

Xin ca mà chẳng được ca
Đảng chơi chàng Tuấn thiệt là đắng cay !!!

Chơi chi đểu thế này hở đảng
Tui có là TỊ NẠN nữa đâu
Đồng hương nuôi thứ tôi giàu
VIỆT KIỀU, tui đổi MÁC lâu rồi mà ....
Sao đảng loại tui ra dzậy đảng
Không cho tui được hát là sao ?
Tui đâu có tội chi nào ?
TỘI CHĂNG, PHẢN BỘI ĐỒNG BÀO TÍ TI ...
Bọn "đĩ điếm" ngu gì, ngu lạ
Nó làm tui sáng giá một thời
Nó mê tiếng hát chơi vơi
Có mùi ma túy giúp tui làm giàu
Nhưng phản bội nằm sâu trong máu
Tui về đây làm cháu bác hồ
Sẵn sàng qùy gối, bưng bô
Miễn sao được hát nhi nhô vài bài
Ai ngờ đảng độc tài qúa sức
Để Ngụy cười, hỏi: nhục mi không?
Bưng bô, mi được mấy đồng
Mà đi phản bội tấm lòng đồng hương ?
Nó còn bảo: tui, phường tráo trở
Quên những ngày khốn khổ đau thương
Quên ngày trốn khỏi quê hương
Làm thân tị nạn tha phương xứ người
Và nó bảo rằng tui còn mãi
Thúi hay thơm để lại cho đời
Nhưng tui làm bẩn tui rồi
Thơm bay, còn lại chỉ mùi thúi tha ....
Cảm thương chàng Tuấn, a ha ...
Tấm gương cho kẻ cầm ca phản thùng
Bưng bô tưởng đảng thưởng công
Ai dè đảng đá vào mông lộn nhào!
Đau chưa, và tỉnh chưa nào ?
Hay còn thương cái đỉnh cao nhà hồ?

Sao mà lắm kiểu bưng bô !!!!!!

Tha Hương

ĐỪNG NHÂN ĐẠO HÃO
(Nhân tin cái chết của họ Trịnh)

Đành răng người chết là thôi
Bao nhiêu lầm lỗi cũng đời thứ tha
Nhưng những kẻ thờ ma cộng đỏ
Làm giống nòi thống khổ điêu linh
Tiếp tay giết hại dân mình
Phản nòi giống, tội tầy đình, không tha !
Làm điêu đứng sơn hà, tội ấy
Cáo hồ kia, chết đấy, ai tha ?
Những phường núp bóng Quốc Gia
Hưởng đầy ân huệ rồi ra phản thùng
Thì thử hỏi sao dung thứ được ?
Tiếc thương loài phản quốc là sao ?
Tình quê hương nghĩa đồng bào
Còn đi phản bội, lẽ nào tha ta ?
Đừng nhân đạo mù loà mà chết
Ta nhân từ, kẻ cướp có nhân ?
Đã lòng theo bọn vô thần
Hỏi rằng đạo nghĩa, nhân luân có còn ?
Mấy chục năm ngậm hờn mất nước
Mà mắt chưa mở được là sao ?
Bất kỳ ở chốn nơi nào
Những tên phản bội đồng bào, không tha!
Trâu kia chết để lại da
Lưu danh, lưu xú, người ta để đời
Xin đừng nhân đạo khơi khơi !

Tha Hương



Nguyễn Minh Tuấn dại diện CĐ NVTN tại Na Uy thông báo vụ Đại Nhạc Hội của csVN tại Nauy bị hủy bỏ

Det Vietnamesiske Flyktningeforbundet I Norg - AVD. Oslo
Pb.634 Sentrum, 0106 Oslo
epost: dvff-norge@viet.no
Org.nr. 992 662 697
Bankkonto: 6236 06 40111
Oslo, 24.03.2010

    Kính gửi chị Như Quỳnh và anh Quang Lê

    Đồng kính gửi quý tổ chức đòan thể của Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Hải Ngọai

    Và quý cơ quan báo chí truyền thông Việt Nam Hải Ngọai.

    Kính thưa quý vị,
Sau khi nghe lại phần phỏng vấn Quang Lê trên đài VietNamSydneyRadio do chị Bảo Khánh thực hiện, được biết ca sĩ Quang Lê và Như Quỳnh đã quyết định rút tên trong buổi tổ chức đại nhạc hội của Thanh Sơn vào ngày 01.04.2010.

Chúng tôi đón nhận tin vui này trong những giọt nước mắt vì xúc động và vì không có lời nào diễn nổi. Xúc động vì hai ca sĩ Như Quỳnh và Quang Lê mà chúng ta hằng thương mến đã quan tâm những sinh họat lợi ích cho tập thể người Việt Tỵ Nạn và dứt khóat không để cho âm mưu Nghị quyết 36 phân hóa và lũng đọan Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn.

Trong thời gian qua chúng tôi nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ tinh thần của hội đòan và cơ quan báo chí truyền thông hải ngọai hưởng ứng lời kêu gọi của chúng tôi. Những điện thư tới tấp để chia sẻ sự âu lo của chúng tôi mà chưa kịp trả lời từng lá thư và còn mắc lỗi với quý vị. Qua việc này chúng tôi thấy được sự đùm bọc thương yêu của CĐ mình vô biên và nói lên được sức mạnh của chính nghĩa.

Chúng tôi xin gửi đến quý chị Như Quỳnh và anh Lê Quang bó hoa đầy cảm mến thương yêu của mọi người. Việc làm của quý anh chị thể hiện một gương sáng tuyệt vời. Điều này làm cho chúng tôi vững tâm là CĐNVTN chúng ta không dễ, không thể bị lũng đọan và nhuộm đỏ nhuộm xanh trá hình.

Chúng tôi xin thay mặt CĐNVTN tại Na Uy xin gửi đến tất cả quý vị lời tri ân chân thành đã hỗ trợ cho chúng tôi.

Thay mặt Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn tại Na Uy
Hội trưởng Nguyễn Minh Tuấn

- Hội Nguời Việt Tỵ Nạn Oslo & Vùng Đông
- Các Chi hội Người Việt Tỵ Nạn tại: Tønsberg, Trondheim, Stavanger, Kristiansand
- Hội Cao Niên Nguời Việt Tỵ Nạn tại Na Uy
- Hội Ái Hữu Cựu Quân Nhân QLVNCH
– Hội Phụ Nữ Việt Nam Tỵ Nạn tại Na Uy
- Cơ sở Việt Tân tại Na Uy
– Hội Bảo Tồn Truyền Thống Tại Moss và Rygge
– Trung Tâm Việt Na Uy
– Nhóm thân hữu Kristiansand
– Nhóm thân hữu tại Bergen.



NGÔ VŨ BÍCH DIỄM ĐÃ PHẢN BỘI CHÍNH THÂN PHỤ CỦA MÌNH - Trần Cao Lãnh

    DIỄM XƯA – NGÔ VŨ BÍCH DIỄM
    ĐÃ PHẢN BỘI CHÍNH THÂN PHỤ CỦA MÌNH, GS. NGÔ ĐỐC KHÁNH
Trần Cao Lãnh
QGHC


Kính thưa Bà Con Tỵ Nạn khắp nơi,
Thưa các Bạn QGHC;

Lý do chính thúc đẩy tôi viết bài nầy là vì Ngô Vũ Bích Diễm, nguyên là một công chức cao cấp của VNCH, phục vụ với chức vụ Giám Đốc tại Bộ Xã Hội. Chị Bích Diễm đã tốt nghiệp khóa 12 Ban Đốc Sự của Học Viện QGHC, nơi duy nhứt đào tạo công chức cao cấp cung ứng cho guồng máy hành chánh của VNCH từ địa phương, đến các Bộ Phủ Trung Ương.

Trên nguyên tắc và danh nghĩa những người tốt nghiệp Học Viện QGHC phải là những người tiêu biểu và đại diện cho chế độ VNCH về lãnh vực Hành Chánh. Cũng như Quân Lực VNCH là lực lượng chính yếu để bảo vệ chính thể Tự Do VNCH của Miền Nam Việt Nam.

Do đó, hơn ai hết, hơn mọi ngành nghề chuyên môn khác của VNCH; người công chức tốt nghiệp HV/QGHC phải có trách nhiệm về LẬP TRƯỜNG TỰ DO, chống lại chế độ độc tài Việt Cộng. Bởi vì chính lập trường tự do đó mà người công chức VNCH đã ưng thuận, để được tuyển dụng ăn lương hàng tháng và đương nhiên phải có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ lập trường tự do đó !

Theo thiển nghĩ của tôi, tuy VNCH không còn tồn tại nữa ! Nhưng không phải vì thế mà người công chức cũ đã hết trách nhiệm và bổn phận đối với lập trường tự do. Tôi tin chắc rằng nếu người công chức VNCH luôn thức tỉnh và có ý thức thì vẫn nhận ra trách nhiệm của mình. Cụ thể dễ nhìn thấy nhứt là người công chức VNCH cũng bởi không từ bỏ lập trường gắn bó với VNCH nên mới được các nước đồng minh và tự do CHẤP NHẬN cho tái định cư ở những nước của họ với tư cách là người Tỵ Nạn Cộng Sản.

Cho nên những ai , đặc biệt là những công chức VNCH đang sống tỵ nạn ở các nước tự do đều phải có trách nhiệm giữ gìn tư cách tỵ nạn để tự mình trung thành với những lý do mà mình được chấp nhận cho sống bình thường với đầy đủ quyền lợi như bất cứ một công dân địa phương nào.

Hành động cố tình bỏ quên những điều kiện tỵ nạn, lúc nào, hoàn cảnh nào cũng là MỘT HÀNH VI PHẢN BỘI, không thể nào chấp nhận và tha thứ được về phương diên lương tâm và về ân nghĩa mà các nước tiếp cư đã ưu ái dành cho người tỵ nạn Việt Nam chúng ta.

Vì lý đo đó mà tôi xin đề cập đến trường hợp một chị Cựu công chức VNCH là chị Ngô Vũ Bích Diễm, sau nhiều năm sống tỵ nạn tại Hoa Kỳ, gần đây đã đột ngột trở lại Việt Nam theo phái đoàn gọi là từ thiện của Nhóm Phật Giáo Về Nguồn ở California tổ chức.

Tôi không dám đoán chắc là việc chị Bích Diễm đi theo nhóm Phật Giáo Về Nguồn, tức là Phật Giáo Quốc Doanh của Việt Cộng tổ chức trong nước và kéo dài thành tôn giáo vận ở Hải ngoại đã được nhiều đồng môn QGHC thuộc Hội QGHC ở Nam Cali biết rõ từ lâu ??? Tuy nhiên tôi tin chắc là đã có một số ít QGHC thân cận với chị Bích Diễm đã biết từ khuya, mà vì nể tình, vì sợ mích lòng nên đã nín thinh để cho chị Bích Diễm ngang nhiên tiến dần lên mức độ đã CÔNG KHAI VỀ VN “GIAO LƯU” VỚI VIỆT CỘNG vào chuyến đi hồi đầu tháng 3/2010 nầy! (*Chữ “giao lưu” là chữ mà báo chí VC đã dành cho chị Bích Diễm trong bài tường thuật tại Huế ngày 10-3-2010).

Hành động trở về VN theo phái đoàn PG Về Nguồn là một HÀNH ĐỘNG PHẢN BỘI cả Cộng Đồng Tỵ Nạn Hải Ngoại và phản bội cả với đồng bào yêu chuộng, tha thiết mong mỏi tự do ở quê nhà , mà chính những người như Lm. Nguyễn Văn Lý, Ls. Lê Thị Công Nhân, Ls. Trương Công Định … và rất nhiều người khác đang xả thân tranh đấu với bạo quyền Việt Cộng, một Đảng Cướp Chính Hiệu đã hiện nguyên hình.

Mọi việc làm VÔ Ý THỨC như chị Bích Diễm đang làm đều KHÔNG ÍT đã LÀM LỢI CHO VIỆT CỘNG, đều đi ngược lại với mọi tranh đấu cho tự do dân chủ của mọi cố gắng bằng xương máu và tù đày.

Tôi tin chắc rằng: Sẽ có rất nhiều người đã thức tỉnh và quyết chọn đường lối MỚI như Ls. LÊ DUY SAN đã thể hiện gần đây, đã mạnh dạn đứng lên TỐNG CỔ Nguyễn Hữu Liêm ra khỏi bữa tiệc của Hội Luật Gia Cali. Qua việc làm dứt khóat của Ls.San cho thấy đã đến lúc chúng ta phải hành động, nhứt định loại những tên nằm vùng, những tên thân cộng ra khỏi mọi sinh hoạt của Người Tỵ Nạn chúng ta. Thực tế đã chứng minh cho thấy một cách thức mới NHƯ THẾ rất hữu hiệu để cô lập những tên ăn cơm QG thờ ma Cộng Sản. Từ nay đừng hòng trà trộn để tiếp tục gây chia rẽ, gây xáo trộn trong hàng ngũ QG Tỵ nạn mà chúng đã thực hiện an toàn trong nhiều thập niên qua tại Hải Ngoại.

Trường hợp Ngô Vũ Bích Diễm, các anh trong Hội QGHC ở Nam Cali có dám can đảm đứng lên vạch mặt Bích Diễm như Ls. San đã dành cho tên NHLiêm không ???

Vì tôi tin rằng câu chuyện Diễm Xưa- Ngô Vũ Bích Diễm sẽ không dễ dàng chấm dứt ở đây, dù cho cả KHỐI QGHC hay nguyên cả Hội QGHC Nam Cali CỐ LỜ LUÔN thì những người có lương tâm khác sẽ không bỏ qua để làm sáng tỏ vấn đề, vạch mặt Bích Diễm, vạch mặt những đứa núp bóng tỵ nạn để thân cò béo nở , để mà về VN ĐÚ ĐỞN “GIAO LƯU” VỚI VIỆT CỘNG.

Cho nên, trong phạm vi cố thu ngắn bài viết hôm nay, tôi xin phép đi sâu một chi tiết mà đề tài đã ghi rõ bên trên:

NGÔ VŨ BÍCH DIỄM đã phản bội ngay chính thân phụ của mình là giáo sư khả kính NGÔ ĐỐC KHÁNH, một thời ở Huế đã được học sinh Huế rất nể trọng.

GIAI THOẠI.

Tôi xin thưa ngay đây là một GIAI THOẠI, là vì tôi chỉ nghe nói và đã đọc được ở một tài liệu, một bài viết nào đó mà tôi đã quên tên tác giả và cũng chỉ nghe một chiều. Nên cá nhân tôi không dám quả quyết câu chuyện nhỏ sau đây là thật 100% ! Vì thế nếu bất cứ ai hiểu rõ đâu là sự thật thì xin mạnh dạn lên tiếng giùm !!!

NHƯNG, nếu như GIAI THOẠI sau đây là THẬT , thì so với những gì mà chị Bích Diễm đang làm công khai ở VN thì quả là MỘT HÀNH VI PHẢN BỘI CHA MÌNH Gs. NGÔ ĐỐC KHÁNH trước tiên hơn ai hết.

“Từ trước đến nay, đã kéo dài chừng 50 năm qua, mà hầu hết những ai sống dưới thời VNCH đã ít nhiều nghe đến chuyện: Trịnh Công Sơn đã MÊ cô Ngô Vũ Bích Diễm một chiều, say đắm mà không được đáp ứng, vô vọng nên đã sáng tác bài nhạc DIỄM XƯA (Diễm Ngày Xưa) rất hay, nổi tiếng để đời và từ đó nhân vật là nguồn cảm hứng đã đi vào huyền thoại với cái tên Diễm Xưa.

Và trong suốt 50 năm qua, chưa ai từng chính thức được nghe đương sự Diễm Xưa - tức là Ngô Vũ Bích Diểm , một tên tuổi có thật bằng da, bằng thịt … đứng ra xác nhận một điều gì !!!

Chính thái độ im lặng đó đã mặc nhiên ÁM CHỈ, Ngô Vũ Bích Diễm không phải là người tình của Trịnh Công Sơn và sau năm 1975 khi mà Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình là một tên VIỆT CỘNG VĂN CÔNG VẬN CHO VIỆT CỘNG, thì những người QG và nhứt là Tỵ Nạn Hải Ngoại đều không ưa, đều thù oán Trịnh Công Sơn và từ đó đa số mọi người hình như đều gia tăng sự kính nể Ngô Vũ Bích Diễm; là bởi vì người ta tin rằng: Ngô Vũ Bích Diễm ĐÃ KHÔNG THÈM NGÓ TỚI TRỊNH CÔNG SƠN !!!?

Bên cạnh đó, Giáo sư Ngô Đốc Khánh , một người Cha khá nghiêm khắc đã để lại một câu chuyện đồn đại về Trịnh Công Sơn và Bích Diễm như vầy đây:

Một hôm, Ngô Vũ Bích Diễm đã tiếp Trịnh Công Sơn ở nhà. Sau khi TCSơn ra về, giáo sư Khánh hỏi Bích Diễm: Con tiếp ai vậy ? Khi được biết người đó là Trịnh Công Sơn thì giáo sư Khánh đã ra lệnh cho Bích Diễm là từ nay phải chấm dứt, không được quen biết với Trịnh Công Sơn nữa.

Hình như vì sự ngăn cấm đó mà Bích Diễm không hề quen biết với Trịnh Công Sơn xa hơn ! Câu chuyện nầy được lưu truyền ra ngoài , khiến cho nhiều người rất có cảm tình với Bích Diễm và đa số đều ngầm thán phục tấm lòng nể cha, vì cha, biết ngoan ngoãn nghe lời cha của Bích Diễm.

NHƯNG MÀ mới đây tại Huế, Ngô Vũ Bích Diễm phát biểu , được báo chí VC ghi lại như sau:

"người xưa" tâm sự: "Trong bài này anh Trịnh Công Sơn viết về vẻ đẹp của Huế nhiều hơn là về ... tôi.

Tôi nghĩ vậy. Ðó là bóng dáng của Thành nội cổ kính, của dòng sông Hương xanh mát và huyền hoặc, là không khí lãng đãng của thơ, của nhạc". "Nhiều người tò mò vì sao Diễm im lặng trong suốt mấy mươi năm?". "Vì tính tôi như vậy, không muốn ra trước công chúng. Tôi cũng không biết nói gì và không biết có ai cần gì ở mình hay không. Và cũng bởi vì bóng dáng to lớn của anh Trịnh Công Sơn đã đủ rồi!", "Diễm xưa" nói.

Và điều chờ đợi của tất cả mọi người trong đêm, đó là câu chuyện của Diễm: “Tôi là gái Bắc, theo cha vào Huế năm 1952, bố tôi là giáo sư Ngô Đốc Khánh, dạy tiếng Pháp ở Trường Quốc học. Tôi theo học lần lượt ở Trường Đồng Khánh, Quốc học, đến năm 1963 tôi vào học đại học ở Sài Gòn, sau đó sang định cư ở Mỹ. Nhà tôi ở số 46 đường Phan Chu Trinh (cũ), gần cầu Phủ Cam, là nơi gần anh Sơn ở (khu cư xá trên đường Nguyễn Trường Tộ - TP Huế). Lần đầu tôi gặp anh Sơn ngay tại nhà tôi. Anh đi theo anh Đinh Cường đến thăm Nguyễn Việt Hằng, một người bạn thân của tôi lúc đó đang ở lại nhà tôi để học hè. Sau đó thấy anh Sơn một mình quay trở lại. Anh viết nhạc và có tặng tôi mấy bài. Hồi đó còn trẻ lắm nên cũng biết lơ mơ vậy thôi… Sau này tôi mới biết thông qua hai người em của anh Sơn về câu chuyện nhánh dạ lan hương mà tôi tặng anh đã gây một chấn động mạnh nơi anh. Đó là một kỷ niệm thật đẹp, thật liêu trai…!”.

Qua những lời phát biều nầy, NẾU ĐÚNG 100% NHƯ VẬY, thì chính Bích Diễm nay đã CỐ XÍCH GẦN LẠI TRỊNH CÔNG SƠN. Điều mà Giáo Sư NGÔ ĐỐC KHÁNH đã CẤM ĐOÁN những năm xưa.”

Do đó, theo tôi ngày nay Ngô Vũ Bích Diễm đã thay đổi, đã công khai PHẢN BỘI NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN và cụ thể nhứt, rõ ràng nhứt là NGÔ VŨ BÍCH DIỄM đã nhẫn tâm PHẢN BỘI người cha thân yêu, đáng kính của mình là Giáo Sư Ngô Đốc Khánh. Bằng cách sau 50 năm dài, tưởng rằng Bích Diễm đã nghe lời cha, tôn trọng cha … nào ngờ đó chỉ là một thái độ giả dối, được che giấu kỹ , để rồi vì hám danh mà trở thành một đứa vô liêm sỉ, sẵn sàng nói những lời bợ đỡ “GIAO LƯU” với kẻ thù.

Tôi xin mạn phép dừng lại ở đây và mong rằng quý bà con và quý đồng môn QGHC sẽ có nhiều nhận xét và phán đoán chính xác cần thiết hơn !.

Trần Cao Lãnh
QGHC/USA.
Tháng 3/2010

Thơ Hồ Công Tâm

    ÂM BINH BẢO VỆ ANH THƯ CUỘI

    Kết lá bồ đề đựng cháo hoa
    Thắp nhang cúng thí gốc cây đa
    Âm binh, các đẳng cô hồn sống
    Băng đảng, hậu thân "kháng chiến ma"

    Thằng hét thằng la quăng nón cối,

    Đứa tung đứa hứng lãnh đô-la
    "Đánh trâu" bảo vệ anh thư Cuội
    Kêu gọi tham gia Quốc Hội tà !

    23.3.2010
    Hồ Công Tâm

      MÀNG LƯỚI ÂM BINH

      Tay sai băng đảng, lũ âm binh
      Nick quỷ, nick ma quậy thúi ình
      Ruồi nhặng vo ve nghe điếc ráy
      Khuyển ưng bát nháo kháo linh tinh

      Mồm loa mép giải nhào tung hứng

      Đá cá lăn dưa đứng rập rình
      Xanh đỏ nhập nhằng toan đánh lận
      Thấy trò điên đảo khó mần thinh!

      20.3.2010
      Hồ Công Tâm


Tiếc Cho Một Người Lầm Đường Lạc Lối Đã Nằm Xuống - TS.Mai Thanh Truyết



Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa

TS.Mai Thanh Truyết

(Thân tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương).

Lời nói đầu.

- Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất "chuyên chính vô sản" của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.


Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS. DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN.

Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô "bưng" qua ngõ Ba Thu –Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS.

Nói về GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô "bưng" năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do "uy tín" chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đỡ theo.

Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ.

Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần "tiến bộ", Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: "Các "toi" muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với "cách mạng" mà "góp ý" với đảng".

Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên ... không đi.

Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được "đặt để" vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ.

Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định …

Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: "Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả".

Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được "phép" nói, Bà nhận định rằng: Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước.

Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: "Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân" Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9, 10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc.

Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được "yêu cầu" phải xin lại viện trợ vì … nhân dân (của Đảng!).

Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội:

"Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%."

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: "Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn". Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:" Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại".

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đổi lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì "mật ước" Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;

- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;

- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;

- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng: "Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp".

Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng.

Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;

- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;

- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);

- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và

- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để

(1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và

(2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và

(3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề.

Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi.

(Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da.

Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ.

Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường.

Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004.

Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì "người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).

"Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam." Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: "Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt)."

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện. Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay "cải sửa" chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói "đóng góp" đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm "bí mật quốc gia" theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là "cùng là máu đỏ Việt Nam" nhưng phải là máu đã "cưu mang" một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngoài nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung - Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 03/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đấu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam, đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

TS.Mai Thanh Truyết



Phan Châu Trinh Và Đảng Viên Trẻ Của csVN - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Đấu tranh đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của mỗi con dân Việt. Thế nhưng, do ngại gian khổ, hoặc do bị cuốn hút bởi những ăn chơi ầm ỉ dưới chế độ XHCNVN, một số người đã dửng dưng đứng bên lề cuộc đấu tranh kia. Họ thường tự biện hộ rằng: giới lãnh đạo CS gửi con cái đi du học tại các quốc gia Âu Mỹ ngày càng đông đảo. Học xong, quay trở về nước, đám con cháu CS sẽ canh tân quốc gia, Việt Nam sẽ từ từ dân chủ hóa. Do đó, “bất chiến tự nhiên thành”. Tại sao lại phải đấu tranh dân chủ cho Việt Nam? Đấu tranh như vậy làm tiêu hao nhân lực và tài lực của quốc gia một cách không cần thiết. Câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng hàng ngũ du sinh CS, khi trở về nước, hiển nhiên là động cơ giúp đất nước cất cánh tiến bộ? Sau đây là câu trả lời:

Năm 2002, lấy lý do tiền giấy dễ bị giả mạo, ông Lê Đức Thúy, thống đốc ngân hàng trung ương CSVN quyết định dùng tiền nhựa polymer thay thế tiền giấy. Lê Đức Thúy chọn mua giấy nhựa polymer và mực in tiền tại công ty Banktech, công ty nhập cảng độc quyền, do con trai của Lê Đức Thúy là Lê Đức Minh làm giám đốc. Lê Đức Minh lại nhờ Lương Ngọc Anh làm trung gian để mua polymer và mực từ công ty Securency của Úc Đại Lợi. Như vậy, chủ mua là bố con Lê Đức Thúy. Chủ bán là Securency. Trung gian là Lương Ngọc Anh. Sở dĩ thủ tục mua bán chạy vòng vo như vừa kể là vì Lê Đức Thúy muốn tránh những hệ lụy hình sự có thể có do các gian trá chung quanh khoản tiền gọi là “hoa hồng”.

Thế rồi đúng như Lê Đức Thúy tiên liệu: Ngày 30/10/2009, từ Melbourne Úc Đại Lợi, tin tức cho biết: cơ quan an ninh Úc đang hướng cuộc điều tra vào ông Lương Ngọc Anh tổng giám đốc công ty Phát Triển Công Nghệ tại Hà Nội về việc đút và nhận hối lộ trên mười triệu Úc Kim trong dịch vụ phát hành tiền polymer do Lê Đức Thúy quyết định.

Được biết, Lương Ngọc Anh, 47 tuổi, trước kia du học ở Úc, tốt nghiệp cử nhân đại học Monash University. Ra trường Lương Ngọc Anh làm việc tại một công ty ở Victoria, chuyên cung cấp trang thiết bị cho ngành an ninh. Về nước, Lương Ngọc Anh làm tổng giám đốc công ty Phát Triển Công Nghệ, tên gọi tắt là CFTD. Công ty này chuyên cung cấp hàng hóa dịch vụ cho lực lượng công an, tình báo. Rõ ràng sau lưng Lương Ngọc Anh là bộ công an Hà Nội. Ngoài ra, CFTD còn buôn bán máy rút tiền ATM, tin học viễn thông cho ngân hàng và các cơ quan tài chánh. Chung quanh CFTD có nhiều công ty con khác, trong đó có công ty Banktech do Lê Đức Minh, con trai của Lê Đức Thúy làm giám đốc. Sơ yếu lý lịch của Lương Ngọc Anh cho thấy Lương Ngọc Anh vừa có liên hệ mật thiết với công an Việt Nam, vừa quen biết rộng rãi giới kinh doanh tại Úc. Đó là lý do giải thích tại sao cha con Lê Đức Thúy nhờ Lương Ngọc Anh làm trung gian trong việc mua polymer của Securency Úc.

Bây giờ hãy nói tới Lê Đức Thúy. Ông này giữ chức vụ thống đốc ngân hàng trung ương CSViệt Nam từ 12/1999 đến 07/2007. Năm 2005, bằng gian mưu hành chánh, Lê Đức Thúy biến môt công thự thành tài sản riêng. Sau đó, Lê Đức Thúy phải trả lại ngôi nhà này cho cơ quan công quyền nhưng vẫn được CSVN bồi thường một số tiền lên tới vài trăm ngàn Mỹ Kim. Do tai tiếng vụ chiếm công thự, tháng 07/2007 Lê Đức Thúy bị mất chức thống đốc ngân hàng. Thế nhưng, tháng 03/2008 Lê Đức Thúy lại được Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm vào chức vụ: Chủ Tịch Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh Quốc Gia. Nhờ vào lề thói phủ bênh phủ, huyện của CSVN, Lê Đức Thúy ngày nay vẫn là quan chức cao cấp của CSVN.

Trở lại với vụ Polymer. Chủ mua là Lê Đức Thúy, chủ bán là Securency. Đây là công ty 50% vốn của ngân hàng trung ương Úc. Công ty này chuyên cung cấp máy móc cùng sản phẩm phục vụ kỷ nghệ in tiền. Hoạt động của Securency cho thấy Securency trả tiền hoa hồng cho người môi giới từ 10% đến 20% tổng giá trị hàng hóa bán được. Trong khi hoa hồng bình thường chỉ từ 2% đến 6%. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào phân biệt giữa tiền hoa hồng và tiền hối lộ? Hình luật phổ quát trả lời rằng: “Tiền hoa hồng nếu được chuyển cho người ký hợp đồng, người phê duyệt hợp đồng, người có liên hệ tới việc ký kết hợp đồng thì tiền hoa hồng trở thành tiền hối lộ”. Mặt khác, một cách cụ thể hơn, bộ hình luật Úc minh thị ngăn cấm: “Công ty Úc không được phép trả tiền hoa hồng cho viên chức chính phủ ngoại quốc cùng với những công ty ngoại quốc đặt dưới quyền chỉ huy của chính phủ liên hệ.”

Cuộc điều tra của cảnh sát Úc cho biết: công ty Securency đã chuyển hơn 5 triệu Úc Kim đến các trương mục ở ngoại quốc có liên hệ tới Lương Ngọc Anh. Đồng thời công ty CFTD của Lương Ngọc Anh cũng đã nhận từ Securency nhiều triệu Úc Kim khác. Đây là trọng tâm cuộc điều tra của ngành tư pháp Úc.

Lương Ngọc Anh cung cấp toàn bộ trang thiết bị truyền thông và điện toán cho guồng máy công an, tình báo của Hà Nội. Lương Ngọc Anh không thể không là đảng viên đảng CSVN, nếu không muốn nói là công ty CFTD có nguồn vốn từ công an. Lương Ngọc Anh chỉ là kẻ đứng tên làm tổng giám đốc.

Căn cứ vào hình luật phổ quát cũng như hình luật Úc Đại Lợi, Lương Ngọc Anh nhận tiền hoa hồng từ Securency tức là Lương Ngọc Anh đã nhận hối lộ. Tuy nhiên Lương Ngọc Anh chỉ là vai phụ của một vỡ tuồng lớn. Vỡ tuồng lớn đó là: Lê Đức Thúy là chánh phạm tội hối lộ. Lê Đức Minh con trai của Lê Đức Thúy dùng công ty Banktech để làm bung xung giúp ông bố dấu mặt. Lương Ngọc Anh là cánh tay nhận tiền nhằm chuyển lại cho Lê Đức Thúy. Như vậy rõ ràng là “can phạm thống đốc” Lê Đức Thúy vừa dấu mặt vừa dấu tay trong vụ án hối lộ Polymer.

Bài viết này không nhằm truy cứu tội pham của Lê Đức Thúy mà chỉ muốn nhân vụ án Lê Đức Thúy hướng sự suy nghĩ về trường hợp phạm pháp của hai đảng viên trẻ Lương Ngọc Anh và Lê Đức Minh. Hai người này là tiêu biểu cho rất nhiều ngàn đảng viên trẻ khác của đảng CSVN. Họ là con cháu của giới lãnh đạo Hà Nội. Đa số đảng viên trẻ này được du học tại các quốc gia Âu Mỹ. Về nước, họ nắm giữ vai trò lãnh đạo chỉ huy tại hầu hết cơ quan kinh tế, hành chánh của CSVN. Thay vì dùng sở học của mình để canh tân quê hương, dân chủ hóa đất nước, thành phần đảng viên trẻ này lại chìm đắm trong tham ô thối nát ở mức độ trầm trọng nhất trong lịch sử tham ô của CHXHCNVN? Nguyên nhân của tệ trạng vừa kể nằm ở đâu? Tìm giải đáp cho câu hỏi này, chúng ta không thể không nghĩ tới tư tưởng của nhà yêu nuóc Phan Châu Trinh.

Một cách ngắn, gọn tư tưởng Phan Châu Trinh xin được trình bày như sau:

Con người, ai cũng cần cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Cụ Phan Châu Trinh gọi các nhu cầu vừa kể là dân sinh. HẬU DÂN SINH là mục tiêu mà cụ Phan nhắm tới. Hậu dân sinh là cuộc dân sinh phải được nâng cao. Hậu là trọng hậu, là hậu hĩ.

Muốn giải quyết nhu cầu dân sinh, mỗi người phải có khả năng tạo một nghề nghiệp riêng để sinh sống. Khả năng vừa kể chính là dân trí. Trong lãnh vực dân trí, cụ Phan Châu Trinh kêu gọi KHAI DÂN TRÍ

Không có cá nhân nào không cần đến dân trí, dân sinh. Tuy nhiên, con người sống giữa mọi người. Con người là chi thể của xã hội. Không có sự tham dự của con người, xã hội không thể tồn tại. Vì vậy, đời sống chỉ thực sự ấm no và hạnh phúc, chừng nào mỗi người biết yêu thương gia đình, yêu thương láng giềng, yêu thương bạn bè, yêu thương cộng đồng dân tộc, yêu thương thế giới loài người. Những yêu thương kia gọi chung là đạo đức làm người, đã được cụ Phan Châu Trinh gói ghém trong hai chữ dân khí. CHẤN DÂN KHÍ là tinh hoa của tư tưởng Phan Châu Trinh. Chấn dân khí là quyết tâm củng cố và phát triển đạo đức làm người trong từng cá nhân. Chấn dân khí là giáo dục và tôi luyện mỗi thành viên của xã hội, không loại trừ thành viên nào, trở nên một người thương xuyên sống trên căn bản tôn trọng nhân bản, nhân tính, nhân chủ của mọi người và của chính mình.

Mang chuẩn mực “Chấn dân khí” của nhà tư tưởng Phan Châu Trinh soi rọi vào quá trình hấp thụ giáo dục của đảng viên đảng CSVN, nhất là đảng viên trẻ, chúng ta phải công bằng mà nhìn nhận rằng: Quả thực đảng viên CS có được giáo dục làm người, nhưng người ở đây là ông Hồ Chí Minh, một người nhiều tên, nhiều vợ ngoại hôn, nhiều ngày sanh, nhiều ngày tử, nhiều nợ máu đối với những người Việt yêu nước nhưng không chấp nhận CS. Nói chính xác hơn, ngày nào người CSVN còn hiểu chấn hưng dân khí theo kiểu người người học tập đạo đức Hồ Chí Minh, ngày đó hy vọng đảng viên trẻ của CSVN sẽ canh tân, sẽ dân chủ hóa đất nước hiển nhiên chỉ là ảo vọng./.

Đỗ Thái Nhiên



Tuesday, March 23, 2010

Kêu gọi biểu tình trước Lãnh Sự Quán Việt Cộng tại Houston, Taxas


VIETNAMESE COMMUNITY OF HOUSTON & VICINITIES
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Phụ Cận
7100 Clarewood Dr. Houston, TX 77036
Tel: 713-272-8624
Fax: 713-272-8630


THÔNG BÁO KHẨN
    Kính thưa quý vị đại diện các tôn giáo, quý hội đoàn, đoàn thể đấu tranh, quý cơ quan truyền thông và toàn thể đồng hương.
35 năm qua, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản Việt Nam đã sống an bình,cùng nhau xây dựng đời sống mới trong tự do tại thành phố Houston. Ngày hôm nay ,cái chế độ mà chúng ta đã phải trốn chạy ra khỏi quê cha đất tổ đi tìm tự do với cái giá là nhiều người trong chúng ta đã mất vợ, mất con,mất bạn bẻ trong biển cả hay rừng sâu , nhiều phụ nữ là thân nhân, bạn bè, con cái đã bị cướp biển hành hạ hãm hiếp trên con đường đi tìm tự do, họ đã có mặt trong thành phố Houston. Ngày 25 tháng ba năm 2010, cộng sản Việt Nam sẽ chính thức khai trương lãnh sự qúan của chúng tại Houston.

Để tiếp tục tỏ thái độ dứt khoát không chấp nhận đại diện của tập đoàn tội ác này . Để tố cáo cùng chính quyền và nhân dân Hoa Kỳ cùng nhân dân khắp thế giới về những tội ác của cộng sản Việt Nam. Ủy ban phối hợp đấu tranh chính trị quyết định tổ chức cuộc biểu tình trước lãnh sứ qúan Việt Cộng vào ngày 25 tháng 03 năm 2010 từ lúc 10am tới 1pm tại số 5251 Westheimer (bên cạnh Galeria Mall)

Ủy ban thiết tha kêu gọi toàn thể đồng hương thu xếp thời giờ tham dự đông đảo.

Ủy ban sẽ có xe đưa đón đồng hương tại khu chợ Hồng Kông 4 trước nhà hàng Tây Đô và làng Thái Xuân lúc 9am. Chúng tôi cũng kêu gọi qúi đồng hương nào có xe van xin cùng giúp uỷ ban tới hai địa điểm trên đớn đồng hương

Mọi chi tiết xin liên lạc về Ông Trương Như Phùng điện thoại 281-496-4987. Đặng Quốc Việt 713-515-3129 và ông Trịnh Du 713-253-2110.

Mọi đóng góp và yểm trợ tài chánh xin vui lòng ghi trên chi phiếu V.N.C.H và gởi về:
    Văn Phòng Ban Đại Diện Cộng Đồng
    7100 Clarewood Dr.
    Houston T.X 77036.

    Houston ngày 23 tháng 03 năm 2010
    T.M Ủy Ban Phối Hợp Đấu Tranh Chính Trị.
    Trương Như Phùng - Đặng Quốc Việt