Tuesday, March 2, 2010

Tên đồ tể Võ nguyên Giáp - BS Nguyễn Lương Tuyền



Tên đại đồ tể Võ Nguyên Giáp

BS Nguyễn Lương Tuyền

Võ Nguyên Giáp là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại (Phan nhật Nam đã rất ngu khen y là thiên tài quê hương! Chú của Trần Công Tử). Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. "Huyền thoại Võ Nguyên Giáp" đã hết còn là một huyền thoại.

Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.

Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.

Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ). Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.

Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.

Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.

Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.

Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.

Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh …

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.

Từ năm 1945 cho đến năm 1991( năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:

- Ủy Viên Bộ Chánh trị

- Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng

- Tổng Tư lệnh Quân Đội

- Phó Thủ Tướng

- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.

- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch.

Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.

Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:

    Ngày xưa Đại tướng cầm quân
    Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em

Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại.

Một số sách viết về Giáp như:

- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O'Neil (Australia)

- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British )

- Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA)

Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.

Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 ) được giải mật khiến ta thấy rằng "thiên tài Võ Nguyên Giáp" đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng …. trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.

Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các "đức tính" đó.

Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69)

Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.

Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.

Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l'Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.

Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.

Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.

Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.

Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí.

Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.

Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.

Giáp là một tên hèn.

Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán … bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn … bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.

Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.

Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).

Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.

Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho.

Chiến dịch biên giới năm 1950.

Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.

Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.

Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số …..

Chiến dịch Tây Bắc 1952

Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp.

Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.

Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.

Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ

Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch:

1. Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng

2. Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam

3. Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc

Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.

Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.

Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.

Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.

Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.

Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals).

Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.

Sám hối ?

Thay lời kết:

Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.

Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.

Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:

Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.

BS Nguyễn Lương Tuyền


Monday, March 1, 2010

KHÓC ÔNG ĐẠI TƯỚNG









KHÓC ÔNG ĐẠI TƯỚNG

(Trích "Lịch Sử Đảng Cướp Ngày" - danh mục "Khâu "Phụ Nữ dưới thời Tướng VC Cầm Quần võ nguyên giáp - để nhớ ngày đại tướng VC võ nguyên giáp chết toi theo hồ chủ động. Nhờ các cháu nằm vũng Net chuyển về cho nhà đảng các cháu dùm nhe!)

Ông đại tướng cầm quần ơi ới ời ... ơi ....
Nghe ông chết ngắc, lìa đời
Khóc ông, đảng có vài lời ... hu ... hu ...
Ông đi về với hồ ư ?
Dân reo mừng lắm, tưởng như vỡ trời
Nó bảo đảng chết toi, chết nữa ...
Chết cho nhiều, mỗi bữa, một tên
Chết cho dân nước được yên
Đảng bay còn sống, dân hiền còn đau !
Nay ông chết, chết mau, chết tốt
Nước Việt Nam bớt một tội đồ
Đảng thì bớt đứa bưng bô
Dân đen giảm số ma cô, một đầu
Chỉ phụ nữ là "khâu" bối rối ....
Ai cầm quần sớm tối cho đây ???
Đảng giao ông " vụ việc " này
Ông thi hành rứa, ông hay thấy mồ!
Quần phụ nữ ông vồ, ông vuốt
Ông giữ cho cấm tuột, giỏi không ...
Nay ông về với hồ dâm
Chị em ta có xì xầm ... cũng dzui ...

Hu ... hu ... tướng giáp chết rồi
Ai theo phụ nữ chúng tôi , cầm quần ?
Ngày xưa tướng giáp cầm quân
Trả công, đảng bảo cầm quần ... sướng tê
Job ngon, quần láng ... đê mê
Bỗng Diêm Vương gọi tướng về, phí không!

Khóc ông thơ mọn đôi dòng
Cầm quần, đảng chúc mừng ông ... huy hoàng !

Tha Hương sao chép lại

Saturday, February 27, 2010

Ai Trở Về Xứ Việt





Ai Trở Về Xứ Việt
Thơ: mdht
Nhạc: Phan Văn Hưng


Ai trở về xứ Việt
Nhắn giùm ta, người ấy ở trong tù
Nghe đâu đây vang giọng hờn rên xiết
Dài lắm không? Đằng đẳng mấy mùa thu

Ai trở về xứ Việt
Thăm giùm ta, người ấy ở trong tù
Cho ta gởi một mảnh trời xanh biếc
Thay giùm ai, màu trời âm u.

Các bạn ta ơi, bao giờ được thả
Đến bao giờ ăn được bát cơm tươi
Được lắng nghe, tiếng chim cười
Đến bao giờ ? đến bao giờ

Các bạn ta ơi, bao giờ được thả
Đến bao giờ ăn được bát cơm tươi
Được lắng nghe, tiếng chim cười
Đến bao giờ ? đến bao giờ ?

Người bạn tù ơi, ta không quên đâu!
Nhớ hôm xưa, nhìn đôi tay cùm xích!
Hàng song thưa, chia cách vạn tình Ngâu!
Ai tra tấn? Nghe lòng đau kim chích!

Ai trở về xứ Việt
Cho ta gởi về, theo một ít Tự Do
Tự Do, Tự Do và nhiều lắm
Nhiều nhớ thương tha thiết
Đến cửa ngục tù
Chia bớt chút buồn lo

Ai trở về xứ Việt
Nhắn giùm ta người ấy ở trong tù
Ta sẽ về đón ở cửa âm u
Đời sẽ đẹp mùa Xuân hồng biết mấy
Dầu ngoài kia mây có trĩu mùa thu

Trình bày: Ngọc Lan


Friday, February 26, 2010

Vịt Tiềm


    Hiện Tượng Nghịch Lý !
Phùng Ngọc Sa

Kể từ ngày cộng sản BắcViệt thôn tính VNCH, đặt miền Nam dưới ách thống trị bạo tàn đến nay, đồng bào của chúng ta, đặc biệt là các chiến hữu VNCH do thường xuyên phải tiếp xúc với bọn cầm quyền, nên đã cảm nhận được nhiều điều kỳ quái mà người đời diễu cợt gọi đó là hiện tượng nghịch lý; hay bông đùa nói «dzậy mà không phải dzậy». Dưới đây, xin kể lại một câu chuyện có tính thời sự.

Qua một buổi hàn huyên trong bữa cơm thân mật gia đình nhân dịp Tân Niên. Tôi được may mắn gặp lại một số bạn hữu cố tri mà đã từ lâu không có cơ hội chuyện trò đàm đạo. Trong số bạn bè thân hữu đó, tôi lại có dịp được trực tiếp nói chuyện với mấy bạn đồng tù, cùng lứa tuổi với nhau. Những bạn đó thuộc thể loại người không thích theo dõi thời cuộc. Ít chịu khó tìm hiểu chiều sâu của một vấn đề mà chỉ phớt qua bên ngoài. Đặc biệt, không ưa thích sinh hoạt chính trị cũng như công tác cộng đồng, họ chỉ tìm hiểu sự việc một cách qua loa, nghe để mà biết, chứ không hề có một chủ tâm nào cả. Do một số bạn biết tôi có sinh hoạt đảng phái; thỉnh thoảng viết vài bài bình luận chính trị liên quan đến thời cuộc. Với các yếu tố có vẻ hợp thời, đúng lúc, mấy anh bạn và tôi đã lựa một chỗ ngồi cạnh nhau để chuyện trò mà không cảm thấy phiền lòng người khác.

Mở đầu, một anh bạn đột ngột khơi mào câu chuyện. Anh nói: «Đã lâu quá, sao tôi không thấy anh viết lách gì hết?» Chưa kịp trả lời câu hỏi cho anh biết, là vì lý do sức khỏe, thì anh đã hỏi bồi thêm. Anh nói tiếp: «Theo tôi biết, anh từng hoạt động trong một chính đảng; tại sao tôi lại thường thấy anh tìm cách phê phán, chỉ trích các đảng phái khác, kiểu như anh «kết án» Mặt Trận HCM mà sau nầy họ đã đổi lại thành đảng Việt Tân (VT) là tay sai CSVN. Có điều lạ, anh chỉ trích VT nhiều chừng nào, thì tổ chức và cơ sở của họ lại càng phát triển chừng đó. Theo ý tôi, Việt Tân cũng là một chính đảng quốc gia; họ cũng dùng lá quốc kỳ VNCH, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ làm biểu tượng cho công cuộc chống CSVN, giải phóng dân tộc như anh em chúng ta làm, cớ sao anh lên án họ, gán cho họ là, «bàn tay nối dài của cộng sản VN».

A. Câu Hỏi Đặt Ra: Việt Tân là một đảng chính trị?

Trước những câu hỏi dồn dập như không muốn ngắt khoản mà tôi có cảm nghĩ, là người nêu lên hình như chưa được cơ hội giải tỏa các khúc mắc vốn ấp ủ từ lâu, gặp dịp là cứ nói cho đã, không cần chú ý đến lý luận hay chứng cớ gì hết. Trước tình huống đó, đành phải kiên nhẫn chờ cơ hội giải bày.

Vốn từng là bạn tù, đã cùng sống chung với nhau tại các trại giam, gọi là «trại cải tạo» ở vùng Sơn La, vùng Tây-Bắc VN trong một thời gian khá lâu; hơn nữa, tôi cũng rõ biết hoàn cảnh gia đình của anh bạn, họ cũng toàn là nạn nhân khốn khổ của chế độ man rợ CSVN; điển hình, vợ và con gái út của anh bạn đã bỏ mình trong một trại giam sau một cuộc vượt biên thất bại. Vì thế, không đợi anh nói dứt câu, tôi liền vội ngắt lời và chận hỏi lại anh. Tôi nói, «Liệu anh còn nhớ lại những đòn thù, và hành động man rợ của bọn cán bộ cộng sản đối với anh em chúng ta tại các trại tập trung không? Và, anh nghĩ thế nào về cách đối xử vô nhân đạo của bè lũ VC đối với gia đình quân, cán, chính VNCH trong thời gian trước đây như thế nào?» Chưa kịp để tôi dứt câu, anh bạn vội ngắt lời, đổi giọng, đồng thời với thái độ giận dữ anh lớn tiếng: «Bọn CSVN, chúng là bè lũ khốn nạn, loại dã thú không có tính người, chúng là tay sai của bọn cộng sản quốc tế, là kẻ thù của dân tộcViệt».

Tôi tiếp lời anh và nói: «Điều đó chính là anh xác định, chứng tỏ anh đã oán hận bọn VC như thế nào. Trong khi, thì oái oăm thay, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, một tổ chức chính trị tại hải ngoại, một bọn người chuyên lừa bịp buôn bán kháng chiến, sau nầy được đổi thành đảng Việt Tân (VT), thì họ trái ngược cho rằng: «CSVN là một thành phần của dân tộc Việt Nam, và là người có công thống nhất đất nước».VT còn hô hào, khuyên bảo đồng bào, «hãy quên đi quá khứ và xóa bỏ hận thù». Ngoài ra, bọn họ còn «đề cao Hồ Chí Minh, tên tội đồ của dân tộc, là người yêu nước, và là người có công với đất nước.»

Tôi nhắc điều đó khiến anh bạn giựt mình tỉnh hẳn giấc, hỏi ngược lại tôi. «Có chuyện đó sao anh? Tôi chưa từng nghe VT nói bậy như thế bao giờ?». Tôi tiếp: «quả thật có nhiều điều anh không biết, và do anh không theo dõi thời cuộc, nên anh đã đánh giá sai về các việc làm và hành động của đảng VT, vì thế đã gây ra nhiều sự kiện vô cùng tai hại cho tập thể Người Việt Tị Nạn CSVN tại hải ngoại».

Trước câu xác định của anh, đồng thời với chứng cớ mà tôi đưa ra, anh bạn bắt đầu thấm và chịu lắng nghe, đồng thời các bạn khác trong bữa tiệc cũng bắt đầu nhập cuộc.

Lý do đó tôi lại phải lặp lại từ đầu, và lần lượt trình bày cho mọi người biết: Tôi nói: «tôi đồng ý về lời phát biểu của anh, Đảng VT có hình thức là một chính đảng ». Lý do, VT cũng như các đảng phái, và đoàn thể khác; họ cùng có chung một Lá Quốc Kỳ VNCH, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ như chúng ta để đấu tranh chống lại bạo quyền CSVN; chống ách độc tài đảng trị, và chống lại bọn cầm quyền áp bức bóc lột quần chúng trong nước. Và, theo đúng định nghĩa căn bản, «Đảng là một công cụ đấu tranh để dành thắng lợi hầu nắm được chính quyền».

Với quan niệm đó, quả thật VT là một đảng chính trị. Hơn nữa, trong thời điểm hiện tại, thì hải ngoại đang phải đấu tranh chính trị với bọn CSVN. Và, một khi nói đến đấu tranh chính trị là cần phải cần có đảng. Không đảng thì lấy cái gì mà đấu tranh chính trị. Mặc khác, xét ra về mặt nổi ,VT có đủ cương lĩnh, lập trường, và tổ chức giống các chính đảng quốc gia như: VN/Quốc Dân Đảng; Đại Việt Quốc Dân Đảng; Dại Việt Dân Xả v.v, vì thế phải nói VT là một đảng chính trị. Nhưng trước khi thực sự xác định, đâu là chính đảng; và ai là bọn tà đạo, thì xin hảy phân tích các yếu tố Nhiệm Vụ và Đường Lối Hành Động của vai trò đảng phái trước.Sau đó, chúng ta mới khẳng định, ai là người bạn đấu tranh, và đảng nào là kẻ thù tay sai của CSVN?

Nhiệm Vụ: Khi nói về mục tiêu và nhiệm vụ, thì cũng như một bài luận lý. Chúng ta nên đặt ra câu hỏi, Đảng Để Làm Gì? (que faire ?). Hiện tại, với chủ trương mà VT thường tuyên truyền quảng cáo, thì chúng ta phải nói,Việt Tân là một chính đảng.

Nhưng khi đi sâu vào đường lối hành động của họ: nghĩa là đã biết VT Hành Động Như Thế Nào? (Comment faire).

Qua tổng hợp và phân tách những hành động của đảng VT từ trước đến nay tại hải ngoại; kiểm điểm lại các vụ buôn bán kháng chiến: nào là chiến khu giả, kháng chiến ma; các trận đánh «tưởng tượng giả tạo», phịa ra để lừa gạt móc túi đồng bào làm của riêng và phe nhóm. Biết được những hành động lường gạt gian dối đó, thì chúng ta biết VT đã gây biết bao tai hại, không những nó đã làm vẩn đục, hoen ố đường lối quốc gia chống cộng tại hải ngoại, mà còn tạo ra một không khí ngờ vực khiến chẳng còn mấy ai chịu tin tưởng vào chính nghĩa quốc gia nữa.

Biết rõ được thế, chúng ta phải khẳng định rằng:VT không là chính đảng, mà chỉ là bọn Gian Nhân Hiệp Đảng (Association des malfaiteurs), Mục đích của bọn nầy là lợi dụng tinh thần yêu nước chống cộng của đồng bào hải ngoại; lừa gạt đồng bào, làm giàu trên xương máu Người Việt Tị Nạn cộng sản để phục vụ cho cá nhân hay phe nhóm, chứ không phải để phục vụ cho một lý tưởng cao đẹp mà đồng bào hằng mong đợi.

Đường Lối Hành Động: tức là đường lối đảng VT làm như thế nào?

Trong khi các chính đảng quốc gia chân chính kêu gọi toàn dân đoàn kết dân tộc để:

a. Chung sức chống lại ách độc tài thống trị CSVN, tay sai của bọn Trung cộng (TC) .

b. Triệt để chống lại những hành động phản dân hại nước của CSVN: bán đất, nhường biển cho kẻ thù T.C.

c. Chống lại chính sách nô dịch của CSVN, buôn bán phụ nữ trẻ em; đàn áp, giết người vô tội, tham nhũng hối lộ; bóc lột tận xương tủy người dân lương thiện trong nước.

d. Chống lại các tên đầu sỏ CSVN trong đó có Hồ Chí Minh, một tên tội đồ dân tộc; ngoài ra,xem mấy tên cộng sản khác, chỉ là một loại thái thú, tay sai TC, kẻ thù và là tối hậu địch nhân của dân tộc VN.

Thì, Băng Đảng Việt Tân lại nói một đàng làm một nẻo họ hành động trái ngược, họ:

a. Đề cao Hồ Chí Minh, tên tội đồ dân tộc, là một người yêu nước. Đảng CSVN, (một chi bộ địa phương của Trung Ương TC), là,một thành phân dân tộc, có công thống nhất nước.

b. Kêu gọi mọi người hãy quên đi quá khứ tội lỗi của VGCS, để hòa giải & hòa hợp dân tộc xây dựng đất nước.

c. Thay vì kêu gọi đoàn kết chống lại sự xâm nhập phá hoại của bọn VC đang xâm nhập dần cộng đồng tị nạn. VT lại tìm cách gây chia rẻ, làm suy yếu cộng đồng; bất cư nơi đâu VT cũng tìm cách chen chân vào nội bộ các đoàn thể dành quyền lãnh đạo, hướng dẫn người Việt Tị Nạn đi theo đường hướng có lợi cho CSVN; nếu làm không được, tìm cách lập ra tổ chức khác, tạo cho nội bộ Người Việt Tị Nạn nghi kỵ, khiến cộng đồng bị tê liệt.


d. Chủ trương hòa giải&hòa hợp với CSVN, tìm cách khỏa lấp tội ác lỗi CSVN. Cụ thể, do muốn nịnh bợ bọn VC kiếm ăn, nên thay vì cùng với Tập Thể Người Việt Quốc Gia hải ngoại thường năm tổ chức « Ngày Quốc Hận» 30-4, nhằm mục đích nhắc nhở người Việt Tị Nạn CS hãy luôn luôn nhớ ngày đau thương của đất nước; ngày mà miền Nam bị lũ cộng sản Bắc Việt theo lệnh cộng sản quốc tế cưỡng chiếm, gây bao tang tóc cho dân chúng;.thì ngược lại, bọn VT lại muốn làm vừa lòng quan thầy Hà Nội tráo trở đổi Ngày Quốc Hận thành ra «Ngày Tự Do» (Freedom March For VN).

Có điều, vì quá ngu muội, hoặc do ngậm miệng ăn tiền hay kiếm ghế nên băng đảng VT mới «nổ sảng» nói bừa như thế. Chứ hai chữ «Quốc Hận» là sự kiện lịch sử, ghi nhận lại một biến cố trọng đại lịch sử; và đã là sự kiện lịch sử thì không ai có quyền sửa đổi hay bóp méo. Lịch sử cụ thể chứng minh.: cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh dù đã sang trang; công tội của hai Họ đã được sử sách ghi chép kỹ, nhưng «Hờn Sông Gianh» ngàn đời còn vang vãng đâu đó, và vẫn còn ghi mãi trong tâm khảm của mọi người dân Việt, nào có ai dám đắc tội tự ý thay đổi đâu? Ngoại trừ băng đảng VT tay sai của VGCS.

Nói chung, điểm qua các việc làm của băng đảng VT từ trước đến nay đã chứng minh cho thấy, từ MT rồi đến đảng VT chúng đều đã phản bội lại lý tưởng quốc gia, đổi lại họ được hưởng đôi chút quyền lợi nào đó.

Thực chất, và hơn ai hết, lãnh đạo VT gồm có một số người có đầy đủ trí tuệ, chắc họ thấu hiểu vấn đề nầy. Tuy nhiên do quyền lợi mà họ đã muối mặt làm bậy. VT ắt hẳn còn nhớ mãi lịch sử cận đại; vào năm 1945-1956. Việt Minh Cộng Sản đã nhường cho đảng phái quốc gia trong « chính phủ Liên Hiệp» 5 bộ trong nội các gồm: Đứng đầu là cụ Nguyễn Hải Thần, Việt Cách, nhân vật số 2 sau họ Hồ, Phó Chủ tịch Nước; cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội Vụ, một nhân sĩ độc lập; ông Nguyễn Tường Tam VN/QDĐ, Bộ trưởng Ngoại Giao; ông Vũ Hồng Khanh VN/QDĐ , Phó Chủ tịch Quân Ủy Hội, tức Bộ Quốc Phòng và ông Chu Bá Phượng VN/QDĐ, Bộ trưởng Kinh Tế.

Ngoài ra, CSVN còn dành cho phía chính đảng quốc gia 72 ghế trong quốc hội mà không phải thông qua một cuộc bầu cử nào. Với cái được gọi là «đặc ân» đó, Hồ Chí Minh đã mĩa mai nói với thuộc hạ: «Tôi tặng không cho họ72 ghế không phải bầu cử, rồi họ muốn bán cho ai, và với giá nào tùy ý họ». Với một lực lượng tinh khôn và hùng hậu đến thế, mà vì không đề phòng, đồng thời với lời dặn của Hồ Chí Minh trước khi đi Pháp nói cho cụ Huỳnh Thúc Kháng đang giữ Bộ Nội Vụ kiềm Quyền Chủ Tịch Nước: « Dĩ Nhất Biến Ứng Vạn Biến».

Sau đó công an cộng sản ngụy tạo ra vụ «Ôn Như Hầu» (*), và chỉ chờ có thế thì hung thần Võ Nguyên Giáp, một tên ác quỷ khát máu (hiện đang ngáp ngáp chờ chết) vội mượn bàn tay cụ Huỳnh Thúc Kháng ra lệnh cho công an đàn áp, và chỉ trong một thời gian ngắn đã triệt hạ các lực lượng chính đảng quốc gia,tất cả phải ôm đầu tháo chạy.

Với những vị tiền bối ái quốc yêu nước và thông minh trong các chính đảng như thế, mà còn bị bọn gian manh CSVN lừa gạt cho vào « xiếc », và đánh cho te tua, còn nói chi đến mấy tên đầu lãnh hạng bét như: Đỗ Hoàng Điềm và Lý Thái Hùng, tức Bùi Minh Đoàn, thì thử hỏi làm sao chúng đối địch được với bọn CSVN.

Thử hỏi. Quý vị có suy nghĩ thế nào khi nghe Đỗ Hoàng Điềm tuyên bố: «VT không đặt nặng yếu tố hải ngoại, mà chỉ chú trọng đến số phận của 83 triệu người dân trong nước ». Một dịp khác khi có cơ hội được chính quyền Mỹ mời hỏi ý kiến, Đỗ Hoàng Điềm đã dối trá trả lời: « hiện nay, việc kỳ thị chế độ cũ ở trong nước không còn tồn tại nữa».

Qua lời phát biểu đầu, chứng tỏ Đỗ Hoàng Điềm là một hạng người đang học đòi xảo biện. Tuy nhiên, kinh nghiệm đấu tranh cho thấy, y là một loại lãnh tụ quá còn non kém, không có một chút hiểu biết gì về kinh nghiệm lịch sử đấu tranh. Chúng tôi khuyên Đỗ Hoàng Điềm cố nhớ lại. Thử hỏi, nếu không sự ủng hộ triệt để của đồng bào hải ngoại, tích cực vận dụng quốc tế can thiệp mạnh mẻ để hổ trợ người dân trong nước, thì kẻ thù Trung Cộng đã nuốt Việt Nam từ lâu; hơn nữa, nếu không có sự yểm trợ mạnh mẻ về mặt tài chánh từ hải ngoại dồn dập đổ vào, thì kinh tế VN đã bị rơi xuống vực thẳm mà không có một ai vực dậy được.

Ngoài ra, ông Dỗ Hoàng Điềm cũng nên xem lại lịch sử thế giới để biết: Cuộc Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 của Trung Hoa, nếu không được sự hổ trợ mạnh của khối đông đảo người Hoa trên thế giới giúp công góp của thì lãnh tụ Tôn Trung Sơn cũng phải đành bó tay. Ngay cái được gọi là Cuộc Cách Mạng Tháng Mười của Nga, nếu không có được sự tiếp tế dồi dào, và trợ giúp mạnh mẽ của người dân Nga từ các nước Đức và Âu châu, thì chắc gì Lê Nin đã thành công được trong cuộc bạo động lật đỗ chế độ Sa hoàng Nga năm 1917. Nói chung, băng đảng VT mặc dầu đã được VC gài nhiều con tu hú ngay từ nội bộ, nhưng lại rất mù mờ và quá ngây ngô trong chính trị.

Đôi lúc tự hỏi? Không hiểu lý do nào, mà đất nước ta lại sản sinh ra nhiều lãnh tụ quá ấu trỉ và dối trá như mấy tên đầu lãnh VT Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng v.v..

Với ông Đỗ Hoàng Điềm, trước đây, lúc còn phục vụ tại Sở Ngoại Viện Bộ Xây Dựng Nông Thôn, người viết đã may mắn được diện kiến thân phụ của ông Điềm, cụ Đỗ Thúc Vịnh, một nhân sĩ khiêm tốn, một vị công chức thông minh mẫn cán, ăn nói hoạt bác đầy đủ lập trường quốc gia vững chắc. Lúc giữ chức vụ Chánh Văn Phòng Văn Phòng Bộ Canh Nông, cụ tỏ ra một chính khách lịch lãm khiến mọi người rất đáng kinh trọng.

Ngày nay, đúng là thời loạn, «Hổ Phụ Sinh Khuyển Tử» cụ lại sản sinh ra một Đỗ Hoàng Điềm với tác phong gian giảo, chỉ biết quyền lợi rồi nói bậy mà không cần biết đến sĩ diện của cha ông, dám đổi trắng thay đen, tán tậm lương tâm, xác nhận là bọn VC trong nước không còn kỳ thị người dân chế độ cũ nữa.Ngoài ra, chúng tôi xin hỏi,với tư cách và đứng trên phương vị nào mà ông Điềm, dù chưa phải là một chính khách lỗi lạc; cũng chẳng phải một chính trị gia nổi tiếng, mà chỉ là người đứng đầu của một băng đảng đã từng gây nhiều tội ác, lại dám thay mặt bọn « Gian Dân Hiệp Đảng» chúc Tết quốc dân đồng bào trong năm Canh Dần? Phải chăng Đỗ Hoàng Điềm đã chịu nhận làm cai thầu thay mặt VGCS thi hành Nghị Quyết 36, vỗ về trăm họ, hoàn thành nhiêm vụ mà VC giao khoán cho chúng tại hải ngoại? Vì lý do đó, mà Đỗ Hoàng Điềm dám dùng hai chữ Đồng bào, thay vì phải sử dụng hai chữ Đồng Hương cho đúng phép lại vừa tỏ ra có giáo dục.

Phần vai vế của Đỗ Hoàng Điềm cũng đã làm cho lắm người suy nghĩ tự hỏi. Liệu hết người sao mà VT lại phải dùng một lãnh tụ quá non và ấu trỉ như Điềm. Trong khi biết, VT do sẳn tiền, vì thế đã có biết bao trí thức khoa bảng nhào ra «chịu đấm ăn xôi» để kiếm tiền. Nhưng một số khác lại lập luận cho rằng, VT cũng theo lề lối cũ nghĩa là «con vua thì lại làm vua»; biết rằng Điềm là con của bà Hoàng Thị Châu An, chị ruột của lãnh tụ Hoàng Cơ Minh, tức Điềm là cháu ruột của Hoàng Cơ Minh; theo họ nghĩ dù sao huyết thống vẫn hơn. Mặt khác, khi dùng loại người quá giỏi và bản lãnh e khó trị. Và, biết đâu, trong vấn đề nầy còn phải có ý kiến của Hà Nội nữa.

Về nhân vật Đỗ Hoàng Điềm thì ngay chính quyền Hoa Kỳ đã quá lầm lẫn; vì quả thật là một điếm nhục khi biết Tổng thống Hoa Kỳ lại đích thân tiếp Đỗ Hoàng Điềm, mặc dầu đã biết rõ, y từng là lãnh tự của một băng đảng tội ác, mà trước kia chính quyền Mỹ đã đưa ra tòa để truy tố.

Phần Lý Thái Hùng, tức Bùi Minh Đoàn qua quá trình hoạt động trong băng đảng VT, người ta lại càng rõ chân tướng y hơn; nội việc y thay tên đổi họ để che dấu lý lịch đã làm cho những người dấn thân và đấu tranh cảm thấy ớn lạnh, thêm vào đó, bà Trần Diệu Chân vợ của y, phát ngôn nhân của VT, mà theo tài liệu cho biết, bà nguyên là một du sinh cộng sản Bắc Việt được CSVN đưa qua Ba Lan, Đông Âu, rồi lại được bố trí «kết duyên vợ chồng» với Tổng Bí Thư đảng VT Lý Thái Hùng; trong khi đó, thì trên đài truyền hình khi được ký giả Hưng Yên phỏng vấn, thì bà lại trả lời, bà vốn du học tại Newzeland và đã có học vị tiến sĩ. Nội sự kiện đó cũng đủ gây cho hải ngoại thêm nhiều nghi vấn hơn. Với khả năng lãnh đạo và lý lịch mập mờ của các lãnh tụ VT như thế, thử hỏi liệu đã có mấy ai đủ can đảm để kết hợp cùng với VT đấu tranh, chứ nói chi đến chống cộng sản.

B. Phải chăng Đảng Việt Tân mỗi ngày một phát triển ?

Mặc dầu được giải thích nhiều, đã có đây đủ tài liệu chứng minh hành động man trá của VT, nhưng một số người vẫn còn tin vào những hiện tượng được «đánh bóng» bên ngoài để rồi đánh giá VT là một tổ chức có chính nghĩa và mạnh. Người ta đâu có biết, VT nhờ thừa hưởng được một tài sản to lớn từ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh để lại; biết rằng trước đây MT do lừa gat được đồng bào hải ngoại nhẹ dạ, giàu lòng yêu nước mới có được nhiều phương tiện và của cải, nhờ đó họ tha hồ tổ chức kinh doanh làm giàu, tiền đẻ ra tiền. Ngoài ra, dựa vào sự hổ trợ kỷ thuật tình báo VC giúp tổ chức, nhờ thế họ đã nhào nặn ra biết bao đoàn thể, hội đoàn, tổ chức ngoại vi có lợi cho VC tại hải ngoại, điển hình là Hội Chuyên Gia, một nhóm chuyên viên về VN làm thủy lợi giúp VC.

Thử hỏi VC đang tàn ác thống trị nhân dân, mà VT lại cử chuyên gia về tăng cường giúp chúng có thêm sức mạnh đàn áp. Vậy có ai tin nổi VT. Mặc khác, họ nhờ biết khai thác yếu tố ham vui của quần chúng, vì thế, họ thường tổ chức lễ hội có văn nghệ; chịu bỏ tiền thuê ca sĩ nổi tiếng câu khách để thu hút quần chúng. Tuy không có căn bản và thiếu hiểu biết chính trị rộng rải, nhưng là nhờ quần chúng ham vui mới thu hút được đông đảo người tham gia, việc đó làm cho địa phương hiểu lầm, VT có được một tổ chức bao trùm.

Ngoài ra, VT tạo ra nhiều chiến dịch ma mảnh, xin chữ ký,vừa dùng để nộp cho tình báo VC đồng thời dễ bề phát họa các vụ hợp tác giai đoạn với VC; đáp lại , VC tìm cách tăng vốn cho VT có phương tiện dồi dào khống chế hải ngoại. Đồng thời, VT tìm cách dẹp bỏ bất cứ những ai muốn chống đối họ, đồng thời chiêu dụ những kẻ mà trước đây từng có chức tước, nhưng tại hải ngoại lại không thể tự lực cánh sinh, không có tài, không có người ủng hộ, nói không ai nghe, nên hạng người nầy mặc dầu biết băng đảng VT là bọn tà đạo, nhưng vẫn cố chạy theo để bám sống.

Tóm lại, CSVN cố giúp VT có đủ cán bộ, phương tiện để đi đúng đường lối có lợi cho VC trong kế hoạch chế ngự hải ngoại; mà mục tiêu tối hậu là, đưa người Việt Tị Nạn cộng sản vào hệ thống tòa Đại sứ và Tổng lãnh sự quán của chúng. Nhưng do bất tài, nên chẳng làm được trò trống ngoài việc tổ chức các vụ chiến khu giả, kháng chiến ma tại Thái Lan. Ngoài ra, ngồi tại hải ngoại tưởng tượng viết ra vài trận «trận chiến giả tạo» xảy ra nhiều nơi trên lãnh thổ VN, để rồi cùng sự phụ họa dối trá của đài các phát thanh VT là Chân Trời Mới &Tiếng Nước Tôi, chuyên loan tin thất thiệt làm lợi cho CSVN.

Một ai đó thắc mắc nói VT mạnh nhờ có nhiều cơ sở, và đông đảo đoàn viên. Nhưng vì họ không biết, VT chính là VC trá hình, do đó lúc cần đến thì đã có cán bộ cộng sản nằm vùng thay thế họ. Bản thân người viết từng có được kinh nghiệm: trong cuộc diễn hành Ngày Quốc Hận 30-4-2005, tại Washington D.C, mà băng đảng VT đã trắng trợn đổi thành Ngày Diễn Hành Tự Do.

Trước đó một thời gian, VT huênh hoang tuyên bố sẽ tập họp trên «mấy chục ngàn đoàn viên tham dự.» Tiếc thay, kết quả theo các cơ quan truyền thông phổ biến, thì chỉ có «mấy ngàn người»có mặt . Vì lý do thể diện, VT buộc phải điều động, dốc toàn thể lực lượng đám du sinh trong vùng tham gia diễn hành. Do đó mới xảy ra một «sự cố» do thói quen. Số là có một tên du sinh trong đoàn biểu tình quen miệng phát ẩu: «Dưới Rừng Cờ Đỏ Vàng Sao, Đoàn Biều Tình Quyết Tiến». Đúng là Cháy Nhà Ra Mặt Chuột ! Một vài nơi khác do không có đủ người giúp tổ chức, VT cũng theo cách cũ, điều động luôn đám du sinh, loại con cha cháu ông VC tham gia vào công tác. Đáp lại chỉ có những tiếng chửi thề văng tục phản đối của lũ VC con đó mà thôi.

Trên đây chỉ xin ngắn gọn giải bày một vài thắc mắc của một số bạn hữu ít theo dõi tình hình và thời cuộc. Có cơ hội, người viết sẽ tiếp, nói rõ hoạt động của VT tại quốc nội

Phùng Ngọc Sa
25.02.2010

(*) Vụ án phố Ôn Như Hầu, theo cách gọi của ngành Công an Nhân dân Việt Nam, là "sự kiện ngụy tạo" xảy ra vào tháng 7 năm 1946, Việt Minh đồng loạt tấn công các trụ sở của các đảng Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng với lý do là "để đập tan âm mưu đảo chính của Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng cấu kết với thực dân Pháp".



34 Năm Sau và Họ Là Ai ? - Lão Gà Tre



Lão Gà Tre

Ba mươi bốn năm (34) so với chiều dài lịch sử của một triều đại thời xưa thì ngắn, nhưng với một đời người thì dài lắm, nhất là đối với những ai quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh khổ đau của dân tộc Việt Nam thì nó lại càng dài hơn.

Ba mươi bốn năm trôi qua quả thật như một giấc mơ hãi hùng! Máu, nước mắt, khổ lụy, nghiệt ngã vẫn còn đây! Những cuộc vượt thoát vô tiền khoáng hậu của người Việt trốn chạy cộng sản – mà cả thế giới đều biết – vẫn còn ghi đậm trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với người Việt tị nạn, làm sao có thể quên được những ngày tháng hãi hùng ấy. Có lẽ nó sẽ nằm sâu, nằm mãi trong tiềm thức của mỗi chúng ta.

Ba mươi bốn năm rồi mà người đi vẫn đi, không còn đi được bằng cách vượt biển, vượt biên thì cũng tìm cơ hội khác để đi: ODP (đoàn tụ), lấy vợ, lấy chồng, du học, chạy chọt làm sao để rời xa cái gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa” . Chính ngay những người theo cộng sản cả đời, những người được hưởng ơn mưa móc như núi, nhưng nếu có cơ hội ra đi là họ đi ngay để trốn khỏi cái “thiên đường” quái đản ấy.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách hùng hồn rằng con người không thể sống dưới chế độ cộng sản. Khổ thay, Việt Nam là một trong bốn nước cộng sản còn lại mà loay hoay mãi vẫn không thể nào thoát khỏi cái thiên đường mù đầy oan nghiệt ấy! Nếu miền Nam Việt Nam không bị bán đứng vào tay cộng sản vào 1975, thì chắc chắn, sau sự sụp đổ của khối cộng sản Ðông Âu và Nga Sô, toàn cõi Việt Nam bây giờ đã là một xứ tự do, giàu mạnh như bao nhiêu quốc gia văn minh khác. Ít ra cũng bằng Nam Hàn với nền văn minh nhân bản như ngày nay..

Khỏi cần phải tố cáo hay chê bai chế độ; khỏi cần luận tội tập đoàn cộng sản lãnh đạo đất nước đã tàn phá quê hương như thế nào sau 34 năm thống nhất hai miền Nam-Bắc; khỏi cần so sánh với các nước láng giềng và các quốc gia khác trên thế giới – cũng bằng ấy thời gian đã vươn lên như đi hia bảy dặm – mà cứ nhìn vào xã hội tan nát, luân thường đạo lý tiêu tan, thị trường cung cầu quái dị, con người chạy theo vật chất một cách điên cuồng là biết ngay.

Khỏi cần phải nghe những luận điệu vì cảm tính của một số người về thăm quê hương rồi trở lại hồ hởi ca ngợi: “Ðất nước ngày nay khá rồi, thôn quê đã có điện nước, người dân có quyền đi lại và có quyền chửi luôn cán bộ cộng sản”. Thế sao? Chỉ có ba bóng đèn thắp sáng trong vài túp lều thô sơ, nghèo khổ, lạc hậu; chỉ có vài người vụt miệng chửi đổng cán bộ là đã có tự do, là đất nước khá rồi hay sao? Trong khi đó đa số các quốc gia tự do trên thế giới đã và đang tiến vào một đời sống sung túc và văn minh nhất của con người lại không đem ra so sánh!

Ðúng! Việt Nam đã có tự do, nhưng đó là thứ tự do của giai cấp cai trị được “tự do” ăn trên ngồi trước, “tự do” trấn lột quần chúng để thụ hưởng những xa hoa, phù phiếm trên nỗi thống khổ của toàn dân, vốn đã quá khổ trong một thế kỷ qua vì chiến tranh bom đạn. Phải, Tự là “tự” họ quyết định sự sống của người khác bằng họng súng và Do là “do” họ tạo nên những thủ đoạn đê hèn để áp đảo người dân, tước đoạt mọi thứ quyền tự do căn bản của con người.

Ðúng! Có tiến bộ, nhưng là thứ tiến bộ lừa đảo, mưu mô xảo quyệt cướp giựt để đàn áp mọi sự chống đối của người dân – khao khát hít thở không khí tự do – đã và đang đứng lên đòi tự do tôn giáo, tự do được sống làm người.

Nói tới chính trị là phải chứng minh bằng dữ kiện, bằng đường lối cai trị của một chế độ đang điều hành guồng máy quốc gia. Chế độ ấy như thế nào thì chúng ta đã thừa biết, khỏi cần nhắc lại làm gì cho tốn giấy tốn mực. Nếu họ thật tâm lo lắng cho quyền lợi của quê hương đất nước, cho người dân được hưởng những quyền tối thiểu của con người thì 34 năm qua đất nước đã khá lên rồi. Nếu họ có thật tâm xây dựng đất nước thì tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi, phải tiếp tục ra đi cho đến ngày nay, và phải chấp nhận sống chết trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do? Vì thế, những luận điệu nông cạn thiếu suy nghĩ ấy chỉ là mớ lý luận có lợi cho cục tuyên vận của CSVN.

Vậy, họ là ai?

Họ là những thành phần ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, miễn sao có một đời sống sung túc trên xứ người là đã thỏa mãn. Còn quê nhà, bà con làng xóm có sống như thời kỳ “đồ đá” thì cũng mặc. Miễn sao lâu lâu ta về thăm cái xứ lạc hậu ấy để thí cho một vài đồng đô, vừa được tiếng, vừa được những người thọ ơn ca tụng cho thỏa cái tự ái vị kỷ của mình.

Họ là ai?

Họ là thành phần cán bộ được cộng sản cấy theo đoàn người tỵ nạn, nằm vùng khắp mọi nơi, đóng vai quốc gia trá hình, chờ cơ hội là bò dậy tấn công vào hàng ngũ người Việt Quốc Gia, vốn đã chia rẽ trầm trọng do bản chất vị kỷ, phi chính trị của những người sinh hoạt ngoài công cộng.

Họ có mặt sinh hoạt nội gian, nội gián trong mọi tổ chức, đảng phái chính trị. Mục tiêu chính của họ là phá nát các tổ chức chính trị chống cộng, bày mưu, chước kế đâm bên này, thọc bên kia, gây mâu thuẫn nội bộ, tung những nguồn tin giật gân ra ngoài làm cho quần chúng mất niềm tin. Mục tiêu của họ chỉ có thế thôi. Khi đã thành công vì phá được các tổ chức chính trị đi đến tình trạng gần như bị tê liệt thì họ đi đâu và làm gì? Dĩ nhiên là họ đã lặn thật kỹ, viện cớ chán ngán thế sự, lui về ngồi rung đùi đếm tiền và hưởng nhàn, ôm theo một đống tiền, gọi là công tác phí trọn đời.

Họ là ai?

Thà rằng tỏ rõ thái độ đầu hàng như một ông tướng, ông nhạc sĩ “nhớn” đã quay về với đảng và nhà nước, ăn năn sám hối để được hưởng “lộc” cuối đời. Dù xú danh muôn thuở, người đời nguyền rủa, nhưng ít ra họ đã biểu lộ thái độ chính trị dứt khoát theo cộng để người ta phân biệt lằn ranh biên giới rõ ràng giữa họ và chúng ta. Còn hơn những tên nằm vùng sống với nhiều mặt nạ khác nhau để quậy phá các tổ chức chính trị, hội đoàn, cộng đồng; thậm chí trong giới cầm bút cũng không thiếu những tên tự xưng là người cầm bút, nhưng bất xứng, lại háo danh, hám lợi. Chính họ là một thứ bồi bút không hơn không kém, viết lách theo đơn đặt hàng, núp bóng trong tổ chức Văn Bút, để “cố đấm ăn xôi” một cách quyết liệt với mục đích xé nát tổ chức nhằm xóa bỏ dấu tích còn lại của người Việt quốc gia trên diễn đàn quốc tế. Họ cố đấm dù không ăn được xôi đến độ một cách phi lý, phi văn hóa mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng phải nghi ngờ chắc chắn đàng sau họ phải có một sức đẩy nào đó. Họ chính là “những kẻ vô lại may mắn” như nhà văn Phạm Ngũ Yên đã đặt tên trong một loạt bài tố cáo đích danh những tên vô lại này trước công luận vào năm 2008.

Họ là ai?

Họ cũng là những người vượt biển vượt biên ra đi tìm tự do, nhưng sống “với vật chất và vì vật chất” nên theo thời gian, thời thế thế thời phải thế. Họ đã quay lưng, cúi đầu phục vụ trực tiếp, hay gián tiếp cho cục tuyên vận CSVN, sẵn sàng đâm vào vết thương lòng của tập thể người Việt tỵ nạn để kiếm lợi.

Họ là ai?

Họ là những nhà “làm chính trị” theo kiểu lập dị, với mớ lý luận thiên tả, ưa bềnh bồng, không định hướng như con thuyền không bến. Họ sống bên này với thế giới tự do văn minh, phủ phê vật chất nhưng luôn luôn mơ mộng ở một “thiên đường” khác: thiên đường của hoang tưởng, thiên đường của không tưởng. Nhưng nếu họ được sống thực trong cái “thiên đường” ấy, chắc chắn là họ phải lên cơn điên và trở thành người điên sớm nhất. Tiếc thay, khi va chạm với thực tế trong cái xã hội tha hóa ấy thì hối hận cũng đã muộn màng!

Họ là ai?

Họ là thành phần làm chính trị theo kiểu salon, thích đọc diễn văn “xa đấm, gần đâm”. Nghĩa là ở xa thì hô hào “Ðấm” đá, nhưng ở gần thì “Ðâm” đầu bỏ chạy. Họ cứ tưởng sẽ hòa hợp được với cộng sản bằng một mớ kiến thức về kỹ thuật mà họ học được từ hải ngoại. Về nước họ sẽ được trọng dụng và đảng cộng sản sẽ nghe theo họ. Ðúng là hoang tưởng!

Họ là ai?

Họ là những thương gia, với quan niệm “chỉ làm thương mại, không làm chính trị”. Giấc mơ của họ là giấc mơ của những “đại gia” thời mới, đượỳc nhà nước ca tụng và tâng bốc trên tận mây xanh. Trước khi đặt vấn đề đầu tiên là “tiền đâu”; dĩ nhiên là họ phải chạy theo giai cấp thống trị, làm theo lệnh của bạo quyền để kiếm lợi. Vì vậy, với thành phần chỉ biết mua bán để kiếm lợi thì trách họ làm gì cho bận tâm. Với họ. quê hương dân tộc không bằng một quả chanh, khi vắt hết nước là liệng vỏ ngay. Gần đây, nhiều “đại gia” đổ tiền về làm ăn vì được đảng nâng bi ca tụng hết mình, nhưng chỉ một thời gian sau thì những đại gia này đều bị trấn lột sạch sành sanh ... kêu Trời không thấu! Cái giá “không làm chính trị, chỉ biết làm ăn” họ đã phải trả một cách cay đắng.

Lời kết:

May thay, dân tộc Việt trường tồn qua mấy ngàn năm nay cũng nhờ vào hồn thiêng tổ tiên phù trợ, nên thành phần “Họ Là Ai” nói trên chỉ là thiểu số ung nhọt, sâu mọt trong đại gia đình dân tộc Việt mà thời nào cũng có trong lịch sử. Còn đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do thật sự từ năm 1975 đến nay, vẫn một lòng, một chí hướng, đó là giải thể chế độ cộng sản để đưa đất nước tiến lên trong tự do dân chủ. Ngày nào còn bóng dáng cộng sản là còn đấu tranh đòi quyền sống cho đồng bào ruột thịt đang chịu đựng trăm đắng ngàn cay ở quê nhà.

Ba mươi bốn năm rồi, mặc dù những hiện tượng chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta đã xảy ra vì địch và vì chính chúng ta tạo nên cũng có, nhưng những chiến sĩ can trường đã và đang âm thầm hay công khai đấu đầu với CSVN ở khắp mọi nơi vẫn kiên trì, bất khuất, vẫn một lòng với đại cuộc đấu tranh chống cộng. Ở quốc nội, các vị chân tu của các tôn giáo, các nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn không sờn lòng đứng lên đòi quyền sống, quyền hành đạo, quyền được phát biểu tư tưởng, mặc dù bị bắt bớ giam cầm dã man trong suốt 34 năm qua. Ở hải ngoại, vẫn những chiến sĩ xung trận ngăn chặn mọi sự xâm nhập của CSVN trên mọi chiến tuyến. Xin cầu chúc “chân cứng đá mềm” tới những tấm lòng bất khuất mà thời nào họ cũng đứng lên trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt.

Là những người may mắn thoát khỏi nanh vuốt của tập đoàn cộng sản, chúng ta không thể nào ngồi yên để hưởng thụ, mà đã đến lúc phải góp sức vào công cuộc chung, tiếp tay với những anh hùng đang xả thân vì nước bằng cách vận động, góp tinh thần – dù chỉ là lời nói – cho quý vị lãnh đạo tinh thần, những nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước đang ngày đêm gian khổ, sống chết trước sự đàn áp dã man của bạo quyền cộng sản.

Có như thế thì chúng ta mới không phụ lòng những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cho chính chúng ta được sống. Có như thế thì mới không hổ thẹn với chính lương tâm mình mỗi khi nhìn lại chặng đường lưu lạc gian khổ suốt ba mươi bốn năm qua: “Ta đã làm được gì cho quê hương dân tộc”? Có như thế mới làm gương cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ nguồn gốc và tinh thần trách nhiệm đối với sự sinh tồn của dân tộc. Một Brian Doan, một Madison Nguyễn, một John Nguyễn ... cũng chỉ là một thiểu số nhỏ bé, bé hơn cả những hòn sỏi khi ném xuống mặt hồ yên lặng, vẫn chưa đủ sức làm gợn sóng lăn tăn. Thế nhưng, mặt khác của vấn đề là sự tỉnh thức của chúng ta, của tập thể người Việt không cộng sản, đó là đoàn kết và cố gắng chăm sóc cho thế hệ nối tiếp gìn giữ truyền thống giáo dục gia đình.

Nhân mùa quốc nạn, xin được thắp nén hương lòng gửi đến hồn thiêng của các anh linh tử sĩ, đồng bào vượt biển, vượt biên đã anh dũng nằm xuống cho đất mẹ sớm nở hoa tự do. Ðồng thời cũng xin được nguyện cầu bình an cho những anh hùng dân tộc đang ngày đêm chiến đấu một mất một còn với CSVN trên mọi mặt trận.

Lão Gà Tre



Hình ảnh dã man, tàn bạo chống chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa




Cộng sản Việt Nam đàn áp Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo


PHẬT GIÁO HÒA HẢO THUẦN TÚY
BẢN TIN KHẨN CẤP


Quang cảnh trang nghiêm lễ niệm Phật tại nhà Bà Tuyết

Bà Tuyết bị đánh bể mặt, bể mũi
Tiếp theo bản tin khẩn cấp đề ngày 23-02-2010 về vụ công an khủng bố cuộc niệm Phật tại nhà Bà Nguyễn Thị Tuyết thuộc Xã Tân Quới (Vĩnh Long) trong ngày 23-02-10, Ban Truyền Thông PGHH/TT xin loan báo thêm:

Sau khi đánh đập đoàn người niệm Phật làm ngất xỉu nhiều người, công an dùng bạo lực bắt đi 17 người là Bà Nguyễn Thị Tuyết (chủ nhà), ông Bùi Văn Luốc (Hội Trưởng PGHH/TT Vĩnh Long) Lưu Văn So (70 tuổi), Nguyễn Văn Sáu (54 tuổi), Nguyễn Quốc Trung, vv.. còn 3 người đàn bà bị ngất xỉu CA bỏ lại là Lê Thị Vàng (51 tuổi), Bùi Thị Thảo Lam (21 tuổi), Bùi Thị Cẩm Hằng (18 tuổi).

Số người bị bắt nói trên bị chở trên xe bít bùng (xe chở tù nhân) đem về UBND huyện Bình Tân (Vĩnh Long).

Được báo cáo, cụ Liêm liền cho lịnh anh em PGHH/TT gần khoảng 30 người, lập thành phái đoàn đi đến UBND huyện Bình Tân yêu cầu nơi này cho biết những tín đồ PGHH vửa bị bắt về tội gì? thì được nơi này trả lời rằng: Vì tội phá rối trật tự công cộng. Thật là quái đản, ngồi niệm Phật im lặng trong nhà không một tiếng động là phá rối trật tự ư?

Trước tình hình phản ứng của Phái đoàn PGHH/TT, UBND huyện Bình Tân không còn cách làm gì khác hơn là phải thả 17 người ra về.

Trong số người bị đánh đập, nặng nhất là Bà Nguyễn Thị Tuyết (chủ nhà) bị đánh bể mặt, máu mũi chảy dầm dề, sau khi được thả về phải đi liền đến bịnh viện để cấp cứu, còn năm, bảy người khác nhẹ hơn chỉ điều trị tại nhà.

Một số hình ảnh được ghi nhận:


Cảnh CA đập phá nơi thờ phương tôn nghiêm ở nhà bà Tuyết,
vất liệng bừa bãi kinh sách, có cả ảnh Đức Huỳnh Giáo Chủ



Bùi Thị Thảo Lam bị đánh ngất xỉu Bà Lê Thị Vàng bị đánh ngất xỉu


Bùi Thị Cẩm Hằng bị đánh ngất xỉu. Quang cảnh xung quanh nhà bà Tuyết lúc bị CA bao vây

Kể ra, tại tỉnh Vĩnh Long, chỉ vỏn vẹn có 18 ngày (05/02/10-23/ 02/10) mà CA Vĩnh Long đã khủng bố tàn bạo với khối PGHH/TT đến 3 lần, Giáo Hội Trung Ương PGHH/TT cực lực lên án những hành động “khủng bố trắng” của CA tỉnh Vĩnh Long.

Khối PGHH/TT sẽ làm tất cả những gì, kể cả hy sinh mạng sống để đòi hỏi Công Lý và Tự Do Tôn Giáo cho PGHH.

Việt Nam, ngày 24 tháng 2 năm 2010.
TM. Khối PGHH/TT
Trưởng Ban Truyền Thông

Trương Thành Long

Thông Báo CĐNVTD-VIC Úc châu: Tòa Sơ Thẩm

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TIỂU BANG VICTORIA
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 03 9687 9198
Email: nguyenvanbon@cdnvtd.com


THÔNG BÁO & THƯ MỜI HỌP KHẨN CỦA CĐNVTD-VIC
V/v: Trang Trải Án Phí Cho Trạng Sư và Luật Sư Ra Tòa Trung Thẩm
    Kính thưa:

    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện các hội đoàn đoàn thể,
    - Quý vị đại diện các cơ quan truyền thông báo chí,
    - Toàn thể đồng hương CÐNVTD-Victoria.
Vào ngày 10-3-2010 sắp tới đây tòa Trung Thẩm sẽ xét xử: vụ một cá nhân trong cộng đồng đệ đơn kiện ông Chủ Tịch CÐNVTD-VIC Nguyễn Thế Phong (nhiệm kỳ 2007-2009) tại tòa Trung Thẩm Victoria (County Court) với lời cáo buộc rằng trong phiên họp ngày 15-03-2009 ông Chủ tịch CÐNVTD-VIC đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng.

Ngày 25-2-2010, ban chấp hành CĐNVTD-VIC đã được luật sư Cộng Đồng cho biết số tiền cho đợt đầu của vụ kiện này là $40,000 Úc Kim và số tiền này cần được đóng vào “Trust Account” của luật sư trước ngày 10-3-2010.

Với số tiền to lớn này ban chấp hành CĐNVTD-VIC không có khả năng để trang trải, nhưng nếu chúng ta không có số tiền này thì Trạng Sư của chúng ta sẽ không ra tòa và chúng ta sẽ bị mất đi cơ hội chứng minh trước những lời cáo buộc của nguyên đơn trong phiên tòa này. Vì lý do trên chúng tôi kêu gọi một phiên họp khẩn và kính mời toàn thể quý vị xin dành chút thời giờ quý báu đến tham dự phiên họp quan trọng này.
    Ngày: Thứ Bảy, 6-3-2010.
    Giờ: 4:00 chiều.
    Địa Điểm: Văn Phòng Cộng Đồng số 214 Nicholson st, Footscray 3011
Trân trọng kính mời.
TM. BCH-CÐNVTD-VIC

Nguyễn Văn Bon
Chủ tịch
25 – 02- 2010

Sunday, February 21, 2010

Cờ đỏ năm (5) sao



    CỜ ĐỎ SAO VÀNG
Đinh Lâm Thanh

Sau ngày một số tiểu bang và thành phố lớn tại Mỹ công nhận cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng của người Việt Tự Do thì Công sản cuống cuồng ra lệnh cho các sứ quán tìm cách triệt hạ cờ quốc gia đồng thời đề cao và ca tụng cờ máu của chúng.

Sự thật, cờ Đỏ Sao Vàng không mang một biểu tượng liên hệ với nguồn gốc, địa lý, dân tộc, lịch sử hay văn hóa nào của Việt Nam. Cờ máu là con đẻ từ hai lá cờ đàn anh, Đỏ Búa Liềm của Liên Sô Cộng sản và Đỏ năm Sao Vàng của Trung Cộng.

Cờ máu do già Hồ nhận từ các nước đàn anh đưa về, gồm màu đỏ tượng trưng cho máu, cho chiến tranh giai cấp và một sao duy nhất chính là đảng Cộng sản. Cờ đảng nầy được áp đặt lên đầu dân tộc khi già Hồ và tập đoàn Cộng sản cướp được chính quyền. Vậy có chút gì vinh dự để xưng là cờ của Việt Nam !

Tàu cộng 'dạy cho csvn' về bài học phải treo cờ ở những nơi thích hợp !!!


Gọi là cờ ‘máu’ nhưng không phải vì miếng vải đỏ, mà là màu máu của tang thương chết chóc, mùi tanh hôi thoát ra từ hàng triệu người đã tức tưởi nằm xuống ở những nơi nào có bóng dáng quân Cộng sản. Kể từ ngày cờ máu xuất hiện đến nay, trên 100 triệu người đã bị Cộng sản tàn sát từ Liên Bang Sô Viết qua các chư hầu Đông Âu đến Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba. Mỗi khi trông thấy cờ máu dù của xứ Cộng sản nào, dân chúng đều kinh hoàng tháo chạy. Thế mà đến giờ nầy, một số người ăn cơm quốc gia vẫn còn lú lẫn ca tụng một cách điên cuồng chế độ Cộng sản hoặc vì đã ngữa tay nhận ân huệ của quân thù để chống phá lại người Việt Tự Do.

Đối với Việt Nam, lịch sử đã chứng minh trên một triệu người Miền Bắc bỏ ruộng vườn quê cha đất tổ, bồng bế chen nhau xuống tàu vào Nam vì họ đã chứng kiến tận mắt hình ảnh đấu tố man rợ của Cộng sản sau năm 1945 khi giết gần một triệu người mà chúng gọi là địa chủ bóc lột !. Tiếp đến mùa hè đỏ lửa 1972 đồng bào Quảng Trị bỏ thây trên đại lộ kinh hoàng trong lúc chạy vào Huế cũng như dân chúng trên cao nguyên Pleiku-Kontum đã bỏ tài sản tính mạng trên đoạn đường về Qui Nhơn lánh nạn Cộng sản khi vừa hay tin Quân Đoàn II triệt thoái.

Cờ máu đi đến đâu là chết chóc theo đến đó

Để che mắt quốc tế và bịp dân chúng Miền Nam, cờ máu được ngụy trang bằng Xanh Đỏ với Sao Vàng (cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) nhưng vẫn không đánh lừa được dân chúng. Ngay từ lúc Cộng quân xua quân vượt ranh giới, hàng triệu người từ Miền Trung đã dùng đủ phương tiện chạy vào Sàigòn tìm đất sống, bám víu vào chế độ tự do. Than ôi, cuối cùng những tên phản quốc bán nước cúi đầu mời giặc, ra lệnh buông súng vô điều kiện, quỳ gối nạp mình, dâng đất nước, dâng tổ quốc cho loài lang sói. Một lần nữa cả triệu người liều mạng ra biển đánh đổi tự do với may rủi của đại dương vì họ không bao giờ chấp nhận Cộng sản khi thấy cờ đỏ sao vàng xuất hiện tại thủ đô Sàigòn.

Nơi nào Cộng sản muốn đến, muốn xâm chiếm thì trước tiên chúng phải bắn pháo, đặt mìn, liệng bom vào dân chúng để tạo ‘chiến trường máu’ dùng làm áp lực và cản đường phản công của QLVNCH. Đây chính là hình thức chiến tranh rừng rú, vô nguyên tắc, vô nhân đạo khi chúng tận dụng thân xác, xương máu gia đình vợ con của đối phương để cầm chân cản đường.

Cờ máu trong cuộc đấu tố đẫm máu sau năm 1954

Trên đây bài viết đề cập nổi kinh hoàng sợ sệt của dân chúng Việt nam đối với cờ máu. Bây giờ, xin nói về lối xử dụng cờ máu một cách văn minh khoa học và ‘tiên tiến vĩ đại’ của tập đoàn Cộng sản qua hai hình ảnh sau đây :

Cờ máu cắm tại cầu tiêu công cọng. Hãy nhìn kỹ bức hình nguyên thủy để không còn bôi bác cho rằng ảnh được cắt nối chắp ráp : Một cán ngố đang tụt quần giải quyết bầu tâm sự trước mặt lá cờ máu anh hùng, vinh quang và vĩ đại của anh ta. Có thể hình chụp tại trong Nam, vì cầu tiêu cộng cộng là nơi nuôi cá tra mà chúng ta thường thấy ở miền quê. Nếu đúng vậy thì dân Miền Nam chơi trò xỏ lá, đem cái vinh quang cao quý nhất của Cộng sản Miền Bắc cắm ngay tại chỗ đi cầu ! Trường hợp hình chụp ngoài Bắc thì thật là hết thuốc chữa, cờ của chúng dùng để giúp đồng bào giải quyết bệnh bị táo bón kinh niên vì quanh năm suốt tháng chỉ biết có sắn khoai !.

Bức ảnh nầy chứng minh, sau hiệp ước Versailles, trò bịp lấn đất dành dân bằng hình thức treo cờ của Cộng sản bị dân miền Nam chơi trò đểu, hoặc do đầu óc ngu muội của Cộng sản, treo cờ không bỏ sót một góc hẻm nào, ngay tại những nơi để cho người ta đi đại tiện hằng ngày ! 33 năm rồi mà cả tập đoàn Cộng sản không nhìn thấy cái lố bịch của chúng. Thật tội nghiệp !

Đây là vị trí cao nhất để treo cờ 'máu'

Bức hình dưới đây chứng minh rõ ràng cái đầu ‘siêu việt’ của một tập đoàn mang danh ‘đỉnh cao trí tuệ’ trong cái ‘nôi của loài người’. Hãy nhìn kỹ, tập đoàn Cộng sản dùng lá cờ Đỏ Sao Vàng trải dài từ cửa máy bay xuống tận xe hơi để nghênh đón kẻ thù số 1 của Chủ Nghĩa Xã Hội đạp lên và bước qua. Người ta thấy những tay lãnh đạo Việt Nam mắt híp, mặt hớn hở đón tổng thống Bush đang ngạo nghễ dẫm chân trên cờ máu của chúng. Vì đồng tiền, vì muốn nịnh bợ khối tư bản mà Hà Nội đã quỳ xuống dùng cờ làm thảm đón tiếp quân thù !. Các bạn trẻ Việt Nam nghĩ gì ? Dân chúng Việt Nam nghĩ gì ? Chỉ vì một chút danh lợi mà tập đoàn lãnh đạo phải hạ nhục cờ của mình xem như một hình thức tạ tội với kẻ thù !

Cờ nước chúng em đã trải sẵn, xin mời Ngài cứ tự nhiên 'đạp lên' !!!

Những việc nầy cho thấy tập đoàn Cộng sản Hà Nội không bỏ qua một hành động nào, từ những việc làm bất nhân thiếu đạo nghĩa đến ngữa tay ăn mày xin xỏ ân huệ với bất cứ bạn hay thù. Điều nầy đủ chứng minh rằng, đảng Cộng sản Hà Nội đã dâng cho quan thầy Trung Cộng từ đất liền cho đến hải phận của Việt Nam để van xin đặc ân ‘bình an ngai vàng’ của chúng.

13.03.2008

Trích trong 'Một Đời Xót Xa', ISBN 978-1-60643-652-3, Do Nam Việt và Tự Lực xuất bản và phát hành tại Mỹ tháng 6 năm 2008

Đinh Lâm Thanh

Bịnh Mù Loà - Nguyễn Châu

Nguyễn Châu

Trước 30 tháng Tư 1975, tại miền Nam và tại Mỹ, Pháp v. v... đã có khá nhiều người bị mù lòa mà thuốc men và kỹ thuật chữa trị của Thế Giới Tự Do không chữa nổi.

* Chứng mù của một bộ phận trí thức miền Nam Việt Nam, của nhóm phản chiến Hoa Kỳ, của một vài tài tử, ca sĩ, của một số triết gia Pháp, Đức, của một số tu sĩ đầy vọng tâm, kể cả những tên năm vùng ...

* Bệnh mù của họ kéo dài gần ba thập niên, tưởng đã trở nên kinh niên bất trị, nhưng không ngờ Cộng sản Việt Nam sau khi xâm chiếm Nam Việt Nam khoảng hai năm, đã phát minh được phương thuốc chữa bệnh mù cho hơn 20 triệu người miền Nam, cho hầu hết những người chủ trương phản chiến hăng say nhất như Joan Baez, Jane Fonda ...

* Bệnh mù của Kissinger và một số nhà ngoại giao Tây phương cũng được chữa lành. Họ được sáng mắt khi Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách man rợ đối với “đồng bào ruột thịt miền Nam” như lùa hết Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù được mở ra dọc theo núi rừng từ Nam ra Bắc, cưỡng bách dân miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới, thực chất là một cuộc đày ải để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải của họ tại các thành phố ...

Hàng triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi, cả triệu người bỏ mạng trên biển Đông, trong rừng sâu, tại các vùng kinh tế mới “Khổ Thấy Mẹ” và trong các nhà tù mang mỹ danh “Cải Tạo”.

Chính sách tàn bạo và thâm độc của Cộng sản nói chung và Cộng sản Việt Nam nói riêng là một thần dược chữa chứng mù lòa cho những kẻ bị huyền thoại Giải Phóng mê hoặc, cho những người mù lòa do tham vọng cá nhân, chức quyền bốc hỏa làm mờ lương tri. Đa số những người mù lòa trước năm 1975 đã được sáng mắt để nhìn rõ thực chất của Cộng sản, thấy rõ “tính ưu việt” của tập đoàn “sinh ra trong đói nghèo, lớn lên bằng chiến tranh, giết hại, nuôi sống bằng sự dối trá và đang hấp hối bởi sự bất tài, bất lực và tham nhũng”...

Tự nhận là đỉnh cao trí tuệ, sau 29 năm thống nhất lãnh thổ, xây dựng đất nước trong hòa bình, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thực hiện được CÔNG VIỆC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO cho nhân dân, mặc dù tài nguyên đất nước vô cùng phong phú: rừng vàng, biển “đô la” từ dầu mỏ và hải sản, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới cấp cho chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo 54 triệu Mỹ Kim, và tiền Việt Nam Hải Ngoại “chi viện không hoàn trả” cho thân nhân mỗi năm hơn 3 tỷ Đô-la Mỹ.
Tiền ấy đi về đâu, mà đại đa số nhân dân vẫn đói nghèo đến độ mẹ phải bán con nhỏ, con lớn 9-10 tuổi qua Cam-Bốt làm điếm, nhà Nước thì bán hàng chục ngàn phụ nữ qua làm vợ người Đài Loan, xuất khẩu nhân công, xuất khẩu con nuôi quốc tế? Trước tình cảnh này, nhiều cán bộ cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số trí thức Cộng sản cũng đã sáng mắt nhìn thấy rõ bản chất ác quỷ của Đảng ta, đã liều thân lên tiếng và đã bị Đảng tru diệt không nương tay...

Thế mà tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn một số người Việt mang danh tỵ nạn chưa được sáng mắt, vẫn mắc chứng mù lòa mà nguyên nhân chính là do lòng tham tiền bạc, hoặc mơ ước chút danh vị nào đó từ phía Cộng sản.

* Trong số người mắc chứng mù lòa này, ngoài một số cựu tù nhân chính trị đi trong thành phần “HO” không có ý thức quốc gia, không lý tưởng, vừa mới qua Mỹ được vài tháng, đã vội quay trở lại Việt Nam làm việc cho kẻ đã muốn giết mình (Chu Tất Tiến – Sau 25 Năm Nhìn Lại Việt Nam..., trang 77), còn có một số luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, chủ báo, nhà văn, nhà thơ, thương nhân... Số người này tìm cách len lỏi vào cộng đồng tỵ nạn để tuyên truyền cho chế độ Cộng sản bằng cách này hay cách khác, thầm lén hoặc lộ liễu.

Họ lập ra những tổ chức “nhân đạo” với mục đích bòn rút tiền của Việt Nam Hải Ngoại đem về trong nước nói là “Nuôi trẻ mồ côi”, “giúp người tàn tật”, tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ cứu trợ “thương phế binh” không phân biệt Bắc Nam, “xây trường học, sắm bàn ghế cho học sinh”, “mua thuốc và đưa các đoàn y tế về chữa bệnh, chủng ngừa, chữa bệnh mù tại Việt Nam...
Người mù tại Việt Nam được sáng, nhưng số người hải ngoại tham danh hám lợi này lại không sáng mắt, cho nên họ đã hành động như chính phủ Cộng sản Việt Nam là một con số không to tướng, vì tất cả mọi vấn đề từ ấm no, học hành, y tế, trẻ mồ côi người tàn tật tại quốc nội đều do ngân sách của Việt Nam Hải Ngoại chi ra hết.
Các viên chức Đảng và Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khỏi phải bận tâm gì đến đời sống nhân dân, để chăm lo bòn rút công quỹ cho đầy túi riêng, đưa Việt Nam đạt vị trí thứ ba trong nấc thang tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á.

Người mù đeo kính "Hoà Hợp Hoà Giải

Số người hải ngoại tối mắt vì đeo kính hiệu “Hòa Hợp Hòa Giải”. HHHG là chiêu bài của cái gọi là Chính phủ Cách Mạng lâm thời sau 30-4-1975 có mục đích dụ dỗ quân dân cán chính miền Nam đi trình diện để nộp mình vào ở tù một cách thoải mái, Cộng sản khỏi đi lùng bắt, tránh sự rối loạn nguy hiểm.

Bằng chứng là sau khi đưa hết vào trại tù, thì chính phủ Cộng sản không còn nhắc lại nữa, chỉ còn một số người mù tại hải ngoại, đứng đầu là Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, hô hào HHHG mà thôi. Tháng 7 năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa và cảnh giác trước âm mưu “Diễn Tiến Hòa Bình”, vẫn bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, kể cả bỏ tù và triệt hạ các Đảng viên Cộng sản phản tỉnh, phê bình sai trái của Đảng trong việc trị quốc.
Người mù: cựu thành viên MTGPMN

Hầu hết các thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng bị uy hiếp phải tìm cách trốn thoát ra ngoại quốc. Các tay cầm cờ ba màu ra đón quân Giải Phóng vào Sài Gòn như Đoàn Văn Toại, chẳng bao lâu sau đó bị Cộng sản bắt giam và đánh đập tàn nhẫn... Sau khi được thả ra, Toại vượt thoát được sang Pháp, “bệnh mù” khỏi được một thời gian. Sáng mắt, Toại tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trong cuốn “Le Goulag Vietnamien” (Nxb Laffont, Paris 1979).

Trong nhà tù Đoàn Văn Toại đã gặp một cựu chiến binh Cộng sản, 82 tuổi, cũng bị giam, mặc dầu cuối thập niên 1920, ông ta là một trong những lãnh tụ và sáng lập viên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Pháp một thời gian, không hiểu sao, Đoàn Văn Toại bị mù trở lại, “bệnh mù tái phát” làm cho Toại có luận điệu nịnh bợ Cộng sản và đã bị trừng trị đích đáng.

Từ thập niên 70 đến 80, Đảng và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc, bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thượng Nhân đã phát biểu là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!

Người mù : Việt Kiều yêu nước

Thế nhưng đến thập niên 1990, thì Đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam đã gọi họ là “Việt Kiều Yêu Nước” và một cách âu yếm hơn là “Khúc ruột ngàn dặm”. Lập tức, trong những năm đầu của thập niên 90, ở Pháp, và Nam California-Hoa Kỳ, bỗng nẩy sinh một khuynh hướng mong muốn Hòa Hợp Hòa Giải với chính quyền Cộng sản Việt Nam.

“Bằng những bài báo dùng ngụ ngôn bóng bẩy kêu gọi kết hợp trong nước và ngoài nước, bằng những tập san xuất bản đều đặn với những bài xã luận nói về hợp sông, hợp suối, hợp lưu, bằng cách cho đăng những bài viết của những người Cộng sản đích thực như Trần Bạch Đằng, một nhà lý luận Cộng sản chuyên nghiệp, hay của những người có nợ máu với dân chúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải này mong muốn có quan hệ tốt với Cộng sản, quên thù hận xưa, để cùng tiếp tay xây dựng đất nước. Một vài nhân vật nổi tiếng trong giới Y khoa và báo chí cũng tuyên bố kêu gọi về nước làm chính trị và xã hội.” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-90).

Những tổ chức tranh đấu trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại gọi nhóm này là “cơ hội chủ nghĩa” hoặc “tay sai Cộng sản Việt Nam”, thậm chí còn buộc tội họ là “Việt gian”. Vì trên lý thuyết, nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thực tâm muốn cho đất nước thoát nghèo nàn và lạc hậu, thực tâm quên hận cũ, thù xưa, chào đón người Việt hải ngoại về cùng chung tay phục hưng đất nước, thì đó là một phước lớn của dân tộc Việt.

Nếu được như thế, thì sẽ không còn phân biệt LÝ LỊCH quốc gia hay cộng sản, không còn tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm bị giam giữ, tra tấn, ngược đãi trong các nhà tù; nhà cửa của người vượt biển được chính quyền Cộng sản trả lại nguyên vẹn, vô điều kiện, người bất đồng chính kiến không bị theo dõi, bắt giam hoặc hãm hại một cách bí mật ...

Nhưng trên thực tế, người Cộng sản chỉ mong hải ngoại mang tiền về, mà không mang theo chính trị. Cộng sản Việt Nam chỉ dùng những người đem lại lợi ích tiền của về trong nước và tuyên truyền chính trị cho họ ở hải ngoại mà thôi. Những kẻ mơ mộng, thơ ngây hoặc những tay ham mê chút lợi danh, vội vã trở về hợp tác với Cộng sản, chỉ sau một thời gian ngắn, đều phải “trở lại hải ngoại sống âm thầm, xa lánh bạn hữu và cộng đồng”. Kinh nghiệm cho thấy khi một người thân Cộng ở hải ngoại, đã lộ mặt, bị cộng đồng lên án, tẩy chay, khi họ không còn chút uy tín nào nữa, thì người Cộng sản lập tức bỏ rơi. (Nhiều trường hợp cụ thể, về nạn nhân của hòa hợp, giao lưu, thiện nguyện, cứu trợ vân vân... được nêu rõ trong tác phẩm của Chu Tất Tiến, từ trang 92 đến 95).

Chủ trương “hòa hợp hòa giải” với Cộng sản Việt Nam của kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng qua nhóm Thông Luận, nhóm Hợp Lưu Giao Điểm... đã bị hầu hết Cộng Đồng Người Việt khắp nơi xem là ngây thơ và mù quáng, vì trên thực tế Cộng sản Việt Nam không bao giờ chấp nhận đa nguyên, họ bảo vệ Đảng bằng bất cứ giá nào.

Ngay cả với người đã nằm xuống, Cộng sản Việt Nam vẫn nuôi mối hận thù và đã ngược đãi họ. Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa đã bị phá, bức tượng “Tiếc Thương”, một tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, dựng trước cổng nghĩa trang, đã bị Cộng sản Việt Nam tiêu hủy đi.

Một số người Việt hải ngoại gọi là Việt Kiều Yêu Nước tình nguyện về quê hương giúp đỡ người dân tật nguyền, đau ốm, nghèo khổ... sau nhiều lần đi về tự do thoải mái, họ đã bị nghi ngờ là nằm trong kế hoạch mà Cộng sản Việt Nam gọi là “diễn tiến hòa bình” của đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.

Cuối cùng, họ gặp khá nhiều phiền hà, như bị rút giấy phép, bị gọi đến trình diện, đến “làm việc” với công an, với Thành ủy, nhận chỉ thị về các hạn chế sinh hoạt của họ vân vân. Kết quả: họ phải tìm cách “bỏ của chạy lấy người”. Những công tác thiện nguyện do người Việt hải ngoại hoặc người ngoại quốc thực hiện ở Việt Nam, nếu chỉ trong giai đoạn ngắn, thì ít gặp trở ngại, nhưng nếu có kế hoạch lâu dài mà Cộng sản chưa gài được người vào tổ chức, thì nhất định sẽ gặp khó khăn và nguy hiểm. Giáo sư Chu Tất Tiến trong “Sau 25 năm nhìn lại Việt Nam ...” trưng dẫn trường hợp “ông Giám đốc Hãng Citroen Pháp Quốc, khi sang Việt Nam tìm thị trường, lang thang đi mua những cái “name tag” (tấm thể bài) của lính Mỹ cũ bán đầy ngoài đường, đã bị bắt giữ, vì nghi ngờ là gián điệp đi tìm tù binh! Ông đã chán nản bỏ sang Thái Lan và chỉ bay qua Sài Gòn để làm việc trong ít ngày rồi biệt luôn” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-92).

Những tên mù trong hẻm Hợp Lưu Giao Điểm ở California, khi về Việt Nam, những tưởng được biểu dương, ưu ái, nào ngờ bị xem như chó ghẻ. Lý do đơn giản: Cộng sản nghi ngờ bọn này là cò mồi của kế hoạch “Diễn Tiến Hòa Bình” mà chúng đang hết sức cảnh giác đề phòng. Vì mù lòa cho nên nhóm này không thấy được rằng Cộng sản Việt Nam không tin ai cả, ngay cả đồng chí với nhau ở Trung Ương cũng chơi nhau sát ván và tìm cách hãm hại lẫn nhau, thì biết tin ai?

Người mù: anh hùng Điện Biên và cố vấn Cu Hồ

Đại Tướng VG Cộng sản Võ Nguyên Giáp nổi danh với trận Điện Biên Phủ, có số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng toàn quân tháng 9-1986, từng bị các đồng chí ganh tị, phanh phui lý lịch, để tìm cách hạ bệ. Võ Nguyên Giáp bị nghi là tay sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng ...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban Ngày” tr.350).

Võ Nguyên Giáp, bí danh là “Văn” bị kết tội âm mưu lập “bè phái chống đảng”, rồi bị thất sủng ... đã âm thầm chịu đựng hàng chục năm, nay 93 tuổi, kề miệng lỗ, mới dám liều mạng viết Cáo trạng kêu oan, đòi “công đạo” “ (Thư của Võ Nguyên Giáp ngày 3/1/2004).

Những người mù “bẩm sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam” như ông bà Vũ Đình Huỳnh, thân sinh của Vũ Thư Hiên, đến năm 1967, mới được Đảng giải phẫu và sáng mắt ra để nhìn thấy nguyên hình của Cộng sản Việt Nam: “... chúng nó đến, con tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa cho bằng được”.

Đây là lời kể của bà Vũ Đình Huỳnh về cảnh công an đến nhà bắt ông Vũ Đình Huỳnh, người đã nuôi dưỡng, cận kề chăm sóc cho Hồ Chí Minh. Vũ Thư Hiên viết: “Trong lòng bà, ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt...” (ĐGBN, tr. 28). Bệnh mù của gia đình Vũ Thư Hiên được chữa khỏi sau 9 năm bị Cộng sản tù đày, cả nhà bị khổ đau, tan tác. Vũ Thư Hiên đã thấy và đã nói lên cho những người khác:

“Nhờ đảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn rõ sự vật đến thế. tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bên ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.

“Cũng nhờ đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm gian khổ, bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ tìm hiểu ngọn nguồn?" ... (ĐGBN, tr. 456)

Người mù: Khoa bảng sản phụ, mổ tim, mổ mắt

Một thí dụ cụ thể về “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải”: đó là trường hợp một bác sĩ có tiếng ở Nam California đã có công đón tiếp một phái đoàn cộng sản qua Hoa Kỳ tính toán làm ăn. Ông ta cũng cả gan thách thức cộng đồng Người Việt bằng những lời cổ động cho việc hòa hợp hòa giải, rồi thách cộng đồng: “nếu có 500 người biểu tình chống lại việc ông về Việt Nam hợp tác, thì ông sẽ bỏ ý định về.” Lập tức Cộng Đồng Người Việt phản ứng bằng cách tập hợp hơn một ngàn người trước cửa phòng mạch của ông cựu sĩ quan quân y “ngụy” này và lên án ông quyết liệt.
Tuy nhiên, ông bác sĩ “mù lòa” này đã nuốt lời, tiếp tục việc về nước, đinh ninh rằng mình đã lập được công chống cộng ... đồng hải ngoại, sẽ được Đảng đón tiếp long trọng, sẽ mời ông vào phòng họp với cơ quan Nhà Nước cấp cao. Có ngờ đâu, khi ông bác sĩ “mù” này về đến phi trường, chỉ gặp được vài nhân viên cấp thấp đến chào hỏi mà thôi, không có một sự gọi là đón tiếp nào. Tại Việt Nam, ông bác sĩ “mù” này phải mò mẫm tự mình đi xin xỏ, xin giấy phép... khi muốn gặp một cơ quan nào cần giao dịch. Tại sao “Nhà Nước ta” lại nhạt nhẽo với các “Việt kiều yêu nước này”?
Điều này người sáng mắt thấy được ngay. Đó là vì tên tuổi của ông bác sĩ này đã bị Cộng Đồng Người Việt xóa đi, còn giá trị nào nữa để Đảng ta lợi dụng cho việc tuyên vận chiêu dụ hòa hợp hòa giải. Ông bác sĩ này đã bị hải ngoại tẩy chay, thì trong nước dùng làm cái gì? Ngoài ra, có thể Cộng sản Việt Nam còn suy luận rằng: nó là sĩ quan “Ngụy”, làm bác sĩ, được Cộng Đồng Người Việt nuôi và giúp cho thành giầu có, thế mà khi mê đắm công danh, nó còn phản lại Cộng Đồng, thì Đảng làm sao tin được một tên đã công khai phản chủ nó là Cộng Đồng Hải Ngoại.

Cho đến nay, Cộng Đồng Hải Ngoại đã có ít nhất là ba bác sĩ mắc bệnh lòa. Ông thì lòa vì lợi lộc, tiền bạc, ông thì lòa vì lời tâng bốc và hư danh. Ông Họ Bùi ở Cựu Kim Sơn, từng theo Hương Dương Thu về Hà Nội yết kiến, lần thứ hai bị Cộng sản bắt giam nửa năm vì tội giao lưu; ông họ Phạm Phụ Khoa, quận Cam thì chẳng còn ai đếm xỉa; còn ông Nguyễn Lão Khoa xứ Cao Bồi bị thong manh, làm bồi bút, đi yết kiến Nguyễn Đình Bin, về Việt Nam hứa hẹn nhiều giúp đỡ. Có lẽ vì lo sợ “không biết bỏ nắm xương tàn nơi đâu” trên đất Hoa Kỳ, nên sau khi đi yết kiến thượng cấp tại Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Lão Khoa về Hoa Kỳ, lại tìm cách lân la với Cộng Đồng Hải Ngoại, không hiểu ông đã khỏi bệnh chưa?

Nguyễn Châu