Wednesday, January 13, 2010

CÓ NHỮNG ANH HÙNG BÂY GIỜ MỚI BIẾT - Đại Tá W.S. Reeder

Đại Tá W.S. Reeder

Nguyễn Hữu Thiện (phỏng dịch và đặt tựa)

Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).

Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!

Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT

* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.

Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt tấn công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây. [1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]

Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.

Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.

Hôm đó là ngày29 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung với tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!

Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.

Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.

Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.

Sau khi cất cánh khỏi phi trường Kontum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.

Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.

Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngày trước khi bị bắt.

Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá. Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai cái hamburger còn sống.

Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì cũng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.

Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bị gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!

Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.

"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài cái hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không có bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.

Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề". Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hề được cạo râu.

Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.

Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.

Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!

Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.

Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.

Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.

Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.

Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lại còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất cả sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lắm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.

Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.

Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!

Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậy, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.

Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bước đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng vào người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!

Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm công việc áp giải.

Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến..

Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.

Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh thứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.

Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong một ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.

Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, trở ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.

Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.

Đại Tá W.S. Reeder


“DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” VÀ “TỰ DIỄN BIẾN” - Lê Nguyên Hồng

    “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” VÀ “TỰ DIỄN BIẾN” – MỘT QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ LẠC HẬU, PHẢN KHOA HỌC, ĐẨY LÙI SỰ PHÁT TRIỂN
Lê Nguyên Hồng

Có nhiều người cho rằng, thuật ngữ “diễn biến hòa bình” được sử dụng tại Trung Quốc và sau đó mới du nhập vào Việt Nam. Nhưng chắc chắn là nó chỉ được “phát minh” sau khi Liên Xô và hàng loạt các quốc gia XHCN ở Đông Âu thoát khỏi chế độ cầm quyền của chủ nghĩa CS.

Ở Việt Nam hiện nay, trong một số văn kiện của ĐCS và trên các loại hình thông tin của họ, hàng ngày người ta rất hay nói tới vấn đề “diễn biến hòa bình”. Các “nhà ĐCS” coi vấn đề nói trên là một nguy cơ sụp đổ của chế độ CS tại Việt Nam, mà mầm mống nuôi dưỡng làm cho nguy cơ này thành hiện thực đó là: Nhà nước pháp quyền biến tướng, tham nhũng lộng hành, nhân dân không còn lòng tin vào chế độ CS nữa.

Thông thường một thuật ngữ dùng để đặt tên hoặc áp dụng cho một vấn đề nào đó, người ta thường chọn những ngôn từ ngắn gọn, xúc tích, sao cho nó hàm chứa được bản chất vấn đề, nội dung, cũng như ý nghĩa của vấn đề ấy. Nhưng các cụm từ “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến” khi đọc lên người ta có cảm giác rất mơ hồ, khó hiểu! Vậy diễn biến hòa bình là gì, tại sao ĐCSVN lại sợ hãi và lo lắng về điều này một cách quá mức như vậy?

Trước hết chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là “diễn biến”?

Diễn biến là quá trình thay đổi về bản chất hoặc hiện tượng, trong một hiện tượng hay một sự việc cụ thể nào đó. Trình tự của diễn biến đôi khi do người ta sắp đặt, lập trình trước, nhưng cũng có nhiều trường hợp mà người ta không thể xác định được sự tuần tự trong tiến trình của nó. Trong đời sống tự nhiên, đời sống xã hội, trong nghiên cứu khoa học, và đời sống văn hóa vv.., luôn có sự diễn biến theo một quy luật xác định hoặc bất xác định nào đó.

Trong xã hội, diễn biến là một sự “vận động sống” cho phát triển. Người ta thường tìm cách làm chủ những diễn biến, lái chúng theo hướng có ích, nhưng đôi khi chúng lại vượt quá khả năng kiểm soát của con người. Bởi trong diễn biến, vì sự tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể, cho nên những tình huống mới, những sản phẩm (tinh thần, vật chất) trung gian mới, luôn xuất hiện. Chính điều này đã làm cho sự diễn biến thêm đa dạng, phong phú, hàm chứa nhiều sự bất ngờ thú vị…

Một vế thứ hai của cụm từ “diễn biến hòa bình”, đó là “hòa bình”

Thế nào là hòa bình? Câu này thật dễ, quá dễ! Nhiều người sẽ nói ngay lập tức như vậy. Nhưng thực ra hai từ “hòa bình” cũng chỉ mang tính chất tương đối. Người ta thường chỉ nghĩ rằng hòa bình là không có chiến tranh, không có cảnh đầu rơi máu chảy. Điều đó đúng nhưng chưa đủ! Trong một phạm vi nào đó thì sự hòa bình đồng nghĩa với sự bình yên, hòa thuận, đồng lòng trong đời sống cá nhân và xã hội. Nếu ai đã từng đọc tác phẩm văn học đồ sộ với khoảng trên 500 nhân vật, có tên gọi “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của L. Tolstoy – Đại văn hào người Nga, thì sẽ nghiệm thấy điều này.

Hòa bình, dù ở bất kỳ góc độ nào đi chăng nữa, cũng là điều mà ai cũng muốn có, vùng trời nào cũng muốn có, quốc gia nào cũng muốn có. Vậy tại sao lại có những người sợ hòa bình? Cụ thể hơn là sợ những “diễn biến trong hòa bình”?

Chúng ta đã biết rằng, chủ nghĩa CS chủ trương dùng bạo lực giết chóc để làm động lực cho cách mạng vô sản trên toàn thế giới. Chuyện CNCS có những lúc đã áp đảo, khuynh loát nhiều nơi trên thế giới là chuyện bình thường trên con đường diễn tiến (và diễn biến), vận động của xã hội loài người. Và chuyện CNCS sụp đổ cũng là một quy luật đào thải bình thường, khi một cái gì đó không còn ý nghĩa thực tế và nó chẳng thể mang lại điều gì tốt đẹp thì người ta phải loại bỏ nó. Giống như trường hợp người ta mua chiếc xe đạp, sau một thời gian dùng nó người dùng thấy nó vừa cọc cạch, vừa chậm chạp, tốn sức, thì người ta phải vứt chiếc xe đạp đó ra thùng rác để mua một chiếc xe hơi (nếu có điều kiện và thời cơ), vừa sạch sẽ, chạy nhanh, lại an toàn văn minh lịch sự.

Chủ nghĩa CS dám cả gan nhuộm đỏ thế giới bằng máu và nước mắt, Miền Bắc Việt Nam (1954-1975) dám “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” (Hồ Chí Minh), dám “giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ…” (Tố Hữu), để chỉ với mục đích cuối cùng là thiết lập chế độ CS trên toàn cõi Việt Nam, dù hàng hơn 3 triệu con người đã phải bỏ mạng. Nhìn lại lịch sử, liệu chế độ CS có đủ đạo đức xứng đáng lãnh đạo đất nước khi họ đã giành lấy chính quyền từ tay đồng bào Miền Nam của mình bằng vũ lực?

Vậy nếu ngay bây giờ, những con người Việt Nam làm Cách Mạng Dân Chủ cũng cả gan như chủ nghĩa CS, nhưng lại giành lấy đất nước Việt Nam từ tay của chế độ CS bằng những diễn biến trong hòa bình không đổ máu, thì họ có đáng được hoan nghênh hay không? Liệu có phải chỉ người CS mới có quyền đấu tranh, có quyền làm cách mạng, còn những người có tư tưởng phi CS thì không có quyền ấy, mặc dù họ chỉ làm cách mạng trong hòa bình?

Nếu được phép coi nhân dân Việt Nam như là cô gái đẹp, một người này muốn giành lấy bằng cách khống chế, dùng bạo lực, một người khác thì chọn con đường thuyết phục, tặng quà, thể hiện và hứa hẹn cam kết những điều tốt đẹp. Vậy trong hai người nói trên, ai là người có chính nghĩa, ai là kẻ đáng bị lên án? Và nếu trong trường hợp cô gái nọ bị rơi vào tay kẻ xấu thì tình yêu của cô ta có thực sự dành cho kẻ đã chinh phục cô bằng bạo lực hay không?

Chế độ CS ở Việt Nam hiện nay có tâm lý giống như tâm lý của một tên kẻ cướp, sau khi cướp được món đồ quý, nay bị người ta phát hiện đòi lại, thì la toáng lên là “tôi bị oan”, “tôi sắp bị cướp” hòng đánh lạc hướng của người quan tâm. Nhưng thay vì dùng bạo lực để cướp lại món đồ, người ta đang cầu cứu mọi người ủng hộ và thuyết phục bản thân tên kẻ cướp hãy trả lại tài sản ăn cướp trước khi quá muộn. Và người ta đang dẫn chứng ra đầy đủ bằng chứng rằng tên kẻ cướp này đúng là kẻ cướp, nhưng hắn vẫn khăng khăng cố thủ, cho rằng mình đúng, mình không phải là quân cướp!!!

Không những ĐCSVN lo ngại về “diễn biến hòa bình”, họ còn tưởng tượng ra một bối cảnh “tự diễn biến” trong nội bộ của họ. Vậy thì “tự diễn biến” là cái gì? Giáo sư triết học Nguyễn Đức Bình, một trong những nhà lý luận chính trị nổi cộm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, VIII, nguyên Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa về “tự diễn biến” như sau:

“Tự diễn biến là nói nhận thức tư tưởng từ mặt đúng, mặt tốt, mặt vững vàng, trung kiên chuyển hóa thành mặt xấu; dù chưa phải nhưng nếu không phòng, có thể dần trở thành chống đối và bị kẻ thù lợi dụng”.

Đành rằng ông Nguyễn Đức Bình định nghĩa vấn đề tự diễn biến này là ám chỉ diễn biến trong phạm vi đảng của ông. Nhưng một người đã có nhiều năm “mài đũng quần” trên ghế nhà trường, và sau đó lại “mài” tiếp trên ghế quyền lực, chẳng lẽ ông vẫn không hiểu rằng diễn biến sẽ theo hai hướng, tốt và xấu. Ấy là chưa kể đến cách nhìn nhận của mỗi người mỗi khác về diễn biến của một sự việc, một vấn đề, đôi khi người này cho là tốt còn người khác lại cho là xấu. Quan điểm của ông Bình “tự diễn biến” nghĩa là “tự xấu”, vậy nếu nó “tự tốt” (điều này hoàn toàn có thể xảy ra) thì ông ta sẽ giải thích như thế nào?

“Vật chất không ngừng biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức này sang hình thức khác”, mà ý thức và sau đó là hành vi của con người hoàn toàn chịu sự chi phối mang tính quyết định của những vận động biến đổi vật chất. Vậy thì ông Nguyễn Đức Bình không bao giờ có thể giữ được sự bất biến của ý nghĩ, của nhận thức, vì vấn đề tự diễn biến thực ra là một quy luật muôn đời trong quá trình phát triển.

Không chỉ có ông Nguyễn Đức Bình, mà còn một vài những “cây” lý luận của chế độ CSVN như trung tướng - PGS.TS Lê Minh Vụ - Giám đốc Học viện Chính trị quân sự, thiếu tướng - TS Nguyễn Tiến Quốc, TS Nguyễn Văn Thế, và một vài vị phó giáo sư tiến sĩ khác như Nguyễn Vĩnh Thắng, Nguyễn Quang Phát, trong cuốn: “Phòng Chống Những Diễn Biến Hòa Bình Ở Việt Nam- Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn” (xuất bản tháng 08/2009), đã nêu ra “địa chỉ” mà chế độ CSVN cần chống “tự diễn biến” đó là 4 lĩnh vực chủ yếu: Chính trị- Xã hội, kinh tế - Đối ngoại, tư tưởng - Văn hóa, quốc phòng- An ninh.

Một người chỉ cần có trình độ nhận thức trung bình cũng có thể hiểu rằng: Muốn ổn định 4 lĩnh vực nêu trên thì chỉ cần trong sạch hóa, minh bạch hóa, dân chủ hóa, toàn dân hóa những lĩnh vực đó là xong.

Nhưng làm sao chế độ CS tại Việt Nam thực hiện được điều trên, khi về chính trị thì Đảng độc quyền, xã hội thì đạo đức xuống cấp do “thượng”- Là cán bộ ĐCS, bất chính? Về kinh tế thì manh mún lạc hậu, thiếu định hình chuẩn mực vĩ mô, nhà nước thả nổi cho hàng hóa độc hại rẻ tiền buôn lậu từ Trung Quốc tràn ngập thị trường. Mà những tay trùm buôn lậu chẳng phải ai xa lạ, hầu hết đều là vợ (hoặc chồng) con, hoặc tay chân thân cận của cán bộ các cấp thâu tóm!

Về đối ngoại thì chế độ CS của Việt Nam hạ mình quỳ gối trước ĐCS Trung Quốc, nhưng lại coi thường tiếng nói của nhiều nước dân chủ trên thế giới. Về tư tưởng, chế độ CS nhồi sọ cán bộ bằng mớ lý luận quanh co, sáo rỗng của chủ nghĩa CS biến tướng. Chắc hẳn những người như ông Nguyễn Đức Bình cố tình không hiểu rằng, những “triết lý” mà ông thường nói theo sách như một con Vẹt, đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay nữa, nó đã trở thành “chết lý” từ lâu.

Về quốc phòng – An ninh, chế độ CSVN không tăng cường bảo vệ an ninh biên giới, bảo vệ chủ quyền của quốc gia, để mặc cho ngư dân Việt Nam hứng chịu sự cướp bóc, bắn giết của hải quân Trung Quốc. Thực tế hiển hiện rõ ràng là an ninh, quân đội chỉ chăm chú bảo vệ chế độ do ĐCS cầm quyền mà bỏ quên nhiệm vụ chính yếu là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Vậy thì ĐCSVN lấy gì để chống “tự diễn biến”, và chống như thế nào?

Chủ Nghĩa Cộng Sản là “ánh sáng soi đường”, là “mặt trời chân lý” vv… Đó là định nghĩa về CNCS được một vài người CS hình tượng hóa theo cách phóng đại, ngoa dụ! Nhưng nếu quả thật là CNCS thực sự tốt đẹp, nhân văn, vì vậy nó có thừa sức mạnh của chính nghĩa, thì nó đâu có sợ gì ai bôi xấu? Không những thế, nó còn có đủ sức cảm hóa các tư tưởng đối lập khác, và có thừa cơ hội làm cuộc “diễn biến hòa bình” ngược, đối với “các thế lực thù địch” và làm cho các thế lực đó “tự diễn biến”, “tự rối loạn”, thậm chí “tự tan rã” là điều chắc chắn!

“Chính nghĩa tự có tính thuyết phục, nhân nghĩa tự có tính cảm hóa”, đó là chân lý! Tại sao ĐCSVN luôn tự cho rằng họ có chính nghĩa, có nhân nghĩa, mà lại nơm nớp lo sợ bị cái xấu (?) làm cuộc cách mạng “diễn biến”, “cải biến” gì gì đó, để rồi bản thân cái gọi là “ánh sáng soi đường” và “mặt trời chân lý” của CS nói trên, trở nên tự xấu, “tự diễn biến” thì thật không thể nào hiểu nổi!

Có thể kết luận khẳng định rằng, vấn đề “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến” là những quan niệm chính trị mơ hồ mà người ta cố tình nặn ra để coi đó là lý do phải cố bảo toàn cho được chế độ CS độc tài của họ. Trên thực tế, những diễn biến, nếu có, chỉ đơn thuần là những quy luật tất yếu. Mà xét cho cùng, có những thay đổi nào đó trong nhận thức của mỗi đảng viên ĐCSVN, thì tất cả chỉ là tự họ (chính xác hơn là tại họ, do họ). Đó đơn giản chỉ là câu chuyện hết “sinh khí” trong nội tình của ĐCSVN mà thôi.

Vấn đề hội nhập với quốc tế là một vấn đề mang tính sống còn cho sự phát triển mọi mặt của một đất nước, nhất là về kinh tế. Điều đó quan trọng đối với cả những nước giàu như Hoa Kỳ, Nhật, Italia, Anh, Pháp, chứ chưa nói gì đến những nước nghèo như Việt Nam, Lào, Campuchia. Người ta muốn gia nhập WTO để tìm kiếm lợi ích kinh tế thương mại, nhưng lại không chấp nhận hòa đồng về văn hóa, chính trị xã hội, về quan điểm quyền sống, quyền tự do của con người. Tại sao lại có chuyện phân biệt rằng: “Ở nước chúng tôi, nền văn hóa khác, mức sống chưa cao, cho nên vấn đề dân chủ cũng phải hiểu khác, thực hiện dân chủ phải có lộ trình”, những ai tuyên bố như vậy có thể công khai cái gọi là “lộ trình” ấy hay không? ĐCSVN đã dựa vào những lý lẽ rất vô lý ấy để “chống diễn biến”, “chống tự diễn biến”, thẳng tay đàn áp những tư tưởng cấp tiến trong nước lên tiếng đấu tranh giành dân chủ. Quan điểm phân biệt trên chẳng khác nào họ tự phân biệt chủng tộc của mình với các chủng tộc khác trên thế giới!

Một quốc gia chấp nhận hội nhập là một quốc gia phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa, đường lối phát triển kinh tế, phát triển chính trị xã hội của những nước khác. Họ không thể chỉ hội nhập về phát triển kinh tế, tài chính, còn chính trị xã hội thì ngăn chặn sự ảnh hưởng tương tác, vì tất cả các mặt của cuộc sống là không thể tách rời trong quá trình phát triển. Và cũng bởi tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội đều có những quan hệ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhau. Trong thời đại tiên tiến ngày nay, do trình độ dân trí ngày càng phát triển, sẽ không bao giờ có chuyện một tư tưởng chính trị nào đó có thể du nhập vào một nước theo cách “diễn biến hòa bình”, và nó chẳng thể làm cho ai đó “tự diễn biến” nếu nó không thực sự có sức mạnh thuyết phục!

Thử lấy một ví dụ: Một người kia đang ở trong ngôi nhà rách nát của mình, một người khác nói rằng, anh ta nên dỡ bỏ cái gọi là nhà ấy đi, nếu anh ta làm theo, thì có hai trường hợp xảy ra: Một là, anh ta là kẻ mất trí, nếu ngôi nhà của anh ta đang ở vừa tốt, vừa đẹp! Hai là, nhờ lời khuyến cáo, anh ta đã nhận ra nơi ở của mình thực ra nó không phải là một ngôi nhà, nó chỉ là một cái gì đó tựa như hang, ổ. Vậy nếu anh ta quyết định dỡ bỏ nó, dựng nên ngôi nhà mới, là quyền của anh ta, do anh ta. Tại sao lại đổ tội cho người đã “xúi” anh ta dỡ bỏ nhà cũ làm nhà mới. Anh chủ nhà ấy nếu không làm theo lời người khác thì có ai chém giết anh đâu, mọi việc đang diễn ra trong hòa bình cơ mà!

Như vậy chẳng có một thế lực nào đang đe dọa chế độ CSVN “bằng con đường hòa bình” như họ nói. Vấn đề là ở chỗ ĐCSVN đã tự xấu, đang tự xấu thêm và họ không bao giờ có thể tự tốt. Bản thân nhiều việc làm xấu của họ đang trực tiếp đe dọa vị thế của chính họ, đơn giản là như vậy!

Thật kỳ lạ thay, một chế độ chính trị tự thân lại không thể hiểu được mình, loay hoay trong mớ lý luận thiếu thực tế, phản khoa học, chẳng thuyết phục nổi một ai. Họ đành phải áp đặt tội lỗi cho cả sự hòa bình, coi hòa bình (và những gì diễn ra trong nó) là thù địch (!). Bản thân những người đang mang danh CS, khoác áo CS, không có năng lực để tự hiểu chính mình, vậy thì làm sao họ có khả năng để hiểu người khác! Làm sao họ có thể “tự tốt”. Càng không bao giờ họ có khả năng đưa đất nước mà họ đang tạm thời nắm quyền, đi đến bến bờ tự do, dân chủ.

Những cái gọi là quan niệm (hay quan điểm) về “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, là những sản phẩm trí tuệ không có thực tế, nó thể hiện sự mất phương hướng trong lý luận, cũng như trong tư duy chính trị. Những “sản phẩm” ấy, mang nặng tính ngụy biện, cố tình che giấu sự thối nát kém cỏi của người trong cuộc, và nó là hệ quả tất yếu của một tư tưởng thật ra là không tưởng, đó là tư tưởng Cộng Sản!!!

Lê Nguyên Hồng

Nỗi Lòng dân biểu Cộng HòaTrần Thái Văn và Cao Quang Ánh Ở ĐÂU???


Thông Cáo Báo Chí

Dân Biểu Loretta Sanchez
Địa Hạt Liên Bang 47th của California www.house.gov/ sanchez

Mọi Chi Tiết Xin Liên Lạc:
Caroline Hogan:
714-621-0102
Lilly Ngọc Hiếu Nguyễn: 714-621-0102


Sau giờ làm việc: 202-306-1440
    DÂN BIỂU SANCHEZ LÊN ÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRIỆT PHÁ THÁNH GIÁ TRÊN NÚI THỜ
DB Sanchez kêu gọi Chính Phủ Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới lên tiếng cho giáo dân Xứ Đồng Chiêm

WASHINGTON, D.C. – Hôm nay, Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez (CA-47) ra thông báo lên án nhà cầm quyền Việt Nam đã triệt hạ Thánh Giá Chúa trên Núi Thờ. Được biết lực lượng quân đội, công an, cảnh sát, chó nghiệp vụ và nhiều dụng cụ bình hơi cay đã làm nhiều giáo dân Giáo Xứ Đồng Chiêm bị trọng thương.

“Tôi rất quan tâm về vụ nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý phá hủy một trong những biểu tượng thiêng liêng nhất của giáo dân giáo xứ Đồng Chiêm. Những hành động vô tri đã xúc pham cộng đồng tôn giáo trên toàn thế giới. Đến khi nào, nhà cầm quyền Việt Nam mới hiểu rằng nhà nước của họ chỉ được chính đáng khi họ tôn trọng tự do tôn giáo, nhân quyền căn bản, và tiến trình dân chủ?

"Tôi hy vọng rằng Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới sẽ mạnh mẽ lên án sự đàn áp này và có hành động cụ thể để lên áng nhà cầm quyền Việt Nam. Đây không phải là báo cáo đầu tiên mà người dân Việt Nam phải chịu sự đàn áp đối với tín ngưỡng tôn giáo của họ, và tôi e rằng đây cũng sẽ không phải là lần cuối cùng. Tôi kêu gọi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Cục phải bỏ Việt Nam vào lại danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt để gửi một thông điệp mạnh mã đến nhà cầm quyền Việt Nam rằng chúng ta sẽ không khoan dung hành động đàn áp tự do tôn giáo.”

ooOoo

January 12, 2010: Rep. Loretta Sanchez Denounces Religious Persecution by Vietnamese Authorities
    Congresswoman calls for U.S., international rebuke following desecration of crucifix in Dong Chiem parish cemetery
WASHINGTON, D.C. - Congresswoman Loretta Sanchez (CA-47) today released the following statement regarding the desecration of a crucifix in Vietnam's historic Dong Chiem parish cemetery by Vietnamese police officers. The authorities, who were dressed in riot gear, attacked at least a dozen parishioners and bystanders who protested the crucifix's destruction.

"I am extremely concerned by new reports that Vietnamese authorities intentionally destroyed one of the most sacred symbols of the Catholic faith. These senseless actions have insulted communities of faith across the world and seriously undermined the government's reputation. When will Vietnam learn that its government will only be legitimate when it respects religious freedom, fundamental human rights, and the democratic process?

"I hope the U.S. and international communities will strongly condemn this act of persecution and take concrete action to address it. This is not the first report of citizens being harassed for their religious beliefs, nor, I fear, will it be the last. I believe the State Department must re-designate Vietnam as a County of Particular Concern in order to send a strong signal that we will not tolerate continued abuses of religious freedom."

# # #

Source: http://www.lorettasanchez.house.gov/index.php?option=com_content&task=view&id=692&Itemid=79

Tuesday, January 12, 2010

Lễ Tường Niệm 25 năm "Tinh thần Trần Văn Bá" tại Paris



Ghi vội tại chỗ: Đinh Lâm Thanh
Hình ảnh : Nguyễn Bắc Ninh


16.00 giờ ngày 10.01.2010 - Ngoài trời tuyết rơi và khí hậu lạnh dưới O° C, nhưng trong Salle l’Odine, nằm trên đại lộ Europe của thành phố Cachan (Phía Nam thủ đô Paris) thì trái ngược hẳn: Gần 200 quan khách không ngại đường xa và điều kiện thời tiết, đã về thành phố nhỏ nầy để tham dự Lễ Tưởng Niệm 25 Năm Tinh Thần Trần Văn Bá. Ngoài những người đến từ Canada, Mỹ, Úc Đại Lợi, Hòa Lan, Vương Quốc Bỉ còn có những vị đã trọng tuổi nhưng vẫn di chuyển đến từ các tỉnh thuộc miền Đông cũng như Miền Nam nước Pháp. Riêng Paris và các vùng phụ cận, người ta thấy đầy đủ những vị đại diện các đảng phái, hiệp hội, đoàn thể, các nhân sĩ ... và đặc biệt là sự hiện diện của Hoà Thượng Thích Minh Tâm (Trụ trì Chùa Khánh Anh ở Paris & Evry). Ngoài ra phải kể đến thành phần trẻ đã hăng hái tham gia và đóng góp những bài hát tranh đấu. Đó là những điểm nổi bật của buổi lễ ngày hôm nay.

Chương trình gồm có 4 phần riêng biệt:


Ông Nguyễn Ngọc Bách, chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris



Phần I: Nghi thức và lời chào mừng của ban tổ chức

Sau lễ chào Quốc kỳ, phút Mặc Niệm dành riêng cho Trần Văn Bá và những anh hùng đã hy sinh cùng lúc với anh, cũng như để tưởng nhớ đến toàn thể quân dân cán chính đã bỏ mình vì Tổ Quốc, ông Nguyễn Ngọc Bách, chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp đã mở đầu lời chào mừng và cám ơn quan khách, sau đó ông lướt qua một chút lịch sử: Hai mươi lăm năm về trước cộng sản Việt Nam đã bắt giữ và đưa ra xét xử 5 người, hai người được giảm án và ba người sau đó bị tử hình. Đó là các Liệt Sĩ Hồ Thái Bạch, Lê Quốc Quân và Trần Văn Bá. Anh Trần Văn Bá đã hy sinh cho Tổ Quốc vào ngày 8 tháng Giêng năm 1985. Hôm nay Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris làm lễ Giỗ 25 năm cho anh Bá vì anh Bá là cựu chủ tịch của họ. Anh em chúng tôi có những kỷ niệm sâu đậm với anh vì anh có công rất lớn không những cho Tổng Hội Sinh Viên mà còn có công đối với đất nước Việt Nam. Cũng vì tấm gương hy sinh trong sáng của anh Bá; đại diện cho tuổi trẻ Việt Nam, mà ngọn lửa tranh đấu càng ngày càng quyết liệt. Hai mươi lăm năm đã trôi qua nhiều người đã viết về anh, về tấm gương, về lòng dũng cảm, về những kỷ niệm vui buồn sinh viên bên Pháp cũng như những bài thơ, những bài hát và hôm nay Tổng Hội đã cố gắng in thành đặc san Kỷ Niệm 25 Năm Tinh Thần Trần Văn Bá cũng như làm trang mạng trên Internet cũng như ra CD ca nhạc. Xin phép, tôi không thể nói gì nhiều hơn về anh Bá nhưng mong được tâm tình cùng Quý Bác, cùng Quý Anh Chị và các bạn: Nhân ngày Giỗ, chúng tôi rất vui mừng gặp lại những khuôn mặt quen thuộc, thân thương. Nhân danh Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam, tôi xin chân thành cám sự hiện diện của những người đã góp phần tranh đấu từ hàng chục năm qua, sự hiện của lớp trẻ Việt Nam đến từ Paris cũng như các tỉnh xa xôi, và nhất là những người đến từ Mỹ, Canada, Úc, Hoà Lan và Bỉ…đã bỏ công sức đến Paris giúp cho buổi lễ thêm phần long trọng.

Phần 2: Cảm tưởng của vài khách mời

Nhiều vị được mời lên phát biểu trong đó có quý Ông Nguyễn Điền Lăng (Hòa Lan), Lê Hữu Đào (Cộng đồng Người Việt tại Liège,Vương Quốc Bỉ), Nguyễn Quốc Nam (Liên Minh Dân Chủ), Nữ Ca Nhạc Sĩ Nguyệt Ánh (đến từ Hoa Kỳ) và ca sĩ Bảo Khánh (đến từ Úc Đại Lợi). Năm vị nhắc lại vài kỷ niệm một thời với Tổng Hội Sinh Viên cũng như với Trần Văn Bá và nêu cao tinh thần tranh đấu bất khuất của anh Bá đồng thời kêu gọi mọi người, nhất là giới trẻ, hãy noi gương anh hùng Trần Văn Bá, tiếp tay với thế hệ cha ông để tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền tại Việt Nam.

Ông Nguyễn Điền Lăng - Hòa Lan


Ông Lê Hữu Đào (Cộng đồng Người Việt tại Liège,Vương Quốc Bỉ)


Ca sĩ Nguyệt Ánh


Ông Nguyễn Quốc Nam - Liên Minh Dân Chủ VN

Phần 3: Châm trà và dâng hương trước bàn thờ Tổ Quốc và di ảnh Anh Hùng Trần Văn Bá

Tiếp theo sau lúc Thượng toạ Thích Minh Tâm thắp hương và châm trà trên bàn thờ Tổ Quốc và di ảnh anh hùng Trần Văn Bá, bốn vị cựu chủ tịch tổng hội sinh viên và ông Nguyễn Ngọc Bách (đương nhiệm) lên dâng hương, mở đầu chương trình dâng hương của toàn thể quan khách.



Phần 4: Văn nghệ tranh đấu và buổi cơm tối thân mật

Trong phần văn nghệ tranh đấu, Cô Nguyệt Ánh (đến từ Hoa Kỳ), Cô Bảo Khánh (đến từ Úc Đại Lợi) và cô Khánh Trang (Gia đình Võ Bị Đà Lạt tại Pháp), Ban Hưng Ca cũng như các anh chị văn nghệ sĩ tại Paris đã sưởi nóng hội trường bằng tinh thần tranh đấu qua các bài hài hợp ca, đơn ca… Trong chương trình nầy không thể không đề cập đến sự hiện diện cũng như những đóng góp của giới trẻ (thế hệ 2 và 3) đang nối gót theo đuổi sự nghiệp tranh đấu của lớp cha chú trong 35 năm qua.




Trong dịp lễ kỷ niệm 25 năm Tinh Thần Trần Văn Bá, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris đã cho phát hành tuyển tập Đặc San và CD kỷ niệm. Tuyển tập khổ 150x210, dày 166 trang, trong đó gồm 41 bài vừa văn, thơ, nhạc viết bởi nhiều người ái mộ Trần Văn Bá trên toàn thế giới và CD gồm 18 bài hát tranh đấu cùng Lời chúc Tết Đêm Canh Thân 9.02.1980 cũng như phần đầu bài diễn văn của anh.




Buổi cơm tối thịnh soạn xen lẫn chương trình văn nghệ với sự tham dự khoảng chừng 150 người. Dịp nầy khách được nghe lại giọng hát của chị Ngọc Phú (Bà Đỗ Việt) qua nhiều bài hát bằng tiếng anh và tiếng Pháp, của cô Nguyệt Ánh qua những bài hát bằng tiếng Anh và ông Lê Hữu Đào với những bản nhạc tình của thời trước năm 1975.

Đến gần 23 giờ, quan khách phải rời hội trường ra về trong tuyết lạnh để ngày mai còn tiếp tục đi làm !

Vui lòng xem toàn bộ hình ảnh trên trang web:

ALBUM: http://community.webshots.com/album/576301012fmwlvg

SLIDE: http://community.webshots.com/slideshow/576301012fmwlvg

Nhà báo Hồng Phúc - vô cùng thất vọng về thái độ và cách hành xử VNHN

NB Hong Phuc -vô cùng thất vọng về thái độ và cách hành xử VNHN
----- Original Message -----
From: ngaynay@...
To: ngaynay@...
Sent: Wednesday, January 06, 2010 5:20 PM
Subject: Fw: Buoi Noi Chuyen toi thu Tu, 1/6/10 @ 8:00 PM - Xin xac nhan

----- Original Message -----
From: ngaynay@...
To: Sophie Duong ; huynhquocbinh@... ; Hieu T. Doan
Cc: hung ngo ; Bill Duong ; ngaynay@...
Sent: Wednesday, January 06, 2010 5:05 PM
Subject: Re: Buoi Noi Chuyen toi thu Tu, 1/6/10 @ 8:00 PM - Xin xac nhan

Ngày 06 tháng Giêng, 2010

Kính gửi quý anh chị trong Ban giám đốc Đài VNHN

V/v. Tiếp tục cuộc đối thoại trên làn sóng điện của Đài VNHN.

Thưa quý anh chị,

Như đã thưa với quý anh chị trong thư trước, lẽ ra chúng tôi đã không chấp nhận cuộc đối thoại với quý anh chị trong Ban Giám Đốc Đài VNHN hồi tối hôm qua, Thứ Ba 5 tháng 1, 2010, vì những điều chúng tôi tố giác Ban Giám Đốc Đài VNHN giao du mật thiết với toà đại sứ Việt cộng, đã được quý anh chị công khai thừa nhận. Tuy nhiên, để đáp lại lời yêu cầu của quý anh chị, chúng tôi đã tham gia cuộc đối thoại với hy vọng sẽ làm sáng tỏ những điều còn khuất lấp, hầu giúp cho quý anh chị trong Ban Giám Đốc nhìn ra được những khuyết điểm của mình để mà thành tâm sửa chữa những khuyết điểm ấy, hầu tạo lại niềm tin nơi thính giả.

Thế nhưng, qua cuộc đối thoại giữa chúng ta tối hôm qua (ngày 5 tháng 1, 2010) trên làn sóng điện của quý Đài, chúng tôi đã vô cùng thất vọng về thái độ và cách hành xử của quý anh chị.

1. Mở đầu chương trình, chúng ta chưa kịp chào hỏi nhau, quý anh chị đã tới tấp quy chụp cho chúng tôi những tội danh nào là đánh phá, bôi nhọ, vu cáo Đài VNHN… mặc dầu những điều chúng tôi nói ra đã được quý anh chị công khai nhìn nhận là có thật, trên giấy trắng mực đen hay tiếng nói có ghi âm;

2. Ngày 21 tháng 9, 2009, anh Hùng đã gửi ra một email với lời lẽ nguyên văn như sau: “Vài tháng qua tôi không coi anh Hồng Phúc là một người đáng tin cậy và hôm nay anh là một kẻ thù. Tôi sẽ một sống một còn chớ không nhượng bộ nữa”. Lúc đó, chúng tôi cho rằng anh Hùng quá giận mất khôn, nên chúng tôi bỏ qua. Mới đêm hôm qua đây, trên làn sóng điện của quý Đài, trước mặt hàng ngàn thính giả, một lần nữa, anh Hùng xác định công khai lòng căm thù ấy, không những chỉ riêng cá nhân tôi, mà còn căm thù cả các anh Đoàn Trọng Hiếu và Huỳnh Quốc Bình nữa.

Thưa quý anh chị, đã coi nhau như kẻ thù thì còn đối thoại để làm gì nữa?

Do đó, chúng tôi rất tiếc không thể tiếp tục cuộc đối thoại trên làn sóng điện với Ban Giám Đốc Đài VNHN được nữa.

Chúng tôi thành thật xin lỗi những thính giả của Đài VNHN đã gọi phôn, gửi email… cho chúng tôi tỏ lòng kỳ vọng rất nhiều vào cuộc đối thoại, nhưng rất tiếc vì hoàn cảnh như trình bày ở trên, mà chúng tôi đã phải phụ lòng mong mỏi của quý vị.

Kính thư,

HỒNG PHÚC Lê Hồng Long

Source: http://thegioingaynay.blogspot.com/2010/01/nb-hong-phuc-vo-cung-that-vong-ve-thai.html


Thời Thế Mới, Phương Sách Đấu Tranh Mới - LS Lâm Lễ Trinh

Lâm Lễ Trinh

Rồi một năm nữa sắp qua, với những biến cố trọng đại dồn dập. Hoa kỳ, đất tạm dung của trên hai triệu người Việt, vẫn chưa tìm ra lối thoát tại Afghanistan và Irak, mặt khác dang vật lộn vất vả với một cuộc khủng hoảng tồi tệ về kinh tế, tài chính, ô nhiễm và mối đe dọa hạt nhân mở rộng đến Bắc Hàn, Iran và Nam Mỹ. Nhìn về quê hương Việt Nam, càng thêm thảm thương: Ðảng CS nát bấy nội bộ, tập đoàn cầm quyền vẫn ngáo ngổ tấn công tôn giáo, đàn áp man rợ đối kháng, hổ trợ tham nhủng, bán rẻ lao công, xuất cảng mải dâm, đả phá khối người Việt nước ngoài và khiếp nhược hàng phục Trung quốc bằng cách hiến dâng quốc thổ, hải phận và tài nguyên. Hơn lúc nào hết, quốc nạn bị Hán hóa trở nên một viễn tượng thực tế.

Trước bối cảnh ấy, Cộng đồng người Việt hải ngoại nghĩ gì? làm gì? Dưới đây là một cố gắng phân tách thực trạng. Bài này gồm có hai phần:

1. Nhận định tổng quát những ưu, nhược điểm của công cuộc đấu tranh chống Cộng, trong và ngoài xứ, từ 1975 cho đến nay.

2. Gợi ý về một số biện pháp để đối phó với nhà cầm quyền Hànội trong những ngày sắp đến.

Những ưu và nhược điểm trong quá trình đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền.

1. TRONG NƯỚC

Qua ba cuộc chiến chống Tàu, Pháp và Mỹ, kéo dài gần 40 năm và gây tử vong cho trên ba triệu người dân Việt, CS đã thống nhất Việt Nam bằng võ lực. Các văn khố được giải mật gần đây cho thấy những xung đột này không cần thiết, do Hồ Chí Minh và các đồng chí cố tình gây ra để xây dựng độc quyền đảng trị và đưa dất nước vào quỷ đạo của Ðệ tam Quốc tế. CSVN đã trắng trợn vi phạm - trước sự im lặng khiếp nhược của Thế giới - Hiệp định Élysée (ký ngày 8.3.1949 giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Ðại), và hai Hiệp ước đình chiến Genève (1954) và Paris (1973).

"Ðộc lập, Tự do và Hạnh phúc", được Hồ đề cao, chỉ là bánh vẽ. Hiện nay, Việt Nam vẫn bị xem như một nước kém mở mang về giáo dục, y tế, môi sinh. nhưng lại đứng hàng đầu về tham nhũng, đồi trụy xã hội và giàu nghèo chênh lệch. Ðể cứu nguy chế độ, Chính trị bộ áp dụng hối hã năm 1986, theo lệnh của Gorbatchev, kế hoạch "Ðổi Mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà Hà Sĩ Phu biếm nhẻ mệnh danh "đứa con lai láu cá", kết quả của một cuộc chấp nối gượng ép giữa Adam Smith và Karl Marx. Ðến nay, CS Hànội cũng không hiểu và giải thích được "theo định hướng xã hội" là gì. Ðối với người dân, định hướng này không nhằm mục tiêu nào khác hơn là giúp cho các cán bộ đã mập càng mập thêm!

Hiệp thương Việt-Mỹ đánh dấu một một sự nhượng bước mới của CSVN trước ngọn thủy triều toàn cầu hóa dân chủ và kinh tế thị trường. Vừa đưa cổ vào chiếc giây thòng lọng của tư bản các lãnh tụ Hànội vừa hô hoảng "diễn biến hòa bình". Không còn ai ở Việt Nam, ngay cả trong Ðảng, tin tưởng chủ thuyết Mác-Lê có thể hồi sinh, dù có gắn thêm cái đuôi "tư tưởng Hồ Chí Minh."

Tuy nhiên, không nên vội tưởng chế độ CSVN sẽ kết thúc đúng theo phương cách đã thấy ở Tây phương. Tại ba xứ Baltic, Hung Gia Lợi, Ba lan, Tiệp khắc, Ðông Ðức..., CS bị giải thể do quần chúng chán ghét chế độ đương quyền, sự đối lập quyết liệt của các tổ chức công đoàn và thái độ phản tỉnh kịp thời của nhà chức trách mạc xít. Những yếu tố này khó tìm thấy ở Việt Nam, một cựu thuộc địa của Pháp, nơi mà đảng CS đã phát động cách mạng. bằng cách lợi dụng chiêu bài giải phóng dân tộc và khai thác tận cùng mối hận sâu đậm của quần chúng đối với đế quốc thực dân.

A. Dân trong nước chống Cộng còn rời rạc

Sau một phần tư thế kỷ sống nghèo đói, thiếu tự do và nhứt là sau vụ chính quyền Hànội thậm thọt nhường đất và dâng biển cho Bắc Kinh, người dân Việt nhận thấy bộ mặt bán nước của Cộng sản. Ðảng đang phản bội Tiền nhân và Quân đội Nhân Dân. Các thành phần bất mản, trong và ngoài đảng, bắt đầu lên tiếng, gởi thỉnh nguyện và đơn tố cáo lên Chính phủ, có nơi biểu tình, xung đột với cán bộ an ninh địa phương (vụ Tam Tòa, Thái Hà, Xã Ðoài, chùa Bát Nhã; sinh viên, thanh niên xuống đường phản đối năm ngoái về Trường Sa, Hoàng Sa; buổi Hội luận của trí thức về Biển Ðông ..v..v...)

Ðến nay, mức độ đối kháng CS trong nước còn giới hạn, chưa quyết liệt, thiếu tổ chức và không liên tục vì nhiều lý do. Mạng lưới công an cô lập những thành phần chống đối, trong đạo cũng như ngoài đời, nhục mạ họ để làm mất uy tín và kiểm soát dưới mọi hình thức như buộc khai lý lịch, khám xét bất thần, quản chế theo Nghị định 31/CP không đưa ra tòa án, hăm dọa, cắt điện thoại, tịch thu phi pháp các phương tiện truyền thông, đóng cửa các báo chệch hướng,..vv...

Lý do khác là đa số dân chúng không được thông tin đầy đủ, kiệt sức sau nhiều năm chinh chiến và phải vô cùng chật vật để sinh nhai. Phần đông giới trẻ lo làm giàu bằng mọi cách. Họ đua tranh hưởng thụ và không mấy thiết tha đến chính trị như một cuộc thăm dò của báo Thanh Niên năm ngoái cho biết. Nhà chức trách cũng không khuyến khích họ tham gia công tác cộng đồng. Trong tác phẩm "Ðôi điều suy nghĩ của một công dân", Hà Sĩ Phu chán nản nhận xét: "Dân tộc phải đương đầu với một cuộc tổng khủng hoảng nhân cách! .Xã hội dang lộn ngược do thang giá trị bị lộn ngược. Chủ nghĩa vô hồn tạo ra một khoảng trống ghê rợn. Về văn hóa, lý tưởng và nhân cách."

B. Ðường lối vừa áp đảo, vừa ru ngủ của nhà cầm quyền Cộng sản

CS rất thâm độc:Mỗi khi thấy quần chúng bất mãn cao độ thì chúng xoa dịu bằng cách xả bớt ống hơi an toàn, bố thí vài nhân nhượng nhỏ nhoi để tránh cải cách sâu rộng và dứt khoát. Mặt khác, chúng còn tung ra đòn xảo quyệt "hòa hợp hòa giải", kêu gọi thống thiết lòng yêu nước thương nòi của "khúc ruột ngàn dặm" và gài những "cò mồi CS thức tỉnh" trong hàng ngũ đối phương để gieo rắc những tư tưởng cầu an, chờ thời.

Vụ tổ chức buổi hội thảo "Gặp gỡ VN, Meet Viet Nam" ngày 15 và 16.1.2009 tại San Francisco và Hội nghị Việt kiều tiêu biểu tại Hà Nội từ 21 đến 24.11.2009 nằm trong kế hoạch bịp bợm thực hiện "một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước". Âm mưu này thất bại vì chủ trương lộ liểu củng cố một "nội lực bên ngoài, cinquième colonne, để bảo vệ công dân", theo ngôn từ của Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, chủ tịch Ủy ban Nhà nước về người Việt hải ngoại.

Kiệt quệ vì 40 năm chinh chiến, dân trong xứ cần hòa bình để yên thân xây dựng lại. Sống như trong một nhà tù, dân không có cơ hội so sánh với thế giới phát triển bên ngoài. Bởi thế, làm sao dân tình không chán nản, dân khí không suy vi và dân trí không lụn bại?

Mau chóng hơn phía Quốc gia, CSVN biết rút từ sự sụp đổ của Nga sô và các chư hầu một số kinh nghiệm thích đáng để xoay trở thoát nguy. Ðảng CS ngày nay là một mafia, liên kết để bảo vệ nồi cơm. Không có viễn kiến chính trị và không đặt nổi kế hoạch dài hạn, họ áp dụng nhu cương tùy lúc, để giải quyết từng khó khăn một, chuẩn bị ngày cuốn gói ra đi. Thật vậy, đã từ lâu, họ biết xã hội chủ nghĩa không còn giúp gì được. Triết thuyết Mác Lê - phản khoa học và ảo tưởng - đã giải đáp sai bài toán nhân loại. Mác Lê chỉ dạy cướp quyền, san bằng xã hội, không dạy làm kinh tế và xây dựng hòa bình.

Ðể tồn tại, nhà cầm quyền Hà Nội cam nhận đóng vai trò thái thú xã thân phục vụ cho mộng bá quyền của Ðại Hán tại Ðông Nam Á. Bắc bộ Phủ mở cửa đón hàng hóa Trung quốc tràn ngập vùng biên giới Lào Cay, Cao Bằng và Lạng Sơn; khai thác bauxite tại Cao Nguyên, nơi có một trọng lượng uranium đáng kể; đón nhận người Hoa vào VN miễn chiếu khán (visa).

Hiện nay, có trên 100.000 công nhân Hán làm việc và sinh sống trong những ốc đảo riêng biệt ở Lâm Ðồng, Hải Phòng, Cà Mau, Bắc Kạn, Ðak Nông, Nông Sơn, Quảng Nam ... là những cứ điểm chiến lược then chốt. Mặt khác, CSVN cũng đã thương lượng giao cho Trung quốc xây hai lò phản ứng hạt nhân trị giá 3 tỹ Mỹ kim tại Phước Dinh (Ninh Thuận) và Hòa Tân (Tuy Hòa, Phú Yên), dự trù hoạt động năm 2015.

Thái độ hèn hạ của Hà Nội thúc đẩy Bắc kinh khinh thường và lấn áp thêm. Cuối tháng chín vừa qua, trên 100 ngư phủ Việt thuộc đảo Ly Sơn và Bình Châu ghé vào cảng Cần Cẩu tránh bảo. Họ đã bị lính Tàu cướp bóc, tra tấn, đánh dập tàn nhẩn và công khai đòi tiền chuộc mạng.

Quốc hội và Bộ Ngoại giao VN không dám lên tiếng khiếu nại, kiện trước Tòa án quốc tế hay loan báo trên báo chí, truyền hình. Trong con mắt nhà cầm quyền Bắc kinh, đàn em CSVN vẫn là một bọn người vô ơn bạc nghĩa. Họ không quên Lê Duẫn đã sửa Hiến pháp ghi lời lên án Trung quốc, rồi hoàn toàn thần phục Liên Xô và còn gọi xấc xược Ðặng Tiểu Bình là Ðặng Lưu Manh.

Năm 1979, đại ca Lưu Manh xua quân làm cỏ biên giới Bắc Việt. Thái độ coi rẻ đó còn thể hiện trong các hồi ký quân sự mô tả sự yếu kém của quân đội Bắc Việt và vai trò lãnh đạo chiến thuật và diều binh của các tướng Trung cộng Trần Canh, Vi Quốc Thanh ... trong cuộc chiến chống Pháp và thôn tính miền Nam VN. Năm 1954, tại Genève, Chu Ân Lai đã bắt tay vớI Molotov ép Hà Nội chấp nhận chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17 khiến cho Thủ tướng Phạm Văn Ðồng (người ký công hàm năm 1958 hiến Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung quốc), phải bực tức gọi Chu Ân Lai là "đồ chó má".

Dưới áp lực mạnh của công luận trong và ngoài nước, CSVN miễn cưỡng tổ chức cuối tháng 11 vừa qua tại Hà Nội một "Hội nghị Quốc tế về Biển Ðông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực". Ngày 23.11.2009, Quốc hội VN thông qua luật thành lập lực lượng phối hợp các đơn vị biên phòng, hải quân và cảnh sát địa phương để "bảo vệ an ninh biên giới và chủ quyền trên biển." Quyết định này bị nhiều chuyên gia chỉ trích nặng vì các lực lượng vừa kể quá yếu để giữ gìn môt bờ biển dài 3200 cây số trong vùng có dầu hỏa.

Ðể trấn an Bắc Kinh, tướng Lê Quang Bình, chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Quốc hội, tuyên bố "nhiệm vụ của dân quân là bảo vệ ngư dân và chủ quyền lãnh hải chứ không nhằm chống bất cứ ai" (sic). Như vậy, Ðảng CSVN đã lăng nhục Quân đội Nhân dân vì Quân đội không còn được tin dùng trong trách vụ hàng đầu là bảo vệ quốc gia.

2. NGOÀI NƯỚC

Sự bức tử của Chính phủ Sàigòn năm 1975 đã buộc gần ba triệu người Việt đi tìm tự do tại 80 quốc gia, 60% hiện sinh sống tại Hoa kỳ. Sánh với tổng số dân 80 triệu của VN ngày nay, đây là một tỷ lệ nhỏ, trên 2%. Cộng đồng VN hải ngoại, tuy nhiên, có một tiềm năng kinh tế và trí tuệ thật quan trọng. Là nạn nhân khốn khổ của CS, khối người này dứt khoát với xã hội chủ nghĩa và tự coi mình như một hậu phương tản mác trên năm châu, một "hậu phương không biên giới" sẵn sàng hỗ trợ "tiền tuyến" chống cộng trong nước.

Người Việt hải ngoại tương đối thành công về mặt vật chất, tiếp cận khá mau với nếp sống nơi tỵ nạn và đã lập ra vô số hội hè văn hóa, tương tế và đoàn thể chính trị, lắm khi nặng về trình diễn. Tiếc thay, trên bình diện phục quốc, từ hơn một phần tư thế kỷ, họ ở trong thế đỡ hơn là thế đánh, thế thủ nhiều hơn thế công. Họ phản ứng bén nhạy khi bị Hànội và tay sai khiêu khích. Nhưng mỗi khi cơn thử thách vượt qua, đâu lại vào đó, thụ động đợi một bảo tố khác.

Trong các nhược điểm, cần phải kể tình trạng phân hóa nội bộ, ảnh hưởng của lối sống buông thả của thế giới tự do, việc đột nhập để phá hoại của CS và sự bất lực kết hợp thành một tổ chức có uy tín trong cộng đồng và trên thế giới, có lãnh đạo, kỷ cương và lập trường để hành động.

Người Việt chống Cộng cũng không hồ hởi với Diễn biến Hòa bình vì cho rằng chiến lược này giúp cho CS sống lâu hơn và là hình thức "hòa giải, hòa hợp" sẽ bị CS lợi dụng. Nhưng làm thế nào sớm đảo ngược thế cờ trong khi Thế giới Tự do, với Hoa kỳ đứng đầu, chủ trương cải tiến, phát triển trong hòa bình? Nguyên Tổng thống Nam Hàn Kim Ðại Trọng từng tuyên bố: "Chưa có trường hợp nào mà chủ nghĩa Cộng sản bị đánh bại nhờ vào chiến tranh hay bao vây kinh tế".

Kinh nghiệm cho thấy đường lối chống Cộng bằng cách đánh võ mồm đã lỗi thời. Ðể khai trừ hữu hiệu chủ trương thống trị của CS căn cứ vào Ðói, Sợ và Dốt, cần áp dụng triệt để chính sách Khai phóng Dân tộc bằng cách nâng cao mức sống, mở mang trí tuệ của người dân và củng cố các tự do nhân bản, đặt những nền móng cần thiết cho một xã hội công dân. Dân sinh vững, dân trí mới cao, dân khí mới mạnh.

Khi được võ trang bằng các tự do tối thiểu, người dân sẽ đòi hỏi quyết liệt hơn và dũng mãnh chọn lựa cấp lãnh đạo xứng đáng của mình. Những số tiền to lớn mà Liên Hiệp Quốc, Hoa kỳ, Nhật, Úc, Pháp ..v..v.. đang đổ vào Việt Nam để xây dựng có điều kiện hạ tầng cơ sở về kỹ thuật, giáo dục, thông tin ...vv.. sẽ giúp giải phóng người dân Việt.

CSVN không dễ gì lường gạt và quỵt tiền của các con cá xà, cá mập tư bản. Trong thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2005, Ðức cố Giáo hoàng John Paul II đã vạch ra con đường của Giáo hội: "Vượt thắng điều ác bằng điều thiện." Chủ trương này sáng suốt và cũng là hướng đi của Thế giới Tự do.

Ngoài các nhược điểm nêu trên của cộng đồng VN, tưởng cũng nên kể một nhược điểm chung cho hai cánh chống cộng, ở trong và ngoài VN. Nhược điểm này là một hội chứng nguy hiểm: "Hội chứng chờ đợi." Tiền tuyến đợï hậu phương, hậu phương đợi tiền tuyến, trẻ đợi già và già đợi trẻ, dân đợi quân, quân đợi dân phất cờ khởi nghĩa. Một sự mong đợi mỏi mòn! Hội chứng trở thành một bi kịch nếu kèm theo tinh thần vọng ngoại, ngồi đợi một cường quốc đồng minh "bật đèn xanh" mới hành động. Từ vọng ngoại chuyển qua vong bổn, chỉ có một bước.

Kinh nghiệm tại Việt Nam cho thấy: liên minh với một thế lực ngoại bang, dù mạnh đến đâu, rồi cũng sa vào ngõ cụt thê thảm nếu không có nhân dân hậu thuẫn. Tâm trạng thiếu tự tin này bắt nguồn từ sự coi thường sức quật khởi của dân tộc. Dân tộc bất diệt, dân tộc vĩnh cửu trong khi các thể chế và học thuyết chính trị chỉ là những viên đá lót đường cho lịch sử. Nhưng làm thế nào để tạo ra cái thế nhân dân và nắm được dân? Có dân mới tạo nổi thời cơ. Khai thác thời cơ kịp thời và đúng mức mới thắng địch. Ðó là chìa khóa của thành công. Các bậc tiền bối trong dĩ vãng đã bao phen chứng minh điều đó.

Vai trò của Cộng đồng người Việt hải ngoại trong sứ mệnh dân chủ hóa Việt Nam. Thời thế mới đòi hỏi phương sách đấu tranh mới.

Những nhược điểm phân tách trên đây có tính cách tạm thời và có thể điều chỉnh nếu được sớm mổ xẻ can đảm, không tự ti. Mặt khác, cần triệt khai các ưu điểm căn bản. Hiện nay, xã hội chủ nghĩa tại bốn nước cộng sản cuối cùng: Việt nam, Bắc Hàn, Trung quốc và Cuba, đang ở trên đà khánh tận. Thế giới đang bị cuốn hút vào cơn lốc Dân chủ và Kinh tế thị trường. Hai khuynh hướng này tất thắng, không thể đảo ngược. Sự giải thể, sớm hay muộn, của chế độ độc đảng tại Việt Nam tùy thuộc chẳng những nơi tốc độ của trận bảo toàn cầu hóa mà còn - và trên hết - nơi khả năng kết hợp mau chóng và đối kháng hữu hiệu của khối người đấu tranh cho dân chủ tại VN, trong và ngoài nước.

Trên bình diện này, cộng đồng Việt hải ngoại có một tiềm lực kinh tế đáng kể. Thống kê năm 2001 cho biết VN cộng sản có một tổng sản lượng quốc dân 14,7 mỹ kim trong khi tổng thu nhập của người Việt nước ngoài đạt đến 15 tỷ mỹ kim và số tiền họ gởi hằng năm về giúp thân nhân lên tới gần 3 tỷ đô la.

Ðiều buồn nên nhắc lại là năm 1975, chính phủ Nguyễn Văn Thiêu van xin Hoa kỳ viện trợ 700 triệu mỹ kim mà thôi dể tiếp tục đơn độc cuộc chiến và đã bị từ chối. Nếu có kế hoạch chỉ đạo chung để xữ dụng thiết thực nguồn tài chính 3 tỷ mỹ kim vừa nói cho công cuộc vận động dân chủ hóa - công khai, bán công khai hay bí mật - trong xứ thì hay biết bao!

Ngoài tài chính, cộng đồng Việt hải ngoại còn có nhiều tiềm năng trí tuệ: một đội ngũ không dưới 300.000 chuyên viên lổi lạc thuộc đủ mọi ngành (văn hóa, khoa học, giáo dục và kỹ thuật). Không có một nước nào tại Á châu - và ngày cả trên thế giới - có một cái vốn chất xám quý giá như thế, đào tạo bởi quốc tế.

Tiếc thay, đến nay, các nguồn tài lực trên đây không được tận dụng như những lực lượng hạt nhân để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ hóa dất nước. Lý do là vì thiếu tổ chức. Thiếu tổ chức vì không đoàn kết. Có đoàn kết mới có lãnh đạo, có lập trường, có cán bộ, có kỷ luật để tiến đến hành động có kết quả hầu gây tin tưởng quốc nội và quốc tế.

Hiện trạng của CSVN có thể tóm tắc như sau:

A. Cộng sản đang sống cầm hơi do sự phân hóa của chúng ta. Cái yếu của cánh chống xã hội chủ nghĩa tạo sức mạnh cho Hà Nội. CS đang tư bản hóa, xã hội chủ nghĩa đang hữu sản hóa do ảnh hưởng xoi mòn của khuynh hướng toàn cầu hóa dân chủ và tự do mậu dịch. Ðể tránh bị giải thể, chúng run rẩy biến thể. Chúng dùng những danh hiệu mỹ lệ "dân chủ tập trung, dân chủ nhất nguyên" để che đậy một chính thể xuống cấp tận cùng.

Hơn nửa thế kỷ nay, đảng CS dành độc quyền: độc quyền yêu nước, độc quyền sát hại, độc quyền cai trị và, gần đây, độc quyền phản bội, bán nước. Ðiều 4 Hiến pháp vẫn còn thì không có dân chủ, tự do, phát triển và đa nguyên. Phải đấu tranh bứng bỏ điều 4 vì điều 4 (chép y nguyên văn điều 6 của Hiến pháp Liên xô) hợp thức hóa đảng trị và cho phép khủng bố vô tội vạ: khủng bố trí thức, quần chúng, đối lập và tôn giáo.

B. Nhưng Ðảng CSVN sẽ chết nhỏ giọt sau khi ký bản Hiệp thương với Hoa kỳ. Ðể tuân hành các điều khoản cam kết, chúng phải từ nay chấp nhận pháp trị, quyền tư hữu, tự do cạnh tranh và những nhân quyền căn bản Ðó là những viên thuốc đắng sẽ tiêu hóa nền kinh tế chỉ huy của Hànội. Khi cơ chế kinh tế CS bị vướng mắc vào cái lưới "thiên la địa võng" kinh tài quốc tế thì áp lực của Thế giới tự do có thêm cơ hội và phương tiện thay đổi mọi việc. Tiến trình "diễn biến hòa bình" - thường được mệnh danh stratégy of peaceful evolution hay peaceful change- có thể kéo dài một hay hai thập niên.

Bằng mọi cách, CSVN chống Diễn biến Hòa bình, DBHB, mà chúng còn gọi nôm na cuộc Chiến Hòa bình. Phe tư bản áp dụng những thủ đoạn phi quân sự, những "cuộc cách mạng màu" để xóa bỏ các chế độ còn theo Xã hội chủ nghĩa. Gần đây, tạp chí Quân đội Nhân dân có đăng một loạt bài nghiên cứu của Trung tướng Nguyễn Tiến Bình và hai đại tá Nguyễn Ðức Ðộ và Nguyễn Ðức Thắng phân tách nguy cơ DBHB và đề ra một số biện pháp đối phó.

Ðăc biệt, Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, kiêm Bí thơ Trung ương Ðảng, có lên tiếng trên tờ Nhân Dân ngày 3.8.2009 cảnh báo về "hiểm họa chuyển biến nội bộ" và kêu gọi đảng viên CS chống khuynh hướng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" "các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền phản động , âm mưu gây bạo loạn, hình thành lực lượng đối lập của các thế lực thù nghịch".

Ðể xoa dịu cái mối lo sốt vó Cộng đảng bị tan rả trong tiến trình dân chủ hóa, để tránh cho Ðảng thảm họa bị "xử lăng trì", các chiến thuật gia CS như Võ Ðại Lược, Vũ Văn Hiền ...... .... có một lúc đã ồn ào tuyên bố rằng vẫn có thể hội nhập mà vẫn xây dựng được một nền kinh tế độc lập và tự chủ, chuyển từ kinh tế công nghiệp qua "kinh tế tri thức" để thực hiện một "xã hội tri thức." Ðến nay, chủ đề này chìm dần, không thấy bàn đến nữa. Hiện tượng đầu voi đuôi chuột vừa nói thường thấy ở VN.

Chúng ta có trách vụ rút ngắn thời gian ra đi của đảng CS vì hai lý do khẩn yếu:

1. Để xóa cái nhục chậm tiến. CS còn cai trị thì đất nước thêm thụt lùi, vô phương cứu chửa, trong khi các xứ Á châu liên tục tiến tới.

2. Để tránh cái họa Hán thuộc. Thật vậy, việc dâng đất và lãnh hải cho Tàu để củng cố Ðảng là chủ trương từ lâu của Ðảng CSVN chớ không phải âm mưu thầm kín của vài cá nhân hay phe nhóm trong Ðảng. Ðiều 3 trong Thông cáo chung Hoa-Việt ngày 1.3.2002 xác nhận không úp mở:

".. Hai đảng góp phần không ngừng củng cố và nâng cao sự tin cậy lẫn nhau, hai bên đã đi đến nhất trí trên một số vấn đè." Ðiều 5 chú thích thêm: ".. Hai bên khẳng định quyết tâm tích cực triển khai quá trình phân giới cắm mốc trên thực địa theo đúng kế hoạch". Bị đặt trước sự chọn lựa "Theo Tàu thì mất nước, theo Mỹ thì tan Ðảng", rõ ràng Ðảng CSVN đã dứt khoát quyết định: "thà mất Nước, chớ không mất Ðảng."

CS Hà Nội đang phạm lỗi lầm u tối nhất trong cuộc đời chính trị của họ. Khi hay mất Ải Nam Quan, Trường Sa và Hoàng Sa, toàn dân uất hận. Ðây là cơ hội ngàn vàng cho người Việt hải ngoại ngồi lại với nhau, dẹp bỏ tị hiềm và lập một Ủy ban Vận động để hình thành một Liên minh rộng rải, có lãnh đạo, có lập trường và quyết tâm hành động.

Ba công tác khẩn yếu sau đây nên được đặc biệt chú ý:

1.- Ðiều nghiên lại kế hoạch ngoại vận và quốc tế vận. Xử dụng tối đa kỹ thuật thông tin hiện đại (paltalk, websites, bloggers, tweeters...) để quảng bá sâu rộng các tư tưởng dân chủ trong nước hầu thể hiện một khối đối lập có quy củ.. Ðiều chỉnh tổ chức lobby những chính quyền địa phương, các cơ quan quốc tế và giới truyền thông. Thúc đẩy các phần tử Việt có khả năng ứng cử vào những cơ chế địa phương và Liên bang. Trẻ trung hóa cấp lãnh đạo cộng đồng. Lập nhịp cầu giữa các sinh viên Việt ở trong và ngoài nước để thảo luận về công cuộc canh tân, phát triển đất nước.

Vấn đề bảo tồn văn hóa và giáo dục con em chúng ta để tránh nạn mất gốc cũng rất hệ trọng. Khi người tị nạn chính trị chấp nhận mình là kẻ di cư tha phương cầu thực thì ngọn lửa đấu tranh trong lòng cũng đã tắt. Bởi thế, cần giữ vững lý lịch của chúng ta để tiếp tục chiến đấu, chuẩn bị cho ngày hồi hương.

2. Trả sự thật lại cho lịch sử bằng cách, một mặt, công nhận những lỗi lầm tai hại của chúng ta trong quá khứ để tự sửa sai và mặt khác, xóa bỏ, với bằng chứng nghiêm chỉnh, một số huyền thoại từng nuôi sống CS Việt Nam cho tới nay trong quần chúng: huyền thoại Hồ Chí Minh là một anh hùng dân tộc (trong khi Hồ lại là một tội đồ khát máu nhuộm đỏ VN với chủ thuyết ngoại lai) - huyền thoại Quân đội Nhân dân có công đầu giải thoát và thống nhất đất nược (trong khi họ chỉ đánh giặc mướn cho Nga-Tàu, cho Ðệ tam quốc tế) - huyền thoại đảng CSVN khai phóng dân tộc và đấu tranh thắng lợi về chính trị, ngoại giao (trong khi họ thi hành chính sách ngu dân, đưa gian trá lên hàng quốc sách và vi phạm thô bạo các Hiệp ước, coi thường công pháp quốc tế)... .

3. Chuẩn bị ngay bây giờ tiến trình chuyển tiếp qua giai đoạn hậu CS càng khó hơn. Phe chống cộng, nếu không thức tỉnh, sẽ không được đại diện hay sẽ yếu thế trong những cuộc thương thảo sắp đến quyết định tương lai đất nước. Tới nay, cộng đồng Việt hải ngoại vẫn chưa tổ chức nổi những nhóm nghiên cứu (think tanks) có tầm vóc và khả năng để cứu xét nghiêm chỉnh các vấn đề quốc gia trọng đại. Quan niêm về dân chủ và quốc gia vẫn còn nhiều ý kiến đối chọi.

Ngay cách thực thi quy tắc dân chủ căn bản giữa anh em chúng ta ở nước ngoài vẫn còn sơ sót đáng tiếc. Không thể chấp nhận ý niệm rằng chỉ cần phỏng theo các mẫu dân chủ tân tiến của ngoại bang là đủ. Dân chủ không phải là một món hàng nhập cảng. Tự do không phải là một món quà tặng không. VN hậu CS xứng đáng có một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên, một nền dân chủ nhân bản thích hợp với nhu cầu và trình độ của dân tộc, với đầy đủ đặc tính VN, một nền dân chủ bởi dân, của dân và vì dân. Dân Việt Nam. Không lai căng, không vay mượn.

Tình trạng xã hội suy đồi trầm trọng, chính sách nhân nhượng quá dộ Trung quốc, chủ trương bưng bít thông tin, đàn áp tôn giáo .... là những căn nguyên của mọi tai họa và hiện gây nhiều bất mản trong giới trí thức, thanh niên và ngay cả nội bộ Ðảng. Lãnh đạo CSVN đang sống trong lo sợ, vì thế ráo riết chuẩn bị rất kỷ - từ các ngành, địa phương cho đến trung ương- Ðại hội Ðảng XI sẽ họp đầu năm 2011.

Không có con đường đấu tranh nào dễ dàng, trải đầy gấm hoa. Ðấu tranh từ bên ngoài đất nước, xa quê cha đất tổ nghìn dặm lại càng gay go thập bội. Nhưng tất cả chúng ta đều tin chắc ngày mai trời lại sáng, dân chủ và phồn thịnh sẽ nở rộ trên Quê hương rách nát, sau cơn mê sảng triền miên. Ðến nay dư luận vẫn thắc mắc vì sao Quân đội Nhân dân lại có thể cam chịu gục mặt thị chứng cho Ðảng ta tái diễn trân tráo bi hài kịch Lê Chiêu Thống?

Ðiều 4 của Hiến pháp năm 1992 và nội bộ thối nát là tử huyệt của CS. Thật vậy, độc đảng tạo đặc quyền, bất công gây bất mản. Giữa Ðảng và Dân, sự chia tay ý thức hệ đã kết thúc bằng một cuộc ly hôn vĩnh viễn. CSVN phản bội dân nên mất dân. Hồ đã nói: "Mất dân là mất tất cả."

Khổng Tử từng xác quyết: "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong." CS hành động trái ý dân. Ý dân là ý trời. Với chính sách tàn bạo và sai lầm chồng chất, CS lấn dân vào ngõ bí, gây phẩn uất. nổi loạn. Lửa cách mạng sẽ cắt ngắn và hỏa thiêu giấc mơ diển biến hòa bình. Gieo gió thì gặt bảo. Ðó là hai quy tắc thiên nhiên "Vật cùng tắc biến" "Tương quan nhân quả".

Thời cơ đã đến để chấm dứt một chế độ phi nhân, phi pháp và vô thần. Nếu thất bại lần này thì đó sẽ là đại họa chung cho dân tộc. Và tất cả chúng ta - người dân Việt, trong và ngoài nước, già trẻ, nam nữ, bất phân chính kiến và tín ngưởng - sẽ phải gánh hết trách nhiệm. Trách nhiệm với tiền nhân, với hậu thế.

LS Lâm Lễ Trinh



Dấu chỉ thời tận mạc của giặc Đỏ Cộng Sản Việt Nam - Lm Đinh Xuân Minh

    Biến cố Đồng Chiêm:
    Dấu chỉ thời tận mạc của giặc Đỏ Cộng Sản Việt Nam
Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức quốc)

Đêm ngày 6 tháng 01 năm 2010, nhằm ngày lễ Kính Ba Vua. Theo Chính thống giáo, thì ngày này, mới chính là ngày Chúa Giáng Sinh, chứ không phải ngày 25/12, như người Thiên Chúa Giáo thường mừng lễ.

Đúng vào đêm ngày Chúa giáng trần để cứu nhân độ thế, thì Việt Cộng, công kích dấu thánh, chỉ ơn cứu độ này, trên Núi Thờ, nơi thánh địa các em hài nhi. Thật trùng hợp ngẫu nhiên: Đúng vào đêm Giáng sinh, bạo quyền Cộng sản phá thánh giá tại thánh địa hài nhi trên Núi Thờ.

Hang đá, thật gần gũi với Thánh giá. (Theo nghi thức Công giáo, thì sau ngày 25/12 là lễ kính thánh tử đạo tiên khởi giáo hội, 26/12, thánh Stephanô). Hang đá khởi sự mốc công cuộc ơn cứu độ, và chấm dứt tại thời điểm cây Thánh Giá. Một khoảng thời gian cứu độ, bắt đầu từ hang đá đến thánh Giá.

Đức Chúa Giêsu đến để đem lại sự bình an và ơn cứu độ, hầu tất cả ai tin vào Ngài đều được cứu rỗi. Và cây Thánh giá là tượng trưng cho ơn cứu chuộc. Ngày Chúa sinh, đánh dấu khởi sự ơn cứu rỗi.

Thật, Thánh giá là dấu chỉ ơn cứu rỗi?

Trước khi Chúa Giêsu chịu chết, thì Ngài hội tập mười hai (12) môn đệ lại mà nói: „Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, và họ sẽ giết Ngài. Nhưng sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại.“ (Marcô 9, 31).
Qua câu nói đó, Đức Giêsu đã tuyên bố cho mọi thời đại, dấu chỉ mầu nhiệm ơn cứu độ qua sự kiện Phục sinh và Thánh giá.

Các môn đệ qúa lo sợ, đến nỗi không dám hỏi Ngài thêm. Ngài chết để cứu độ? Sống không cứu, lại để bị chết rồi cứu? Cứu thế nào được nữa, khi đã chết? Thật khó hiểu và khó tin!

Quả thật, Đức Giêsu đã chịu chết. Nhưng, đã vậy. Đặc biệt, ngài không chết bình thường do bệnh hoạn ốm đau, song còn chết trên cây thập tự, một cái chết nhục nhã nhất cho một người bị trọng tội tử hình đớn đau và tủi nhục nhất. Chính vì vậy, mà thời sơ khai, khi môn đệ của Ngài, giảng dạy sự chịu khổ nạn của Chúa trên thánh giá, biểu tượng ơn cứu độ, sau Chúa Phục sinh, thì thật là một hành vi „điên rồ“ và sự „phẫn nộ“ (1 Korintô 1, 23), không những cho người Do Thái, người ngoại đạo, mà ngay cho cả người Thiên Chúa Giáo nữa.

Chúng ta thật tâm thừa nhận rằng, có lẽ chính chúng ta cũng chẳng ham thích gì mang Thánh Giá: những sự gian nan đau khổ bệnh tật. Ai cũng muốn lé tránh Thánh giá. Nhưng, là người Thiên Chúa Giáo, chúng ta không muốn đeo thánh giá? Loại người Công giáo không thánh giá?

Tâm lý chung, ai cũng muốn sống hạnh phúc vui vẻ. Muốn đời sống đầy vui nhộn. Luôn đi tìm sự hưởng lạc vui thú. Vì thế, khi có sự đau khổ, thì chúng ta than vãn trách móc Chúa: tại sao Chúa để những sự đau khổ xẩy ra. Thay vì hỏi: Thiên Chúa muốn gì với chúng ta, qua sự đau khổ?

Thánh giá gồm cây thanh ngang và cây thanh dọc. Cây thanh ngang, như ứng chỉ bàn tay chúa giang rộng mở ra, đón chào tất cả mọi người. Bàn tay giang ra nâng đỡ và cứu độ tất cả những ai chạy đến cùng Ngài. Qua bí tích rửa tội, người Thiên Chúa Giáo còn được gọi là con cái yêu dấu của Ngài. Ngài đã kêu gọi chúng ta, khi chúng ta chưa lọt lòng mẹ, như Người truyền qua ngôn sứ: „Ta đã ghi dấu tên con trong tay ta, khoá chặt con trong trái tim Ta. Con thuộc về Ta và Ta là Đấng cứu độ của ngươi!“ (Jes 43, 1.3)-

Thanh dọc hướng lên trời, hướng về Thiên Chúa là tình yêu (1 Gioan 4, 8). Đức Giêsu, là con duy nhất của Người, đã được sai xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, qua biểu tuợng cây Thánh giá. Ngài hiến thân cho con người là dấu ấn tình yêu Thiên Chúa ban lại cho tất cả chúng ta.
Tình thương, chỉ riêng đối với anh em một mình, chưa kết thành thánh giá. Phải là vừa hướng về anh em, và hướng về Thiên Chúa, qua sứ vụ: „Người hãy yêu thương anh em, như chính ngươi. Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa người, hết lòng, hết trí khôn, với tất cả tâm hồn.“ (Máthêu 22, 37).

Và khi thanh dọc kết với thanh ngang, thì mới hình thành thánh giá được. Phải có sự thương yêu lẫn nhau, và hướng mọi sự về Chúa trên trời cao. Thánh giá phải có hai ý nghĩa này.

Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã mặc khải ơn cứu độ qua biểu tượng cây Thánh giá bằng con rắn. Để trừng phạt những ai dám xúc phạm đến Thiên Chúa, Ngài đã phạt dân bằng những con rắn lửa, và rắn đã cắn dân, làm nhiều người trong dân Isreal phải chết. Dân chúng sợ hãi, phải thưa với Moisen, xin Chúa tránh khỏi hình phạt này. Và Môisen đã khẩn cầu cho dân. Và Thiên Chúa đã phán bảo Môisen: „Ngươi hãy làm cho mình một con rắn lửa và đặt nó trên cán cờ. Ai bị rắn cắn mà nhìn thấy nó thì sẽ được sống“. (sách Dân Số 21, 4-9).

Mọi người chúng ta đều là thụ tạo Thiên Chúa dựng lên. Ai ai Thiên Chúa cũng thương và muốn họ hối cải, tránh làm điều gian ác. Nhưng kẻ nào chối bỏ sự thương xót của Chúa, thì kẻ đó tự tước quyền và từ chối ơn cứu rỗi Thiên Chúa ban.

So với vụ tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Dòng Thiên Ân, Vĩnh Long v.v.. thì Việt Cộng thường áp dụng chiến thuật: Ăn không được đạp đổ. Hoặc bằng cách, chúng cho xây rào dựng tường, biến đất đai của Chúa thành nơi công viên kiểu „hàng trống“. Nhưng, đứng trước biến cố Đồng Chiêm, với cây thánh giá, thì Việt Cộng không thể gian ác thêm được nữa. Phá tan được thánh giá bằng bêtông trên Núi Thờ, nơi Thánh địa các em hài nhi, nhưng không thể nào phá được thánh giá ngự trị trong tâm hồn của hơn hai tỉ người Thiên Chúa giáo trên toàn thế giới. Xây rào ngăn cản được Thái Hà, Tam tòa, tòa Khâm xứ, Loan Lý, Vĩnh Long, từng khu địa phương, nhưng giặc đỏ, không thể xây được hàng rào ngăn cản Thánh giá của mọi tín hữu đeo trong người, thánh giá họ làm dấu mỗi ngày và thánh giá họ ngước nhìn hằng ngày.

Phá được thánh giá bằng Betông, người giáo dân dựng lên thánh giá bằng tre. Làm sao phá tan được. Qủa là quân qủy đỏ lộng hành qúa!? Hành động điên rồ, ngông cuồng ngu xuẩn!?

Như vậy, quân dữ Cộng sản Việt Nam, đã đóng đinh Chúa lần nữa, bằng qua hành động phá vỡ biểu tượng ơn cứu độ. Họ đã chính thức, trực tiếp công khai chối bỏ ơn cứu độ của Đức Giêsu, qua biểu tượng cây thánh giá. Qủa thật, đây là dấu chỉ thời tận mạc của giặc đỏ Cộng Sản Việt Nam đã tới và đã điểm.

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Đức Quốc, thứ ba, ngày 11 tháng 01 năm 2010)

Monday, January 11, 2010

Báo Herald Sun sử dụng cờ cộng sản Việt Nam trong bài phỏng vấn Chủ Tịch CĐNVTD-VIC Úc châu


Thông Báo

V/v: Báo Herald Sun sử dụng cờ cộng sản Việt Nam trong bài phỏng vấn Chủ Tịch CĐNVTD-VIC
    Kính thưa:
    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị lãnh đạo các hội đoàn, đoàn thể,
    - Quý vị trưởng nhiệm các cơ quan truyền thông Việt ngữ,
    - Cùng toàn thể đồng hương.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2010, báo Herald Sun có phỏng vấn Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria về vấn đề “kỳ thị tại Victoria” để đăng trong kỳ báo ngày 11 tháng 1 năm 2010.

Ký giả Ruth Lamperd của tờ Herald Sun đã phỏng vấn chúng tôi, Nguyễn Văn Bon xin ý kiến về vấn đề kỳ thị tại tiểu bang Victoria nhưng không hề đề cập đến vấn đề in cờ CSVN chung với lời phát biểu của chúng tôi.

Sau khi trả lời phỏng vấn ký giả, chúng tôi được mời đến chụp hình chung với quý vị lãnh đạo của các cộng đồng sắc tộc bạn.

Từ lúc phỏng vấn cho đến khi chụp hình, ký giả hay báo Herald Sun không hề đề cập vấn đề sử dụng cờ in chung với lời phát biểu.

Chúng tôi sửng sốt khi báo Herald Sun ra ngày 11 tháng 1 năm 2010, có lá cờ máu của nhà cầm quyền CSVN đăng chung vvới lời phát biểu của chúng tôi.

Đối với chúng tôi đây là sự xúc phạm trầm trọng đối với Cộng Đồng chúng ta cũng như cá nhân của chúng tôi.

Tôi đã lập tức liên lạc vời ký giả và toà soạn và yêu cầu:
    - Phải đăng đính chánh trong kỳ in tới và xin lỗi Cộng Đồng chúng ta.
    - Chánh thức gửi thư xin lỗi Cộng Đồng
Chúng tôi cũng xin tái xác định lập trường của cá nhân chúng tôi và của CĐNVTD-UC/VIC đối với nhà cầm quyền CSVN là: chúng tôi tuyệt đối không chấp nhận đối thoại, hợp tác, liên hệ, hòa hợp hay hòa giải dưới bất cứ hình thức nào với nhà cầm quyền CSVN.

Trân trọng kính báo,


Nguyễn Văn Bon
Chủ Tịch CĐNVTD-VIC
Ngày 11 tháng 1 năm 2010