Thursday, November 5, 2009

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM (1901-1963) - Nguyễn Hùng Kiệt

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
(1901-1963)

Nguyễn Hùng Kiệt

Tiểu Sử

Ngô Đình Diệm (Hán tự:吳廷琰) sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình quyền quý theo Công giáo ở Việt Nam, tên thánh của ông là Jean Baptiste (Gioan Baotixita).

Gia Đình

Theo các tài liệu lịch sử đã được công bố, Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình công giáo danh vọng bậc nhất miền Trung thời đó. Thân phụ là cụ ông Ngô Đình Khả và thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Thân, nguyên quán làng Đại Phong, Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Trung Phần Việt Nam. Cụ Ngô Đình Khả là Thượng Thư triều đình Huế kiêm Phụ Đạo Đại Thần và cũng là Cố Vấn của vua Thành Thái.

Gia đình ông bà cụ cố Ngô Đình Khả có tất cả 9 người con: 6 người con trai và 3 người con gái. Trưởng nam là Tổng Đốc Ngô Đình Khôi đã bị cộng sản giết năm 1945 cùng với người con trai là Ngô Đình Huân; Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục; Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người con trai thứ ba; ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao, tức bà Thừa Tùng; bà Ngô Đình Thị Hiệp, tức bà Cả Âm, thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng, tức bà Cả Lễ, nhạc mẫu nghị sĩ Trần Trung Dung, tiếp theo là ba người con trai: Cố vấn Ngô Đình Nhu, Cố vấn Ngô Đình Cẩn và đại sứ Ngô Đình Luyện, người con út trong gia đình.

Cụ Cố Ngô Đình Khả nổi danh là một vị khoa bảng xuất chúng. Thời đó, tại Việt Nam rất hiếm có người được hấp thụ cả hai nền giáo dục Đông và Tây như Cụ. Lúc thiếu thời, Cụ theo Nho học, sau đó vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang đại chủng viện Penang để học Triết học và Thần học Tây Phương bằng tiếng Pháp và tiếng La Tinh. Cụ là một chủng sinh rất xuất sắc, nhưng vì không có ơn gọi để trở thành linh mục, Cụ đã xin trở về cuộc sống thế tục.

Cụ Cố Ngô Đình Khả còn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, đức độ, một nhà ái quốc chân chính, là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Thành tích đáng kể nhất của cụ cố Ngô Đình Khả là nỗ lực thành lập Trường Quốc Học tại Huế, một trường công lập đầu tiên giảng dạy theo chương trình học thuật Đông Tây tại Việt Nam. Và chính Cụ là vị đại thần duy nhất đã can đảm công khai chống lại thực dân Pháp phế bỏ và đầy vua Thành Thái sang Phi Châu sống lưu vong, sau đó Cụ đã xin rũ áo từ quan về quê làm ruộng.

Lúc thiếu thời, ông Diệm còn đuợc theo học dưới sự dạy dỗ của một vị cha tinh thần khác, cũng nổi tiếng về kiến thức quảng bác, đức độ và lòng yêu nước: Đó là Quận Công Nguyễn Hữu Bài, Thượng Thư dưới triều vua Duy Tân. Ngài là vị đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Vì thế dân chúng miền Trung thời đó vô cùng cảm kích ngưỡng mộ nên đã có phương ngôn: “Đày vua không Khả. Đào mả không Bài”.
Ngoài việc hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, ông Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.

Thời trẻ

Từ lúc còn nhỏ, ông được Nguyễn Hữu Bài – quan phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ, từ năm 15 tuổi ông vào học trường dòng với dự định sau này làm tu sĩ, nhưng không chịu nỗi kỷ luật khắt khe trong trường dòng, ông đã bỏ trường dòng ra xin học vào trường quốc học Huế
Từ năm 1919 ông ra Hà Nội học trường Hậu Bổ (trường hành chính) và tốt nghiệp 2 năm sau đó năm 1921.

Giai đoạn làm quan triều Nguyễn

Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Năm 1929, ông được bổ nhiệm làm Tuần vũ tỉnh Bình Thuận.

Năm 1932, ông được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Lại trong triều đình vua Bảo Đại. Trong thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký uỷ ban cải cách, ông đề xướng hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề. Việc thống nhất cốt sẽ buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viên tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì thấy không được chấp nhận, ông từ chức ngày 12.07.1933..

Hoạt động chính trị chống Pháp :1933-1945

Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim,… tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris để đòi truất phế quan Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đã phục hồi tước vị hàm cho ông và ông về dạy tại trường Thiên Hựu do anh trai Ngô Đình Thục làm Giám học.

Thời kỳ 1934-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp với thành phần đảng viên nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này, Ông Ngô Đình Diệm trốn vào Sài Gòn với sự giúp đỡ của hiến binh Nhật.

Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Uỷ Ban Kiến Quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để, tuy nhiên Nhật không cho Cường Để về nước để lập làm vua mà vẫn tiếp tục sử dụng Bảo Đại để lập nên một chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.

Trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương 1945-1954.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Bộ Tư Lệnh Nhật ở Đông Dương tổ chức đảo chánh lật đổ nhà cầm quyền Pháp. Đại sứ Nhật Yokohama yêu cầu vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam Độc Lập trong khối Đông Nam Á. Đối phó với tình hình mới, nhà vua lại mời ông Ngô Đình Diệm về làm Thủ Tướng nhưng vì không muốn làm vật hy sinh, ông đã từ chối và nhà vua đã mời cụ Trần Trọng Kim lúc đó 62 tuổi thành lập nội các.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, Việt Minh khai thác sự đột biến hoang mang của quần chúng, đã tổ chức cướp chính quyền trong một cuộc biểu tình ngày 18 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội. Sau đó, Cựu Hoàng cũng tuyên bố thoái vị. Còn ông Diệm trên đường từ Sàigòn về Huế đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hoà và biệt giam tại Quảng Ngãi. Để củng cố địa vị, Hồ Chí Minh đã mời ông Diệm hợp tác với chính phủ nhưng ông đã cương quyết từ chối. Khi bị giam tại Tuyên Quang, ông bị bệnh nặng được đưa về điều trị tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội do áp lực của đảng phái quốc gia và Phó chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ông đã được ông Nhu lúc đó đang làm việc tại Thư Viện Trung ương Hà Nội tìm cách cứu thoát.

Đến năm 1948, một lần nữa ông Ngô Đình Diệm từ chối lời mời của Cựu Hoàng thành lập chính phủ trong Liên Hiệp Pháp. Từ đó ông xuất ngoại, đi vận động ngoại giao tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ và được Đức Giáo Hoàng Piô XII tiếp kiến tại La Mã.

Năm 1950, ông theo người anh trai là giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây, và sau đó ông sang Mỹ sống tại đây trong hai năm, phần lớn thời gian lưu trú tại các trường dòng Lakewood ở New Jersey và trường dòng Ossining ở New York, đây cũng là thời kỳ ông gặp hồng y Spellman, người đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của ông sau này.

Vì tình hình chiến sự suy sụp mau chóng sau khi thất thủ tại Điện Biên Phủ 7.5.1954, Chính Quyền Pháp muốn rút lui trong danh dự nên đồng ý trao trả độc lập thực sự cho Việt Nam. Trước tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị cắt làm đôi, Cựu Hoàng Bảo Đại đã kêu gọi lòng ái quốc và trách nhiệm trước sự tồn vong của dân tộc, đã yêu cầu ông Diệm nhận lãnh sứ mạng. Vì nghĩ rằng đây là cơ hội cuối cùng, ông có thể đứng ra lập chính phủ để cứu nước nên ông đã nhận lời, bất chấp sự can ngăn của các chính khách thân hữu. Sự kiện lịch sử này xảy ra ngày 19. 06. 1954, trước khi Hiệp Định Genève chia cắt hai miền Nam Bắc đất nước theo sông Bến Hải ngày 20. 07. 1954 đúng sau 31 ngày. Ngày 24 tháng 06 năm 1954 Thủ Tướng Diệm về nước thành lập chính phủ.

Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam 19.6.1954-26.10.1955

Trong thời kỳ đầu làm Thủ tướng quốc gia Việt Nam, thực tế ông không có quyền lực đối với các lực lượng quân đội, cảnh sát với những người đứng đầu là Trung tướng Nguyễn Văn Hinh (gốc sĩ quan Trung tá Không quân Pháp, vợ Pháp) và Thiếu tướng Lê Văn Viễn (Bình Xuyên). Hai lực lượng này liên minh với nhau nhằm chống lại ông, ông cũng không kiểm soát được bộ máy quan chức dân sự vì các viên chức Pháp đang còn nhiều, nắm giữ các vị trí then chốt. Nền tài chính vẫn do ngân hàng Đông Dương mà phía sau là chính phủ Pháp quản lý. Thực tế trong gia đoạn đầu cầm quyền thủ tướng ông không có quyền hành.

Sự kiện quan trọng trong giai đoạn này là việc Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây chính phủ Việt Nam nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước.

Ngô Đình Diệm cho rằng cơ hội duy nhất cho quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải giành được độc lập thực sự, và ông nhất định thực hiện mục tiêu đó một cách dũng cảm và kiên trì hiếm có. Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của ngân hàng Đông Dương, từ nay giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do ngân hàng Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Việt Nam quản lý, tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp giao lại cho Việt Nam trong thời hạn năm tháng việc kiểm soát quân đội quốc gia lâu nay vẫn thuộc bộ chỉ huy Pháp.

Thu phục Dũng Tướng Trịnh Minh Thế:

Trình Minh Thế (1922 – 3 tháng 5 năm 1955) (một số tài liệu viết là Trịnh Minh Thế) là một người theo chủ nghĩa quốc gia và là một Tướng lãnh quân sự tài ba trong thời gian cuối của cuộc kháng chiến tranh chống thực dân pháp, đầu cuộc chiến tranh Quốc-Cộng Việt Nam.

Gia thế
Trịnh Minh Thế sinh ở tỉnh Tây Ninh trong một gia đình theo đạo Cao Đài. Theo Phòng Nhì Pháp thì cha ông tên là Trình Trung Vinh, tuy nhiên nguồn khác lại cho biết cha ông là Trịnh Thành Quới một giáo chức Cao Đài, đồng thời là một thương gia phát đạt.

Gia đình họ Trịnh chuyển từ Bình Định vào miền Nam từ đầu thế kỷ 19 và đổi họ từ Trịnh sang Trình, theo gia đình ông là để tránh sự trả đũa của nhà Nguyễn với những người theo Tây Sơn (Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ).

Do sinh trưởng trong một gia đình có thế lực, Trịnh Minh Thế được hưởng sự giáo dục tốt hơn rất nhiều người Việt Nam đương thời nói chung. Ông tốt nghiệp tiểu học (Certificate of Primary Education),
Hoạt động

Thời kỳ 1940-1954

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Nhật tiến vào Đông Dương. Phản ứng trước tình hình phong trào chống Pháp càng ngày càng gia tăng, toàn quyền Đông Dương là Đô đốc Decoux hành động quyết liệt. Ông ta cho đóng cửa một số nơi thờ tự của Cao Đài, rồi tới ngày 26 tháng 8 năm 1940 cho đóng cửa Tòa thánh Tây Ninh. Tới ngày 27 tháng 7 năm 1941, nhiều lãnh đạo của Cao Đài, kể cả Hộ Pháp Phạm Công Tắc bị bắt giữ.

Để giành được sự ủng hộ của các tổ chức Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia, Nhật tiến hành bắt liên lạc và hỗ trợ cho họ, trong đó có Cao Đài. Tới tháng 2 năm 1943, Nhật giúp vị Phối Sư Cao Đài là Trần Quang Vinh mở lại thánh thất Cao Đài tại Sài Gòn. Để đáp lại, Cao Đài hợp tác tích cực với Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh kêu gọi giáo dân Cao Đài xung phong đăng lính cho quân Nhật, 10.000 giáo dân Cao Đài làm việc cho Nhật, đáng kể nhất là tại xưởng đóng tàu Nitian. Số người này sau giờ làm việc được huấn luyện quân sự. Nhờ vậy mà Trịnh Minh Thế được huấn luyện quân sự trong trường sỹ quan của Hiến binh Nhật (Kempetai), khi Nhật bắt đầu sử dụng lực lượng vũ trang Cao Đài. Tới năm 1945, ông trở thành một sỹ quan của lực lượng quân sự Cao Đài.

Được sự bảo trợ của Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh tổ chức lực lượng vũ trang gồm 3.000 người, tiếng là theo chỉ thị của Hoàng thân Cường Để. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng Cao Đài mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp. Thủ lĩnh quân sự của Cao Đài là Trần Văn Thành tuyên bố Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang Cao Đài liên minh với Nhật Bản để chống Pháp. Thời kỳ này Trịnh Minh Thế đã gia nhập lực lượng vũ trang Cao Đài.

Ông thành lập đội quân xung kích Hắc Y, mặc quần áo bà ba đen, sau trở thành đồng phục cho tất cả dân quân Liên Minh. Đầu năm 1949, Trịnh Minh Thế đưa lực lượng của mình từ các tỉnh miền Đông về Tây Ninh để ủng hộ Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc, rồi sau đó được phong Thiếu tá.

Lực lượng của Trịnh Minh Thế có quân số trên 3 ngàn người, bảo vệ cho Tòa Thánh Tây Ninh tránh được các cuộc tấn công của lực lượng Việt Minh.

Tháng 6 năm 1951, Trịnh Minh Thế chính thức rời khỏi hàng ngũ giáo phẩm Cao Đài với chừng 2.000 người của mình và thành lập lực lượng riêng, lấy tên là Liên Minh, chủ trương chống cả Việt Minh và Pháp. Cha và anh của ông cũng thành lập lực lượng vũ trang trong Liên Minh, về sau hai người bị giết khi đụng độ với lực lượng Việt Minh.

Lực lượng Liên quân của Trình Minh Thế được cho là đã thực hiện một loạt các vụ Ám sát tại Sài Gòn từ năm 1951 tới năm 1953, chiến công lẫy lừng ám sát Thiếu tướng Chanson tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp Nam bộ Việt Nam tại Sa Đéc năm 1951.

Tháng 8 năm 1953, quân Pháp mở cuộc tấn công vào căn cứ của Trình Minh Thế, sử dụng một tiểu đoàn sơn cước Nùng tinh nhuệ. Quân Liên Minh phải tránh vào các hang động ở núi Bà Đen. Về sau Trình Minh Thế phải dời sở chỉ huy về núi Heo. Tới năm 1954, Liên Minh đã mở rộng địa bàn hoạt động về phía tây-nam, tới tận sông Cửu Long. Lực lượng của họ được chia làm nhiều tiểu đoàn, quân số có lẽ vào khoảng 4.500 người.

Thời kỳ 1954-1955.
Tháng 9 năm 1954, Đại tá Lansdale (Phái bộ Mỹ) và Cố vấn Ngô Đình Nhu phát hiện ra tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc gia, đang tiến hành âm mưu lật đổ TT Diệm. Cùng lúc, quân Pháp phong tỏa các lực lượng Cao Đài định tiến vào Sài Gòn giải nguy cho Ngô Đình Diệm. Lực lượng Liên Minh của Tướng Thế đã tiến vào Sài Gòn, đáp lại lời kêu gọi ủng hộ TT Diệm.

Cuộc đảo chính bị thất bại một phần các sỹ quan cấp dưới của tướng Hinh lấy lí do đi nghỉ mát, (vì ủng hộ Thủ tướng Diệm) thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính không thể tiến hành được. Lí do Quan trọng 3.500 quân Hắc y của Tướng Thế đã có mặt tại Sài gòn để bảo vệ TT.
Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của Trình Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Nam Việt Nam, còn Trình Minh Thế được Thủ tướng Diệm gắn lon Thiếu tướng, (TT Diệm chỉ có 2 Thiếu tướng: Lê văn Ty, Trịnh Minh Thế) quân Liên Minh Hắc y diễu hành vào Sài Gòn. Tân Thiếu tướng Trình Minh Thế điều động 15.000 quân Cao Đài về Tòa Thánh Tây Ninh như lực lượng dự bị, còn mình dẫn phần lớn lực lượng của mình gồm 3.500 người về gia nhập quân đội quốc gia như thỏa thuận với TT Ngô Đình Diệm.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 5 năm 1955, tình hình tại Sài Gòn trở nên rất căng thẳng. Mâu thuẫn gay gắt về cả quyền lực chính trị lẫn kinh tế khiến đụng độ vũ trang giữa phe chính phủ và liên minh lực lượng vũ trang giáo phái cùng Bình Xuyên là khó tránh khỏi. Thủ tướng Diệm kiên quyết tiêu diệt lực lượng vũ trang đối lập, còn lực lượng giáo phái nhờ vào sự hậu thuẫn của Pháp cũng quyết không chịu nhượng bộ. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa vào Sài Gòn các đơn vị trung thành gồm 3 tiểu đoàn Nùng, rồi 2 tiểu đoàn dù dưới quyền đại tá Đỗ Cao Trí. Các đơn vị này cộng vào số binh sĩ của tướng Trình Minh Thế (Cao Đài), đại tá Nguyễn Văn Huê (Hòa Hảo) và thiếu tá Nguyễn Văn Đày (Hòa Hảo) làm cho cán quân lực lượng nghiêng về phía quân chính phủ, so độ 4.000-5.000 quân Bình Xuyên tại vùng Sài Gòn-Chợ Lớn.

Ngày 8 tháng 3 năm 1955, 7 tiểu đoàn quân Chính phủ bắt đầu hành quân tiêu diệt lực lượng đối lập là đảng Đại Việt tại Quảng Trị (Trung tá Nguyễn Bôn tự xưng Đại tá lập chiến khu Ba Lòng gần Khe Sanh), và tới ngày 25 tháng 3, quân dù mở cuộc tấn công vào phe đối lập tại Sài Gòn, nhưng Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely cùng tướng Lawton Collins (Mỹ) gây sức ép buộc quân chính phủ phải ngưng chiến. Tuy nhiên, thế lực của quân chính phủ được củng cố lên nhiều khi ngày 29 tháng 3, tướng Nguyễn Thanh Phương, tư lệnh các lực lượng Cao Đài tuyên bố ủng hộ chính phủ. Tình hình căng thẳng giữa hai bên kéo dài, các thỏa hiệp do Pháp và Mỹ làm trung gian đưa ra đều bị hai bên bác bỏ, tới ngày 26 tháng 4, xung đột quân sự bùng nổ trở lại. Quân đội chính phủ nhanh chóng đánh tan sức kháng cự của quân Bình Xuyên, tới cuối tháng 4, quân Bình Xuyên hoàn toàn bị đánh bại, bị đẩy khỏi thành phố, bị quân chính phủ truy kích.

Ngày 3 tháng 5 năm 1955, khi đang ngồi trên xe Jeep chỉ huy tiến quân qua cầu Tân Thuận, tướng Trình Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này suốt một thời gian không được làm sảng tỏ được, một số người đổ lỗi cho phía Pháp (vì họ đã thề giết cho bằng được Trình Minh Thế trong suốt nhiều năm, lúc này các Giang thuyền Pháp tuần tiểu trên Sông Sài gòn, lấy lí do bảo vệ kiều bào Pháp), trong khi một số người khác đổ lỗi cho chính quyền Đệ nhất Cộng Hoà. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh cãi, khi có nhiều thông tin khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông…. Khi nghe tin Tướng Thế tử trận, TT Diệm bật khóc, TT truy thăng Trung tuớng, tang lễ cữ hành nghi thức trọng thể: Tướng Lãnh Vị quốc vong thân. Ông được chôn cất tại núi Bà đen, gần toà thánh Tây ninh, nơi những năm tháng ông kháng chiến chống Pháp và Cộng sản.

Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường dọc suốt Quận 4 Sài Gòn đến cầu Tân Thuận cho tới năm 1975.

Dù Tình báo Pháp đã thú nhận sau này (1977) chính họ đã bắn tỉa từ một giang thuyền trên Sông Sài gòn dưới cầu Tân thuận, do nhận được tin từ một sĩ quan VN tại Bộ Tồng tham Mưu (sĩ quan này ủng hộ Tướng Hinh; Tướng Viễn, Bình Xuyên, vốn sĩ quan tình báo của Pháp trước đây).

Học giả Nguyễn Hiến Lê trước 1975 cho rằng TT Diệm giết, nhưng thực tế Nguyễn Hiến Lê không đưa bằng chứng thuyết phục. Sau 1975 ông vỡ mộng Chủ Nghĩa Cọng Sản, ông yêu thích tôn sùng. Trong Hồi ký Cuối đời 1980 ông thú nhận trước 1975, ông từng yêu thích lý tưởng CS. Điều này cho thấy những sách viết về chính trị của ông trước 1975 không được khách quan cho lắm. Không phủ nhận những tác phẩm khác là có giá trị: Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi.

Dẹp loạn Hiện tượng Sứ quân cát cứ:


Bình Xuyên:Tướng Lê văn Viễn (Bảy Viễn)

Bảy Viễn (1904-1970) là tên của một tướng cướp lừng danh trước năm 1945, về sau tham gia tổ chức lực lượng vũ trang chống Pháp, sau ly khai trở về hợp tác với chính quyền Bảo Đại. Bảy Viễn cũng là thủ lĩnh của lực lượng Bình Xuyên chống đối và bị Ngô Đình Diệm dẹp tan vào năm 1955.

Tung hoành ngang dọc

Bảy Viễn tên thật là Lê Văn Viễn, sinh năm Giáp Thìn (1904) tại Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh). Cha là Lê Văn Dậu, người Hoa gốc Triều Châu.
Năm 1921, Bảy Viễn vào tù lần đầu với bản án 20 ngày tù giam khi mới 17 tuổi do phạm tội trộm xe đạp.

Năm 1927, Bảy Viễn phạm tội hành hung người khác và bị phạt giam 2 tháng tù.

Năm 1936, Bảy Viễn bị chính quyền Nam Kỳ tuyên án 12 năm khổ sai đày đi Côn Đảo do tội cướp có vũ trang (súng). Tuy nhiên, đến năm 1940, Bảy Viễn vượt ngục thành công về đất liền sau 4 lần thất bại.

Năm 1942, Bảy Viễn bị bắt trong vụ tổ chức cướp xưởng mộc Bình Triệu. Tòa án tuyên phạt 12 năm khổ sai cộng thêm 8 năm còn thiếu trước đây là 20 năm.

Tham gia kháng chiến

Năm 1945 tham gia kháng chiến chống Pháp và trở thành Chi đội trưởng Chi đội 9 thuộc Liên khu Bình Xuyên, do Ba Dương (tức Dương Văn Dương) làm Tổng chỉ huy.

Ngày 20 tháng 2 năm 1946 Ba Dương hy sinh trong một trận chống càn của Pháp ở Bến Tre khi chỉ huy một bộ phận quân Bình Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sát về cứu nguy cho mặt trận An Hóa – Giao Hòa. Sau khi Ba Dương hy sinh, Bảy Viễn vận động để nắm chức Tư lệnh Bình Xuyên nhưng một số cán bộ chỉ huy trưởng các chi đội Bình Xuyên đã không tán thành.

Tháng 5 năm 1946 Tướng Nguyễn Bình tư lệnh Viêt Minh tại Nam bộ ký quyết định phong cho Bảy Viễn làm Khu Bộ phó chiến khu 7 với ý định tách Bảy Viễn ra khỏi vị trí trực tiếp chỉ huy lực lượng Bình Xuyên và để Bảy Viễn không bất mãn bỏ kháng chiến về với Pháp.

Tháng 12 năm 1947, Trung tá Savani (Phòng Nhì Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sát.

Cuối tháng 5 năm 1948 Bảy Viễn mang hai đại đội võ trang mạnh, thân tín nhất, có cả trung liên và đại liên, từ Rừng Sát, vượt sông Soài Rạp, băng qua lộ 4, xuôi theo dòng kênh Dương Văn Dương (Lagrange) đến căn cứ địa của Nam Bộ, tại làng Nhơn Hòa Lập để họp và nhận chức Khu bộ trưởng Chiến khu 7.

Tại cuộc họp Trung Tướng Nguyễn Bình quyết định giải tán tổ chức Bình Xuyên phiên chế thành các Trung đoàn Vệ Quốc Đoàn để phá tan âm mưu chia rẽ quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp. Bảy Viễn phản đối quyết liệt.

Về thành

Rạng sáng ngày 27 tháng 5 năm 1948, Bảy Viễn đã âm thầm rút quân Bình Xuyên rời chiến khu Đồng Tháp đến Đông Thành nơi Chi đội 4 của Mười Trí (bạn thân Bảy Viễn) đóng quân và cho bạn biết ý định về hợp tác với Pháp. Mười Trí không ngăn cản nhưng âm thầm phân tán lực lượng võ trang của Bảy Viễn. Cho nên khi rút về tới xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Bảy Viễn chỉ còn có hai trung đội.

Sau khi về hợp tác với Pháp, Bảy Viễn được Tướng De la Tour gắn lon Đại tá.

Năm 1952, Bảo Đại phong cho Bảy Viễn cấp bậc Thiếu tướng 2 sao (Général de Brigade).

Từ năm 1948, lực lượng Bình Xuyên ly khai là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp, địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ (gái mãi dâm), cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn-Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde (Đại Thế Giới), Casino Cloche d’Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat[1].. Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên trở thành một bộ phận Sứ Quân cát cứ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Bị trấn áp và lưu vong

Tháng 7 năm 1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chính thành lập chính phủ trung ương và nộp danh sách nội các. Lê Văn Viễn, vị chỉ huy Bình Xuyên đòi được tham chính và đưa ra yêu sách lập chính phủ mới. Lực lượng Bình Xuyên cùng với quân đội Cao Đài và Hòa Hảo còn lập Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia và gửi tối hậu thư buộc chính phủ phải có danh sách mới trước ngày 26 tháng 3 năm 1955. TT Ngô Đình Diệm không chịu nhượng bộ nên Bình Xuyên mở cuộc tấn công Bộ tổng tham mưu rồi pháo kích vào Dinh Độc Lập. Sang tháng 4 năm 1955 thì quân Bình Xuyên đánh thành Cộng Hòa. Quân đội Quốc gia phản công, phá được căn cứ chính của Bình Xuyên ở khu vực cầu Chữ Y khiến lực lượng Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi Sài Gòn, Chợ Lớn và rút về Rừng Sát.

Tháng 9 năm 1955 TT Ngô Đình Diệm cử đại tá Dương Văn Minh thay Tướng Thế mở Chiến dịch Hoàng Diệu truy nã Bình Xuyên ở Rừng Sát. Quân Bình Xuyên bị hoàn toàn tiêu diệt. Lê Văn Viễn đào tẩu sang Campuchia rồi lưu vong sang Pháp, chấm dứt thực lực của Bình Xuyên.

Một lực lượng Bình Xuyên ly khai khác do Võ Văn Môn (tức Bảy Môn) chỉ huy đào thoát về miền Đông Nam Bộ, lập căn cứ rồi theo Việt cộng Sau 1975 la Đại tá CS hồi hưu sống tại Sài gòn.
Năm 1970 Bảy viễn qua đời tại Paris.

Ba Cụt ( ? – 1956) tên thật Lê Quang Vinh là chỉ huy quân đội của giáo phái Hòa Hảo chống lại Quân đội Quốc gia Việt Nam, Việt Minh, vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu thâp niên 1950.

Lực lượng quân sự của giáo phái Hòa Hảo được thành lập dưới sự hậu thuẫn của quân đội Pháp như là Lực lượng bổ sung (Suppletif Forces) để chống Việt Minh. Và Ba Cụt là một trong những chỉ huy của lực lượng này, được Pháp gắn lon Đại tá.

Sau năm 1954, TT Ngô Đình Diệm cho tiến hành thương thuyết với các giáo phái để thống nhất lực lượng quốc gia, tiến tới thành lập Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng dưới sự hỗ trợ và khuyến khích của Pháp, Ba Cụt không những không hợp tác mà còn liên minh với quân Bình Xuyên để chống lại chính phủ. Tự phong Thiếu tướng.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho tiến hành các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (mở ngày 23 tháng 5 năm 1955) và chiến dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1 tháng 1 năm 1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn không thanh toán được. Sau đó TT Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho PTT Nguyễn Ngọc Thơ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong thiếu tướng, Ba cut giả vờ thương thuyết để rút vảo Đồng tháp Mười kháng chiến, nhận viện trợ của Pháp rồi vào phút cuối trở mặt.

Ngày 2.6.1956 QLVNCH tiến quân vào nơi trú ẩn Ba cụt, bắt sống ông ta trên chiếc thuyền nhỏ. Ông ta tuyên bố trên đường ra hợp tác với chính quyền?

Cả hai phiên tòa sơ thẩm (ngày 11 tháng 6 năm 1956) và thượng thẩm (ngày 26 tháng 6 năm 1956) của Tòa Đại Hình và phiên tòa ngày 4 tháng 7 năm 1956 của Tòa Án Quân Sự đều tuyên án tử hình Đai tá Lê Quang Vinh với tội danh mưu phản. (Khi bắt đầu thương thuyết lần đầu 01-01-1956, đến khi bị bắt 2.6.1956, hơn 5 tháng sau vì vậy lý do ông tuyên bố khi bị bắt là trên đường ra hợp tác không thể chấp nhận!)

Vào lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13 tháng 7 năm 1956, Ba Cụt đã bị hành quyết bằng cách lên máy chém tại Cần Thơ.

Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà: 26.10.1955-2.11.1963

Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục các lực lượng Bình Xuyên, Hoà Hảo, Cao Đài vốn là các tổ chức do Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông, tiếp đó là cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955 đã chấm dứt chính thể quốc gia Việt Nam – quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và ông được bầu làm Tổng thống vào ngày 23 tháng 10 năm 1955. Hai năm sau, 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng Hoà.

TT Dwight Eisenhower đích thân ra tận phi cơ đón chà 24 phát súng đại bác đón chào TT Việt Nam Cộng Hoà. TT Eisenhower ca ngợi TT Diệm là Churchill Châu Á. TT Việt Nam Cộng hoà đọc diễn văn trước Quốc hội Hoa Kỳ tất cả Nghị Sĩ đứng dậy vỗ tay rầm trời trước câu nói bất hủ của TT VNCH: “Nếu Hồng quân Trung Hoa vuợt vĩ tuyến 17 muốn nhuộm đỏ Miền Nam, biên giới của Mỹ Quốc và Thế giới tự do sẽ kéo dài đến vĩ tuyến 17″.

Vị Quốc Vong Thân: 2.11.1963

Sự kiện Phật Đản, 1963 tại Huế do Thượng toạ Trí Quang xách động xảy ra là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới chính phủ TT Kennedy bỏ rơi TT Ngô Đình Diệm và khuyến khích đảo chính để lật đổ nền đệ nhất Cộng hoà, đã đưa Miền Nam đến tình trạng hỗn loạn. Cuộc đảo chính diễn ra vào lúc 11h30 ngày 01 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đã chiếm dinh tổng thống, ông và Ngô Đình Nhu ra khỏi dinh và về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam – Chợ Lớn.

Sau khi bị lật đổ bởi các Tướng Lãnh dưới quyền (mà TT Diệm từng gắn sao trên cổ áo cho họ) ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông cùng em trai – cố vấn Ngô Đình Nhu lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam, ông cùng với ông Nhu gọi điện chấp nhận bàn giao chính quyền cho các Tướng Đảo chánh để tránh tình trạng chia rẽ quân đội trong công cuộc chống cộng. (Tôi hoàn toàn có chứng cớ là TT Diệm có thể lật ngược thế cờ tiêu diệt các Tướng phản loạn, nhưng Ông không làm. Cố vấn Nhu đành thúc thủ. Nên nhớ Lữ đoàn phòng vệ Phủ TT thiện chiến trung thành có thể đánh tan cả sư đoàn bộ binh. Các binh sĩ trang bị tiểu liên M.2, súng diệt chiến xa, súng phòng không hạ chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, một chi đoàn thiết giáp M.113. Tư lệnh Lư đoàn đã từng vị Trung đoàn trưởng trẻ nhất QLVNCH khi 25 tuổi (1961) nhưng nhận lệnh bàn giao, họ đã bật khóc uất hận. Đây là một sai lầm của TT vì quá nhân đức!)

Trên đường bị chở về Bộ Tổng tham mưu, ông và Ngô Đình Nhu bị một thiếu tá trong lực lượng đảo chính hạ sát dã man.

Trong khoảng thập niên 1980, CS ra lệnh dời. Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu ngày nay. Mộ hai ông nằm hai bên mộ thân mẫu, bà Phạm Thị Thân, ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và “Huynh” (chỉ ông Diệm) hoặc “Đệ” (ông Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh.

Bài học Lịch Sử:
“Bài học lịch sử quan trọng và thiết thật nhất mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã để lại cho chúng ta: Đó là lập trường cương quyết Bảo Vệ Chủ Quyền Quốc Gia. Tổng Thống Diệm là con người đã hy sinh cả cuộc đời để tranh đấu cho độc lập và chủ quyền quốc gia. Đối với ông, đó là những thứ thiêng liêng nhất, không thể bị hy sinh, không thể dùng để đổi chác với cứ điều gì. Với ông, nếu để người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, thì chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm, chính nghĩa cuộc tranh đấu chống cộng cũng mất.

Trong cuộc viếng thăm chính thức Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1961, Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đã đề nghị việc gửi Quân Đội Mỹ sang tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã bày tỏ quan điểm chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng với việc gửi Quân Đội Mỹ đến Việt Nam ông đã cương quyết từ chối và nói:

- “Nếu Qúy Vị mang Quân Đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân Đội Viễn Chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện của Quân Đội Mỹ sẽ làm cho dân chúng dễ dàng tin theo những lời tuyên truyền của cộng sản. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam, vì làm cho cuộc chiến đấu của chúng ta mất chính nghiã”.

Và như chúng ta đã biết thái độ cương quyết từ chối này đã là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1963 của một nhóm tướng lãnh phản loạn và cái chết thê thảm của chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Bài học lịch sử thật đắt giá, dã man và tàn bạo!!

Sự vĩnh viễn ra đi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gây xúc động sâu xa và niềm thương cảm lớn lao nơi các lãnh tụ Á Châu thời đó. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã than thở:

- “Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất 100 năm nữa mới tìm được một nhà lãnh tụ cao qúy như vậy”.

Hơn nữa, cái chết của Cố Tổng Thống Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ phải giật mình và đặt vấn đề. Chính Tổng Thống Hồi Quốc, Ayub Khan, đã nói thẳng với Tổng Thống Nixon:

- “Cuộc thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa Kỳ”.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm khi cầm quyền. Nhưng bất cứ người nào, dù là đồng minh như Hoa Kỳ hoặc đối thủ như CS, cũng phải công nhận rằng Tổng Thống Diệm là một nhà lãnh tụ nhiệt tình yêu nước, thương dân, trong sạch, khí phách và không làm cho người dân Việt phải hổ thẹn, vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và uy quyền quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào đã phải hy sinh quá nặng nề như thế cho Dân Tộc, mất một lần bốn người con ưu tú: một vì tay cộng sản và ba vì tay quốc gia!! Trên 46 năm qua, hai nấm mồ khiêm tốn của Tổng Thống và ông Cố Vấn nằm quạnh hiu nơi nghĩa trang Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương là một bài học lịch sử qúy giá cho thân phận nước nhược tiểu đứng lên chống đế quốc, chống CS. Nhưng chắc chắn mãi mãi vẫn là của lễ vô giá dâng trên Tổ Quốc.

Tài Liệu Tham Khảo Mỹ – Việt – Hà Nội
- Người Mỹ trầm lặng – The Quiet American (1955)
- Cao Đài
Tài liệu tham khảo
- F Hill, Millenarian Machines in Vietnam, Comparative Studies in Society and History, 13, July 1971, trang 325-350.
- Nhị Lang, Phong trào kháng chiến Trình Minh Thế/The resistant movement of Trình Minh Thế, Virginia, USA, Alpha, 1989
- Sergei Blagov, Honest Mistakes: The Life and Death of Trình Minh Thế, Nova Science Publishers, Inc, Huntington, New York, 2001 .
- Chân dung Ngô TT: Linh mục Trần Quí Thiện.
- John Cooney, The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book, New York.
Dennis Bloodworth (1970), An Eye For The Dragon, Farrar Publisher, Straus & Giroux, New York, p. 209.
Cố tổng thống Ngô Đình Diệm với những bài học lịch sử
- They Shoot Allies, Don’t They? When 25 Years Ago, Ngo Dinh Diem Was Assassinated. His Supporters Blamed the United States. They Were Right, Assassin in our Time; (kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta). Sandy Lesberg
- A death in November (Cái chết vào tháng 11) Ellen J . Hammer.
Tài liệu Lục quân Hoa Kỳ:
- Cuốn băng ghi âm của TT Lyndon B. Johnson.
- Quân sử Hà Nội .
- Hồi ký: Đại tá Nguyễn Hữu Duệ Tư lệnh phó, Quyền tư lệnh Lữ đoàn phòng vệ phủ TT: 01.11.1963

Wednesday, November 4, 2009

Một Gương Sáng Cho Những Ai Muốn Trở Thành Lãnh Tụ


* Nguyên tắc của Tôn Tử phương tây Clausewitz: "Sau một chiến bại, phe thua trận chỉ có thể phản công sau khi đã tìm ra lý do của bại trận".

Vị Tổng Thống (TT) tiên khởi, có công xây dựng Đệ Nhất Cộng Hòa của quốc gia Việt Nam, đã anh dũng và can cường hy sinh tại trận địa "cho đồng bào ruột thịt Bắc cũng như Nam". Đó là 9 chữ chót trong câu nói sau cùng của vị nguyên thủ quốc gia vào đêm 23/10/1963 với ông Nguyễn Mâu. Và TT Diệm đã vĩnh viễn đơn côi ra đi trong chiếc thiết vân xa M 113 vào sáng sớm ngày 02/11/1963.

Một bất hạnh kinh hoàng trời giáng đã xảy ra ngay tại chiến tuyến chống cộng miền Nam, cách đây đã 46 năm. Lần đầu tiên tại nơi quê hương yêu dấu của TT, vào hồi ấy, dấy lên một hiện tượng liên kết chưa bao giờ thấy, giữa bạn và thù, qua một bọn phản trắc khốn nạn, đã phá nát chiến tuyến chống cộng Miền Nam và sát hại một vị nguyên thủ quốc gia đang xung trận trong tư thế tướng tiên phong.

Từ đó: "Việt Nam tự do ơi! Ngươi đã bất đắc kỳ tử". Một món quà trên khay vàng tặng không cho CSVN. Họ đột nhập vào bộ máy chính quyền cả hành chánh lẫn quân đội. Mất chính nghiã của cuộc chiến cho tự do. Rối loạn liên miên! Các trung sĩ tự phong tướng! Tôn giáo nầy tấn công tôn giáo nọ! Một sự kiện đầy hệ qủa tang thương còn vẫn còn dài lê thê cho đến hôm nay. Thử đặt câu hỏi ai là kẻ đã tạo ra nỗi nầy cho chiến tuyến chống cộng Miền Nam? Ai đã phá nát nền Cộng Hòa đầu tiên của quốc gia Việt Nam? Ai đã giết hại lãnh tụ đồng thời là Tổng Thống tiên khởi của quốc gia nầy? Áo choàng tu nào đang mang nhiều vết máu? "A goddam bunch of thug", cựu TT Johnson đã phải thốt lên như vậy!

Thời gian giật lùi xem như đã đủ. Các tài liệu bí mật phần đông đã đuợc giải mật. Tuy vai trò của lịch sử chỉ là ghi chép các sự kiện và không phê phán hay kết án một ai. Nhưng phe chiến bại phải trực diện với vấn đề, để tìm cho ra các lý do đã tạo cái bại trận thảm thương ấy, hầu có thể phản công.

Nỗi lòng của Tổng Thống Diệm vào một đêm khuya

Con chim trước khi chết kêu lên những tiếng não nùng. Con người biết trước định mệnh, thường đi vào tâm sự với chinh mình. Bên ngoài, CSVN và bạn Mỹ "đồng minh" đang bao vây tung những chưởng độc hại tấn công. Và bên trong, một bọn côn đồ đáng nguyền rủa (A goddam bunch of thug) đang chuẩn bị thi hành nhiệm vụ tôi tớ ngoại bang, cố TT Diệm đã linh cảm sẽ phải ra đi vĩnh viễn mà hậu quả vận nước và con dân sẽ ba chìm bảy nổi.

Nên vào đêm 23/10/1963 Cố TT Diệm đã tâm sự với ông Nguyễn Mâu tại dinh Gia Long. Đêm ấy, ông Mâu mang tới biếu cố TT Diệm một gói nhãn đầu mùa, món qùa giản dị và thanh bạch, nhưng mang nặng tình quê hương và ông Nguyễn Mâu đâu có ngờ đây là lần chót gặp TT Diệm và cũng là món qùa cuối cùng biếu TT.

Nguyễn Mâu ghi chép các lời nói của cố TT Diệm (báo Chính Nghiã số I, 3/11/1983)

1. "Quốc gia đang trải qua một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Quân lực ta thiếu cán bô. Các tướng lãnh được người Pháp đặt để trong ý thức dùng thâm niên quân vụ như một yếu tố hợp lý cho sự tùng phục chỉ huy. Quân đội cần những tướng lãnh có học, có tài, có óc hơn cái gọi là thâm niên quân vụ".

2. "Quân đội còn yếu, hiện thời chưa thanh toán được các nhóm du kích võ trang miền Nam, làm sao đương đầu được với toàn bộ chính quy Bắc Việt, sẽ được thâm nhập vào Nam, tăng cường độ chiến tranh du kích chiến lên vận động chiến, rồi trận địa chiến? Nều đề bạt gấp rút sĩ quan trẻ có học e rằng sự lựa chọn thiếu cẩn trọng và hàm hồ, ta cần thời gian làm nỗi bật các phần tử ưu tú. Cần bộ chỉ huy tốt cho quân lực và thay thế các tướng lãnh thiếu học, nghe súng nổ ở đâu chạy ngay đến đó (Chương Thiện, Đồng Xoài)".

3. "Ta cần thời gian để xây dựng quân đội và kiện toàn tổ chức quốc gia hầu ứng phó với Cộng sản. Các quan hệ chính trị quốc tế vẫn có khả năng kiềm hãm Hà Nội và cho ta thời gian cần thiết. Nhưng người Mỹ không đồng quan điểm với ta".

4. "Họ muốn quân đội Mỹ vào Việt Nam đánh Cộng sản. Ngày người Mỹ bước chân xuống tàu sang Việt Nam cũng là ngày quân chính quy Bắc Việt đổ vào miền Nam và cũng là ngày quân đội Trung cộng với chính nghiã do quân Mỹ dâng cho, đổ vào Việt Nam để đóng vai hậu bị quân và nếu cần, bảo vệ miền Bắc cho Hà Nội rảnh tay động viên toàn lực vào Nam. Hành động quân sự của Mỹ sẽ làm cho Hà Nội có thái độ bất chấp và thái độ bất chấp đó sẽ được chính hành động quân sự của Mỹ công nhiên giải thích trước công luận và các cường quốc. Thích Trí Quang không thấy rõ được vấn đề, đồng bào Phật giáo không thấy được thâm ý của Mỹ trở thành xúc động và dễ bị xách động".

5. "Một số linh mục và sĩ quan Công giáo nghĩ lầm rằng lực luợng Công giáo đang đóng một vai trò trọng yếu bảo vệ chế độ, nên đòi hỏi được đối xử như công thần khai quốc với thái độ vừa bất mãn vừa yêu sách".

6. "Người Mỹ liên tục khuếch trương các mâu thuẫn nội tại ấy để làm một cuộc đảo chánh quân sự".(Nói tới đảo chánh. Cố TT Diệm trầm mặt lặng yên giây lát nhìn khói thuốc (Basto xanh) nhẹ tỏa, nhếch môi cười, Ông Nguyễn Mâu ghi lại).

7."Họ muốn lật đổ chế độ nầy để cho lính Mỹ vào Việt Nam. Việt Nam không cần lính Mỹ mà chỉ cần duy trì các quan hệ chính trị quốc tế hiện hữu, dành thời gian cho quân lực trưởng thành và cho tổ chức quốc gia kiện toàn từ trên xuống dưới".

8. "Lính Mỹ đến. Lính Mỹ không dẹp được du kích Cộng sản. Lính Mỹ không ngăn chận được quân Bắc Việt vào Nam. Lính Mỹ tạo chính nghiã và cơ hội cho quân Trung Cộng xuôi Nam. Lính Mỹ sẽ ra đi và lính Mỹ để lại xã hội Việt Nam băng hoại thui chột đạo đức cổ truyền".

9. "Một Mc Arthur đã thành công ở Triều Tiên trong thế liên hoàn trận địa chiến, ngược lại họ sẽ thất bại ở đây vì hai hình thái chiến tranh khác ngược. Lính Mỹ đến và lính Mỹ sẽ ra đi với miền Bắc ngập tràn quân Trung Cộng và miền Nam tràn những đứa con lai".
10.- "Lính Mỹ đến rồi lính Mỹ sẽ ra đi. Ta để cho lính Mỹ đến rồi khi cần ra đi, ra đi theo lính Mỹ chăng? Không! Ta sẽ chết ở đây cho quê hương. Không! Ta sẽ chết ở đây cho đồng bào ruột thịt. Bắc cũng như Nam".

Lý do nào làm dân gian ghi ơn và nhớ thương cố TT Diệm?

Từ hậu bán thế kỳ tới nay, lịch sử đậm nét ghi ba người trên trên chính truờng của Việt Nam. Đó là Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đình Diệm.

Nhưng trên phạm trù ghi ơn và tưởng nhớ trong dân gian, nhân vật Ngô Đình Diệm chiếm một chỗ cao, khi đem so sánh với hai nhân vật kia.

Thật thế, trên bình diện quốc gia, một người của quần chúng được ghi ơn, phải là con người đã có một tổng hợp hành động, tạo được hạnh phúc thật sự cho dân gian và kế hoạch thái bình cho xứ sở, tối thiểu trong giai đoạn cầm quyền. Về điềm nầy, Hồ Chí Minh tuy từng là lãnh tụ, nhưng có nhiều đánh giá trái ngược về ông, thậm chí ông bị một số người nguyển rủa. Còn ông Nguyễn Văn Thiệu không có tư thế lãnh tụ và cũng không có một điểm son nào gọi là đã tạo được hạnh phúc cho người dân và thái bình cho xứ sở, vì hồi ấy Mỹ hoàn toàn chủ động tại Việt Nam. Riêng cố TT Diệm có đủ 2 yếu tố thoả mãn bắt buộc kể trên. Việc dân gian ghi ơn cố TT Diệm không có gì là ngoại lệ trong văn hóa dân tộc Việt Nam.

Riêng về tuởng nhớ. Một khái niệm tinh thần nối kết giữa “quả và kẻ trồng cây”. Nếu xem hạnh phúc và an bình xứ sở là quả. Quả ấy không tự nhiên mà có. Nó phải tới từ một cây và cây ấy do ai trồng? Ăn quả nhớ kẻ trồng cây là vậy. Một khi đã có quả, nó sẽ dẫn tới cây và cây sẽ dẫn tới người trồng. Khi dân gian đã nhận được quả, họ phải nhớ kẻ trồng cây và kẻ ấy là cố TT Diệm.

Tuy thế, Hồ Chí Minh, nhiều người cho rằng đã làm cho Việt Nam tan nát, nhưng những người khác lại lập lăng thờ.

Riêng về ông Nguyễn Văn Thiệu, cái lý do mà một số người hôm nay dùng để vinh danh ông ta, đó là sự việc ông ta đã chống lại các áp lực của Mỹ, vào các năm 1969- 1972, để bắt VNCH ký vào thỏa ưóc Paris.

Nhưng những áp lực ấy xem ra thật nhỏ bé trước các áp lực và tấn công của Mỹ vào cố TT Diệm của những năm1962- 1963. Nhưng điều này chưa phải là điểm giá trị nổi bật nơi cố TT Diệm. Do đó, lý do tạo vinh danh ông Thiệu là một ý nghĩ rất tầm thường. Vinh danh cái tầm thường và không xem các khía cạnh căn bản cần có để vinh danh. Phải chăng đó chỉ là chiêu bài cho mục tiêu khác hay là một lạm dụng và một lạm phát vinh danh?

Vì các lý do kể trên. Nhiều người ngày nay mỗi lần ghi ơn và nhắc nhở tới Cố TT Diệm là nghĩ ngay tới "công thần lập quốc” hay cái “hạnh phúc” mà Cố TT đã tạo ra cho họ. Cùng một lúc họ phẫn nộ trước sự tàn nhẫn và bất nhân dành cho bản thân Cố TT Diệm. Nó tới từ bạn lẫn thù.

Vào dịp húy nhật, chúng ta nên nhắc lại các nét đậm đặc ấy:

Nét khai quốc: Chí sĩ Ngô Đình Diệm lập tuyến chống cộng miền Nam. Vào lúc đàm phán tại Geneve gần kết thúc với viễn ảnh chia đôi đất nước, người ăn chơi (Hoàng đế Bảo Đại) và nhà đạo đức (Chí-sĩ Ngô Đình Diệm), tuy không hợp nhau, đã gặp nhau tại Paris.

Vua Bảo Đại bắt Chí–sĩ Ngô Đình Diệm thề: "Yêu cầu ông cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả quyền lại cho tôi". Kể từ giây phúc đó, chiến tuyến chống cộng miền Nam được thành lập. Tuy hôm nay chiến tuyến ấy không còn nữa, nhưng vẫn để lại cái tinh tuý tạo thành cái nhân tiếp tục chiến đấu giải thể CSVN.

Nét vị sự sống còn của nhân dân: Thủ tướng Diệm đón và an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di cư, nét cứu tử.

Cuộc di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954 đã đưa vào Miền Nam gần một triệu đồng bào miền Bắc. Trong số này, có khoảng 200 ngàn quân nhân, công chức và dân các thành thị. Và ai đã tiếp đón họ cũng như đã tạo an cư lạc nghiệp cho những người dân nầy, nếu không phải là cố TT Diệm? Đậy là một hành động có tính cách cứu tử đối với ngừơi dân trên bước đường lánh nạn CSVN.

Nét vị hạnh phúc cho nhân dân: Chín năm dân chủ và an bình dưới Đệ I Cộng Hòa.

Kể từ năm 1930 tới nay, dù khách quan hay chủ quan, những người đã từng sống dưới chế độ Ngô Đình Diệm khó có thể phủ nhận, suốt chín năm dưới sự lãnh đạo của Cố TT Diệm, một chiều dài lịch sử chẳng bao lăm, nhiều người dân đã được sống trong dân chủ và an lành?

Về uy tín quốc tế cố TT Diệm đã làm rạng ngời xứ Việt. Hãy nhìn bức ảnh nầy.Tới nay chưa ai làm được cho quốc gia Việt Nam. Ngoài Cố TT Diệm.

Sống chiến đấu, chết thảm thương vì dân tộc.

Về đau thương, Cố TT Diệm có nét của một định mệnh tàn khốc giống Jules César La Mã (101-44) trước kỷ nguyên cứu thế, hay Sir William Wallace Écossais, biệt hiệu William Braveheart Wallace (1270-1305) hay Jeanne d'Arc Pháp (1412-1431). Họ là những anh hùng dân tộc.

Nén hương lòng ghi ơn và tưởng niệm Chí sĩ Ngô Đình Diệm

Về tính cách khai quốc của hậu bán thế kỷ XX và khía cạnh tạo hạnh phúc cho người dân, nét làm cho người dân ghi nhớ và truyền miệng lâu dài và cũng như về uy danh quốc tế làm con dân hãnh diện một thời, chưa ai bằng Cố TT Diệm từ hậu bán thế kỷ XX tới nay.

Nhưng ngày nay tại Lái Thiêu, chỉ có ba nấm mộ sơ sài dưới nắng mưa cho cả Cố TT Ngô Đình Diệm và hai bào đệ cố vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Hai bào đệ cố vấn nầy vì theo anh giúp nước nên cũng theo anh vào cảnh thảm thương! Một hình ảnh của ba anh em Nguyễn Huệ ngày xưa.

Nhưng lòng ngưỡng mộ và kính yêu tự phát của nhiều đồng bào trong và ngoài nước dành cho ba Vị "Vì Nuớc Vong Thân", nhất là vào dịp húy nhật hàng năm, luôn tăng trưởng theo thời gian và kèm theo một bia miệng trong dân gian ghi ơn và tuởng niệm ngày càng lớn. Ba Vị quả thật xứng đáng với câu ca dao muôn thưở của giống nòi Việt: Vì "đã chết ở đây cho đồng bào ruột thịt. Bắc cũng như Nam".

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ


KHÔNG AI KHÁC LÀ CỘNG SẢN… MẶT TRẬN VĂN HÓA VÀ NHỮNG THỦ TIÊU ÁM SÁT TRÍ THỨC MIỀN NAM VIỆT NAM - Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Mới hôm nào, tay cắp sách...
Sáng mai này trên phố xá
Tay bom xăng, tay cầm gạch đá
Những bước chân rộn rã
Em kiêu hùng trên phố thị miền Nam ...

Tôi còn nhớ những năm tháng ấy của miền Nam Việt Nam. Thân yêu mà cũng buồn, bực dọc, bất mãn, chán nản, tuyệt vọng. Những năm tháng Sài Gòn giành giật giữa quốc gia và cộng sản. Bằng đủ mọi âm mưu và thủ đoạn giữa tiếng ồn ào của hoan hô, đả đảo với khói lựu đạn cay. Chúng tôi sống một thời kỳ điên đảo bị giật giây bởi người cộng sản bằng một sự ngây thơ không tưởng, bằng những dằn vặt, giằng co giữa khát khao tự do, dân chủ, công bằng của chúng tôi. Và hơn hết tất cả là khát vọng hòa bình mong chiến tranh chóng chấm dứt.

Chúng tôi sống mất ngủ vì những khát vọng không đạt được mà thực tế trước mắt là chiến tranh, chém giết. Chúng tôi mong ước những trận mưa rào dập tắt khói lửa, nguôi ngoai hận thù. Nhưng thực tế mỗi ngày là những sự lừa phỉnh, dối gạt bằng đủ loại thuốc ngủ có tên phản chiến, nhạc phản chiến, văn chương phản chiến.

Trong khi đó thì người cộng sản với đủ loại “căn cứ lõm” trong thành phố giành giựt tim óc, tâm tư của tuổi trẻ thành phố. Và nếu không giành giựt được thì họ không ngần ngại thanh toán, ám sát giết hại.

Nhưng mỗi khi có một vụ ám sát giết người như vụ ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông, ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật hay nhà báo Từ Chung, nhà báo Chu Tử thì vô số loại tin đồn được tung ra.

Người ta đổ cho Mỹ sát hại cũng có, nhất là đổ cho chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Đó là những dư luận dễ dãi nhất và vô căn cứ nhất. Nhưng nhiều người vẫn tin. Và chính quyền miền Nam thì không có cách gì để cải chính những tin đồn kiểu đó.

Nay thì đã có câu trả lời rõ ràng ai là thủ phạm những vụ ám sát đó.

Không ai khác là cộng sản.

Đó là Đoàn công tác của thành đoàn thanh niên sinh viên, học sinh Sài gòn, Chợ Lớn. Họ chiụ trách nhiệm về những việc ám sát ấy. Họ là những ai? Trụ sở của họ ở đâu? Nay họ làm gì?

Trong khi đó, tổ chức hệ thống mật vụ Việt Nam thời đệ nhị cộng hòa tỏ ra thiếu hữu hiệu như thể bó tay. Tất cả những vụ đốt xe Mỹ, tất cả những vụ đưa người thâm nhập cơ sở, tất cả những vụ phá rối trật tự, phá hoại an ninh, những vụ ám sát các viên chức miền Nam, nhất là các trí thức miền Nam thường không tìm ra dấu vết thủ phạm. Cộng Sản trà trộn khắp nơi, len lỏi vào trong nhiều tổ chức tôn giáo, nhất là Phật giáo. Các tổ chức này như tấm bình phong che chắn cho CS. Có nhiều tấm bình phong như thế có tên là giới sinh viên, giới trí thức, giới Phật tử và giới báo chí. Chẳng hạn, biểu tình là do sinh viên chống chính phủ. Nhưng ai thấy được CS ở đằng sau?

Cái đằng sau mới là quan trọng. Không phải chính quyền cứ đàn áp sinh viên, bắt bớ, giải tán bằng lựu đạn cay, rào kẽm gai là xong, là lấy lại được an ninh trật tự. Nhiều khi chỉ tạo ra những phản ứng ngược chiều, rất bất lợi. Những thành phần sinh viên thầm lặng vô tình bị đẩy cũng đứng vế phía sinh viên xuống đường.

Vấn đề là bắt cho bằng được những kẻ đầu não. Nào có khó khăn gì? Họ là những Huỳnh Tấn Mẫm, Vũ Hạnh, Dương Văn Đầỵ Họ đi khơi khơi ngoài đường. Họ biểu tình, họp báo, viết báo như chỗ không người. Hãy nhốt họ lại. Đủ bằng cớ. Đưa họ đi Côn sơn. Cách ly bọn họ, triệt tiêu tận gốc. Chúng ta đã không làm, bắt rồi thả do áp lực sinh viên, trí thức báo giới, nhà văn.

Có lẽ, tất cả chỉ vì cái khí thế chống Cộng thời đệ nhất cộng hòa không còn nữa? Còn đâu những lời hiệu triệu của TT Ngô Đình Diệm những năm đầu thể chế đệ nhất cộng hòa: Quốc dân đồng bào, ai áp bức bóc lột và chà đạp con người Việt Nam? Thực dân, phong kiến và cộng sản. Vì vậy mà chính phủ chủ trương kháng đế, bài phong, diệt Cộng ... Hỡi binh sĩ và cán bộ Quốc gia.

Chúng ta tố Cộng là để tranh thủ được lòng dân. Thông điệp đầu năm Ngô Đình Diệm, 1959.

Cảnh sát thời ông Tổng Giám Đốc cảnh sát Trang Sĩ Tấn dẹp biểu tình cũng không xong. Càng tăng cường kiểm soát an ninh, giữ gìn trật tự bằng lựu đạn cay, bằng hàng rào kẽm gai, dùi cui của Cảnh sát dã chiến. Càng gây thêm sự phẫn nộ trong dân chúng. Dư luận cũng như đông đảo quần chúng mất tin tưởng vào chính quyền.

Khi có phong trào thanh niên đốt xe Mỹ, ông Trang Sĩ Tấn đã đưa ra những lời đe dọa vu vơ như sau trong một buổi họp báo ngày 16 tháng chín, 1972: “Những kẻ nào bị bắt quả tang đang phá hoại quân cụ, kể cả những xe cộ, sẽ bị kết án tử hình”.

Ai cũng biết đó là những lời đe dọa vu vơ.

Án tử hình đâu chưa thấy, chỉ thấy thành phố Sài Gòn rơi vào tình trạng xáo trộn liên tục.

Hình ảnh Sài Gòn với rất nhiều xáo trộn chính trị đủ loại là hình ảnh một cuộc chiến tranh đặc biệt, lạ lùng mà kỳ cục. Có lựu đạn cay ngoài đường, có những bộ áo rằn ri. Nhưng cũng có những tà áo nữ sinh, cầm túi chanh, te tác trên đường phố. Có tiếng hát, tiếng hò của đám sinh viên, học sinh vào một buổi tối, tại chùa Ấn Quang. Ở đấy, hẳn không thiếu những tiếng cười. Không thiếu niềm tự hào và hăng say. Trong khi đó, nhìn xuống lề đường, ở mỗi gốc cây đều có bóng lính. Xe nhà binh, xe cảnh sát chạy rần rần, pha đèn mở sáng.

Người ta chỉ thấy một hậu phương rối loạn. Lính tráng ngoài mặt trận làm sao yên tâm cầm súng chiến đấu chống kẻ thù?

Bộ mặt thành phố Sài gòn lộ diện ra khi tôi lần dở lại tờ báo Sóng Thần ra ngày 31 tháng 10 với những hàng tít lớn trên báo: 31/10 Ngày dài vô tận. Ngày dài vô tận là ngày tranh đấu, xuống đường, khí thế bừng bừng như một cuộc tranh đấu nội thù. Ở phần đầu tờ báo Sóng Thần có đăng tâm thư của LM Thanh Lãng viết cho tờ báo Sóng Thần: Đập các anh là đập tất cả chúng tôi. Ai đập ai giữa những người Quốc gia? Bên cạnh đó là các tên tuổi lớn hỗ trợ tờ báo Sóng Thần như Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Hiến Lê, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lam Giang, Lê Ngộ Châu. Và các nghệ sĩ như Năm Châu, Bích Thuận, Kim Chung, Khánh Ly lên tiếng để chịu chung bản án với Sóng Thần. Rồi 32 nhà văn, nhà thơ tên tuổi ký tên chung tuyên bố: Phản đối đàn áp báo chí, truy tố Sóng Thần. Cạnh đó hình ảnh diễn hành của một số luật sư ra tòa biện hộ như các luật sư Bùi Tường Chiểu, Hồ Tri Châu, Lý Văn Hiệp, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Lâm Sanh tại một ngã tư . Ở một góc phòng với bị can Trùng Dương, chủ nhiệm báo Sóng Thần, vây quanh có các luật sư Đỗ Văn Võ, Đặng Thị Tám, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Tường Bá. Cũng cạnh đó, bà luật sư Nguyễn Phước Đại thay vì cầm tập hồ sơ biện hộ thì lại đang cắt chanh phòng hờ bị lựu đạn cay.

Và biết đâu ở một góc đường, một anh thợ vá xe đang ghi nhận tất cả những hoạt cảnh đó báo về “Trung ương” của anh. Đó là những hình ảnh hai mặt của cuộc chiến trong thành phố, giữa lòng thủ đô Sài gòn của miền Nam.

Không ai ngày nay nghĩ rằng những cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ đó là sai, nhưng điều chắc chắn là đã vẽ đường cho hươu chạy và hơn hết mọi chuyện là gián tiếp bị CS lợi dụng.

Tôi có liên lạc với nhà văn Trùng Dương, chủ nhiệm báo Sóng Thần. Chị khẳng định và xác nhận lại cuộc tranh đấu của báo chí qua vụ báo Sóng Thần là đúng, không làm khác được.

Chắc là như vậỵ

Nhưng bên cạnh sinh hoạt đấu tranh có vẻ dân chủ đó có một thứ đấu tranh một mất một còn giữa Cộng Sản và chính quyền miền Nam thông qua những thanh niên, sinh viên, học sinh. Chính những sinh viên, học sinh này đang đấu tranh, đang hô hào phản đối chính quyền đã góp phần làm tiêu hao lực lượng cũng như tinh thần của miền Nam Việt nam.

Đó mới là bộ mặt thực của cuộc chiến tranh nàỵ Bộ mặt được dẫn dắt và chỉ đạo từ đảng Cộng Sản miền Bắc Việt Nam.

Có một cuộc chiến tranh ngoài Sài Gòn bằng bom, bằng đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng hầm chông, bằng xe tăng. Bằng xác người phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch. Bằng đô la và xác người.

Nhưng cũng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào, đả đảo, bằng lựu đạn cay, bằng hàng rào kẽm gai.

Cuộc chiến tranh cân não này ít được ai nói tới, vì không mấy khi có người chết. Mà chỉ có nước mắt của lựu đạn cay. Nhưng nó cũng đủ làm lung lay bất cứ chế độ nào. Nó xói mòn tin tưởng, nó làm lung lay ý chí. Bởi vì bản chất của nó là một cuộc chiến tranh cân não làm hao mòn ý chí phấn đấu, làm suy sụp tinh thần kẻ địch. Biên giới cuộc chiến tranh này không rõ rệt, trộn lẫn ta và địch, địch cũng là ta.

Cuộc chiến tranh trên đường phố Sài gòn diễn ra ở hai mặt: Mặt nổi là những cuộc biểu dương lực lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái nọ, đòi thả người này người kia, ngay cả đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung trong bài viết: Rồi Hoà Bình sẽ đến ghi như sau:

Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu hoc tại tòa Viện trưởng Viện Đại học Sài gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòạ Trong lúc mấy em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống... (trích trong Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình, Lý Chánh Trung, trang 62).

Thế nào là trái phép? Bắt giam một cán bộ CS nằm vùng là trái phép? Không ai đặt ra câu hỏi đó cả.

Bên cạnh Lý Chánh Trung còn có một số phụ nữ Đòi quyền sống, còn có các ông Nguyễn Long, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Văn Cước, các Thượng tọa Mãn Giác, Nhật Thường.

Thêm vào đám đông đòi đó, còn có một Thích Nhất Hạnh vu cáo về một cuộc tàn sát chỉ có trong tưởng tượng của ông ấy:

Làng tôi hôm qua vì có 6 người Cộng sản về
Nên đã bị dội bom hoàn toàn tan nát
Cả làng tôi hoàn toàn chết sạch
Lũy tre ngơ ngác
Miếu thờ ngã gục
(Thơ Thích Nhất Hạnh)

Đáng nhẽ ông ấy phải viết rõ như thế này: Chỉ còn sống có mình tôi, để viết những điều vu cáo này. Có thật như thế không? Ngôn ngữ của sự gian dối? Một nhà sư nói gian dối thì phải gọi ông ta là gì?

Và để tường thưởng cho vị thiền sư, cộng sản đã có những lời lẽ trân trọng như sau:

“Người Sài gòn, tuổi trẻ Sài Gòn biết ơn những bậc tu hành chân chính đã quên mình vì nghĩa lớn, những phật tử hy sinh trong bão lửa đấu tranh làm suy yếu kẻ thù, làm rối loạn hậu phương của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho Sài Gòn, tuổi trẻ Sài Gòn bung ra ào ạt giành một thế đứng công khai phất cao cờ cách mạng sau bao nhiêu năm xúc tích lực lượng chuẩn bị thời cơ”.

Đó là những lời lẽ trân trọng mà người cộng sản đã dành cho Thích Nhất Hạnh. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 349).

Phần Trần Bạch Đằng, chúng ta cần đọc mấy dòng thư này của ông ta để chúng ta nhận ra Huỳnh Tấn Mẫm là ai? Ông Trần Bạch Đằng còn giữ lại một mảnh giấy gửi cho ông ta của sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm ghi lại như sau: Xin đoàn thể yên tâm, quyết làm tròn nhiệm vụ. L71. L.71 là mật hiệu của Huỳnh Tấn Mẫm. Mẫm viết thư này tại nhà Quốc khách, nơi được dành làm trụ sở Tổng hội sinh viên. Trớ trêu thay, trụ sở này do ông Nguyễn Cao Kỳ dành cho Tổng Hội sinh viên của Huỳnh Tấn Mẫm chỉ vì mâu thuẫn, muốn chơi ông Thiệu.

Mời đọc thêm đoạn hồi ký bị cấm xuất bản ở trong nước của cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận để nắm cho rõ câu truyện này. Ông Hồ Ngọc Nhuận viết như sau về vụ này:

‘Nguyễn Cao Kỳ “xớt” Huỳnh Tấn Mẫm’. Đó là nhan đề bài viết. Huỳnh Tấn Mẫm một lần nữa bị bao vây, truy bắt. Trung tâm sinh viên Phật tử một lần nữa dậy sóng. Một chiếc jeep nhà binh, ngay sau khi tôi “điệu” hết cảnh sát về Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã ập vào trung tâm Quảng Đức, bốc Huỳnh Tấn Mẫm chạy thẳng về dinh Quốc khách ở góc đường Công Lý và Hiền Vương, nay là Trung tâm văn hoá thiếu nhi, góc đường Nam Kỳ khởi nghĩa-Võ Thị Sáu. Chiếc jeep ập vào bốc Mẫm là của Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và dinh quốc khách lúc bấy giờ cũng thuộc quyền Phó tổng thống.”

Dinh Quốc khách, trung tâm Quảng Đức. Chùa Phổ Hiền. Ấn Quang. Những mái chùa. Tất cả những nơi ấy đã góp chung bàn tay che chở bọn người cộng sản nằm vùng để làm sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Và Hồ Ngọc Nhuận đắc thắng viết tiếp: Tiếp tay cho cộng sản, như vậy, không chỉ có mình tôi. Và lần này vai chánh không là tôi, mà là tướng Nguyễn Cao Kỳ. (trích hồi ký Đời, bản thảo, Hồ Ngọc Nhuận, trang 142).

Cái đất nước mình nó như thế đấy, cái lãnh đạo mình nó như thế đấy.

Và sau đây là danh sách 16 sinh viên bị chính quyền Việt Nam Cộng Hoà bắt. Bắt đúng người, bắt đúng những kẻ đã tiếp tay với Cộng sản. Nhưng vẫn bị sinh viên biểu tình đòi tha họ. Sau này cho thấy họ đều là những cán bộ CS trà trộn vào sinh viên như: Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Truơng Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.

Chưa kể vụ án thành đoàn giải phóng gồm 21 người, trong đó có một số lãnh đạo Thành Đoàn như Ba Vạn, tức Phan Chánh Tâm, Năm Nghị, tức Phạm Chánh Trực. Sau 1975, họ đều là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở thành phố Hồ Chí Minh.

Và danh sách những nhà văn, nhà trí thức đòi thả bọn sinh viên cộng sản hãy còn đây. Quốc gia chống Cộng mà lại có chính nhà văn, nhà trí thức người quốc gia biểu tình, đòi thả bằng được những sinh viên cộng sản nằm vùng? Nhiều tờ báo cách này cách khác trở thành phương tiện cho cộng sản lợi dụng.

Bên cạnh đó, về mặt chìm là những toán đặc công cộng sản do thành đoàn tổ chức gài bom phá hoại các công sở, các xe nhà binh Mỹ, các doanh trại Mỹ và cuối cùng là giết hại, ám toán người quốc gia đã không theo họ. Nữ tướng đốt xe Mỹ thời 1960-1970 là Võ Thị Bạch Tuyết lúc đó nay trở thành giám đốc nông trường Đỗ Hoà ở Duyên Hải.

Đầu xuân 1966, Đảng ủy văn hóa khu Sài gòn Gia Định giao cho Vũ Hạnh, một nhà văn nằm vùng công tác đặc biệt là mở một mặt trận văn hóa tấn công miền Nam trong vùng đô thị mà họ gọi là “vùng tạm chiếm”. Vũ Hạnh ngụy trang dưới chiêu bài Bảo vệ Văn hóa, chống lại văn hóa đồi trụy, chống lại văn hóa ngoại lai đầu độc thanh niên miền Nam. Họ tổ chức và xin phép cho ra tờ Tin Văn. Tờ báo trực tiếp được chỉ đạo bởi các cán bộ cộng sản. Đứng đầu là Trần Bạch Đằng. Chủ nhiệm là Nguyễn Mạnh Lương. Và một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Những nhà văn này còn viết cho tờ Hồn Trẻ với các cây viết như Trần Cảnh Thu, Trần Triệu Luật, Nguyên Hạo, Lê Uyên Nguyên, Tuyết Hữu, Cao Hoài Hà, Thích Quảng Khanh, Anh Vũ, Lê Ngọc Lê, Đinh Khắc Nhu, Lê Việt Nhân... Toà soạn tờ báo được đặt trong một ngôi chùa. Chẳng hạn tờ Hồn Trẻ do Mười Hải, bí thư khu uỷ văn hóa. Tòa soạn đặt ở ngôi chùa số 29, đường Trần Quang Khải.

Một số chùa chiền trở thành cơ sở bí mật cho các hoạt động phá hoại của cộng sản như Ấn Quang, lúc bấy giờ do TT Thích Thiện Hoa chủ trì, trung tâm Quảng Đức, Đại học Vạn Hạnh. Theo tài liệu của Thành đoàn TNSVHS trong cuốn “Trui rèn trong lửa đỏ” đã viết về Đại học Vạn Hạnh như sau:

Viện đại học Vạn Hạnh thành lập năm 1964 là một đại học của Phật giáo. Trường ở đối diện chợ Trương Minh Giảng. Trước năm 1968, tổ chức cách mạng cũng có hoạt động ở đây. Đêm đón tết Mậu thân, tổ chức cách mạng ngay tại trường với một cuộc tập họp táo bạo, sinh động. Tuy nhiên lực lượng ta thời này chưa mạnh. Tháng 10/68, tình hình tổ chức cách mạng ở trường sau thời gian bị đánh phá, coi như trắng. Thành đoàn chỉ đạo đồng chí Sáu Tỉnh, tức Đỗ Quang Tỉnh, nay là cán bộ ban Hợp tác kinh tế của Uỷ ban nhân dân thành phố về xây dựng lại bằng tổ chức Liên đoàn sinh viên Phật tử Vạn Hạnh.. Và họ đã kết luận: kể từ tháng 5/1972, một chi bộ chính thức của Vạn Hạnh được thành lập.

Và một câu đánh giá quan trọng như sau: Từ những ngày đó, Vạn Hạnh trở thành một pháo đài xuất quân đốt xe Mỹ và chống bầu cử (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 96).

Còn Ấn Quang được ghi lại như sau:

Những ngọn lửa bùng lên tuyệt đẹp trên đường phố. Các báo gọi những chiến sĩ đốt xe Mỹ là du kích quân sinh viên học sinh. Và chùa Ấn Quang trong những ngày ấy, là một chiến lũy của họ. Những người mẹ, người chị vượt qua những hàng rào cảnh sát, lựu đạn cay, vòi phun nước... đến với những đứa con ngoan của thành phố... “Tụi bay cứ đốt, đốt hết những quân chó đó đi...” Các mẹ, các chị căn dặn, nhắc nhủ với một lòng căm thù như vậy. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 110).

Tuy nhiên, dưới mắt người Cộng Sản, họ đã nhìn lại vai trò của Phật giáo như sau:

Viện Hoá Đạo, lá cờ đấu tranh vang dội một thời đang ủ rũ và chia rẽ, phân hóa. Kẻ về Vĩnh Nghiêm với lá cờ chống Cộng rách rưới. Kẻ về Vạn hạnh dò dẫm một lối đi. Người về Ấn Quang gần gũi với quần chúng, với thanh niên. Viện hóa đạo còn lại những chiến lược gia ủng hộ Khánh- Hương đàn áp phong trào, bắn chết học sinh Phật tử Lê Văn Ngọc.

Và kể từ nay: “Ngọn cờ Phật giáo lãnh đạo đấu tranh hạ xuống, ngay từ trong lòng Phật tử, nhường chỗ cho lá cờ cách mạng phất cao lãnh đạo phong trào đấu tranh của Sài gòn, của tuổi trẻ thành phố.”

Năm 1964 đã kết thúc như vậy. Tuổi trẻ thành p[hố kết thúc 10 năm sóng gió, để bước vào cuộc chiến đấu mới 10 năm sục sôi kỳ lạ. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 350-351).

Tiếp nối một cách vô tình hay bị mua chuộc có thêm các tờ báo sinh viên như Hoa Súng của Dược Khoa, Văn Khoa với Hạ Đình Nguyên. Nhất là tờ Tin Tưởng, tiếng nói của sinh viên Phật tử. Năm 1968, tờ Tin Tưởng do Phạm Phi Long làm chủ nhiệm, Đặng Minh Chi làm thư ký tòa soạn. Sang đến năm 1970, tờ Tin Tưởng sang tay cho Nguyễn Xuân Lập làm chủ nhiệm, Trần Công Sơn chủ bút và Trịnh Thị Xuân Hồng, thư ký tòa soạn. Sự tiếp tay của những tờ báo như Tin Tưởng với nội dung các bài đòi ngưng bắn vĩnh viễn, đòi Mỹ rút quân. Tất cả đều do bàn tay CS chỉ đạo.

Trong khi đó thì phía miền Nam có Chu Tử, đứng mũi chịu sào trực tiếp tố cáo Vũ Hạnh là Cộng Sản trong nhiều số báo liên tiếp kể từ tháng 10/1966 cho đến cuối năm 1966. Cái dở khóc dở cười của văn nghệ sĩ miền Nam là đã nhiều lần hội Văn bút do Lm Thanh Lãng làm chủ tịch đã công khai bênh vực Vũ Hạnh và cứu thoát y nhiều lần khỏi cảnh tù tội.

Cộng sản đã dùng tờ Tin Văn do Nguyễn Ngọc Lương làm chủ nhiệm, nhân danh bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động đồi trụy. Trong tờ Tin Văn có những bài viết như:

Nhân một quyết định của bộ Văn hóa giáo dục, về việc bài trừ sách báo đồi trụy. Tin Văn số 3, tháng 6-7/1966. Hiện tượng dâm ô đồi trụy trong Văn Học hiện nay. Tin Văn số 9, 15/10/1966. Đọc tác phẩm của Chu Tử, Lữ Phương, số 10, 30/10/1966.

Sau này, trong tài liệu của Thành Đoàn, Vũ Hạnh đã có những nhận xét như sau về tờ Tin Văn:

Tuần báo Tin Văn, với các bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống phá cách mạng qua các tác phẩm đồi trụy, phản động.. Phong trào bảo vệ phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động, đồi trụy sớm trở thành phong trào quần chúng sôi nổi, sâu rộng ở Sai gòn và các tỉnh miền Nam, khiến bọn tay sai văn nghệ co lại, nguỵ quyền hoang mang và dĩ nhiên chúng tìm mọi cách để phản kích lại. Sự ra đời những hoạt động văn hóa ngụy dân tộc bị phong trào vạch mặt, chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của sở công an và Trung ương tình báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là việt cộng nằm vùng và liên tiếp trong nhiều số báo như vây, y đã vu khống tôi, cốt làm cho những người đã tham gia phong trào sợ hãi. Lúc nầy, Đảng uỷ văn hóa và thường vụ khu uỷ ở nội thành vẫn hằng ngày theo dõi tôi, động viên, chăm sóc về tinh thần lẫn vật chất cho tôi, thông qua vợ tôi, mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng. (trích Từ toà án văn hóa đến Hát cho đồng bào tôi nghe. Vũ Hạnh, Trui rèn trong lửa đỏ trang 179).

Vũ Hạnh hay bút hiệu cô Phương Thảo đã bị chính quyền miền Nam chính thức bắt giữ ngày 02/06/1967. Cứ mỗi lần bị bắt thì lại có những nhà văn, trí thức, sinh viên và đặc biệt Hội Văn bút do Thanh Lãng vào tù lôi ông ta ra.

Chính Vũ Hạnh đã thố lộ về việc bắt giữ ông ta như sau:

Mấy tháng sau đó, tôi bị công an nguỵ quyền bắt giữ là do hai cơ sở của ta làm lộ. Nhưng sự kiện tôi bị bắt giam bấy giờ tạo thêm một cái cớ cho các hoạt động đấu tranh hết sức nhiệt tình của giới sinh viên học sinh. tất cả đều tung ra dư luận khắp nơi rằng tôi bị giam giữ là do Chu Tử vu cáo, rằng chính quyền đã bất chấp pháp luật, chà đạp lên quyền tự do cầm bút một cách hết sức thô bạo. THSV bấy giờ một mặt vận động các giáo sư đại học có lòng yêu nước lên tiếng để ủng hộ tôi, ủng hộ gia đình tôi. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 181).

Đọc đoạn văn trên cho thấy Vũ Hạnh đã trắng trợn vu cáo cho Chu Tử dính vào việc bắt giữ ông ta, đồng thời y đã vận động trong giới trí thức để xin tha cho y. Đó là lối vừa đánh trống vừa ăn cướp.

Bên cạnh những tờ báo chính thức như Tin Văn, CS còn tổ chức rất nhiều những báo chí sinh viên hỗ trợ và tiếp tay cho Tin Văn.

Các báo sinh viên do những sinh viên như Trần Thị Ngọc Hảo, quyền chủ tịch Tổng Hội sinh viên làm “báo nói” tố cáo Mỹ Ngụy. Dương Văn Đầy (Ba Đầy biệt danh Bảy Không) làm bích báo sinh viên bên Y khoa đòi chuyển ngữ ở Đại học y khoa.. Nguyễn Trường Cổn, chủ bút báo sinh viên ca tụng quân giải phóng trong dịp tết Mậu thân, bị bắt và bị tòa án quân sự kết tù 5 năm khổ sai. Nguyễn Đăng Trừng đã trốn ra vùng giải phóng bị kết án 10 năm biệt xứ.

Đại học Khoa học có tờ Lửa Hồng, tờ Dấn Thân được ông giáo sư Trần Kim Thạch đỡ đầu. Luật Khoa có tờ Đất mới do Lê Hiếu Đằng, Nguyên Hạo. Tờ Học sinh do Lê Văn Triều làm chủ nhiệm, Nguyễn Thị Liên Hoa quản lý, xuất bản 1000 số.

Nhưng quan trọng là tờ Hồn Trẻ. Tờ Hồn Trẻ đã mượn danh tính một số người viết tên tuổi ở miền Nam lúc bấy giờ như tấm bình phong và giúp làm tăng uy tín cho tờ Hồn trẻ. Đó là các tác giả có tên tuổi như Thiên Giang, Bùi Chánh Thời, Nguyễn Văn Trung, Võ Quang Yến, Trụ Vũ, Tô Nguyệt Đình, Thiếu Sơn, Lương Phương, Vân Trang, Hồng Cúc, Song Thương, Ái Lan, Thảo Lam, Phương Khánh, Thu Quyên, Cao Ngọc Phượng, Phong Sơn, Chinh Ba, Hữu Hoàng, Nguyễn Văn Phụng, Phan Hữu Trình. Như đã nói ở trên, tòa soạn đăt trong một ngôi chùa do một cư sĩ là ông Nguyễn Văn Hoanh đứng vai chủ nhiệm. Mục xã luận là do chính những cán bô cộng sản gộc như Phạm Bá Trực, Mười Hải biên sọan.

Bên cạnh đó là những buổi sinh hoạt văn nghệ, ca nhạc nhằm cổ vũ các phong trào svhs phản chiến, đòi hòa bình. Tờ sinh viên ra mắt độc giả ngày 15/5/1967 do sinh viên Hồ Hữu Nhật làm chủ nhiệm. Tờ sinh viên được coi như biểu tượng của sinh viên tranh đấu. Ở đây, tôi xin nêu danh tánh tất cả những sinh viên thuộc các phân khoa đại họ đã hoạt động cách này cách khác cho cộng sản. Họ đã gài người vào trong các tổ chức sinh viên. Chẳng hạn như phong trào đòi Hòa Bình với chương trình “Hát Cho Đồng Bào tôi nghe, Dậy mà đi, Tiếng hát những người đi tới, Đêm Văn nghệ tết Quang Trung” với sự tham gia của các sinh viên đi theo cộng sản như: Trần Thiện Tứ, bác sĩ Trương Thìn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Sanh, nhạc sĩ sĩ Tôn Thấp Lập, Võ Thành Long, nhạc sĩ Trần Xuân Tiến, Phạm Phú Tâm, Trương Thị Hoàng và Trương Thị Anh, Phùng Hữu Trân, Nguyễn Ngọc Phương, Võ Thị Tố Nga, Lê Thành Yến.

Và sau đây là danh sách sinh viên tranh đấu đã tình nguyện vào căn cứ ở Bắc Lộ 7, Campuchia gồm: Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Dương Văn Đầy, Trần Thị Ngọc Hảo, Huỳnh Quang Thư, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.

Trong khi đó như tiếp sức cho địch, các trí thức, dân biểu nhà văn đua nhau ra các bản thông cáo đủ loại. Chúng tôi cũng xin tóm tắt bản Tuyên ngôn của nhóm Quốc Gia, ngày 04/09/1974 về tình trạng đàn áp báo chí tại miền Nam do các dân biểu sau đây đồng ký tên: DB Nguyễn Văn Binh, DB Nguyễn Tuấn Anh, DB Đặng văn Tiếp, DB Nguyễn Văn Cử, DB Dương Minh Kính, DB Nguyễn Trọng Nho, DB Nguyễn Văn Kim, DB Nguyễn Đức Cung, DB Vũ Công Minh, DB Đỗ Sinh Tứ, DB Nguyễn Hữu Hiệu.

Nội dung bản Tuyên bố phủ nhận luật báo chí 007, bênh vực báo Hòa Bình bị bộ Thông tin chiêu hồi đóng cửa, bênh vực các ký giả Nguyễn Thái Lân, Ngô Đình Vận bị gọi lên cơ quan an ninh lấy lời khai. Những bản tuyên cáo, những đòi hỏi như thế chắc là đúng, chắc là hợp pháp, chắc là ngay thẳng vì các vị ấy đều là những người quốc gia chân chính, người có lòng. Nhưng cộng sản đã biết lợi dụng những hoàn cảnh như thế để châm thêm ngòi nổ phá rối trật tự, an ninh ở Sài gòn.

Trong nhiều tháng qua, Hội Văn Bút của Thanh Lãng đã nhiều lần lên tiếng cảnh cáo về tình trạng đàn áp báo chí và coi đó là một ngục tù tư tưởng quy mô nhất.

Nhà văn Nhật Tiến cũng có đọc một bản cáo trạng dài về tình trạng ngộp thở của văn nghệ sĩ miền Nam cũng như của ngành xuất bản sách báo dưới lưỡi kéo kiểm duyệt ác nghiệt.

Cạnh đó là tuyên cáo chống đối chính quyền một cách đương nhiên của khối dân biểu Dân tộc xã hội gồm có: DB Trần Văn Tuyên, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Nghĩa, Nguyễn Phúc Liên Bảo, Nguyễn Công Hoan, Lý Trương Trân, Phan Thiệp, Huỳnh Ngọc Diêu, Trần Văn Thung, Trần Ngọc Giao, Trần Văn Sơn, Trần Cao Đề, Phan Xuân Huy, Tư Đồ Minh, Đinh Xuân Dũng, Lê Đình Duyên, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Hữu Thời, Nguyễn Mậu, Nguyễn Phước Vĩnh Tùng, Mai Ngọc Dược, Hồ Văn Minh, Đoàn Mai.

Riêng bản tuyên bố của nhóm dân biểu Xã hội-Dân tộc mà luật sư Trần Văn Tuyên làm trưởng khối thì chúng ta có quyền nghi ngờ nội dung bản tuyên cáo đó. Vì trong số dân biểu này, có một số đã làm tay sai cho cộng sản như dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu.

Luật sư Trần Văn Tuyên, một trí thức miền Nam, một người quốc gia chân chính mà còn có thể bị cộng sản giật giây thì còn ai khác nữa? Sau này đánh giá công tội của luật sư Trần Văn Tuyên, Hồ Ngọc Nhuận đã viết trong hồi ký “Đời” của ông như sau:

Luật sư Trần Văn Tuyên, có sách nào đó cho là lý thuyết gia của chủ nghĩa quốc gia chống Cộng, vào quốc hội nhiệm kỳ 2, năm 1971. Nhưng suốt nhiệm kỳ, anh chỉ đi với đối lập và là trưởng khối Xã hội-Dân tộc. Hôm gặp nhau khi đi trình diện với quân quản ở trụ sở Hạ viện, anh còn lạc quan nói: ‘chế độ mới không có luật sư, nhưng tôi hy vọng sẽ được làm bào chữa viên nhân dân’. Về anh cũng như một số các anh như Phan Thiệp, Nguyễn Mậu... thuộc cánh Quốc Dân Đảng miền trung, thật cũng khó mà lấy vài ba năm tham gia chính trị đối lập ở Sài Gòn để cân bằng đánh đổi mấy mươi năm chống Cộng. Nhưng nếu thời gian tham gia tranh đấu chống Mỹ của họ kéo dài thêm năm mười năm nữa thì sao? và đâu là những giọt nước nhỏ nhoi muộn màng giờ chót, thay vì rơi đi nơi khác, lại góp phần làm tràn cái ly? (trích hồi ký Đời, bản thảo, Hồ Ngọc Nhuận, trang 165).

Ra đến Hải ngoại, trong Văn Học miền Nam, truyện 3, trang 1771 của Võ Phiến có trích dẫn lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng có nêu 3 “tác phẩm tốt” trong thời kỳ 1954-1975 là Vũ Hạnh, Sơn Nam và Võ Hồng và không đề cập một chữ đến vai trò cán bộ CS của Vũ Hạnh. Việc nêu danh có ba tác giả thân Cộng có tác phẩm tốt thật là khó chấp thuận được? Và thế nào là tác phẩm tốt? Và như thế gạt bỏ tất cả những nhà văn miền Nam còn lại trong đó có cả Võ Phiến? Tôi hy vọng rằng nhà văn Võ Phiến chia sẻ những suy nghĩ của tôi viết với sự trân trọng và công bình.

Cùng một tinh thần như Trần Bạch Đằng, trong bài báo của Xuân Trang nhan đề: ‘Tuổi trẻ Việt Nam làm báo’ có viết như sau về hiện trạng báo chí dành cho giới trẻ miền Nam:

‘Một hôm tôi ở tòa soạn nhận được bên anh em bên tạp chí Tin văn gởi biếu cho tờ Tin Văn số 10, với lời dặn dò là tờ Hồn Trẻ rất khó chen chân với các tờ báo nhảm nhí Tuổi hoa, Thiếu nhi, Tuổi ngọc... do bọn Nhật Tiến, Duyên Anh, Bảo Sơn chủ trương. Có lần tôi, tôi giao cho nhà phát hành Độc Lập, đường Trần Hưng Đạo 5 ngàn số thì sau đó y trả về gần đủ... 5 ngàn số, nghĩa là không bán được tờ nào cả’.

Báo do cộng sản chủ trương không bán được vì không ai mua, nhưng bọn họ vẫn gọi các báo Tuổi Hoa, Tuổi ngọc, Thiếu nhi là những báo nhảm nhí. Đó là cái cung cách của người Cộng Sản.

Bên cạnh những tờ báo chính thức như Tin Văn, người cộng sản đã phát hành vô số báo vệ tinh như các tờ Xung kích, Suối thép, Lửa thiêng, Trung Kiên từ căn cứ đưa vào nội thành. Nhưng những báo này thực sự cũng ít được ai biết tới.

Kết luận phần 1
Nguyễn Đình Thi trong bài viết Câu chuyện gởi tới các bạn tuổi trẻ sinh viên học sinh miền Nam đã viết:

‘Mấy tháng nay, từng bước đấu tranh của các bạn đã được toàn thể đồng bào miền Bắc, nhất là các giới trí thức, đại học, các lứa tuổi trẻ, chăm chú theo dõi với tình thương yêu đầy tự hào. Hai mươi năm lăn lộn lửa đạn, và ngày nay đang tiếp tục chiến đấu, dân tộc ta đồng thời đã không ngừng từ đất bùn mà nhào nặn lại cuộc sống của mình, từng bước tiến lên xóa vỡ bao ngang trái bất công và quét đi những rác rưởi của chế độ cũ’.

Và Lý Chánh Trung trong bài: ‘Làm và tin’ cũng đã viết:

‘Không có mũi nhọn xung kích của thanh niên thì không thể tạo được những xáo trộn dữ dội và kéo dài trong những năm 70, gây được tiếng vang ở nước ngoài và làm cho địch rất lúng túng... Tôi đã nhảy vào cuộc đấu tranh, phần lớn do sức lôi kéo của những người trẻ tuổi nói trên và đó là những ngày đẹp nhất mà tôi đã sống, với những lý tưởng đẹp, những tình cảm đẹp, những gương mặt đẹp mãi mãi không quên’.

Hiện nay, tờ Tuổi trẻ cùng như tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, Tuổi trẻ cười tại thành phố Hồ Chí Minh là hậu duệ của những tờ báo sinh viên, học sinh thời trước 1975. Một số bọn họ được trui rèn từ những ngày tháng tranh đấu trong mặt trận báo chí của Sài gòn trước 1975 nay đảm trách nhiệm vụ mới.

Mặt trận báo chí ở đô thị trở thành mũi nhọn hàng đầu trong tất cả các phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Tất cả những tờ báo ấy trở thành vũ khí tư tưởng theo lệnh của đảng góp phần vào sự sụp đổ miền Nam vào năm 1975.

Viết lại những trang này như một bài học ôn lại cho những người dân ở miền Nam trước 1975 nay đã sinh sống ở nước ngoài. Như một bài học. Như một dĩ vãng cần được khơi lại để cùng nhớ những năm tháng ấy.

Nguyễn Văn Lục


Cách Cho Quý Hơn Của Cho - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Nếu có một nông dân nghèo đến thăm chúng ta với gói quà trên tay gồm vài ba củ khoai, trái cà thì hình ảnh nầy sẽ thật cảm động và đáng quý hơn việc một triệu phú tổ chức quay phim chụp hình cảnh bố thí cho người nghèo đang diễn ra nơi cộng cộng. Cũng như trường hợp bà con, bạn bè đồng hương giúp nhau, dù một số tiền nhỏ được kín đáo để trong phong bì thì tế nhị và lịch sự hơn khi người thọ ơn phải trịnh trọng nhận những tờ giấy bạc trăm trước ống kính thu hình của ân nhân.

Chuyện xảy ra cách đây vài năm nhưng tất cả người Việt hải ngoại còn nhớ: Một người Việt Nam ở Mỹ gởi khoảng chừng 200 dollars (!) về giúp một nhà tranh đấu trong nước, sau đó ông ta viết chuyện cho tiền nầy với tên tuổi địa chỉ của người nhận lên trên net và phổ biến khắp các diễn đàn để đánh bóng cá nhân thì người nhận tiền bị công an làm khó dễ. Đây là việc mua danh cá nhân một cách thiếu tế nhị và đã vô tình làm hại cho người thụ hưởng trong nước (Thời đó công an theo dõi gắt gao các nhà tranh đấu).

Tôi biết rằng đại đa số người Việt hải ngoại đều làm việc thiện giúp đồng bào trong nước. Nhưng họ gởi quà, gởi tiền về cho thân nhân, bạn bè và anh em đồng đội cũ một cách kín đáo và thiết thực hơn, không ồn ào phô trương nêu tên tuổi cá nhân mình để được cộng đồng người Việt hải ngoại chú ý. Điều đáng buồn là rất nhiều người, đa số là thành phần có tiền của, mỗi khi làm việc thiện thì họ yêu cầu quay phim chụp hình, làm phóng sự. Đây là những hình thức làm việc thiện trơ trẽn của những kẻ háo danh bất tài vô tướng. Thành phần nầy cũng chẳng khác gì những ông bà làm chính trị bằng đường tắt, chữ nghĩa không đi đến đâu, khả năng kiến thức gà mờ, nhưng thường chường mặt ra trong các lần tổ chức từ thiện.

Tôi biết, bình thường muốn thành công lạc quyên cứu trợ thì những người tổ chức phải nghĩ đến những buổi dạ vũ, văn nghệ hay bữa cơm thịnh soạn để quý ông bà có dịp khoe của, khoe con cháu hoặc đánh vào tâm lý những người thích nổi bằng cách trịnh trọng mời họ lên sân khấu với danh tánh và số tiền ủng hộ ! Những cuộc lạc quyên như vậy đã mất hẳn ý nghĩa vì mục đích họ bỏ ra số tiền nhỏ không ngoài việc mua vui hoặc mua danh. Ngoài ra cũng có những người tổ chức chẳng những thích nổi mà còn lợi dụng kiếm tiền nên xem việc tổ chức cứu trợ như một nghề tay trái. Như vậy việc tổ chức từ thiện không khác gì là một cuộc trình diễn ‘cách cho nặng hơn tình cho’ !

Thời gian gần đây rộ lên phong trào giúp đở đồng bào đang bị thiên tai bão lụt tại quê nhà. Các cơ quan đoàn thể đều ra công sức tổ chức những buổi cơm tình nghĩa, những lần trình diễn văn nghệ thiện nguyện hay ra mắt sách, với quảng cáo rằng, dùng tiền để giúp đỡ những thành phần khốn khổ ở quê nhà. Tổ chức thành công thu được nhiều tiền nhưng rồi tiền đi đâu ? Bay hơi hoặc bị ngâm tôm làm vốn, hay người tổ chức giả vờ quên trong lúc đồng bào ruột thịt đang ngày đêm trông chờ từng manh áo, cái mền, ký gạo, viên thuốc trong lúc trẻ con khóc hết nước mắt trông đợi vài giọt sữa của những người có lòng từ tâm từ nước ngoài !

Cách mấy ngày nay, trên các diễn đàn vừa tiết lộ một điều cũng thấy đau lòng: Đại nhạc hội giúp thương phế binh của QLVNCH thành công thật tốt đẹp với một số lớn tiền thu được nhưng số tiền đến nay vẫn còn nằm trong túi của ban tổ chức vì ban tổ chức muốn tự tay mình phân phối số tiền trên mà không qua một tổ chức khác. Trong lúc đó một tổ chức khác đưa ra danh sách yêu cầu được quyền phân phối. Tranh nhau việc phân phối làm gì ? Ai làm cũng được. Miễn làm sao tuyệt đối tiền không rơi vào tay cán bộ cũng như cò mồi ăn có, không trao cho thương phế binh cộng sản, không hao hụt bay hơi trên đường từ Mỹ đến tận tay anh em thương phế binh của QLVNCH là quý lắm. Quý vị có công tổ chức và thành công tốt đẹp, cả thế giới đã biết và hoan hô tinh thần làm việc của quý vị. Quý vị có danh sách chính xác để trao tiền cho thương phế binh VNCH, quý vị bảo đảm không mất một xu, không hao một cắc thì xin hãy phối hợp với nhau để số tiền trên sớm về tận tay những anh em thương phế binh đang trông đợi, nhất là hoàn cảnh bây giờ, đang lúc thiên tai bão lụt khắp cả nước. Cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ ghi ơn quý vị nếu quý vị biết phối hợp với nhau và việc làm của quý vị thật trong sáng.

Người Việt hải ngoại nên ghi nhận rằng, tâp đoàn cộng sản ngày đêm mong ước thiên tai liên tục đổ xuống trên đầu người dân Việt Nam ! Vì đây là thời cơ ‘được mùa’ để chúng ngữa nón ăn mày kêu gào lòng nhân đạo thế giới và rút ruột người Việt hải ngoại. Cứ mỗi lần thiên tai bão lụt trút xuống đầu người dân Việt thân thương là lúc cha con chúng nó ‘hồ hởi’ ăn mừng. Từ những cán bộ khu xóm, quận tỉnh đến trung ương đều lợi dụng ‘ơn mưa móc’ của thế giới tự do, hồ bao của người Việt hải ngoại và đau khổ bất hạnh của người dân trong nước. To đầu thì kiếm tiền triệu, tép riu cũng hốt tiền nhậu, áo quần, phẩm vật, thuốc men. Thiên tai bão lụt là cơ hội để chúng lùa Xơ –Ni-Cha-Cố-Thầy…ra hải ngoại vắt sữa đưa về ăn chia. Lá bài ‘Tim da trắng tóc quăn’, ‘xanh vỏ đỏ ruột’ đã bị lật ngữa thì chỉ còn đám cò mồi của Hà Nội ở hải ngoại và Xơ-Ni-Cha-Cố-Thầy ... được cộng sản Hà Nội cho phép hành nghề thế chỗ.

Tập đoàn cộng sản phải có trách nhiệm và bổn phận mỗi khi bị thiên tai bão lụt đối với nạn nhân trong nước khi họ phải chịu cảnh màn trời chiếu đất, thiếu cơm, thiếu thuốc. Nhưng bọn chúng đã phủi tay và bán cái trách nhiệm cho thế giới tự do. Chưa một lũ người nào tàn bạo, vô nhân đạo và dã man như tập đoàn cộng sản Hà Nội. Lúc tốt trời thì tha hồ ăn cướp, cái gì cũng vơ cũng vét … và khi thiên tai bão lụt thì chúng lại ‘hồ hởi’ ‘hả hê’, sai đàn em mang ‘bị gậy’ lên đường vái lạy khắp năm châu để đem tiền về cho chúng. Người ta không bao giờ thấy những tổ chức xã hội của tập đoàn cộng sản ra tay cứu trợ mà chỉ thấy chúng tranh nhau xâu xé mồ hôi nước mắt của nhân và giành giật nhau đút túi những số tiền của người Việt hải ngoại gởi về cứu trợ đồng bào trong nước.

Đồng ý rằng chúng ta không thể làm ngơ trước thảm cảnh của đồng bào ruột thịt trong nước, nhưng phải làm thế nào để đồng tiền mồ hôi nước mắt của chúng ta phải đến tận tay những nạn nhân. Thật khó nghĩ ra một phương cách khả dĩ nào để công việc cứu trợ được hữu hiệu, nhưng tôi thử đề nghị một ý kiến nhỏ như sau:

Mỗi người Việt hải ngoại chắc chắn đều có những người thân, dòng họ, sui gia, người tình cũ, bạn bè, bạn học, thầy trò, chiến hữu, đàn-anh-đàn-em, cùng họ đạo, cùng gia đình Phật tử, lối xóm, cùng làng thì tùy theo khả năng và chịu khó bỏ chút thời giờ gởi thẳng tiền giúp đở họ qua một ngân hàng chuyên phụ trách chuyền tiền. Theo tôi biết có nhiều văn phòng chuyển tiền về VN (từ quân lỵ, thành phố đến thủ đô) rất nhanh chóng và lệ phí đã rẻ (5$ cho 100-500$ và 4$ từ 500$ trở lên …) lại nhanh chóng (dưới 24 giờ có giấy hồi báo). Nếu không cần rườm rà đánh bóng vì phải đi dự tiệc, phải chờ đợi và phập phồng không biết tiền cứu trợ đi về đâu thì xin vui lòng gởi theo hình thức nầy. Đây là làm việc thiện một cách hữu hiệu, kín đáo, thiết thực và chính xác.

Tóm lại làm việc thiện không phải là cơ hội để mua danh. Một khi xem đây là hình thức để khoe khoang thì việc làm sẽ mất hết ý nghĩa. Tôi không tin mấy về lời khuyên cho rằng, làm việc thiện để được ơn tha thứ hay chuộc lại tất cả các tội lỗi đã phạm nhưng đây là một cử chỉ để thể hiện tình người. Nhịn một tô phở hoặc vài ly café để đóng góp tiền bạc do chính mồ hôi nước mắt của mình trước cảnh thương đau của nạn nhân thiên tai bão lụt là một việc làm phúc đức còn tốt hơn đi chùa niệm Phật, đi nhà thờ đọc kinh nhưng trong tâm vẫn còn mang nặng ba cái tầm thường: Tham Sân Si.

Xin Ơn Trên trả công cho những người biết làm điều thiện.

Đinh Lâm Thanh


30 Năm Nữa Việt Cộng Cò Sợ ... Không - Đặng Quang Chính

Đặng Quang Chính

30 năm rồi người Việt sợ ai nhất? Sợ Việt Cộng. Họ chạy từ Bắc vào Nam năm 1954. Rồi sau đó, họ chạy ra nước ngoài năm 1975. 30 năm nữa, người Việt còn sợ không? Trước khi trả lời, chúng ta xem qua một số sự kiện lịch sử.

Sau Công Nguyên hơn 10 năm, hai Bà Trưng nổi lên chống giặc Tàu. Thua trận, hai bà tự vẫn chết. Mã Viện, tướng nhà Hán, dựng cột đồng, khắc hàng chữ: ”Cột đồng gãy, Giao Châu diệt”, ý muốn nói, cột đồng đó gãy thì dân Việt ta thời ấy sẽ bị diệt vong. Người Việt đi qua, lấy đá chất vào chân cột, lâu ngày xoá đi dấu vết của cây cột đó.

Tiếc rằng, thời gian sau, từ họ Triệu đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn ngàn năm, nước ta bị Tàu đô hộ.

Cuộc chiến 20 năm (1954-1975) đã tạo cho người dân Việt một tâm lý lo sợ thường trực. Ngoài Bắc, chính quyền CS dùng cách cai trị kiềm kẹp và sắt máu, làm cho người dân lo sợ. Họ lo sợ cho cả đến cái ăn cũng phải dấu diếm (ăn thịt gà phải dấu lông không dám đế cho người hàng xóm thấy). Trong Nam, trước 1975, tại những vùng mà lính VNCH không kiểm soát được, khi người dân bị chính quyền "cách mạng" gán tội ”Việt gian”, chắc chắn sẽ được mời đi "làm việc" vào ban đêm...và sau đó, bị chặt đầu, mổ bụng ..hoặc đập đầu, chôn sống.

Sau năm 1975, khi chính quyền miền Bắc đã thâu tóm cả hai miền, họ không lấy cây kim sợi chỉ của dân. Họ lấy nhà bằng cách đưa dân đi vùng kinh tế mới. Họ đoạt tài sản người dân bằng chiến dịch ”đánh tư sản mại bản”. Họ kiểm soát người dân bằng cách thắt bao tử, theo lối ”ngăn sông cấm chợ”. Những người chống lại đường lối của họ, chẳng hạn, như Trần Văn Bá, từ Pháp xâm nhập về VN, bị bắt, bị chúng xử tử!.

Hơn 30 năm qua (1975-2005), dân chúng sợ chính quyền còn hơn người dân ngày xưa sợ cọp. Sợ mà không biết cách nào để trừ khử, họ đành phải rời đất nước, chạy ra sinh sống ở xứ người. Ai không đi được, đành nhẫn nhục sống cho qua ngày tháng. Gần đây, có Linh Mục Nguyễn Văn Lý, chống lại chính quyền, nhưng thấy tâm lý người dân quá sợ CS nên ông đã dùng câu nói sau như một khẩu hiệu: ”Ðừng sợ những gì CS làm, mà hãy làm những gì CS sợ”. Một người khác trong nhóm Linh Mục Lý, phân tách hai chữ: ”Nhát” và ”sợ”, cũng không ngoài mục đích khuyến khích mọi người mạnh dạn chống lại những sai trái của chính quyền.

Dân Việt, những người sợ CS, chạy ra nước ngoài, còn tiếp tục sợ dài dài.

Trước đây, chúng tôi có bài viết: ”Rủ nhau cùng về”, nội dung khuyến khích những người đã về VN (dù bất cứ lý do gì) nên dành một ngày nào đó trong năm (30.04 hay Tết Nguyên Đán) để tưởng niệm những thân nhân hay đồng bào của mình đã chết trong cuộc chiến 20 năm trước đây.

Kết quả nhận được là:

1. Người viết bị chụp mũ là thân Cộng. Những người trong nhóm này lấy những chữ, những đoạn (có thể không hợp ý của họ) rồi "xé" ra ... rồi thêm hành thêm tỏi.
2. E sợ sẽ bị công an "làm thịt". Họ không nói theo kiểu của nhóm trên, nhưng có ý cho rằng, tác giả bài viết "Rủ nhau cùng về" giở trò chim mồi.
3. Nghi ngờ tính khả thi của sự viêc.

Tóm lại, dù ý kiến đóng góp rơi vào một trong 3 điểm nêu trên, tất cả đều ít nhiều nói lên tâm lý sợ sệt, khi nghĩ đến chuyện phải làm việc đó. Thân nhân mình đã chết trong cuộc chiến, theo họ, nếu làm tưởng niệm, chỉ nên làm âm thầm, đừng làm công khai; vì nếu làm bằng cách tập trung nhiều người, mà nhà nước lại gắn cho nhóm chữ "diễn biến hòa bình" thì nguy to!.... Sợ lắm!!...

Dân đen sợ nhà nước ...
Nhà nước sợ anh láng giềng Trung Cộng.

Anh bạn tôi, hiện đang làm công việc giáo dục ở VN, thuật lại một chuyện mà chính anh đã chứng kiến. Một trường trong thành phố Sài gòn, nhận được sự trợ giúp của chính quyền Đài Loan, nên định làm một buổi lễ khánh thành khá long trọng. Khi chính quyền nhận được chỉ thị sao đó của tòa Lãnh Sự Trung Quốc, trường kia đành phải dẹp ngang buổi lễ dự trù.

Nhà nước sợ anh láng giềng Trung Cộng.

Do đó, khi thanh niên, sinh viên biểu tình về vụ Hoàng Sa, Trường Sa, nhóm biểu tình đã bị lực lượng công an ngăn chận. Họ ngăn chận tại chỗ và dùng nhiều cách khác để chận đứng sự biểu tình tại các trường học.

Như vậy, cái SỢ này đã trở thành hệ thống. Tay sai sợ đàn anh, rồi tay sai làm cho con dân của mình phải sợ chính quyền tay sai, để họ trở thành những Thái thú của người Tàu trong thời đại mới. Theo kiểu này, e rằng, nước ta có thể sẽ quay về thời kỳ từ họ Triệu đến trước thời nhà Ngô, bị nước Tàu đô hộ cả ngàn năm. Lúc đó, người Việt ở hải ngoại chắc cũng đành chịu bó tay; giống như hiện nay, người Tàu ở nước ngoài, khi được hỏi có phải họ là người Trung Quốc không, họ nói họ là người Đài Loan. Lúc đó, khi Trung quốc đặt tên cho Việt Nam là Quảng Nam chẳng hạn (họ đã có Quảng Đông và Quảng Châu rồi)... có lẽ người Việt ở nước ngoài sẽ nói mình là người của "Việt Nam xưa".

Cách diễn đạt như trên, nếu đúng trong thực tế, thì tình hình chính trị của nước nhà sẽ không mấy khả quan. Ai còn tâm lý sợ chính quyền CS … sẽ tiếp tục nuôi trong người sự sợ hãi đó. Tâm lý sợ hãi này, nếu có ”di truyền” lại cho con cháu, thì người Việt vẫn còn tiếp tục có nỗi sợ hãi dài dài. Tuy nhiên, nếu biết cách giải trừ, sự sợ hãi sẽ bị triệt tiêu. Như đứa trẻ đi trong đêm tối, nếu cả nhóm 5 (7) đứa cùng đi, cùng hát vang trời, chúng sẽ bớt, hay không còn sợ bóng tối, sợ ma. Khi toàn dân đoàn kết, quyết tâm thực hiện một công việc chung, trụ đồng của Mã Viện sẽ bị xóa mất dấu vết. Ngày nay, nếu dân Việt thật sự đoàn kết, Tàu Cộng sẽ không dám ngang nhiên đặt trụ phân chia ranh giới của chúng đến tận Côn đảo của nước ta. Hiện tại, sự đoàn kết như thế chưa thể có được. Người Việt ở nước ngoài, về VN (1) vào hai ngày như nói trên, rồi tất cả làm lễ tưởng niệm thân nhân của mình, những người đã chết trong cuộc chiến 20 năm vừa qua. Cứ thử làm vậy rồi sẽ thấy việc gì xảy ra. Chắc chắn chính quyền CS sợ sự tập trung đông người theo cách đó. Hoá ra, chúng ta sợ Việt Cộng, mà thật ra, chúng cũng sợ người Việt ở nước ngoài; nếu chúng ta có quyết tâm cùng làm một việc như thế - hay bất cứ việc nào khác -(2) Buồn cười thay!! … hai bên chỉ vì SỢ nhau mà chưa thể đoàn kết. Nhưng trước hết, để mọi người Việt ở nước ngoài có thể có cùng quyết tâm, chúng ta hãy loại trừ những trang Web làm tay sai của bọn cầm quyền trong nước. Chính những trang Web đó đã tạo sự mất đoàn kết trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Do đó, dù 30 năm hay lâu hơn thế nữa, ngày nào cuộc chiến giữa cái thiện và ác vẫn còn, ngày ấy những trang Web đấu tranh cho cái thiện vẫn còn tồn tại.

Đặng Quang Chính
Oslo 03.09.2009

*****
Ghi chú:

(1) Mỗi năm, người Việt ở nước ngoài về lại VN khoảng 100.000 người. Không biết con số này phải đươc điều chỉnh chưa.
(2) Ðoàn kết thì ai cũng nói được; nhất là đảng CS Việt Nam. Nhưng, đoàn kết theo cách của đảng ta là mọi người phải đi theo tấm bảng chỉ đường của những “đỉnh cao trí tuệ”. Và cái "đỉnh cao" này, sau 30 năm, không làm được một góc nhỏ, so với Nhật Bản (1945-1975) mà cứ tự hào, hênh hoanh, tuyên truyền rầm rộ.

NHÌN RA VẤN ĐỀ MỚI HÀNH ĐỘNG CHÍNH XÁC ĐỂ KHỎI PHÍ CÔNG, UỔNG SỨC - Đặng thiên Sơn

Đặng thiên Sơn

Nhiều ngày trong tuần lễ vừa qua, các cơ quan truyền thanh, báo chí, truyền hình, đặc biệt là về phía Mỹ đã nói về trường hợp một sinh viên Việt Nam tại trường Đại học San Jose State, ban toán học, đến từ thành phố Hồ tặc đã bị cảnh sát San Jose dùng “Baton” đánh lên đầu và bắn súng “Taser” sau khi họ đã còng tay người sinh viên này.

Câu chuyện bắt đầu trở thành ầm ỉ khi báo San Jose Mercury News phát hành tại San Jose tung ra hai bài viết có tựa đề “Những âm thanh tệ hại” (The worst part is the sound) và “ Bằng video đã cho thấy Cảnh sát San Jose dùng “Baton”, súng “Taser” bắn kẻ bị tình nghi (San Jose police officers caught on video using baton, Taser gun on suspect) trong hai ngày 24 và 25 tháng mười 2009. Kèm với bài viết là đoạn video dài 2 phút 53 giây, chứng minh cảnh sát đã hành động trái phép. Đoạn video này được quay bằng điện thoại cầm tay, và được văn phòng luật sư Nguyễn Hoàng Duyên cung cấp. Theo tường thuật thì câu chuyện đã xảy ra vào ngày 3/ 9/09, cách nay gần hai tháng. Được tóm tắc như sau: “Trong ngày 3/9/09, một người bạn cùng phòng với sinh viên VN tên Phương Hồ, là Jeremy Suftin đã dùng xà bong đổ vào đĩa thịt bò Hồ đang ăn. Trong lúc lời qua tiếng lại, Phương Hồ đã cầm con dao cắt thịt chỉ vào Jeremy Suftin với những lời lẽ hăm dọa. Jeremy Suftin gọi 911 và cảnh sát đến. Khi cảnh sát đến nơi thì sự cải vả đã chấm dứt, Phương Hồ không cầm vũ khí nào trên tay. Vì tiếng Anh kém, Phương Hồ không hiểu lời yêu cầu của cảnh sát biểu đưa tay ra để “chịu trói” nên tỉnh bơ định bỏ đi ra chỗ khác, nhưng đã bị cảnh sát đè xuống còng tay lại. Tiếp theo đó là trận đòn “Baton” của cảnh sát viên Kenneth Siegel giáng xuống và mùi súng “Taser” của cảnh sát viên Steven Payne Jr. tặng cho Phương Hồ. Sau đó, sinhviên này bị câu lưu một ngày một đêm tại sở cảnh sát… Khi trả lời phỏng vấn báo San Fransico Chronico, Phương Hồ cho biết vì không hiểu tiếng Anh nên không biết cảnh sát muốn gì, mới bị họ đè xuống còng tay. Và vì không hiểu luật pháp Hoa Kỳ nên mới nhờ luật sư can thiệp chậm trể như vậy”.

Ngay khi báo báo SMN đặt vấn đề, Cộng Đồng VN chưa kịp lên tiếng, thì Thị trưởng Chuck Reed, sĩ quan cảnh sát Ronnie Lopez, nghị viên khu vực 3 là Sam Licarrdo, nghị viên Kansen Chu khu vực 4, đã đồng loạt lên tiếng. Những nhân vật này cho biết chính quyền đang mở cuộc điều tra để làm sáng tỏ sự việc. Sự quá mau mắn của Chuck Reed và sở cảnh sát đã cho thấy khác biệt lớn lao, so với sự kiện cảnh sát San Jose bắn chết Daniel Sơn Phạm ngày 10/5/09. Trong vụ Daniel Sơn Phạm, mặc dù chính quyền, sở cảnh sát, biện lý cuộc nhận được hàng ngàn thỉnh nguyện thư của gia đình nạn nhân và cử tri VN yêu cầu điều tra minh bạch, nhưng họ vẫn im lặng không ngó ngàng gì tới. Để rồi cuối cùng, sau đó, biện lý cuộc ra phán quyết cho biết hai cảnh sát bắn Daniel Sơn Phạm không làm sai, nên miễn truy tố.

Bài viết này, không đề cập đến “đúng hay sai” về hành động của cảnh sát khi tiếp cận với dân chúng. Nếu nói sai, thì dù cho hình ảnh không rõ ràng của đoạn video với tiếng kêu gào của nạn nhân cũng đủ chứng minh cho thấy cảnh sát quá thô bạo rồi. Hơn nữa, khi ông Chuck Reed, sở cảnh sát đã lên tiếng đang tiến hành điều tra, thì thái độ đứng đắn nhứt là giữa bình tỉnh để đợi chờ kết quả. Nên vấn đề đặt ra ở đây, nếu CĐNV tại San Jose muốn là điều gì đó trong lúc chờ đợi, thì điều cần thiết là phải nhìn ra sự việc để hành động được đúng mức, chính xác.

Trước tiên đừng quên rằng, Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại là một Cộng Đồng Tỵ Nạn Cộng Sản tức Tỵ Nạn Chính Trị. Thứ hai, dù rằng trên quan hệ tình người cũng phải thấy ngay, chuyện một du học sinh bị bạo hành khác với chuyện một công dân người Mỹ gốc Việt bị cảnh sát bắn chết. Nếu xác định được hai điểm vừa kể, chúng ta mới thấy trường hợp của Phương Hồ là một trường hợp đặc biệt. Sự đặc biệt này dựa trên ba quan điểm Tình, Lý và Chính trị. Do đó, nó đòi hỏi sự tế nhị, sáng suốt và quyết định đứng đắn của từng cá nhân, của Ban Đại Diện Cộng Đồng, của những tổ chức, đảng phái, để tránh trường hợp bị “cháy túi, trắng tay”.

- VỀ TÌNH: Trên phương diện nhân bản và đồng loại. Dẹp qua các thành kiến Phương Hồ là một du học sinh, là thành phần vừa hồng vừa chuyên được Việt Cộng đào tạo từ nhỏ. Nhưng, khi nhìn hình ảnh của đoạn video với âm thanh hỗn độn, khó ai tránh được sự thương hại khi tai nghe những tiếng rên la, đau đớn thảm thiết của nạn nhân. Những cảm xúc này càng tăng trong lòng người nghe, khi nghĩ đến cái chết của Daniel Sơn Phạm không được chính quyền Chuck Reed giải quyết minh bạch. (Xin mở dấu ngoặc ở đây, suy nghĩ này loại ra trường hợp nếu có những tên Việt Cộng nằm vùng tại các Toà Lãnh Sự, Tòa Đại Sứ của chúng đi ra đường bị cảnh sát Mỹ đánh, bợp tai hay cả việc bị bắn chết).

- VỀ LÝ: Từ bức xúc dồn dập chuyện này đến chuyện kia, cộng đồng VN San Jose đòi hỏi chính quyền địa phương một câu trả lời thỏa đáng là điều đương nhiên. Đòi hỏi này dựa trên tinh thần duy trì công lý mà quyền thụ hưỏng danh cho mọi sắc tộc, chớ không phải vì Phương Hồ là người VN. Lên tiếng để đòi hỏi chính quyền xác định thái độ, hành động của cảnh sát khi tiếp cận với người dân tới mức độ nào mới đúng, đối với những người không có vũ khí nguy hiểm trên tay hay họ không có hành động nào nguy hại đến cảnh sát? Câu hỏi này, người dân cần sự trả lời rõ ràng để còn tin tưởng hay không vào sự làm việc cảnh sát.

- VỀ CHÍNH TRỊ: Phương Hồ là người của chế độ cộng sản VN. Phương Hồ là thành phần ưu tú của đảng và nhà nước VC được xuất cảng sang Hoa Kỳ. Do đó, kẻ có đủ tư cách pháp nhân ra mặt bảo vệ, binh vực quyền lợi cho Phương Hồ là bọn VC nằm vùng tại San Fransico, chớ không phải là người Việt tỵ nạn CS, Ban Đại Diện CĐVN hay bất cứ một đoàn thể nào tại San Jose .

Có những suy nghĩ cho rằng, Tòa Lãnh Sự VC tại SF không lo cho Phương Hồ, thì đây là cơ hội người Việt quốc gia đứng ra lo, để lôi kéo những du học sinh, con cháu VC về với chính nghĩa quốc gia. Đây là suy nghĩ hời hợt, thiếu chính chắn. Tại sao không nghĩ ngược lại, chính Việt Cộng tại S.F đang tung ra vấn đề Phương Hồ lúc này sau khi đã tính toán kỹ. Nhưng, VC dấu mặt và mở rộng cửa cho những kẻ hấp tấp bước vào cái bẩy mà chúng đã giăng ra. Bởi vì nếu VC ra mặt, thì đâu còn chỗ trống để CĐVN nhảy vào đòi công lý (?)

Hãy nghĩ, Phương Hồ bị cảnh sát “hành hung” xảy ra tới nay đã gần hai tháng. Nhưng tại sau hôm nay văn phòng luật sư của nạn nhân mới tung ra trên báo SMN để làm rùm beng? Phải chăng điều này là sự sắp xếp, tính toán kỷ của kẻ chủ mưu đứng sau lưng? Có ba giả thuyết được mọi người bàn tán đến:

1. Giả thuyết 1: Sự tung tin trên báo chậm trể vì sự trao đổi mua bán, giá cả đoạn video giữa với luật sư của Phương Hồ và Dimitri Masouris, người đã quay được đoạn phim tới lúc này mới ngả giá xong.

2. Giả thuyết 2: Cuối tháng 10/09, là thời điểm Việt Cộng tung tiền ra thuê mướn luật sư, báo chí và bật đèn xanh làm lớn chuyện để lôi kéo cộng đồng VN nhập cuộc. CĐVN vốn nhạy cảm và đang bất mãn chính quyền về chuyện Daniel Sơn Phạm nên hăng hái đấu tranh đòi công lý. Vô tình làm bung xung tốt cho VC .

Nếu cộng đồng Việt Nam San Jose nhúng tay sâu vào chuyện Phương Hồ. Việt Cộng có những điều lợi sau đây:

- VC Mượn sức của CĐVN để làm giá với chính quyền San Jose , mà qua vụ Little Sàigòn ai cũng thấy ít ra Chuck Reed và Madison Nguyễn là hai người có cảm tình với VC, nên việc trao đổi không khó.

- VC muốn CĐVN nhúng tay vào chuyện Phương Hồ, là cách chuyển hướng “mũi nhọn” người Việt quốc gia đang nhắm tới là đối phó với cái gọi là “Meet VN” trong hai ngày 15 và 16/11 của chúng tại S.F bị chểnh mản, yếu đi.

- Việt Cộng lợi dụng sự nhúng tay nhiệt tình của CĐVN vào vụ Phương Hồ để tuyên truyền trong nước rằng, CĐVN tại San Jose đúng là một bộ phận của VNCS vì rõ ràng sự hăng hái bảo vệ một du học sinh đã chứng tỏ tinh thần: “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”.

3. Giả thuyết 3: Là điều kiện Việt Cộng cần phải có có để đào sâu thêm sự rạn nứt giữa CĐVN với chính quyền. Từ đó, VC và tay sai sẽ rêu rao CĐVN tỵ nạn cộng sản là thành phần gây rối, quá khích. Mục đích này chúng chuẩn bị cho việc bầu cử năm 2010 sắp tới.

Chính vì vậy, sau khi đã lên tiếng và làm những điều cần làm như Ban Đại diện Cộng đồng VN/BCL đã gửi văn thư đến Thị trưởng, Sở Cảnh sát San Biện Lý Cuộc yêu cầu mở cuộc điều tra. Như LĐCTNV/BCL cũng như các đoàn thể tổ chức họp báo trước tiền đình City hall chiều ngày 27/10/2009, thiết nghĩ đã quá đủ. Phần còn lại hãy để cho “cha mẹ đở đầu” của các du học sinh là bọn VC nằm vùng tại S.F và những kẻ thân cộng “thụ lý”. Nếu tiến xa hơn như kêu gọi biểu tình, thì e rằng sẽ trở thành một kịch bản khôi hài của vở tuồng “Anh hùng cứu mỹ nhân” khi đây không phải là việc làm của những người Việt tỵ nạn cộng sản sáng suốt.

Đặng Thiên Sơn


Chuyện ly kỳ của Đinh Cao Trí Tệ

CHUYỆN LY KỲ CỦA ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Luật Sư Lê Sáng

Đỉnh cao trí tuệ là một danh-tính từ do người cộng sản tự chế ra. Họ dùng để chỉ chính họ. Vì trí tuệ là một tính từ-danh ngữ đã có từ trước người cộng sản, người ta vẫn dùng để chỉ khả năng nhận thức lý tính của con người đã đạt đến một trình độ nào đó (Phải là cao trên trung bình). Nếu người cộng sản chỉ dừng lại là có trí tuệ thôi, thì sợ rằng họ không hơn người (?) Cho nên họ gắn thêm tổ hợp từ đỉnh cao vào. Có trí tuệ đã là điều tốt. Trí tuệ này lại đứng hàng đầu, số 1, trên đỉnh. Nghĩa là trí tuệ của người cộng sản là tốt nhất.

Một trong cái tốt nhất, cái đỉnh cao trí tuệ vừa được hé lộ bằng ngôn từ cho bàn dân thiên hạ trên trường quốc tế được chiêm nghiệm: “Có người ví von, Việt Nam - Cu Ba như là Trời Đất sinh ra, một anh ở phía đông, một anh ở phía tây chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cu Ba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cu Ba nghỉ” – Trích y nguyên lời Nguyễn Minh Triết UVBCTĐCSVN, chủ tịch nước CHXHCNVN phát ngôn ngày 03/10/2009 tai Cu Ba.

Xét trên nhãn quan duy vật biên chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, thì lời nói này của Nguyễn Minh Triết là rất “phản động” bởi thuyết duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ này là tự có, không có ai sinh ra cả. Hơn nữa Trời và Đất là của chung, nếu cũng sinh ra hai ông cộng sản này, thì hoá ra những người cộng sản đỉnh cao trí tuệ lại chung dòng máu với đám người “tư bản bóc lột” “đế quốc sài lang” “Trí phú địa hào” “Tiểu tư sản hèn nhát” hay sao ???

Xét trên lập trường gia cấp, thì đây là biểu hiện của sự xa rời lập trường của giai cấp công nhân, vốn coi mọi giai tầng khác là “đồ bỏ đi” chỉ có giai cấp công nhân là lực lượng tiến bộ duy nhất có thể lãnh đạo được xã hội. Giai cấp công nhân là lực lượng “vô địch” – Không ! nhất quyết không có chuyện người cộng sản có cha mẹ là Trời Đất, không có chuyện người cộng sản chung dòng máu với bất cứ giai tầng người nào khác.

Xét ở góc độ hiện tình cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phức tạp hiện nay, thì đây là biểu hiện của “tự diễn biến”. Chủ nghĩa cộng sản vô thần khoa học nhất quyết không thừa nhận có Thần có Thánh, có Trời có Đất vậy mà Nguyễn Minh Triết dám cả gan cổ võ cho chủ thuyết hữu Thần, lại còn ví von này nọ để né tránh trách nhiệm – Nham hiểm quá. Có thể Nguyên Minh Triết là “gián điệp của Vatican” ? Đang bí mật làm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bị “trệch ray” - Khởi đầu bằng việc cấy vào đầu óc người cộng sản “đỉnh cao trí tuệ” tư tưởng có Thượng Đế. Nguy hiểm quá ! khi xưa Gocbachop cũng bị tổng thống Regan cấy vào đầu tư tưởng có Thượng Đế … Rồi bắt đầu ông ta kéo sập cả hệ thống cộng sản ở Âu Châu … Đích thị Nguyễn Minh Triết đang làm cái tự diễn biến rồi …

Xét ở góc độ tinh thần “phê và tự phê” của cán bộ đảng viên cộng sản, thì đây là biểu hiện của sự thái hoá biến chất. Vừa không dám phê, vừa không tự phê. “Có người nói” - Người đó là ai, sao không tìm hiểu sao không vạch mặt chỉ tên nó ra. Mai mốt có thằng nó lật đổ chế độ cũng không biết tên biết mặt nó thì làm sao mà chống ??? Rồi cũng không biết mình thiếu xót mà tự phê, lại còn lấy cái thằng “không ai cả” ra mà viện dẫn ra đều tâm đắc lắm. Không có mảy may tinh thần phê và tự phê của đạo đức cộng sản chủ nghĩa - Hỏng !

Xét ở góc độ liêm sỉ, thì những lời nói này của Nguyễn Minh Triết rõ ràng là do ông ta phát ngôn ra. Lần đầu tiên người ta được nghe thấy, vậy mà ông ta lại đổ vấy cho một người không rõ tên tuổi địa chỉ đã nói ở đâu đó, vào một thời điểm nào đó ông ta cũng không biết… Quân tử thì phải nhất ngôn, phải trung ngôn. Đằng này ông Triết lại loạn ngôn, đã thế lại vừa nói vừa cười, mồm nói tay chỉ vung vít … không có lịch sự, không biết xấu hổ là gì – Các cụ dân tộc Việt ta xưa gọi là vô liêm sỉ.

Xét ở góc độ ngữ nghĩa ngôn từ thì hoà bình thế giới chưa bao giờ phụ thuộc vào phía đông hay phía tây. Đông hay tây là còn tuỳ thuộc vào vị trí gốc để định vị nữa. Hoà bình thế giới là một tình trạng chung của nhân loại, không phụ thuộc vào một vài cá nhân, một vài quốc gia. Lại càng không phụ thuộc vào ai ai đó canh giữ. Hãy mở mắt ra mà coi an ninh Mỹ còn thiếu vũ khí, phương tiện gì để canh giữ quốc gia đâu, vậy mà có vụ 11-9. Dù nó nổ ra trong một giây – Nhưng như thế có gọi là hoà bình được không ??? Mặt khác người cộng sản từng xuống tay giết hơn 100 triệu dân thường vô tội, tay không vũ khí. Trong đó cộng sản Việt Nam đóng góp không dưới 10 triệu, thậm chí csvn giết nhầm cả người đồng chí mình giết xong phải sửa sai bằng cách phong liệt sĩ (chiến sĩ cách mạng Dương Văn Đời). Nay ông Triết tự phong “chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới” – Nghe buồn nôn quá !

Xét ở góc độ thực tiễn lịch sử. Hôm nay lịch sử đã minh bạch, đã vạch mặt chỉ tên kẻ ngụy chân lý. Chủ thuyết cộng sản đã phá sản nhẵn tiền. Cả hệ thống cộng sản đã sụp đổ. Người cộng sản, chế độ cộng sản chưa bao giờ dám để người dân tự do tư tưởng, tự do lập hội lập đảng, tự do bầu cử một cách minh bạch dưới sự giám sát quốc tế … Vì làm như thế là tự sát. Cu Ba với tên độc tài Phi-Đen đầu thập niên 1990 còn ngang ngược tuyên bố này nọ, thậm chí còn kết án cả csvn là phản bội lý tưởng cộng sản chủ nghĩa … nay cũng phải “lánh mặt” để tên đàn em “đổi mới” xây dựng chủ nghĩa tư bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa … Dân thì đói khổ, khách sạn quốc tế phải đóng cửa vì thiếu giấy Toilet – Khách quốc tế không quen dùng các loại khác thay cho giấy Toalet. Vậy mà được ông Triết gọi là chiến sĩ bảo vệ hoà bình thế giới ??? Rõ ràng Nguyễn Minh Triết đã bắn súng lục vào lịch sử, đã ngửa mặt nhổ mước miếng.

Vài lời nhắn gửi. Gọi là cáo trạng ông chủ tịch chắc chưa sát lắm, vì chẳng có cáo buộc nào cho bằng chính những hành động lời nói của ông chủ tịch tự cáo buộc mình. Cho nên mới gọi là chuyện ly kỳ của “đỉnh cao trí tuệ”.

Lê Sáng

Nghề Mai Mối - Đinh Lâm Thanh

* Đinh Lâm Thanh *

Các cụ ngày xưa thường nói trên đời có bốn cái ngu: Thứ nhất làm mai, thứ hai gánh nợ, thứ ba gác cu, thứ tư cầm chầu. Nhưng bây giờ dưới thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa thì việc làm mai không còn đứng đầu trong bốn cái ngu mà chính là một nghề ‘ưu việt’ hái ra tiền do ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ đẻ ra. Ngày xưa nghề mai mối thường dành cho các bà xí xọn ham vui, chuyện suông sẻ thì hưởng cái đầu heo (?) bằng không thì bị vài tiếng mắng vốn hoặc nghe chưởi rủa từ hai họ. Ngày nay, chế độ cộng sản Việt Nam đã biến nghề mai mối hôn nhân thành một nghành thương mãi, có công ty, cơ sở do nhà nước chỉ huy đàng hoàng. Chỉ có chế độ đỉnh cao trí tuệ mới biến nghề nầy thành một kỷ nghệ vì tất cả công việc làm ăn đều có kế hoạch, bài bản mục đích nhằm thu tiền cô dâu mà cả thế giới đều gọi là nghề bán gái Việt Nam đi làm vợ, làm điếm khắp năm châu.

Cũng vì thất nghiệp, nghèo đói mà một số gái quê đành phải nhắm mắt đưa chân phó thác tấm thân để đi làm vợ xứ người. Một nghề thật xót xa và đau lòng cho thân phận của người con gái Việt Nam dưới chế độ cộng sản, khi đến đường cùng phải bán trôn nuôi miệng. Chồng là những ông già mất nết gần đất xa trời, là những thanh niên bệnh hoạn tật nguyền, là những tên ma cô đầu nậu của các động điếm, là những tên lái buôn phụ nữ mà những cô gái Việt nam chưa bao giờ hình dung được người chồng tương lai của mình.

Trước kia các bà mối thường đóng vai trò con thoi khiêm nhượng, chỉ có giới thiệu hai gia đình quen biết nhau, đốc thúc gặp gỡ để hai họ đi đến việc thăm viếng làm quen rồi đề nghị đám hỏi, đám cưới. Tại Miền Bắc trong thời gian Hà Nội xua quân vào đánh Miền Nam, đảng và nhà nước cộng sản ngang nhiên đóng vai ông bà mai và kiêm luôn thiên chức của bậc cha mẹ để cưới vợ gả chồng cho thanh niên thiếu nữ bằng những đám cưới tập thể … một cách thô sơ, nhanh chóng và giản dị. Mục đích làm thế nào để thực hiện nhanh chóng những ‘đơn vị sản xuất người’ hầu đáp ứng khẩn cấp nhu cầu thiếu hụt của chiến trường Miền Nam. Đến thời đại bây giờ thì nhà nước cộng sản không gấp rút sản xuất trẻ con để mang súng vác đạn ra chiến trường mà tiến tới việc khai thác thương mãi tình dục qua hình thức xuất khẩu hôn nhân giới trẻ: Đó là một hệ thống lớn tại Việt Nam nhằm tổ chức bán thân xác thanh thiếu nữ ra nước ngoài thu tiền bỏ túi. Từ quận huyện, thành phố đến thủ đô những văn phòng bán gái một cách công khai nằm dưới danh từ ‘công ty giới thiệu hôn nhân và tìm việc làm ở nước ngoài’.

Xã hội trong nước bây giờ không còn bóng dáng các bà làm làm nghề mai mối mà chỉ có những đoàn người hùng hục đi về các vùng thôn quê, như cảnh các tay lái heo đi tìm lợn, để chiêu mộ thanh thiếu nữ thuộc thành phần bình dân, ít học và túng thiếu. Những lời hứa hẹn đường mật của bọn con buôn cộng với một số ít tiền ứng trước buộc những thiếu nữ nhẹ dạ cũng như gia đình nạn nhân ký hợp đồng để kiếm chồng ngoại quốc. Đây là những bản án giết người mà chính cán bộ đảng viên nhà nước đã bày ra, vì một khi cô nào lỡ dại ra đi thì không bao giờ có ngày quay trở lại !

Khi đã trở thành món hàng mua bán, những thiếu nữ đáng thương nầy sẽ thuộc quyền xử dụng của cán bộ, mối lái và con buôn từ trinh tiết, thể xác đến việc rao giá gả bán và ngay cả sinh mạng con người. Trong gần hai trăm ngàn thanh thiếu nữ đã bị đẩy đi làm vợ khắp thế giới, đã có mấy ai may mắn kiếm được một người chồng cho ra hồn hay phải làm bé, làm con ở, con sen cho những tên già mất nết Đài Loan, Đại Hàn, Mã Lai hay làm vật giải trí cho những thằng đầu trộm đuôi cướp, đỉ điếm trong các hang ổ mại dâm trước khi bị bán đi từ động nầy qua động khác. Biết bao thanh thiều nữ bất hạnh vì nghề mai mối của nhà nước đã thất lạc trên đất khách, biết bao cô gái đã bỏ mình ở quê người. Tiếng địa phương không biết, đơn độc một mình trước bầy lang sói, cơ quan đại diện nhà nước chỉ có nhiệm vụ thu tiền, đem con bỏ chợ rồi phủi tay là những yếu tố đã xô những thiếu nữ đáng thương vào chỗ chết hoặc suốt đời phải bán thân nuôi miệng !

Có thể xem nghề mai mối hôn nhân nội địa đã bị đảng ‘cộng sản anh minh’ biến thành nghề xuất khẩu thịt sống. Nhưng tại hải ngoại thì hoạt động mai mối lại trở thành một nghề cao quý. Ông bà mai hái ra tiền và được trung ương đảng o bế khen thưởng hậu hỉ nhằm để giải quyết giùm đảng vấn đề hôn nhân đồng thời tìm cách giúp gia đình cán bộ đảng viên trở thành thông gia với người nước ngoài. Chuyện trái ngược nầy giúp cho người ta nhớ lại những câu vàng ngọc mà sau ngày cướp xong Miền Nam chúng đã to mồm tuyên bố rằng ‘Thành phần vượt biên chạy qua Mỹ gồm toàn những tên bất hảo trộm cắp và đỉ điếm’. Nhưng ngày nay, chính bọn đảng viên cán bộ cộng sản đang tìm cách để kết sui gia với thành phần trộm cắp đỉ điếm ngày trước thì kể ra cũng thật lạ !!!

Đã có vài trăm vụ thành hôn của thành phần con ông cháu cha với những gia đình vượt biên ngày trước, điển hình là đám cưới con gái rượu của tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với một công tử thuộc dòng họ trộm cắp đỉ điếm. Nhưng nhờ cuộc hôn nhân nầy mà Nguyễn Tấn Dũng từ nay có thể đi thăm sui gia không còn phải trốn trong xe và chui vào cửa hậu. Chắc chắn mai kia sẽ nhờ thằng rể gốc đỉ điếm đứng ra bảo lãnh thì tên thủ tướng cộng sản sẽ hân hạnh trở thành một tên bất hảo trộm cắp đỉ điếm tân thời ! Ôi chao, ngày trước nguyên cả bộ chính trị trung ương đảng gào khô cả cổ họng rằng Đế quốc tháo chạy đã bắt theo cả triệu người qua Mỹ để làm nô lệ. Bây giờ thì chính những tay cộng sản gộc lại năn nỉ Mỹ để được làm nô lệ vìcon đường độc nhất để được vào cái thế giới gọi là văn minh đồi trụy thì không có gì khác hơn là việc gã bán con cháu cho bọn cướp bóc đỉ điếm ngày trước !

Nhiều văn phòng xe duyên kiếm chồng gả vợ xuất hiện tại các thành phố lớn của các xứ tự do làm ăn càng ngày càng phát đạt nhờ đa số du học sinh con ông cháu cha. Chữ nghĩa chẳng bao nhiêu, ngoại ngữ bập bẹ vài câu thì làm sao theo nổi chương trình đại học tại các xứ Âu-Mỹ, chỉ còn con đường duy nhất là kiếm vợ tìm chồng để được ở lại. Thực ra đám con ông cháu cha mang danh du học nhưng không ngoài mục đích tẩu tán tiền bạc và kiếm nơi nương tựa cho tương lai đồng thời là cơ hội ngàn vàng để chuẩn bị cho dòng họ gia đình chạy trốn sau nầy. Do đó, việc kiếm vợ gả chồng với người ngoại quốc cũng như nguời Việt hải ngoại là vấn đề ưu tiên được đảng cộng sản đặt lên hàng đầu khi cho thành phần du học sinh Việt Nam ra nước ngoài. Bây giờ thì tất cả đã hiểu rõ ràng vai trò các văn phòng hôn nhân đang nhộn nhịp bành trướng ở nước ngoài là do ai và phục vụ cho thành phần nào.

Ngoài ra các ông bà mai mối hành nghề có tính tư nhân cũng hoạt động đắc lực qua vai trò con thoi giữa thành phần cán bộ gộc đảng và nhà nước với những gia đình gốc người Việt tỵ nạn cộng sản. Những người mai mối ngày nay không ngu như các cụ nói trước kia, không chỉ hưởng cái đầu thịt lợn mà được trả công bằng cái đầu heo bằng vàng. Do đó người ta không ngạc nhiên có những người đi về Việt Nam thường xuyên như đi chợ và tự nhiên trở nên giàu có ‘một cách thần thánh’ trong một sớm một chiều. Chỉ cần mỗi năm ‘kết’ được một cặp con cái các tên to đầu trong bộ chính trị hoặc ngụy quyền cộng sản với một gia đình người Việt hải ngoại là dư sức sống phè phởn trọn đời. Công việc của thành phần nầy thật đơn giản và nhẹ nhàng. Họ chỉ cần nghiên cứu để lập một danh sách gồm những gia đình gốc Việt có con gái đẹp (nếu có học thì càng tốt), hoặc có con trai thành công đỗ đạt thì bắt đầu dò hỏi, lân la làm quen rồi vẽ ra những hình tốt ảnh đẹp cũng như tương lai tươi sáng của cuộc hôn nhân với một gia đình cán bộ gộc cộng sản để dụ khị khách hàng. Họ thuộc lòng bài bản, đến gia đình nào cũng ca nguyên bài cũ. Ca hoài ca mãi thì cũng có ngày dụ được vài mối và chắc chắn trong số khách hàng cũng có gia đình tỵ nạn cộng sản sẽ xiêu lòng trước viễn ảnh quá tốt đẹp vừa danh vọng vừa tiền bạc.

Tôi cũng được một ông bà mai mối chấm tên trong danh sách để tiếp xúc, và họ ngỏ ý mời tôi qua một người bạn, cùng dùng cơm tối ở nhà hàng. Trả lời câu hỏi, họ cho biết lý do việc mời cơm tối chỉ đơn giản là sự ái mộ của một độc giả. Tôi đoán biết thâm ý bữa cơm tối, nhưng nhận để xem cách thuyết phục của ông bà mai cũng như những đề nghị của gia đình cán bộ đi ‘cầu hôn’. Sau vài câu mưa nắng, chuyện sách vở là họ đi vào ngay câu hỏi mở đầu: Chắc các cháu của anh đã lớn và thành đạt tất cả rồi ? Và tiếp theo là còn cháu nào quá kén chọn … chưa vợ chưa chồng không ? Tôi vừa gật đầu thì họ đi thẳng vào ngay chương trình chào hàng và thuyết phục. Suốt bữa ăn tôi chỉ ngồi và nghe đủ thứ chuyện, nhưng kết cuộc tóm lại chỉ có vài điểm chính qua việc ‘dạy đời’ của ông bà mai. Xin tạm ghi ra đây:

1. Nên thức thời, bỏ qua quan niệm hẹp hòi của một số người về chế độ cũ chế độ mới. Phải mở rộng vòng tay hợp tác để xây dựng đất nước. Việc hợp tác không có gì tốt và hiệu nghiệm bằng hình thức kết nghĩa sui gia với nhau !

2. Chỉ cần một cái gật đầu thì cuộc đời sẽ thay đổi tức khắc, chẳng những trở thành sui gia với những vị quan quyền nhất nước Việt Nam và tương lai, gia đình kết thân với cán bộ sẽ lên như diều gặp gió, danh vọng tràn trề, tiền bạc đầy đủ !

3. Bảo đảm một khi cha mẹ đồng ý thì con cái sẽ ưng thuận tức khắc. Vì chẳng ai dại bỏ qua cơ hội được thành hôn với những cô chiêu cậu ấm thanh lịch nhất Hà Nội, học giỏi thông minh tuyệt vời. Rể thì tương lai sẽ thành những vị lãnh đạo đất nước, dâu sẽ là những mệnh phụ phu nhân quyền quý và tiền của thì có sẵn hàng triệu hàng tỷ xài suốt đời không hết. Con trai con gái bây giờ chẳng cần đặt vấn đề tìm hiểu nhau làm gì cho mất thời giờ. Vàng bạc, hột xoàn châu báu và địa vị trong tương lai là những điểm chính để quyết định một cuộc sống chung.

4. Cha me, anh em của gia đình sui gia cũng hưởng được ân huệ từ tiền bạc để tiều xài, được giúp vốn làm ăn. Nếu có khả năng và uy tín thì sẽ được đứng tên thành lập các đại công ty từ trong nước ra đến hải ngoại. Rồi tiền của sẽ giúp cho gia đình sui gia sống đến trọn đời. Ông bà mai kết luận, như vậy chỉ nhờ vào hôn nhân của con cái mà cha mẹ được hưởng thêm một lần đổi đời nữa. Nhưng lần đổi đời nầy sẽ tuyệt vời, ‘tiến lên đỉnh vinh quang’ chứ không phải cuộc đổi đời xuống chó của năm 1975 !

5. Nhà nước sẽ ưu ái dành cho các gia đình sui gia với cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước những quyền lợi cao quý của một công dân xã hội chủ nghĩa. Về Việt Nam sẽ được đón tiếp theo vai vế sui gia với chức vụ của viên chức nhà nước, sẽ được phong làm công dân danh dự, được đề cử làm đại biểu nhân dân, được tham gia chính quyền vân vân …

Cuối bữa ăn tối, ông bà mai nghĩ rằng họ đã thuyết phục được khách hàng và đề nghị cho họ vài tấm ảnh của những đứa con chưa có gia đình. Nhưng khi nhìn nét mặt người đối diện thì ông bà mai chỉ còn việc kêu tính tiền và biến mất kể từ giờ phút đó.

Nghĩ thật buồn cười, ngày nay cán bộ đảng viên cộng sản gộc thì đi tìm cái phồn vinh giả tạo để cưới vợ gả chồng cho con cháu của họ với thành phần trộm cướp đỉ điếm ngày trước. Về phần người Việt hải ngoại, gia đình tỵ nạn nào muốn kết sui gia với dòng họ khỉ đỏ đít từ rừng chui ra … thì cứ nhào vô kiếm ăn !!!

Đinh Lâm Thanh

QUYẾT ĐỊNH 97: LUẬT VÁ VÍU - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Ngày 24/07/2009, Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN đã ban hành quyết định số 97. Quyết định này ngăn cấm tư nhân, tức là người dân, không được phép phổ biến trước công chúng những ý kiến nghiên cứu khoa học có nội dung ngược lại với đường lối và chính sách của nhà nước. Quyết định 97 có đoạn viết nguyên văn như sau: “Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, cần phải gửi ý kiến phản biện đó cho các cơ quan đảng và nhà nước có thẩm quyền, chứ không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ.”

Đặc biệt điều (2), khoản (2) của quyết định 97 còn ghi rõ: “Chỉ hoạt động trong lãnh vực được ban hành kèm theo quyết định này”. Kèm theo quyết định này có nghĩa là các ngành khoa học sau đây bị cấm nghiên cứu: Luật học, chính trị học, truyền thông và thông tin. Nói rõ hơn: giới trí thức, tức là quần chúng, bị cấm viết phản biện trong các ngành vừa nêu, ngay cả trườnh hợp bài phản biện chỉ gửi cho cơ quan nhà nước, không phổ biến trước công chúng.

Nhằm biện minh cho quyết định 97, ông Nguyễn Quân, thứ trưởng bộ Khoa Học Công Nghệ đã giải thích trên Vietnamnet rằng: “… trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế đầy khó khăn thử thách, chúng ta đang cần có đồng thuận cao của xã hội đối với các quyết sách của đảng và nhà nước, cần có sự ổn định để tiếp tục phát triển, thì việc công bố các kết quả nghiên cứu phản biện liên quan đến đường lối chủ trương, chính sách điều hành kinh tế xã hội phải hết sức thận trọng.”

Rõ ràng là nhân danh “xã hội phức tạp”, trong khi chẳng có xã hội nào là không phức tạp, CSVN đưa ra chủ trương tạo đồng thuận và ổn định cho xã hội bằng phương pháp bịt miệng giới thường dân nghiên cứu khoa học công nghệ.

Ngày 14/09/2009 Viện Nghiên Cứu Phát Triển (Gọi tắt là IDS) do tiến sĩ Nguyễn Quang A làm viện trưởng đã họp phiên khoáng đại. Từ phiên họp khoáng đại này, IDS tuyên bổ tự giải thể nhằm phản đối quyêt định 97.

Ngày 14/10/2009 nhà cầm quyền Hà Nội ra thông cáo gồm ba trọng điểm:

1. Quyết định 97 là cần thiết và hợp pháp.
2. Giao cho UBND thành phố Hà Nội “xử lý” sự vịêc IDS tự giải thể.
3. Xử lý những phát biểu thiếu xây dựng của một vài cá nhân trong IDS

Nhìn chung lại, quyết định 97 và các hành động trừng phạt nằm đàng sau hai chữ “xử lý” có mục đích đe dọa những người dân nào toan tính chống chế độ Hà Nội. Hành động chống đối này được ngụy trang dưới hình thức dùng các công trình nghiên cứu khoa học để phản biện, có nghĩa là nói ngược lại với đường lối và chính sách của CSVN. Câu hỏi được đặt ra là: những đe dọa vừa kể có thực sự làm tiêu tan mọi ý chí chống đối hay không? Giáo sư Sử học Phan Huy Lê đã nhẹ nhàng trả lời câu hỏi kia như sau:

Ngày 14/10/2009, báo Khoa Hoc Và Đời Sống, trực thuộc hệ thống truyền thông CSVN đã phổ biến một bài viết có tựa đề “Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám”, tác giả là GS Phan Huy Lê. Nhằm tránh những trừng phạt gay gắt từ quyết định 97, GS Phan Huy Lê chỉ xin “Trả lại sự thật”, thay vì “phản biện”. Thế nào là sự thật?

Tháng 10 năm 1945 kho xăng Thị Nghè bị cháy. Cháy do tai nạn hay do ai đó phá hoại, tin tức sơ khởi không nói rõ. Ngay lúc bấy giờ, ông Trần Huy Liêụ, một giáo sư sử học của Hà Nội, vội vàng bịa ra câu chuyện: Cậu bé Lê Văn Tám 10 tuổi đã tự tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt cháy kho xăng Thị Nghè. Lập tức, tin về “ngọn đuốc” Lê Văn Tám được báo chí và đài phát thanh, kể cả đài BBC Luân Đôn rầm rộ phổ biến. Từ đó Lê Văn Tám trổ thành nhân vật có thật.

Tại miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Miền Nam Việt Nam sau 1975, câu chuyện anh hùng Lê Văn Tám được truyền tụng rộng rãi. Lê Văn Tám có mặt trong sách giáo khoa. Lê Văn Tám được dùng để đặt tên đường phố, Lê Văn Tám đứng lẩm liệt trên tượng đài, trong công viên. Lê Văn Tám là thần tương của mọi giai tầng Việt Nam.

Trong bài viết “Trả Lại Sự Thật Hình Tượng Lê Văn Tám” GS Phan Huy Lê cho biết: năm 1960, ông Trần Huy Liệu có lần đã giải thích với GS Phan Huy Lê rằng: “Dựng chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám tức là nghĩ đến cách mạng Tháng Tám. Lúc bấy giờ, GS trần Huy Liệu đang giữ chức bộ trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền trong chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.”

Nhận định về tính chất hư thực của câu chuyện Lê Văn Tám, GS Phan Huy Lê cho rằng: “ Cậu bé Lê Văn Tám sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với khoảng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ, và họ cho rằng sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

Với các sự kiện nêu trên, “anh hùng” Lê Văn Tám hiển nhiên là câu chuyện bịa đặt. Nói đúng hơn, đây là một hồ sơ bí mật dùng vào việc dối gạt dư luận trong nhiều thập niên qua. Đề cập đến hồ sơ mật, CSVN có nhiều ngàn hồ sơ mật. Mỗi hồ sơ mật sau khi bị giải mật sẽ là một hủ mắm thối hoặc một tội ác ma quái trong lịch sử loài người. Sau đây là vài câu hỏi dẫn đường vào kho tội ác kia:

Trần Dân Tiên là ai ?
Hồ Chí Minh có bao nhiêu căn cước, bao nhiêu vợ, bao nhiêu con ?
Ngày sanh, ngày tử của Hồ Chí Minh, thực sự là ngày nào?
Đâu là nguyên văn chúc thư của Hồ Chí Minh?

Công việc ướp xác Hồ Chí Minh trong những thập niên qua tốn kém tất cả là bao nhiêu? Tiền ướp xác lấy từ đâu? Cơ quan hành chánh nào, văn kiện pháp lý nào có liên hệ tới dịch vụ ướp xác kia?
CSVN nợ Tàu bao nhiêu tiền? Tổng số nợ được xác định bằng phương pháp nào? Thể thức trả nợ ra sao? Trả trong bao lâu? Văn kiện pháp lý nào cho phép CSVN, một đảng hoạt động không giấy phép, lấy thuế của dân, tài nguyên của quốc gia để trả “nợ ân oán giang hồ” cho Tàu? Nợ của một đảng không giấy phép chỉ có thể là nợ ân oán giang hồ.

Tại sao sau 1975 CSVN phải theo Nga, đánh Tàu?

Nội dung mật ước 1999 và 2000 giữa Tàu và CSVN bao gồm những gì?

Những câu hỏi có nội dung đòi hỏi CSVN giải mật bí mật lịch sử dài bất tận. Nghịch lý lớn lao nhất nằm ở sự thể rằng: Đất nước là của toàn dân, thế nhưng những vấn đề trọng đại gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của đất nước đều bị chế độ Hà Nội, một chế độ không do dân bầu, mang cất vào kho riêng của đảng CSVN dưới danh nghĩa là bí mật quốc phòng. Chừng nào kho bí mật bị phá tung, chừng đó chế độ Hà Nội sẽ cáo chung. Đó là lý do giải thích tại sao CSVN phải hối hả bảo vệ bí mật bằng những biện pháp quái dị kiểu: Buộc báo chí phải đi bên lề phải. Tịch thu máy vi tính của những người bị tình nghi có tư tưởng chống độc tài, những bloggers chống Tàu. Giới hạn tối đa quyền sử dụng máy vi tính của người dân. Cấm tư nhân làm báo dưới mọi hình thức. Cấm người dân mặc áo thun có ghi hang chữ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Cấm giới trí thức phổ biến những phản biện đối với đường lối và chính sách của CSVN…

Thay vì phản biện chính trị, GS Phan Huy Lê chỉ dùng “nhu cầu nói thật” thông qua câu chuyện Lê Văn Tám để nhẹ nhàng qua mặt quyết định 97. Hành động của GS Phan Huy Lê là một thông điệp nói rõ ra: Con người, đặc biệt là người Việt Nam có một nghìn lẽ một kiểu diễn đạt tư tưởng. Dùng luật pháp vá víu kiểu quyết định 97 để ngăn chận lời lẽ chống đối của người Việt Nam yêu dân chủ và công bằng chẳng khác nào dùng rơm rạ để vá lại những rò rỉ trên một con đê èo ọp đang run rẩy trước cơn thịnh nộ của nước lũ. Giải pháp hữu lý nhất cho hiện tình Việt Nam là giải pháp rằng con đê CSVN không thể tiếp tục tồn tại trong vá víu. Nó phải bị thay thế bằng một con đê mới. Con đê mới kia sẽ được thiết kế từ những kiến thức vửng vàng về khoa học chính trị và khoa học luật pháp của thể chế tự do dân chủ.

Đỗ Thái Nhiên