Wednesday, October 14, 2009

Giải Nobel lạ lùng - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng
Ông Norman E. Borlaug mới qua đời tháng trước. Ông là người Mỹ được tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1970, sau Mục Sư Martin Luther King Jr. (1964) và một chục người Mỹ khác. Borlaug là một cậu bé nhà nông ở vùng Trung Tây (Midwest), lúc lớn lên được bố dẫn đi thăm thành phố Minneapolis cậu ngạc nhiên vì lần đầu tiên trông thấy người đói, những người Mỹ đói đang đi xin ăn. Từ đó Borlaug bị ám ảnh, cứ nghĩ phải làm sao giúp người ta khỏi đói. Cậu học về thực vật, nông nghiệp và cố gắng gây giống từ những loại lúa mì khác nhau để tạo những giống lúa mới, có hiệu năng cao hơn và tự chống lại được sâu, rầy.

Năm 1944, sau khi đã làm công việc khảo cứu trong hãng DuPont để phục vụ quân đội trong thời chiến, Borlaug đã bỏ công ty lớn này ra đi, từ chối món lương tăng gấp đôi, để sang Mexico làm công việc nghiên cứu tìm giống lúa mì mới. Tại đây, ông làm việc 12 tiếng một ngày dưới thời tiết nóng và khô. Mexico đang bị nạn đói liên tiếp nhiều năm trước vì sâu rầy phá hại mùa màng. Borlaug không chỉ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm mà đích thân ra ngoài ruộng, ông cầy, bừa, gieo hạt, tưới bón, theo dõi hạt nẩy mầm, chờ lúa lớn lên, thí nghiệm các thứ phân bón khác nhau. Sau mấy năm chính ông đem trồng thứ lúa mới có kết quả rõ ràng, một thửa ruộng có thể gặt được nhiều lúa hơn giống lúa cũ, Borlaug mới thuyết phục các nông dân Mexico dùng thử các hạt giống mới. Mấy năm sau, Mexico không còn nạn đói mà trở thành một quốc gia xuất cảng lúa mì. Borlaug vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu ở Ấn Ðộ và Pakistan, ngay trong lúc hai quốc gia này đang đánh nhau. Ông nói rằng loài người không thể nào có hòa bình nếu người ta còn đói, và dần dần nông dân hai nước này cũng bắt đầu trồng những giống lúa mới và không bị đói nữa – tuy nhiên họ vẫn tiếp tục đánh nhau vài lần nữa! Ông mất vào ngày 14 Tháng Chín vừa qua, chắc ít có ai nghe báo đài loan tin!

Sau một đời cần cù làm việc, Norman E. Borlaug đã cứu hàng trăm ngàn người khỏi chết đói và hàng tỷ người thoát cảnh đói khổ. Ông xứng đáng được trao giải Nobel Hòa Bình, mặc dù người lập ra giải này không có ý tặng cho những người có công cứu đói như ông. Trong di chúc viết năm 1895, Alfred Nobel yêu cầu giải này đem tặng cho “người nào đã làm nhiều nhất hay việc tốt nhất để xây dựng tình huynh đệ giữa các quốc gia, hoặc giải trừ hay giảm bớt quân lực và xây dựng, phát triển sự tiến bộ của hòa bình.” Các ủy ban tuyển lựa giải Nobel Hòa Bình đã mở rộng thêm tiêu chuẩn ra ngoài những điều ghi trong di chúc trên và tặng giải cho cả những người như ông Norman E. Borlaug hoặc ông Al Gore (2006) một cựu phó tổng thống Mỹ đã góp công vận động cho phong trào bảo vệ môi trường sống. Những nhà tranh đấu cho dân chủ tự do và nhân quyền cũng được trao giải, vì khi thế giới chắc sẽ hòa bình hơn khi quyền làm người, quyền công dân được các chính quyền tôn trọng. Mẹ Theresa được trao giải năm 1979 vì những công cuộc bác ái bà đã theo đuổi suốt đời. Tiêu chuẩn lựa chọn càng ngày càng được mở rộng thêm.

Nhưng khi nghe tin giải Nobel Hòa Bình năm 2009 được trao cho Tổng Thống Mỹ Barack Obama thì hầu hết mọi người phải ngạc nhiên, kể cả ông Obama như ông công khai thú nhận.

Ông Michael Steele, chủ tịch Ủy Ban Quốc Gia đảng Cộng Hòa nói, “Câu hỏi mà người Mỹ đang đặt ra là Tổng Thống Obama đã thực hiện được những gì mà được trao giải?” Cựu Tổng Thống Ba Lan Lech Walesa đồng ý, “Sao mau vậy? Còn sớm quá. Ông ấy đã đóng góp được gì đâu? Ông ấy mới bước lên sân khấu, mới bắt đầu hành động!” Lech Walesa đã được trao giải Nobel Hòa Bình năm 1983, mà thường một người đã lãnh giải ít khi tỏ ý nghi ngờ việc phát giải cho người sau mình. Tuy nhiên Walesa vẫn được tiếng là người chất phác, bộc trực, tính nết một công nhân thợ điện.

Walesa là một thí dụ cho thấy ủy ban tuyển chọn giải Nobel Hòa Bình thường tìm cách dùng giải này gây tác động trên chính trị quốc tế. Ông được trao giải trong lúc đang lãnh đạo công đoàn độc lập Solidarnos đối đầu với đảng Cộng Sản Ba Lan. Mọi người hiểu việc trao giải cho ông là một lời tán thưởng gửi tới một nhà tranh đấu cho tự do dân chủ. Ðó cũng là một lý do khiến trong những năm qua nhiều người đã đề cử Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ để tặng giải Nobel Hòa Bình. Bà Aung San Suu Kyi được tặng giải năm 1991 cũng vì bà lãnh đạo công cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ ở Myanmar, Miến Ðiện và đến giờ vẫn bị tù.

Năm 1975, giải được trao cho nhà bác học Andrei Shakarow, người đã lên tiếng chống chế độ độc tài Cộng Sản ở Liên Xô mà vì thế bị tù đầy. Năm sau, giải được trao cho hai phụ nữ đã vận động hòa bình ở Ái Nhĩ Lan, tìm cách chấm dứt cuộc nội chiến ở vùng miền Bắc nước này. Năm 1984, Giám Mục Desmond Tutu ở Nam Phi được tặng giải vì công trình tranh đấu bất bạo động của ông cùng dân da đen ở đây để thay đổi chế độ kỳ thị chủng tộc. Năm 1989, ngay sau khi đảng Cộng Sản Trung Quốc đàn áp đẫm máu các sinh viên, công nhân biểu tình ở Thiên An Môn, giải Nobel Hòa Bình được tặng cho Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ gián tiếp lên án chế độ độc tài ở Bắc Kinh. Năm 1990, giải Nobel Hòa Bình cũng được tặng cho ông Mikail Gorbachev, chủ tịch đảng Cộng Sản Liên Xô, để tán thưởng ông đã không đưa quân qua các nước Ðông Âu ngăn cản phong trào tự do dân chủ bùng lên ở đó trong năm 1989, như những người lãnh đạo Liên Xô đã làm trong những năm 1956 ở Hungary và 1968 ở Tiệp Khắc.

Walesa cho rằng việc trao giải cho Tổng Thống Obama chắc có ý “khuyến khích” ông tiến tới các hành động cụ thể sau này. Trong quá khứ mục tiêu “khuyến khích” cũng thường được sử dụng. Nhưng hành động khuyến khích của quý vị trong ủy ban tuyển chọn ở Oslo không biết có công hiểu hay không?!. Năm 1971, giải Hòa Bình được tặng cho Thủ Tướng Ðức Willy Brandt, vì ông là người lãnh đạo đầu tiên ở Tây Ðức đã lên tiếng kêu gọi hòa giải với Ðông Ðức và cả khối Cộng Sản ở Ðông Âu. Chính sách Phương Ðông (OstPolitick) của ông đi trước các quốc gia Tây phương khác, có thể đã tác động trên công luận đưa tới các biến cố ở Ðông Âu sau đó hàng chục năm. Năm 1978, thủ tướng Israel, Menachem Begin và Tổng Thống Ai Cập Anwar Sadat được trao giải Hòa Bình sau khi hai nước ký một hòa ước chấm dứt những cuộc chiến tranh kéo dài suốt 30 năm; đây là một cử chỉ khuyến khích các nước Á Rập khác làm theo, nhưng không thành công. Năm 1994, các thủ tướng Shimon Peres và Ytzhak Rabin của Israel cùng lãnh tụ Palestine ông Yasir Arafat được tặng giải để khuyến khích hai dân tộc tiến đến hòa bình; nhưng tới nay viễn ảnh đó vẫn còn xa vời.

Không có năm nào mà giải Nobel Hòa Bình bị chỉ trích mạnh như năm 1973 khi ủy ban ở Oslo, thủ đô Na Uy, trao giải cho hai ông Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ, hai người đã đàm phán trong mấy năm đưa tới Hiệp Ðịnh Paris kết thúc chiến tranh Việt Nam. Người chủ trương chấm dứt chiến tranh Việt Nam là Tổng Thống Nixon còn Kissinger chỉ làm theo lệnh. Còn mọi người đều biết Lê Ðức Thọ ăn gian nói dối khi khẳng định rằng quân đội Bắc Việt không có mặt ở miền Nam! Kissinger đi lãnh giải nhưng Lê Ðức Thọ từ chối vì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục chiến tranh cho đến khi chiếm được miền Nam Việt Nam mới thôi.

Việc trao giải Nobel Hòa Bình cho Tổng Thống Mỹ Barack Obama cũng là một cử chỉ mang tính cách chính trị. Nhiều người coi đây là một cách bầy tỏ thái độ với cựu Tổng Thống Mỹ Georges W. Bush, một thái độ không thân thiện của người Âu Châu. Ủy ban tuyển chọn gồm 5 người do Quốc Hội Na Uy cử ra, mà Quốc Hội Na Uy hiện nay do các đảng tả phái chiếm đa số. Họ muốn chứng tỏ ý hoan nghênh ông Obama khi ông thay đổi triết lý ngoại giao của nước Mỹ, từ xung đột chuyển sang hòa hoãn.

Nhưng nếu chỉ tuyên bố những lời hòa hoãn và đọc những bãi diễn văn kêu gọi hòa bình mà được giải Nobel, trước khi đạt được những thành tựu cụ thể, thì việc trao giải cho ông Obama sẽ hạ thấp giá trị cả định chế quốc tế xưa nay vẫn được tôn trọng này. Chính ông Obama đã thú nhận ông cảm thấy “không đáng” được trao giải. Ông có thể từ chối lãnh giải (như Lê Ðức Thọ) được không? Việc từ chối sẽ gây bất lợi cho cả nước Mỹ! Khi vị tổng thống Mỹ từ chối một giải Hòa Bình thì cả thế giới sẽ đặt câu hỏi không biết nước Mỹ đang toan tính gây chiến với ai mà ông ta lại sợ không đi lãnh giải? Ủy ban tuyển chọn ở Oslo đã đặt ông Obama vào một tình thế lưỡng nan. Có lẽ chưa có ai được trao giải thưởng mà lại trở thành một nạn nhân của giải đó như ông Obama.

Và việc trao giải chắc chắn sẽ không ích lợi gì cho ông Obama trong các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ ở Mỹ. Dân Mỹ có thể bất mãn vì thấy “người Âu Châu” có ý gây ảnh hưởng trên chính trị nước Mỹ. Năm 1919 Tổng Thống Mỹ Woodrow Wilson được tặng giải Nobel Hòa Bình sau khi ông đề nghị lập Hội Quốc Liên để cho các nước gặp gỡ thường xuyên, tránh gây thêm chiến tranh. Nhưng sau đó Thượng Viện Mỹ nhất định không phê chuẩn việc gia nhập tổ chức quốc tế này, để sau này tổ chức đó tan rã.

Bây giờ Tổng Thống Obama sẽ bị cả nước Mỹ và cả thế giới nhìn vào và thẩm lượng, không phải với tư cách một trong nước Mỹ không thôi mà còn tư cách một người lãnh giải Nobel Hòa Bình. Nếu ông tỏ ra cứng rắn trong trường ngoại giao, thí dụ đưa thêm 40,000 quân sang Afghanistan như đang được yêu cầu, thì người ta sẽ chỉ trích là hiếu chiến. Còn nếu ông tỏ ra mềm mỏng, với Iran hay Cuba thì ông sẽ bị chỉ trích là không làm đúng trách nhiệm của một vị tổng thống mà chỉ lo bảo vệ danh tiếng con người lãnh Giải Nobel Hòa Bình! Ông Obama ăn nói rất giỏi. Ðến ngày sang Oslo lãnh giải chắc ông sẽ tìm cách nói sao cho mọi người đừng trông đợi ở ông nhiều quá! Có thể ông sẽ nhắc đến một câu tục ngữ La tinh để làm vừa lòng cả diều hâu lẫn bồ câu: Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh! (Si vis Pacem para Bellum).

Ngô Nhân Dụng

Tuesday, October 13, 2009

Quyết Nghị 9 điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Đại hội Khoáng đại kỳ 4

THÔNG CÁO BÁO CHÍ
LÀM TẠI LOS ANGELES NGÀY 12.10.2009

    Đại hội Khoáng đại kỳ 4 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ kết thúc thành công viên mãn và ra Quyết Nghị 9 điểm về phương hướng hành động giải trừ Quốc nạn, Pháp nạn và chống nạn ngoại xâm.

LOS ANGELES, ngày 12.10.2009 (PTTPGQT) - Đại hội Khoáng đại kỳ 4 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ đã kết thúc thành công viên mãn tại lễ Hiệp kỵ và bế mạc ở chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, bang California, Hoa Kỳ chiều chủ nhật 11.10.2009.

Đại hội Khoáng đại kỳ 4 khai mạc ngày 9.10.2009 và tiến hành trong 3 ngày 9, 10, 11.10.09 tại chùa Diệu Pháp, thành phố San Gabriel, California, và bế mạc tại trụ sở Giáo hội ở chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, California, với sự hiện diện đông đảo của quý vị Dân cử Hoa Kỳ, nhân sĩ, trí thức, đại diện các tổ chức, đảng phái, cộng đồng và các cơ quan truyền thông báo chí.

300 đại biểu gồm chư Tôn đức Tăng Ni và nam nữ Cư sĩ Phật giáo thuộc 96 đơn vị Giáo hội tại các Hội đồng, các Tổng vụ, các Miền, các đơn vị trên toàn quốc Hoa Kỳ, Canada, Âu châu và Úc châu, vân tập về phó hội trong không khí cởi mở, phấn chấn và lạc quan thông qua sáu khoáng đại trên các chủ đề quan yếu như nghe báo cáo Phật sự Giáo hội kể từ sau Giáo chỉ số 9, khai triển “Lời Kêu gọi Không dùng hàng hóa Trung quốc” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, phương hướng hành động cho mục tiêu giải trừ Quốc nạn, Pháp nạn, và đào luyện nhân sự đối ứng với nhu cầu hoằng hóa độ sinh trước tình hình mới.

Qua Diễn văn khai mạc Đại hội ở chùa Diệu Pháp, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác và cũng là Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ, nhấn mạnh các điều trọng yếu như sau:

“Đại Hội Khoáng Đại IV nầy là đại hội khoáng đại đầu tiên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ sau Giáo chỉ số 9. Đại hội cần triển khai Phật sự đáp ứng được những yêu cầu của Hội Đồng Lưỡng Viện trong hoàn cảnh nhiều thử thách ngoại tại cũng như nội tại hiện nay. (...) Ngay từ những giờ phút ban đầu khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ được thành lập đã gánh vác trọng trách là đơn vị chủ lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn vận động giải trừ pháp nạn và quốc nạn. Ban đầu là vậy bây giờ vẫn vậy.

“Tôn chỉ hành hoạt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là không đặt sự tồn tại của giáo hội ra ngoài sự hưng vong của đất nước. Con đường đó không thể không có khổ nạn, hiểm nguy. Giáo hội đã trở thành đối tượng đánh phá của những thế lực vô minh bạo tàn. Những phân hóa, xáo trộn là điều tất nhiên phải có. Chúng ta cần nhìn vấn đề với thái độ tĩnh táo và hiểu biết. Phải vượt lên trên tinh thần phe phái, bè nhóm mà nhìn vào đại cuộc. Tất cả những tranh chấp đều mang tính nhất thời. Hướng đi lâu dài của chúng ta là tận dụng những gì có được trong hoàn cảnh hiện nay để cứu nước, giữ đạo trong cơn quốc nạn và pháp nạn. (...) Đất nước đang đứng trước họa xâm lăng mà nghĩ là an bình thịnh trị ; Phật giáo đang bị khai thác làm công cụ cho chế độ đương quyền mà nghĩ là nhà nước ủng hộ Phật giáo ; nội bộ giáo hội bị phân hóa để biến tướng mà nghĩ là đang bình chân như vại. Những cái nhìn như vậy cũng tai hại như chính những nguyên nhân tạo nên pháp nạn và quốc nạn hiện nay”.


Kết luận, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác lạc quan trước sự phát triển của Giáo hội khi ngài nói: “Sau giáo chỉ số 9, mặc dù có nhiều trở lực mới nhưng phải ghi nhận rằng sự dấn thân của hàng cư sĩ đối với Phật sự gia tăng rất nhiều so với trước đây. Chúng ta không ngây thơ để không thấy những khó khăn của mình nhưng cũng không bi quan tiêu cực để không nhận ra những thắng duyên”.
Sau đạo từ của Đức Phó Tăng thống, Thượng tọa Tổng thư ký Thích Viên Lý, Trưởng Ban Tổ chức Đại hội, thay mặt Giáo hội đọc Diễn văn Chào mừng. Thượng tọa liên hệ công trình của Đại hội với tình hình bi thảm của đất nước như sau:

“Việt Nam của chúng ta đang là một tử địa. Dân tộc Việt Nam vẫn sống trong lầm than, độc tài, bất công và bạo lực. Bất công, bạo lực và độc tài là một tội ác. Là một Phật tử, với tâm từ bi, tất nhiên chúng ta không chỉ lên án bạo lực, bất công mà còn nỗ lực hành động để chận đứng mọi bất công và bạo lực.

“Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đã và đang không ngừng thi triển Đại bi tâm nhằm chuyển hóa mọi vô minh, bất thiện. Tiếng nói của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tiếng nói của lương tâm, tiếng nói của hòa bình và hy vọng”.


Sau 3 ngày làm việc, báo cáo Phật sự, thảo bàn những đề tài nóng bỏng của quê hương và đạo pháp để cùng tìm phương giải quyết. Đại hội kết thúc trong tinh thần phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm phát huy con đường bồ tát đạo trong những năm tháng tới mà các công tác chính yếu được đề ra qua Quyết Nghị 9 điểm sau đây:

QUYẾT NGHỊ CHÍN ÐIỂM
của Ðại hội Khoáng đại kỳ IV
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ


Ðại hội Khoáng đại kỳ IV Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức tại Chùa Diệu Pháp ở thành phố San Gabriel, bang California, Hoa Kỳ, qua ba ngày 9, 10, 11.10.2009, và bế mạc tại trụ sở Giáo hội ở chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, bang California, đã thể hiện sâu xa tinh thần dấn thân bồ tát đạo với ý thức phát huy Giáo hội trên bước ngoặt mới trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn.

300 đại biểu gồm chư Tôn đức Tăng Ni và nam nữ Cư sĩ Phật giáo thuộc 96 đơn vị Giáo hội tại các Hội đồng, các Tổng vụ, các Miền, các đơn vị trên toàn quốc Hoa Kỳ, Canada, Âu châu và Úc châu, vân tập về phó hội trong không khí cởi mở, phấn chấn và lạc quan thông qua sáu khoáng đại trên các chủ đề quan yếu như khai triển “Lời Kêu gọi Không dùng hàng hóa Trung quốc” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, phương hướng hành động cho mục tiêu giải trừ Quốc nạn, Pháp nạn, và đào luyện nhân sự đối ứng với nhu cầu hoằng hóa độ sinh trước tình hình mới.

Ðại hội trích lời Thông điệp của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang viết hai tháng trước khi Ngài viên tịch làm châm ngôn cảnh sách cho giai kỳ mới của Giáo hội :

« Phật giáo là sự đối diện chứ không quay lưng với xã hội, Phật giáo dấn thân vào nơi tham tàn, loạn tưởng của xã hội để tịnh độ hoá nhân gian. (…) Việc giải thoát giác ngộ không thể xây dựng trên sự nghèo đói và thiếu tự do. Nay lại thêm chuyện lãnh thổ bị xâm lấn khiến lòng người ưu tư khắc khoải. Hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa đang trong cơn hấp hối, mà các nhà lãnh đạo đất nước làm ngơ. Không như thuở trước, dưới các triều Đinh, Lê, rồi Lý, Trần, Lê, từ vua quan, bậc Cao tăng và Phật tử cho đến toàn dân đều một lòng giữ nước. Vì giữ nước mới có đất nuôi dân. Vì giữ dân nên thăng hoa tinh thần và đạo lý làm nên văn hiến nước nhà.

« Người Phật tử bồi đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do thoát ly nô lệ.

« Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ, chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo. Bản hoài xuất thế của chư Phật là xuất hiện nơi trần thế để cứu độ muôn loài ».

Đồng thời Đại hội trang nghiêm thừa tiếp lời nhắn nhủ ghi trong Đạo Từ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hoa Đạo, như phương hướng hành động cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ trong những năm tháng tới:

« Độc tài chính trị chỉ phù du một thời, nhưng đạo Giải thoát Giác ngộ là của muôn đời. Trước cảnh tha hóa suy tàn của đạo đức dân tộc ngày nay, Giáo hội cần chuẩn bị nhân sự từ giới xuất trần đến giới tại gia để đảm lãnh đời sống tinh thần cũng như xã hội của dân tộc. Bảy mươi năm tàn phá khốc liệt con người và xã hội của chủ nghĩa Cộng sản tại Liên xô và Đông Âu cũ bi thảm như thế nào, thì sự trạng này cũng kinh khiếp như thế ấy tại Việt Nam. Phật giáo cần chuẩn bị đối diện với một đất nước điêu linh, một xã hội loạn lạc, một dân tộc vong tính trong những năm tháng tới. Cho nên chính sách nhân sự đối ứng với tình hình nguy biến cần được ưu tiên đặt ra và thực hiện ngay từ bây giờ. (…) Giáo hội cần chư vị Trưởng lão hãy đem kinh nghiệm sẵn có của mình chỉ đạo, giúp đỡ cho thế hệ hậu bối cách điều hành Giáo Hội. Đồng thời với việc khuyến thỉnh giới Cư sĩ tại gia nhận lấy trọng trách Phật hóa xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia nhằm ngăn ngừa những pháp nạn nối tiếp trong tương lai ».

Nay, Ðại hội đồng thanh quyết nghị 9 điểm sau đây:

    1. Chín mươi sáu phái đoàn tham gia Đại hội hoan nghênh và ký tên ủng hộ « Lời Kêu gọi Không dùng hàng hóa Trung quốc » của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ;

    1.1. Những người ký tên hậu thuẫn không những không mua hay dùng hàng hóa Trung quốc mà còn kêu gọi tẩy chay hàng Trung quốc, cho tới khi nhà cầm quyền Bắc Kinh từ bỏ chủ trương xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam ;

    1.2. Khi trở về địa phuơng các đơn vị Giáo hội sẽ tiếp tục phong trào lấy chữ ký hậu thuẫn Lời Kêu gọi, tiếp cận chính giới và báo chí Hoa Kỳ nhằm gia tăng sự hậu thuẫn quốc tế ;

    2. Cấp tốc thực hiện 4 đề án Phật sự sau đây:

    2.1. Phát huy hoạt động trên ba địa bàn chủ lực của Giáo hội tại Bắc California, Nam California và Houston, Texas;

    2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng là các Khuôn hội địa phương trong cuộc tập họp và đoàn ngũ hóa quần chúng Phật giáo;

    2.3. Kết hợp với Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế mở những cuộc vận động quốc tế qua các trung tâm quyền lực, quốc hội, diễn đàn LHQ và các hội nghị thế giới;

    2.4. Tổ chức các Đại hội chuyên đề, như hoằng pháp, truyền thông, cư sĩ, văn hóa, v.v…

    3. Tổ chức Đại học Hè để đào luyện nhân sự cho các ban ngành sinh hoạt của Giáo hội trong cộng đồng Phật giáo cũng như cộng đồng hải ngoại. Đặc biệt trên hai lĩnh vực truyền thông và vận động quốc tế;

    4. Tập họp giới trẻ qua sự thành lập các tổ chức Thanh niên Phật tử, Sinh viên Phật tử, Chuyên gia Phật tử, và kiện toàn tổ chức Gia Đình Phật tử, Hướng đạo Phật tử của Giáo hội;

    5. Chuẩn bị phát hành một tờ nhật báo Phật giáo;

    6. Thiết lập diễn đàn Paltalk Phật giáo và E.mail Network Phật giáo;

    7. Lập Quỹ tương tế phù trợ cho các đơn vị địa phương của Giáo hội vừa mới thiết lập nhưng còn gặp khó khăn;

    8. Tài trợ Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế bằng sự đóng góp tùy hỉ của các cơ sở Giáo hội hoặc tổ chức các bữa cơm gây quỹ.

    9. Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2554 của Giáo hội sẽ được tổ chức tại chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, California, vào ngày 23.5.2010; và Đại hội Thường niên của Giáo hội sẽ được tổ chức vào các ngày 9 và 10.10.2010 tại chùa Giác Quang, thành phố Oklahoma City, bang Oklahoma.

Phật lịch 2553 - Làm tại Chùa Điều Ngự,
thành phố Westminster, bang California, Hoa Kỳ, ngày 11.10.2009

Sau đây là toàn văn Đạo Từ của Đạo lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo được thu băng gửi tới Đại hội :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu,
Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon

----------------------------------------------------------------
Phật lịch 2553 Số 08/VTT/ĐT/TT

ĐẠO TỪ
    của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi Đại hội Khoáng đại kỳ IV
    Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính thưa Quý Liệt vị Tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni
cùng toàn thể Phật tử tham dự Đại hội.

Nhân danh Viện Tăng Thống và Hội đồng Lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, tôi ngỏ lời hân hoan chào đón Đại hội Khoáng đại kỳ IV của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ - Văn phòng II Viện Hóa Đạo, tổ chức vào các ngày 9, 10, 11 tháng 10 năm 2009 tại trụ sở Giáo hội ở Chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, bang California, Hoa Kỳ. Cầu chúc chư liệt vị sức khỏe, an vui và Đại hội thành công viên mãn.

Xin Đại hội thay mặt tôi gửi lời tri ân đến các đoàn thể, đảng phái, diễn đàn, tổ chức, cộng đồng, cùng các cơ quan báo chí, truyền thông đã không ngừng giúp đỡ loan tin, hậu thuẫn cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nơi quê nhà. Đặc biệt gần đây đã quyết tâm ủng hộ mạnh mẽ Lời Kêu Gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia của Hội đồng Lưỡng Viện công bố vào hạ tuần tháng 3 vừa qua.

Tôi xin ngỏ lời tuyên dương công đức của chư Liệt vị Giáo phẩm cao cấp, trung cấp, chư Tăng Ni cùng Cư sĩ Thiện tri thức, Phật tử các giới đã xiển dương Chánh Pháp ở Hải ngoại ngày càng rực rỡ và hoàn thành những công tác vận động quốc tế to lớn, hiệu quả, làm vang xa tiếng nói chính nghĩa của Giáo hội và nhân dân thầm lặng trong nước.

Đây cũng là dịp Đại hội hồi tưởng công ơn sâu dày của Đức Cố Đệ Tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, và phát nguyện tiếp tục đi theo con đường Ngài đã vạch, mặc dù còn rất nhiều chông gai chờ đón phía trước. Tưởng nhớ Ngài như bóng cây đại thụ che mát, như người thuyền trưởng vững tay chèo lái con thuyền Giáo hội vượt qua bao cơn sóng gió, bảo táp giữa trùng khơi. Ngài đã hy hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp bảo vệ chánh nghĩa của Dân tộc và Đạo pháp, đòi hỏi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo Hội Phật giáo Việt nam Thống Nhất qua bao gian lao tủi nhục, tù tội, lưu đày như Ngài đã từng nói: “Sống không nhà, chết không mồ, đi không đường, tù không tội” !

Mặc dù Ngài không còn ở với chúng ta, nhưng bức Thông điệp Phật Đản Ngài viết hai tháng trước khi Ngài ra đi, là lời cảnh sách mà chúng ta cần khắc cốt ghi tâm:

« Phật giáo là sự đối diện chứ không quay lưng với xã hội, Phật giáo dấn thân vào nơi tham tàn, loạn tưởng của xã hội để tịnh độ hoá nhân gian. (…) Việc giải thoát giác ngộ không thể xây dựng trên sự nghèo đói và thiếu tự do. Nay lại thêm chuyện lãnh thổ bị xâm lấn khiến lòng người ưu tư khắc khoải. Hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa đang trong cơn hấp hối, mà các nhà lãnh đạo đất nước làm ngơ. Không như thuở trước, dưới các triều Đinh, Lê, rồi Lý, Trần, Lê, từ vua quan, bậc Cao tăng và Phật tử cho đến toàn dân đều một lòng giữ nước. Vì giữ nước mới có đất nuôi dân. Vì giữ dân nên thăng hoa tinh thần và đạo lý làm nên văn hiến nước nhà.

« Người Phật tử bồi đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do thoát ly nô lệ.

« Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ, chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo. Bản hoài xuất thế của chư Phật là xuất hiện nơi trần thế để cứu độ muôn loài ».


Ngoài việc Phật sự hải ngoại cần bàn thảo, chấn chỉnh, phát huy tại Đại hội Khoáng đại kỳ IV này, tôi nhắc nhở Đại hội hãy đặc biệt quan tâm đến tiền đồ của Giáo hội cho những năm tháng tới. Độc tài chính trị chỉ phù du một thời, nhưng đạo Giải thoát Giác ngộ là của muôn đời. Trước cảnh tha hóa suy tàn của đạo đức dân tộc ngày nay, Giáo hội cần chuẩn bị nhân sự từ giới xuất trần đến giới tại gia để đảm lãnh đời sống tinh thần cũng như xã hội của dân tộc. Bảy mươi năm tàn phá khốc liệt con người và xã hội của chủ nghĩa Cộng sản tại Liên xô và Đông Âu cũ bi thảm như thế nào, thì sự trạng này cũng kinh khiếp như thế ấy tại Việt Nam. Phật giáo cần chuẩn bị đối diện với một đất nước điêu linh, một xã hội loạn lạc, một dân tộc vong tính trong những năm tháng tới. Cho nên chính sách nhân sự đối ứng với tình hình nguy biến cần được ưu tiên đặt ra và thực hiện ngay từ bây giờ. Tức ngoài các tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức lãnh đạo tinh thần, Giáo hội cần chư vị Trưởng lão hãy đem kinh nghiệm sẵn có của mình chỉ đạo, giúp đỡ cho thế hệ hậu bối cách điều hành Giáo Hội Đồng thời với việc khuyến thỉnh giới Cư sĩ tại gia nhận lấy trọng trách Phật hóa xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia nhằm ngăn ngừa những pháp nạn nối tiếp trong tương lai.

Cầu nguyện cho Đại hội noi gương Đức Phật, chư Bồ tát, chư lịch đại Tổ sư, đem từng hơi thở và thân tâm trang trải cho đạo Phật trường tồn trên đất nước Việt Nam và trên toàn thế giới.

    Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 9.10.2009
    Xử lý Viện Tăng thống
    kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
    (ấn ký)
    Sa môn Thích Quảng Độ

Monday, October 12, 2009

TÔI KHÔNG THÍCH CHÍNH TRỊ - Nguyên Sang

Nguyên Sang

Có người, khi nghe đề cập đến những vấn đề liên quan tới Việt Nam, nhất là những chuyện xấu xa của chế độ Cộng Sản, thường giẫy nẫy lên mà rằng: “Tôi không thích nói chuyện chính trị”. Cũng có người, khi thấy đồng hương đi biểu tình chống Cộng, thường bỉu môi: “Tôi không thích những người làm chuyện chính trị”.

Thưa bạn!

Nếu tôi bảo: “Chính suy nghĩ đó đã nhuộm đỏ miền Nam, và cũng chính phát biểu đó, đã chẳng những nuôi dưỡng chế độ CS, mà còn tạo điều kiện cho CS thò cánh tay ra hải ngoại, quấy phá Cộng đồng người Việt tỵ nạn”. Chắc chắn bạn sẽ không bao giờ tin tôi, chưa nói là bạn sẽ trút lên đầu tôi những lời lẽ không đẹp, bẩn thỉu nhất, có khi không tìm thấy trong từ điển.

Nầy nhé! Bạn theo tôi một thoáng trở về quá khứ. Bạn phải đồng ý với tôi một điều. Miền Nam được Thế giới Tự Do - đứng đầu là Mỹ - chọn làm tiền đồn chống Cộng, ngăn chặn hiểm họa CS đang bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Đó là cuộc chiến tranh “ý thức hệ”.

Phía Miền Bắc, CS lấy chính trị làm đầu (Đảng lãnh đạo), và tuân theo sách lược chính trị của CS Quốc Tế. Trong Nam, “ý thức Quốc gia”, chỉ là một ý niệm trừu tượng, không có lý luận khoa học, không được hệ thống hoá, không thể đương đầu nổi với lý thuyết “CS”. Đệ Nhất Cộng Hoà đã nghĩ ra đối sách, với học thuyết “Nhân Vị”, tiếc rằng chưa hoàn chỉnh và không đủ sức thuyết phục nhân dân, trong công cuộc đấu tranh chính trị với CS.

Miền Bắc có Liên Sô và Trung cộng hỗ trợ đắc lực trên mọi phương diện, vì có chung lý tưởng Quốc tế Vô Sản. Miền Nam, Mỹ hỗ trợ về quân sự là chính. Về chiến tranh chính trị, phải nhờ Đài Loan cố vấn. Thực chất, có lý thuyết, mà không có phương tiện thực hành, có cũng như không. Nước Mỹ là một nước “Tư Bản”, chuyện đối kháng với Cộng Sản, là chuyện đương nhiên. Chính phủ Mỹ, không cần đến Chiến tranh Chính trị, để tranh thủ nhân dân. Họ chỉ có “Tâm lý chiến”, mục đích phục vụ và nâng cao tinh thần, sức chiến đấu của binh sĩ. Mỹ đem mô hình của mình đến miền Nam và chỉ yểm trợ cho Tâm Lý Chiến. Hoàn toàn không quan tâm đến chính trị và cũng chẳng cung cấp bất cứ phương tiện nào để đấu tranh chính trị.

Điều dễ nhận thấy nhất là trong tổ chức Quân Đội: CS Bắc Việt đặt chính trị trên cả tác chiến. Chính Ủy có quyền uy tối thượng. Trong khi đó, Quân đội miền Nam đặt chính trị vào nhiệm vụ thứ yếu, là phó, là Ban 5, không chút thực quyền.

Kết quả Bạn thấy đó, miền Nam thất thủ tại chính trường Mỹ. Người dân Mỹ chỉ thấy ảnh tướng Loan bắn vào đầu một tên Cộng Sản, mà không thấy hàng vạn nhân dân Miền Nam chết thê thảm vì Việt Cộng bằng mọi hình thức: đấu tố, đấp mô, phá cầu, đặt mìn, pháo kích bừa bãi, tấn công …
Nhân dân Mỹ chỉ biết vụ Mỹ Lai, mà không hề biết Huế với những mồ chôn tập thể Tết Mậu Thân. Người dân Mỹ chỉ biết cái gọi là Mặt trận giải phóng miền Nam, chứ không hề thấy hàng hàng lớp lớp những sư đoàn chính qui Bắc Việt xâm nhập miền Nam …

Thưa bạn. Phải chúng ta thua vì chính trị không bạn?

Bây giờ, trở lại thực tại bạn nhé! Xin nhắc một điều. VN là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa (xác định đi theo một Chủ nghĩa là khẳng định đường lối chính trị đó bạn!), do Đảng lãnh đạo (Đảng không là tổ chức chính trị thì là gì, hở bạn?. Điều 4 Hiến Pháp của họ có ghi rõ, bạn có thể tham khảo thêm). Hỏi Bạn một câu: Nếu Bạn hợp tác với VNCS, có phải bạn chấp nhận những điều nêu trên không? Nhắc thêm cho bạn một chi tiết, CS có khẩu hiệu: “Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa”. Họ gài bạn đấy!

Họ khêu gợi lòng yêu nước của Bạn, dụ dỗ Bạn hợp tác và cuối cùng gán cho Bạn cái lập trường chính trị, Bạn không muốn cũng không được. Nếu Bạn cố cải chầy cải cối, là Bạn chỉ đem tài năng và chất xám phục vụ Tổ quốc, chứ không màng chính trị, tôi nhắc Bạn nhớ câu: ”Hồng hơn Chuyên”. Cộng sản đặt nặng chính trị hơn chuyên môn, bạn ạ! Vẫn chưa tin ư? Bạn cứ phạm tội hình sự đi, Bạn sẽ được xét xử tại Toà án, và có ngày về. Còn nếu Bạn dính dấp đến chính trị, đoan chắc Bạn sẽ bị “cải tạo” trong tù, vô hạn định. Có lần, nếu Bạn có theo dõi thời sự, chắc Bạn biết sự kiện một chiếc tàu y tế bị cấm nhập bến ở VN? Ngay cả hoạt động chuyên môn phục vụ nhân đạo cũng phải chào thua “phục vụ chính trị”.

Cũng chả cần bạn cộng tác, tiếp tay với họ, bạn chỉ làm thinh, làm ngơ trước các hoạt động của họ; Bạn đã đồng lõa và tự bày tỏ lập trường thân Cộng rồi. Đôi khi những hành động tưởng như vô tình, làm theo “feeling” của mình. Bạn lại gây ảnh hưởng tai hại cho người khác trong công cuộc chống Cộng. Cái đó gọi là thiếu ý thức chính trị”, là “vô tình hại bạn”, là “đâm sau lưng chiến sĩ”.

Có hai sự kiện “nhạy cảm” mà cộng đồng người Việt hải ngoại vô cùng “bức xúc” (xin lỗi vì dùng chữ của CS). Sự kiện thứ nhất là “các nghệ sĩ VN qua”. Sự kiện thứ hai là “các nhà từ thiện về”. Nửa ý kiến ủng hộ, nửa chống đối. Có quá nhiều phân tích về hai sự kiện nầy, ở đây, tôi chỉ nhìn qua khía cạnh chính trị.

Bạn ái mộ một nghệ sĩ, tặng hoa, chụp ảnh lưu niệm. Bạn nghĩ sao, nếu bức ảnh đó được guồng máy tuyên truyền khổng lồ của Cộng Sản minh họa trong chiến dịch lừa dối nhân dân, rằng thì là: ”Việt kiều niềm nở đón tiếp các nghệ sĩ từ trong nước qua, trong tinh thần Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc”?.
Bạn vô tình làm hại các cá nhân và tổ chức đối kháng rồi bạn biết không?

Một hành động nhỏ và “mua vui trong chốc lát” của Bạn đã gây tác hại lớn và lâu dài. Tuy nhiên, nếu có ý thức chính trị, chỉ cần buổi văn nghệ đó, có nền là cờ vàng của chúng ta, ta có thể hoá giải được mọi âm mưu thâm độc của CS, tha hồ bạn chụp hàng nghìn tấm ảnh lưu niệm mà không bị ai lợi dụng và cũng không hại ai cả.

Vấn đề thứ hai là công tác từ thiện tại VN, tôi không chống đối, dù thâm tâm tôi vẫn nghĩ, tại sao lại phải giúp Nhà Nước CS, lo chuyện an sinh xã hội, để họ tham nhũng, để họ làm giàu, để họ củng cố phương tiện tuyên truyền thò tay đánh phá cộng đồng (như các chưong trình Duyên Dáng VN tiêu pha hàng triệu đô la, chương trình vệ tinh truyền hình VTV4…). Tôi cũng suy nghĩ, thật sự ở VN không chỉ có các nhóm người được giúp đỡ là bất hạnh, mà hầu như - trừ Đảng ra - toàn dân đều bất hạnh và cần được giúp đỡ. Nhưng thôi, tôi nhìn sự kiện trên dây, qua gốc độ ý thức chính trị. Giả dụ mà các cơ quan từ thiện nầy treo được tấm bảng : “Tổ chức nầy của Việt kiều … tặng”, cho mọi người cùng thấy và cùng hiểu là chính Việt kiều chứ không phải Việt Cộng giúp đỡ họ, thì hay biết mấy.

Nếu không làm vậy, việc từ thiện sẽ bị Cộng Sản lợi dụng và tuyên truyền lếu láo: “Đảng đã vận động được khúc ruột xa nghìn dặm về giúp Đảng, giúp dân”. Cướp công, cướp của là nghề của họ. Bạn chịu khó lật lại trang sử của Đảng, Bạn sẽ thấy họ rất thành công trong việc cướp công kháng chiến, cướp chính quyền, và năm 75 họ cướp cả miền Nam.

“Cứu cánh biện minh cho phương tiện” là kim chỉ nam cho họ, Từ lời nói đến việc làm, họ dùng mọi phương cách dù tà đạo, xảo trá, gian ác và dã man đến đâu … miễn sao đạt được thắng lợi, đạt được mục đích yêu cầu của họ. Câu nói của Cựu Tổng Thống Thiệu: “Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm” , chỉ phản ảnh một khía cạnh dối trá, chưa nói hết bản chất của CS là ác độc và tàn nhẫn.

Thưa Bạn.

Nếu bạn qua Mỹ vì lý do kinh tế, tôi chúc bạn đạt được giấc mơ của Bạn. Dĩ nhiên, muốn thành công trên đất Mỹ, bạn phải hòa nhập vào xã hội Mỹ. Người Mỹ rất thích làm việc thiện nguyện. Họ khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người làm chuyện thiện nguyện, ngoài mục đích san sẻ bớt gánh nặng cho Chính Phủ, nó còn mang giá trị đạo đức, khi quan tâm đến tha nhân. Tôi tin chắc Bạn sẽ tiếp thu được đức tính nầy của người Mỹ. Cho dù Bạn không thích chính trị. Cho dù Bạn không thích nhận mình là người Việt. Bạn cũng có thể thể hiện việc thiện nguyện cho một cộng đồng tỵ nạn khốn khổ, tuy sống an bình nơi miền đất hứa, mà lòng vẫn canh cánh về đồng bào và quê hương nghìn trùng xa cách.

Chuyện thiện nguyện rất đơn giản. “Mình không giúp ích gì cho cộng đồng, thì cũng không làm gì phương hại cho cộng đồng, không làm đồng hương phiền lòng, nản lòng”.

Bạn không thích chuyện chính trị, mà phê phán ý thức chính trị của người khác, mặc nhiên, bạn đã đứng vào phe chính trị đối nghịch. Bạn hãy làm một chuyện thiện nguyện trên bình diện tinh thần là “giữ im lặng” trước công cuộc chống Cộng của người khác. Bạn đã không ủng hộ thì cũng xin đừng biểu tỏ thái độ hoặc ngôn ngữ chống báng. Được vậy, bạn gián tiếp giúp đỡ thiện nguyện cho cộng đồng rồi đó!

Thực ra, nếu Bạn qua đây theo diện tỵ nạn chính trị một cách trực tiếp, hay gián tiếp (do gia đình bảo lãnh), khỏi nói, Bạn cũng phải hiểu rằng: Hai chữ chính trị, gắn liền vào cuộc đời của người tỵ nạn chính trị. Cho dù bạn muốn nhận hay không muốn nhận.

Lại nữa, nếu bạn là một “con người” đúng nghĩa, Bạn phải mang trong người Bổn Phận và Trách Nhiệm từ trong gia đình, cho đến ra ngoài xã hội, cao hơn cả là Tổ quốc, tùy theo vai trò của mình. Trong gia đình, vai trò là một người con, bạn phải có bổn phận và trách nhiệm với Cha Mẹ. Là Chồng phải có bổn phận và trách nhiệm với vợ …v..v.. Là một thành viên của cộng đồng, bạn không thể trốn tránh bổn phận và trách nhiệm trước Cộng Đồng. Xa hơn nữa, là một người dân, Bạn phải có bổn phận với dân tộc và nghĩa vụ với quốc gia.

Chúng ta đang sống trong một xứ sở Tự Do. Bạn có quyền tự do “không thích chính trị”. Tôi xoá bỏ tư tưởng không tốt trong đầu, khi cho rằng Bạn không thích chuyện chính trị chỉ vì Bạn sợ đường về quê hương của Bạn gặp trở ngại với CS. Tôi nghĩ đơn thuần, chỉ vì Bạn muốn ung dung tự toại, thụ hưởng thành quả mà bạn đạt được trên đất khách quê người.

Tôi cũng chẳng có ý nghĩ là bạn phải có bổn phận và trách nhiệm gì với cộng đồng. Tôi chỉ xin Bạn làm thêm một việc thiện nguyện thứ hai, cụ thể là xa lánh các văn hoá phẩm độc hại của CS, các cơ sở giao du với CS, các cửa hàng, chợ búa bán hàng CS. Bảo đảm trăm phần trăm với Bạn, không có cái gì liên hệ với CS mà không mang chất chính trị trong đó.

Lấy một ví dụ nhỏ thật nhỏ, trong các phim truyện VN, thế nào bạn cũng có dịp nhìn lá cờ máu, nhìn hình tượng “ảo” ông công an thật dễ thương dễ mến!… Chính trị chỗ đó, đó bạn!

Bạn không thích chính trị, tốt nhất là đừng xem, đừng thưởng thức, đừng tiêu thụ, đừng phổ biến những gì dính dấp với CS. Được vậy, Bạn mới công tâm, mới “fair” với tôn chỉ “không thích chính trị” của bạn.

Chắc là việc nầy không khó và cũng chẳng ảnh hưởng gì không tốt đến cá nhân bạn, phải không bạn?

Chân thành cám ơn Bạn chịu khó đọc những dòng nầy.

Chào Bạn.
Nguyên Sang

Sunday, October 11, 2009

Chuyện có gì mà làm ầm ĩ? - Sơn Tùng


Sơn Tùng

Chuyện Tổng thống Barack Obama bị hạ đo ván trong trận thi đấu đầu tiên tại Copenhagen, Đan Mạch, của Olympic 2016 đã được làm ầm ĩ trên báo chí và truyền hình Mỹ, trong lúc ông Obama tỉnh queo tuyên bố đầy tinh thần thượng võ của con nhà thể thao sau khi “ôm đầu máu” trở về Bạch Cung: “Một trong những điều tôi nghĩ có giá trị nhất về thể thao là bạn có thể chơi một trận tuyệt hay mà vẫn không thắng.” Và ông ta chúc mừng Rio de Janeiro, Brazil, thành phố chiến thắng trong cuộc đua để được tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè 2016.

Mồm tuy nói vậy, nhưng tim “nhà hùng biện” Obama chắc hẳn phải đau lắm. Ông ta đã đem uy tín của một tổng thống Hoa Kỳ và danh dự nước Mỹ để đích thân xuất hiện trước Ủy Ban Thế Vận (IOC) họp tại Copenhagen, mong làm phép lạ giờ chót đem Olympic 2016 về Chicago, tỉnh nhà của ông, một công việc mà ông đã chuẩn bị từ lâu.

Ngay sau khi nhậm chức tổng thống, Ông Obama đã mở ra một chiến dịch vận động với quy mô lớn do Bạch Cung chỉ đạo. Vào tháng sáu, TT Obama đã thành lập Văn Phòng Olympic tại Bạch Cung (White House Office of Olympic, Paralympic and Youth Sport). Giữa tháng chín, TT Obama đã liên tiếp nhiều lần nêu vấn đề Olympic trước diễn đàn Đại Hội Đồng LHQ, và tại cuộc họp thượng đỉnh “G-20” ở Pittsburgh.

Trước chồng một ngày, Đệ nhất Phu nhân Michelle Obama đã dùng chiếc Boeing “Air Force Two” cùng đoàn tùy tùng sang Đan Mạch để vận động. Hôm sau, 2.10.2009, TT Obama lại dùng chiếc “Air Force One” khổng lồ của tổng thống Hoa Kỳ cùng đoàn tùy tùng hùng hậu sang Đan Mạch, đích thân trổ tài “hùng biện” trước IOC để thuyết phục các thành viên bỏ phiếu chọn Chicago làm nơi tổ chức Olympic Mùa Hè 2016.

Nhiều nhà bình luận thể thao và chính trị “nhận định” rằng sự hiện diện của TT Obama trước IOC mà hầu hết các thành viên thuộc các nước Âu Châu, nơi Ông Obama rất được ái mộ, sẽ đảo ngược thế cờ, đem chiến thắng cho Chicago.

Nhưng, kết quả thật bẽ bàng, trong bốn thành phố còn lại để vào chung kết (Rio De Janeiro, Madrid, Tokyo, Chicago), Chicago đã bị loại ngay trong vòng bỏ phiếu đầu tiên! Trước thất bại chua cay này, nếu ai nói rằng TT Obama không cảm thấy “rát mặt”, kẻ ấy là người không biết hổ thẹn.

TT Obama đã nhận được nhiều phê bình, chỉ trích trên truyền hình, báo chí Mỹ – trừ truyền thông “dòng chính” cùng phe, dĩ nhiên. Nào là đã phung phí hàng triệu đô-la tiền dân đóng thuế vào một việc vô tích sự. Nào là đã bỏ nhiệm sở sang Đan Mạch để làm một việc không cần thiết trong lúc bao nhiêu chuyện quốc gia đại sự không được giải quyết: Chiến trường Afghanistan ngày một xấu đang chờ tăng quân, kinh tế suy thoái chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm, nạn thất nghiệp tại Mỹ tăng vọt tới mức cao nhất trong 25 năm, ngân sách thâm thủng lên đến 1.4 ức (trillion) Mỹ kim, gấp đôi so với một năm trước, chương trình “cải tổ bảo hiểm y tế” đã trở thành cái nồi cám heo. Nào là đây lại thêm một bằng chứng về nhận định nghèo nàn của Ông Obama. Có người còn tố việc đi Đan Mạch của TT Obama chỉ là chuyện “chẳng đặng đừng” vì bị áp lực nặng nề của các “chủ nợ chính trị” tại Chicago, những kẻ có công lớn đã đưa ông ta vào Bạch Cung mà nếu Chicago được đăng cai Olympic Mùa Hè 2016 thì họ sẽ bỏ túi hàng tỉ đô-la do những vụ thầu xây cất Làng Thế Vận và các vận động trường, vân vân (?).

Dĩ nhiên cũng có không thiếu người bênh vực TT Obama. Nào là ông ta không phải là quốc trưởng đầu tiên đích thân đi vận động cho một thành phố tại nước mình được tổ chức Olympic. Trước Obama đã có nhiều tổng thống, quốc vương, thủ tướng các nước khác làm như vậy. Nào là ông tổng thống luôn luôn cố gắng làm bất cứ điều gì tốt cho nước Mỹ. Nào là nếu không đi Đan Mạch, Ông Obama sẽ bị trách cứ về sự thất bại của Chicago. Một số chính trị gia tại Chicago còn đổ tội cho... cựu Tổng thống Bush về quyết định của IOC không chọn thành phố này cho Olympic 2016! Mục sư Jesse Jackson nói với tờ Chicago Sun-Times: “Cách chúng ta đã từ chối ký Thỏa ước Kyoto, chúng ta đã dối gạt đưa thế giới vào chiến tranh Iraq. Thế giới đã có một khẩu vị rất xấu về chúng ta. Nhưng đã có một bước ngoặt sau tháng 11 năm ngoái. Thế giới ngày nay có thiện cảm hơn với nước Mỹ và dân Mỹ.”

Thật ra không phải tất cả dân thành phố Chicago đều muốn Thế Vận Hội 2016 được tổ chức tại đây. Theo thăm dò dư luận của nhật báo Chicago Tribune, số người chống đối gần như tương đương với số người ủng hộ việc tổ chức Olympic tại thành phố này. Lý do chính là Chicago cũng đang có nhiều vấn đề về xã hội, kinh tế, và người ta chưa quên những thành phố đã tổ chức Olympic trước đây để rồi hàng chục năm sau vẫn chưa trả hết những món nợ khổng lồ. Vì vậy, có thể thất bại là một điều may mắn cho Chicago và cho nước Mỹ.

Dù sao thì cũng không thể chối cãi việc “đi không về rồi” là một điều xấu cộng thêm vào những yếu tố tạo ra sự mất điểm của TT Obama trong công luận Mỹ nay đã ở dưới tỉ lệ 50% chấp thuận.

Nhưng, đúng một tuần sau vụ bể mặt tại Đan Mạch, TT Obama đang ngủ trong Bạch Cung với những cơn ác mộng, hay đang trằn trọc không chợp mắt được vì sự bế tắc của nhiều chuyện quốc gia đại sự, ông ta đã được thuộc cấp báo tin mừng: Ông Obama đoạt Giải Nobel Hòa Bình 2009! Sau đó, TT Obama thành thật tuyên bố chính ông ta cũng ngạc nhiên và không trông đợi vì cảm thấy chưa xứng đáng.

Chính người được giải mà còn ngạc nhiên thì ai mà không ngạc nhiên? Cả thế giới đều chưng hửng, vì sự thật ông Obama chưa có thành tích gì về xây dựng hòa bình sau 9 tháng làm tổng thống Hoa Kỳ. Tất cả “thành tích” của ông ta chỉ là những bài diễn văn hoa mỹ nói về ước mơ sống chung hòa bình với kẻ thù Hồi giáo cực đoan, về giải trừ vũ khí nguyên tử, trong lúc ngọn lửa chiến tranh vẫn được khủng bố Hồi giáo thổi lên ngày một thệm cao tại Afghanistan, những kho vũ khí nguyên tử trên thế giới vẫn còn nguyên sẵn sàng cho nổ tung quả đất, và trong vài tháng nữa Iran cũng sẽ cho thử bom A, và có thể bất cứ lúc nào phóng vài hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử sang Do Thái để xóa nước láng giềng không đội trời chung này ra khỏi bản đồ thế giới.

Có lẽ Ủy ban Nobel Hòa bình của Na-uy cũng cảm thấy không ổn trong việc trao giải cho Obama nên đã giải thích rằng quyết định của họ là để “khuyến khích” sư tác động của ông ta để cắt giảm vũ khí nguyên tử, giảm bớt căng thẳng với thế giới Hồi giáo và nhấn mạnh đến phương cách ngoại giao và hợp tác hơn là chủ nghĩa đơn phương.

Nghe những lời hay ý đẹp trên đây chắc trùm khủng bố Hồi giáo Osama bin Laden phải lăn ra mà cười trong hang động ở biên giới Pakistan-Afghanistan, và bạo chúa Iran Mahmoud Ahmadinejad cũng phải đắc ý vuốt râu cười thầm. Có hòa bình hay không là do các hung thần chiến tranh này có ngưng gây máu lửa hay không và nước Mỹ có đủ sức mạnh và ý chí để đương đầu với chúng hay không, chứ không phải “khuyến khích” TT Obama dùng “đường lối ngoại giao” để nói chuyện và “hợp tác” với chúng.

Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng chiến tranh đã xảy ra khi kẻ gây chiến được “khuyến khích” bởi những đối phương mềm yếu, mơ mộng xây dựng hòa bình bằng cách thỏa mãn những yêu sách ngang ngược của chúng. Đồng thời, lịch sử cũng chứng minh rằng hòa bình chỉ có thể được tái lập sau khi những hung thần chiến tranh bị đánh bại.

Nếu không nhờ nước Mỹ hùng mạnh và hào hùng đã giải cứu Âu Châu trong hai cuộc Thế Chiến và đánh bại Đế quốc đỏ Liên-Sô trong Chiến tranh Lạnh thì ngày nay làm gì có nước Na-uy dân chủ và hòa bình để các ông bà trong Ủy ban Nobel ung dung ngồi trong phòng ốc sang trọng tìm người trao giải và “khuyến khích” tổng thống nước Mỹ giải quyết chiến tranh bằng con đường ngoại giao? Nhưng, người ta sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng 5 thành viên trong Ủy ban Nobel Hòa bình đã được chọn từ quốc hội Na-uy, nơi do cánh tả khuynh loát.

Một trong những người đáng được Âu Châu tri ân và tôn vinh là TT Ronald Reagan, nhưng lại chẳng bao giờ được cái giải gì, và chắc con người lớn ấy cũng chẳng màng đến... ba cái lẻ tẻ gọi là Giải Nobel Hòa bình, vì từ nhiều năm nay cái giải ấy đã mất đi ý nghĩa cao quý khi nó được cánh tả Na-uy ban phát cho những kẻ không xứng đáng.

Có người đã chê TT Obama có vẻ “thua me lại gỡ bài cào”, không dám từ chối cái giải mà chính mình cũng thấy là không xứng đáng, dù cái giải ấy, ngoài tấm bằng hoa hòe hoa sói còn kèm thêm 1.4 triệu đô-la. Lãnh cái giải này TT Obama sẽ mắc một món nợ cả vật chất lẫn tinh thần, sẽ ám ảnh ông ta trong mỗi quyết định quân sự để bảo vệ an ninh nước Mỹ. Nhưng, phải chăng đòi hỏi như thế là quá nhiều với Ông Obama và làm ông ta không còn phải là... Obama?

Một trong những kẻ không xứng đáng khác là Lê Đức Thọ đã được chia cái Giải Nobel Hòa Bình năm 1973 với Henry Kissinger. Đây là một quyết định mù lòa và thiếu đạo đức của Ủy ban Nobel Hòa bình lúc ấy vì Lê Đức Thọ và Kissinger là hai kẻ thừa hành, chỉ làm theo lệnh chủ. Chủ của Kissinger là TT Nixon, chủ của Lê Đức Thọ là Lê Duẩn. Hơn nữa, việc trao Giải Nobel Hòa bình cho hai người đại diện của Hoa Kỳ và CS Bắc Việt tại Hòa đàm Paris mà không đếm xỉa gì đến Việt Nam Cộng Hòa đã bộc lộ cái nhìn sai lầm và thiên vị của người Na-uy về Chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến tranh diễn ra trên lãnh thổ VNCH do CSBV phát động, chính quyền VNCH được hơn 100 quốc gia trên thế giới nhìn nhận và đã chiến đấu tự vệ trong gần 20 năm và năm 1973 đã ký vào bản Hiệp định Paris như một phe lâm chiến. Thế mà Ủy ban Nobel Hòa bình 1973 đã nhắm mắt trước sự kiện đó, làm theo quan điểm của bọn phản chiến phương Tây: Chiến tranh Việt Nam là cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt! Na-uy đã nhận lãnh cái hậu quả bẽ bàng: Lê Đức Thọ, theo lệnh đảng, đã từ chối cái Giải Nobel Hòa bình “cao quý” trước khi Cộng sản Hà-nội vứt cái gọi là “Hiệp ước Tái lập Hòa bình tại VN” vào sọt rác, xua quân đánh chiếm miền Nam với sự khoanh tay ngồi nhìn của Kissinger và cả thế giới, trong đó có Ủy ban Nobel Hòa bình.

Nay, có lẽ ít người sẽ ngạc nhiên và cười nếu Ủy ban Nobel Hòa bình của Na-uy loan báo quyết định trao giải cho ... Nguyễn Minh Triết hay Nông Đức Mạnh để “khuyến khích” họ tôn trọng nhân quyền của dân Việt Nam.

Sơn Tùng
Tháng 10.200

Hòa Thượng Thích Tâm Châu rút tên khỏi GHPGVNTN Liên Châu




Gửi Thiền Sư Thích Nhứt Cộng - Bút Xuân Trần Đình Ngọc



    Gửi Thiền Sư Thích Nhứt Cộng

    Thích Nhứt Cộng phen này thật thích nhé!
    Nhớ ngày nào tán tía với lọng vàng
    Số thật may, ông quả là rất sang
    Tu như thế mới thật là tu hú!

    Tu kiêng ăn nhưng vẫn quen miệng... bú ... tí
    Như trẻ con khát sữa đón mẹ về
    Mẹ chân không, chân đất, thứ mẹ quê
    Tu mười kiếp Niết bàn sao chẳng thấy!

    Pháp môn làng, về Lâm đồng chỉ dạy
    Cả 400 bầu nhiệt huyết, tâm cơ
    Nhưng một hôm, ai có học chữ ngờ
    Công an, du đãng phá tan làng yêu dấu!

    Chúng hung hăng, rặt một phường beo gấu
    Vứt đồ đạc, máy vi tính ra sân
    Không cho ăn, cho uống, nạt tinh thần
    Tình cảnh khốn chưa làng Mai nào gặp!

    Thích Nhứt Cộng vẫn êm re không động
    Mải ngồi thiền với trưởng nữ, trưởng nam
    Chỉ chân không mà lên tới Niết bàn
    Cứ hồ hởi bởi bác Hồ chiến thắng!

    Bến Tre xưa, Thích Nhứt Cộng ông bắng nhắng
    Ba trăm ngàn nhà cửa đã ra tro!*
    Mỹ Thiệu Khiêm chúng vẫn giở đủ trò
    Mong Mỹ cút, Ngụy nhào! Sao mong thế!

    Thiền sư ơi, Nhân quả nhà Phật dạy
    Lấy oán trả ơn, oán vận vào người
    Bác Hồ giờ ngồi trên Phật, trêu ngươi
    Cái tội ấy chỉ Thiền sư là rõ!

    Tà dâm, mánh mung, dối lừa, đều có
    Không hiểu rằng giờ chết sẽ đi đâu
    Có một nơi rất chắc chắn rất sâu
    Ngục A tì, Duẩn, Hồ, Đồng đang đợi!

    Hỡi Thiền sư!
    Nhân cứt ... nợn sẽ không ra cây vối
    Nhân tầm ruồng gặp Phật tánh làm sao?
    Thiền sư quen chỉ thị với giảng rao
    Nhưng chính sư không bao giờ học cả!

    Cái quá tồi nơi sư là cái ngã!!
    Chỉ hoang dâm vô độ với kiếm tiền
    Chờ kiếp nào sư mới muốn tu tiên?
    Giữ kỹ giới tà dâm và nói láo?

    Còn điều này: người cho ta bát cháo
    Đừng bao giờ ta chặt cái tay cho
    Ăn ở bạc thì hãy lấy cái mo
    Mà úp mặt, là người ai làm thế!

    Sư tĩnh tâm mà nhìn hành vi tệ
    Đệ nhất cộng hòa có phụ sư đâu?
    Sang Pháp, Anh sư học bọn ma đầu
    Ôm Mác-Hồ, bây giờ sư bổ chửng!

    Tán tía, tàn vàng tha hồ hí hửng!!!


    Bút Xuân Trần Đình Ngọc

* Bến Tre, thị trấn chưa được ngàn dân, Thích Nhứt Vẹm nói láo với báo Mỹ ba trăm ngàn bị máy bay Mỹ bỏ bom chết ráo.

Báo Mỹ ngu đần và phản chiến vẫn tin, vẫn đăng bậy!

Hưởng Ứng và Phát Huy Lời Kêu Gọi “Không Dùng Hàng Hóa Trung Quốc” Của Đại Lão HT Quảng Độ! - Hoài Nam Phạm Văn Giáo


Hoài Nam Phạm Văn Giáo

Tiếp theo “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” của Ngài Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo; hôm nay, ngày 3 thàng 10, 2009, tại Thanh Minh Thiền Viện, một lần nữa Ngài gióng lên lời kêu gọi thứ hai đến đồng bào trong và ngoài nước “Không dùng hàng hóa Trung quốc“.

Đọc Lời Kêu Gọi của một Đại sư Phật giáo mà tâm con vô cùng xúc động lẫn tủi nhục. Xúc động vì Ngài chuyên chở tâm tư của một vị Đại sư Phật giáo vẫn thường băn khoăn trước vấn nạn nguy cơ mất nước, mất giang sơn, mất Tổ quốc mà Tổ tiên chúng ta đã tốn nhiều xương máu của bao thế hệ tiếp nối để gìn giữ cho đến ngày 30/4/1975. Tủi nhục vì biết rõ nhiều người vốn là con dân nước Việt, nhưng lại cam tâm nhắm mắt vô tư trước trách nhiệm, bổn phận của mình đối với quốc gia; hoặc hơn thế nữa là cam tâm làm tay sai cho giặc để xe tan cơ đồ Tiên Tổ.

Chúng ta biết rằng, hàng hóa Trung quốc không những không bền (đồ dở, dễ hư) mà lại độc hại vô cùng; đó là chưa nói đến tham vọng trong sự bành trướng hàng hóa tràn lan khắp nơi để thống trị, áp đảo nguồn tài chánh và làm lũng đoạn nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới trong mục đích chính trị của Tàu Cọng, như Đại lão Hòa thượng Quảng Độ đã đề cập trong bức thư Kêu Gọi của Ngài. Chính lòng tham của Tàu Cộng đã đưa chúng đến lãnh vực bất nhân, bất nghĩa, gian ác, bất kể hậu quả nhân sinh. Thật vậy, chúng ta hãy xét lại vài trường hợp vừa qua để thấy điều này là đúng. Sữa trẻ em mà chúng sản xuất đã giết biết bao triệu con thơ, đến nỗi sách báo loan tin, thế giới lên án, mà chúng chẳng chịu dừng lại hoặc thu hồi. Đồ chơi trẻ em bằng nhựa do chúng sản xuất đã làm ngộ độc và sát hại biết bao nhiêu trẻ em, nhưng chúng chẳng quan tâm, cứ tiếp tục sản xuất thêm. Ý tưởng “to dominate world’s economy” của Tàu đã biến chúng thành những con ác quỷ, cọp đói cắn nuốt thai nhi, bất kể nhân tâm, bất cần công lý!

Ngài kêu gọi: “Hôm nay, nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi xin cất lời kêu gọi Đồng bào trong và ngoài nước hãy có thái độ trước hai hiện trạng Trung quốc xâm lấn và Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bó tay đầu hàng. Người dân Việt không có các tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, cũng không có chính quyền hay quân đội để trực tiếp và mạnh mẽ phản chống nạn xâm lăng quân sự, xâm lăng tư tưởng và xâm lăng kinh tế. Vũ khí của người dân bị trị ngày nay là THÁI ĐỘ. Chúng ta cần biểu tỏ qua THÁI ĐỘ để chống hai quốc nạn Nội xâm và Ngoại xâm”. Thật xác đáng với tâm tư, nguyện vọng của hơn 80 triệu dân Việt! Thật đúng vời hoài bão dựng nước giữ nước của bao lớp Cha ông Tiên tổ làm sao!

Với địa vị của một Tu sĩ Phật giáo, Ngài khiêm tốn và rất tế nhị khi dùng hai chữ “THÁI ĐỘ” để gởi gắm đến toàn dân cái trách nhiệm, bổn phận của công dân đối với vận mạng đất nước. Nhưng chúng ta phải biết rằng, vũ khí của người dân bị trị hôm nay là HÀNH ĐỘNG, chứ không phải là “THÁI ĐỘ” như Ngài Quảng Độ đã nhắc nhở. Vũ khí của Tu sĩ cũng phải là HÀNH ĐỘNG. Phải CẦM SÚNG ĐÁNH GIẶC NGOẠI XÂM và TIÊU DIỆT KẺ THÙ BÁN NƯỚC.

Hỡi những ai còn có lòng tự ti, còn có lương tri, còn có chút hổ thẹn và còn tự coi mình là người Việt Nam, hãy nên vùng dậy bằng mọi phương thế để tiêu diệt kẻ thù chung. Kẻ thù đó là bè lũ bán nước: Cộng sản Việt Nam.

Kể cả khối Phật giáo Quốc doanh! Nếu khối Phật giáo Quốc doanh còn mang danh nghĩa “Giáo hội Phật giáo VIỆT NAM” thì phải biết tự hổ, tự thẹn, phải tỏ ra HÀNH ĐỘNG THIẾT THỰC để huy động lực lượng quần chúng Phật tử đứng lên giật sập đảng Cọng sản Việt Nam. Nếu quý vị cứ yên phận như thế, thì hãy nên đổi tên lại là “Giáo hội Phật giáo TRUNG QUỐC” càng sớm càng tốt cho phù hợp với “đường lối phản bội, thờ ơ, vô minh” của Giáo hội mình! Nên loại bỏ hai chữ “VIỆT NAM” ra khỏi danh xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Bởi vì nạn mất nước về tay Trung Cọng đang diễn ra quá rõ ràng, Quốc gia Việt Nam sẽ không còn nữa, thì giữ hai chữ ấy trong danh xưng Giáo hội của mình làm gì? Kính mong mọi người trong “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” nên ý thức được điều này và đốt lên ngọn đuốc Trí Tuệ để thắp sáng ý thức về Quốc gia - Đạo pháp.

Nghĩ lắm lúc thật đau lòng: Cũng là Tu sĩ với nhau, những vị như Hòa thượng Quảng Độ đêm ngày khắc khoải với quê hương đất nước của mình, nhưng sao lại có những thành phần vô tư thờ ơ với Quốc nạn, Pháp nạn? Làm sao để so sánh đây?

Ở đâu có khổ sở, bức bách, khống chế, sát hại; thì ở đó có sự xuất hiện của Bồ tát cứu độ. Thà đói, thà mất mạng, còn hơn bị Tàu đô hộ. Bị đói chỉ một thời gian ngắn ngủi, còn bị đô hộ là phải chịu đựng không những đời mình hiện tại mà còn bị lụy đến bao đời con cháu mai sau. Do ý thức ấy, mà lúc xưa ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (1) vừa tu, vừa cầm quân giết giặc ngoại xâm, tiếng tăm lừng lẫy, khai sáng lịch sử Phật giáo trí hùng, làm rạng rỡ lịch sử Việt Nam hiển hách. Làm xong nhiệm vụ giết giặc cứu nước độ sanh, Ngài an nhiên nằm mà hóa về cõi Phật (2). Đó là sự thật không ai chối cãi. Ai bảo rằng tiêu diệt ma chướng ác quân là tạo nghiệp sát sanh, để rồi lấy cớ ẩn núp dưới trướng vô minh, dưới ý tưởng nông cạn này cho yên chuyện, mặc người sống chết?

Hằng đêm con cứ suy tưởng: Dòng lệ của dân Việt sắp cạn vì đã chảy bởi bao thảm nạn Cọng sản gây ra trong suốt hơn 1/3 thế kỷ. Nay nạn mất nước, nô lệ đang đến. Chính thế, Hòa thượng Quảng Độ là một vị Bồ tát hiện thân để cứu độ dân tộc Việt Nam. Hòa thượng cũng chính là hóa thân của ngài Tuệ Trung Thượng đưa Dân tộc con rồng cháu tiên thoát khỏi vòng nô lệ lần thứ hai của bọn giặc Tàu. Con tâm thành hưởng ứng Lời Kêu Gọi của Ngài. Chẳng còn ai hơn, con kính ngưỡng mong Ngài thống lãnh toàn dân đứng lên quyết chiến để 1) giành quyền Tự do, Dân chủ cho dân Việt từ bàn bè lũ ác đảng Cộng sản Việt Nam, và 2) diệt kẻ thù truyền kiếp Trung Cọng bảo hộ nền Độc lập Việt Nam.

Con sẽ là người theo bước chân Ngài xông pha chiến trận.

Để kết thúc, cần nói với toàn dân Việt Nam rằng, điều kiện cần, đủ và tiên quyết là PHẢI TẬP TRUNG LỰC LƯỢNG QUẦN CHÚNG DIỆT TAN BÈ LŨ ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. Kế đến mới lo việc đánh bọn Tàu Cộng để bảo tồn đất nước! Còn bè lũ Việt Cộng, thì đừng bao giờ có hy vọng có cơ hội để giành lại đất nước từ tay bọn giặc Tàu.

Hoài Nam Phạm Văn Giáo

Ngày 10 tháng 10, 2009

------------ --------- --------- --------- --------- --------- --------- ------

(1) Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) có nhiều vai trò quan trọng tại Việt Nam thế ký thứ mười ba: a) Ngài là một thống đốc, đã giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), Ngài là một trong các vị tướng nổi tiếng những người chỉ huy cuộc kháng chiến đánh bật ba cuộc xâm lăng của Mông Cổ và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình; b) là một cư sĩ, ngài sống một cuộc đời hòa lẫn với thiền định, thi ca và hào quang vương giả; và c) là một Thiền sư, ngài đã ảnh hưởng lớn đối với người sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Pháp danh ngài là Tuệ Trung, nghĩa là Trí Tuệ Bên Trong. Danh hiệu ngài, trao tặng bởi Vua Trần Thánh Tông, là Thượng Sĩ, có nghĩa là Bậc Cao Tột.

(2) Cuối cuộc đời, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ quyết định ra về với cõi Phật, ngay tại chính đường của Dưỡng Chân Trang, Ngài kê một giường gỗ giữa nhà trống, nằm nghiêng qua phải theo thế kiết tường, nhắm mắt lại. Thê thiếp, người hầu cùng chúng đệ tử khóc rống lên. Tuệ Trung mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ: “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói xong, Tuệ Trung an nhiên thị tịch.

Bệnh "Dại" Của Người Việt Nam - Xuân Khê

    Khi Nào Bệnh "Dại" Của Người Việt Nam Mới Được Chữa Lành?

Xuân Khê

Thưa quý độc giả, cái tiêu đề của tôi đưa ra nghe có vẻ "dị ứng" với nhiều độc giả khả kính, nhưng xin quý vị hãy bình tâm. Người Việt chúng ta làm sao mà "dại" cho được khi hơn 1000 năm đô hộ giặc Tàu vẫn không bị đồng hóa thành một quận nào đó của Tàu. Hơn một 150 năm dưới ách thực dân Pháp mà nước Việt vẫn chưa mất tên.

Thế mà từ lúc giặc Hồ về đến VN chúng ta thì y đã đem "virus dại" về cấy vào dân tộc VN và đến nay con "virus dại" đó lây lan một cách kinh khủng.

Cái dại thứ nhất là dân mình "nhắm mắt đưa chân nghe theo tiếng gọi Việt Minh" tự dùng máu thịt của mình làm gạch lót đường cho đảng Cộng sản VN nhuộm đỏ nửa phần lảnh thổ rồi tiếp tục xích hóa hoàn toàn VN năm 1975, dân tộc VN đã hy sinh hàng triệu sinh mạng từ Điên Biên "thần thánh" đến Chiến dịch HCM "vinh quang" lót đường cho tột đỉnh cao sang vinh thân phì da cho hàng triệu đảng viên CS.

Thứ nữa khi đã có trong tay nửa phần đất nước xây dựng nền dân chủ tự do lại không ưa, chỉ ưa chuyện dại - đình công bãi thị - tiếp tế mật khu làm anh dân quân du kích "vành nón tai bèo" thề trừ cho được "Mỹ Ngụy bán nước" hay diệt cho được "cường hào địa chủ"??? chính phủ miền Nam giải thích tuyên truyền mãi cũng chẳng nghe!!! Đêm đêm vào bưng vào rẫy, cơm nắm muối vừng, bột ngọt thuốc men, tiếp tế cho anh "giải phóng quân" thực hiện cho được đại sự "giải phóng miền Nam" ???

1975 đảng CSVN đứng đầu là tập đòan tàn ác Thắng, Duẫn, Đồng, Chinh, Giáp, Thọ, sau này là cả lũ lâu la bộ sậu CSản ác ôn khác như Lương, Mạnh, Anh, Mười, Phiêu, Linh, Hùng, Khải, Kiệt, Dũng, Triết ... cùng toàn bộ mấy triệu đảng CSVN vênh váo tự hào là một đảng "quang vinh" đã đưa toàn "dân tộc VN đến toàn thắng" ???. Nhưng, ô hô ai tai trong lúc này chúng ta hãy thử nhìn lại các đảng CS khác VN trên thế giới ở các nươc từng bị qua phân bởi thì không có đảng CS nào NGU và ÁC như CSVN!!! CSVN hợp nhất đất nước bằng cách hi sinh hàng triệu sinh mạng của dân tộc chúng ta và đã cố tình đưa 2 miền đất nước vào thù hận giết chóc triền miên trong mấy thập niên, một dấu ấn 2 miền vô hình hằn sâu trong lòng dân tộc.

Rõ ràng cái tội ác này của đảng CSVN không bao giờ tha thứ được. Chúng ta thử nhìn 2 miền Đông và Tây Đức thông nhất trong hòa bình không chút máu xương, cái gương Tiệp khắc, Nam Tư Lạp Phu … dân họ cùng nhau đi đến thịnh vượng chung. Bắc hàn tuy lớn lối vậy nhưng cũng không ngu dại gì mà chủ trương: "chiến tranh giải phóng" Nam hàn, hàng năm cứ nhận thực phẩm "chi viện" của "khúc ruột anh em" Nam hàn hơn là xây đường mòn "Kim Jong Il" để cho hàng triệu thanh niên Bắc hàn "sinh Bắc tử Nam" như đàn em Hồ chí Minh, Duẫn, Chinh, Đồng, Giáp đã kiên quyết theo lệnh Bắc kinh dù cho có "đốt cháy cả dãy Trường sơn" cũng phải tiến hành cho được đúng theo di huấn của "Hồ chủ tịch vĩ đại" cố tình đày ải hàng trăm ngàn xương máu thanh niên VN vào cửa tử.

Mao trạch Đông, Đặng tiểu Bình và đảng Cộng sản Tàu miệng tuy la lớn nhưng lũ chúng rất khôn ngoan không bao giờ dại dột ngốc nghếch như bộ chính trị đảng CSVN đã từng làm. Với thế giới bên ngoài Bắc kinh hay chủ nghĩa Đại Hán luôn to mồn làm ra vẻ "binh đao sắp sửa dấy động" đến nơi ấy thế chỉ dọa nạt Đài loan thôi nhưng cả đôi bên càng năm càng tăng lượng đầu tư buôn bán tiếp vốn giúp nhau, cũng cố kinh tế cả 2 đều hưởng lợi. Vừa qua Bắc kinh còn lên tiếng sẵn sàng giúp vốn cho Đài loan để chống chọi lại với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu này. Nói chung ngoại trừ cái đảng tham ăn tục uống vừa ngu lại vừa hèn như CSVN còn trên thế giới dù cho còn thể chế cộng sản thiên hạ đều tiếc máu xưong tài nguyên vật lực đất nước họ cả.

Họ cũng không chủ trương người Tàu giết người Tàu, người Hàn giết người Hàn, như thủ đoạn NGƯỜI VIỆT GIÊT NGƯỜI VIỆT mà đảng CSVN đã từng vênh váo khoe khoang chủ trương cho cái điên khùng của mình. Nói cho toàn ý rõ ràng dân mình còn "dại" mới để CSVN đè đầu mãi suốt gần thế kỷ; vì sao ? vì rằng cho đến bây giờ người dân Việt chúng ta vẫn cứ để cho tập đoàn CSVN tham nhũng bóc lột vơ vét hết tài nguyên của cải vào túi riêng của chúng nhưng dân mình vẫn cam chịu số phận bị đát như thế và đổ thừa vì "vận nước suy vong" thế thôi! yên chuyện, một sự đổ thừa cay đắng và đơn giản nhất. ĐẢNG ĂN DÂN TRẢ, tiền bạc ngoại quốc đầu tư cho VN vay vốn đợt này đến lớp khác đã bị tập đoàn cầm quyền CSVN khuynh loát, trắng trợn bỏ túi làm của riêng trong lúc đó con cháu dân tộc VN phải "è lưng" ra trả nợ từ đời nay cho đên đời con cái cháu chắt ..???.

Bản chất dân tộc Việt nam là nghĩ đến hậu thế, lo cho đời sau thế mà cái DẠI chúng ta sờ sờ ra thế sao không ai hay! phải chăng DẠI DỘT này từ sợ hãi mà ra ? Đây là một câu hỏi chính đáng mà chúng ta cần đề cập. Tập đoàn CSVN đã thản nhiên phung phí, tận dụng, bóc lột, vơ vét MÁU XƯƠNG và TÀI NGUYÊN VẬT LỰC đất nước VN đã hơn nửa thế kỷ rồi nhưng toàn dân tộc VN sự thực vẫn chưa tỉnh thức, con "virus dại" cứ nuôi mãi trong ngưòi cho đến khi nào ?

Đến khi người dân VN bằng nhiều hình thức chạy trốn được giặc Cộng ra được nước ngoài thì lại cộng thêm cái bệnh "HAY QUÊN" bằng cách này hay cách khác hàng năm "tự giác, tự nguyện" nhịn ăn nhịn tiêu càng lúc càng nhiều đem hàng tỷ đô la từ sức lao động, mồ hôi nước mắt, gián tiếp "tiếp máu" nuôi mập cái tâp đoàn "Dracula Hà nội" bán nước hại dân đó. Trong lúc cả tập đoàn CSVN cùng TƯ BẢN ĐỎ rủng rỉnh lên xe xuống ngựa, vi la biệt thự, ngừơi ăn kẻ ở, của cải đầy nhà, có máy bay riêng gần cả chục triệu đô, có xe hơi đắt giá lên đến 2 triệu đô la, cá cược đánh số lên đến bạc triệu, ăn chơi sa đọa vô luân, thanh thế vây cánh tràn lan, công an mật vụ lớp lớp đầy đường chà đạp trên đầu hàng triệu người dân cùng khổ VN chúng ta. Thế mà hải ngoại có những tổ chức, cá nhân cũng mang "con virus dại" này hết lòng hết sức, bòn rút tiền bạc của ngưòi hảo tâm đem tiên về tự nguyện LÀM THAY CHO ĐẢNG để Đảng Ta rảnh tay ngồi chơi hưởng lạc và càng đỡ "lao tâm nhọc trí" và càng rãnh tay đi ĐÀN ÁP dân lành.

Đúng ra lớp người hải ngoại nếu có lòng với đât nước VN, với cái thế thuận lợi ở vị trí đang ở bên ngoài , họ phải đứng ra tổ chức, cổ xúy phong trào đòi lại của cải tài nguyên của dân VN từ túi mấy tên THAM QUAN Ô LẠI CSVN trả lại cho dân VN thì nhiều biết bao nhiêu. Trái lại các lực lượng mất nước ly hương bao nhiêu tức giận căm thù cộng phỉ có khi trút "lầm đánh trật" lên đầu nhau, sức đánh còn mạnh hơn đánh cả kẻ thù dân tộc làm trò cười cho bọn Cộng sản nằm vùng hải ngoại làm chúng vừa "vuôt râu vừa cười đắc ý"! vì không còn ai có lòng với dân với nước mà còn dám xuất đầu lộ diện ra được nữa.

Trỏ lại chuyện tiền bạc gởi về VN, một điều đáng chú ý ở đây mà chúng ta nhận chân ra rằng chỉ có lượng kiều hối hải ngoại là một vũ khí có khả năng triệt tiêu được chế độ toàn trị CSVN hiện tại: chúng ta hãy thử chỉ cần ngưng một thời gian 1 năm thôi! là cả chế độ ăn bám Hà nội sụp đổ hay rung rinh toàn bộ ngay. Trái lại vì mang "bệnh DẠI" nên cứ nhắm mắt ngẩn ngơ tiếp tay cho những "cò mồi" trong nước liên tục đi ra hải ngoại vơ vét quyên xin làm cho Đảng thêm vây cánh thế lực lại càng làm khối ngưòi Việt hải ngoại càng thêm phân hóa, bất an. Rõ ràng từ cái dại trong cái chuyện thương quê nhớ nước, từ cái chuyện từ thiện kiểu thấy gì làm vậy không chịi truy căn, ra ngành ra ngọn, không đúng cách càng giúp dân VN càng lúc càng khổ đông hơn trầm trọng hơn và lâu dài hơn nữa?

Những đồng bậc dại tự nguyện dâng hiến cho những kẻ từng truy sát mình, bách hại mình và không bao giờ hỏi "tại sao?". Một câu hỏi mà vì dại nên không muốn nghĩ ra: càng giúp VN càng nhiều từ thiện càng nhiều tại sao xã hội VN càng ngày càng thêm nhiều người khổ, tệ nạn xã hội VN càng năm càng thêm nhiều và càng phức tạp, phụ nữ VN càng lúc càng bi bán ra nước ngoài, đi làm đầy tớ, hay phải đi lấy chồng nước ngoài kiêm miếng cơm manh áo cho gia đinh cha mẹ tại VN.
Thanh niên, trai tráng VN càng lúc càng đi làm "cu ly" ngoại quốc cho CSVN kiếm đô la bỏ túi? Hàng tỷ đô la càng ngày càng gởi nhiều về VN bằng nhiều hình thức không 1 chút điều kiện trói buộc và cũng từ hình thức này, tham nhũng VN mới chuyền của tiền ra ngoại quốc cho gia đình họ hàng chúng hưởng và chuẩn bị vốn liếng cho bước "cao chạy xa bay" của lũ cướp ngày này.

Rõ ràng lại cái bệnh "dại" này đã trở thành "bất trị" chỉ có thời thế chuyển dời mới giúp trị được mà thôi. Thời thế trong trường hợp này là thế nào? Một là khi toàn cõi Vn phải đi học "tiếng Tàu" thay cho tiếng Việt? tình huống này thì bệnh dại tuy đã tỉnh nhưng đã quá ôi thôi đã quá muộn màng ! còn thứ nữa ở nước ngoài thì nhờ CƠN LỐC SUY THOÁI KINH TẾ thế giới làm cho máu "mẫu quốc hải ngoại" như Mỹ, Âu, Hàn, Nhật đã cạn kiệt không còn đủ sức để "rò rĩ" đô la nuôi mạp thây Ngụy quyền Hà nội, khi người Việt hải ngoại 'chạy vắt giò lên cổ" để tự lo cho miếng cơm manh áo tại nơi xa xứ, nào tiền nhà tiền bill nhưng chẳng đủ nuôi vợ đỡ con, khi Việt kiều hải ngoại xếp hàng dài "từng cây số" xin việc nhưng chẳng ai thuê thì con "virus dại" này mới bị tự động bị triệt tiêu xếp vó mà thôi và chấm dứt cái chuyện mấy trự "trâu già ưa gặm cỏ non" cứ "léng phéng" sẵn mấy đồng tiền đô về nước hưởng lạc qua lại nhà báo vợ hại con.

Còn nếu không thì chỉ "nước xao đầu vịt" chúng ta càng kêu gào, giải thích nói hoài chẳng ai nghe, cái bệnh dại trầm kha còn mãi đeo đẳng mình.

Xuân Khê

NÓI VỚI ĐẦU GỐI - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Con người không thể sống đơn độc trong hang sâu, núi lạnh. Sống có nghĩa là hợp quần. Đối thoại là cầu nối giữa con người với xã hội. Để thực hiện đối thoại, con người phải có thể phát âm, nghe, hiểu và phán đoán. Đầu gối là nơi giao tiếp giữa xương đùi và xương ống chân. Đầu gối không tim, không óc, không mắt, không tai ... Rõ ràng là đầu gối không có chức năng đối thoại. Thế nhưng, trong dòng đời chất chứa nhiều tình huống phức tạp này, có những người chỉ muốn nói cho chính mình nghe, không quan tâm tới ý kiến của những người chung quanh. Mỗi khi phải đương đầu với văn chương “nói lấy được”, người đối thoại hiểu ngay rằng: thà nói chuyện với đầu gối còn hơn là phải trao đổi ý kiến với những người có kiến thức nghèo nàn đến độ bất bình thường. Sau đây là một trường hợp “nói lấy được”.

Ngày 02/09/2009, đài BBC Luân Đôn có dành cho ông Nguyễn Trọng Phúc một cuộc phỏng vấn về các vấn đề liên quan tới thể chế chính trị của chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Nguyễn Trọng Phúc là thành viên học viện Chính Trị-Hành Chánh Quốc Gia, Hà Nội, nguyên viện trưởng viện lịch sử đảng, người đã đào tạo ra nhiều cán bộ lý luận cao cấp cho đảng CSVN. Sau đây là các lý luận quan yếu đã được ông Nguyễn Trọng Phúc nói với đài BBC Luân Đôn:

1. Về Dân chủ đa nguyên:

Ông Nguyễn Trọng Phúc khẳng định: “Hiện nay pháp luật Việt Nam, điều lệ và cương lĩnh của đảng CSVN không chấp nhận đa nguyên đa đảng”

Sinh hoạt đa nguyên, đa đảng là một trong nhiều hình thức sinh hoạt chính trị khác nhau của quần chúng. Chỉ có quần chúng hay đại diện chân chính của quần chúng mới có thẩm quyền quyết định chọn lựa các hình thức sinh hoạt vừa kể. Đảng CSVN là một đảng hoạt động không giấy phép. Đảng CSVN chỉ là một số tư nhân tụ tập phi pháp, đảng này lại càng không có bất kỳ loại hồ sơ pháp lý nào khả dĩ có thể minh chứng họ là thụ ủy của người dân. Trong các điều kiện pháp lý vừa kể, điều lệ và cương lĩnh của đảng CSVN hoàn toàn vô nghĩa đối với người dân Việt Nam. Thế nhưng ông Nguyễn Trọng Phúc lại viện dẫn hai văn kiện kia để ngăn cấm người dân không được sinh hoạt đa nguyên đa đảng. Quả thực, Nguyễn Trọng Phúc đã sử dụng kiểu lý luận ngang ngược của họng súng.

Bên cạnh điều lệ và cương lĩnh của đảng CSVN, Nguyễn Trọng Phúc còn căn cứ vào điều được gọi là luật pháp Việt Nam để tăng cường cho luận cứ quyết liệt chống đa nguyên đa đảng. Nói tới trọng pháp, nói tới luật pháp, xã hội cần phân biệt hai loại luật pháp: luật chính danh còn gọi là pháp trị (rule of law)và luật ngụy trá, còn gọi là pháp quyền (rule by law). Pháp quyền là luật do quốc hội bù nhìn hoặc do chế độ độc tài đặt ra để đàn áp người dân. Pháp quyền điển hình là luật của Tần Thủy Hoàng, luật của Đức Quốc Xã, luật cải cách ruộng đất của Hồ chí Minh và tòan bộ luật pháp của CSVN ngày nay. Pháp trị là luật của những quốc hội thực sự tự do dân chủ làm ra. Pháp tri là luật pháp chân chính của thể chế tự do dân chủ.

Trọng pháp không có nghĩa là ngoan ngoản nhắm mắt tôn trọng bất kỳ loại luật pháp nào. Người trọng pháp là người có khả năng phân biệt rạch ròi luật của độc tài áp bức và luật của tự do dân chủ. Đồng thời người trọng pháp có hai nghĩa vụ: nghĩa vụ đạp đổ luật độc tài và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ luật của tự do dân chủ.

2. Sự ủng hộ tuyệt đối của toàn dân:

Ông Nguyễn Trọng Phúc nói với BBC rằng ông tin là chủ trương chống đa nguyên đa đảng của CSVN đã được “sự ủng hộ tuyệt đối của toàn dân”. Nguyễn Trọng Phúc giải thích thêm: “Người ta có nhiều con đường để đi đến khẳng định chế độ chính trị nào được toàn dân ủng hộ, chứ không phải chỉ trưng cầu dân ý. Nước Anh, nước Mỹ có trưng cầu dân ý không? Cứ theo dõi đời sống, tình cảm, thái độ của người dân đối với chế độ chính trị như thế nào là có thể hiểu được, chứ không áp đặt cách làm của nước này cho nước khác”

Xác định ý dân theo kiểu “theo dõi đời sống, tình cảm, thái độ của người dân đối với chế độ chính trị” là phương pháp xác định dân ý cực kỳ lơ mơ. Dựa vào những chuẩn mực nào để theo dõi? Làm thế nào để có thể theo dõi tình, ý của 80 triệu người dân ? Làm thế nào để những theo dõi kia không bị chủ quan? Trong trường hợp có nhiều ứng cử viên, làm thế nào để qua theo dõi có thể kết luận một cách chính xác và công bằng rằng ai là người trong số nhiều ứng cử viên kia được dân chúng chọn lựa? Các câu hỏi vừa nêu đều là những câu hỏi không có câu trả lời. Sỡ dỉ Nguyễn Trọng Phúc lâm vào hoàn cảnh bị bao vây bởi câu hỏi không thể trả lời là vì Nguyễn Trọng Phúc tránh né nói tới thủ tục bầu cử phổ thông, tự do, công bằng và kín của thể chế dân chủ. Hơn thế nữa, nhằm củng cố cho lập luận “Người ta có nhiều con đường để đi đến khẳng định chế độ nào được toàn dân ủng hộ, chứ không phải chỉ trưng cầu dân ý”, Nguyễn Trọng Phúc đã đặt câu hỏi ngược lại: “Nước Anh, nước Mỹ có trưng cầu dân ý không?”. Câu hỏi của Nguyễn Trọng Phúc có hàm ý rằng : nước Anh, nước Mỹ không có trưng cầu dân ý nhưng vẫn có dân chủ. Ý kiến vừa kể của Nguyễn Trọng Phúc gây cho dư luật một kinh ngạc lớn. Đàng sau kinh ngạc lớn kia là hai quan điểm tối tăm được phát biểu bởi nhà lý luận hàng đầu của Hà Nội:

Tối tăm thứ nhất: Đời sống của xã hội loài người đã cho con người kinh nghiệm rằng: cá nhân phát biểu ý kiến bằng lời nói hay bằng chữ viết trên văn bản. Ý kiến của một tập thể người, đặc biệt là tập thể quần chúng nhiều triệu người, gọi chung là dân ý được phát biểu bằng lá phiếu. Lá phiếu là dân ý trong quyết định tuyển chọn giới chức dân cử. Lá phiếu là dân ý xác định thái độ chấp thuận hay bác bỏ các dự án luật. Lá phiếu là dân ý nêu bật ý kiến tín nhiệm hay bất tín nhiệm các cấp lãnh đạo quốc gia. Vì vậy bầu phiếu và trưng cầu dân ý là hai thuật ngữ đồng nghĩa. Và cũng vì vậy Nguyễn Trọng Phúc, bậc thầy của giới lý luận CSVN đã bất ngờ trở thành danh hề khi cho rằng: nước Anh, nước Mỹ không có trưng cầu dân ý.

Tối tăm thứ hai: Nói với đài BBC Luân Đôn, ông Nguyễn Trọng Phúc cho rằng: “Người ta có nhiều con đường” để xác định dân ý và rằng xin đừng “áp đặt cách làm của nước này cho nước khác”. Rõ ràng là với gian ý tránh né thâu thập dân ý thông qua việc tổ chức đầu phiếu tự do và công bằng, nhà lý luận hàng đầu của Hà Nội đã đưa ra lời lẽ phủ nhận tính chất hữu hiệu của phương pháp trưng cầu dân ý dân chủ. Thế nhưng, trong thực tế, CSVN đã nhái theo thủ tục bầu cử dân chủ để sản sinh ra cơ quan gọi là quốc hội cộng hòa XHCNVN với ghi chú quốc hội này được bầu theo kiểu đảng cử, công an kềm kẹp, dân bầu. Như vậy, về mặt lý luận, Nguyễn Trọng Phúc bài bác thể chế dân chủ. Về mặt thực tế hành động, Hà Nội lại trình diễn dân chủ giả hiệu nhằm lòe bịp dư luận. Sự việc CSVN phải sử dụng dân chủ giả hiệu chứng tỏ dân chủ chính danh là công lý.

Tóm lại, những phát biểu của ông Nguyễn Trọng Phúc xoay quanh các vấn đề: đa nguyên, đa đảng, giá trị của luật pháp CS và các phương pháp thâu thập dân ý…đã làm cho dư luận chú ý đến ba đặc tính:

1. Hiểu biết của các nhà lý luận hàng đầu chế độ Hà Nội về cấu trúc dân chủ của nước Anh, nước Mỹ nói riêng, về xã hội quốc tế nói chung, nghèo nàn đến thảm hại.

2. Đối với CSVN, thảo luận về các chủ đề văn minh dân chủ chỉ là cơ hội để Hà Nội ăn gian, nói dối, đả kích dân chủ, biện minh cho độc tài.

3. Nhằm khỏa lấp đặc tính (1) và (2) cán bộ lý luận của Hà Nội bao giờ cũng làm ra vẽ:ta đây là chủ nhân ông của đỉnh cao trí tuệ loài người.

Ba đặc tính nêu trên dẫn đến kết luận rằng: nói chuyện lý luận chính trị với Hà Nội chẳng khác nào nói chuyện với đầu gối. Ngày nay, CSVN đang cai trị đất nước bằng phương pháp: mang đầu gối thay thế bộ óc, mang tội ác tham ô và bán nước thay thế lương tri và ái quốc.

Đỗ Thái Nhiên

Đem con bỏ chùa: Một mũi tên nhiều đích nhắm! - Nguyễn Vô Thường


Nguyễn Vô Thường

Thái độ im lặng trong nhiều tuần lễ của thiền sư Thích Nhất Hạnh (TS TNH) kể từ khi Cộng sản Việt Nam (CSVN) đàn áp dã man 400 thầy và sư cô của TS tại tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng đã gây xôn xao trong dư luận và trở thành một đề tài nóng bỏng với biết bao câu hỏi về sự im lặng khó hiểu này. Những ai mê đọc sách thiền của TS TNH giờ tỏ ra thất vọng khi thấy lời nói của kẻ viết không đi đôi với việc làm được thể hiện qua hành động “đem con bỏ chùa”.

Sự lên tiếng lần đầu tiên của TS TNH trong lá thư đề ngày 30/9/2009 dưới cái tên Gs Nguyễn Lang gửi cho Chủ tịch Đảng Nguyễn Minh Triết qua mạng Phù Sa một mặt "xin Chủ tịch kịp thời ngăn chận hành động trái luân thường đạo lý này", rồi lại cung kính gọi công an là "các vị", càng làm cho dư luận xôn xao hơn nữa về thái độ nịnh nọt xin/cho của TS TNH.

Thêm vào đó nội dung lá thư "... Ngày xưa trong Cách mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các Thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa .... Các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của cách mạng" tự nó đã bốc lên mùi vị của một người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản đang tỉ tê kể lể công trạng đùm bọc cách mạng để sau đó xin xỏ Cách mạng cho mình ân huệ. Phải chăng đây chính là lý do khiến TS TNH phải dùng tên Nguyễn Lang để khỏi bị mang tiếng là mình nằm vùng?

Ngoài ra cách hành văn lửng lơ "... hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng ẩn náu tại chùa và các Thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở" dễ tạo ấn tượng cho người đọc là có nhiều chùa ủng hộ CS trong khi thực tế chỉ có vài nhà sư trụ trì vài ngôi chùa ở vùng xôi đậu thời đó theo ủng hộ Cộng sản mà thôi. Và sau cùng nội dung bức thư lẫn thời điểm tung ra đã giúp cho chúng ta nhìn rõ hơn bản chất của vụ đàn áp tu viện Bát Nhã đã được tính toán kỹ càng với sự tung hứng rất nhịp nhàng và ăn khớp giữa hai bên. Một mũi tên độc CSVN bắn đi nhắm tới nhiều đích.

Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là tại sao CSVN lại chọn thời điểm này để đàn áp Bát Nhã? Câu trả lời cũng không khó. Lời Kêu gọi Biểu tình Tại gia - Bất tuân Dân sự của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đặt vấn đề với nhà cầm quyền CSVN về việc khai thác bauxite ở Cao nguyên Trung phần cũng như đòi CSVN phải bạch hoá hai bản hiệp ước biên giới mà CS đã lén lút ký kết dâng một phần đất biển của tổ tiên cho đàn anh Trung cộng, là một cái gai nhức nhối đâm thẳm vào tim đen của CSVN và làm đàn anh Trung cộng điên tiết. Để ngăn chặn chuyện "nhạy cảm" làm buồn lòng quan thầy Trung Cộng, còn kế nào hay hơn là lèo lái dư luận quần chúng và thế giới sang chuyện đàn áp Tu viện Bát Nhã. Một hình thức lái mục tiêu đấu tranh của đồng bào sang hướng khác mà CSVN hoàn toàn nắm phần chủ động.

Câu hỏi thứ hai được đặt ra là tại sao TS TNH lại im lặng để cho CSVN đàn áp mấy tháng trời rồi sau đó mới lên tiếng với cái tên Gs Nguyễn Lang? Thật cũng chẳng gì khó hiểu. Nếu như TS TNH lên tiếng phản đối ngay từ lúc đầu thì CSVN chỉ có hai sự chọn lựa, hoặc tiếp tục đàn áp hay là ngưng lại. Nếu tiếp tục đàn áp thì chả khác gì CSVN sỉ nhục và làm mất uy tín TS TNH. Đây là điều mà CSVN không muốn làm vì họ cần đánh bóng tên tuổi của TS TNH cho những công tác quốc tế vận mai sau, mà trong đó sự lên tiếng của TS TNH về vấn đề chất độc da cam ở Hoa Kỳ cách đây vài năm đã là một thí dụ điển hình. Còn như nếu nhà cầm quyền CSVN ngưng ngay cuộc đàn áp thì làm sao những kẻ nằm vùng có thể viện cớ tăng ni bị đàn áp để lên tiếng yêu cầu thế giới can thiệp cho 400 thầy cô tu viện Bát Nhã được xuất ngoại hầu tạo cơ hội cho CSVN cài sư quốc doanh ra hải ngoại nằm vùng để phá rối Phật giáo và lũng loạn cộng đồng người Việt hải ngoại?

Thêm vào đó, mũi tên đàn áp tu viện Bát Nhã mà CSVN bắn ra cũng nhằm mục đích đánh bóng TS TNH có cơ hội được khoác chiếc áo mới thơm phức "hương vị chống Cộng". Qua chiếc áo Chống cộng ảo tưởng này dễ mê hoặc những kẻ ngây thơ, TS TNH sẽ từ từ kéo hết tăng ni Phật tử hải ngoại trở "về nguồn", hỗ trợ Giáo hội Phật giáo VN quốc doanh làm những công quả từ thiện nuôi béo chế độ.

Và sau cùng, mục đích có lẽ thâm hiểm nhất trong vở tuồng đàn áp tu viện Bát Nhã là gây phân hóa trong cộng đồng Phật giáo và người Việt hải ngoại. Người nào nhìn thấy ý đồ đen tối của CSVN tất phải giữ thái độ thận trọng không vội vã lên tiếng hẳn sẽ trở thành mục tiêu cho nhóm văn nô CS tận tình khai thác. Còn những ai ngây thơ lên tiếng tranh đấu cho tu viện Bát Nhã thì lại sa vào cái bẫy sập tinh vi cuả CSVN.

Biến cố Bát Nhã quả đúng là mũi tên tẩm thuốc độc nhắm tới nhiều đích. Cho dù CSVN có đóng kịch khéo léo đến mấy đi chăng nữa thì cũng không qua mặt được người dân. Chỉ tội và thương cho một thiểu số thầy và sư cô không đội lốt quốc doanh, bị CSVN dùng làm con cờ thí trên bàn cờ tu viện Bát Nhã mà ai ai cũng đều biết những kẻ đánh cờ cùng đồng hội đồng thuyền đang nắm tay nhau đi chung những bước cờ thật ngoạn mục.

Lời Kêu gọi Tẩy chay hàng Trung quốc của Hòa thượng TQĐ đưa ra trong lúc này là một hồi chuông nhắc nhở toàn dân Việt hãy tập trung vào cái đích duy nhất là cùng nhau đoàn kết dồn nỗ lực đấu tranh giải thể chế độ CSVN bán nước buôn dân thì mới có cơ may thoát khỏi hiểm hoạ ba ngàn năm nô lệ giặc Tầu. Và đây cũng là cách giải quyết tận gốc rễ những vấn đề kiểu tu viện Bát Nhã, Tam Toà, khiếu kiện dân oan, v.v... ngày càng trăm hoa đua nở trên quê hương Việt Nam.

Nguyễn Vô Thường

TUYÊN CÁO LÊN ÁN TẬP ÐOÀN CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NƯỚC CẦU VINH


HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
– Chi Hội Cambodia –
Vietnamese Political and Religious Prisoner Friendship Association
– Cambodia Chapter –
(VPRPFA-CAMBODIA)

    TUYÊN CÁO LÊN ÁN TẬP ÐOÀN CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NƯỚC CẦU VINH
    VÀ BÁ QUYỀN TRUNG CỘNG XÂM LĂNG LÃNH THỔ VÀ LÃNH HẢI VIỆT NAM

Xét rằng:

1. Xuyên suốt dòng lịch sử lập quốc, đế quốc Đại Hán luôn luôn bành trướng thế lực xâm lược các quốc gia láng giềng để đồng hóa các tộc người này vào Hán tộc và bành trướng lãnh thổ rộng lớn như ngày nay. Ngay từ thời đầu lập quốc thuở Thương-Chu, Hán tộc đã xâm lăng, tiêu diệt các tiểu quốc Bách Việt của Việt tộc, xua đuổi Việt tộc ra khỏi địa bàn đất Tổ ở Trung nguyên- thuộc lãnh thổ của Trung cộng hiện nay. Lịch sử cũng chứng minh sự xâm lăng của Hán tộc đối với các tộc người Việt, Mông, Mãn, Tạng, Hồi để trở thành một đế quốc rộng lớn như ngày nay. Những năm của thế kỷ XX, ngay sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, Trung Cộng đã xâm lấn đất đai, gây hấn với các nước láng giềng, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, cuộc chiến biên giới năm 1979 và một phần quần đảo Trường Sa. Và đầu thiên niên kỷ thứ ba khi nhân loại đang bước vào kỹ nguyên của hòa bình, đối thoại, và hợp tác, thì đế quốc Trung Cộng lại ngang nhiên thách thức công luận của cả loài người tiến bộ khi công khai thành lập huyện Tam Sa để sát nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ của tập đoàn bá quyền Đại Hán này.

2. Kể từ khi Hồ Chí Minh, một tay sai đắc lực của quốc tế cộng sản, lãnh nhiệm vụ bành trướng chủ nghĩa cộng sản xuống phương Nam, nhuộm đỏ Đông Nam Á mở đường thông thương ra biển Nam cho đế quốc Trung cộng. Chính vì vậy, từ ngày thành lập cho đến nay, đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn là công cụ tay sai cho cả Liên Xô lẫn Trung cộng. Hồ Chí Minh đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, giải tán đảng cộng sản rồi núp dưới tên đảng Lao động để đưa ra chiêu bài giải phóng dân tộc nhưng thực chất là bành trướng chủ nghĩa cộng sản, nhuộm đỏ đất nước Việt Nam. Cũng chính Hồ Chí Minh đã thỏa hiệp để thực dân Pháp trở ra Hà Nội để tiêu diệt các chiến sĩ yêu nước của các đảng phái quốc gia - bằng một câu phát ngôn được xem như là bất hủ của vị bố già dân tộc “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu". [Plutôt flairer un peu la crotte des Francaisque manger toute notre vie celle des Chinois – Paul Mus, "Vietnam, Sociologie d'une guerre", Paris, Seuil, p. 185], và cũng chính Hồ Chí Minh dưới áp lực của Liên Xô Trung Quốc đã phản bội công cuộc kháng chiến của dân tộc, thỏa hiệp với thực dân Pháp ký hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 để chia đôi đất nước. Năm 1958, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Phạm văn Đồng gửi công hàm cho Trung Cộng thừa nhận chủ quyền của Trung cộng đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1960, cộng sản Việt Nam đã chà đạp lên hiệp định Genève đem quân xâm lấn miền Nam và một lần nữa, Hồ Chí Minh lại lợi dụng chiêu bài giải phóng miền Nam để thực hiện ý đồ xâm chiếm miền Nam, nhuộm đỏ toàn bộ đất nước Việt Nam. Sau khi ký kết hiệp định Paris năm 1973, lại một lần nữa Cộng sản Việt Nam xé bỏ hiệp định vừa ký chưa ráo mực để đem quân cưỡng chiếm miền Nam. Năm 1999, đảng cộng sản đã ký hiệp định biên giới Việt Trung, dâng 800 cây số vuông đất cho Trung cộng. Sang năm 2000 cộng sản Việt Nam lại ký hiệp ước vịnh Bắc bộ dâng hơn 10.000 cây số vuông biển cho đế quốc Trung Cộng. Chính vì vậy, đế quốc Trung cộng mới ngang nhiên thành lập huyện Tam Sa bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa của dân tộc ta vào lãnh thổ Trung Cộng.

3. Luận điệu mà cộng sản rêu rao đánh lừa quần chúng nhân dân là giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam..., nhưng thực chất chỉ là chiêu bài để lợi dụng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam để phục vụ cho ý đồ bành trướng của quốc tế cộng sản mà thôi. Lịch sử đã chứng minh hùng hồn rằng Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam là những tội đồ của dân tộc Việt Nam, đã cõng rắn cộng sản về cắn gà nhà dân tộc. Chính vì Hồ Chí Minh là tay sai đắc lực của đệ tam quốc tế cộng sản nên Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt đã không công nhận và không đặt Việt Nam dưới sự ủy trị của Liên Hiệp quốc. Kể từ khi Liên Xô và Trung Cộng công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng 1 năm 1950 là thành trì công nông đầu tiên ở Đông Nam Á thì sang tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ, Anh, Pháp công nhận chính phủ Quốc gia Bảo Đại và cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự do và cộng sản bắt đâu. Chính vì Hồ Chí Minh và đảng cộng sản việt Nam du nhập chủ nghĩa cộng sản quái thai vào đất Việt nên đồng minh Hoa Kỳ phải nhập cuộc để ngăn chặn làn sóng đỏ, đưa dân tộc Việt vào thế trên đe dưới búa khiến hàng triệu người Việt Nam yêu nước phải hi sinh trong khi các nước khác trên thế giới cũng giành được độc lập dân tộc mà không tốn hao một giọt máu. Cộng sản Việt Nam đã thi hành chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản phát động cuộc đấu tố cải cách ruộng đất nhằm tước đoạt tài sản đất đai riêng tư của các điền chủ đã khai khẩn đất hoang từ bao đời qua, khiến hàng trăm ngàn người Việt Nam vô tội đã bị hành hình một cách quá dã man, tàn bạo và vô cùng oan nghiệt. Hàng chục ngàn thường dân vô tội đã bị cộng sản chôn sống trong dịp tết Mậu Thân tại Huế và sau khi cưỡng chiếm miền Nam vào cuối tháng 4 năm 1975, chính bọn quỷ đỏ cộng sản khát máu cũng đã hành quyết hàng ngàn người Việt Nam yêu nước, trả thù, đày ải các viên chức sĩ quan quân lực VNCH vào các trại cải tạo tập trung buộc phải lao động khổ sai khiến hơn 65 ngàn người đã chết dần chết mòn trong các địa ngục trần gian mà bọn cộng nô đã xây dựng trên khắp mọi miền đất nước. Năm 1979, cộng sản lại xua hàng trăm ngàn thanh niên Việt vào một lò sát sanh mới mà chúng gọi với mỹ từ là nghĩa vụ quốc tế tại Cambodia.

Trong suốt hơn 32 năm thống trị đất nước, cộng sản Việt Nam đã đem lại hậu quả nặng nề cho dân tộc Việt Nam trên nhiều phương diện. Sang thiên niên kỷ thứ ba mà Việt Nam vẫn còn là một đất nước chậm tiến, tụt hậu và nghèo nàn nhất thế giới. Trong suốt dòng lịch sử dân tộc, tên gian hùng Hồ Chí Minh, một Lê Chiêu Thống của thời đại và đảng cộng sản Việt nam quái thai là những kẻ mãi quốc cầu vinh, đang tâm dâng đất bán biển, phản bội công lao của các bậc tiền nhân bao đời dựng nước và giữ nước, cùng với đế quốc Trung cộng xâm lược, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và bè lũ chính là tội đồ của dân tộc mà danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã hài tội trong bài Đại Cáo Bình Ngô: Chặt hết trúc Nam Sơn cũng không ghi đủ tội ác, tát cạn biển Đông Hải cũng không rửa sạch tanh hôi … Thần người đều căm hận, Trời đất chẳng dung tha ..!

Từ những bằng chứng về chủ nghĩa bá quyền, cướp nước của bè lủ cộng sản Trung Quốc khát máu,
Từ những bằng chứng hùng hồn về tội đồ bán nước cầu vinh của bè lủ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và tập đoàn bán nước cộng sản Việt nam
Căn cứ vào Hiến chương Liên Hiệp quốc
Căn cứ vào Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
Căn cứ vào Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và Chính trị

Nhân danh quyền sống của hơn 85 triệu người Việt Nam đang bị tước đoạt quyền sống tối thiểu của một con người dưới chế độ độc tài toàn trị của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi:

1. Các quốc gia dân chủ tự do, các hội đoàn thiện nguyện tranh đấu cho nhân quyền, quí vị khôi nguyên giải Nobel Hòa bình hãy thể hiện lương tri của nhân loại, ý chí của cộng đồng thế giới, xin nhất loạt lên tiếng và đưa vấn đề Trung Cộng xâm lược ra Đại hội đồng Liên Hiệp quốc để ra nghị quyết chế tài nhằm ngăn chặn ý đồ của Trung Cộng biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ hai, sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ của đế quốc Trung Cộng.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc Việt nam về tội bán nước hại dân. Đây là cơ hội cuối cùng để những người cộng sản giác ngộ quyền lợi tối thượng của dân tộc, chuộc lại những lỗi lầm của họ trước toàn dân Việt nam bằng cách trao lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Đã đến lúc đảng cộng sản Việt Nam phải hủy bỏ điều 4 Hiến pháp CHXHCNVN, tổ chức trưng cầu dân ý bầu một quốc hội dưới sự giám sát của quốc tế, một quốc hội lập hiến thể hiện ý chí của toàn dân để soạn thảo một Hiến pháp mới đáp ứng yêu câu của lịch sử. Để thực hiện điều này trước hết đảng cộng sản Việt Nam phải thành tâm mời gọi tất cả đại diện của các đảng phái chính trị, các hội đoàn trong lẫn ngoài nước về tham dự một Hội nghị Ziên Hồng thế kỷ thứ XXI để thống nhất ý chí của toàn dân tạo thành sức mạnh tổng lực chiến đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ mà các bậc tiền nhân bao đời đã hi sinh xương máu xuống từng tấc đất bảo vệ sơn hà xã tắc suốt mấy ngàn năm qua. Lịch sử Việt đã chứng minh rằng chỉ có sự đoàn kết thống nhất muôn người Việt Nam như một mới đánh thắng được kẻ thù truyền kiếp Hán tộc xâm lược.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự áp đặt một chế độ độc tài áp bức thống trị nhân dân Việt Nam nên nhân dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận cái gọi là nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhân dân Việt Nam long trọng tuyên bố trước công luận quốc tế: tất cả các hiệp định mà nhà nước VNDCCH và CHXHCNVN ký kết với Trung Cộng đều vô giá trị.

Nhân dân Việt Nam muôn người như một hãy đứng lên tranh đấu giành lại quyền làm chủ đất nước để xây dựng một thể chế dân chủ tự do thực sư hầu mang lại ấm no hạnh phúc cho 85 triệu đồng bào Việt Nam đang rên siết dưới ách thống trị tàn bạo và vô nhân tính của tập đoàn bán nước cộng sản Việt nam

Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam
Chi Hội tại Cambodia
Phnom Penh, ngày 10 tháng 10 năm 2009

Saturday, October 10, 2009

Suy tư: Chữ TÂM


Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người:
    - Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.
    - Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
    - Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
    - Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
    - Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …
Cho nên, ta không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn:
    - Ðặt trên tay để giúp đỡ người khác.
    - Ðặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân.
    - Ðặt trên trán để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
    - Ðặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
    - Ðặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
    - Ðặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.
Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người.

(sưu tầm trên net)

Những Con Cá Hồi ... Biến Thái - Đan Tâm


Đan Tâm

Gần 30 năm về trước, khi vừa đặt chân tới Hoa Kỳ, tôi đã được đọc một bài viết rất hay. Bài viết kể chuyện những con cá hồi, những con cá sinh trưởng ở môi trường nước ngọt. Khi lớn lên thì theo dòng nước bơi ra biển mặn để trưởng thành. Cá mới tới thì bơi từng đàn ở gần bờ. Khi đã quen với môi trường nước mặn thì bơi ra tít ngoài khơi. Khi cá đã lớn, miệng và lưng cá cong hơn, và màu vẩy cũng thay đổ: có con đổi từ màu trắng bạc sang màu nâu đỏ, có con từ màu xám bạc sang màu đỏ tươi. Cá trống và cá mái trưởng thành, theo đúng luật tạo hóa, phối hợp với nhau và thụ thai. Khi mang thai, cá hồi không chịu sinh sản ngoài biển tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, tức là miền nước ngọt khi xưa để đẻ trứng và sau đó để nhắm mắt từ trần.

Giống cá hồi thực là siêu việt. Không ai có thể cắt nghĩa được là do đông lực nào cá hồi phải trở về vùng quê hương nước ngọt để sinh con đẻ cái và để chết. Người ta cũng không cắt nghĩa được là tại sao cá có thể bơi về đúng đường, không hề bị lạc giữa đại dương mênh mông. Ôi, những con cá hồi nặng tình quê hương và biết bảo tồn nòi giống. đáng khâm phục biết chừng nào !.

Cá hồi có tên Mỹ, là Salmon. Tên này phát xuất từ chữ Latin “Salmo”, có nghĩa là “nhẩy”. Trên đường tìm về cố hương, cá phải bơi ngược dòng, thực là muôn vàn khó khặn. Khi gặp các ghềnh thác, nước chảy cuồn cuộn, sức cá yếu đuối lại thêm bụng mang dạ chửa, cá bị cuốn xuôi dòng. Nhưng cá không chịu bỏ cuộc, mà lấy sức bơi trở lại. Khi gặp các chướng ngại vật như thân cây, tảng đá chặn đường, cá phải nhẩy qua. Nều nhảy hụt, thì rơi lại xuống nước, và bị dòng nước cuốn ngược chiều. Nếu không may, sức nhảy yếu, không qua nổi phía bên kia, mà lại rơi ngay trên mặt tảng đá, hay thân cây, khô cạn, thì cá hồi cam tâm nằm chờ chết. Cuộc chiến đấu để trở về nơi sinh quán của cá hồi cũng gian khổ và hy sinh chẳng kém gì những cuộc đấu tranh cho quê hương tự do của con nguời.

Người Việt Nam đặt tên cho những con cá này là “cá hồi”, nghĩa là hồi hương, tìm về sinh quán trong những giai đoạn quan trong của cuộc đời: sinh sản và lìa đời.

Đoạn kết của bài viết này, người ta đã ví những người Việt tỵ nạn CS giống như những con cá hồi. Bỏ nước ra đi để tìm xứ tự do, nhưng trong tim luôn luôn ấp ủ một hoài bão là sẽ có ngày trở về quê hương, giống như những con cá hồi, sẽ chiến đấu, quyết tâm và bền bỉ bơi ngược dòng, để tìm về vùng nước ngọt nơi đã được sinh ra.

30 năm về trước, những sự so sánh này thực cảm động và nhiều ý nghĩa. Ngày đó, người tỵ nạn mới dời bỏ quê hương còn mang nặng trong tim nỗi nhớ nhà, còn chất ngất trong trí những hình ảnh dã man tàn ác của chế độ CS. Ngày đó, cuộc sống mới hội nhập còn nhiều khó khăn, tài chính eo hẹp, ngôn ngữ bất đồng, công ăn việc làm trắc trở. Ngày đó, trước hiện tại khó khăn, và tương lai bấp bênh, mù mịt, mọi người đều oán hận CS và mong mỏi sớm được trở về quê nhà. Người ta đoàn kết với nhau hơn, người ta chống Cộng quyết liệt hơn, và chịu đựng hy sinh cho chính nghĩa nhiều hơn.

Nhưng 30 năm sau thì lại khác, thời gian đã soi mòn nghĩa khí đấu tranh của nhiều người. Có người viện cớ tuổi tác, thời thế, hoàn cảnh để an tâm buông xuôi theo dòng đời nơi xứ tạm dung. Có nhiều người ăn nên, làm ra, đem tiền bạc về VN phô trương và dấn thân trong các cuộc tình mua bán, thiếu luân lý. Có người ty tiện, ham hố miếng đỉnh chung, cam tâm làm tôi tớ cho kẻ thù, quên hết hai chữ liêm sỉ. Tệ hại nhất là những kẻ mượn danh chống Cộng, quyên góp tiền bạc của đồng bào hải ngoại, nhưng lại đi cửa sau, bắt tay với VC ở Ba Lan, Tiệp Khắc để qua mặt đồng bào. Cũng có những người làm công tác nhân đạo, nhưng lại đem tiền quyên góp của hải ngoại về dâng nộp cho hôi thương binh, liệt sĩ của VC để lãnh bằng khen.

30 năm trời, không phải chỉ có người Việt ở hải ngoại mới biến thái, mà nhà cầm quyền CS cũng biến thái. Các nhân vật dép râu, nón cối, xác xơ ngày nào, nay đã trở thành những đại gia tư bản đỏ, xe ngưạ xênh xang. Các giai cấp bần cố nông và thợ thuyền đã từng hy sinh và chống đỡ cho chế độ trong thời kỳ khó khăn thì nay đã đi vào quên lãng. Đám dân tỵ nạn, vượt biên khi xưa, từng bị chế độ xỉ nhục là “ngụy quân, ngụy quyền”, đã ra lệnh cho đám công an biên phòng xả súng bắn không nương tay, thì nay lại đươc chế độ môi mép nịnh bợ. Các lời nói hoa mỹ “khúc ruột xa ngàn dậm”, những nghị quyết 36, luật cho vào quốc tich, cho mua nhà được đưa ra để làm mồi nhử, mua chuộc. những kẻ ham hố, nhẹ dạ.

30 năm qua, cá hồi không hề thay đổi. Vẫn miệt mài bơi ngược dòng tìm về vùng nước ngọt, nơi chôn nhau cắt rốn, để sanh con đẻ cái, và để chết. Cá hồi chiến đấu bền bỉ và can trường như những dũng sĩ tả xung hữu đột để về nguồn. Tiếc thay, nhiều người tỵ nạn ngày hôm nay không còn xứng đáng được ví với cá hồi nữa. Thời gian làm họ quên đi những ô nhục khi xưa. Bả lợi danh đã làm họ mờ mắt, quên hết liêm sỉ, và miếng đỉnh chung khiến họ cam tâm lường gạt ngay cả đồng bào hải ngoại.

Xin đừng so sánh đám người tỵ nạn biến thái này với cá hồi nữa.! Sự so sánh không cân xứng chỉ làm hạ thể và đem nhục nhã cho cá hồi mà thôi !

Đan Tâm