Thursday, June 4, 2009

Người Việt Hải Ngoại Nên Xử Dụng Việt Ngữ Như Thế Nào? - Tịnh Đức Nguyễn Thế Thuận

Tịnh Đức
Nguyễn Thế Thuận

Từ ngày việc bảo vệ Miền Nam Việt Nam bị thất bại, quân dân Việt Nam phải lưu lạc xứ người khiến Chữ Quốc Ngữ rất được mọi người lưu ý bậc nhất.

Nhắc lại những ngày xa xưa, Chữ Quốc Ngữ hình thành do nhu cầu truyền giáo của các Giáo Sĩ Thiên Chúa Giáo đến giảng dậy cho dân chúng, vì từ thượng cổ cho đến bấy giờ, nền văn hóa Việt Nam vẫn bị bỏ ngỏ về văn tự; văn hóa, văn tự Trung Hoa vẫn ngự trị từ miếu đường trở ra, nên văn hóa dân gian chỉ còn một con đường truyền khẩu. Thi, thơ là các thể văn có vần có điệu, có âm, có khúc rất hợp với sự truyền khẩu vì dễ nhớ, dễ thuộc. Nền văn hóa của Việt Nam tuy thiếu Văn Tự vẫn không do vì sự què quặt, nhưng quả là một sự bỏ ngỏ để có được một sự bù đắp về sau. Các Giáo Sĩ đến nước Nam đều là các nhà ngôn ngữ học sâu sắc, nên các Ngài còn gọi đó là món quà đặc biệt chỉ tặng riêng cho dân tộc Việt Nam, chỉ vì theo ý kiến của các Ngài, nếu thứ chữ của các Ngài chế ra và được dùng trên đất nước Việt Nam thì, trước hết, Việt Nam được lợi là tháo gỡ được ảnh hưởng Trung Hoa trên nền Văn Hóa Việt và tháo gỡ được nô lệ văn hóa là tháo gỡ hết mọi xiềng xích khác. Họ là những nhà Văn Hiến. Họ đi đến đâu, họ cũng xin làm con dân của địa phương đó mà không có ai có thể nghi ngờ được.

Làm sao các Ngài có thể quả quyết như thế? Xin thưa, sự thiếu vắng Văn Tự không phải là chuyện hiếm hoi trên thế giới. Ngay từ thế kỷ thứ tư, các nhà truyền giáo của Thiên Chúa Giáo đã thực hiện công trình này rồi. Từ Ulifas đến Đắc Lộ là một con đường phải đi của Giáo Hội này: Họ đi đến đâu thì chỉ là để đóng góp vào các nền văn hóa của mọi dân nước đến toàn hảo. Họ lập lại nền văn hóa của địa phương ấy thêm vững chắc để mọi người có thể phát triển. Mọi tôn giáo khác cũng nhờ vào các môn học như thế để còn có thể tồn tại. Những Thánh ngữ như chữ Phạn (Sancrit hay Pali) dùng cho Ấn Giáo và Phật Giáo cũng phải La Tinh Hóa thì thiên hạ mới đọc nổi. Mật Tông Tây Tạng, Tứ Thư Ngũ Kinh hay Đạo Đức Kinh cũng phải La Tinh Hóa thì mọi người mới có thể đọc và hiểu. Ngay cả Thánh Kinh Do Thái và Hy Lạp hoặc Aram cũng phải La Tinh Hóa để mọi người cùng đọc. Đây chính là phép lạ Ngũ Tuần, cách đây hơn hai ngàn năm. Các nhà Truyền Giáo, kể từ Phêrô, khi rao giảng thì mọi người đều được nghe bằng tiếng nước mình. Không ai có thể thực hiện được điều này. Không Đạo Giáo nào có thể làm được việc này.

Trở lại trường hợp ở nước Nam, mãi đến khi Vị Giáo Sĩ gặp Ông Trương Vĩnh Ký, giấc mơ của các Ngài mới thành tựu. Đến đây, chúng tôi xin được mở một dấu ngoặc để được ca tụng những nhà Văn Hiến Ngoại Quốc này đã làm một điều thật ích quốc lợi dân và công ơn của các vị xứng đáng so sánh với ơn đức Hùng Vương. Đây là một sự so sánh chưa từng được đưa ra ánh sáng của lịch sử, có thể làm vài người có thể không hài lòng lắm, nhưng chính là một thực tế và cũng có thể là một nguyên nhân để khôi phục nước nhà, vì văn hóa và chỉ có văn hóa mới cứu rỗi Việt Nam trong các trường hợp nan giải như hiện nay.

Hai Cột Trụ Văn Hóa Quốc Học Việt Nam

Cũng như Thiên Chúa Giáo có Phêrô và Phaolô là hai cột trụ xây dựng Giáo Hội, thì nền Văn Hóa Việt Nam cũng có Phêrô và Phaolô làm nền tảng cho nền Quốc Học; đó là Petrus Ký và Paulus Của: Phêrô Trương Vĩnh Ký và Phaolô Huỳnh Tịnh Của. Ôi, đó không phải là một phép lạ sao? Đó không phải là hai bông hoa nở thắm trong nền Quốc Học Việt đó sao? Đó không phải là quà tặng của Đức Jesus đó sao, do việc Ngài sai các đệ tử của Ngài đến với dân Việt nghèo khó đó ư? Ngày nay chúng ta có đến ba vị Học Tổ (Tam Vị Nam Giao Học Tổ) đó là các Đức Hùng Vương mở nước với chữ Khải, Sĩ Nhiếp cai trị và truyền đạt văn hóa Trung Nguyên với các phiên âm Việt để dân chúng ta có thể hiểu và vị thứ ba là Các Giáo Sĩ Truyền Đạo Thiên Chúa mà Cố Đắc Lộ là Đại Diện với thứ chữ mà chúng ta gọi là Chữ Quốc Ngữ hiện tại đang được dùng. Chính thứ chữ này, thực dân đã xử dụng đầu tiên để dùng nó như là thứ khí giới cai trị dân ta. Ông Phêrô Trương Vĩnh Ký lại xung phong để hoàn chỉnh thứ chữ này, để dân ta có một thứ khí giới lợi hại. Chúng ta hãy làm một cuộc so sánh nhỏ nhỏ sau đây để chúng ta có thể hiểu được thứ chữ này lợi hại như thế nào? Khi Ông Trương lợi dụng việc mở trường Thông Ngôn để có thể phổ biến thứ chữ này, trong đó có hai người học trò xuất sắc, Tôn Thọ Tường và Huỳnh Tịnh Của. Tư cách của Tôn Thọ Tường như thế nào thì ngày nay chúng ta đều biết hết cả rồi. Ông này vì lương tâm trách cứ đã phân phô tấm lòng trong bài Tôn Phu Nhân Quy Thục; nhưng ông Tôn đã bị Ông Phan Văn Trị lột mặt nạ như thế nào rồi:

Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng. (Tôn)
Vs
Anh hỡi Tôn Quyền, anh có biết:
Trai ngay thờ Chúa, Gái thờ chồng. (Phan)

Còn Ông Huỳnh đã được đặt thêm cho Thánh Hiệu Paulus. Phaolô Huỳnh Tịnh Của đã xiết chặt tay với thầy mình là Phêrô Trương Vĩnh Ký cùng nhau xây dựng Quốc Học Việt. Các Ông đã đi vào thiên thu, những công lao vun trồng của các vị anh hùng văn hiến vẫn còn đó với lời dặn các con trước khi qua đời một cách hùng dũng: "Các con không được nhập quốc tịch Tây". Như thế, nhờ công lao xây dựng nền Quốc Học của các Giáo Sĩ và được Petrus Ký với Paulus Của vun trồng, nền học vụ này trở thành Quốc Học không ai có thể cãi chối được nữa, và được mệnh danh là Chữ Quốc Ngữ. Trận Trác Lộc giữa Hiên Viên và Xi Vưu xưa kia đươc ghi trong Dịch Kinh đã được ngã ngũ: Văn Lang, Lạc Việt, Việt Nam là một nước độc lập với Tàu, với Tây. Cơ đồ của Âu Cơ, Lạc Long trở lại nguyên vẹn; cho dù có việïc dâng đất, dâng biển của Việt Cộng cho Trung Cộng, thì đó cũng là việc nội bộ của hai đảng Cộng Sản họ, chứ một nước Việt Nam toàn vẹn không việc gì. Chữ Quốc Ngữ và âm từ Việt của một số dân không kịp di chuyển trong vùng chiếm đóng của Bắc Phương sẽ là những chứng tích rõ rệt nhất để phân định ranh giới Việt-Hoa trong tương lai gần đây, khi Cộng Sản không còn cai trị trên sơn hà Việt Nam nữa.

O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội nón, Ơ thì thêm râu.
O, a hai chữ khác nhau
Vì a có cái móc câu bên mình
Chữ U cũng khác chữ Ư
Vì Ư cũng có sợi râu trên cành

Hay các chú bé nhà quê chăn trâu cũng còn nhại lại vài chữ cho vui:

A, b, c dắt dê đi … ngủ
Ơ, ô, o dắt bò đi ... ăn

Đó là Tam Tự Kinh mới của các em.

Sách Quốc Ngữ
Chữ Nước ta
Con cái nhà
Đều phải học.

Học để làm gì? Học để có thứ khí giới Văn Hóa vô địch: Khí giới tinh thần.

Chữ Quốc Ngữ mới đã đi vào văn chương Việt Nam thật êm dịu, thật nên thơ.

Thế mà ngày nay, tại hải ngoại, có nhóm Giao Điểm đã ra một quyển sách cũng khá đồ sộ lại kết tội Ông Trương, Ông Huỳnh theo Tây. Nếu bản Điều Trần của Nhà Ái Quốc Nguyễn Trường Tộ được nối dài, chúng tôi xin liệt kê thêm một số tên trong bọn Giao Điểm này để trình Bề Trên (nay là quốc dân đồng bào) bên dưới 10 tên quan lại nịnh bợ, độc ác, tham tàn, nhũng lạm. Tuy những người Giao Điểm kia cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng người quân tử tiến thoái đều mực thước, nên cần phải nói một điều nếu nhóm Giao Điểm có tài thì thì hơn hai mươi thế kỷ qua họ cũng đã thực hiện được kiểu chữ viết nào đó để phục vụ Dân Việt chứ. Ở thời Bắc thuộc, các vị ấy gặp Tàu thì liền ra mặt khúm na khúm núm (Lê Đạo Sinh(?) là đại diện), sang thời Tây thuộc hành vi các vị ấy cũng vẫn như trước; nịnh bợ cho vinh thân phì gia (Tôn Thọ Tường, Nguyễn Thân là đại diện); rồi kịp sang thời Mỹ Ngụy, các vị ấy lại càng thêm bản lãnh Hậu Hắc công phu; OK, Salem để kiếm miếng đỉnh chung (Đỗ Mậu là đại diện). Ở Hải Ngoại này thì chẳng còn ai nữa, vì tự do tuyệt đối, nên các vị ấy không còn chiêu dụ được ai nữa; nếu quý vị còn chút liêm sỉ trong đầu óc, quý vị phải rút lại quyển sách mạ lỵ Ông Trương Vĩnh Ký của quý vị lại. Ồ, quý vị lại dở trò như cuối năm 1963, quý vị lại chia rẽ lương giáo nữa rồi. Bây giờ thì mọi người đều nghe biết đến những Hồng Quang, Trần Quang Thuận, Phạm Kim Thư, Vũ Ngự Chiêu, trong cả các lãnh đạo ký danh (maybe) như là Hồng Xuân Hiến và Nguyễn Duệ Chi. Ở xứ văn minh tuyệt đỉnh này, ở xứ mà mọi người đều được đi học để hiểu rõ các trò “ma nớp”, thì âm mưu của quý vị kể là hỏng. Đối với Cộng Sản cầm quyền hiện nay tại quê nhà, quý vị cũng vẫn không thay đổi tác phong; Cộng Sản không giống như các thực dân Tàu, Tây xưa kia: Cộng Sản không phải là một chủ nghĩa nhân bản như thực dân xưa; Cộng Sản là vô thần, Cộng Sản không để quý vị lợi dụng đâu, mà ngược lại quý vị lại phải làm việc cho Cộng Sản là gây thêm chia rẽ trong hàng ngũ các người quốc gia còn mơ vọng Cố Quốc.

Trong thời kỳ dân tộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Cộng Sản và chỉ có Cộng Sản mở các lớp Bình Dân Học Vụ để làm chiêu bài bình phong cho Đảng cho khỏi lòi sừng ra. Nhưng dầu sao cũng là một công lớn về mặt văn học. Trên những con đường vào làng hay ra khỏi làng, đều có một số cán bộ đứng với các tấm bảng viết chữ, có chữ viết trên ấy. Ai mà đọc được thì mới được đi qua. Số người “mù chữ” giảm hẳn. Mẹ tôi nhờ đó mà cũng ê a đọc được các mặt báo. Sau này trong Nam, chính quyền Cụ Diệm cũng có các chương chính “Chống Nạn Mù Chữ” như thế ở khắp nơi. Có công thì được thưởng: Cụ Diệm giữ vững Miền Nam, rồi sau khi họ giết Cụ thì Cộng Sản đã nuốt được cả Sơn Hà nước Nam. Cộng Sản vẫn còn dùng thứ chữ kia, nó cũng là biến hóa của Chữ Quốc Ngữ mà Trương Vĩnh Ký đã cố công nhào nặn xưa kia và hằng năm (?) Cộng Sản vẫn tổ chức Tế vị Tân Nam Giao Học Tổ Đắc Lộ.

Nghĩa chữ của Cộng Sản Miền Bắc đã khác hẳn nghĩa chữ của dân Miền Nam. Ngày xưa, chúng tôi sinh trưởng ở Miền Bắc, cũng vì chữ nghĩa kiểu mới này đầy sắt máu, thù hận, đầy hiếu chiến, đạp đổ, nên chúng tôi phải chạy vào Miền Nam. Ôi, chữ nghĩa Miền Nam hiền lành làm sao. Chúng tôi, gần triệu người Miền Bắc, tỵ nạn vào Nam để cùng với mấy mươi triệu người Miền Nam cùng với Tống Thống họ Ngô để cùng chống giữ và mong có cơ hội Bắc Tiến. Nhưng có vài nhóm người đã thông mưu và lợi dụng lẫn nhau để hạ bệ, rồi giết Tổng Thống họ Ngô, không những đã làm chúng tôi tan hy vọng trở về đất cũ mà còn đưa cả vận mệnh dân tộc vào một cuộc phiêu lưu vong mệnh, vong thân tại một nơi phi xứ. Anh Hùng của Việt Nam mỗi thời mỗi có, nhưng mỗi lúc mỗi có thì không thể có được. Người tài thì Việt Nam có hằng hà sa số, nhưng anh hùng thì phải đếm bằng thế kỷ. Ôi, Chàng thanh niên Petrus Trương Vĩnh Ký ngày xưa được Cụ Phan Thanh Giản chứng minh và Chàng thanh niên họ Ngô được Cụ Phan Bội Châu ân cần giới thiệu. Thế mà cả hai chàng này đều bị một lớp người (nhóm Giao Điểm là thế hệ thứ hai, thứ ba gì đó của lớp người đó) đem công nghiệp của họ ra bôi lọ. Đó có phải là một tai họa của Việt Nam? Đó có phải là điều sỉ nhục cho Việt Nam? Đó có phải là sự thử thách cho Việt Nam? Chúng ta có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ các tâm sự đó, thì tương lai mới sáng sủa được vậy.

Sau 30 năm, chúng ta có dịp xem xét lại chữ nghĩa Việt Cộng dùng và mục đích của họ. Mục đích của họ thật dễ hiểu: ru ngủ với nhiều chiêu bài Văn Hóa, dùng Văn Hóa để cai trị, dùng Văn Hóa để kết hợp Dân Tộc, rồi đồng hóa Đảng với Dân Tộc. Họ xử dụng chữ nghĩa với mục tiêu “tình báo chiến lược” mà thôi. Cộng Sản phải làm như vậy là tại vì Chủ thuyết Cộng Sản là một chủ thuyết ngoại lai mà họ áp đặt lên toàn dân tộc Việt từ 50 năm qua: Họ là những kẻ xâm lăng. Họ cũng là người Việt, nên họ lại có thêm tội “cõng rắn cắn gà nhà” nữa. Chủ thuyết này cũng đến hết thời của họ thôi, chứ họ cũng chẳng truyền cho con cái họ được đâu, vì chúng nó có biết gì về Cộng Sản đâu; hơn nữa, chính họ cũng chẳng biết Cộng Sản là gì nốt. Họ tồn tại cũng chỉ vì cái vỏ Văn Hóa mà họ dùng, nếu chúng ta lột cái vỏ Văn Hóa này đi, thì họ sẽ tan biến đi vào hư vô ngay.

Chữ nghĩa của người Cộng Sản dùng thì có chính sách rõ ràng. Chúng ta hãy kiên nhẫn để đi vào vùng chiến tuyến này. Việt Cộng dùng rất nhiều từ ngữ ... rất mới, đối với chúng ta, nhưng lại rất cổ lỗ trong văn học, là những chữ mà chúng ta vì tiến hóa phải bỏ đi không dùng lại nữa; do đó chúng ta nghe rất chói tai. Như chúng tôi đã từng phát biểu Việt Cộng kéo đất nước chúng ta lui lại cả trăm năm, thật không ngoa chút nào. Nhưng kể ra thì họ phải làm như vậy mà thôi không còn cách nào khác nữa. Đó là một trong những mầm mống để họ tự tan rã.

Không phải là mọi người sống trong cái xã hội Cộng Sản không có nhân tài, nhưng các nhân tài bị mai một, không có đất dụng võ, không có môi trường hoạt động, không có nhiều thứ kể cả thứ mà không có thì không có tất cả: không có tự do. Không có tự do thì không thể nào phát triển được, mà chỉ có giết chóc, có nghĩa là suy thoái. Chúng ta sống trong chế độ tự do, chúng ta cũng đã nhìn thấy nhiều nhiều u ám trong sự đối xử giữa đồng loại, huống chi là trong các chính thể độc tài đảng trị. Họ dùng đảng để bao bọc che chở lấy họ. Họ dùng đảng là chỗ để tạo quyền lực, họ dùng đảng để vinh thân phì gia. Họ đả phá gia đình người khác, nhưng lại củng cố gia đình họ. Họ một hai là đòi làm nghĩa vụ quốc tế, có nghĩa là vô tổ quốc; nhưng mục đích của họ lại là tổ quốc của kẻ khác để cướp lấy với các chiêu bài tổ quốc. Họ ngăn cản tôn giáo tín ngưỡng, nhưng họ lại củng cố Cộng Sản đạo của họ, là một thứ đạo giết chóc, bóc lột. Những điều này trở thành những đối tượng chữ nghĩa của Cộng Sản.

Chúng ta nên lược lại chính sách văn hóa hay nên biết qua vài nguyên tắc chỉ đạo trong văn hóa của Việt Cộng. Chúng tôi chỉ xin ghi lại các niên biểu:

1930: Lúc Đảng Cộng Sản Đông Dương còn đang bị Pháp đặt ngoài vòng Pháp Luật, có hai nhóm văn nghệ sĩ đã mở một trận bút chiến. Nhóm Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật và nhóm Hải Triều, Hải Thanh, Trần Huy Liệu có khuynh hướng Mác xít trong tờ Tiến Hóa, Tiến Bộ, Hồn Trẻ.

1943: Nhóm Mác xít trên đã thực thi hướng tiến trong văn học với ba tiêu chuẩn: dân tộc, khoa học và đại chúng.

1946: Tháng 11, trước Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc, Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc hướng nền văn học vào chủ đề: “Tự Do, Độc Lập.”

1947: Ông Hồ gửi thư cho các văn nghệ sĩ miền Nam rằng: “Ngòi bút của các bạn cũng là võ khí sắc bén.”

“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”

1948: Tháng 7, Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc lần Hai họp tại Việt Bắc. Ông Trường Chinh đọc bản thuyết trình “Chủ Nghĩa Mác và Văn Hóa Việt Nam” trước Hội Nghị. Đại Hội này đúc kết một văn bản phản ảnh lập trường văn hóa văn học của đảng Cộng Sản Đông Dương như sau:

“Về xã hội lấy giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm gốc.
Về chính trị lấy chủ nghĩa dân chủ mới và chủ nghĩa xã hội làm gốc.
Về tư tưởng lấy thuyết duy vật biện chứng và thuyết duy vật lịch sử làm gốc.
Về sáng tác văn nghệ lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc.”

1949: Tháng 9, Hội Văn Nghệ Việt Nam được thành lập, mở đại hội một, nhà thơ Tố Hữu, đứng làm chủ hội, hướng dẫn văn nghệ sĩ xây dựng nền văn nghệ nhân dân, kêu gọi văn nghệ sĩ ra sức cải tạo tư tưởng.


1954: Phong trào di cư vào Nam do Cụ Ngô xướng xuất, gần một triệu đồng bào từ bỏ miền Bắc vào lánh nạn. Đa số các nhà văn đều ở lại miền Bắc.


1956: Đàn áp nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Trường Chinh kết án Nhóm Nhân Văn: Hành động phá hoại về mặt tư tưởng, nghệ thuật và dần dần đi đến phá hoại về mặt chính trị.” Có nhiều nhà văn bị cầm tù sau vụ này.


1957: Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc họp lần hai, lấy phương châm: Hiện thực xã hội chủ nghĩa làm phương pháp sáng tác. Trung Ương đảng kêu gọi giới văn học nghệ thuật ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập đường lối chính sách của đảng và chính phủ.”


1960: Đại Hội đảng lần ba ra nghị quyết về văn học nghệ thuật: “Phát triển nền văn học với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc.”


1962: Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc họp lần ba, Trường Chinh lại đọc tham luận hướng dẫn đại hội: “Tác phẩm có tính đảng là tác phẩm có đầy đủ tính chiến đấu, thể hiện hồn nhiên thái độ yêu ghét, xây dựng đả phá một cách đúng đắn và rõ ràng. Tác phẩm có tính đảng là tác phẩm có nghệ thuật cao, nó tiêu biểu cho giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất kế thừa toàn bộ truyền thống tốt đẹp trong lịch sử và đứng ở đỉnh cao nhất của trí tuệ loài người mà phát minh khoa học và sáng tạo nghệ thuật.”


1968: Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc họp lần thứ tư, Trung Ương đảng gửi thư cho Đại Hội: “Văn nghệ ta phải có nội dung xã hội chủ nghĩa trong sáng và đậm đà chất dân tộc. Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là những đề tài cao đẹp nhất của văn học nghệ thuật nước ta lúc này. Các đồng chí hãy mang tất cả nhiệt tình và quyết tâm của nghệ sĩ cách mạng sống say mê, sống lâu dài ở cơ sở, chan hòa với quần chúng nhân dân đang sản xuất và chiến đấu, coi đó là yêu cầu quan trọng bậc nhất để sáng tác nghệ thuật.”


Chúng tôi chỉ có biết đến đây, quý vị biết hơn hãy điền thêm vào. Như thế chúng ta đã biết qua các lối tuyên truyền cho người không trong hàng ngũ họ và truyền lệnh cho mọi người đang dưới tay họ. Cụ Ngô tại chức được 9 năm đủ để chứng tỏ miền Nam có tự do đầy đủ, đủ tự do để để làm gì tùy ý, đủ tự do để viết lách, đủ tự do để suy nghĩ, đủ tự do để chửi bới, vu khống và nhất là đủ tự do để giết Cụ. Thế mà ngày hôm nay, chính ngày hôm nay nhiều người cầm bút ở hải ngoại - là nơi mà Việt Cộng có đến cũng phải khúm na, khúm núm; nếu họ phạm pháp kiểu tùy tiện như ở nơi họ đang chiếm đóng, thì họ sẽ bị tống cổ ra khỏi biên giới ngay lập tức - lại cong lưng lại trước các bóng ma Việt Cộng. Việt Cộng ở đây, Việt Cộng ở đó làm người ta chạy bên Đông, rồi chạy bên Tây. Chạy đôn chạy đáo, đụng nhau tùm lum, rồi gấu ó nhau um sùm. Thế là Việt Cộng lại bên ngoài vỗ tay cười khoái trá. Việc gì vậy chứ? Chúng ta cần biết rằng chỉ có mỗi một chính thể có đại sứ, đại diện mà không dám đi thăm người đồng hương của mình, là chính quyền Việt Cộng đấy. Họ sợ cũng phải thôi. Nợ máu họ nợ chúng ta vẫn còn nóng hổi sờ sờ ra đó, nếu những thứ ấy mà thò mặt ra ngoài, rồi có người trông thấy, thì chắc chắn là cái mạng của thứ ấy phải “đi đoong” mà thôi. Vậy thì chúng ta phải sợ hãi gì chứ? Các giống ấy, chúng nó sợ chúng ta thì có. Quý vị nghe có được không?

Vậy, những chữ đó, những chữ mà chúng ta nghe chói tai đó là những chữ gì?

Chữ đầu tiên mà chúng ta nên nói đến là chữ “sự cố”. Chữ này thực ra có tác hại rất lớn, nó đâm thẳng vào óc qua lỗ tai của chúng ta. Chúng ta phân biệt các quý vị mới qua sau bằng cách dùng chữ này. Chữ “sự cố” là xếp đảo ngược lại chữ “cố sự”. Chữ “cố sự” nghe êm đềm biết làm sao? Âm vang của chữ “sự cố” như là tiếng đạn AK nổ, đủ làm cho chúng ta cảm nhận Việt Cộng đang ở quanh đây. Chữ này quả thực cũng đồng nghĩa với các chữ, như sự việc, sự kiện, sự vụ, sự thể. Ta có chữ như vậy, tại sao không dùng mà lại dùng chữ của bọn mọi rợ, cướp của giết người như dã thú. Chữ “sự cố” cũng đã được chúng ta xử dụng ít nhất là 50 năm về trước mà dân miền Nam chúng ta đã bỏ vì không hợp với âm vang đặc biệt của thơ. Ví dụ như thế này:

“Những “sự cố” đã ghi trong lịch sử ...

hay là:

“Những “cố sự” đã ghi trong chính sử ...

Câu nào nghe êm ái hơn, câu nào có hồn thơ hơn? Chúng ta có hẳn một lối viết văn “Cố Sự”, nhưng làm gì có văn bản “sự cố”. Có phải vậy không?

Như thế chúng ta có quyền nghĩ rằng Việt Cộng xử dụng những âm từ như thế để tẩy não mọi người, Việt Cộng không nghĩ họ có thể làm điều ấy với chúng ta, người yêu chuộng tự do, nhưng quả đã có nhiều con người, vô tình hay hữu ý, tự tẩy não hay do mua chuộc, mà cũng có thể do bị điều khiển, dật dây (manipulated) bởi bóng ma.

Chữ thứ hai cần được nói đến là chữ “tham quan”. Tham quan là một cụm từ để chỉ vào những nhân vật thừa hành quyền chính mà nhiễu lạm dân chúng, ăn cướp của chung, công quỹ. Thí dụ chúng ta nói “tên tham quan Tô Định”, tên quyền thần tham tàn “Trương Phúc Loan”, những tên tham quan tham tàn đời này là Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh ... thế nên, họ xử dụng chữ tham quan với ý nghĩa khác, tẩy não mọi người là Nước Việt Nam không có tham quan, chỉ có tham quan lăng Hồ mà thôi. Quý Vị nghĩ sao? Bây giờ chữ “tham quan” đã đang trở lại đúng nghĩa như nó là vì nạn “Tham Nhũng”. Tội “Tham Nhũng” là do các “Tham Quan” thực hiện mới đúng, chứ người ta đi xem cảnh đẹp thiên nhiên, thì lại bị ghép vào tội “tham quan” thì thật là bỉ ổi và trơ trẽn.

Đương nhiên là rất nhiều chữ và nghĩa của Việt Cộng cần được mang mổ xẻ, nên chúng ta cũng chỉ nên dành vài chữ nghĩa kiểu mẫu thôi. Vậy có thêm mấy chữ nữa cho có đủ bằng chứng: “công nghệ”“công nghiệp”. Những chữ này được dùng thì quả tình là hiếp dâm ngôn ngữ. Việt Cộng không thể làm thế này được. Thí dụ đám Việt Cộng ca tụng Cáo Hồ: “Sự nghiệp vĩ đại của Bác ...” hay cũng có thể ca tụng rằng: “Công nghiệp vĩ đại của Bác ...” Công nghệ thì chúng ta dùng trong khóm từ “Tiểu Công Nghệ” chỉ về những công việc có tính cách làm bằng tay chân, còn kỹ nghệ hay Đại Kỹ Nghệ là nhóm chữ dùng để chỉ các công việc được làm với máy móc (cơ khí.) Còn chữ “công nghiệp” mà Việt Cộng dùng không thể tương đương với chữ “kỹ thuật” mà người yêu mến tự do chúng ta đã dùng khi xưa. Chúng tôi cũng nhận ra trong các đài phát thanh về Việt Nam thỉnh thoảng các xướng ngôn viên cũng dùng chữ “kỹ thuật” thay vì chữ "công nghiệp", thì chúng tôi hiểu ra rằng họ bị bắt buộc phải xử dụng những chữ nghĩa ấy mà thôi. Chúng tôi xin đưa ra thêm một câu: “Vì Công Nghiệp của Chúa GiêSu …” Hay “Vì Công Nghiệp của Đức Phật và các Bồ Tát ...” Chẳng lẽ chúng ta lại dịch ra “Vì kỹ thuật của ...” Như vậy chữ “công nghiệp, công nghệ” của Việt Cộng quả tình rất có khác với chữ “kỹ nghệ, kỹ thuật” của Việt Nam Tự Do đã dùng lúc trước, và chúng ta vẫn còn dùng hiện nay tại Hải Ngoại.

Chỉ mấy chữ đó thôi như đã đưa đất nước chúng ta ngược dòng lịch sử cả trăm năm; như vậy thì đất nước chúng ta làm sao mà khá lên được? Dân tộc chúng ta cũng rất thông minh, nhưng ngày nay bị đám đười ươi thành hình người kềm kẹp nên chỉ còn được thành tựu trong sự hưởng thụ một cách tha hóa, nghĩa là sống bằng các viện trợ.

Chúng tôi đã từng nghe trên các đài phát thanh, nhiều xướng ngôn viên xướng ngôn thật là vô trách nhiệm; cũng như trên các báo chí, nhiều cây bút cũng có những cử chỉ vô trách nhiệm như thế. Các người này xướng ngôn hoặc in ấn những chữ mà tôi vừa nêu ra (thật đặc biệt). Họ không biết rằng tất cả mọi người ở Việt Nam mong được nghe lại tất cả những tiếng Miền Nam trước kia và họ sẽ được an ủi, nhưng người ta không làm được như lòng mong muốn của họ: Họ vẫn còn ở trong tù. Chúng ta hãy vận động để các Đài VOA, BBC, RFI, Vatican, SBS hay mọi đài mà chúng tôi không kê ra đây, để họ xử dụng chữ nghĩa cho trung thực và họ sẽ thấy tiếng nói của họ có tác dụng mạnh hơn nữa trong công việc truyền tin tức để cải hóa Việt Nam. Nếu họ còn xử dụng chữ Việt Cộng bao lâu nữa, thì bấy lâu dân chúng Việt Nam vẫn “cầm bằng trong tù”. Hãy cho họ “bát cơm tươi” là giọng nói tươi vui chứ không phải các câu nói sắt thép của các xướng ngôn viên của các đài. Dân chúng Việt Nam, hôm nay, mong nghe những gì khác hơn những gì họ phải nghe hằng ngày.

Nếu người Việt tại Hải Ngoại ngày nào còn thiếu người làm văn hóa và văn hiến thì ngày đó Việt Cộng hãy còn ngự trị trên quê hương. Việt Cộng muốn mọi người không còn chút kỷ niệm nào nữa về Miền Nam Việt Nam. Việt Công có thể ác ý, nhưng chúng ta không thể vô ý. Việt Cộng có thể hữu ý, nhưng chúng ta không thể vô tình. Ta có thêm vào danh sách trên là:

1975: Nhóm Giao Điểm được thành lập tại Hải Ngoại. Đây có thể là hậu thân của nhóm Lửa Việt ở Miền Nam trước kia.

2001: Việt Cộng đưa ra Hải Ngoại 2 người (?) là Hoàng Văn Hiến và Nguyễn Duệ Chi để viết lại trang sử của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hải Ngoại. Bị nhiều chống đối khắp thế giới, đặc biệt là Nhà Văn Hóa Nguyễn Hữu Luyện tại Boston. Đám Việt Cộng đang cầu cứu với Đại Học University of Massachussette (Umass) để hóa giải vụ kiện. Bắt đầu, họ chịu bồi thường, nhưng Ông Luyện không chịu và đòi phải hủy bỏ công trình của cuộc nghiên cứu đó.

Trong mấy năm nay, ông Nguyễn hữu Luyện ở vùng Boston bị trầy vi tróc vẩy vì một vụ án văn học, theo chữ nghĩa mà chúng tôi vừa mới kể trên. Có bao nhiêu người theo dõi vụ án này? Vụ án này xảy ra vì ai vậy? Như vậy, chúng ta đang có một người làm văn hóa và văn hiến rồi. Chúng đưa Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Duệ Chi từ trong nước ra qua sự dàn xếp bôi bác bội bạc của “Tiến Sĩ Giấy” Nguyễn Bá Chung với một cơ quan giáo dục Umass, ở Boston. Cũng chỉ là tội của chúng ta không đề phòng đấy thôi. Nếu chúng ta sơ hở chỗ nào thì tự nhiên chúng ùa vào ngay. Bây giờ, chúng ta đang có một chỗ sơ hở rất lớn: đó là Văn Học và Nghệ Thuật. Đồng ý là Văn Nghệ, Báo Chí đôi khi cũng cần có bút chiến để hâm nóng bầu không khí, nhưng với tinh thần hòa hài để có thể đi đến chỗ giải quyết với nhau được. Bút chiến chỉ để mài ngọn bút mà thôi.

Còn nghệ thuật thì trống trải hoàn toàn. Các môn nghệ thuật sân khấu chưa có người ra lãnh trách nhiệm. Các ca sĩ hải ngoại này, nếu có được giọng thiên phú, thì làm tiền dễ dàng, nên bệnh ham danh lợi rất dễ dàng xâm nhập. Hầu hết đều không đi đến trường để học về môn nghệ thuật ca hát này, nên phải lo làm tiền cho nhanh để khỏi bị loại ra, trái với ca sĩ “văn công” là đã ra trường từ trường Quốc Gia Âm Nhạc (họ cho các người là không có tài đó.) Từ đó họ trở nên cục “đất” cho bọn hoạt đầu văn nghệ (bầu Show) bóp nặn. Chỗ hở là các vị “bầu Show” đó. Việt Cộng có thể “tặng” thêm ít “tiền cò” cho đẹp tiếng, thế rồi nay thì Ái Vân, kế tiếp là Bằng Kiều, rồi lại còn Đàm Vĩnh Hưng nữa, cả cải lương cũng có Bạch Tuyết, Út gì gì đó, sau khi đã tiếp đón Elvis Phương Hương Lan về nước để “ban phép” lành “khoan hồng” của “nhà nước” và “nhân dân.” Ngay cả các “phó thủ tướng” của chúng đi thăm viếng xã giao nước Mỹ, mà còn phải chạy bằng cửa hậu, thì bọn văn công ấy sang để làm gì? Bây giờ thì “văn công” sang Mỹ hát với Visa “du lịch”. Du lịch thì du lịch, chứ sao lại đi hát để làm tiền nữa. Thì ra là “Giao liu” của Việt Cộng. Các ca sĩ nhà ta có nghe không? Bà con ở Hải Ngoại đang bảo vệ cho các người đó. Việc này tạo nên kẻ bênh người chống, đến hay. Rồi thì biểu tình, rồi thì phát thanh, và Việt Cộng thì phì cười. Việt Cộng chỉ có biết xâm nhập bằng đường mòn mà thôi (nghề của chàng đó). Xâm nhập bằng cách tóm đầu các hoạt đầu văn nghệ là các bầu Show, các Trung Tâm băng nhạc, ca nhạc, vũ trường. Các anh, các cô, các con, các cháu ca sĩ ơi, các người hãy coi chừng, các người sẽ không còn được ca hát như là một nghề kiếm tiền tay trái nữa đâu, các người sẽ bị sa thải và các người sẽ phải vào các xí nghiệp mà làm ăn, nếu các người còn đứng chung với các “văn công” để ca hát, khi thời gian đầy đủ, các hoạt đầu đó không dùng các người nữa vì họ không cần các người nữa. Chúng tôi đề nghị: nếu phiên hát nào có các “văn công” đó cùng đến hát với các người, thì các người hãy trở về, đừng có hát với họ. Hiện tại các “văn công” ấy núp bóng các người để chờ cơ hội thò mặt ra, chứ nếu không có các người thì … không biết có ai đến xem không, như rất nhiều lần mấy ông “bầu Show” phải ra “xin phép” khán giả “cho phép” em này, em kia hát có được không, cho có vẻ lịch sự mà thôi, chứ họ có “xin phép” các người để cho “mấy văn công” kia đi hát chung với các người không? Như thế là một lũ choai choai có, băng đảng có, quân trốn chúa lộn chồng có, quân bán vợ đợ con cũng có, giới ăn chơi, hầu hết là thành phần bất hảo của xã hội - không cần biết ai ngoài kia giữ gìn an ninh cho họ, cho cộng đồng để cho họ vui chơi thoải mái - vỗ tay đồm độp “Yeah, Yeah”. Thế là các “văn công” ra hát hợp tình, hợp lý, hợp lệ (xin lỗi, đây chỉ nói trong hiện trường Casino làm chuẩn thôi) … Các người (ca sĩ lẫn các bầu Show còn lương tâm) hãy thành lập ngay nghiệp đoàn để tranh đấu vấn đề “sanh tử” cho các người, chúng tôi nghĩ bà con sẽ ủng hộ và tiếp tay với các người. Các người hãy có Luật Sư về vấn đề Entertainment để hiểu rõ ràng về quyền lợi của các người, về quyền của những kẻ “hát trộm”. Chúng tôi đã “báo” cho Phương Hồng Quế và Tú Trâm như thế tại New Orleans.

Chúng ta “bị” đưa sang Mỹ lập nghiệp(!) vì đời sống “bị” quá tốt đẹp, nên chúng ta và con cái chúng ta cũng “bị” thành công một cách vượt bậc (quantum leap.) Một cuộc sống như thế thì Việt Cộng làm sao nó không mơ ước chứ? Cuộc sống Miền Nam chúng ta ngày xưa, cũng đã thu hút được tham vọng của Việt Cộng rồi chứ nói làm gì đến cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay tại xứ sở này? Cách đây, gần 30 năm, chúng ta “bị” đưa đi “lưu đầy”, lúc đó ai ai cũng than thở mình là đám Do Thái lưu vong da vàng. “Người con gái Việt Nam da vàng” Trịnh Công Sơn ngu xuẩn đã hát như thế, nhưng không phải vậy, chúng ta “bị áp bức” để “bị” sống trong một xã hội đang “bị” tốt đẹp một cách quá sức tưởng tượng. Chúng ta và con cháu chúng ta “bị” thành công một cách vượt bực, nên làm sao không “bị” Việt Cộng theo dõi để mong có thể thu hồi dân tị nạn do chính sách của ho để moi tiền như họ đã làm cho đám dân chúng đi sản xuất lao động tai mọi nước khác trên thế giới. Họ có thể làm tại Nga, tại Ba Lan, và những nước thuộc Cộng Sản cũ, là những nước vẫn không có tự do đầy đủ. Họ vẫn bóc lột dân chúng ở đấy, bằng cách buôn đồ lậu và thuế (gì gì đó không ai để ý) như đã được báo cáo trên các đài phát thanh trên thế giới. Nhưng khi họ đến tô giới của Hoa Kỳ thôi, thì họ đã bị lột mặt nạ. Vụ án của Ông Đại Hàn Lee nào đó xảy ra để vỡ ra là nạn buôn người trầm trọng với những điều kiện lường gạt trắng trợn từ các cán bộ gộc Cộng Sản làm tiền các người dân yêu chuộng tự do. Những người dân đi làm nô lệ kiểu mới này ở Samoa là bằng chứng. Nhưng chính quyền Hoa Kỳ đã rất nhân đạo và đáp cứu những người này. Thế giới tự do và những người yêu mến tự do không để cho đám Việt Cộng tự tung tự tác.

Nhưng có nên đón tiếp các ca nhạc sĩ hay các sinh viên du học từ trong nước ra hay không? Xin thưa, nếu chúng ta có đường lối thì câu trả lời là có nên. Vậy làm sao để có đường lối? Thưa, đường lối là như thế này, Chế độ Cộng Sản hiện đã lỗi thời và chỉ có tư tưởng Quốc Gia mới tồn tại với thời gian, như Cụ Nguyễn Trãi đã bố cáo trong Bài Bình Ngô Đại Cáo vậy: Nước có lúc cường, lúc nhược, nhưng Anh Hùng đời nào cũng có. Lần này vì nước nhược nên ta phải bôn ba Hải Ngoại. Nên khi ta phải dùng chữ cho đúng là: “Vì việc Nước Nhà mà chúng ta phải bôn ba Hải Ngoại”. Đúng như lời hát của Nhạc Sĩ Phó Quốc Long(?) mà tôi đã nghe 50 năm về trước: “Hôm nay ta bơ vơ vì nghiệp Nước phải giang hồ” hay “Nay ta xa Kinh Đô, vì yêu Nước thương Quê Nhà, dù xa xôi vẫn nhớ ngày hồi hương ta vẫn mong chờ.”

Trong khi ta tìm người Anh Hùng thì ta phải làm việc sau đây: Khuyến khích các Sinh Viên Du Học đừng về nước nữa, vì hai lý do sau đây:

1. Ai cũng biết Mỹ luôn luôn đi nuôi chất xám để sau này làm việc cho họ.

2. Nếu các Sinh Viên Du Học thì Cộng Sản sẽ cạn dần cán bộ thông minh, mà chỉ toàn cán ngố thôi.

3.
Nếu các sinh viên du học, đặc biệt ở Mỹ, về nắm vận mệnh Đất Nước, thì Mỹ sẽ túm đầu các em, y như Nga túm đầu đám cán ở Bắc bộ, còn Mỹ cũng túm đầu đám công bộc ở Miền Nam ngày xưa kia vậy. Ta sợ gì Việt Cộng trên nước Mỹ đâu. 30 năm nay đã chứng tỏ điều ấy.

Vậy thì đối với các em du học sinh kia, chúng ta hãy dùm bọc họ để chỉ đường ngay, nẻo chính cho họ. Tương lai của Dân Tộc là của chung các người trẻ ở cả quốc nội lẫn Hải Ngoại. Như thế những bài học của chúng ta mà tổ tiên chúng ta đã phải đắn đo để dàn xếp một cuộc di tản vĩ đại 30/4/75 mới không có uổng. Còn về ca sĩ, thì có thể dễ hơn, vì họ về nước thì cũng chẳng còn sơ múi gì. Hỏi Ái Vân, Mỹ Linh, Bảo Yến, Bằng Kiều thì rõ. Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy và nhiều người khác về nước đã làm được việc gì hay chỉ làm tay sai hay làm những ống loa cho những người cầm quyền ngoan cố, tàn ác, đui mù kia mà thôi?

Còn không có ai lập được đường lối thì phải dừng lại, mà cũng đừng than trách chi cả. Lỗi ai? Lỗi tại ta. Lỗi ở ta mà thôi. Hãy lập ngay một “Bàn Giấy Chiêu Hồi” như chúng ta đã từng có khi trước kia.

Mọi người đều biết đến Thế Lữ, một nhà văn thơ tài tình của xã hội Việt Nam trong thập niên 1930. Thế Lữ và nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã làm mưa làm gió trên Văn Đàn Việt Nam trong sự phát triển của Chữ Quốc Ngữ. Văn mới, thơ mới tưởng chừng như đã đến tuyệt đỉnh của văn chương, văn hóa. Thế Lữ và Văn Đoàn trong khí thế tự do mặc tình thét to, kêu gào rồi kêu gọi làm cách mạng, làm lịch sử, kể cả đập phá, đả kích để kiến tạo một xã hội kiểu mới cho bằng được. Con đường cách mạng của họ tuy có hướng đi, tuy có sườn, có nền nhưng không thấy có mục tiêu, chủ đích, nên cuối cùng chỉ làm tiền hô cho một thực thể khác có thế lực thụ hưởng.

Thế Lữ với những vần thơ tuyệt tác, tưởng chừng đã thấm vào tận lòng người, đã vang dội và khiến đám thanh niên háo hức đi làm cách mạng. Nên Thế Lữ đãõ theo Việt Minh đi làm cách mạng. Riêng chúng tôi nghi rằng Ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chống lại Cụ Diệm, khiến ông phải tự vẫn trong tù chắc là do sự liên hệ với Thế Lữ xúi xiển, theo lệnh đảng, rồi chăng? Chỉ vài năm sau thôi sau khi phục vụ đảng hết khả năng say mê. Thế Lữ đã công khai “thú tội” trên báo đảng, tự xỉ vả mình và Tự Lực Văn Đoàn:

“Chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn không những không tiến bộ mà còn phản tiến bộ. Nó không có công mà còn có tội với nhân dân. Sau cách mạng tư sản, nhân dân càng bị áp bức và mê muội, Tự Lực Văn Đoàn đã tung ra khẩu hiệu “yêu đời,” “vui vẻ,” “trẻ trung” và nêu nhãn hiệu “cải cách” để lôi kéo từng lớp thanh niên vào con đường lãng mạn, buông thả tự do cá nhân, thoát ly đấu tranh, trốn tránh thực tế.

“Thơ, truyên ngắn, tiểu thuyết của tôi là thứ văn chương xa thực tế, đi từ mơ màng, huyền diệu đến chán nản, trụy lạc, từ mạo hiểm “trinh thám” đến những ái tình lãng mạn, ngược đời ... Bản thân tôi vì hư danh một thời, tự mình nhiễm nặng những bệnh tật gở lạ đến đỗi đồi bại mình gieo rắc ra xung quanh, tôi bị tù hãm bao lâu trong những sai lầm tự kiêu, tự mãn và hưởng lạc.”

Các nhà văn thơ khác cũng phải làm như thế để xuôi theo dòng đời. Thế Lữ cũng như các nhà văn đi theo Việt Minh đã cạn ngay nguồn sáng tác. Nếu theo dõi Hoàng Cầm, chúng ta sẽ thấy ngay những gì xảy ra trong giai đoạn này. Trịnh Công Sơn, sau khi lên đài phát thanh Sài Gòn hát lên “Nối vòng tay lớn” thì cũng bặt tiếng hát.

Quần chúng hầu hết thất học rất trông cậy vào nhóm trí thức đi tiên phong dẫn dắt họ hơn là những tên cán ngố, cán bộ Việt Minh, Việt Cộng dốt nát khó có thể thuyết phục đám đông. Nhưng sao lại có hiện tượng trái ngược? Có nhiều nhà khoa bảng, có nhiều tay tư bản lại đi phục vụ cho những tên dốt nát ấy. Đúng như lời Tố Hữu đã xỉ vả vào đám trí thức như vậy: Trí thức là cục phân. Tiến Sĩ Trần Văn Giàu vẫn còn nguyên vẹn là “cục phân” ấy. Tiến Sĩ Lê Đăng Doanh tạm-thời-được-tha-khỏi-là-cục-phân ấy để nói vài điều còn dính mùi phân, sau như thế nào thì chẳng ai biết. Trong nước đã có nhiều nhà khoa bảng đã thoát ra khỏi là cục phân ấy, như Vũ Thư Hiên, Lê Chí Quang, Trần Độ, Phạm Quế Dương, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê … và càng lúc càng nhiều. Vậy mà nhiều nhà trí thức khoa bảng ở hải ngoại lại muốn làm “cục phân” của chúng nó. Muốn được kể tên ra không?

Tịnh Đức
Nguyễn Thế Thuận


Tội Ác Dã Man của Việt Gian CSVN Tại Sân Vận Động Quy Nhơn - GS Nguyễn Lý Tưởng

Tội Ác Dã Man của Việt Gian CSVN Tại Sân Vận Động Quy Nhơn:Vụ Ném Lựu Đạn Vào Học Sinh Sinh Hoạt Lửa Trại Năm 1972

GS Nguyễn Lý Tưởng

Giáo sư Đặng Thị Bạch Yến và 14 học sinh bị thảm sát ...

Năm 1972, trong đêm lửa trại của học sinh liên trường tại Quy Nhơn tổ chức tại Sân Vận Động thị xã, Việt Cộng đã ném lựu đạn giết chết 14 học sinh và làm bị thương rất nhiều người, trong đó có Giáo sư Đặng Thị Bạch Yến, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế 1965, dạy Pháp văn bị tử thương và người chồng là GS Tạ Quang Khanh, giáo sư Anh văn, bị thương nặng GS Tạ Quang Khanh đã kéo dài sự sống trong thương tật được 5 năm đến năm 1977 thì qua đời.

Hành động dã man đó của Việt Cộng đã làm cho cả thành phố Quy Nhơn xúc động. Giáo sư Lê Văn Ba, ông Nguyên Dzuy và nhiều nhân chứng hiện đang có mặt tại Nam Cali và khắp nơi trên đất nước Hoa Kỳ hãy còn nhớ. Đám tang của Giáo sư Đặng Thị Bạch Yến và 14 học sinh bị Việt Cộng thảm sát đã gây xúc động cho toàn thể đồng bào thành phố Quy Nhơn.

Thế mà mới đây, trên báo Người Việt xuất bản ngày 11/10/2007, có người ở Việt Nam dám nói rằng "đó là do bọn Fulro" thì thật là không biết xấu hổ. Thời điểm đó ở Quy Nhơn làm gì có Fulro hoạt động!? Điều mà ai cũng biết là sau ngày 30/4/1975, phong trào Fulro hoạt động mạnh và tiếp tục tranh đấu cho đến ngày hôm nay để đòi lại đất đai của họ đã bị Cộng Sản cướp đoạt.

Sau 1975, chúng tôi đã từng ở tù chung với anh em Fulro tại "trại tù cải tạo" Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh) và tại Lao xá Chí Hòa (Sài Gòn, 1993) chúng tôi biết rõ lập trường của Fulro là chống Cộng Sản độc tài, áp bức người thiểu số ở Tây Nguyên chứ không bao giờ chống lại giáo sư và học sinh Quy Nhơn năm 1972.

Vấn đề ai là thủ phạm, đa số đồng bào Quy Nhơn đã biết rõ: Đó là tên Vũ Hoàng Hà, lúc đó là cán bộ CS nằm vùng và bây giờ là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm ủy viên Trung Ương Đảng CSVN. Một nhân chứng còn sống, sau 35 năm, đã lên tiếng trên nhật báo Người Việt, xuất bản ngày Thứ Năm 18/10/2007 nguyên văn như sau:

"Tôi là cựu học sinh Cường Để Quy Nhơn. Câu hỏi "Ai ném lựu đạn vào lửa trại?". Câu trả lời bà con sống ở Quy Nhơn ai cũng biết, chính là Vũ Hoàng Hà, ủy viên trung ương Đảng Cộng Sản VN, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bình Định. Thầy Tâm Hoàng khi còn sống đã khẳng định, vì sau khi ném lựu đạn ở sân vận động Quy Nhơn, Hà leo qua chùa Long Khánh ẩn rồi được cơ sở Cộng Sản đưa vào mật khu. Việc này được một số anh em cựu học sinh Cường Để ở Quy Nhơn biết. Mong việc này sớm sáng tỏ sau 35 năm tội ác xảy ra." (Trang Nhân)

Hai giáo sư Tạ Quang Khanh và Đặng Thị Bạch Yến là bạn đồng khóa với chúng tôi, đặc biệt GS Đặng Thị Bạch Yến là một ca sĩ thứ thiệt, hát rất hay mà anh chi em sinh viên Huế, Sài Gòn, Đà Lạt ... đều biết. Không có cuộc họp mặt sinh viên nào mà anh em không mời Bạch Yến lên hát.

Mới đây, trong cuộc họp mặt kỷ niệm 50 năm thành lập trường Đại Học Sư Phạm Huế (1957-2007) tổ chứ tại Grand Garden Restaurant, TP Westminster, California, chúng tôi đã tưởng niệm các Thầy và bạn bè đã chết, đã nhắc đến trường hợp vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khanh và Đặng Thi Bạch Yến bị Việt Cộng ném lựu đạn giết chết năm 1972 tại Quy Nhơn.

Theo lời yêu cầu của chúng tôi, Bà Hạnh Đức là chị ruột của GS Tạ Quang Khanh đã kể lại hoàn cảnh gia đình người em của bà là GS Tạ Quang Khanh và Đặng Thị Bạch Yến như sau:

"... Vào một buổi sáng đẹp trời ở miền Nam California, tôi tưới hoa xong rồi mở cổng ra sân trước lấy tờ nhật báo Los Angeles Time vào đọc, bỗng trên trang nhất đập vào mắt tôi với hàng tít lớn như sau: "The Survivor of War from Kuwait." (Kẻ sống sót từ cuộc hiến Kuwait). Tôi đọc ngấu nghiến:" Vào lúc chiến tranh vùng Vịnh (năm 1991) đang sôi động, có một thanh niên Á Châu bước vào phòng tuyển quân tình nguyện đi chiến đấu ở Kuwait.

Chúng tôi hỏi: Anh có nói đùa không nhưng người thanh niên ấy đáp: "NO, sir!" (Thưa ông, không!). Chúng tôi đưa mẫu đơn cho anh ta điền vào như sau: "Tôi tên là Tạ Quang Khiêm, 20 tuổi, sinh viên năm thứ hai tại đại học San Jose, California, sinh quán tại Quy Nhơn, Việt Nam. Cha là Tạ Quang Khanh, nghề nghiệp giáo sư dạy Anh văn tại trường trung học Cường Để, Quy Nhơn. Mẹ là Đặng Thị Bạch Yến, giáo sư Pháp văn kiêm Giám học trường nữ trung học Quy Nhơn. Cha mẹ tôi đã qua đời."

Đọc đến đây, tôi giật bắn người lên, đúng là tên họ của cháu tôi rồi, các cháu đã thất lạc và bặt tin từ ngày cha cháu qua đời tại San Jose năm 1977. Đầu năm 1978 tôi mới qua Mỹ nhưng không tìm được tông tích các cháu, thư từ tôi gửi đến địa chỉ cũ đều bị trả lại mà nước Mỹ rộng mênh mông thế này thì biết tìm các cháu ở đâu? Thế mà ... thế mà bây giờ tên tuổi cháu tôi xuất hiện trên trang báo này mà lại đi lính. Sao cháu không đi học mà lại đi lính? Mà lại tình nguyện sang chiến đấu tận bên Kuwait?. Tôi ngồi thừ người ra suy nghĩ ... tôi nhớ lại năm 1972, trong lúc liên trường Quy Nhơn có tổ chức liên hoan đốt lửa trại tại sân vận động thì thình lình Việt Cộng ném sáu, bẩy trái lựu đạn vào đám đông, giết chết 14 học sinh và Hướng đạo sinh và làm bị thương rất nhiều người. Mẹ cháu Khiêm là em dâu tôi bị miểng lựu đạn ghim vào tim, chết ngay tại chỗ.

Năm ấy Yến vừa tròn 30 tuổi. Em trai tôi là Khanh bị những miểng lựu đạn ghim vào khắp người, lủng bụng lòi ruột ra. Lúc ấy xe cứu thương tới cấp cứu, em tôi ôm lấy mớ ruột trèo lên xe, những học sinh khác cũng chen lấn trèo lên nhưng Khanh nói: "Cho thầy lên xe với, thầy bị nặng lắm!". Ngay sau đó, Khanh được vào bệnh viện Thánh Gia và được các bác sĩ người Tân Tây Lan từ Cam Ranh bay ra chữa trị cho Khanh. Khanh nằm điều trị mất hơn một tháng trời mới tạm bình phục. Thời gian em tôi nằm bệnh viện thì được canh gác cẩn mật vì sợ Việt Cộng vào ám sát vì em tôi nổi tiếng chống Cộng. Bác sĩ phỏng đoán em có thể sống được khoảng 10 năm nữa.

Năm 1975, em tôi đưa 3 cháu di tản sang Mỹ và định cư tại San Jose. Từ đấy lâu lâu em lại kêu đau lưng và được giải phẫu nhưng vết thương cũ làm độc, giải phẫu lần thứ hai thì em qua đời vào đầu năm 1977, như vậy là em chỉ sống được có 5 năm mà thôi.

Đến đây, tôi đọc tiếp lời khai trong hồ sơ đăng lính của cháu Khiêm: "Tôi còn người anh tên Tạ Quang Khôi và em gái là Tạ Ngân Hà. Mỗi lần nghĩ đến cảnh mồ côi và cái chết của cha mẹ tôi thì tôi buồn không tha thiết gì đến việc học hành nữa. Tôi muốn nhập ngũ để quên, quên hết ..."

Bài báo viết tiếp: "Khiêm được huấn luyện quân sự cấp tốc rồi gửi sang chiến trường Kuwait, đêm ấy Khiêm đi tuần với đồng đội tại biên giới Kuwait và Iraq trên xe thiết giáp. Một quân nhân da đen từ trong pháo tháp chui ra nói: "Khiêm, xin anh vui lòng vào ngồi giữ súng thay tôi một lúc để tôi ra ngả lưng chứ ngồi lâu trong này mỏi quá!"

Khiêm vừa chui vào pháo tháp thì từ trên cao, phi cơ do thám của ta rót xuống xe tăng của mình mấy quả đạn lửa vì nghi là xe của địch quân. Khiêm mở được nắp pháo tháp chạy thục mạng ra một quãng xa rồi ngất đi không biết gì nữa. Người quân nhân da đen đã tử thương, Khiêm được đưa sang bệnh viện quân y Mỹ tại Frankfurth, Germany điều trị."

Tôi đọc xong bản tin mà nước mắt giàn giụa ra, vừa thương hoàn cảnh của cháu lại vừa thương người quân nhân kia đã thế mạng cho cháu tôi. Ngay tối hôm ấy tôi xem TV thì thấy cháu tôi nằm trên băng ca được hai quân nhân Mỹ khiêng ra xe đưa về Mỹ vì những vết phỏng đã được băng bó lành. Ngay sáng hôm sau tôi gọi đến tòa báo Los Angeles Time xin được nói chuyện với người nữ phóng viên đã viết bài báo trên, nhưng cô ấy còn đang ở bên Đức nên không liên lạc được cho đến khi cô ấy trở lại Mỹ, bấy giờ tôi mới xin được số phone và địa chỉ của cháu tôi.

Tôi chẳng bao giờ quên được cái tin sét đánh ngang tai vào năm 1972; em trai tôi là Tạ Quang Khanh và vợ là Dặng Thị Bạch Yến bị thương nặng lắm nên tôi đã từ Nha Trang vội vã đến Quy Nhơn thì thấy em dâu tôi được quàn giữa nhà. Em mặc áo đầm trắng dài phủ chân, chiếc áo giống áo cô dâu mặc trong ngày cưới, mắt nhắm nghiền như người ngủ. Chị Hoa, người giúp việc nhà bế cháu bé Ngân Hà ngồi một bên đang khóc ... Chính những cô giáo dạy cùng trường với Yến đã may chiếc áo voan trắng ấy cho Yến và thay phiên nhau canh xác em ngày đêm. Các cháu bé, 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi ngơ ngác chẳng hiểu gì. Tôi vào bệnh viện thăm Khanh, em hỏi:

- Yến có sao không chị?

Nhìn em băng bó đầy người, tôi không cầm được nước mắt. Tôi nghẹn ngào nói dối em:

- Yến cũng bị thương đang nằm ở phòng bên kia. Cậu yên tâm tĩnh dưỡng cho những vết thương mau lành rồi về nhà với vợ con.

- Thế nhà em có bị thương nặng không?

- Không nặng bằng cậu.

- Xin chị nói với bà Sơ cho Yến ngồi xe lăn sang thăm em được không?

-Để chị hỏi xem. Thôi cậu nằm nghỉ đừng lo lắng nhiều, chị phải về với các cháu. Ở nhà chỉ có một mình chị Hoa.

Hôm đám tang Yến, tất cả các giáo sư và học sinh liên trường đều tiễn đưa Yến đến nơi an nghỉ cuối cùng. Nhìn 3 cháu bé được ẵm trên tay đi sau quan tài mẹ khiến không ai cầm được nước mắt. Hàng trăm vòng hoa cườm của các thầy cô phúng điếu với hàng chữ viết trên những dải băng tím vắt ngang: "Vô cùng thương tiếc giáo sư Đặng Thị Bạch Yến" được chở trên những chiếc xe xích lô đi một hàng dài phía trước. Và ở trên cao, phi cơ trực thăng chở tân Tỉnh Trưởng (Đại Tá Hoàng Đình Thọ) tiễn đưa người em vợ ra nghĩa trang. (Lúc ấy Đại Tá Thọ vừa đến thay Đại Tá Chức làm Tỉnh trưởng Bình Định). Hai bên đường đông đảo đồng bào Quy Nhơn đứng chờ linh cửu cô giáo trẻ đi qua để chào lần cuối với vẻ mặt bùi ngùi, thương tiếc. Sau đó là những đám tang của 14 học sinh. "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ". Nhưng lần này, nhiều con ngựa đau. Đau hơn vụ Việt Cộng pháp kích vào trường Tiểu học Cai Lậy (Định Tường) năm 1973, chỉ thiệt mạng 2 học sinh mà thôi, nhưng đã được báo chí Sài Gòn lúc đó loan tin với tít lớn (vì VC đã vi phạm hiệp định Paris) ...

Sau khi Yến đã an nghỉ giấc ngàn thu, bấy giờ Khanh mới từ bệnh viện về nhà, bây giờ Khanh mới hiểu; em nhìn ảnh vợ hiền với bình hoa tươi và 2 cây nến leo lét cháy ở trên bàn thờ linh vị ... Khanh khóc lặng người đi ... Các cháu sà vào lòng bố chẳng hiểu chuyện gì, cũng khóc theo.

Than ôi! Còn cảnh nào đau lòng hơn cảnh này không? Một gia đình đang êm ấm hạnh phúc thế mà bỗng chốc tang tóc ly tan?. Vì đâu nên nỗi? Sao Việt Cộng độc ác thế nhỉ? Sao lại giết học sinh? Sao lại giết người vô tội để gây ra bao tang tóc đau thương?

Thấm thoát đã 35 năm trôi qua; tạ ơn Thượng Đế đã đoái thương các cháu tôi: Tạ Thị Ngân Hà, hiện là Bác sĩ nội khoa tại bệnh viện Oklahoma, Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm đã tốt nghiệp kỹ sư điện (EE), hiện đang làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ và các cháu đã có gia đình yên vui, hạnh phúc. Nhân đây, tôi cũng xin cám ơn chị Hoa đã hết lòng thương yêu chăm sóc các cháu tôi cho đến khi khôn lớn." (Tạ Hạnh Đức, S.California, October 2007)

GS Nguyễn Lý Tưởng

Câu hỏi của các cháu học sinh ở các trường học Tỉnh Lỵ Mỹ Tho và Vĩnh Long biểu tình hỏi quý thầy cô: Cộng sản là cái gì mà tàn ác quá vậy? Sa-tăn hay quỷ sứ? quỷ vương hay ma? Thú hay người vượn hóa thành? Vượn người đâu có quá ác như vậy? Tại sao Việt cộng bắn mortier vô Trường học Cai Lậy giết học sinh? Tại sao Việt cộng pháo kích súng cối vào Trường Tiểu học Phú Quới tỉnh Vĩnh long làm cho trẻ em chết? Chúng con đâu có tội gì mà họ giết con nít như chúng con?




20 năm sau thảm kịch Thiên An Môn, nguyên do và bài học - Lữ Giang

Lữ Giang

Nhân đánh dấu 20 năm ngày xảy ra biến cố Thiên An Môn (1989 – 2009), một cuộc hội thảo nhỏ đã diễn ra tại Bắc Kinh hôm 10/05/2009 gồm khoảng 20 giáo sư và trí thức nổi tiếng, để đánh giá lại biến cố này. Những quan điểm được nêu lên trong cuộc hội thảo này có thể sẽ giúp chúng ta rút ra được bài học gì về kinh nghiệm đấu tranh?

Người tù của nhà nước

Trong khi đó, tập hồi ký “Prisoner of the State: The Secret Journal of Premier Zhao Ziyang” (Người Tù của Nhà Nước: Nhật ký Bí Mật của Thủ Tướng Triệu Tử Dương), bản tiếng Anh, cũng được ra mắt tại Hong Kong hôm 19/05/2009 nói nhiều đến vụ Thiên An Môn.

Cuốn sách chỉ dày 306 trang, được biên soạn trong 4 năm dựa theo những lời phát biểu của Triệu Tử Dương được bí mật ghi lại trong những cuốn băng trong thời gian ông bị giam giữ tại gia từ 1989 đến 2005, tức đến khi ông qua đời vào ngày 17/01/2005. Tổng cộng thời gian phát biểu được ghi lại là khoảng 30 tiếng đồng hồ. Để có những cuốn băng này, ông Bào Đồng, bí thư cũ của Triệu Tử Dương đã dùng một máy ghi âm nhỏ và tìm cách đánh lừa cơ quan an ninh Trung Quốc nhiều cách trong nhiều năm mới có thể thu âm được, chẳng hạn như ông chọn những lúc đi dạo cùng với ông Triệu Tử Dương hoặc những khi nhân viên an ninh đi vắng vài chục phút, v.v. Ông Bào Đồng đã bị tù 6 năm, nhưng ông đã chuyển được cho con trai ông các đoạn băng nói trên và tư liệu để con ông chuyển qua Hong Kong và biên soạn thành sách.

Qua những cuốn băng nói trên, ông Triệu Tử Dương đã nói đến ba vấn đề quan trọng:

Vấn đề thứ nhất là các chi tiết liên hệ đến việc các nhà lãnh đạo trong “Cung Đình Trung Nam Hải” đã thảo luận và quyết định như thế nào trong thời điểm dẫn tới vụ thảm sát tại Thiên An Môn ngày 4/06/1989, thường được người Trung Quốc gọi là vụ Lục-Tứ.

Vấn đề thứ hai là ông đánh giá về “Bố Già” Đặng Tiểu Bình. Ông Triệu Tử Dương nói rằng lúc đó ông Đặng Tiểu Bình đã trên 80, không làm gì để điều hành đất nước. Ông ta chỉ ngồi nhà nghe các phe phái đến trình bày những đề nghị cho giải pháp này giải pháp khác, và lo phân xử những vụ xung khắc giữa các phe. Riêng trong vụ Thiên An Môn, theo ông Triệu Tử Dương, ông Đặng Tiểu Bình khi ấy chủ yếu thiên về ý kiến của phe bê-tông do Lý Bằng đứng đầu.

Vấn đề thứ ba là ông xác định quan điểm cải tổ kinh tế và hướng chuyển biến nội tâm của ông về hướng dân chủ sau vụ Thiên An Môn. Ông nói chính ông mới là kiến trúc sư của cải cách kinh tế Trung Quốc chứ không phải Đặng Tiểu Bình.

Trước khi đưa ra những nhận xét về quan điểm của một số giáo sư và trí thức Trung Quốc về biến cố Thiên An Môn, chúng tôi xin nói qua về biến cố này.

Biến cố Thiên An Môn

Chữ Thiên An Môn có nghĩa là “Cổng Vào Nơi An Bình Riêng” chứ không phải là “Cổng Trời Bình An” như được dịch ra tiếng Anh là “The Gate of Heavenly Peace”. Đây là một đài kỷ niệm nổi tiếng ở Bắc Kinh, nó được xây cất đầu tiên vào năm 1420 dưới Triều Đại Nhà Minh. Thiên An Môn được coi như là cổng đi vào Cấm Thành, nằm ở phía bắc Quảng Trường Thiên An Môn

Quảng trường Thiên An Môn là một quảng trường lớn, dài 800m và ngang 500m, có sức chứa khoảng một triệu người.

Thiên An Môn là trung tâm điểm của các sinh hoạt chính trị ở Trung Quốc: Phía bắc là tháp Thiên An với tấm chân dung Mao Trạch Đông. Phía tây là Sảnh Đường Nhân Dân, nơi Quốc Hội nhóm họp. Phía đông là Viện Bảo Tàng Cách Mạng. Ngay giữa quảng trường là đài tưởng niệm liệt sĩ.

Tuy được gọi là “Cổng Vào Nơi An Bình Riêng”, nhưng năm 1989, nơi đây đã trở thành nơi đẫm máu.

1. Nguyên nhân của biến cố

Khởi đầu của biến cố là cái chết của Hồ Diệu Bang. Ông sinh ngày 20/11/1915, vào đảng CSTQ từ đầu và là một nhà cải cách nổi tiếng. Ông đã cùng với Đặng Tiểu Bình thực hiện nhiều cuộc cải cách quan trọng. Ông đã tìm cách khôi phục danh dự cho những người từng bị ngược đãi thời Cách Mạng Văn Hóa. Năm 1980, ông được giữ chức Tổng Bí Thư Đảng CSTQ. Tuy nhiên, sau đó ông bị phe bảo thủ buộc tội đã phạm “những sai lầm trong các vấn đề liên quan tới những nguyên tắc chính trị quan trọng”. Ngày 16/01/1987, ông phải từ chức Tổng Bí Thư Đảng CSTQ. Ông qua đời ngày 15/04/1989.

Nhân dân Trung Quốc coi ông là người của quần chúng. Trong bản điếu văn, đảng CSTQ đã ca ngợi những công lao của ông đối với Đảng và những thành tích cách mạng của ông, nhưng lại cho rằng ông đã sáng suốt khi “nhìn nhận sự sai lầm” của mình, ý nói ông đã từ chức khi biết lỗi. Bài điếu văn này đã gây mối bất bình trong quần chúng, nhất là giới trí thức trẻ.

2. Thiên An Môn nổi sóng

Để bày tỏ sự ủng hộ Hồ Diệu Bang, một nhóm sinh viên trường Đại Học Bắc Kinh đã gửi một vòng hoa đến đài liệt sĩ ở quảng trường Thiên An Môn. Nhưng đêm đó giới lãnh đạo Trung Quốc đã ra lệnh bỏ vòng hoa này đi. Biết được chuyện này, ngày hôm sau khoảng 3.000 sinh viên đã tuần hành vào quảng trường Thiên An Môn với một bản kiến nghị gồm 7 điểm sau đây:

(1) – Đảng CSTQ phải phục hồi danh dự cho Hồ Diệu Bang và nhìn nhận sai lầm đã ép ông từ chức.

(2) – Chấm dứt cuộc tuyên truyền chống lại “thành phần tiểu tư sản” “gột rửa tư tưởng tiểu tư sản”.

(3) – Bảo đảm quyền tự do ngôn luận.

(4) – Tăng ngân sách giáo dục.

(5) – Cho phép tổ chức các cuộc biểu tình ôn hòa.

(6) - Chấm dứt nạn tham nhũng vào bao che bằng cách công bố lương của các lãnh đạo và hồ sơ thuế.

(7) – Chấm dứt sự dính líu của chính quyền vào các doanh vụ bất chính.

Bản kiến nghị này đã bị các nhà lãnh đạo Trung Quốc bác bỏ. Không khí bất mãn dâng lên trong các trường đại học. Ngày 18/04/1989, khoảng 30.000 sinh viên tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn bất chấp lệnh giải tán của chính quyền.

Ngày 20/04/1989, một đám đông đến trước trụ sở của đảng CSTQ trao vòng hoa tưởng niệm Hồ Diệu Bang cho ban lãnh đạo Đảng. Đám đông bị cảnh sát chận lại. Sau nhiều lần cảnh cáo, cảnh sát đã đàn áp bằng dùi cui và bắt giữ nhiều người.

Đêm 21/4 có khoảng 200.000 sinh viên đã tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn để tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Ủy Ban Đoàn Kết Sinh Viên được thành lập do hai hai sinh Vũ Khải (Wuer Kaixi) và Quang Đán (Wang Dan) đại diện lãnh đạo. Một dàn loa phát thanh được đưa tới lắp đặt tại quảng trường. Ban tổ chức tuyên bố rằng cuộc tưởng niệm sẽ được biến thành một cuộc tuần hành cho dân chủ. Họ yêu cầu tất cả các trường đại học gửi đại diện đến.

Sau đó, các sinh viên đã thông qua bản kiến nghị 7 điểm đã được công bố và các phương pháp biểu tình. Các phương pháp này gồm có tuyệt thực, bãi khóa, và biểu tình ngồi. Ban tổ chức nhấn mạnh rằng đây là cuộc biểu tình bất bạo động.

Để đối phó lại, trước hết nhà cầm quyền Trung Quốc cho đăng trên nhật báo Nhân Dân những bài lên án cuộc biểu tình của sinh viên, cho rằng đó là một cuộc nổi loạn, đồng thời đưa cảnh sát ra ngăn chận các sinh viên đổ vào quảng trường. Tiếp theo, cơ quan an ninh đã yêu cầu các trường đại học trình danh sách các giáo sư và sinh viên tham gia biểu tình, nhưng các trường đại học đều từ chối.

Được tin các sinh viên ở Bắc Kinh bắt đầu biểu tình đòi dân chủ, sinh viên tại nhiều tỉnh khác cũng tổ chức biểu tình. Nhiều nơi, các cuộc biểu tình đã trở thành bạo động, một số cơ sở của chính quyền bị đốt phá.

Ngày 27/4, một cuộc tuần hành lớn đã diễn ra: Hơn 200.000 sinh viên từ 42 trường đại học đã đi bộ 40 km trên các ngả đường để tiến về Bắc Kinh. Bằng cách nắm tay nhau, họ đã vượt qua 18 hàng rào cảnh sát. Hàng triệu người đứng hai bên đường xem sinh viên tuần hành. Họ đem thức ăn và nước uống cho những người biểu tình. Các cuộc biểu tình cứ thế kéo dài từ ngày này qua ngày khác.

Ngày 13/5 khoảng 2000 sinh viên đã tham gia một cuộc tuyệt thực tại đài liệt sĩ ở quảng trường Thiên An Môn. Họ mang trên đầu cái băng có hai chữ “tuyệt thực” mà mặc những chiếc áo có viết các chữ: “Không có dân chủ, chúng tôi thà chết”.

Đến ngày thứ ba, số người tuyệt thực đã lên tới 3000, nhưng khoảng 600 người đã phải được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Ngày thứ tư, hàng triệu người dân đã đổ ra trên các đường phố Bắc Kinh để bày tỏ sự ủng hộ.

Thủ tướng Lý Bằng đã đứng ra thương lượng với những sinh viên tuyệt thực, nhưng không đi đến kết quả nào, vì ông ta từ chối không đề cập đến các yêu sách của sinh viên. Ông chỉ yêu cầu sinh viên ngưng biểu tình và tuyệt thực.

Sau đó, với sự chấp thuận của Đặng Tiểu Bình, Thủ Tướng Lý Bằng đã ra lệnh cho bộ đội tiến vào thành phố để “tái lập trật tự”, đồng thời ban hành lệnh giới nghiêm. Bộ Chính Trị đã cho điều hai quân đoàn 27 và 28 ở các tỉnh xa, không hiểu chuyện gì đã thật sự xẩy ra ở Bắc Kinh, tiến vào thủ đô “tiêu diệt bọn phản cách mạng”. Các binh sĩ bị cấm xem báo, nghe đài một tuần trước khi được huy động. Nguồn tin duy nhất họ nhận được là từ Ban Văn Hóa Thông Tin với lời tuyên truyền rằng đây là một cuộc nổi loạn của bọn người xấu.

Trước áp lực nặng nề của chính quyền, lãnh tụ sinh viên Quang Đán từ chức và kêu gọi chấm dứt cuộc biểu tình. Vũ Khải tuyên bố anh ta sẽ tiếp tục tham gia cho đến ngày 20/6, khi Quốc Hội nhóm họp.

Mặc dầu có lệnh giới nghiêm, dân chúng vẫn xuống đường ủng hộ cuộc biểu tình. Các xe quân sự bị dân chúng chận lại.

Ngày 30/05, một bức tượng được gọi là “Nữ Thần Dân Chủ”, cao 10m, đã được dựng lên ở quảng trường Thiên An Môn, đứng đối diện với tấm hình Mao Trạch Đông treo trước cổng Thiên An.

Ngày 31/05, bộ đội bắt đầu tiến vào thành phố. Cảnh sát chìm ngồi trong các xe bus và du lịch đi vào trung tâm. Đến ngày 2/06 đã có khoảng 200.000 bộ đội được đưa vào Bắc Kinh. Khoảng 10.000 bộ đội bị dân chúng chận lại. Biết rằng chính quyền đang điều động quân đội để dẹp biểu tình, các sinh viên vẫn nhất quyết không lùi bước.

3. Thiên An Môn đẫm máu

Ngày 3/06/1989, lệnh hành quân được ban ra. Lệnh của chính quyền:

(1) Bắn bỏ bất cứ ai kháng cự.

(2) Quảng trường phải được dọn dẹp sạch trước khi trời sáng.

(3) Tất cả những người lãnh đạo cuộc biểu tình đều phải bị bắt.

Bộ đội dàn ra trên các đường phố, đánh đập và bắt giữ bất cứ ai kháng cự. Quảng trường Thiên An Môn bị khóa chặt. Cảnh sát ném lựu đạn cay, dùng dùi cui và roi điện đánh đập mọi người. Tiếng súng nổ vang ở ngoại vi thành phố. Lúc 2 giờ sáng xe thiết giáp ủi bằng các chướng ngại vật do sinh viên dựng lên. Bộ đội nã súng vào đoàn biểu tình. Từng đoàn xe tăng tiến vào quảng trường cán nát các thây người.

Charlie Cole, một nhiếp ảnh gia của tạp chí Newsweek, cho biết vào tháng 5 năm 1989, khi các cuộc biểu tình của các sinh viên ngày càng lên cao, ông được phái đến Bắc Kinh. Ông kể lại:

“Buổi chiều tối ngày 3/06, sau một ngày đương đầu căng thẳng giữa phía quân đội và những người biểu tình, quân đội bắt đầu bao vây trung tâm thành phố và cuối cùng, họ cho xe tăng và xe bọc thép vào ngay giữa Quảng Trường Thiên An Môn”.

“Phía trên quảng trường, ở ngay trước Tử Cấm Thành, một chiếc xe bọc thép bị xé lẻ khỏi đội hình. Trong lúc hoảng loạn tìm cách thoát khỏi đám đông, chiếc xe này đã cán lên một số người biểu tình. Ngay lập tức, điều đó đã làm dấy lên tình trạng bạo lực. Đám đông chặn chiếc xe, lôi những người lính ra, giết chết rồi phóng hoả đốt xe. Cảnh tượng diễn ra ngay trước mắt một số tiểu đội lính đứng cách đó khoảng 150 mét …”

“Khi tôi vừa đến gần những tán cây trên phố thì quân đội nổ sung vào đám đông ở phía trên quảng trường. Mọi người hoảng loạn khi bị bắn. Trời rất tối nên tôi không thể chụp ảnh, mà khi đó lại không thể dùng đèn flash được …”

“Vào khoảng 4 – 5 giờ sáng, hàng đoàn xe tăng chạy vào quảng trường nghiền nát xe buýt, xe đạp và người dưới bánh xích”.

“Ngày hôm sau, 5/6, tôi và Stuard lại ra ban công theo dõi tình hình. Khi trời sáng, hàng trăm lính xếp hàng trước lối vào quảng trường. Họ nấp sau những chướng ngại vật, chĩa tiểu liên vào sinh viên và dân cư tò mò đang đứng cách đó khoảng 100 mét”.

“Chúng tôi nhìn thấy hầu như trên mái nhà nào, kể cả toà nhà chúng tôi đang đứng, cũng có cảnh sát mật mang ống nhòm và máy truyền tin đang tìm cách kiểm soát tình hình”.

“Vào khoảng trưa, chúng tôi nghe tiếng xe bọc thép nổ máy và bắt đầu rời quảng trường để giải tán đám đông ở Đại lộ Trường An, một số súng máy đã nhả đạn vào đám đông. Mọi người bỏ chạy vì hoảng loạn”.

“Ngay sau đó, khoảng 25 xe tăng xếp hàng bắt đầu lăn bánh theo cùng hướng dọc theo đại lộ. Đột nhiên, chúng tôi thấy một thanh niên bước ra từ lề đường, một tay cầm chiếc áo khoác, tay kia cầm túi siêu thị bước vào lối đi của những chiếc xe tăng với ý định chặn đoàn xe lại”.

“Thật là chuyện không thể tin được, nhất là sau tất cả những gì đã xảy ra. Không thể tin được điều đó, tôi vừa tiếp tục chụp ảnh, vừa dự đoán về số phận bất hạnh của anh”.

“Và tôi ngạc nhiên khi thấy chiếc xe tăng đi đầu dừng lại rồi tìm cách đi vòng quanh người thanh niên. Thế nhưng anh lại tiếp tục chặn đầu xe. Cuối cùng, cảnh sát mật tóm lấy người thanh niên và và lôi anh đi”.

“Tôi và Stuart nhìn nhau, cùng kinh ngạc về những gì mình vừa mới chứng kiến và ghi lại được bằng hình ảnh”…

“Rất nhiều cơ quan và các tạp chí đã tìm cách xác định danh tính người thanh niên và những gì đã xảy ra với anh sau đó. Một số người nói anh tên là là Vương Vỵ Lâm, nhưng không chắc chắn lắm.”

4. Một vài con số được ghi nhận

Cuộc đàn áp kéo dài vài ngày sau đó. Bộ đội nã súng vào bất cứ ai có thái độ khiêu khích hay cản đường. Các trường đại học bị lục soát, các nhân vật bất đồng chính kiến bị bắt đi. Hơn 1.500 người bị bắt, trong đó có ít nhất 6 lãnh tụ sinh viên trong danh sách 21 người bị truy nã.

Sáng ngày 8/6, một sự im lặng ngột ngạt bao trùm thành phố. Trong số 21 sinh viên nằm trong danh sách truy nã của chính quyền, có khoảng phân nửa đã lần lượt trốn ra nước ngoài.

Chính quyền tuyên bố thắng lợi trước “Cuộc nổi loạn phản cách mạng.” Một số đơn vị bộ đội từ chối không tham gia vào cuộc thảm sát đã bị giải giới sau đó. Tất cả các xác chết đều được dọn sạch trong đêm theo lệnh của chính quyền.

Số người chết và người bị thương không thể biết chính xác được. Theo báo cáo của tổ chức Hồng Thập Tự Quốc Tế, có khoảng 2.600 người dân bị giết và hơn 30.000 người bị thương. Theo báo cáo của chính quyền Trung Quốc, có khoảng 300 lính và người dân chết, 5.000 lính và 2.000 dân bị thương, có 400 lính mất liên lạc. Theo báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, có hơn 4.000 người chết, trên 40.000 người bị thương.

Hậu Thiên An Môn

Cả thế giới đã lên án chính quyền Trung Quốc trong việc đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn. Hồng Kông, Đài Loan đã mở cửa biên giới để cho người Trung Quốc vào tị nạn…

Quốc Hội Hoa Kỳ (HK) đã cấp tốc họp và biểu quyết với tỉ lệ 418/0 quyết định trừng phạt chính quyền Trung Quốc bằng các biện pháp sau đây: (1) Ngưng giao thương; (2) cấm bán các trang bị cho cảnh sát, các dụng cụ kỹ thuật cao và vũ khí; (3) ngưng các chương trình thăm viếng quân sự.

Quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc trở nên căng thẳng. Trung Quốc tố cáo rằng HK can thiệp vào nội bộ Trung Quốc khi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh giúp những người bị truy nã thoát ra nước ngoài.

Các nước trong Liên Hiệp Âu Châu, nhất là Pháp và Đức, cũng đã áp dụng các biện phá chế tài đối với Trung Quốc gióng như ở Hoa Kỳ.

Trong khi đó, người dân Hoa Lục bị cấm không được nhắc đến biến cố ngày 4/06. Chính quyền cấm mọi hình thức bàn bạc về vụ Thiên An Môn. Ngay cả nhửng người mẹ mất con trong cuộc thảm sát đó cũng không được công khai khóc thương con họ.

Các sinh viên đã tham gia vào vụ biểu tình tại Thiên An Môn may mắn thoát được đến các nước khác, đã tiếp tục cuộc đấu tranh cho một đất nước Trung Quốc dân chủ và tự do.

Nhưng “để lâu cứt trâu cũng hoá bùn”. Vào tháng 12 năm 2004, tại Hội Nghị cao cấp của 7 nước trong Liên Hiệp Âu Châu (EU), Pháp và Đức đã đứng ra vận động hủy bỏ cấm vận vũ khí cho Trung Quốc, nhưng chưa được toàn thể các hội viên đồng ý. Bắc Kinh cho rằng quyết định cấm vận này là tàn dư thời kỳ chiến tranh lạnh, nay đã đến lúc cần phải khai tử. Tuy nhiên, Hội Nghị cũng đi đến quyết định mở rộng cánh của hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng đi theo. Nay mọi chuyện coi như đã trở lại bình thường.

Bài học lịch sử

Trong cuộc hội thảo bỏ túi tại Bắc Kinh hôm 10/05/2009, học giả Thôi Vệ Bình cho rằng sự im lặng tập thể (tại Trung Quốc) trong 20 năm qua đã tác động xấu đến đạo đức xã hội. Ông nói: “Ngay cả nếu chúng ta không trực tiếp gây ra tội ác đẫm máu 20 năm trước, việc chúng ta im lặng ngần ấy năm cũng khiến chúng ta thành kẻ đồng lõa.”

Các giáo sư Thôi Vệ Bình, Từ Hữu Ngư, Trương Bác Thụ, v.v., đặt câu hỏi rằng sự im lặng của giới trí thức trong nước trong suốt 20 năm qua “đã làm hại gì cho tinh thần và đạo đức dân tộc?” Họ cho rằng khi “chính phủ đối xử với dân như kẻ thù, nhân dân sẽ đáp lại y như thế”. Họ kết luận rằng thứ tư duy của Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo cộng sản khác “là sự bắt đầu của mọi điều sai trái trong lịch sử”.

Đây chỉ là những nhận định về nguyên nhân của biến cố, những lời sám hối hay lên án suông. Bài học lịch sử Thiên An Môn đắt giá hơn nhiều.

1. Đàn áp để bảo vệ quyền bính

Nếu những sự kiện như trên xẩy ra ở Miến Điện, Bắc Hàn, Nam Hàn, Indonesia, Zimbabwe hay Việt Nam, v.v., các nhà cầm quyền này cũng sẽ hành động như nhà cầm quyền Trung Quốc để bảo vệ quyền bính. Một vài thí dụ cụ thể:

Tháng 5 năm 1980, ông Kim Đại Trọng lãnh đạo một cuộc nổi dậy tại Gwangju, Nam Hàn, để đòi hỏi dân chủ. Tổng Thống Chung Đô Hoan liền đưa quân đội đến dẹp tan. Tài liệu của chính quyền nói có 191 người chết và 852 người bị thương. Nhưng các hãng thông tấn quốc tế ước lượng số người bị giết trên 1000 người. Nếu không có sự can thiệp của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ông Kim Đại Trọng đã bị xử tử.

Tháng 10 năm 2007, dân chúng Miến Điện cũng biểu tình đòi dân chủ. Lúc đầu chỉ có 30.000 người, dần dần lên tới 50.000 rồi 100.000…, trong số đó có 15.000 tăng ni. Mặc dầu Liên Hiệp Quốc và Liên Hiệp Âu Châu đã kêu gọi tránh dùng bạo lực, nhà cầm quyền quân phiệt Miến cũng đã huy động quân đội đến dẹp biểu tình. Tin của nhà cầm quyền cho biết có khoảng 200 người chết, nhưng các hãng thông tấn ngoại quốc tin rằng đã có hàng ngàn nguời chết, khoảng 6000 người bị bắt, trong đó có 1.400 nhà sư. Cũng tại Miến Điện, trong năm 1988, sinh viên và học sinh cũng đã nổi dậy đòi dân chủ với kết quả là có khoảng 3000 người bị giết.

2. Thiếu tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ

Sở dĩ cuộc biểu tình vĩ đại của các sinh viên ở Thiên An Môn bị thất bại vì các lý do chính sau đây:

Vụ Thiên An Môn là một cuộc nổi dậy bột phát do lòng hăng say của tuổi trẻ, được khơi động bởi một biến cố của thời cuộc, vì thế không được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, không có chiến lược tổng quát và chiến thuật cho từng giai đoạn, hầu hết đều do sáng kiến cá nhân … thất bại là chuyện không tránh được.

Năm 1945, Việt Minh đã thành công trong việc cuớp chính quyền ở Việt Nam, mặc dầu lúc đó số đoàn viên của họ lúc chỉ bằng 1% số đoàn viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng, đó là nhờ Việt Minh được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, biết bắt kịp thời cơ và biết dùng thủ đoạn để đạt mục tiêu của mình.

Năm 1989, Công Đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan đã làm sụp đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan và góp phần to lớn vào sự sụp đổ nhanh chóng sau đó các chế độ cộng sản trên khắp Đông Âu là nhờ có tổ chức và lãnh đạo, và biết nắm lấy thời cơ.

Chỉ kích động sự bất mãn của quần chúng để họ tự động đứng lên thì không thể làm thay đổi một chế độ độc tài được. Phải có những tổ chức lãnh đạo đứng đàng sau khai thác và điều khiển sự bất mãn đó mới có thể làm thay đổi thời cuộc.

3. Thủ đoạn của các chính quyền

Trước một cuộc nổi dậy của đám đông không được kiểm soát, không thể nào tránh được bạo động. Chính quyền sẽ vin vào đó để đàn áp. Giả thiết sự bạo động không xẩy ra, chính quyền cũng sẽ tạo ra bạo động để có lý do hành động.

Phương pháp thứ hai mà các chính quyền thường dùng để dẹp các cuộc nổi dậy là điều tra xem tổ chức hay cá nhân nào đã lãnh đạo cuộc nổi dậy. Nắm được nhóm lãnh đạo và xách động thì đám đông như rắn mất đầu.

Trong vụ Thiên An Môn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã để cho biến cố kéo dài từ ngày 14 tháng 4 đến ngày 4 tháng 6 năm 1989 mới ra tay. Thời gian 50 ngày quá đủ để cho nhân viên an ninh mở cuộc điều tra. Họ giả làm ký giả, sinh viên biểu tình, dân chúng đi xem … để quay phim và chụp hình những người lãnh đạo và xách động cuộc biểu tình. Họ đã đưa ra danh sách 21 lãnh tụ sinh viên bị truy nã. Nếu tính cả những sinh viên có khả năng xách động, con số này có thể lên đến hàng ngàn người. Do đó, các tổ chức chuyên tạo bạo loạn như các đảng Cộng Sản, không bao giờ để cho những người lãnh đạo bị lộ diện. Họ chỉ dùng các tay chân bộ hạ để hành động.

4. Thái độ của các cường quốc

Khi một phong trào đấu tranh đòi dân chủ nổi lên ở một quốc gia độc tài, các cường quốc Tây phương thường lên tiếng ủng hộ hay bênh vực. Nếu phong trào đó thành công, họ sẽ nhảy vào và biến phong trào thành đồng minh lệ thuộc. Nếu phong trào đó thất bại, họ sẽ lên tiếng bênh vực qua loa rồi để cho đi vào lãng quên, sống chết mặc bây. Do đó, tự lực cánh sinh bao giờ cũng là nền tảng của các cuộc đấu tranh.

5. Chiến thuật diễn biến hoà bình

Kinh nghiệm cho thấy nổ lực tạo nên các cuộc nổi đậy để lật đổ một chế độ độc tài rất khó thành công và thường xẩy ra các biến loạn liên tiếp sau khi những chế độ mới được hình thành. Do đó, ngày nay các cuờng quốc đã quyết định dùng “chiến thuật diễn biến hoà bình” để làm thay đổi những chế độ độc tài còn lại. Nói nôm na là dùng kinh tế và giáo dục để làm thay đổi chế độ chính trị, “dùng thắng con thay thế thằng cha”, v.v. Kế hoạch này có khi kéo dài 15, 20 hay 30 năm.

Trong hồi ký “Người Tù của Nhà Nước…”, ông Triệu Tử Dương đã nói rằng đa số sinh viên cũng chỉ mong cải cách dân chủ kiểu xã hội chủ nghĩa sao cho dễ thở hơn chứ không có ý phản loạn. Ông cho rằng hệ thống cộng sản ở Trung Quốc còn cải tổ được và sinh viên chỉ nêu ra các “tiêu cực”.

Ý của ông Triệu Tử Dương có lẽ cũng phù hợp với đường lối của các cường quốc ngày nay. Dĩ nhiên, những người thích mì ăn liền không chấp nhận đường lối đó, nhưng dù họ có cố gắng đến hơi thở cuối cùng, cũng không thể làm đảo ngược được đường lối mà các “Anh Hai” của họ đang theo đuổi. Vấn đề là phải tìm một hướng đi mới để đấu tranh có kết quả hơn.

Dầu sao, biến cố Thiên An Môn cũng đã đưa tới nhiều thay đổi tại Trung Quốc từ đó cho đến nay và máu của các nhà tranh đấu kiên cường đã không bị đổ ra một cách vô ích.

Lữ Giang


Vén màn bí mật vụ thảm sát Thiên An Môn - Lê diễn Đức

Mariusz Zawadzki - Lê diễn Đức dịch

Cuốn hồi ký phát hàng ngay 19/05/2009 - Nguồn: Google

Cuốn hồi ký phát hành ngày 19/05/2009 - Nguồn: Google

Những dòng hồi ký của nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, người đã muốn ngăn ngừa thảm kịch Thiên An Môn (Tiananmen), làm xáo động dư luận.

Hai tấm hình trên quảng trường Thiên An Môn đã đi vào lịch sử.

Tấm hình thứ nhất là một người vô danh đơn độc đứng chặn đoàn xe tăng. Hôm ấy là ngày 5/06/1989, vài giờ trước đó đã kết thúc một cuộc sát sinh.

Tấm hình thứ nhất, sáng 5/06/2009 - Ảnh: AP

Tấm hình thứ nhất, sáng 5/06/2009 - Ảnh: AP

Tấm hình thứ hai là một người lớn tuổi đeo kính, bao bọc xung quanh là những người sinh viên phản loạn. Ông ta nói với họ qua magaphone: “Các bạn còn trẻ, còn biết bao thời gian trước mặt, không giống như trước chúng tôi, những người già nua. Các bạn dễ dàng bỏ mạng sống như thế sao? Tình hình rất nghiêm trọng, đảng và quần chúng đã hết chịu nổi. Nếu các bạn từ bỏ tuyệt thực, chính phủ sẵn sàng đối thoại với các bạn…”

Người lớn tuổi đó là Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Triệu Tử Dương (Zhào Ziyáng). Buổi sáng ấy, ngày 19/05/1989, ông Triệu, tuổi 70, vừa mới ra khỏi cuộc họp đêm của các nhân vật chóp bu, mà trong đó quyết định ban hành tình trạng chiến tranh được đưa ra. Chỉ một mình ông Triệu chống lại.

Tấm hình thứ 2 - Ảnh: Medianewsobserver.com

Tấm hình thứ 2 - Ảnh: Medianewsobserver.com

Đến với những người sinh viên, nhà cựu chiến binh 70 tuổi của đảng trở thành một người anh hùng và là kẻ tự sát, giống như con người vô danh mà hai tuần sau đã đứng ngay chỗ của ông để chặn xe tăng. Dĩ nhiên không nhìn thấy điều đó trên tấm hình, khoảnh khắc bi kịch và chủ nghĩa anh hùng của một con người cầm megaphone kia nằm sâu kín ở tận phía trong, những người sinh viên đã không hiểu ra, nhiếp ảnh gia không hiểu được, có lẽ chỉ duy nhất một người hiểu – chính bản thân ông Triệu.

Đây là tấm hình cuối cùng của ông, và cuộc gặp gỡ sinh viên cũng là lần chót ông xuất hiện trước công chúng. Các đồng chí của ông đã gạt ông ra khỏi chính quyền và quản chế ông tại gia.

Lễ truy điệu Triệu Tử Dương tại công viên victoria, Hongkong, ngày 21/01/2005 - Nguồn: Google

Lễ truy điệu Triệu Tử Dương tại công viên Victoria, Hongkong, ngày 21/01/2005 - Nguồn: Google

Ngày 17 tháng 1/2005, khi ông qua đời, tất cả báo chí chính thức của nhà nước chỉ thông báo một dòng vắn tắt “đồng chí Triệu Tử Dương đã ra đi”. Không một lời nhắc đến, rằng, ông đã từng nhiều năm là Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, Tổng bí thư đảng, một trong những nhà tư tưởng của cuộc cải cách mà nhờ nó suốt 30 năm nay, từ một đất nước lạc hậu, Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế. Có vẻ như đảng đã thành công trong việc không bị phê phán và kết tội vì lãng quên.

Nhưng ông Triệu đã cho đảng cú đá hậu. Trong tuần trước tại các nhà sách của Hoa Kỳ và Hongkong xuất hiện một cuốn sách hấp dẫn với tựa đề “Người tù nhà nước: Nhật ký mật của Thủ tướng Triệu Tử Dương”.

Triệu phản công sau khi chết

Trong những năm 1999-2000 cựu Bí thư Triệu, bấy giờ đã trên 80 tuổi, vẫn đang bị quản chế tại gia, đã bí mật ghi âm lại các trải nghiệm của mình và chuyển các cuộn băng cho bạn bè. Vài ngày trước khi cuốn sách xuất hiện, thậm chí con gái của ông cũng không biết đến.

30 cuộn băng ghi âm nằm trong tay con trai ông Bảo Đồng, bí thư của ông Triệu, người bị kết án 6 năm tù sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Ông Bảo đã chuyển nó cho phương Tây và cuốn sách ra đời – diễn tiến các cuộc ghi âm được công bố cùng cuốn sách.

Các cuộc ghi âm không dễ dàng, bởi vì ông Triệu phải qua mặt đám an ninh suốt ngày đêm theo dõi. Thoạt đầu ông ghi lại vào những lúc hiếm hoi khi an ninh cho phép đi ra ngoài nhà. Sau đó ông ghi trong nhà mình, bởi vì ở ngoài an ninh còn nhiều và nhạy bén hơn. Tuy vậy chưa bao giờ ông để lộ.

Có thể điều thú vị nhất trong cuốn hồi ký chính là, sau những năm bị quản chế tại gia, cựu tổng bí thư trở nên cương quyết hơn cả những người sinh viên mà ông định cứu trong năm 1989. Ông Triệu cho rằng, Trung Quốc cần phải trở thành một nhà nước dân chủ theo mô hình phương Tây, thực hiện tự do ngôn luận, toà án độc lập và loại bỏ sự độc quyền lãnh đạo của đảng.

Trong các cuốn băng ghi âm ông Triệu giải thích rằng, không có hệ thống trên, đất nước sẽ bị cai quản bởi các giới chính trị, kinh tế và trí thức tinh hoa liên kết và thoả hiệp với nhau trong các quyền lợi, đứng trên cả lợi ích của đất nước, cản trở sự phát triển.

Đảng tức là maphia

Thế nhưng, đa phần nội dung cuốn hồi ký, như nhà phê bình của “Washington Post” viết, là những sự kiện nóng của mùa xuân 1989. Ông Triệu nhấn mạnh rằng, lúc ấy đảng có thể dễ dàng thoả thuận với sinh viên, nhưng đã quyết định đè bẹp họ bằng xe tăng.

Ông ghi lại diễn biến đi đến quyết định dập tắt cuộc nổi loạn. Đặng Tiểu Bình (Dèng Xiaopíng), nhà lãnh đạo không chính thức lúc bấy giờ, theo ông Triệu, như một Bố Già mà các phe nhóm trong đảng được ban ân huệ để giành ưu thế. Ông ta không trực tiếp lãnh đạo mà chỉ giải quyết các mâu thuẫn và lựa chọn các ý tưởng của thuộc cấp.

Cho nên, không phải Đặng, như được hiểu một cách phổ cập, là tác giả và là nhà tư tưởng của cuộc cải cách ở Trung Quốc, mà là chính ông – Triệu Tử Dương. Tuy nhiên, ông Triệu thừa nhận rằng, không có sự đồng ý của Đặng, cuộc cải cách không thể nào thực hiện được.

Mặc dù có vẻ như những lời tự khen, nhưng có nhiều yếu tố chứng minh cho nhận định của ông Triệu. Những cải cách của ông tại Tứ Xuyên (Sichuan) những năm 70 trong ba năm làm bí thư tỉnh uỷ đã nâng mức sản xuất tăng gần gấp đôi, kích động các nhà lãnh đạo Trung Quốc xúc tiến xây dựng chủ nghĩa tư bản Trung Quốc với bộ mặt của chủ nghĩa cộng sản.

Bố Già Đặng, thích hình tượng Mao trong những năm 80, vào lúc khủng hoảng trên quảng trường Thiên An Môn đã ngả theo nhóm bê-tông dưới sự chỉ đạo của thủ tướng Lý Bằng (Li Peng). Những người cứng rắn đã lợi dụng chuyến đi thăm Nan Hàn của ông Triệu để lôi kéo Đặng ủng hộ biện pháp sử dụng bạo lực.

Từ cuộc gặp gỡ sinh viên trở về, ông Triệu thuyết phục các đồng chí của mình rằng, những người biểu tình không hề muốn lật đổ chế độ mà chỉ muốn thực hiện những thay đổi. Không ai nghe ông. Người ta đã quyết định ban hành tình trạng chiến tranh, như ông Triệu khẳng định, không có biểu quyết, có nghĩa là bất hợp pháp.

Những người sinh viên, thay vì sợ hãi, như mong đợi của những người cứng rắn, đã trở nên táo bạo và bất tuân hơn.

“Cuộc đối đầu không thể không xảy ra – Những cuốn băng ghi lời của ông Triệu – Vào đêm ngày 3 sang ngày 4 tháng 6, khi đang ngồi cùng gia đình ở nhà, tôi nghe tiếng súng nổ. Thảm kịch làm rung động toàn thế giới đã không còn cữu vãn được nữa”

Bản tiếng Việt © http://ledienduc.wordpress.com

Nguồn: Bài của nhà báo Mariusz Zawadzki với tựa đề “Thủ tướng Trung Quốc vén màn bí mật sau khi chết” đăng trên nhật báo Ba Lan Gazeta Wyborcza ngày 16/05/2009http://wiadomosci.gazeta.pl/Wiadomosci/1,80569,6613004,Premier_Chin_odslania_tajemnice_po_smierci.html. Đề tựa bài dịch và ảnh minh hoạ là của người dịch.



“Đừng bao giờ chơi với tụi cộng sản! Chúng nó bạc như vôi!” - Lê Diễn Đức

Lê Diễn Đức – Suy nghĩ nhân 20 năm thảm kịch Thiên An Môn

Đêm ngày 3 qua ngày 4 tháng 6 năm 1989, một cuộc thảm sát đã xảy ra làm kinh hoàng cả thế giới.

Cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị, dân chủ của hàng chục ngàn sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn đã bị nhà cầm quyền cộng sản nghiền nát bằng súng đạn và xe tăng.

Vì quyền lợi kinh tế, thảm kịch Thiên An Môn dù khó làm mờ nhạt, những chính khác quan trọng vẫn thường tránh né hoặc làm ngơ trong các đối thoại với Bắc Kinh.

Thiên An Môn 79 vẫn là đề tài cấm kỵ tại Trung Quốc. Vẫn còn nhiều sinh viên nằm tù. Con số người chết vẫn chưa được xác định cụ thể và có lẽ chẳng bao giờ chúng ta biết được. Theo nhiều nguồn tin thì khoảng 5 ngàn người chết, gấp đôi từng ấy bị thương và 2,5 ngàn án tử hình [1].

Những người mẹ mất con vẫn bị cấm tụ họp, dù chỉ để làm lễ cầu nguyện chung. Nơi duy nhất trên Hoa lục hàng năm dân chúng được đốt nến tưởng niệm là Hongkong. Nhà nước vẫn chưa đưa ra đánh giá chính thức về sự kiện mùa xuân 1979. Báo Tân Hoa Xã lúc bấy giờ viết rằng, đây là một cuộc bạo loạn của những phần tử phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Số phận bi kịch của hai nhà cải cách


Không biết mọi người còn nhớ rằng, lần đầu tiên sinh viên đổ ra quảng trường Thiên An Môn chính là để tưởng niệm cái chết của một người cộng sản?

Người đó là Hồ Diệu Bang.

Hồ Diệu Bang đã từng phải chịu tủi nhục, bị khủng bố, thậm chí suýt chết bởi chính tay những đồng chí của mình. Năm 19 tuổi ông có nguy cơ bị chém đầu khi Mao Trạch Đông bị gạt ra khỏi quyền lực (1931-1934). Cuối cùng ông được Đàm Dư Bảo cứu mạng nhưng bị giám hộ suốt thời gian Vạn Lý Trường chinh.

Thời kỳ chiến đấu với Quốc dân đảng ông bị thương nặng nằm chờ chết, may mắn được nhóm binh sĩ của người bạn đi ngang cứu sống.

Sau Vạn lý Trường chinh, nhận nhiệm vụ mở hành lang với Liên Xô, ông bị Mã Gia Quân bắt làm tù binh, không giết nhưng bắt đi lao động khổ sai.

Trong giai đoạn 1952-1966, Hồ Diệu Bang làm bí thư trung ương đoàn thanh niên cộng sản. Ông giữ khoảng cách với Mao và ngả theo Đặng, người dám phê phán “Người Cầm Lái Vĩ Đại” về kế hoạch “Đại Nhảy Vọt”, để rồi cả hai bị Mao trù dập, làm nhục trong cuộc “Cách mạng Văn Hoá” vào năm 1966.

Sau khi Mao chết, năm 1979 ông ủng hộ Đặng tiến hành cải cách. Năm 1980, với cương vị Tổng bí thư, ông phục hồi danh dự cho hàng ngàn nạn nhân của Mao trong “Cách mạng Văn hoá”. Ông cũng hạn chế vai trò ý thức hệ cộng sản trong đời sống hàng ngày và nới lỏng tự do. Ông đã phê phán chính sách về Tây Tạng bấy giờ và mời Dalai-lama trở về, nhưng Đức Dalai-lama đã không tận dụng cơ hội ấy.

Trong năm 1984, ông nói rằng “Chủ nghĩa Marx-Lenin không giải quyết được các vấn đề của Trung Quốc”. Ông ngợi khen chủ nghĩa tư bản và cho rằng, trong viễn cảnh, không có nó Trung Quốc sẽ không tiến bộ được.

Chính nhờ Hồ Diệu Bang mà Trung Quốc đã gặt hái những thành quả đầu tiên từ các vùng đặc khu kinh tế, những nơi cuốn hút đầu tư nước ngoài.

Đến năm 1986, những cuộc biểu tình đầu tiên của sinh viên nổ ra, phe bảo thủ khuyến cáo cuộc cải cách đi quá xa. Đặng lập tức biến Hồ Diệu Bang thành vật tế thần. Từ 1987 ông bị loại khỏi các chức vụ cao cấp.

Thế nhưng những hạt giống do ông gieo trồng tiếp tục nảy nở thành hoa trái trong suốt mấy chục năm qua.

Ông chết ngày 15/04/1989 vì bệnh tim. Nhà cầm quyền cộng sản đã định làm ngơ không tổ chức tang lễ. Ngay trong hai ngày 17-18/04, đám đông ủng hộ ông đã xuống đường với những biểu ngữ: “Một con người lương thiện và trung thực đã chết, còn bọn đạo đức giả và phát xít vẫn sống”.

Ngày 19/04, khoảng 10 ngàn người, chủ yếu là sinh viên đã làm tê liệt Ban chấp hành Trung ương Đảng. Họ hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo chế đô độc tài”, “Chính quyền pháp trị muôn năm!”. Để làm dịu cơn phẫn nộ của quần chúng, nhà cầm quyền đành chấp nhận tổ chức tang lễ cấp nhà nước.

Ngày 21/04/1989, gần 100 ngàn người đổ ra quang trường Thiên An Môn. Đây là cuộc phản kháng chống lại chế độ, đòi cải cách và dân chủ lớn nhất kể từ ngày nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Người ta liên hệ nó với buổi lễ của Giáo Hoàng John Paul II trên quảng trường Chiến Thắng, thủ đô Warsaw, Ba Lan trong ngày 2/06/1979 – một bước ngoặt mang tính quyết định, thức tỉnh lòng tin và sức mạnh của người Ba Lan đoàn kết bên nhau tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản 10 năm sau đó, tức là vào đúng thời điểm này của Trung Quốc.

Nhìn thấy những gì đã và đang biến chuyển ở Ba Lan, những tên phát xít Trung Nam Hải, đúng như sinh viên Trung Quốc gọi, đã nghiền nát đồng bào mình dưới xích sắt xe tăng trong đêm mồng 3 sang sáng 4/06/1989.

Người thứ hai là Triệu Tử Dương.

Ông Triệu đã giữ chức Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1980 tới 1987 và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1987 tới 1989.

Triệu Tử Dương là con trai một địa chủ giàu có ở tỉnh Hà Nam. Ông gia nhập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1932. Cha ông đã bị các thành viên của đảng cộng sản giết hại cuối thập niên 1940.

Từ năm 1951 ông đưa ra nhiều sáng kiến cải cách nông nghiệp tại Quảng Đông. Năm 1962, ông thực hiện giải tán hệ thống hợp tác xã, trả lại đất cho nông dân theo hình thức khoán. Ông cũng trừng phạt các cán bộ bị buộc tội tham nhũng. Năm 1965 ông được cử làm bí thư Đảng tỉnh Quảng Đông, dù không phải là uỷ viên Trung ương.

Cũng giống số phận của Hồ Diệu Bang, do ủng hộ cải cách của Lưu Thiếu Kỳ, ông bị cách chức bí thư đảng Quảng Đông năm 1967. Trong cuộc Cách mạng Văn hoá, ông thoát khỏi ám sát nhiều lần, sau đó bị bắt và bêu nhục trên đường phố.

Triệu Tử Dương được Chu Ân Lai khôi phục tư cách chính trị năm 1973, rồi chỉ định vào Uỷ ban Trung ương, làm bí thư thứ nhất tỉnh Phú Xuyên năm 1975. Với những cải cách của ông, sản xuất công nghiệp tăng 81% và nông nghiệp tăng 25% trong vòng ba năm. Đặng Tiểu Bình đã lấy mô hình Tứ Xuyên cho toàn cuộc cải cách kinh tế. Triệu Tử Dương được bầu làm uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị năm 1977, uỷ viên chính thức năm 1979 và Uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị năm 1982. Triệu Tử Dương ủng hộ chính sách đối ngoại mở, có quan hệ tốt với phương Tây.

Tháng 1 năm 1987, Đặng Tiểu Bình buộc Hồ Diệu Bang từ chức vì quá khoan dung với những sinh viên phản kháng. Triệu Tử Dương lên thay thế, còn ghế Thủ tướng của ông nhường lại cho Lý Bằng, một nhân vật bảo thủ cứng rắn.

Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều thành phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, tách biệt vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, hai năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.

Triệu Tử Dương luôn phải đối đầu với tình trạng tham nhũng của các quan chức và thành viên gia đình họ, cũng như phái bảo thủ đứng đầu là Lý Bằng trong chính sách kinh tế và tài chính. Từ năm 1989, khó khăn với ông ngày càng lớn, tới mức sinh mệnh chính trị bị đe doạ.

Và rồi cái gì đến sẽ đến. Sau khi Đặng Tiểu Bình ra quyết định dùng bạo lực đàn áp sinh viên nếu như họ không rút lui, từ cuộc họp ông được Ôn Gia Bảo, lúc bấy giờ là Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, tháp tùng, đi thẳng ra quảng trường Thiên An Môn nói chuyện với sinh viên, kêu gọi họ thôi tuyệt thực và đàm phán với chính phủ. Ông không thể tiết lộ kế hoạch của đảng mà chỉ dám nói một cách bóng gió: “… Các bạn còn trẻ, các bạn dễ dàng từ bỏ mạng sống như vậy sao?”.

Hành động đến với sinh viên chứng tỏ tình người và khí phách can đảm của một nhà cải cách, lúc ấy đang ở vị trí cao nhất trong Đảng. Không ai hiểu nỗi lòng của ông. Và ông đã không cứu được thảm kịch trong đêm ngày 3 qua 4/06/1979.

Là anh hùng của quần chúng trong chế độ cộng sản cũng có thể trở thành kẻ tự sát, kẻ thù của Đảng. Chính vì ủng hộ sinh viên, ông bị buộc từ chức Tổng bí thư và bị giam lỏng tại gia cho đến lúc qua đời, ngày 17/01/2005.

Đảng cộng sản Trung Quốc bằng mọi cách nhấn chìm cái chết của ông vào im lặng, ngăn chặn tất cả các buổi lễ bày tỏ sự đau buồn của dân chúng, có lẽ vì sợ tái lập một màn kịch Thiên An Môn mới tương tự như với người tiền nhiệm Hồ Diệu Bang.

Tân Hoa Xã chỉ thông báo vắn tắt “Triệu Tử Dương đã mất ở tuổi 85” ở phần tin tiếng Anh, còn phần tiếng Trung Quốc viết “Đồng chí Triệu Tử Dương đã chết”, không hề nói tới bất kỳ chức vụ nào mà ông đã giữ.

Trong khi đó, ngày 21/01/2005, tại công viên Victoria, Hồng Kông, 10.000 –15.000 người đã tham dự buổi lễ đốt nến tưởng niệm ông. Những buổi lễ khác được tổ chức trên khắp thế giới, đáng chú ý nhất là tại New York và Washington DC, với sự tham gia của các quan chức chính phủ Mỹ và những người bất đồng chính kiến.

Trong năm 2005, đảng cộng sản Trung Quốc đã làm vài động tác, có vẻ như hé mở cánh cửa phục hồi danh dự cho hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, nhưng với tình hình xã hội còn nhiều nan đề, mọi dự định lại phải cất vào tủ khoá kỹ.

Mặc dù vươn tới tiềm lực kinh tế hàng đầu thế giới, Trung Quốc vẫn đang là quốc gia mất cân bằng rất lớn. Chỉ số Gini, tức chỉ số chênh lệch giàu nghèo, của Trung Quốc – một nước gọi là có chế độ xã hội chủ nghĩa, cao hơn cả Mỹ – một nước với chế độ tư bản. Chỉ hai nước châu Á đứng trước Trung Quốc là Philippines và Malaysia. Chỉ số bất ổn xã hội của Trung Quốc là 0,5 vượt giới hạn nguy hiểm là 0,4. Trong năm 2008 người ta ghi nhận hơn 90 ngàn vụ bạo loạn, bãi công, biểu tình. [2]

Nhà cải cách Đặng Tiểu Bình đã nói: “Mục đích của xã hội chủ nghĩa là đảm bảo sự thịnh vượng cho dân tộc chứ không phải phân rẽ xã hội dưới quan điểm vật chất. (…) Nếu xuất hiện một giai cấp tư sản mới thì có nghĩa rằng chúng ta đã đi vào ngõ cụt”.

Vậy mà chưa bao giờ một bộ phận lớn người Trung Hoa lục địa giàu có nhiều ngày nay. Chế độ “ta zi dang” (con ông cháu cha, đặc quyền, đặc lợi) của Trung Quốc, vượt qua cả nước Nga thời Boris Jeltsin, tạo nên vô số tư bản đỏ trong nhiều ngành kinh tế. Theo thăm dò của tạp chí Fobers, 90% triệu phú của Trung Quốc thuộc giới “ta zidang”. [3]

Chương trình xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào mới bắt đầu, chưa mang lại kết quả gì. Trong tình này, vinh danh hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương đồng nghĩa với thừa nhận Đảng sai lầm, ăn cháo đá bát, phản bội lại đồng chí của mình. Điều này có nghĩa rằng Bắc Kinh sẽ châm lửa vào những thùng thuốc súng.

Kết luận

Việt Nam hôm nay chỉ là một bản sao chép thu nhỏ của Trung Quốc. Những nhà cải cách đi trước, vượt rào của Việt Nam đi đầu cũng đã phải chịu đựng bao nhiêu ê chề, cay đắng trong bất công và đểu cáng.

Hai ví dụ điển hình gần nhất cái gọi là “đổi mới” là ông Kim Ngọc và ông Trần Xuân Bách.

Ông Kim Ngọc (1917-1979), là cựu Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, người được mệnh danh là “cha đẻ của khoán hộ”, “cha đẻ của đổi mới trong nông nghiệp” ở Việt Nam.

Ông Trần Xuân Bách (1924 – 2006), cựu ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, người có chủ trương cải cách mạnh mẽ theo xu hướng đa nguyên, đa đảng khi trào lưu cải tổ do Gorbachev đưa ra.

Cho dù có được minh định bằng bao nhiêu giấy khen, huân chương, cho dù có đặt tên đường phố, trường học, không ai có thể bù đắp cho những người đã khuất và gia đình họ những tổn thất to lớn về tinh thần và cuộc sống vật chất vô cùng kham khổ mà họ đã phải nếm trải.

Tất cả chỉ là đạo đức giả, danh hão, một mớ giấy lộn hay những miếng kim loại vô giá trị, không hơn không kém! Sự tàn nhẫn và ngu xuẩn của những kẻ ác mãi mãi còn đó. Người chết không sống lại!

Và trớ trêu thay, còn nhiều tên ác quỷ và đồng đảng của chúng vẫn đang sống ngông nghênh, chảnh choẹ, phè phỡn nhìn con cháu mình (những thành phần ta zidang) hưởng thụ thành quả mà những người khởi xướng, đi trước bất hạnh ấy đã ươm trồng và bị chính bàn tay của chúng đày đoạ.

Tôi nhớ mãi lời ông Chu Đình Xương, người bác trong gia đình tôi bên ngoại, một cán bộ cách mạng lão thành, giám đốc Công an Trung Kỳ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, người bảo vệ lễ đài nơi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 trên quảng trường Ba Đình: “Con ạ, đừng bao giờ chơi với tụi cộng sản. Chúng nó bạc như vôi!”. ■

Warsaw, 3/06/2009.

Nguồn: http://ledienduc.wordpress.com

[1], [2]. [3]: Tư liệu và các trích dẫn trong bài đước lấy từ Vi.Wikipedia.org và Tuần báo Newsweek, ấn bản tiếng Ba Lan số 22, ngày 31/05/2009.


"Lạy ông" - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

“Lạy ông” là hai chữ đầu của câu nói: “Lạy ông tôi ở bụi này”.

Trước tòa án, bị can rất thường chối tội. Tuy nhiên, tòa án không xét xử một hồ sơ tội phạm đơn thuần theo lời khai của bị can. Chính những chất vấn từ phía thẩm phán công tố đối với bị can mới dồn bị can rơi vào hoàn cảnh mất khả năng che giấu sự thật trong một vụ án.

Ngày 08 tháng 05 năm 2009, tai thành phố Geneva, Thuỵ Sĩ, Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp đã nhóm họp với mục đích kiểm điểm vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Phiên họp này được sự tham dự của trên 70 quốc gia thành viên. Trong đó có đại diện của 60 quốc gia đã được phép phát biểu ý kiến. Cuộc kiểm điểm kéo dài 04 tiếng đồng hồ, kể cả 45 phút phụ trội. Ông Phạm Bình Minh, thứ trưởng ngoại giao của CSVN, trưởng phái đoàn Việt Nam, quốc gia đối tượng của kiểm điểm. Đây là một hồ sơ nhân quyền. Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc là biểu tượng của một tòa án. CSVN là “Nghi can” của tội phạm chà đạp nhân quyền. Các quốc gia “chất vấn CSVN” là biểu tượng của quyền công tố. Sau đây là lời khai của CSVN trước tòa án Nhân Quyền:

“Trình độ nhận thức của bộ phận nhà nước, kể cả trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các quy định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của nhà nước, do vậy có nơi, có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân”.

Nói ngắn và gọn: CSVN nhìn nhận có vi phạm nhân quyền. Đồng thời đưa ra hai lý do để tự biện hộ:

Một là: giới chức lãnh đạo địa phương cũng như trung ương không hiểu biết đầy đủ luật quốc tế về nhân quyên.

Hai là: nhiều địa phương không nắm vững luật pháp và chính sách của trung ương.

Hai lý do nêu trên nên gom lại thành một lý do duy nhất. Đó là sự ngu dốt luật pháp của nhà cầm quyền CSVN trung ương cũng như địa phương, luật quốc nội cũng như luật quốc tế. Sau khi luật pháp được ban hành theo đúng thủ tục và thời hạn luật định, không ai được phép viện dẫn sự ngu dốt luật pháp để vi pham luật pháp. Đó là một trong những nguyên tắc pháp lý trọng yếu giúp cho luật pháp có giá trị cưởng hành. Phải chăng chế độ Hà Nội không nắm rõ luật pháp đúng như họ đã “tự khai”? Thực ra luật quốc tế nhân quyền bao gồm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948) cộng với các công ước về quyền dân sự, chính tri; công ước về quyền kinh tế văn hóa xã hội là những văn bản luật pháp rất minh bạch và đơn giản. CSVN chỉ khai là họ (chính quyền trung ương và địa phương) “không nắm được các quy định của luật pháp quốc tế” về nhân quyền nhưng tránh không nói chính xác điều nào, khoản nào mà Hà Nội “không nắm rõ”. Muốn biết Hà Nội vi phạm nhân quyền vì dốt luật hay vì một ly do nào khác chúng ta hãy theo dõi những đối thoại giữa CSVN và các “thẩm phán công tố” trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ. Ngày 14/05/2009 Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ công bố phúc trình về cuộc kiểm điểm vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có những đối thoại đáng chú ý như sau:

Hoa Kỳ đòi hỏi CSVN hãy công nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và cho phép các chi nhánh của Hòa Hảo và Cao Đài hoạt động. CSVN bác bỏ đề nghị này của Hoa Kỳ. Như vậy, Hà Nội đàn áp quyền tự do tôn giáo vì độc tài chứ không vì “nắm không chắc” ý nghĩa của quyền tự do tôn giáo quy định trong luật quốc tế nhân quyền. Sức lớn mạnh của tôn giáo tại Việt Nam là một đe doạ trầm trọng đối với chế đô độc tài Hà Nội. Đó là lý do giải thích tai sao ngày 8 tháng 5 năm 2009, trong báo cáo đọc trước Hội Đồng Nhân Quyền Của LHQ, CSVN nhấn mạnh rằng: dân số VN trên 85 triệu người nhưng tín đồ các tôn giáo cộng gộp lai chi đạt con số 20 triệu người.

Canada đòi hỏi CSVN công bố số lượng người bị giam cầm vì lý do an ninh và tin tức về những người này. CSVN bác bỏ đòi hỏi vừa nêu của Canada. Sự thể này cho thấy tại VN còn rất nhiều tù chính trị. Đây là sự tố cáo CSVN đã trắng trợn vi phạm Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị mà Hà Nội đã ký cam kết tôn trọng.

Anh Quốc yêu cầu CSVN hãy mở ra những đối thoại giữa nhà cầm quyền và những tổ chức dân sự. Hà Nội bác bỏ yêu cầu vừa nêu. Tổ chức dân sự là những tổ chức hoàn toàn không có bàn tay chi phối của chính quyền. Tổ chức dân sự là những tổ chức do người dân tự đứng ra thành lập và điều hành nhằm thực hiện một số tác vụ theo đúng đòi hỏi của xã hội. Ngăn cấm sự ra đời của các tổ chức dân sự chế độ Hà Nội vừa chà đạp quyền tự do lập hội của luật quốc tế nhân quyền vừa tự tố cáo trước công luận CSVN là chế độ độc tài đến độ từ chối tiếp xúc với người dân, từ chối đối thoại với các tổ chức dân sự.

Thuỵ Sĩ yêu cầu CSVN hãy mời đặc sứ nhân quyền của LHQ vào Việt Nam kiểm tra nhân quyền trên mọi lãnh vực khác nhau. Hà Nội dứt khoát từ chối đề nghị này của Thuỵ Sĩ. Sự việc kia cho thấy thái độ gian dối của CSVN trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ ngày 08/05/2009. Thực vậy, một mặt CSVN khai rằng họ vi phạm nhân quyền vì họ “nắm không chắc” luật quốc tế nhân quyền. Mặt khác CSVN lại ngăn cấm đặc phái viên nhân quyền LHQ vào Việt Nam kiểm tra nhân quyền. Kiểm tra tức là hướng dẫn Hà Nội hiểu biết thế nào là nhân quyền trong những vụ việc cụ thể. Rõ ràng là Hà Nội khai một đường, hành động một nẻo.

Áo Quốc đề nghị Hà Nội cho biết số lượng trại tù và hoàn cảnh pháp lý của mỗi tù nhân. CSVN bác bỏ đề nghị của Áo Quốc. Hà Nội bao giờ cũng lớn tiếng khẳng định Việt Nam không có tù chính tri, tai sao trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ, CSVN lai che giấu tình trạng bắt bớ giam cam dưới chế độ CS?

Điều 19 của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị (ICCPR) đòi hỏi quyền tự do báo chí phải độc lập và tư nhân. Các quốc gia: Canada, Na Uy, Hà Lan, Anh, Mỹ, Phần Lan, Đức yêu cầu CSVN phải tôn trọng quyền tự do truyền thông đúng theo điều 19. Chế độ Hà Nội bác bỏ tức thời lời yêu cầu vừa nêu. Chế độ dân chủ là chế độ đối thoại. Đối thoại giữa người dân với người dân, giữa người dân với nhà cầm quyền và giữa những cơ quan công quyền với nhau. Không thể có đối thoại nếu không có tự do truyền thông. Tự do truyền thông là xương sống của chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ và nhân quyền như cá với nước. Mọi loại nhân quyền tại Việt Nam đều là bánh vẽ chừng nào nhà cầm quyền còn ngăn cấm quyền tự do truyền thông của tư nhân.

Tóm lại trong báo cáo nhân quyền đọc trước Hội Đồng Nhân Quyền LHQ, CSVN nhìn nhận họ đã vi phạm nhân quyền vì hiểu biết của Hà Nội về luật quốc tế nhân quyền rất hạn chế. Thế nhưng khi bị những quốc gia thành viên Hội Đồng Nhân Quyền LHQ yêu cầu CSVN tôn trọng nhân quyền theo từng điều khoản cụ thể thì Hà Nội đã phản ứng ra sao? Thưa rằng: Trong trường hợp này CSVN không thể bảo là họ không hiểu luật, Hà Nội đành ra mặt lì lợm bác bỏ những yêu cầu chính đáng của quốc tế về nhân quyền. Sự việc “đành ra mặt” vừa kể được gọi là “Lạy ông tôi ở bụi này”.

Nhìn vào trong bụi, LHQ thấy rất rõ: chà đạp nhân quyền người dân Việt Nam đích thực là “Chủ trương lớn của đảng và nhà nước” CSVN. Chủ trương này có mục đích bảo vệ sự tồn tại của một triều đình độc tài, bán nước và tham ô.

Đỗ Thái Nhiên



Màn khiêu vũ khó khăn của Yahoo tại Việt Nam


Douglas MacMillan, Bussiness Week 28/5/09

Cánh cửa chính đang mở rộng tại quốc gia Á châu này, nhưng đau đớn thay là sự việc phải né tránh áp lực của nhà cầm quyền trong chủ trương kiểm soát và kiềm chế hoạt động Internet, thông tin mạng của người dân.

Đại công ty internet YAHOO đang chuẩn bị để khuếch trương thương vụ tại Việt Nam. Nhưng trong khi đang bành trướng hoạt động tại quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á này, họ phải cẩn thận để ngăn ngừa trường hợp họ sẽ trở thành một đồng lõa của nhà cầm quyền trong những nỗ lực nhằm hạn chế người dân của họ truy cập mạng lưới Internet.

Việt Nam đang là một thị trường mới đầy hứa hẹn mà hãng YAHOO đang nhắm khai thác. Hơn 95% trong khoảng 18 triệu khách hàng Internet xử dụng YAHOO nhắn tin nhanh (Instant Messages) và email theo một thăm dò của hãng nghiên cứu TNS. YAHOO cũng đang trợ giúp tài chính cho những tụ điểm như Internet Cafés tại Saigon và những nơi khác. Rồi với sự thông dụng của hệ thống trang mạng cá nhân (Blogging Platform), đã châm ngòi cho việc ra đời YAHOO 360Plus với phiên bản Việt Ngữ vào tháng 5, 2008.

Nhưng công việc bành trướng thương vụ của YAHOO như thế lại đang bị trở ngại từ nhà cầm quyền trong chủ trương hạn chế người dân việc truy cập mạng Internet. Mùa Thu năm ngoái (2008), nhà cầm quyền đã thành lập “Cơ Quan quản lý Radio, Truyền Hình và Điện Tử”, là một bộ phận nhằm theo dõi và kiểm soát mạng lưới điện tử Internet. Cơ Quan này đã ra một sắc lệnh chính phủ, theo đó sẽ gia tăng hình phạt đối với những bài viết đả kích chính phủ được đăng tải trên trang mạng của mình. Theo tổ chức “Phóng Viên Không Biên Giới” – PVKBG – một tổ chức tranh đấu cho quyền làm người đặt trụ sở tại Paris, Pháp quốc, thì Sắc lệnh này cũng còn đòi hỏi những công ty cung cấp dịch vụ mạng Internet như YAHOO phải cung cấp cho họ những tư liệu, dữ kiện của khách hàng.

“Những kẻ thù” của mạng Internet

Từ Bản Báo Cáo tháng 3, tổ chức PVKBG đã liệt kê Việt Nam vào danh sách những quốc gia mà họ xem là “kẻ thù của Internet”. Trong đó, họ đã nêu lên khoảng 30 trường hợp “Bất đồng chính kiến mạng” (Cyber Dissident) đã bị nhà cầm quyền bắt giam từ 2002 – 7 người trong số đó vẫn còn đang trong lao tù – PVKBG cũng phê bình Đỗ Quý Doãn, Phó Bộ Trưởng Thông Tin & Liên Lạc về một lời tuyên bố của ông ta vào tháng 2 rằng “Một trang nhật ký cá nhân (Blog) là một trang thông tin cá nhân. Nếu một ai (blogger) xử dụng nó như một trang mạng thông tin, báo chí thì sẽ bị trừng phạt vì vi phạm luật”. Ông Doãn đã không hồi báo để trả lời câu hỏi của nhiều tổ chức, báo chí về lời tuyên bố trên.

Sự việc YAHOO đáp lại lời đòi hỏi của nhà cầm quyền (để nhắm canh chừng, theo dõi và gây khó khăn cho người dân Việt Nam khi xử dụng Internet) cho thấy những khó khăn khi họ hoạt động kinh doanh trong những quốc gia nào đã chứng tỏ sự bất khoan nhượng đối với sự tự do phát biểu trên mạng, cũng như khi phê bình hay đả kích nhà cầm quyền tại đây. Những công ty nào không tuân thủ những đòi hỏi của nhà cầm quyền sẽ có thể bị giới hạn hay ngăn cấm hoạt động làm ăn nếu không bị đóng cửa. Đối với những công ty nào chiều theo đòi hỏi của nhà cầm quyền thì đều bị những tổ chức hội đoàn đấu tranh cho Tự Do Ngôn Luận và Nhân Quyền chế nhạo là những kẻ hèn hạ như dê cừu.

Hãng YAHOO tại Trung Cộng đã bị chỉ trích dữ dội vì họ đã từng cung cấp những dữ kiện cá nhân của những ai truy cập Internet cho nhà cầm quyền Trung Cộng vào năm 2004, khiến cho nhà báo Shi Tao đã phải bị kết án tù giam 10 năm. YAHOO tại Trung Cộng hoạt động dưới tên Alibaba.com, mà YAHOO chỉ nắm một số nhỏ cổ phần trong đó. “Chúng tôi đã học một bài học khó khăn khi tiên phong làm việc tại những thị trường vừa mở cửa. Chúng tôi cũng đã chấp nhận những khó khăn cũng như đã cố gắng để trở thành một công ty hàng đầu trong thương trường cũng như trong vấn đề tôn trọng Nhân Quyền”, theo lời ông Michael Samway, Phó Giám Đốc và Phụ Tá Cố Vấn Trưởng Công Ty YAHOO.

Cũng theo YAHOO, nhà cầm quyền Việt Nam chưa hề gặp gỡ công ty YAHOO để đòi hỏi công ty này phải chiều theo chỉ thị mới. Thực ra, rất có thể trên giấy trắng, mực đen thì những công ty ngoại quốc (không do người Việt làm chủ) thì sẽ được miễn trừ chăng? “Chúng tôi chưa thấy những hành vi cụ thể nào từ nhà cầm quyền chứng tỏ rằng họ đang áp dụng những điều lệ mới đối với những công ty Internet nước ngoài”, Ông Samway đã nói như vậy. Tuy nhiên, YAHOO đang chuẩn bị những bước đi mà qua đó họ hy vọng sẽ tránh được những ràng buộc vô lối từ nhà cầm quyền Việt Nam mà một ví dụ điện hình là YAHOO đã thiết trí những máy chủ của hệ thống Việt Ngữ tại Singapore.

Những bloggers đang bị tù tội

Vào tháng 4/2008, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giam chủ nhân trang blog “Điếu Cày”, tức Nguyễn Hoàng Hải; một người dũng cảm, trung trực và kết tội ông với tội danh trốn thuế. Những tổ chức đấu tranh cho Nhân Quyền đã cho biết rằng sự bắt bớ này là một hình thức khủng bố nhằm trấn áp những luồng chỉ trích nhà cầm quyền trên hệ thống mạng Internet. Ông Vincent Brossell, một phóng viên thuộc tổ chức PVKBG đặc trách khu vực Á Châu Thái Bình Dương đã lên tiếng rằng: “Họ sẽ không thể bỏ tù tất cả những blogger nào quan tâm đến vận mệnh đất nước Việt Nam, nhưng họ sẽ bắt giữ những người nào nổi tiếng nhất, có tiếng nói dũng cảm nhất và cả những ai viết về những vấn đề nổi cộm nhất. Và đó là phong cách làm việc của họ.”

Colin Maclay, Giám Đốc Điều Hành “Berman Center for Internet & Society” từ trường Đại Học lừng danh Harvard cho rằng “việc ngăn cấm công chúng của nhà cầm quyền Việt Nam có thể có tác dụng ngược; nó sẽ là tiền đề cho một cuộc đối đầu với những công ty cung cấp dịch vụ mạng Internet toàn cầu, qua đó các nhà blogger bất đồng chính kiến đã xử dụng như một khí cụ hữu hiệu.

YAHOO cũng đang xử dụng những bước kế tiếp nhằm chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với những chính quyền nước ngoài. Tháng 10 năm 2008, YAHOO đã cùng với GOOGLE, MICROSOFT, Berman Center và rất nhiều tổ chức NGO vô vụ lợi khác đã gặp nhau thảo luận và tìm ra những hướng đi nhằm đối phó với những yêu sách từ những quốc gia khác. Tập đoàn này được gọi là “Global Network Initiative” đã gặp gỡ thường xuyên để thảo luận về những vấn đề này. Họ cũng đã mở ra những cuộc hội thảo đại chúng cũng như đã đưa ra những bản tin nhằm phản đối những sự việc cấm đoán như vậy trên hệ thống truyền thông đại chúng, tựa như sự chận đứng YouTube của Google tại Trung Cộng vừa qua.

Ngoài việc thiết trí những trang chủ tại Singapore, YAHOO còn cho biết là họ cũng đã thay đổi phương cách hoạt động và tư cách pháp lý để nhằm đáp ứng cho những hành động từ phía nhà cầm quyền. “Chúng tôi cần phải quan tâm và hành xử cho phù hợp với những phong tục, tập quán địa phương ở những nơi chúng tôi làm ăn, nhưng chúng tôi cũng quyết tâm giữ vững lập trường chính đáng bất di, bất dịch” ông Samway nói như vậy. Mặt khác, ông cũng còn thêm rằng ảnh hưởng của đầu tư từ ngoại quốc hiện nay rất quan trọng và là con số lớn tại một đất nước đang trong giai đoan mở mang như Việt Nam, so với Trung Cộng, một quốc gia có nền kinh tế phồn thịnh và phát triển hơn.

Những bước đi thận trọng của Google

Tình hình căng thẳng tại Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều phía, kể cả chính phủ Hoa Kỳ. Vào ngày 31 tháng 3, Dân Biểu Liên Bang Lorretta Sanchez (Đảng Dân Chủ-California) và 11 bạn đồng nghiệp trong Hạ viện Hoa Kỳ đã gởi một lá thư đến Giám Đốc Điều Hành công Ty YAHOO là Carol Bartz để yêu cầu công ty đừng cúi đầu với những đòi hỏi vô lý từ nhà cầm quyền Việt Nam để tiếp tay với họ trong việc kiểm soát và giới hạn trang mạng Internet nói trên. Ông Samway thuộc công ty YAHOO đã trả lời trên giấy trắng, mực đen rằng “Chúng tôi nhìn về phía trước để cùng tiếp tục làm việc với quý vị” trong vấn đề này.

Hãng YAHOO không phải là công ty duy nhất làm việc với Việt Nam trên lãnh vực này. GOOGLE trình làng qua mục “Tìm Kiếm” Search engine, Picasa với chia xẻ hình ảnh, và dịch vụ GOOGLE Groups; nhưng GOOGLE không cung cấp dữ kiện cá nhân của những chủ nhân các trang blog trong thị trường Internet nội địa, và họ cũng không lưu trữ dữ kiện cá nhân của những khách hàng người Việt Nam. “Khi chúng tôi quyết định cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tại Việt Nam, chúng tôi đã cố gắng làm sao để có thể bảo vệ được những khách hàng người Việt Nam từ bàn tay lông lá muốn bóp nghẹt tự do ngôn luận trên mạng của nhà cầm quyền tại đây”, cô Nicole Wong, Phụ tá cố vấn trưởng Hãng GOOGLE đã cho biết như thế. Hệ thống trang mạng đại chúng Facebook - vừa được chuyển dịch sang tiếng Việt vào tháng 12 vừa qua và có sự gia tăng hoạt động gần đây - từ chối không bình luận về vấn đề này.

Bảo vệ những lối vào những trang mạng này hiện là mối ưu tư hàng đầu của nhiều người. “Vào thời điểm một ai đó không được có quyền hội họp, họ cũng chẳng có quyền phát biểu, không có Tự Do báo chí thì một nơi thoải mái nhất, tự do nhất để tìm tư liệu trung thực và chính xác nhất trên thế giới bên ngoài lại là trang mạng Internet”. Đó là lời phát biểu của bà Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez.

Yahoo's Delicate Dance in Vietnam
Douglas MacMillan là ký giả thường trực của tuần báo Business Week tại New York.