Tuesday, March 31, 2009

TUỔI TRẺ – CHÍNH TRỊ và ĐẠO ĐỨC - Dũng Châu

CHUYỆN MỚI ... BÀI VIẾT CŨ
TUỔI TRẺ – CHÍNH TRỊ và ĐẠO ĐỨC

Trích từ: http://tailieu0.tripod.com/TuoiTreVaDaoDuc_unicode.html

Dũng Châu
(Marseille) 31-8-1999


Ba tháng đã trôi qua kể từ ngày hai bài góp ý của chúng tôi về các vấn đề của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và các đoàn thể ngoại vi Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia... được gởi đến đồng hương trên báo chí và qua hệ thống Internet. Nói là góp "ý", thực ra sự việc đó chẳng còn, và cũng chẳng có, "ý" gì nữa để mà góp. Toàn bộ sự thật đều đã rành rành phơi bày trước thanh thiên bạch nhựt. Các bạn bốn phương có thể chuyền tay nhau đọc lại những hồi ký của những thành viên sáng lập Mặt Trận xuất bản vào đầu thập niên 90 và đọc thêm các bài viết mới đây của LS Hoàng Duy Hùng và Ông Phạm Văn Thành để thêm chi tiết và tự tìm kết luận. Tôi cất công viết hai bài vừa qua, trước hết, như đã nói là tôi còn vướng mắc một nghi vấn: "nghi vấn về sự hiện hữu của lương tâm và lòng lương thiện nơi tuổi trẻ Việt Nam". Sau là nói lên sự hủy hoại niềm tin:

Ở quốc dân, hậu quả của các chính sách vô luân, bất nhân, phản bội giống nòi... của bọn CSVN.

Ở đồng bào hải ngoại, hậu quả do lề lối hoạt động của ban lãnh đạo MT có cán bộ trí vận cộng sản cài vào.

Tôi đã nhận qua e-mail khoản thời gian đó, trong hộp thư QNgo443401@A..., một số lượng "message" kỹ lục. Tính ra có tới hơn trăm "bài viết". Ngoại trừ một số ít có nội dung phong phú, bổ ích và lành mạnh... như thông lệ của các anh em bạn bè khắp nơi thuộc nhóm tranh đấu cho Nhân Quyền, Nhóm HV, VNQDĐ...; (Tôi dành lời chân-thành cám-ơn anh em nơi đây); phần còn lại là của quí vị thuộc Mặt Trận và các đoàn thể ngoại vi. Xin gọi quí vị là "anh chị em" cho thân mật. "Anh chị em" khó lòng mà chối. Mặc dầu chỉ có một, hai bài hiếm hoi, trên con số hàng trăm bài, tác giả tự xưng là đoàn viên MT, LMVNTD hoặc chuyên gia, thì số còn lại tự xưng là "thân hữu", không dính líu gì tới MT. Nội dung tất cả chỉ tập trung bêu xấu đời tư của LS Hùng và Ô Phạm văn Thành. "Anh chị em" là ai, viết để làm gì và tại sao phải viết thì độc giả dư thừa thông minh để biết. Ông Hùng và Ông Thành đã can đảm nói lên, và nói lại, những sự thật sinh tử của MT với những bằng chứng cụ thể đính kèm. "Anh chị em" có bổn phận, hay nhận chỉ thị cấp trên, phải trả đũa, phải hạ uy tín hai ông nầy, để vô hiệu hóa các bằng chứng của hai ông bằng mọi cách. Tôi rất thông cảm với tâm trạng của "anh chị em". Đeo nhãn hiệu Mặt Trận hiện tại cũng giống như đội nón cối. Vì thế ai cũng chối! "Anh chị em" qua hàng trăm "bài viết" gởi qua internet, đã đốt cháy một cách phủ phàng trong tôi lòng kính trọng Mặt Trận mong manh còn sót lại. Theo tôi thì có nhiều cách để trả đủa, nhưng "anh chị em" đã xử dụng những cách tồi nhứt. Thật tôi không biết phải xếp các "bài viết" của "anh chị em" vào thể loại nào! Nếu chữ viết mà biết hổ-thẹn thì chắc chúng phải đổi ngay sang màu đỏ! Cả trăm bài viết của "anh chị em", bài nào cũng tệ quá. Người có giáo dục không ai viết thế! "Anh chị em" còn mập-mờ dùng tên Ngô Dũng, Pháp Quốc (vì tôi biết "anh chị em" đã biết tôi là ai, tên gì) - làm thơ đả kích nhóm Tiên Long của các Ông Phạm Văn Thành, Lê Hoàn Sơn, Phạm Anh Dũng. Tiếc bài thơ nầy con cóc quá, không có khả năng đâm thủng bị thóc. MT thừa "chuyên gia" ám-sát, giết người... như "le professionnel". Làm sạch-sẻ không để lộ tì vết tung tích, nhưng MT lại thiếu "chuyên-gia" làm thơ. Cho nên không cảm được ai. Vì thế không ly gián được ai. Sẵn tôi cũng cho "anh chị em" biết luôn bút hiệu khác của tôi khi làm thơ chua là "Người Mạc Xây". "Anh chị em" cứ tự tiện lấy mà dùng để mai sau chọc bị gạo. "Anh chị em" cũng "khai sinh" tên Hoàng Đức Khâm, mạo-nhận là thân tộc của Hoàng Duy Hùng, để nhục mạ ông nầy. Cụ Hoàng Văn Đại, thân sinh Hoàng Duy Hùng lên tiếng phủ nhận sự hiện-hữu của "Hoàng Đức Khâm". "Anh chị em" liền mạo danh cụ HoàngVăn Đại cũng lên tiếng nhưng để gián tiếp xác nhận sự hiện hữu của "Hoàng Đức Khâm".

Làm việc nầy "anh chị em" không qua mặt được ai. "Anh chị em" dùng mọi cách để triệt hạ uy tín người khác. Tổn đức nhứt là cách viết nặc danh dựng chuyện đời tư, với những chuyện động trời mà có hay không thì chỉ có... trời mới biết! Người ta cứ nói rằng tác giả các lá thơ nặc danh ở hải ngoại nầy thuộc Mặt Trận hoặc các đoàn thể ngoại vi. Người ta cũng nói Mặt Trận và các đoàn thể ngoại vi "đâm bị thóc, chọc bị gạo" để phá nát cộng đồng. Tôi thì hoang mang, không tin. Mặt Trận dầu sao cũng đã là một tổ chức chống cộng có thành tích lẫy lừng. Ai mà làm vậy! Nhưng qua hàng trăm "bài viết" nầy thì tôi bị thuyết phục, phải tin. Không những tin mà còn xác nhận rằng nghề thư rơi, vu khống, đâm thọc của "anh chị em" đã đạt đến trình độ siêu đẳng. "Anh chị em" rất xứng với danh từ chuyên gia, "le professionnel". Tôi xác-nhận tác giả của hàng trăm "bài viết" nầy không truy tầm được và nội dung hàng trăm "bài viết" nầy đều mang tính cách vu khống. Tất cả đều được gởi lên từ các địa chỉ sau:

Quanghungviet@hotmail.com, som_maitran@hotmail.com, quaden@hotmail.com, chungsuc@hotmail.com, chungsuc@yahoo.com.

Những "bài viết" nầy ai cũng có thể viết được. Vì đặt chuyện thì ai không đặt được? Nhưng không ai viết ra vì con người có ác ôn lắm thì dầu sao cũng còn sót lại chút lương tâm và lòng lương thiện. Cho nên thơ nặc danh có nội dung nhục mạ và vu khống là kết quả của các đầu óc bệnh hoạn. Còn không là của những người tư tưởng được vun bồi uốn nắn từ nhỏ bằng đạo đức duy vật súc vật cộng sản, có khuynh hướng gây tội ác. Tôi nhấn mạnh duy vật súc vật, là để phân biệt với khuynh hướng duy vật của các nhà khoa học. Nói chung là của những đầu óc không bình thường. Tôi không muốn ghép "anh chị em" vào thể loại "đầu óc không bình thường". Tôi muốn nghĩ rằng "anh chị em" dầu sao cũng còn một cửa thoát. Đồ tể bỏ dao xuống còn thành Phật nữa là! Tôi không muốn xếp "bài viết" của "anh chị em" vào "thùng rác". Tôi muốn giữ chúng như là một bằng chứng. Bằng chứng là "anh chị em" trong Mặt Trận và các đoàn thể ngoại vi viết thư nặc danh để nhục mạ đời tư cá nhân những người vạch trần sự thật của Mặt Trận!

"Anh chị em" cũng đã viết bài sỉ vả tôi sau khi khi hai bài "góp ý" của tôi được phổ biến. "Anh chị em" cho tôi là "thằng ba trợn", là Việt Cộng. Chỉ vì tôi biết về CS nhiều quá. Lý-luận của "anh chị em" là chỉ có Việt-Cộng mới rành Việt-Cộng. Thì ra "anh chị em" cũng là "professionnel" của nghề đeo dép râu, chụp nón cối cho người khác. Chư quân tử hải ngoại người nào rành về Việt Cộng thì nhìn gương tôi mà thận trọng tấm thân! Tôi cũng xin thưa là tôi ít khi nói tuổi đời của mình cho người khác biết. Nhưng nay xin tâm sự là tôi ở lớp tuổi của những người chưa trưởng thành thì mất nước. Chụp nón cối cho tôi thì rất tiếc, đầu tôi vì vậy không vừa. Tôi không dám nhận mình là "tuổi trẻ" của tuổi trẻ. Chỉ có thể tôi đang bước vào giai đoạn trẻ của tuổi già. Tôi cũng sẵn dịp xin thưa là kiến thức về CS của tôi hiện có là do công trình học hỏi của tôi nơi một người mà tôi tự nhận làm thầy. Đó là ông Phạm Nam Sách. "Anh chị em" mang cho tôi đôi dép râu chỉ vì tôi rành CS như CS. Vậy ông Phạm Nam Sách "anh chị em" mang cho ông ta bao nhiêu đôi? Tôi thì tin nơi Trời, Phật, Chúa. Thấy kiểu làm "chính-trị" của "anh chị em"tôi hãi quá! Đạo đức ở chỗ mô?! Chỉ sợ vô phúc mà đất nước lọt vào tay quí "anh chị em". Có khác chi phường Việt Cộng. Dân, nước thôi còn gì!. Cả trăm "bài viết" phần lớn "anh chị em" đều lấy Phật, Chúa ra mà tụng. Tụng kiểu nam mô một bồ dao găm, khẩu Phật tâm xà. Ôi nghiệp-chướng! Nên tôi không dám lấy lời của các đấng thiêng liêng mà dạy cho "anh chị em". Tôi chỉ muốn lấy một lời mà ông Sách thường khuyên tôi để gởi đến: "hãy cố gắng giữ được tấm lòng". Tấm lòng "yêu nước như yêu nhà thương dân như thương thân". Đó là cái "đức" của người làm chính trị. "Anh chị em" nghe mà suy-gẫm. Tóm lại, tôi có lời khen thành-thực: "Anh chị em" giỏi lắm! Nhà nghề, "Le Professionnel" có khác. Làm chi cũng nhanh nhẩu và khéo léo hơn người. Trong một thời gian ngắn thế mà viết cả trăm lá thư nặc danh! Hỏi thật, việc nầy "anh chị em" lãnh thù lao bao nhiêu?. "Kẽ Giết Mướn" - "Le Professionnel", tựa đề của một cuốn phim. Tiền trao là bắn cái "đùng"! Nhìn việc "anh chị em" làm, Chủ-Tịch Hoàng-Cơ-Minh chắc cũng phải căm phẫn mà ngậm hờn nơi chín suối!

Tôi tạm gọi "Anh-Chị-Em", nói để cho thân mật. Nhưng tôi biết thế nào cũng có người bắt bẻ: ai anh chị em gì với mấy người mà thân với mật?! Nhưng tôi cũng gọi vậy, vì tôi còn muốn dẫn chứng thêm cho "anh chị em" thấy MỘT ÂM MƯU LỚN CỦA MẶT TRẬN trong một bài viết nhỏ sắp tới. Nhất là các bạn trẻ. MỘT ÂM MƯU CÓ TẦM PHÁ HOẠI KINH KHỦNG. NÓ CÓ THỂ CẢN TRỞ TIẾN TRÌNH KHAI TỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CỦA QUỐC DÂN TA VÀ GÂY THÊM NHỮNG TRỞ NGẠI MỚI TRÊN CON ĐƯỜNG HÒA NHẬP VÀO TRÀO LƯU THẾ GIỚI CỦA ĐẤT NƯỚC TA. Âm mưu của ban lãnh đạo Mặt Trận ngây thơ(?), ngồi đó để làm vì... chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ trí vận cộng sản VN.

Nhưng trở lại vấn đề bài hôm nay, tôi xin tiếp tục cởi mở những vướng mắc còn lại biểu lộ qua cả trăm "bài viết" của "anh chị em" về tính ngoại vi của Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia đối với Mặt Trận, và các vấn đề "bí ẩn" của Mặt Trận, như việc tử trận của Chủ-Tịch Hoàng Cơ Minh và tình trạng tài chánh của Mặt Trận. Rất có thể "anh chị em" nhất là các anh em trong hội Chuyên Gia, khi gia nhập không biết gì về những chồng chéo nầy.

Trước hết là tính ngoại vi. Thật khó mà kết luận một đoàn thể A là một bộ phận ngoại vi của đoàn thể B nếu chỉ thấy trong đoàn thể A có vài đoàn viên của đoàn thể B. Nhưng người ta có thể kết luận một cách dễ dàng rằng đoàn thể A là một bộ phận ngoại vi của đoàn thể B nếu thành phần lãnh đạo của A là đoàn viên của B. Đoàn viên của A có bổn phận phải thi hành chỉ thị của cấp lãnh đạo mình. Nhưng cấp lãnh đạo nầy lại phục tòng mệnh lệnh của ban lãnh đạo B, vì họ là đoàn viên của B. Tức đoàn-viên của A phải thi hành những mệnh lệnh đến từ một cấp nào đó của B, hoặc cấp lãnh đạo của B, mà mình hoàn toàn không biết. Đó là ý nghĩa của tính ngoại vi.

Bây giờ chúng ta chỉ cần chứng minh ban lãnh đạo của Liên Minh Việt Nam Tự Do và ban lãnh đạo hội Chuyên Gia trực thuộc Mặt Trận thì chúng ta đã chứng minh được tính ngoại vi của các đoàn thể nầy đối với Mặt Trận. Tôi nghĩ theo lẽ mình phải chứng minh việc nầy từ lâu. Mình cứ ỹ y rằng hể chuyện mà ai cũng biết thì nó đã trở thành sự thật hiển nhiên. Bây giờ thì hơi trễ. Nhưng chắc chắn chưa quá trễ. LS Hùng và Ông Phạm Văn Thành đã đưa ra những bài viết của các ông thật đúng lúc. Mặc dầu, đã và đang diễn tiến một âm mưu (sẽ nói tới bài sau), và Mặt Trận sẽ tan thành mây thành khói trong thời gian tới. "NƯỚC CỐT" CỦA MẶT TRẬN SẼ LÀ ĐẢNG VIỆT TÂN (Việt Nam Canh Tân Đảng). Đây là một dữ kiện hoàn toàn mới đi đôi với một âm mưu mới.

Hiện tượng ai cũng dấu lý lịch Mặt Trận của mình cho ta thấy phần nào của vấn đề. Nhưng tôi vẫn tin các bạn trẻ của các tổ chức nầy cũng còn có người thành thật và thực tình không biết.

Liên Minh Việt Nam Tự Do (LMVNTD) được thành hình vào khoảng 1991-1992, do các Ủy Ban Chống Kinh-Tài Việt Cộng từ khắp các nơi tụ về Paris hội họp tạo thành. Các Ủy Ban nầy được điều động trực tiếp bởi các cấp Thành Bộ, Chi Bộ của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Việt Nam (MTQGTNGPVN). Ai hoạt động chính trị thường xuyên tại Paris cũng nắm vững việc nầy. Ban đầu để khỏi bị dị nghị, Mặt Trận (MT) vận động để Tổng Thư Ký đầu tiên của LMVNTD là ông Nguyễn Vô Kỷ. Ông này là đoàn viên "ẩn tế", tức không ra mặt, của MT. Hiện tại ông Kỷ không còn là thành viên MT. Phó Tổng Thư Ký là ông Nguyễn Ngọc Đức.

Sau khi đủ lông cánh, MT loại ông Nguyễn Vô Kỷ và thay thế bằng Bác Sĩ Nguyễn Trọng Việt. Ông Việt hiện là Ủy Viên Trung Ương Ban Chấp Hành Đảng Bộ Hải Ngoại - Đảng Việt Tân.

Đương kim Tổng Thư Ký của LMVNTD là ông Nguyễn Ngọc Đức. Bí danh trong MT và trong đảng Việt Tân của ông Đức là Lý Quang Đức. Ông Đức là Ủy Viên Tổng Bộ Chính Trị Đảng Việt Tân. Ông Đức còn là đoàn viên của MT từ năm 1984, thuộc chi bộ Paris, mang bí-số C.113. Năm 1985 ông thất cử trong chức vụ Xứ Bộ Trưởng Xứ Bộ Pháp. Ông thua phiếu cụ Bùi Trịnh Hữu và ông được cụ Hữu mời làm Phó Xứ Bộ. Khi Cụ Hữu bạo bệnh thất lộc, ông Đức lên thay vào năm 1988. Như vậy LMVNTD là tổ chức ngoại vi vừa của MT vừa của đảng Việt Tân. MT hay đảng Việt Tân muốn LMVNTD công bố chương trình chính trị "GIẢI PHÁP XÂY DỰNG DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM", và xem "những người CSVN là một thành phần của dân tộc" thì chỉ cần ra chỉ thị để ông Nguyễn Ngọc Đức thi hành. VÀ ÔNG ĐỨC ĐÃ THI HÀNH NHƯ TA ĐÃ THẤY. MT HAY ĐẢNG VIỆT TÂN MUỐN LMVNTD ĐĂNG NHỮNG BÀI BÁO CA NGỢI CÔNG LAO CỦA ĐẢNG CSVN VÀ HỒ CHÍ MINH thì chỉ cần ra lệnh cho ông Nguyễn Ngọc Đức thì các bộ phận ngôn luận của LMVNTD cứ vậy mà đăng. Và các cơ quan ngôn luận của LMVNTD cũng đã đăng. Tôi biết chắc "anh chị em" những người thực sự chống cộng không ai đồng ý với chương trình chính trị trở cờ nói trên, và cũng không ai đồng ý cho cơ quan ngôn luận của LMVNTD trở thành cơ quan tuyên truyền cho Việt Cộng. Tôi cũng biết chắc những người viết bài cho LMVNTD rất lấy làm bực mình khi thấy BÀI VIẾT CHỐNG CỘNG CỦA MÌNH NGỒI KẾ BÊN BÀI VIẾT CA NGỢI CS. Hỏi: "Anh chị em" có được tham khảo ý kiến về các việc nầy hay không? Nhưng hỏi để mà hỏi. Biết chắc "anh chị em" không ai dám trả lời! Nhưng "anh chị em" nghĩ gì nếu lệnh ban xuống cho Ông Đức có sự đóng góp của “cán bộ trí vận CS”? Cả trăm "bài viết" của anh chị em hầu như bài nào cũng có ý muốn "lấy thúng úp voi" để cho rằng LMVNTD là một đoàn thể độc lập. Một bài viết duy nhất không có tính cách nặc danh, tác giả Quốc Trọng Lê Trọng Việt viết ngày 26-7-1999, tựa đề "Khai Dụng Phản Kháng Hay Tiêu Diệt Phản Kháng", vừa úp thúng vừa chửi khéo người khác rằng: "Nhận định rằng LMVNTD là một tổ chức ngoại vi của MTQGTNGPVN rõ ràng là thiếu suy nghĩ và thiếu cơ sở lý luận vững chắc, nếu không muốn nói là có chủ tâm đánh phá".

LMVNTD là ngoại vi của Mặt Trận thì người ta nói LMVNTD là ngoại vi của Mặt Trận. Người ta thấy vậy thì người ta nói vậy chớ chẳng có gì mà phải suy nghĩ với lý luận. Người ta nói khác mới nguy, mới là đánh phá. Tôi nói đeo nhãn hiệu MT bây giờ cũng giống như đội nói cối. Ai cũng dấu. Ai cũng chối. Ông Việt vừa chối vừa chửi nhưng không hay. Chối như kẻ ăn vụng bột không liếm sạch mép. Chửi người vì thế đâm ra chửi lại mình. Tôi không nghĩ rằng "anh chị em" kéo xe thổ mộ đã thành thói quen nên chỉ lý luận trên căn bản sự vật, sự thể mà mình chỉ thấy he hé. Còn Ông Lê Trọng Việt ngồi trên xe thổ mộ hay kéo xe thổ mộ? Biết chắc rằng ông không phải là xà ích đánh xe đâu!

Hội Chuyên Gia được sáng lập do ông Nguyễn Ngọc Danh, bạn chí thân của Đồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa, tức cháu nguyên cố Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Văn Linh. Ông Nghĩa đã từng hoạt động lâu năm trong một vị trí lãnh đạo MT. Bạn đọc có thể biết thêm nhân vật nầy qua các quyển hồi ký của các sáng lập viên MT. Ông Nguyễn Ngọc Danh nguyên và hiện là Tổng Thư Ký của hội Chuyên Gia toàn thế giới, kiêm phân hội trưởng tại Pháp và đồng thời là Ủy Viên Tổng Bộ Chính Trị Đảng Việt Tân. Ông đã từng là Khu Bộ Trưởng Khu Bộ Châu Âu của MT từ năm 1985. Hội Chuyên Gia cũng đã từng chịu sự dìu dắt của ông Vũ Quí Kỳ (chủ tịch). Ông Kỳ là đoàn viên MT với bí danh Nguyễn Trọng An, đồng thời là Ủy Viên Đảng Bộ Hải Ngoại Đảng Việt Tân. Đương kim chủ tịch hội Chuyên Gia là ông Nguyễn Minh Quân. Ông này cũng là đảng viên đảng Việt Tân: Ủy Viên Ban Chấp Hành Đảng Bộ Hải Ngoại. Vậy Hội Chuyên Gia cũng là tổ chức ngoại vi vừa của MT vừa của đảng Việt Tân. MẶT TRẬN VÀ ĐẢNG VIỆT TÂN MUỐN HỘI CHUYÊN GIA TUYÊN BỐ "SẴN SÀNG VỀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC" thì chỉ cần ra lệnh cho các ông trong ban lãnh đạo. Và ban lãnh đạo hội Chuyên Gia đã nghiêm chỉnh thi hành. "Anh chị em" đang sẵn sàng.

Người ta nói tư tưởng Đông và Tây khác nhau. Tôi thì học chưa tới cả Đông lẫn Tây nên không biết nó khác ở chỗ nào. Với tôi thì Đông và Tây chỉ khác nhau nơi... cái đầu và cái bụng. Tây cho rằng trong đầu chứa "chất xám". Đông cho rằng "Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung", kinh luân khởi ở chỗ trên bụng, binh giáp giữ ở giữa lưng. Tôi có nói "anh chị em" là đám trí thức rỗng ruột. Tôi không dám nói "anh chị em" không có gì trong đầu. Tôi nghĩ "anh chị em" chắc đã "xổ" kinh luân binh giáp hết ra ngoài cho nên trong bụng không còn thứ chi ngoài thứ ấy! "Anh chị em" học càng cao thì tôi phải nói càng nặng. Chỉ tội và thương cho những "anh chị em" có thực tài, đã làm rạng danh nòi giống ta trong mọi lãnh vực trên khắp năm châu. Thương và tội chỉ vì không biết mà trao thân lầm tướng cướp. Còn "anh chị em" nào biết mà cứ giả mù nhìn lổ thì "anh chị em" chỉ có tài mà không có đức. Thứ thất đức ấy chỉ biết lo vinh thân phì gia. Dân đói việc ấy có mắc mớ gì tới tôi! Nước mất thì đó là việc của kẻ ... thất phu. Làm chính trị thất đức như vậy thì không mất nước thì cũng mất dân. Ông Thiệu vừa bất tài vừa thất đức nên thua mất nước. Cộng Sản Việt Nam đang bị mất dân.

Cả trăm "bài viết" của "anh chị em" cũng không ít lên tiếng bênh vực hội Chuyên Gia. Có "anh chị em" còn hung hăng sỉ vả những người cho hội Chuyên Gia là ngoại vi của MT, cho những người nầy nói dối và còn đòi vả miệng. Tôi không muốn dồn ép ai. Muốn chối thì cứ việc chối. Nhưng đòi vả miệng người ta thì ai sẽ vả miệng mình đây?

Tôi chỉ muốn nói thêm với "anh chị em", nhất là những bạn trẻ, một vài dòng thêm về đạo đức chính-trị.

Tôi ở trời Tây xa lắc nầy cũng nghe vang dội lời kêu gào của các bạn trẻ đòi lớp già nua trao lại "bó đuốc". Nghe qua tôi rất đỗi vui mừng. Rồi ra thì dân ta cũng có hậu duệ của Trần-Quốc-Toản. Một vị tiểu anh hùng 17 tuổi đã giận dữ bóp nát trái cam trong tay chỉ vì các bô lão trong hội nghị Diên Hồng không cho tòng quân đánh giặc. Nhưng vô phúc cho dân mình ở chỗ là các bạn trẻ muốn đuổi các bô lão Diên Hồng về vườn!. Các bạn trẻ muốn cầm đuốc một mình. Phải hồi còn chủ tịch Hoàng Cơ Minh mà anh em hăng vậy thì CSVN đã bị treo cổ từ lâu rồi!

Tôi có quen ông Phạm-Nam-Sách ở San Diego, các bạn trẻ chắc cũng biết. Ông thì xem tôi như bạn. Nhưng tôi thì xem ông như thầy. Có việc khó tôi thường thỉnh ý của ông. Ông thường tâm sự với tôi rằng: "Khi mình cảm thấy đủ khả năng để cứu dân dựng nước thì mình đã không còn trai tráng". Ông bằng tuổi mẹ tôi, 67 tuổi, trí tuệ linh mẫn và còn rất khoẻ. Vậy mà ông chỉ dám nói "cảm thấy đủ khả năng". Khiêm nhượng luôn luôn là một đức tính tốt. Nên tôi có lòng khuyên các bạn trẻ, nhất là các bạn thích làm chính trị, học đức tánh đó. Nhưng tôi lại hoàn toàn đồng ý nếu các bạn trẻ đòi hỏi lớp già đang lãnh đạo các tổ chức của "anh chị em" trao lại cho mình bó đuốc. Các bạn trẻ hãy mạnh dạn tề gia trước đi rồi hãy ra trị quốc. Đảng Việt Tân tôi sẽ nói những gì tôi biết vào bài tới. Như thế tôi vừa chứng minh với "anh chị em" được tính chất ngoại vi của LMVNTD và Hội Chuyên Gia đối với MT, đồng thời công bố một dữ kiện mới là

SỰ HIỆN HỮU CỦA ĐẢNG VIỆT TÂN. ĐẢNG NẦY LÀ "NƯỚC CỐT" CỦA MT, HIỆN NAY CÒN TRONG BÓNG TỐI VÀ KIỂM SOÁT LMVNTD VÀ HỘI CHUYÊN GIA. ĐẢNG VIỆT TÂN XUẤT HIỆN ĐỂ SAU ĐÓ MẶT TRẬN TAN THÀNH MÂY THÀNH KHÓI.

Chụp MT thì như chụp vào khói vào mây. Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh sống chết rồi ai biết hỏi ai.

TIỀN BẠC CỦA CẢI MT RỒI CŨNG THEO MT MÀ THÀNH MÂY THÀNH KHÓI. NGAY TỪ BÂY GIỜ TÌM ĐƯỢC MỘT ĐOÀN VIÊN MT LÀ BẮT ĐẦU THẤY KHÓ RỒI!

Kế đến là việc công bố biến cố đền nợ nước của Chủ Tịch Hoàng-Cơ-Minh. "Anh chị em" cho rằng đây là vấn đề thuộc phạm vi gia đình và của tổ chức. Không ai có quyền xía vào. LS Hùng đặt nghi vấn tại sao chủ tịch Hoàng-Cơ-Minh đã tử trận từ lâu mà sao vẫn tiếp tục tuyên bố rằng ông còn sống và đang lãnh đạo kháng chiến tại quốc nội? Tôi biết được tin rằng có người chứng kiến trận đánh đó hiện ở Thái Lan và sẵn sàng về làm chứng. Ai cũng nói ban lãnh đạo MT nói dối. "Anh chị em" thì nói người ta đặt điều. Tôi thì cho rằng "Anh chị em" nói dối cũng rất chuyên nghiệp "professionnel". Trong bài góp ý tôi có nêu nghi-vấn: "CHỦ TỊCH HOÀNG-CƠ-MINH CHẾT VÌ NỘI PHẢN. CÓ ĐẾN 200 ĐOÀN-VIÊN CÙNG CHẾT VỚI ÔNG." Anh em bị bắt trong các đợt Đông Tiến còn trong tù CS đã nói như thế. Và tôi đã hỏi "anh chị em": "Các bạn trẻ biết gì về việc nội phản nầy?". Trong hơn trăm "bài viết", không có đoạn nào nói gì về việc nầy". Sự im lặng của "anh chị em" cũng rất nhà nghề "professionnel"!

Tôi muốn nói là biến cố đền nợ nước của Chủ Tịch Hoàng-Cơ-Minh cùng 200 chiến hữu MT không còn thuộc phạm vi đoàn thể hoặc gia đình. Nó đã thuộc về lịch-sử. Người hi sinh vì nước phải được Tổ Quốc ghi nhớ công ơn. Việc đòi hỏi MT phải công bố sự thật của LS Hùng rất chính đáng. Tôi còn muốn nói thêm biến cố đó không còn nằm trong vòng gia đình và tổ chức vì tác nhân gây nên biến cố đó là Việt Cộng nằm vùng trong đầu não của tổ chức. Đó không còn là việc của gia đình hay tổ chức. Đó là việc của người Quốc Gia chống Cộng Sản. Tố cáo trước công luận việc nầy là công việc của mọi công dân Việt Nam yêu chuộng tự do, công bình và công lý. Không ai muốn khai tử MT. NGƯỜI TA CHỈ ĐÒI HỎI PHẢI LẬT MẶT VÀ XÉT XỬ THÀNH PHẦN VIỆT CỘNG NẰM VÙNG TRONG BAN LÃNH ĐẠO MT ĐỂ TRẢ THÙ CHO CỐ CHỦ TỊCH HOÀNG-CƠ-MINH VÀ HƠN 200 CHIẾN HỮU. ĐÂY LÀ ĐÒI HỎI CỦA LƯƠNG TÂM VÀ CÔNG LÝ. Đây cũng là mấu chốt của mọi vấn đề. Trong bài góp ý vì thế tôi có đặt câu hỏi "CHE DẤU VIỆC NẦY CÓ LỢI CHO AI?". Hơn trăm bài viết cũng không thấy ai nói đến việc nầy. Sự im lặng lần nữa cũng rất nhà nghề "professionnel"!

"Anh chị em" không trả lời thì tôi xin giải đáp: CÓ LỢI CHO BỌN VIỆT CỘNG NẰM VÙNG CHỚ CHO AI! Chủ Tịch Hoàng-Cơ-Minh còn sống, không có ai chết, thì làm gì có thủ phạm? Nay mai, MT tan vào khói vào mây. Muốn trả thù thì biết ai mà trả?! Các bạn trẻ nghĩ gì?

Còn vấn đề tiền bạc của MT thì LS Hùng đặt câu hỏi sao chưa chịu công bố? "Anh chị em" trả lời đại khái là cũng thuộc phạm vi của tổ chức. Không ai được quyền xía vào. Tôi muốn nói nó không còn thuộc phạm vi của tổ chức. Nó thuộc về phía người Quốc Gia chống cộng sản. Bọn cộng sản đang dùng “CỦI ĐẬU QUỐC GIA” để “NẤU ĐẬU QUỐC GIA”. DÙNG TIỀN BẠC CỦA NGƯỜI CHỐNG CỘNG để CHỐNG LẠI NGƯỜI CHỐNG CỘNG. Dùng tiền bạc của người chống cộng tuyên truyền làm lợi cho Việt Cộng. NGƯỜI TA ĐÃ THẤY ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ THÂN CỘNG CỦA LMVNTD VÀ HỘI CHUYÊN GIA. NGƯỜI TA CŨNG THẤY CHỦ TỊCH HOÀNG-CƠ-MINH SA CƠ MÀ TỬ TRẬN CŨNG VÌ TRONG ĐẦU NÃO MT CÓ VC NẰM VÙNG. NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG CÓ THẨM QUYỀN ĐÒI HỎI MT PHẢI CÔNG BỐ VIỆC TÀI CHÁNH CỦA MT. "Anh chị em" có người sỉ vả tôi, cho tôi là Việt Cộng hay sao mà đòi kiểm kê MT. "Anh chị em" nên tự hỏi lấy mình.

NGƯỜI TA ĐANG CÓ MỘT ÂM MƯU LỚN. MẶT TRẬN SẼ TAN THÀNH KHÓI THÀNH MÂY! TẠI SAO? ĐẢNG VIỆT TÂN SẮP CHÍNH THỨC CÔNG BỐ HOẠT ĐỘNG CÔNG KHAI. HOẠT ĐỘNG CÔNG KHAI ĐỂ LÀM GÌ? "ANH CHỊ EM" BIẾT GÌ VỀ CHUYỆN NẦY?

Hẹn gặp "anh chị em" trong bài "NIỀM TIN ĐÃ MẤT 2" sắp tới.

DŨNG-CHÂU
(Marseille) 31-8-1999


Căn-Bịnh Trầm-Kha Bất-Trị - ThanhThủy

ThanhThủy

Vấn-đề Kết-hợp để Thống-Nhứt hay Hòa-Hợp Hòa-Giải giữa những đối-tượng hay giữa những tổ-chức với nhau để tạo sức mạnh hầu dễ-dàng đạt được mục-tiêu được vạch ra cho một nhu-cầu nào đó quả thật là điều rất cần-thiết mà ai cũng thừa nhận. Tuy nhiên, những việc rất cần-thiết nầy, không phải kêu gọi suông mà được, vì nó đòi hỏi những điều-kiện mà lòng người rất khó thỏa-mản, trong đó có 3 điều căn-bản tối-thiểu là: Quan-điểm, sự Tương-Quan và Tương-Nhượng.

1. Quan-Điểm:

Quan-điểm có giống nhau hoặc gần giống nhau thì mới có thể ngồi gần nhau để thảo-luận được. Những người có quan-điểm khác nhau mà ngồi chung bàn thì chỉ có việc cải nhau rồi sanh ra hiềm-khích nhau hơn, nhứt là những người đã có định-kiến thì thường cố-chấp, ít khi chịu nghe những gì trái với định-kiến của họ, cho nên khó lòng mà dùng lý-luận để thuyết-phục. Ví dụ như trong số người Việt ở hải ngoại, những người có lập-trường chống Cộng không thể ngồi cùng bàn để nói chuyện chánh-trị với những người Cộng-sản hoặc những người có chủ-trương hòa-hợp, hòa-giải với Việt-Cộng.

Bởi vậy, trong những đoàn-thể tranh-đấu chống Cộng, khi nào nội-bộ có xuất-hiện những mầm mống đi đêm với Việt-cộng của một số người thì đoàn-thể đó tất nhiên bị phân-hóa. Đây là kinh-nghiệm xương máu vô cùng chua-xót mà chúng ta đã không tránh khỏi từ hơn 20 năm nay, chỉ vì trong hàng-ngủ của chúng ta có lẫn-lộn những hạng người vốn chất-chứa trong dòng máu của họ những con vi-trùng phản-trắc, đón gió trở cờ, cho nên sự-thể mới ra nông-nổi như ngày nay.

Xin lặp lại câu nói nầy để thêm một lần ghi nhớ.

2. Sự Tương-Quan:

Trong vấn-đề ngồi lại với nhau để thảo-luận chuyện hòa-hợp, hòa-giải, ngoài vấn-đề quan-điểm nói trên thì sự tương-quan lực-lượng giữ đôi bên bao giờ cũng là vấn-đề then-chốt. Trong thời chiến trước năm 1975, nếu tổ-chức bù-nhìn, tay sai Chánh-phủ Lâm-thời Cộng-hòa Miền nam VN của bọn Nguyễn-hữu-Thọ, Huỳnh-tấn-Phát không có quan thầy Việt-cộng đứng đàn sau lưng thì họ làm gì có được sự tương-quan lực-lượng để có thể ngồi nói chuyện với phái-đoàn của Việt-Nam Cộng-Hòa.

Nhấn mạnh điều nầy để cho những kẻ “Ăn Cơm Quốc-Gia Thờ Ma Cộng-sản”, hay nói khác đi là những kẻ “Ăn Cơm Tự-Do Thờ Ma Độc-Tài Khát Máu” hãy tự nhìn lại thân-phận mình xem có được chút tương-quan gì để mưu-cầu hòa-đồng với bạo-quyền Việt-cộng? Trừ khi họ là Cộng-sản nằm vùng thì không còn gì để nói.

Nếu những thành-phần nầy mà không tự hối, u-mê, hám danh, hám lợi, tiếp-tục lao thân vào con đường hòa hợp, hòa-giải với bạo-quyền Việt-cộng thì chẳng khác nào tự-nguyện làm những con thiêu-thân, thấy ánh sáng là cứ lao vào cho bị chết cháy, không cần biết nơi đó chỉ là những cạm-bẫy, những lò thiêu cả linh-hồn lẫn thể-xác mà bạo-quyền dành cho họ. Cứ nhìn lại những trường-hợp như: tên gián-điệp Phạm-Xuân-Ẩn, đại-tá tình-báo Phạm-Ngọc-Thảo, v.v…là những kẻ đã đóng góp cho bạo-quyền Việt-cộng biết bao nhiêu là công-lao, giờ chót họ được đối xử như thế nào?

Tấm gương trước mắt lồng-lộng như thế sao không chịu nhìn, cứ mãi điên-cuồng lao đầu vào con đường “Thờ Ma Cộng-sản” thì rồi đây sẽ không còn đường nào trở lại, và chắc-chắn chẳng những xú-uế đó sẽ không chỉ ở bản-thân họ, mà nó sẽ còn làm vạ lây cho con cháu của họ, không bao giờ dám ngẩn mặt với đời.

Lịch-sử đã cho thấy, người đời sau, chỉ nghe nói đến con cháu nhà Lê để có những hảnh-diện về vua Lê-Lợi, chớ không ái dám nói là con cháu của vua Lê-Chiêu-Thống cả. Người trước làm ô-nhục thì hậu-duệ sẽ mang di-hận có khi đến cả nghìn đời, như con cháu của ông vua Lê-Chiêu-Thống chẳng hạn.

Bạo-quyền Việt-cộng hiện nay chỉ là một bọn gian-manh cầm quyền, để củng-cố địa-vị, chúng đã tình nguyện dâng đất, dâng biển cho ngoại-bang, rước giặc Trung-cộng vào để họ thực-hiện mộng xăm-lăng qua chánh-sách “tầm ăn dâu”, trá hình là khai-thác quặn mỏ nhôm bau-xít ở Cao-Nguyên. Việc làm nầy con cháu của họ sẽ mang di-hận không khác gì con cháu vua Lê-Chiêu-Thống.

Còn riêng đối với những kẻ a-dua, nịnh-bợ, mưu-đồ hòa-hợp, hòa-giải với kẻ thù nước, nhắm mắt chạy theo bạo-quyền để liếm gót, thì họ chẳng khác nào những tội-đồ của dân-tộc, vừa đê-tiện vừa hèn-mạc, vô liêm-sĩ.

3. Sự Tương-Nhượng:

Giữa người Việt Quốc-Gia và bạo-quyền Cộng-sản dĩ nhiên là không bao giờ có sự tương-nhượng vì một bên vì chánh-nghĩa, tranh-đấu cho tư-do dân-tộc (Người Việt Quốc-Gia) còn một bên là bạo-quyền độc-tài, thống-trị, tham-nhũng tột-độ, bán nước, dâng biển cho ngoại-bang (Bạo-quyền Việt-cộng).

Thông thường, sự tương-nhượng chỉ có thể xãy ra khi giữa hai bên cùng ở chung trong một khuynh-hướng, trong một tổ-chức hay trong một chánh-quyền. Ví dụ, 2 tổ-chức chống-Cộng, hoặc 2 Cộng Đồng Người Việt Quốc-Gia ở hai nơi, có thể tương-nhượng nhau về một số phương-thức điều-hành nào đó để cùng ngồi lại với nhau cho một số công-tác chung, hoặc 2 nhóm người trong một đoàn-thể, trước kia đã tách rời nhau vì một số bất đồng cá-nhân, nay vì việc lợi-ích của công cuộc tranh-đấu chung mà tương-nhượng nhau, gạt bỏ đi những tị-hiềm trước kia để ngồi lại với nhau mà cùng lo việc nước.

Trong nội-bộ đảng Cộng-sản VN, chuyện bất-đồng giữa họ vẫn thường xuyên xãy ra, nhưng họ vẫn tương-nhượng lẫn nhau để còn bám vào nhiều quyền-lợi mà họ đang khai-thác. Trên đời nầy không có nguồn lợi nào to lớn cho bằng nguồn lợi do tài-sản quốc-gia mang tới vì tài-sản quốc-gia là vô-tận, những tài-sản nầy vào tay của nhóm người tham-lam nào thì họ sẽ ngậm cho tới chết.

Chánh-sách của Bạo-quyền Việt-cộng đã qui-định một cách máy-móc và nhanh chóng ở những vùng mà họ chiếm đóng về tài-sản quốc-gia như sau: Tài-sản của nhân-dân, nhưng Nhà nước quản-lý, và Đảng lãnh-đạo.

Như vậy, tài-sản của quốc-gia là tài-sản được chúng qui-định là nằm trọn trong tay của đảng Cộng-sản, vì vậy mà tên đầu sỏ nào cũng tha-hồ vơ-vét và trở thành giàu sụ, điều nầy ai ai cũng biết. Tuy nhiên, sự chia-chác để làm giàu đôi khi không cân bằng do quyền-hành của các nhóm lớn nhỏ khác nhau, cho nên có những bất đồng vì ganh-tỵ, nhưng những bất đồng như thế dễ-dàng có những tương-nhượng trên nền-tảng Đảng Cộng-sản, vì đảng nầy chính là cái-phao mà họ phải bám lấy, rời phao là mất hết quyền lợi, là “tự-sát”.

Một số người vẫn còn u-mê, bảo rằng ngày nay bạo-quyền Việt-cộng đã thay đổi, đã cởi-mở. Nói như thế chẳng khác nào lấy áo cà-sa mặc vào mình một tên cướp rồi bảo rằng hắn là một nhà tu. Thực chất thì tên cướp vẫn là tên cướp, Việt-cộng thì bao giờ cũng vẫn là Việt-cộng, hồi trước thế nào, bây giờ cũng vẫn thế, không bao giờ chấp nhận cho dân được quyền tự-do ngôn-luận, không bao giờ chấp nhận quyền tự-do Tôn-Giáo, không bao giờ chấp nhận đối-lập chánh-trị.

Sự cởi-mở, đổi mới của chúng chỉ là vấn-đề kinh-tế, giống như con cắc-kè bông, đổi màu để thoát hiễm, để mưu lợi khi gặp hoàn-cảnh bất khả-kháng mà thôi.

Thay lời kết

Trong một tổ-chức chánh-trị cũng giống y như vậy, mặc dầu cùng quan-điểm với nhau, nhưng vì tranh giành địa-vị mà tạo ra phân-hóa. Trên căn-bản nầy, nếu thật sự vì lòng yêu nước mà tranh-đấu, họ có thể tương-nhượng với nhau một cách dễ-dàng, nhưng vì quyền-lợi thực-tế mà bạo-quyền đã hứa còn xa-vời, chưa có gì để chia-chác nhau, riêng địa-vị thì chỉ có một, cho nên sự tranh-giành đôi khi còn khốc-liệt đến nổi xem nhau như kẻ thù, cho nên không dễ gì có sự tương-nhượng để cùng ngồi lại với nhau. Điều nầy đã diễn ra từ bấy lâu nay, nó như một chứng bịnh trầm kha, không biết đến bao giờ mới chấm dứt?

Việc nước đối với những hạng người nầy chỉ là thứ yếu, không đáng kễ, còn quyền-lợi cá-nhân, bè-phái thì đã lên tới đỉnh đầu, cho nên, họ vẫn phải bám cái phao đoàn-thể để cứu tử. Nhưng vì chủ-trương của đoàn-thể là Chống Cộng, cho nên, mặc dầu vẫn nhân danh đoàn-thể, nhưng việc tuyên-bố không hòa-hợp, hòa-giải với Cộng-sản, họ không bao giờ dám lên tiếng một cách chánh-thức, bất-đắc-dĩ, họ chỉ tuyên-bố miệng lẻ-tẻ những nơi mà họ đến và bị đồng-bào đặt câu hỏi mà thôi. Đó là chưa kễ những thành-phần Cộng-sản nằm vùng bên cạnh họ, lúc nào cũng thọc gậy bánh xe, tạo nên những hỏa mù để làm đổ vỡ những tổ-chức chống lại chúng.

Thiết nghĩ, để cho mình mắc lừa những thành-phần nầy, dù là vô-tình hay hữu-ý, cũng đều nhục-nhã như nhau, chẳng những khó gội rữa được mà còn là một điều đáng tiếc!

Thanh-Thủy (29/03/2009)


Rước Giặc Vào Tây Nguyên, Giầy Xéo Đất Nước - Trần Quốc Kháng

Trần Quốc Kháng

Cuối năm 2008, đảng giặc VC rước Tàu Cộng (TC) vào Tây Nguyên, nguỵ trang bằng cách ‘đeo mặt nạ’— qua màn kịch ‘Khai Thác Bô-Xít’ (KTBX). Đầu năm 2009, VC lại còn trâng tráo, làm lễ “Chào Mừng” việc cắm mốc biên giới Việt-Trung hoàn tất.

Thế là chúng đã ‘hợp thức hoá’ ải Nam Quan và thác Bản Giốc là của Tàu Cộng. Thế là chúng đã ‘hợp thức hoá’ mốc ‘biên giới ma’—thụt lùi vào nội địa VN khoảng năm cây số—là ‘biên giới chính thức’.

Khi nhìn ra biển Đông, muôn dân lại càng cảm thấy hận sầu: Hoàng Sa và Trường Sa đã mất vào tay TC. Sự việc xẩy ra chỉ vì, năm 1958 Thủ Tướng VC là Phạm Văn Đồng—đã nhận lệnh của quốc tặc Hồ Chí Minh—viết văn thư, công nhận lãnh hải của TC—trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Nên năm 1988, TC mới viện cớ ấy, công khai chiếm đóng Hoàng Sa để xây cất căn cứ quân sự kiên cố—kể cả sân bay—nhằm khống chế VN và vùng biển Đông.

Quả thật, sau khi dâng đất, dâng biển cho quan thầy, VC lại còn xô đẩy nước ta, càng ngày càng lún sâu vào ‘tử địa’ trong thế chiến lược “Ba Mặt Giáp Công’:

Ở phía bắc—dọc theo biên giới—TC đã nắm giữ các cao điểm quân sự, chúng có thể tiến quân như vũ bão vào VN. Ở phía đông, TC đã có sẵn phi trường và căn cứ hải quân hùng hậu, uy hiếp cả miền duyên hải Trung Phần. Còn ở giữa nước Việt thì TC dùng Tây Nguyên làm ‘bàn đạp’, CHẶT VN thành ‘hai khúc’, để tấn công lên hướng Bắc, hay đánh xuống hướng Nam.

Chính vì vậy mà ‘màn kịch KTBX’ hiện nay trở thành đề tài sôi nổi. Người thì quả quyết, TC sẽ biến Tây Nguyên thành ‘Tây Tạng thứ hai’. Kẻ thì tiên đoán, TC vào Tây Nguyên để ‘thành lập chiến khu’, giúp khối FULRO nổi loạn, đòi ‘Tây Nguyên tự trị’. Đồng thời, lại có nhận định cho rằng, TC vào Tây Nguyên để xây cất căn cứ quân sự—kể cả dàn phóng hoả tiễn—phòng thủ cho đại lục Trung Hoa khi có chiến tranh ở Á Châu.

Chúng tôi thì nhận thấy, thảm hoạ sau ‘màn kịch KTBX’, còn trầm trọng hơn thế nhiều. Trong tương lai không xa, nếu không có đột biến nào lật ngược tình thế, CẢ NƯỚC sẽ trở thành thuộc địa của ‘Thiên Triều Đỏ’ Bắc Kinh. Chỉ có điều khác biệt với thời đế quốc xa xưa là ‘Quan Thái Thú ĐỎ’—thời XHCN—mang nhãn hiệu “Cờ Máu Sao Vàng”.

Lẽ dễ hiểu là đảng giặc VC, giữ độc quyền lãnh đạo đất nước, mà chúng thường xuyên cúi đầu thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’: Nước Việt sẽ đi về đâu?

Ngày xưa, sử sách nguyền rủa Lê Chiêu Thống ‘cõng rắn cắn gà nhà’ thì ngay nay, VC không thể nào tránh khỏi, đại khối quốc dân phỉ nhổ.

Có lẽ, trang sử ‘lưu xú vạn niên’ đậm nét nhất hiện nay là sự kiện xẩy ra ngày 23-2-2009. Như đã nêu ở phần trên: Đảng giặc VC đã trâng tráo, tổ chức lễ “Chào Mừng” việc cắm mốc biên giới Việt-Trung hoàn tất. Sự kiện Ô NHỤC này làm nhiều người liên tưởng đến chuyên Mạc Đăng Dung ngày xưa, tự trói mình rồi quỳ lậy tướng Tàu trong buổi lễ dâng đất cho Tàu.

Cúi Đầu Thần Phục ‘Thiên Triều Đỏ’

Nhìn lại quá trình lịch sử thì ai cũng thấy, từ 1945 đến nay, đối với đồng bào thì quốc tặc Hồ Chí Minh và đồng đảng hung bạo, thường xuyên lừa bịp, tráo trở và xảo quyệt khôn lường. Ngược lại, đối với quan thầy Nga-Tàu thì VC khiếp nhược, thường xuyên cúi đầu. Sau khi mẫu quốc Nga Cộng xụp đổ thì lẽ đương nhiên, VC cúi đầu thần phục TC. Nếu không thì TC lại “dậy cho bài học” lần thứ 2—tương tự như cuộc chiến đẫm máu năm 1979.

Là chư hầu thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’ nên ‘Nhà Nưóc VC’ đã thẳng tay đàn áp, bắt giam, tra tấn, truy lùng các thanh niên yêu nước trong cuộc biểu tình ôn hòa ngày 9-12-2007—chống TC xâm chiếm Hoàng Sa. Vì nhiệt tâm, biểu lộ ý chí bảo vệ Tổ Quốc VN, nên nhiều thanh niên trở thành nạn nhân của đảng giặc VC. Như vậy, ‘Nhà Nước VC’ đứng về bên nào chiến tuyến? Thờ Vua Hùng, hay ‘thờ Mao chủ tịch’?

Trong khi đó, VC lại còn cúi đầu nhận lệnh TC, mở cửa biên giới, cho TC được quyền ra vào VN— tự do đi khắp nơi như trên đất Tàu—không cần chiếu khán. Thế là gián điệp và công an TC tha hồ vào VN. Chúng tung tiền ra mua tay sai, thành lập ‘mật khu’, củng cố mạng lưới nội tuyến, ‘nằm vùng’ trong hệ thống cai trị của đảng giặc VC.

Hiện nay TC có khoảng 20 triệu người thất nghiệp. Nếu cần, TC có thể đặt kế hoạch, trả lương cho vài trăm ngàn thanh niên, từng nhóm đi đến các tỉnh miền Tây Nam Phần.

Thế rồi, ‘có tiền mua tiên cũng được’. Chúng sẽ hối lộ công an VC, tìm vợ đẹp, xây nhà, quy tụ với nhau thành làng, thành xóm, sinh sôi nẩy nở. Khoảng chừng 5 năm sau, từ Tây Nguyên đến Tây Ðô—vùng đồng bằng sông Cửu Long—sẽ có hàng trăm khu phố, hay cả ngàn “làng Tàu Đỏ’. Khi cần, khối Tàu Đỏ trên đất Việt này sẽ ‘đồng khởi’, nổi lên đòi ‘độc lập’ theo lệnh của ‘Thiên Triều’ Bắc Kinh—nội thù của dân tộc Trung Hoa, ngoại thù của dân tộc VN.

Hiện thời thì trên mạng lưới Internet có tài liệu cho hay, hệ thống cai trị của bạo quyền VC, kể cả Công An, Bộ Đội và Bộ Chính Trị, đều có ‘bàn tay nói dài’ của TC. Mặc dù mức độ khả tín của tài liệu ấy, chưa kiểm chứng được. Nhưng hiện nay, ai cũng thấy, từ Bắc vào Nam, có nhiều chuyện ‘quái đản’ xẩy ra liên tiếp:

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm cuộc chiến 1979, nhiều tác phẩm của TC, như cuốn “Ma Chiến Hữu” chẳng hạn, được phổ biến công khai, khắp nơi trong nước—với nội dung ca tụng ‘công đức’, tài năng và tinh thần chiến đấu của tướng lãnh và binh sĩ TC. Nếu VC không cúi đầu thì ai có thể công khai, phát hành rầm rộ các tác phẩm ‘phản động’ như thế?

Hơn nữa, tất cả “Uỷ Ban Nhân Dân” ở các tỉnh biên giới Việt-Hoa còn nhận lệnh trung ương đảng VC, cử phái đoàn đại diện đến thăm viếng các nghĩa trang của binh sĩ TC tử trận năm 1979—với vòng hoa có hàng chữ “Đời Đời Nhớ Ơn Các Liệt Sĩ Trung Quốc’!

‘Các Liệt Sĩ’ ấy là ai? Là cán binh TC tràn vào các tỉnh ở biên giới, tàn phá nhà cửa, chém giết đồng bào VN, kể cả trẻ thơ và phụ nữ mang thai, vô cùng dã man tàn ác—đâm bằng lưỡi lê, đập bể sọ bằng báng súng, nghiền nát thân thể người Việt bằng xích sắt xe tăng.

Chuyện quái đản—“nhớ ơn liệt sĩ” TC—nêu trên chứng tỏ, VC đã đứng về phía chiến tuyến của giặc ngoại xâm. Không những VC PHẢN BỘI đồng bào mà còn PHẢN BỘI NGAY CẢ CÁC ‘ĐỒNG CHÍ BỘI ĐỘI’ của chúng trong cuộc chiến 1979.

Thế mà ngày 4-3-09 vừa qua, Ban Thường Vụ của Mặt Trận Tổ Quốc VC lại còn DIỄN KỊCH, phối hợp với Quân Chủng Hải Quân VC, tung ra “biện pháp tuyên truyền về biển, đảo tới các tầng lớp nhân dân”.

Làm sao, chúng có thể bịp bợm quần chúng được nữa? Vì sự kiện lịch sử—buôn dân bán nước—rõ như ban ngày. Chúng không thể xoa dịu lòng uất hận của muôn dân. Chúng không thể chạy tội cho ‘Bác và Đảng’ được.

Trở lại việc KTBX ở Tây Nguyên thì vấn đề được nêu lên: Tại sao ‘Nhà Nước VC’ lại ban hành Văn Thư số 17/TB-VPCP, cấm các cơ quan truyền thông, không được loan tin về việc ấy?

Việc KTBX, nếu thuần tuý nằm trong lãnh vực kinh tế—không dính líu đến AN NINH QUỐC PHÒNG—thì có điều gì mà cấm loan tin? Tại sao công an VC lại ngăn chặn, tất cả các ngả đường dẫn đến thị xã Nhân Cơ—trung tâm KTBX? Ắt hẳn, có điều GIAN TRÁ, BÍ ẨN ở phía sau.

‘Màn Kịch Bô-Xít’ Tây Nguyên

“Khai thác bô-xít Tây nguyên là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đã được nêu trong Nghị quyết đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị đã ba lần nghe, kết luận về việc phát triển bô-xít Tây nguyên”.

Đó là điều khẳng định của Thủ Tướng VC Nguyễn Tấn Dũng ngày 4/2/2009. Qua mạng lưới Internet, chúng tôi nhận thấy, phía báo chí ủng hộ Nhà Nước VC thì cho rằng “việc KTBX có ích lợi về Kinh Tế. Còn thiệt hại về môi trường thì rất nhỏ, có thể khống chế được”.

Hiển nhiên, đó là ‘nhận định’ “theo định hướng XHCN”. Nên không có bài viết ủng hộ việc KTBX mà nêu lên được những dữ kiện chính xác.

Ngược lại, bài viết phản đối thì nhiều, độ khả tín lại cao. Tựu trung cho thấy việc KTBX KHÔNG CÓ ích lợi về Kinh Tế, mà còn gây thiệt hại RẤT TRẦM TRỌNG cho môi sinh. Nhất là không khí ‘ô nhiễm chất Bô-Xít’, sẽ làm cho dân chúng bị ung thư phổi. Nhiều khoa học gia còn quả quyết, việc KTBX, không những làm cho rừng núi và đất đai phì nhiêu vùng Tây Nguyên bị huỷ hoại, mà độc hại môi sinh còn lan tràn xuống tận đồng bằng sông Cửu Long.

Điển hình là cuộc phỏng vấn Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết—Chủ Tịch Hội Khoa Học Kỹ Thuật VN ở hải ngoại—do đài RFA thực hiện ngày 5-3-2009. Ông Truyết đã nêu nhận định trung thực về việc KTBX:

‘.....Chúng tôi thấy hoàn toàn không có hiệu quả kinh tế. Lý do là hiện nay khu Nhân Cơ và Đắc-Nông là hai khu trồng tiêu và cà phê, đây là hai nguồn lợi rất lớn’.

Tác giả còn dẫn chúng cho biết, 1 hecta đất dùng để trông cây thì đem lại nguồn lợi từ 2 đến 3 ngàn Đô-La. Trong khi lấy Bô-Xít từ 4 hecta, chỉ biến chế được 2 tấn nhôm, mỗi tấn chỉ trị giá khoảng 3, 4 trăm Đô-La mà thôi.

Hơn nữa, về môi sinh, về dân sự, về chính trị và văn hóa, sẽ phải gánh chịu hậu quả tai hại trầm trọng về lâu về dài.

‘….Vùng Tây Nguyên là vùng đất trước kia là vùng núi lửa cách đây hàng triệu năm, do đó vùng đất này gọi là đất bazan (đất đỏ) rất tốt cho việc trồng cao su, trà, cà phê…’

Đó là lời phản bác phía ‘Khoa Học Gia VẸM’, cho rằng ‘đất Tây Nguyên không tốt cho cây cỏ’.

Ngoài ra, muốn sản xuất khoảng 1, 2 triệu tấn nhôm hàng năm thì phải cần khối nước khổng lồ và điện lực—gấp đôi lượng điện VN hiện nay. Như vậy thì làm sao việc KTBX tiến hành được?

Ở trong nước, nổi nhất là ‘thư ngỏ’ của Đại Tướng VC Võ Nguyên Giáp—gởi cho Nguyễn Tấn Dũng. Trong đó có đoạn, Giáp đã viết nguyên văn:

“Cần nhắc lại rằng….. Sau khảo sát đánh giá hiệu quả tổng hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây Nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng….”

… “Chính phủ khi đó đã quyết định không khai thác bô-xít mà gìn giữ thảm rừng và phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè...) trên Tây Nguyên...”.

‘….Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng’.

Đúc kết việc KTBX, ai cũng thấy chỉ có lợi cho TC. Còn VN thì phải chịu thảm hoạ lâu dài, rõ ràng nhất là lãnh vực AN NINH QUỐC PHÒNG.

Vì Tây Nguyên là địa điểm CHIẾN LUỢC vô cùng quan trọng—nằm gần ngã ba biên giới Việt-Miên-Lào. Trong thời chiến tranh VN (1946-1975), các tướng lãnh Tàu Cộng, VC, VNCH, Pháp và Mỹ đều chú tâm vào việc kiểm soát Tây Nguyên. Phía nào nắm được Tây Nguyên thì phía ấy dễ dàng khống chế được các tỉnh miền duyên hải Trung Phần và miền đồng bằng sông Cửu Long. Nếu làm được như vậy thì Sài Gòn sẽ bị cô lập, hoặc sa vào tử địa ‘tứ bề thọ địch’.

Sự thật này đã xẩy ra năm 1975. Vì thiếu vũ khí—không đủ sức giữ được vùng Tây Nguyên—Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hấp tấp ban lệnh cho Quân Đoàn II, triệt thoái khỏi Pleiku. Lầm lỗi trầm trọng này đã mở đường cho CSVN tiến quân như vũ bão vào Thủ Đô Sài Gòn hồi ‘Tháng Tư Đen’ 1975.

Chắc chắn, đảng giặc VC thừa biết vị thế chiến lược quan trọng như vậy. Nhưng chúng vẫn CÚI ĐẦU, rước giặc vào Tây Nguyên, nguỵ trang màn kịch ‘Khai Thác Bô-Xít’.

Chỉ vì lo ngại sự thật bị phanh phui, nên VC mới cấm báo chí loan tin, hay bình luận về việc KTBX ở Tây Nguyên. Không những thế, trước hiểm họa xâm thực của TC, văn công VC lại còn tung ra những lập luận hồ đồ—nhằm chay tội cho ‘bác Hồ’ quốc tặc.

Hiểm Hoạ TC Xâm Thực Khởi Sự Từ Năm Nào?

‘VN bị hiểm họa bành trướng của Trung Quốc đe doạ chỉ vì vài ba đảng viên cao cấp thoái hoá gây ra—như Lê Khả Phiêu trúng ‘Mỹ Nhân Kế’. Còn ‘bác Hồ’ khi xưa, rất sáng suốt, nên đã ngăn chặn được nhiều áp lực từ phía Trung Quốc’.

Đó là phần tóm lược nhiều bài viết ‘theo định hướng XHCN’. Nhưng sự thật, hiểm họa xâm thực của TC, khởi sự năm 1950. Mao Trạch Đông đã từng ban lệnh cho thuộc cấp, vẽ lại bản đồ TC—trong đó có VN và nhiều nước khác.

Vì thế, Mao mới tỏ ‘tình đồng chí thắm thiết’ với Hồ Chí Minh. Nào là gởi cố vấn sang VN, chỉ huy các đơn vị bộ đội VC. Nào là gởi ‘chí nguyện quân’, trực tiếp tham chiến ở Điện Biên Phủ. Nào là cũng cấp vũ khí, quân trang quân dụng trên khắp chiến trường. Nhờ vậy, trong cuộc chiến chống Pháp, bội đội VC mới chuyển bại thành thắng kể từ đầu thập niên 1950.

Hồi ấy, chính Hồ đã hớn hở, đón tiếp hai đoàn cố vấn do La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cầm đầu. Ngoài việc huấn luyện và chỉ huy bộ đội VC, phái đoàn cố vấn TC còn có trách nhiệm ‘Toàn Quyền Đông Dương’—do Mao giao phó để thực hiện quỷ kế xâm thực ba nước Việt, Miên, Lào.

Đại Tá VC là Bùi Tín—mặc dù trá hàng—nhưng khi viết hồi ký cũng phải nhìn nhận: Chính hắn đã từng chứng kiến trong buổi họp, quan thầy TC hách dịch, ngồi gác chân lên ghế, khạc nhổ trước mặt chủ tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cao cấp VC!

Gần đây, trên trang nhà của ‘đàn chim VẸM’ có bài “Chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc”, tác giả là Bùi Minh Quốc (BMQ)—viết ngày 30-12-08.

Mặc dù, bài viết có chủ ý, vừa chạy tội, vừa đánh bóng “bác Hồ” quốc tặc. Nhưng ‘thiên bất dung gian’, nên BMQ sa vào tình trạng ‘dấu đầu hở đuôi’. Chứng cớ rõ ràng nhất là đoạn, BMQ viết về thảm họa đấu tố (1952-1956)—với chủ ý đổ lỗi cho cố vấn Tàu Cộng, nhằm chạy tội cho “bác Hồ” quốc tặc:

“Nhưng đến cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức với cả một hệ thống cố vấn Trung Quốc từ trung ương tới địa phương kèm sát các đoàn ủy của ta thì mưu đồ nham hiểm bất thành nêu trên đã thành công ở qui mô chưa từng thấy, dưới một hình thái bi thảm chưa từng thấy: Đảng ta tự đưa mình vào cảnh dùng tay nọ chặt tay kia. Hàng nghìn cán bộ đảng viên, hầu hết là những người tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất, những người con ưu tú nhất của Đảng, của dân tộc bị giết, bị hành hạ, tù đầy, số sống sót thì bị vô hiệu hóa. Hàng vạn người dân lương thiện, trong đó nhiều người là ân nhân của cách mạng và kháng chiến cũng chịu cảnh tương tự. Tổn thất này vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa”.

Chúng ta thử hỏi, nếu không phải là Hồ quốc tặc thì kẻ nào ‘cõng rắn gà nhà’—đã ‘nhất trí với Mao chủ tịch’, hớn hở đón tiếp cố vấn TC vào VN? Hồi ấy, ai là chủ tịch Nhà Nước—đã ban hành và chịu trách nhiệm về chính sách “Cải Cách Ruộng Đất”?

Chỉ cần cô động về tội ác trong thời kỳ đấu tố mà BMQ thuật lại như trên, ai cũng cảm thấy GHÊ TỞM quốc tặc Hồ Chí Minh:

Vì Hồ là kẻ bất nhân với đồng bào—cho đồng đảng chém giết, hành hạ, tù đầy “hàng vạn người dân lương thiện”.

Vì Hồ là kẻ bất nghĩa—cho đồng đảng chém giết, hành hạ, tù đầy hàng nghìn đảng viên “tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất”.

Vì Hồ là kẻ tội đồ, đã mang Mác-Lênin từ Liên-Xô về VN, giầy xéo đất nước—“vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa”.

Phải chăng, đó là ‘đỉnh cao trí tuệ’ của Hồ mà BMQ muốn đánh bóng? Hay là‘đỉnh cao chói lọi’ của Hồ trong tác phẩm mà Dương Thu Hương muốn lừa bịp độc giả?

Hàng chục năm đã trôi qua. Nhưng “những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt” vẫn còn tiếp tục hoành hành trên hai miền nam Bắc VN:

Quốc nạn tham nhũng, quốc nạn mãi dâm, quốc nạn dân oan, quốc nạn nhân quyền bị chà đạp. Trong khi cán bộ VC ‘ăn chơi phè phỡn’ thì đại khối dân chúng nghèo khổ, luân thường đạo lý trong XHCN bị tàn phá tận gốc rễ—kể từ khi chiến dịch đấu tố lan tràn, con tố khổ cha, vợ bôi nhọ chồng, họ hàng và bạn hữu chiếm giết lẫn nhau.

Tiếp theo, “hệ luỵ tại hại” gần gũi nhất là sự kiện lịch sử CÚI ĐẦU khiếp nhược, thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’, dâng ải Nam Quan, dâng Thác Bản Giốc, dâng Trường Sa, dâng Hoàng Sa, rồi lại còn rước giặc vào chiếm Tây Nguyên—nguỵ trang bằng màn kịch KTBX.

Tuy nhiên, trước hiểm hoạ xâm thực của TC hiện nay, đại khối quốc dân—trong và ngoài nước—có thể ‘ĐOÀN KẾT’ dưới lá cờ Máu Sao Vàng của đảng giặc VC để chống lại TC được không?

Nên Hay Không Nên ‘Đoàn Kết’ Với VC?

Như đã chứng minh ở phần trên, VC là tay sai tận tuỵ của Tàu Cộng—trong quỷ kế xâm thực VN. Vậy thì hiển nhiên, ‘đoàn kết’ với VC chỉ có nghĩa là ĐỒNG LO×cùng với chúng, cúi đầu bái phục ‘Thiên Triều Đỏ’.

Trong 30 năm lịch sử (1945-1975), có nhiều bài học về ‘Quốc Cộng Đoàn Kết’. Nhưng có lẽ, đậm nét nhất là ‘Chính Phủ Liên Hiệp’ ngày 2-3-1946: Hồ Chí Minh là Chủ Tịch; Nguyễn Hải Thần là Phó CT; Nguyễn Tường Tam là Ngoại Trưởng; Cựu Hoàng Bảo Đại là Cố Vấn Tối Cao.

Nhiều bậc cao niên còn nhớ, trước đó khoảng 2 tháng, có bản “Tuyên Cáo Đoàn Kết’, được phổ biến ngày 24-12-1945. Trong đó, Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần cùng ký tên—đại diện cho Việt Minh, VN Quốc Dân Đảng và Cách Mạng Đồng Minh Hội—kêu gọi tình đoàn kết để cùng nhau tranh đấu, giành lại Ðộc Lập cho Tổ Quốc.

Thế rồi, trong khi các đảng Quốc Gia từ hải ngoại hưởng ứng, rủ nhau về nước thì Hồ bí mật ra lệnh cho đồng đảng khủng bố, chém giết tại chỗ, hay bắt mang đi thủ tiêu, tất cả lãnh tụ và đảng viên—có huynh hướng Quốc Gia—đang hoạt động ở trong nước. Nhiều nhà cách mạng như Trương Tử Anh (Đại Việt); văn sĩ Khái Hưng (Quốc Dân Đảng); Lý Đông A (Duy Dân) và Tạ Thu Thâu (Đệ Tứ Quốc Tế CS) v.v đã bị Hồ thủ tiêu.

Đồng thời, đảng giặc VC còn công khai tấn công, phá huỷ các căn cứ của Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Tổng kết, có hàng chục ngàn chiến sĩ Quốc Gia bị VC sát hại.

Đến khi biết được mặt thật—tráo trở, bất nhân, bất nghĩa và xảo quyệt khôn lường—của Hồ Chí Minh thì các lãnh tụ của các đảng phái Quốc Gia—còn sống sót—kể cả thành phần trong Chính Phủ Liên Hiệp, như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh, đều phải vượt biên, trốn sang Hoa Nam tỵ nạn. Dĩ nhiên, ‘Chính Phủ Liên Hiệp’ tự động giải tán trong tháng 5-1946.

Quả thật, kinh nghiệm xương máu của các thế hệ Cha Anh—qua bài học lịch sử nêu trên—thêm lẫn nữa cho thấy: Chỉ có kẻ mắc bệnh TÂM THẦN, hoặc vài tổ chức chính trị XÔI THỊT—cấu kết với nhóm “Việt Kiều’ PHẢN PHÚC và CÒ MỒI thì mới có thể ‘đoàn kết’, hợp tác, hay “hoà hợp hoà giải’ đảng giặc VC.

San Jose 29-3-2009
Trần Quốc Kháng



Monday, March 30, 2009

Giáo hội Công Giáo và Căn Bệnh Thế Kỷ - Kim Nguyên

Kim Nguyên

Trong mấy tuần lễ vừa qua, những luồng dư luận chỉ trích, phê phán Đức Giáo Hoàng Benedic 16 nổi lên dữ dội khắp nơi: từ những chính trị gia, giới dân cử cho đến những cá nhân hay tổ chức độc lập. Người ta dùng mọi phương cách để chỉ trích, chống đối, thậm chí lăng mạ ngài. Người ta thu thập chữ ký trên mạng, tồ chức hội thảo, biểu tình chống đối. ... Có những người còn đòi hỏi chính phủ, bộ ngoại giao nước họ phải có thái độ rõ ràng, phải có những biện pháp “trừng phạt” đối với ĐGH và Vatican vì một lời phát biểu “không thể chấp nhận được” của vị chủ chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ trong chuyến viếng thăm Phi Châu vào giữa tháng 03/2009.

Đức Giáo Hoàng đã phát biểu: “Bao cao su (condom) không phải là giải pháp cho bệnh AIDS, thậm chí nó còn có thể làm cho sự việc trở nên nghiêm trọng hơn ...”. ĐGH đã nói ra điều này bằng một ý thức, một lập trường rõ rệt, ngài không nói ra điều này trong một cơn cao hứng, bốc đồng. Thật ra, lập trường này không có gì mới lạ. Vatican xưa nay vẫn có lập trường không tán thành việc dùng bao cao su như một phương pháp chống căn bệnh thế kỷ này. Tuy nhiên, sự chống đối trong quá khứ chưa bao giờ mãnh liệt và có hệ thống như lần này.

Quan điểm bảo vệ luân lý xưa nay luôn luôn gặp sự chống đối của trường phái vô thần và trường phái chủ trương thụ hưởng, phải tận dụng cuộc đời ngắn ngủi này bằng cách tận hưởng những thú vui xác thịt cùng tất cả những lạc thú bao lâu còn hưởng được, bất chấp những giá trị đạo đức. Khi nào số người chủ trương hưởng thụ càng đông thì những người chủ trương bảo vệ những giá trị luân lý càng trở nên cô thế và càng bị tấn công mạnh mẽ hơn, và điều đó hình như đang đúng trong xã hội chúng ta sống hôm nay.

Khi người ta nhìn một sự việc qua hai lăng kính khác nhau thì việc đưa đến những kết luận khác nhau là chuyện bình thường: người chủ trương sống buông thả coi nhẹ những giá trị đạo đức làm sao có cùng cái nhìn với người dám bảo vệ và duy trì những giá trị đạo đức bằng mọi giá. Thế nhưng người ta không chịu tìm hiểu tường tận những lý lẽ gói ghém trong thông điệp của ĐGH, người ta chỉ biết khi cái chủ trương thụ hưởng của mình bị động chạm là liền lớn tiếng “cả vú lấp miệng em” bằng tất cả những phương tiện mình có được và bằng mọi phương pháp có thể vận dụng được.

Làm sao mà Giáo Hội Công Giáo có thể tán thành và cổ võ việc dùng túi cao su để ngừa AIDS. Làm như vậy đồng nghĩa với việc cổ võ tín hữu của mình tự do hưởng thụ thú vui xác thịt một cách bừa bãi và vô trách nhiệm. Không ít người đòi hỏi GH phải làm một cuộc “cách mạng”, phải “vào đời” , phải “cấp tiến” bằng cách chấp nhận những điều trái ngược với truyền thống , giá trị luân lý cốt lõi của đạo Công Giáo, được rao giảng bởi chính Đức Kitô. Nếu không làm như vậy thì bị họ lên án là “bảo thủ“, là “lạc hậu”. Điều khá khôi hài là đại đa số những người lớn tiếng nhất, ồn ào nhất lại là những người không hề chia sẻ cuộc sống của giáo hội, họ thường là những người không bao giờ đến nhà thờ, hoặc chỉ đến nhà thờ trong những dịp “quan hôn tang tế” hiếm hoi !.

Trở lại lời phát biểu của ĐGH Benedic 16, theo thiển ý, nếu tin rằng căn bệnh AIDS là sự cảnh báo của Thượng Đế đối với lối sống sa đọa, trụy lạc của con người trong xã hội hôm nay thì việc phát bao cao su để tiếp tuc đi sâu hơn vào cuộc sống trụy lạc ấy chắc chắn không phải là cách giải quyết, đúng như lời Đức Giáo Hoàng nói. Tại sao bệnh AIDS lại lan tràn một cách nhanh chóng như vậy? Câu trả lời ai cũng có thể tìm thấy không khó: vì người ta xem việc quan hệ tính dục là một trò chơi, một thú vui và cứ miệt mài lăn xả vào như con thiêu thân, không cần quan tâm tới những nguyên tắc luân lý, đạo đức. Người ta có thể đưa nhau vào nhà nghỉ thật dễ dàng chỉ sau một lần gặp gỡ, sau vài câu chuyện qua lại. Người ta có thể thực hiện quan hệ tính dục với thật nhiều người, người ta có thể làm công việc trao đổi vợ chồng một cách hết sức thoải mái, vô tư, như trao đổi những món đồ dùng .... Người ta không còn trân trọng thân xác của mình nữa. Những người thích cuộc sống lang chạ như vậy họ sử dụng bao cao su để có thể an tâm lao vào con đường sa đọa ấy. Đối với những người biết tiết chế, có quan hệ tính dục lành mạnh họ không có nhu cầu dùng bao cao su để chống AIDS. Bởi vậy, phát bao cao su, khuyến khích người ta “mang bùa” rồi thoải mái lao vào vòng trụy lạc mà không cần tiết chế rõ ràng không phải là cách giải quyết tận gốc mà còn làm cho sự việc nghiêm trọng hơn. Ai dám bảo đảm rằng dùng bao cao su là có thể tránh được AIDS 100% ? vi trùng AIDS có thể xâm nhập vào cơ thể bằng nhiều lối khác nhau. Bạn cứ mang bao cao su và chung đụng với thật nhiều người, “đi đêm có ngày gặp ma”, khả năng mắc bệnh của bạn sẽ cao gấp trăm lần những người có cuộc sống lành mạnh, biết tiết chế. Bởi vậy giải pháp cho bệnh AIDS là sự giáo dục, là sự phục hồi những giá trị đạo đức. Biết rằng không phải dễ dàng để thay đổi quan niệm sống. Nhưng vấn đề là các chính phủ, những người có trách nhiệm xã hội hầu như KHÔNG HỀ nhắm tới hướng này mà chỉ nhằm tới việc phân phát bao cao su và tin tưởng rằng đó là giải pháp cho căn bệnh thời đại này, điều đó sai! Là người lãnh đạo tinh thần, là vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo toàn cầu, Đức Giáo Hoàng phải có tiếng nói rõ ràng. Ngài không thể im lặng cho dù biết rằng nói ra sẽ bị chống đối dữ dội.

Hãy nhìn tất cả các loài động vật trên trái đất này. Đối với chúng, mục đích duy nhất của hành động giao cấu là gì nếu không phải là truyền sinh? Riêng với con người, ngoài mục đích truyền sinh, Thượng đế ban cho một ân huệ, cũng có thể nói là một món quà, đó là sự khoái lạc. Đồng thời Thượng đế cũng ban cho con người lý trí và sự tự do để biết phân biệt, phán đoán và lựa chọn .... Càng ngày, người ta càng có khuynh hướng coi nhẹ (và đang bỏ qua hẳn) cái mục đích chính mà chỉ còn biết đến “món quà” kia mà thôi. Làm như vậy có phải là con người đang phụ tấm lòng của đấng có nhã ý tặng cho ta “món quà“ kia không ? Những ý tưởng này tôi muốn chia sẻ với những ai còn niềm tin vào đấng tạo hóa.

Đức Giáo Hoàng Benedic 16 từng viết trong quyển “Muối cho đời” rằng: "...... Tôi nghe vang vọng bên tai những lời của thánh kinh và của các giáo phụ kết án rất nghiêm khắc những mục tử làm chó câm để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Tìm yên ổn không phải là bổn phận hàng đầu của công dân; tôi ghê sợ hình ảnh một giám mục chỉ lo an phận và tìm hết cách che đậy và né tránh mọi thứ xung đột ... ”. Ngài đã tâm niệm như vậy và Ngài đang thực hiện điều đó, cho dù gặp phải biết bao phiền toái, chống đối, lăng mạ từ khắp nơi.

Nguyện xin Thiên Chúa gìn giữ và ban sức mạnh cho đấng kế vị thánh Phê Rô để ngài luôn vững vàng trước những cơn sóng dữ.

Nguyện xin thánh cả Giuse, Đấng bảo trợ giáo hội và cũng là thánh bổn mạng của Đức Thánh Cha phù trợ, dẫn dắt vị chủ chăn của chúng con và gìn giữ Giáo Hội, hiền thê của Đức Kytô vượt qua những âm mưu bách hại đến từ khắp nơi, dưới mọi hình thức.

Brussels, Mùa Chay - tháng Thánh Giuse - năm 2009
Kim Nguyên

Đại lão HT Thích Quảng Độ kêu gọi đồng bào biểu tình tại gia suốt tháng 5

Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste

Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax: Paris (331) 45 98 32 61 -
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net
    THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 30.3.2009
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ kêu gọi Đồng bào các giới trong nước Bất tuân dân sự - Biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng.

PARIS, ngày 30.3.2009 (PTTPGQT) - Sáng nay Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế “Lời Kêu gọi Một Tháng Biểu tình Tại gia” để phổ biến đến các cơ quan truyền thông, báo chí cùng đồng bào các giới mong được sự hưởng ứng trước nguy cơ đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng nơi yết hầu quân sự Tây nguyên.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo), Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cất lên lời kêu gọi. Bởi vì theo nhận định của Hòa thượng, hiện nay “lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam”. Nên hy vọng cuối cùng của Hòa thượng là “CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN”.

Hòa thượng kêu gọi tháng Tư này xin đồng bào các giới chuẩn bị lương thực để có thể thực hiện suốt tháng 5.2009 làm tháng “Bất tuân dân sự” biểu dương bằng cuộc “Biểu tình Tại gia” : “Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường”. Sống dưới chế độ độc tài toàn trị, mọi tự do cơ bản đều bị tiêu hủy, đặc biệt tự do ngôn luận, tự do biểu tình. Công an là thế lực đàn áp và bắt bớ Người Biểu tình. Cho nên đối sách là Biểu tình tại chỗ, trong nhà mình, thì cuộc bắt bớ không thể thực hiện.

Với người Việt hải ngoại, Hòa thượng kêu gọi “đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả”.

Với các cơ quan truyền thông, báo chí Hòa thượng kêu gọi xin “giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước”.

Lời kêu gọi trình bày chi tiết đầy đủ về đại nạn sinh thái gây ra do việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên. Nhất là “công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long”. Điều trầm trọng hơn nữa, theo lời Hòa thượng, là “nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam”.

Lời kêu gọi thống thiết của Hòa thượng Thích Quảng Độ là: “Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…”

Mục tiêu của Tháng 5 Bất tuân dân sự - Biểu tình Tại gia, nhắm đạt 3 mục tiêu:

1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.

“Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.

Chúng tôi xin đăng tải toàn văn Lời Kêu Gọi Một Tháng Biểu Tình Tại Gia như sau:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
---------------------------------------------------------
Phật lịch 2552 Số 03 /VHĐ/VT
    LỜI KÊU GỌI MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
    để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài
Bất chấp những lời báo động hiểm nguy của các chuyên gia, trí thức về việc khai thác quặng bô-xit ở Tây nguyên, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn một mực tiến hành việc lựa chọn nhà thầu Trung quốc vào Tây nguyên khi khẳng định : “Khai thác bô-xít Tây nguyên là chủ trương của Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X”, nghĩa là từ năm 2006.

Đảng quyết định. Nhưng toàn dân thì sao ?

Toàn dân thông qua ý kiến của các giới chuyên gia, trí thức, học giả… đưa lên báo chí, truyền thông, Internet đều báo động rằng khai thác bô-xít sẽ hủy diệt mầu xanh rừng Tây nguyên, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quét sẽ xẩy ra nhiều hơn, đồng thời ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu ở miền Nam Trung bộ, Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Saigon. Từ nghìn xưa, mầu xanh rừng Tây nguyên bảo vệ cho việc tích trữ nước trong lòng đất, lọc không khí và điều hòa nhiệt độ toàn vùng. Phá hủy mầu xanh còn là phá hủy nghiêm trọng không những cảnh quan mà sắc thái văn hóa và quyền sống của hàng chục dân tộc ít người trên vùng cao.

Theo các báo cáo khoa học thì quặng bô-xít để sản xuất nhôm không là kim loại chiến lược. Giá trị kinh tế của nhôm không cao hơn việc trồng cây công nghiệp ở Tây nguyên. Bô-xít là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh. Còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn và có tái sinh. Ấy là chưa nói đến công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Bức thư ngỏ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết từ năm 1980 Đảng và nhà nước đã đề nghị khối COMECON, tức khối kinh tế cộng sản Liên xô và Đông Âu, khai thác quặng bô-xít Tây nguyên. Nhưng theo thư ông Giáp thì “khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung bộ”.

Vì tính chất nguy hại sinh thái và cư dân quanh vùng khai thác bô-xít mà Cục bảo vệ môi trường quốc gia Trung quốc đã đóng cửa 100 mỏ bô-xít trên lãnh thổ Trung quốc từ năm 2004 đến 2008. Tại Ấn độ năm 2004 đã có một phong trào quần chúng lớn rộng nổi dậy biểu tình chống việc khai thác bô-xít tại bang Orissa trên diện tích 1000 hecta làm nguy hại 60.000 cư dân.

Tại Việt Nam hiện nay, chỉ nói đến một cứ điểm Đắk Nông ở phía cực nam Tây nguyên hiện đang có 7 mỏ khai thác bô-xít, tất thấy ngay nguy cơ sa mạc hóa - “bùn đỏ hóa mầu xanh” trên 6000 quả đồi với hàng trăm con suối trên một diện tích 600.000 hecta, nơi cư ngụ 29 dân tộc ít người, chủ yếu là cư dân bản địa người M’Nông. Để khai thác 5,4 tỉ tấn quặng thô bô-xít ở Đắk Nông thì chất thải bùn đỏ sẽ phủ lấp hàng nghìn buôn làng : khi ta biết rằng để có 1 tấn nhôm cần khai thác 4 tấn quặng bô-xít và thải ra môi trường 3 tấn bùn đỏ !

Vấn nạn nêu trên nằm trong lĩnh vực môi trường và sinh thái cho cư dân Tây nguyên. Một vấn đề trầm trọng khủng khiếp khác là nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam. Việc nhà thầu Trung quốc khai thác quặng bô-xít đã bắt đầu, những làng người Hoa vừa dựng lên ở Tây nguyên, khoảng năm, mười nghìn người Trung quốc sẽ tới : Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…

Nguy cơ mất nước bắt đầu.

Lần này không chỉ Bắc thuộc Một Nghìn Năm, mà là Ba Nghìn Năm hay lâu hơn nữa khi lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam.

CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN. Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.

Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.

Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.

Sống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự: Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :

1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.

Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.

Tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dũng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.

Kính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.

Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.

Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 29.3.2009
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc - LM Trần Quý Thiện

Bài thuyết giảng của LM Trần Quý Thiện (cựu tù nhân chính trị dưới chế độ CSVN từ 1975-1988) trong Thánh Lễ cầu nguyện cho LM Tađêô Nguyễn Văn Lý và những tù nhân lương tâm

(do Phong Trào Giáo Dân VN Hải Ngoại, Mạng Lưới Nhân Quyền và Diễn Đàn Giáo Dân phối hợp tổ chức tại Trung Tâm CGVN/GP Orange, Nam Cali ngày 28/3/2009 kỷ niệm 2 năm Cha Lý bị xử án trong phiên toà bịt miệng tại Huế (30/3/2007))



Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc
    Kính thưa...
Dưới ánh sáng Niềm Tin Công Giáo, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Chủ của Lịch Sử. Ngài đã biểu lộ tình thương của Ngài qua các biến cố lịch sử, vì Ngài đã tạo thành vạn vật và điều khiển muôn loài. Trong cái nhìn vĩnh cửu và quyền năng vô biên, Thiên Chúa luôn luôn quan phòng để mọi sự kiện xảy ra trên thế giới, cũng như trong cuộc đời mỗi người, mang một giá trị tích cực đối với Ơn Cứu Độ, dù con người có thể không nhận thức được giá trị ấy, do tầm nhìn nhất thời và hạn hẹp của mình.

Trong dòng Lịch Sử Việt Nam; dân tộc chúng ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm: những chiến thắng oanh liệt cũng như những năm dài nô lệ ngoại xâm, những giai đoạn phát triển thịnh vượng cũng như những cuộc nội chiến đau thương, người Công giáo Việt Nam chúng ta luôn tin tưởng rằng mọi biến cố vui buồn đều mang giá trị cứu độ của Thiên Chúa.

Theo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức năm 1856, thì vào năm Nguyên Hoà (tức 1533), vua Lê Trang Tông đã ban hành chỉ dụ cấm đạo Gia Tô, trong đó có ghi tên một tu sĩ ngoại quốc tên là I Nê Khu, đã theo đường biển lén lút đến truyền đạo Gia Tô tại làng Ninh Cường và Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam. Nếu năm 1533 đã có sắc chỉ cấm đạo thì Tin Mừng Đức Kitô tất nhiên đã được rao giảng trước đó, nghĩa là đầu thế kỷ 16. Đó là mốc thời gian đầu tiên ghi dấu vàng son của Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Hạt giống bé nhỏ Tin Mừng Đức Kitô ấy đã lặng lẽ âm thầm nảy mầm, và nhờ Thiên Chúa quan phòng đã sinh hoa kết quả. Nhưng không biết bao nhiêu giông tố bão táp kinh hoàng đã bao phủ!! Người ta không thể nào kể hết biết bao cuộc bố ráp, lùng kiếm, bắt bớ, giam cầm, sát hại những lớp giáo dân Việt Nam đầu tiên, dưới thời chúa Trịnh miền Bắc, và chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, các vua nhà Nguyễn và Phong Trào Văn Thân tại miền Nam...

Ngày nay, các nhà viết sử làm sao có thể đo lường được mức độ tàn bạo dã man đến kinh hoàng với muôn vàn hình thức khác nhau mà các nhà cầm quyền thời đó đã thi đua sáng kiến ròng rã bốn thế kỷ (XVI-XIX) trong cố gắng dập tắt Niềm Tin Công Giáo của cha ông chúng ta vào Đức Kitô!! Nào giam cầm tù ngục, tan xương nát thịt, máu chảy đầu rơi, voi giầy ngựa xéo, quẳng vào vạc dầu sôi, nhốt trong cũi sắt, cũng không làm các ngài quá khoá nghĩa là chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô!!

Kết thúc 400 năm kéo dài trong đau thương đẫm máu đó của Giáo Hội CGVN là trên 130.000 tín hữu CG đầu tiên đã tuẫn tiết, can trường chấp nhận cái chết để trung thành trong Niềm Tin vào Thiên Chúa!! 400 năm giảng đạo đã biến thành 400 năm sống trong cảnh máu chảy đầu rơi!!

Nhận định về cuộc sống và cái chết các vị Tử Đạo VN, người ta thấy các Ngài không sống và chết cho mình hoặc vì những lý do trần tục như danh vọng, địa vị, tiền bạc! Các Ngài đã sống trên miền đất Quê Hương mà chúng ta đã sống và phục vụ! Các Ngài đã trở thành Chứng Nhân của Niềm Tin sắt đá vào Đức Kitô, đã thà chết hơn là chối bỏ!! Muốn thế, các Ngài phải lựa chọn giữ trung thành và phản bội, giữa sự sống và cái chết, giữa Đức Kitô và thế tục. Chính những nguyên nhân đó đã khiến thế giới Công Giáo luôn ngưỡng mộ và không ngừng khâm phục Tinh Thần Bất Khuất của Cha Ông chúng ta.

Dưới một khía cạnh nào đó, chúng ta cũng có thể nói các vị Tử Đạo Việt Nam là những Chứng Nhân tiền phong cho Nhân Quyền trên thế giới, đã đánh đổi chính mạng sống mình để mọi người sau này được tự do sống đạo và hành đạo mà ngày nay chúng ta gọi là Quyền Tư Do Tôn Giáo, vì trước đây 5 thế kỷ làm gì có tổ chức Liên Hiệp Quốc và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Chứng nhân nhân quyền thời nay.

Một vấn đề quan trọng khác mà hôm nay chúng tôi xin thưa với qúy vị: Đó là dòng máu tử đạo vẫn còn đang chảy lênh láng trên quê hương Việt Nam. Với chủ trương vô thần, chính quyền Cộng Sản vẫn đang thực hiện chính sách đàn áp mọi quyền ttự do căn bản của con người với những biện pháp tinh vi khoa học hơn trước đây rất nhiều.

Là một Linh Mục đã đi cải tạo 13 năm trong ngục tù CS, chỉ vì đã phục vụ trong ngành Tuyên Úy Công Giáo/QLVNCH. Kinh nghiệm bản thân cho chúng tôi hay hiện nay trên thế giới không có chế độ lao tù nào dã man tàn bạo bằng các nhà tù Việt Cộng, vì họ đã tích lũy kinh nghiệm coi tù từ Liên Xô, Trung Cộng, các nước Đông Âu cộng với những mánh lới ác độc của Việt Cộng.

Kể từ ngày 30/4/1975, khi những người Cộng Sản từ miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam, theo lượng đoán của những nhà viết sử thì tổng số các Linh Mục VN dòng và triều đã đi tù cải tạo là trên 200 vị, trong đó gần 30 vị bị chết trong tù. Ngày nay, nếu người ta cần phải nêu cao tấm gương của một Linh Mục VN đã dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Quê Hương và Giáo Hội như nhà ái quốc Ái Nhĩ Lan O'Conor đã tuyên bố trước khi bị hành quyết: Trái tim tôi xin dâng hiến cho Thiên Chúa, còn thân xác này, xin gửi lại dân tộc Ái Nhĩ Lan thì con người Việt Nam đó không ai khác, chính là Linh Mục Tađêô NGUYỄN VĂN LÝ.

Chính Cha Lý là người đã thể hiện lời tuyên bố của Đức Kitô Không có tình yêu nào cao qúy bằng chết vì người khác Do đó, cuộc sống của Cha Lý đã trở thành biểu tượng cho những khát vọng tha thiết nhất cho Tự Do và Nhân Quyền của mọi người, đặc biệt cho quyền Tự Do Tôn Giáo không chỉ riêng cho 8 triệu người Công Giáo mà cho tất cả các tôn giáo tại Việt Nam. Chính Cha Lý là người đã thực hiện hoàn hảo nhất Lý Tưởng mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố trong Thư Chung 1980 sau khi thống nhất đất nước. Sống Phúc Âm Giữa Lòng Dân Tộc vì Quê Hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Chúa. Và Dân Tộc này là Cộng Đồng mà Thiên Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tư cách vừa là Công Dân trần thế vừa là thành phần Dân Chúa.

Vậy, Nguyễn Văn Lý, Ngài là ai?

. Nguyễn Văn Lý là một Linh Mục Công Giáo Việt Nam, tên Thánh là Tađêô, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946, tại làng Ba Bình, xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam trong một gia đình có truyền thống Công Giáo đạo đức.

. Năm 1963, lên 17 tuổi, cậu Lý muốn dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa và được Linh Mục Nguyễn Như Tự bảo trợ và giới thiệu vào tu học tại tiểu chủng viện Hoan Thiện, thành phố Huế.

. Năm 1966, lúc 20 tuổi, thầy Lý được Bề Trên giáo phận tuyển chọn để theo ban Triết học và Thần học tại Đại chủng viện Xuân Bích, Huế.

. Sau 11 năm tu luyện, nguyện ước trở thành mục tử của Chúa đã trở thành hiện thực, tháng 4 năm 1974, Thầy Tađêô Nguyễn Văn Lý đã được hân hạnh thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, thành phố Huế dưới sự đặt tay của Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền. Năm đó, Cha Lý đúng 28 tuổi.

Sau đó tân Linh Mục Nguyễn Văn Lý xin gia nhập Hội Thừa sai do Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sáng lập, với mục đích hoạt động truyền giáo nơi những vùng dân cư nghèo khó. Ngài được bổ nhiệm phụ trách Cộng Đoàn Thừa sai tại quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.

Một biến cố đau thương nhất của dân tộc xảy đến, sau ngày 30/4/1975, tân Linh Mục được gọi trở về Huế làm Thư ký cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền. Vì được hân hạnh làm bí thư bên cạnh một vị Giám Mục nổi tiếng đạo đức và yêu nước la Đức TGM Nguyễn Kim Điền nên Cha Lý đã nối gót Ngài đi vào con đường tranh đấu cho Giáo Hội và Quê Hương Dân Tộc.

Tính đến nay (năm 2009) Cha Lý đã 63 tuổi, thụ phong Linh Mục 35 năm, đã bị CSVN kết án 4 lần tổng cộng 53 năm. Ngài đã ở tù 16 năm, không kể thời gian bị quản chế; đây là 4 lần bị ra toà lãnh án

- Tháng 9 năm 1977, bị kết án 20 năm tù với tội danh chống phá cách mạng, bị giam tại Thừa Phủ, Huế.

- Tháng 5 năm 1983, bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với tội danh gây rối trật tự xã hội bị giam tại Thanh Cẩm (Thanh Hoá) và Ba Sao (Nam Hà).

- Tháng 10 năm 2001, bị kết án 15 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh phá hoại chính sách đoàn kết bị đưa về giam tại trại tù Ba Sao (Nam Hà).

- Ngày 8 tháng 4 năm 2006, Ngài thành lập Khối 8406 quy tụ tất cả những ai muốn tranh đấu cho Nhân Quyền tại Việt Nam.

- Ngày 30 tháng 3 năm 2007, cách đây đúng 2 năm, Cha Lý bị kết án 8 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh tuyên truyền chống phá Nhà Nước. Đây là một phiên tòa quái đản trơ trẻn bất công nhất thế giới, không có luật sư biện hộ, không nhân chứng, thân nhân không được tham dự!! Cha Lý bị còng tay, lôi kéo ra trước tòa, một nhân viên an ninh mặc thường phục đã lấy tay bịt miệng Ngài! Hình ảnh một Linh Mục bị còng tay trước tòa , gợi cho ta hình ảnh Đức Kitô bị điệu trước toà án Philatô. Nhưng Philatô hỏi, chúa Giêsu còn được trả lời, còn Cha Lý bị bịt miệng.

Chính hình ảnh bịt miệng trước tòa đã tố cáo đời sống bi đát hiện nay của 80 triệu đồng bào chúng ta trong một cuộc sống đọa đày dưới áp bức bạo tàn.


Quả thật, hình ảnh bịt miệng đã đánh động lương tâm nhân loại khiến Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu Châu đã vinh danh Cha Lý là một người tù bất khuất và Hội Đồng Giám Mục Đức dành cả một năm để cầu nguyện cho Việt Nam và cho Ngài. Và lần đầu tiên trong lịch sử, 165 Linh Mục VN hải ngoại trên khắp thế giới đã chính thức công bố Bản Lên Tiếng hỗ trợ cuộc tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền do Cha Lý phát động.

Là những người VN sống xa Quê Hương nhưng vẫn nặng lòng với Dân Tộc, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện tha thiết nhất phát xuất tận đáy lòng để cầu nguyện cho Quê Hương VN thân yêu sớm thoát khỏi nạn CS vô thần, đặc biệt cầu cho Cha Lý kiên tâm vững chí bước theo Đức Kitô.

Cầu cho Cha Lý hôm nay, chúng ta không quên cầu cho tất cả những tù nhân khác đang làm chứng cho Công Lý và Sự Thật, vì chỉ có Công Lý và Nhân Quyền mới giải phóng con người và đất nước chúng ta.

(Nguyễn Lý-Tưởng đánh máy lại và gửi đến các cơ quan truyền thông, báo chí và thân hữu để tuỳ nghi...Westminster, California, lúc 3 giờ PM ngày 28/3/2009)


CẢNH GIÁC NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI VỀ VIỆC PHÂN ĐỊNH THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM - Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Chính quyền nào rồi cũng qua đi
Nhưng dân tộc và đất nước thì vẫn còn mãi
    ỦY BAN LUẬT GIA VIỆT NAM BẢO VỆ DÂN QUYỀNCẢNH GIÁC NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI VỀ VIỆC PHÂN ĐỊNH THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM
Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Từ khi biết sống hợp quần trong xã hội để thành lập quốc gia, con người đã biết đặt ra luật lệ để giải quyết các tương quan về quyền lợi và nghĩa vụ trong sinh hoạt cộng đồng.

Địa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luật quốc tế tại các lãnh thổ thì cũng phải có luật biển cho miền lãnh hải hay hải phận.

Ngày 10-12- 1982, 119 quốc gia đã ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Muốn thành luật, Công Ước phải được đa số các quốc gia kết ước phê chuẩn. Ngày 16-11-1993, 60 quốc gia đã phê chuẩn Công Ước, và một năm sau, ngày 16-11-1994 Công Ước có hiệu lực chấp hành.

Danh từ lãnh thổ bao gồm cả lục địa, hải phận và không phận.

Tại vùng hải phận đường cơ sở (baseline) thông thường là lằn mức thủy triều xuống thấp.

Biển lãnh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra khơi

Cần phân biệt giữa biển lãnh thổ và lãnh hải hay hải phận của quốc gia duyên hải (maritime zone).

Theo án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague và chiếu Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, biển lịch sử (historic waters) chỉ là nội hải (internal waters).

Muốn có biển lịch sử phải hội đủ 3 điều kiện:

a. Quốc gia duyên hải đang hành sử chủ quyền;
b. Sự hành sử chủ quyền có tính liên tục và trường kỳ;
c. Các quốc gia kế cận và đối diện thừa nhận chủ quyền của quốc gia duyên hải.

Dầu sao biển lịch sử chỉ là nội hải tọa lạc trên đất liền, về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ.

Như vậy biển lịch sử của Trung Hoa hay Lưỡi rồng Trung Quốc chỉ là nội hải. Nó không thể là Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á cách Hoa lục đến 2000 cây số.

Vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý để đánh cá chạy từ biển lãnh thổ ra khơi.

Thềm lục địa để thăm dò và khai thác dầu khí trùng điệp với vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và cũng rộng 200 hải lý (370 km).

Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, thềm lục địa pháp lý (legal continental shelf) của các quốc gia duyên hải dài 200 hải lý tính từ biển lãnh thổ ra khơi. Ngoài ra còn có thềm lục địa địa chất (geological continental shelf) có thể kéo dài tối đa đến 350 hải lý (650 km), nếu về mặt địa chất và địa hình, đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài khơi trên triền biển sâu đến mũi xa bờ nhất của nền lục địa (continental margin).

Đó là một yếu tố đặc thù của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tại Hoàng Sa, thềm lục địa địa chất nằm trên nền lục địa, chạy thoai thoải từ dẫy Trường Sơn ra biển, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Độ sâu nhất quanh đảo Hoàng Sa là 900 mét. Về mặt địa chất và địa hình, đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra các đảo Tri Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. Đây là những cao nguyên của lục địa Việt Nam trên mặt biển. Nếu nước biển rút xuống 900 mét thì toàn thể các hải đảo Hoàng Sa sẽ biến thành một dẫy hành lang chạy thoai thoải từ Trường Sơn ra Biển Đông.

Năm 1925 nhà địa chất học quốc tế, Tiến Sĩ khoa học A. Krempt, Giám đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, phân chất đất đai, đo đạc, vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam” (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam).

Trong khi đó từ quần đảo Hoàng Sa về Hoa lục có một rãnh biển sâu hơn 2300 mét. Vì đáy biển Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không có hy vọng đòi nới rộng thềm lục địa Trung Hoa từ 200 hải lý đến 350 hải lý như trường hợp Việt Nam.

Vả lại các đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-15 bắc, cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý và cách Hoa lục tới 270 hải lý, nên thuộc thềm lục địa của Việt Nam.

Tại Trường Sa cũng vậy. Về mặt địa chất và địa hình đáy biển, Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ lục địa Việt Nam ra ngoài biển. Tại bãi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400 mét, và tại vùng đảo Trường Sa và cồn An Bang (do Việt Nam chiếm cứ), độ sâu chỉ tới 200 mét. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 170 hải lý và cách Hoa lục tới 800 hải lý. Các đảo Trường Sa tọa lạc tại các vỹ tuyến 12-8 bắc (từ Cam Ranh đến Cà Mâu), cách bờ biển Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa lục tới 750 hải lý, nên thuộc hải phận của Việt Nam.

Hơn nữa về mặt địa chất và địa hình, đáy biển Trường Sa cách bờ biển Trung Quốc bằng một rãnh biển sâu hơn 4 ngàn mét. Vì đáy biển không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không có hy vọng đòi nới rộng thềm lục địa đến mức 350 hải lý. Trong mọi trường hợp, các đảo Trường Sa cách Hoa lục quá xa, từ 700 đến 800 hải lý, vượt quá mức tối đa 350 hải lý dành cho thềm lục địa địa chất, nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Q uốc,

Khác với vùng đặc quyền kinh tế đánh cá, thềm lục địa (pháp lý hay địa chất) thuộc chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu khí. Các quốc gia duyên hải không phải chia dầu khí cho ai, mặc dầu chưa khai thác hay không khai thác hết (các Điều 77 và 81). Các quốc gia khác không được quyền đến thăm dò hay khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Mọi sự vi phạm bằng cách chiếm cứ, dầu có võ trang hay không, cũng đều bất hợp pháp và vô hiệu lực.

Hơn nữa, tại thềm lục địa, quyền của các quốc gia duyên hải không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation), thăm dò (exploration), khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation). Do đó, mặc dầu không còn chiếm cứ các đảo tại Hoàng Sa từ 1974, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu tại quần đảo này.

Trong những năm 1974, 1988 và 1992 Trung Quốc đã chiếm cứ võ trang một số đảo, cồn, đá, bãi tại Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là những hành động vi phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Dầu sao sự chiếm cứ bất hợp pháp này cũng không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại thềm lục địa. Hành vi bạo hành dầu kéo dài bao lâu cũng không làm mất tính bạo hành của nó. Và sự bạo hành võ trang không được viện dẫn quy chế tiêu diệt thời hiệu theo luật lệ hiện hành tại các quốc gia văn minh trên thế giới.

Đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa của Việt Nam

Chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có quyền đệ đơn tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf) để được hưởng quy chế thềm lục địa địa chất đến mức tối đa 350 hải lý, trong trường hợp nền lục địa của quốc gia duyên hải dài hơn thềm lục địa pháp lý (200 hải lý).

Thời hạn đệ đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa là 10 năm kể từ khi Công Ước có hiệu lực chấp hành (tháng 11-1994).

Qua năm 1995, nhân kỳ Đại Hội Khu Vực Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) họp tại Brunei, Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền đã gửi 7 vị nguyên thủ quốc gia thuộc tổ chức ASEAN một bản tường trình về vụ tranh chấp tại Hoàng Sa Trường Sa trên bình diện công pháp quốc tế. (Lúc này Việt Nam đã gia nhập ASEAN). Trong phần kết luận, Ủy Ban Luật Gia yêu cầu Khối ASEAN đổi danh xưng Biển Nam Hoa (South China Sea) thành Biển Đông Nam Á (Southeast Asia Sea). Đồng thời đề nghị Khối ASEAN triệu tập những cuộc đàm phán đa phương để giải quyết toàn bộ vấn đề tranh chấp tại Biển Đông Nam Á giữa các Quốc Gia hội viên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á..

Riêng đối với Việt Nam, Ủy Ban Luật Gia cũng đề nghị nhà cầm quyền triệu dụng các luật gia và chuyên gia trong các tổ chức hải dương quốc tế (như Viện Hải Dương Đông Tây tại Hawaii) để lập bản tường trình về những yếu tố đặc thù liên quan đến địa lý, địa hình và địa chất tại Hoàng Sa và Trường Sa theo các tiêu chuẩn hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc. Mục đích để kiện toàn hồ sơ yêu cầu Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa chấp thuận cho Việt Nam được mở rộng thềm lục địa từ 200 hải lý cho đến mức 350 hải lý. Về thủ tục tố tụng Ủy Ban Luật Gia cũng lưu ý rằng thời hạn đệ đơn là 10 năm chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Thời hạn này sẽ mãn vào tháng 11-2004.

Từ đó đến nay đã 14 năm, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn im lìm bất động. Hơn nữa, năm 2000, Chính phủ Hà Nội còn ký một hiệp ước bất bình đẳng về Hợp Tác Nghề Cá với Trung Quốc. Trong hiệp ước này có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa đồng thời với sự hợp tác đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế tại Vịnh Bắc Bộ.

Theo những tin tức mới đây, căn cứ vào thỉnh nguyện của một số quốc gia hội viên, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đã đồng ý triển hạn cho các quốc gia kết ước hay gia nhập Công Ước trước ngày 13-5-1999 (như Việt Nam) được có thời hạn 10 năm nghĩa là đến ngày 13-5-2009 để đệ đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa từ 200 hải lý đến 350 hải lý.

Quyết định này căn cứ vào hai sự kiện sau đây:

1. Mặc dầu Công Ước đã có hiệu lực chấp hành từ tháng 11-1994, vậy mà 3 năm sau, mãi tới tháng 5-1997, các ủy viên trong Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa mới được tuyển chọn.

2. Hơn nữa, mãi tới ngày 13-5-1999 Ủy Ban Phân Định mới soạn thảo và công bố Cương Lĩnh hướng dẫn các quốc gia hội viên về các tiêu chuẩn phải khai trình về mặt chuyên môn và về khoa học kỹ thuật.

Vì có sự chậm trễ 5 năm, Ủy Ban Phân Định đã đồng ý cho triển hạn thêm 5 năm (từ ngày 16-11-2004 đến ngày 13-5-2009) để các quốc gia hội viên đệ nạp hồ sơ.

Điều đáng lưu ý là đơn thỉnh nguyện có thể chưa viện dẫn đầy đủ các dữ kiện và yếu tố theo các tiêu chuẩn ghi trong Cương Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999 của Ủy Ban Phân Định. Trong trường hợp này các quốc gia đệ đơn có thể dành quyền sẽ xuất trình thêm tài liệu về những yếu tố và dữ kiện bổ túc để kiện toàn hồ sơ.

Vì những lý do nêu trên, cũng như năm 1995, một lần nữa, Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền cảnh giác và khuyến cáo nhà cầm quyền Hà Nội đệ đơn thỉnh nguyện tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc trong thời hạn luật định, nghĩa là trước ngày 13-5-2009.

Mục đích để bảo vệ và tranh thủ tối đa chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các thềm lục địa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cùng đồng bào trong và ngoài nước, Ủy Ban Luật Gia sẽ quan tâm theo dõi thái độ, hành động và tinh thần trách nhiệm của nhà cầm quyền Hà Nội trong việc thi hành nhiệm vụ lịch sử này. Nếu còn ngoan cố hay bất lực, bất cứ vì lý do gì, Chính Phủ và Đảng Cộng Sản sẽ phải chịu tội trước Quốc Dân và Lịch Sử.

Làm tại Hải ngoại ngày 20-2-2009

T.M. Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống



Những con kên kên ăn xác chết - Trần Thanh

Trần Thanh

Mùa hè sắp đến! Ðối với những người Việt sống nơi xứ lạnh, ai cũng mong cho đến mùa hè để được đi sinh hoạt ngoài trời, đi cắm trại, đi du lịch đó đây, hưởng những tia nắng ấm, sau nhiều ngày làm "con gấu mùa đông" trốn biệt trong nhà, không dám thò mặt ra ngoài đường! Mùa hè cũng là mùa mà những con kên kên rất "hồ hởi phấn khởi" vì đó là dịp rất thuận tiện để bọn chúng rỉa rói, ăn no nê những xác chết của những thương phế binh, tử sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Và mùa hè chính là mùa mà các tên đầu gấu việt cộng trong Bắc Bộ Phủ rất háo hức mong đợi, vì bọn chúng có thể kiếm được bạc triệu đô la một cách rất dễ dàng mà không hề tốn một giọt mồ hôi! Kiếm tiền bằng cách nào? Xin thưa, bằng cách thúc giục bầy kên kên Việt Tân ở hải ngoại tích cực rỉa rói những xác chết, hay nói một cách cụ thể hơn: - tổ chức những hoạt động "từ thiện" để gây quỹ giúp các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, gây quỹ để trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa ..v..v...

Thoạt mới nghe qua chúng ta thấy có vẻ nghịch lý: - tại sao bọn việt gian cộng sản lại thúc giục chúng ta tổ chức những buổi văn nghệ gây quỹ giúp các thương phế binh VNCH? Ai đời kẻ thù của chúng ta mà lại rất "biết ơn" những anh em thương phế binh còn đang mắc kẹt tại quê nhà! Nhưng đó chính là một sự thật rất phũ phàng!

Bởi vì gây quỹ, tiếng là để giúp các thương phế binh VNCH, nhưng thực chất là đem tiền đi nuôi béo bọn việt gian cộng sản và cũng là dịp để những tên lưu manh, lợi dụng danh nghĩa từ thiện ăn cắp tiền, làm giàu một cách phi pháp! Những nạn nhân ở Việt Nam nghèo vẫn hoàn nghèo, họ chỉ là những cái xác chết bị lợi dụng!

Những kẻ nào đã ăn trên xương máu của những thương phế binh quân lực Việt Nam Cộng Hòa?

Ðầu tiên phải kể là bọn đầu gấu việt cộng từ trung ương xuống dưới địa phương, đến những tên cán bộ tép riu, cắc ké ở phường khóm. Tất cả bọn chúng đều thẳng tay chém chặt, ăn cướp một cách công khai những món tiền từ thiện.

Tiếp theo là những tên việt kiều lưu manh, lợi dụng danh nghĩa "từ thiện" để ăn cắp, làm giàu bất hợp pháp trên xương máu của anh em thương phế binh quân lực VNCH.

Và cuối cùng, những gì còn sót lại, khi đến tay những anh thương phế binh thì hầu như chỉ là những mẩu xương, gân. Tất cả những phần béo bở đều đã bị bọn cướp, bọn lưu manh ăn cắp, đớp hết trọi rồi! Ðược chia phần xương và gân cũng còn ... phước. Ðôi khi các nạn nhân được chia ... Zê Rô phần trăm, đói vẫn hoàn đói, nghèo vẫn hoàn nghèo!

· TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN

Nhạc sĩ Trúc Hồ là một trong những nhân vật chủ chốt, điều hành hai trung tâm này. Cha của ông ta, nhạc sĩ Trúc Giang, đang làm việc "từ thiện" tại Việt Nam. Trong những năm vừa qua, cứ mỗi khi hè đến, trung tâm băng nhạc Asia lại rầm rộ tổ chức những buổi văn nghệ ngoài trời, quyên tiền để giúp các thương phế binh VNCH. Số khán giả tham gia lên đến hàng chục ngàn người, số tiền quyên được lên đến hàng triệu Mỹ kim.

Người Việt chúng ta vốn dễ dãi và rộng lượng, đa số ủng hộ từ vài chục đô đến vài trăm đô. Ðối với những nghệ sĩ tham gia giúp vui văn nghệ, nhiều người đã có những nghĩa cử rất cao đẹp. Nhiều người đã lặn lội từ những tiểu bang xa xôi, thậm chí bay từ các nước khác đến Cali, làm việc từ thiện mà không hề nhận bất cứ một thù lao nào. Sau khi làm nghĩa cử cao đẹp, thưởng thức văn nghệ xong thì ai về nhà nấy, ngày hôm sau lại tất bật lo đi cày, chẳng ai bận tâm đến việc số tiền mình đã đóng góp, không biết có đến tay các anh thương phế binh hay không? Tất cả chúng ta đều đã khoán trắng cho những kẻ khoác áo "từ thiện". Số tiền đóng góp đa số là tiền mặt, rất dễ bị ăn cắp. Thậm chí nếu có làm sổ sách "kế toán" cũng sẽ bị những tên ăn cắp gian lận rất dễ dàng.

Hàng triệu Mỹ kim đóng góp cho "từ thiện" đã không được công khai tài chánh, không được phổ biến rộng rãi trên truyền thông hải ngoại. Ðáng lẽ phải có một ủy ban được bầu ra, giám sát việc thu chi một cách chặt chẽ. Danh sách họ và tên của những thương phế binh VNCH đã nhận được tiền từ thiện là bao nhiêu người? Ðịa chỉ của họ ở đâu? Nhận tiền trong thời gian nào? Những người nào đã trao số tiền đó đến tay họ? Có hình chụp làm bằng chứng hay không? Có bản photo chữ ký họ đã nhận tiền hay không? Bọn đầu gấu việt gian cộng sản đã thâu "hụi chết" là bao nhiêu phần trăm?

Tất cả những điều công khai tài chánh đều đã không được thực hiện. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng hàng triệu đô la do những việt kiều ở hải ngoại đóng góp đều đã bị bọn việt gian cộng sản ăn cướp và bị những tên lưu manh,lợi dụng danh nghĩa từ thiện ăn cắp!

Chúng ta đi cày hộc gạch ở hải ngoại để đem mồ hôi, xương máu của mình đi nuôi béo kẻ thù và nuôi những thằng lưu manh ăn cắp hay sao? Tại sao chúng ta lại ngu quá lâu và quá đần độn, bị lợi dụng, móc túi bao nhiêu năm nay mà vẫn chưa sáng mắt? Chúng ta phải nhanh chóng thức tỉnh, tìm phương cách làm từ thiện bằng cách khác, dứt khoát đừng bao giờ để bọn chó đẻ bòn rút xương máu của chúng ta nữa. Phải ngăn chận những con kên kên đang ăn những xác chết của những thương phế binh VNCH!

· TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN CÓ CHỐNG CỘNG HAY KHÔNG?

Ðã đến lúc chúng ta phải nêu lên câu hỏi này. Xưa nay, nhiều người trong chúng ta vẫn thường cho rằng trung tâm băng nhạc Asia là "chống cộng", còn Thúy Nga Paris là đi bưng bô cho việt cộng! Thật ra cả hai thằng chó đẻ đều là tay sai của cộng sản! Thúy Nga Paris đã bị rớt mặt nạ cách đây hơn 10 năm, qua vụ băng Thúy Nga số 40, chủ đề về Mẹ. Khi bị thất vọng vì Thúy Nga, chúng ta đã dồn mọi hy vọng vào trung tâm Asia, coi trung tâm này như "tiền đồn chống cộng" tại hải ngoại. Những nhân vật như Trúc Hồ và Nam Lộc bỗng nhiên trở thành những ngôi sao sáng chói, những người hùng chống cộng! Những tờ báo công an của việt cộng ở trong nước thường đăng những bài viết "chửi" trung tâm Asia là "phản động"! Nếu chỉ căn cứ vào hiện tượng bề ngoài, chúng ta sẽ dễ bị nhầm lẫn, lừa bịp. Chính trị vốn dĩ phức tạp chớ không phải đơn giản như hai với hai là bốn. Ở bất cứ sòng bài nào cũng có những tên cò mồi cờ bạc, động đĩ thì có ma cô dắt mối và trong lãnh vực "từ thiện" cũng có những tên ma cô từ thiện dắt mối cho bầy kên kên ăn xác chết! Do đó, đến thời đểm năm 2009 này, chúng ta phải rút ra một kết luận:

- Một con đĩ đã công khai làm đĩ, công khai đứng đón khách ngoài đường ở ngã ba Chú Ía.
- Một con đĩ khác đi làm đĩ một cách kín đáo hơn, khéo léo đóng kịch cho nên nhiều người ngây thơ cứ tưởng nó là con nhà lành!

· CHỐNG CỘNG HAY ÐẦU HÀNG CỘNG SẢN?


Việc chống cộng vốn đa dạng, phức tạp nhưng tối thiểu phải thể hiện được hai yếu tố quan trọng sau đây:

1. Quyết tâm xóa bỏ chế độ cộng sản và đảng việt gian cộng sản
2. Nêu đúng tên, đúng tội, nêu đúng bản chất của kẻ thù, đó là: VIỆT GIAN CỘNG SẢN. Chống cộng mà run sợ, không dám dùng đúng chữ để tố cáo tội ác của bọn chúng thì chống làm gì? Phải chăng đó là hình thức đầu hàng cộng sản?

Hiện nay nhiều cá nhân và tổ chức vẫn dùng những nhóm chữ sau đây khi đề cập đến kẻ thù:

- Chính quyền Hà Nội
- Nhà cầm quyền Hà Nội
- Chính quyền Việt Nam/ nhà nước Việt Nam
- Cộng sản Việt Nam/ cộng sản Hà Nội

Và đa số không dám viết nguyên nhóm chữ mà chỉ viết tắt: CSVN!

Một thằng ăn cướp đã cướp mất nhà của chúng ta, giết hết vợ con của chúng ta mà chúng ta vẫn không dám gọi nó là ăn cướp, phải gọi tránh đi bằng cái tên khác, nghe hiền lành hơn, ví dụ như "ông giang hồ", thì chúng ta chỉ là những thằng hèn! Chúng ta chỉ là những kẻ ngụy tín, tự lừa dối mình. Ðó là chưa kể có nhiều tên lưu manh chính trị, khoác áo chống cộng nhưng thực chất là lấy dao đâm vào sau lưng người quốc gia, như bọn băng đảng Việt Tân đang làm hiện nay!

Chính danh không có thì không thể có chính nghĩa. Ðã không có chính nghĩa thì không thể nào tập hợp được toàn dân đứng dậy lật đổ chế độ cộng sản hung tàn, bạo ngược! Nội việc làm đơn giản nhất là thể hiện sự chính danh qua lời nói mà những kẻ "chống cộng" không dám nói thì chúng ta mong chờ gì họ dám hành động???

· VINH DANH QUÂN LỰC VNCH LÀ ÐÚNG NHƯNG CHƯA PHẢI LÀ YẾU TỐ QUYẾT ÐỊNH:

Vinh danh Quân lực VNCH là cần thiết để chúng ta tiếp tục hâm nóng, duy trì bầu nhiệt huyết chống cộng và truyền lại những kinh nghiệm cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là phải nêu cho được bản chất và tội ác của kẻ thù cho toàn dân biết. Tất cả những tội ác của bọn chúng đã phạm liên tục hơn 60 năm nay phải được chúng ta liên tục tố cáo qua những phương tiện truyền thông. Một khi người dân trong và ngoài nước thấy rõ tội ác của bọn cướp, sự căm phẫn của họ sẽ bùng lên, sẽ là động lực để họ đứng dậy lật đổ chế độ cộng sản.

Việc tố cáo tội ác của cộng sản cũng ví như việc châm lửa vào thùng thuốc súng. Nếu chúng ta không châm lửa thì thùng thuốc súng sẽ mãi mãi nguội lạnh và 85 triệu dân sẽ tiếp tục mãi mãi phải làm nô lệ cho bọn giặc! Thùng thuốc súng chúng ta đã có, lửa chúng ta cũng đã có trong tay nhưng không dám hoặc không thể châm! Vì sao?

- Vì một số lớn các cơ quan truyền thông hải ngoại đã ăn xôi chùa ngọng miệng, bị bọn việt gian cộng sản mua chuộc. Họ chỉ dám vinh danh Quân lực VNCH mà không dám tố cáo tội ác của cộng sản, kêu gọi toàn dân đứng dậy lật đổ bọn cộng sản!

- Vì những kẻ đục nước béo cò, làm "nghề" từ thiện sợ bị mất job! Chính những kẻ này, những việt kiều lưu manh không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ! Nếu chế độ cộng sản bị sụp đổ thì những kẻ làm việc từ thiện sẽ bị chết đói vì đa số bọn chúng đều là những tên lười biếng, bất tài, ăn bám xã hội!

- Những tên lưu manh chính trị đi làm tay sai, chó săn cho bọn việt gian cộng sản đã tích cực tìm cách cản phá, vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh của chúng ta, lèo lái cuộc đấu tranh của chúng ta đi xuống hố. Ví dụ như bọn chúng đã phao tin:

* Việt Nam ngày càng đi sâu vào quỹ đạo của người Mỹ
* Người Mỹ sẽ giúp Việt Nam xuống cọp được an toàn, được hạ cánh an toàn
* Có phe thân Mỹ trong trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam và phe này đang tìm cách là .... đảo chánh, lật đổ phe thân Trung Cộng!

Những sự lừa bịp này đã gây cho chúng ta một ảo tưởng rằng chúng ta không cần đấu tranh nữa mà rốt cuộc vẫn chiến thắng. Chế độ Cộng Sản sắp sửa bị tiêu vong rồi! Ðảng Cộng Sản đã và đang trở thành "bạn" của chính quyền Mỹ (đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ), mà bạn của Mỹ tức là bạn của Việt Nam Cộng Hòa. Kẻ thù đã trở thành "bạn" rồi thì chống đối làm gì nữa!!! Nếu cứ tiếp tục chống cộng sản thì có khác gì chống Mỹ, chống lại "ông thầy" của mình!!!

Chưa hết, bọn chó săn còn tung ra luận điệu: - bây giờ là lúc người quốc gia và cộng sản phải cùng hợp tác với nhau để chống giặc ngoại xâm Trung Cộng!

· CHÚNG TA HÃY NHÌN CHO KỸ TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN:

- Họ chỉ dám vinh danh quân lực VNCH mà không bao giờ dám tố cáo tội ác của bọn việt gian cộng sản. Việc làm "vinh danh" của họ chỉ là hình thức làm kiểng, tựa như bọn đối lập cuội đóng tuồng, hầu che đậy những màn đi đêm lén lút bắt tay với cộng sản.

Thỉnh thoảng họ nêu lên những hình ảnh "chống cộng" như vụ chiếc cầu sập ở Cần Thơ làm chết 50 công nhân hoặc vụ hòa thượng Thích Quảng Ðộ và linh mục Nguyễn Văn Lý bị cộng sản giam cầm; tuy nhiên, đây là những việc làm dư thừa vì ai ai cũng đều biết. Vụ cầu sập, báo chí của cộng sản trong nước đã nêu rất nhiều, đâu cần phải chờ đến trung tâm băng nhạc Asia đưa tin, ở hải ngoại mới biết. Còn vụ hòa thượng Quảng Ðộ và cha Lý thì truyền thông ở hải ngoại cũng đã đưa tin rất nhiều.

- Nếu cho rằng trung tâm băng nhạc Asia là "chống cộng" thì chúng ta có thấy người MC nào của trung tâm dám nói một câu nào "chống cộng" hay không, hay chỉ khom lưng, cúi đầu xưng hô với bọn giặc bằng những nhóm chữ rất lễ phép là "chính quyền Việt Nam, chính quyền Hà Nội, nhà nước Việt Nam"?

- Ðài truyền hình SBTN đã để cho tên đại ma đầu Bùi Tín cùng những tên tay sai cộng sản như Phan Nhật Nam, Trần Phong Vũ xuất hiện trên đài, kêu gọi người quốc gia hãy bao dung với những tên phản tỉnh cuội!

- Nhạc sĩ Trúc Hồ và MC Thùy Dương đã lên đài truyền hình SBTN kêu gọi người Việt tại hải ngoại làm việc "từ thiện" bằng cách ký những giấy bảo lãnh, nuôi những trẻ em mồ côi tại Việt Nam ăn học đến hết năm 18 tuổi! Ðây là hình thức kêu gọi chúng ta hãy đóng thuế cho cộng sản! Một khi đã ký giấy bảo lãnh tức là chúng ta tự nguyện cho phép bọn giặc rút từ trương mục ngân hàng của chúng ta mỗi tháng từ 50 đến vài trăm đô và rút liên tục từ 10 đến 15 năm!!!

Trước đây vì toàn dân ta dại dột, ngu dốt, nghe theo lời lừa bịp của tên Hồ tặc Hồ Chí Minh, hậu quả là mười triệu người đã toi mạng, 85 triệu người bị bắt làm nô lệ, cho tới bây giờ vẫn chưa thoát khỏi gông cùm nô lệ. Bây giờ lại xuất hiện thêm một "bác Hồ" mới, họ Trúc, cũng lưu manh và lừa bịp không khác gì tên Hồ tặc. Nghe theo lời xúi dại của "bác Hồ", chúng ta ký giấy bảo lãnh tức là tự ký bản án tử hình cho chính mình! Ngoài việc ngu dại đóng thuế cho bọn giặc, chúng ta đã tiết lộ hết tất cả những lý lịch cá nhân của chúng ta cho bọn chúng biết, bởi vì khi điền đơn bảo lãnh, chắc chắn chúng ta phải khai rõ họ tên, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp ..v..v... Một khi bọn giặc đã nắm được lý lịch cá nhân của chúng ta, coi như là chúng đã nắm được linh hồn của chúng ta trong tay. Nguy hiểm hơn nữa là bọn chúng có thể dùng lý lịch của chúng ta để làm giả các giấy tờ như thẻ tín dụng Visa, thẻ Passport, thẻ quốc tịch ..v..v.. và những hậu quả chết người sẽ đến với chúng ta!

- Ðài truyền hình SBTN đã trình chiếu bộ phim phóng sự dài nhiều tập mang tên là "Hành trình xuyên Việt". Chúng ta hãy đặt câu hỏi vì sao cộng sản lại cho phép phóng viên của đài truyền hình SBTN được tự do đi lại trên khắp nước để làm phim phóng sự? Chắc chắn đây phải là một sự trao đổi có lợi cho cộng sản. Và chắc chúng ta cũng chưa quên, trước đây phóng viên của đài SBTN đã về tận Hà Nội quay cảnh lụt lội, chiếu cảnh những chiếc xe tăng lội nước chạy trên đường phố Hà Nội, rồi đưa tin là sắp sửa có đảo chánh ở trong nước, để người Việt ở hải ngoại hồi hộp chờ đợi, lơ là việc chống cộng!!!

Trong bộ phim phóng sự "Hành trình xuyên Việt", phần 2, có chiếu những đoạn thời sự về cảnh những người dân miền bắc di cư vào Nam năm 1954 và những lời bình luận về việc tại sao việc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc, dự trù tổ chức vào năm 1956, không được thi hành. Những lời bình luận này có lợi cho cộng sản hay cho phía quốc gia?

Mùa hè sắp đến. Trung tâm Asia và đài truyền hình SBTN đã rục rịch quảng cáo những buổi văn nghệ gây quỹ từ thiện giúp những thương phế binh VNCH. Qua những điều trình bày tóm tắt nêu trên, chúng tôi có thể khẳng định rằng hầu hết những kẻ làm việc "từ thiện" đều là những tên lừa bịp và ăn cắp. Và cũng chính những bọn này đã tìm mọi cách để vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh của chúng ta bởi vì bọn chúng không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ. Cộng đồng người Việt tại hải ngoại là cái mỏ đô la vô tận, là con bò sữa rất béo, không bòn rút xương tủy, hút máu hút mủ thì uổng lắm!

Riêng đối với nhạc sĩ Trúc Hồ, giám đốc đài truyền hình SBTN thì bộ mặt đi làm tay sai cho việt cộng của y ngày càng lộ rõ. Chúng ta cũng đừng quên, cha của y, nhạc sĩ Trúc Giang đang làm việc "từ thiện" tại Việt Nam. Trước đây "bác Hồ" đã sáng tác một số bài hát mang tính cách nhân bản và "đấu tranh", và nhờ có phương tiện truyền thông trong tay nên y đã nhanh chóng nổi tiếng. Ngày nay, lợi dụng sự nổi tiếng đó, y đã kêu gọi chúng ta đi đóng thuế, đi làm nô lệ cho cộng sản! Cô MC Thùy Dương cũng vậy. Sau một thời gian xuất hiện trên băng nhạc Asia, có được chút tiếng tăm, được thiện cảm của khán giả thì cô đã vội vàng đi theo "bác Hồ" để tìm đường cứu cái .... bao tử của mình!!! Chúng ta cần phải tẩy chay và phản đối những thành phần này. Không phải vì nể nang những thành tích văn nghệ của họ mà chúng ta xuôi theo những lời dụ dỗ, rủ rê, đưa chúng ta vào chỗ chết!

Biết bao nhiêu gia đình việt kiều, những đồng bào của chúng ta tại tiểu bang Louisiana nước Mỹ đã bị tan nát nhà cửa vì cơn bão Katrina, phải sống cảnh màn trời chiếu đất, tài sản dành dụm mấy chục năm nay bỗng nhiên biến mất. Nếu có làm việc từ thiện thì phải ưu tiên cho những người này! Và hiện nay rất nhiều người Việt trên đất Mỹ đang bị phá sản, mất nhà, mất việc, trở nên thành phần homeless vì nạn suy thoái kinh tế. Nếu có tổ chức lạc quyên, từ thiện thì phải ưu tiên giúp những người này trước. Cha mẹ, anh chị em, con cái của chúng ta ngay trong gia đình không lo cứu mà lại đi lo giúp trẻ mồ côi ở Việt Nam là vì sao? Phải chăng vì làm việc "từ thiện" cho bọn việt gian cộng sản thì mới dễ lươn lẹo và ăn cắp vì khó kiểm soát!?

Hiện nay, tại Việt Nam, thành phần dân nghèo sống đầu đường xó chợ lên đến hàng triệu người. Tệ nạn xã hội nhiều như cát ở sông Hằng. Tất cả những tai họa này đều do bọn giặc cướp việt gian cộng sản gây ra. Chúng đã gây ra tai họa thì chính bọn chúng phải chịu trách nhiệm giải quyết. Tại sao kẻ ăn ốc, người đi đổ vỏ? Nếu chúng ta ngu dại cứ nai lưng ra dọn dẹp những đống rác do bọn cướp gây ra thì bọn chúng sẽ tiếp tục sản xuất ra rác! Cái vòng lẩn quẩn sẽ không bao giờ chấm dứt!

· PHẦN ÐỀ NGHỊ:


Giúp đỡ những thương phế binh VNCH là điều rất nên làm nhưng chúng ta phải làm như thế nào để đạt được kết quả hữu hiệu và dứt khoát là chúng ta không tin tưởng bất cứ một tổ chức từ thiện nào đứng ra quyên góp. Giả sử có một tổ chức uy tín, đứng đắn nào đó hoạt động nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi sớm muộn gì cũng sẽ bị bọn lưu manh, ăn cắp lợi dụng! Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề nghị một vài điểm:

- Chúng ta nên tổ chức làm việc từ thiện theo cá nhân hoặc nhóm tối đa là 10 người. Những người trong gia đình, họ hàng hoặc trong những bạn bè thân thiết có thể tổ chức thành một nhóm.

Cách trao tiền:

Ðích thân người trong nhóm về Việt Nam trao tiền tận tay các anh thương phế binh. Nếu không về Việt Nam được thì ủy nhiệm cho một người đáng tin cậy ở Việt Nam trao giùm.

Khỏi đóng thuế cho việt cộng:

Chúng ta có thể dàn xếp bằng cách, ví dụ:

- Bước một: người A trao tiền Mỹ kim cho người B tại Mỹ. (người B đại diện cho người C ở Việt Nam)
- Bước hai: người C ở Việt Nam trao tiền Việt cho các thương phế binh.

Hai bên liên lạc với nhau qua điện thoại hoặc e-mail. Bọn việt cộng chỉ còn có nước ngáp gió, vô phương thu thuế!

Ðây là cách an toàn và hữu hiệu, không sợ tiền bạc bị thất thoát, rơi vào túi bọn lưu manh, ăn cắp. Nhiều người làm thành nhiều nhóm và nhiều nhóm cùng hoạt động từ thiện thì sẽ có hiệu quả ở phạm vi rộng lớn. Bằng cách này, chúng ta sẽ loại bỏ được hai con cá mập rất lớn, ăn chận hết 99% số tiền cứu trợ, đó là bọn việt gian cộng sản và cái đám việt kiều lưu manh! Chúng tôi biết có những tên việt kiều lưu manh, ôm tiền từ thiện về Việt Nam, sau khi đóng hụi chết cho việt cộng, bọn chúng đã đi vào các động đĩ chơi bời đến mệt nghỉ, lỏng đầu gối, rồi lại tiếp tục về Mỹ đi quyên tiền! (Muốn biết các động đĩ nổi tiếng thì cứ tham khảo nơi tờ báo điện tử Take-2-Tango! ) Chẳng có ai kiểm tra sổ sách bọn này cả, mà nếu có kiểm tra thì bọn chúng cũng thừa sức lừa bịp, qua mặt! Những kẻ ngu đần ở Mỹ lại tiếp tục móc hầu bao ra cúng dường cho "từ thiện" để cho những tên chó đẻ vô lương tâm tha hồ làm giàu, trác táng!!!

Sở dĩ chế độ cộng sản còn tồn tại đến ngày hôm nay là vì chúng ta đã nuôi nó, chớ bọn chúng không phải nhờ tài giỏi hay thần thánh gì. Chỉ cần triệt nguồn tiền tài trợ từ cộng đồng người Việt tại hải ngoại và các phương tiện truyền thông chống cộng hoạt động hữu hiệu là đủ sức cho toàn dân trong nước vùng dậy. Số phận của chúng ta do chính chúng ta quyết định. Người Mỹ hay ông trời không thể cứu được chúng ta.

Trần Thanh
Ngày 21 tháng ba năm 2009