Friday, November 21, 2008

Ai khổ hơn ai?

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Những đau khổ mà tập đoàn việt-gian Hồ chí Minh, tay sai của thực dân đỏ Nga Sô và Tàu cộng áp đặt lên người dân Việt Nam là không thể nào tưởng tượng nổi trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của Tổ Tiên Việt nam chúng ta.

Vậy những tội ác đó là gì? Đặc điểm của tội ác này là việc một tập đoàn người Việt tự nguyện làm tay sai cho ngoại bang, gây thiệt hại cho người dân và đất nước Việt Nam.

Những tội ác đó là: Ngay từ khi chấp nhận hình thành đảng việt-gian cs thì Hồ chí Minh đã vạch kế hoạch vào năm 1929 và thực thi kế hoạch đó vào năm 1930. Để mở đường cho việc người dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận thân phạn nô lệ đối với Nga Sô và Tàu cộng, thì HCM và đảng cộng sản và những tên tội ác trong băng đảng của hắn đã thực hiện cái gọi là bốn cuộc cách mạng. Thời kỳ đầu chúng không ngần ngại nói huỵch toẹt ra là:

“Trí, Phú, Địa, Hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Sau này vì hoàn cảnh biến chuyển của thế giới, chúng đổi thành ra những ngôn từ dễ lọt tai hơn:

Thứ nhất: Cách mạng ruộng đất.

Thứ hai: Chỉnh đốn tổ chức.

Thứ ba: Cách mạng văn hóa tư tưởng.

Thứ tư: Cách mạng công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Xét cho cùng bốn cuộc “cách mạng” nêu trên hay còn gọi là:

“Trí, Phú, Địa, Hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Chẳng qua chỉ nhằm tiêu diệt những tầng lớp dường cột của bất kể một quốc gia nào trên thế giới. Khi một xã hội mà bốn tầng lớp trên bị tiêu diệt, thì chỉ còn những người dễ dàng chấp nhận thân phận nô lệ. Đó là tội ác lớn nhất của tập đoàn Hồ chí Minh cho đến nay.

1. Chúng đã phá hủy công trình dựng và giữ nước mà Tổ Tiên ta hơn bốn ngàn năm mới định hình được truyền thồng văn hóa, truyền thống lịch sử, truyền thống sinh hoạt trong xã hội với đặc thù là của đạo sống người Việt. Nếu như xưa kia ở làng xã người ta thường khuyên nhau là: Tối lửa tắt đèn, bán anh em xa, mua láng giềng gần. Thì ngày nay bốn cái mà gọi là cuộc cách mạng đó của vgcs đã làm đảo lộn xã hội khiến cho tất cả đức tin và giá trị đều bị hủy diệt hoặc bị thay đổi. Tất cả mọi người dân VN không còn được học tập để tôn thờ những giá trị của VN, những anh hùng, liệt nữ của dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại phải tôn thờ những tên ngoại bang như: Lê nin, Stalin, Mao trạch Đông.

2. Chúng biến nhân dân VN sau khi bị triệt tiêu, bị thoái hóa bốn tầng lớp rường cột nói trên. Thì tất cả trở thành nô lệ: binh nô, nông nô để sản xuất ra của cải vật chất và để bán xương máu cho sự bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ của Nga Sô, Tàu cộng ra toàn Đông Dương và chiếm dần ra toàn vùng Đông Nam Á. Vì thế cho nên, việc HCM và các tay sai của hắn cho đến nay lấy việc dâng đất dâng biển cho Tàu cộng là một việc đương nhiên. Vì trong thực tế chúng đã có chủ trương không phải là dâng một phần đất mà dâng trọn vẹn đất nước VN, toàn thể nhân dân VN phục vụ cho những mục đích bành trướng của thực dân Đỏ.

3. Một tội ác nữa của Hồ chí Minh và tập đoàn việt gian của hắn là tàn phá tài nguyên của đất nước. Môi trường sinh hoạt xã hội và môi trường thiên nhiên. Hễ bất kể một nhân tài nào của đất nước về mọi lãnh vực thì đều bị tiêu diệt dưới hình thức là không cho chủ nghĩa cá nhân được tồn tại dùng bạo lực để đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực để giải quyết vấn đề của “cách mạng”. Vì thế trong xã hội VN ở thời kỳ của HCM cho đến nay là tập đoàn việt-gian cộng-sản, nên chưa bao giờ chúng có một đường lối hay một chính sách nào để ích quốc lợi dân cả. Cho nên, để có thể đấu tranh lật đổ bọn việt-gian Hồ chí Minh và những kẻ kế thừa của nó thì điều quan trọng đầu tiên là phải giác ngộ toàn dân rằng bản chất của chúng là việt gian, hành động và tư tưởng của chúng là đầu hàng ngoại bang. Chúng ta muốn giữ gìn được đất nước, muốn duy trì lại những truyền thống văn hóa, xã hội tốt đẹp của đạo sống Việt, thì chỉ có một con đường duy nhất là phải đánh đuổi tập đoàn vgcs. Trong tình hình hiện nay, muốn đánh đuổi tập đoàn vgcs thì mọi người đều phải nhận ra được những tên việt-gian với người dân là hai mặt đối kháng không thể dung hòa được. Hễ còn việt-gian thì đất nước và nhân dân còn bị khốn khổ. Nhân dân muốn được tự do, hạnh phúc, đất nước muốn phát triển bằng các nước bạn, thì không thể nào còn những tên việt gian sống lẩn trong người dân Việt. Ở đây có nghĩa là không phải tiêu diệt thân xác chúng, mà tiêu diệt ý chí thống trị của chúng. Buộc chúng phải trở về làm một người dân lương thiện. Chúng không được phép ngồi vào ghế cai trị đất nước, bởi vì lịch sử đã chứng minh rằng: Từ khi chúng chưa nắm được quyền cho đến khi chúng nắm được quyền thống trị, thì lúc nào chúng cũng tìm cách tiêu diệt người yêu nước. Trong mọi lãnh vực, chúng luôn tìm cách dựa vào thế lực ngoại bang, chính là Nga Sô và Tàu cộng và làm lợi cho Nga Sô Tàu cộng, tàn phá đất nước và gây thiệt hại nặng nề cho người dân Việt Nam trên mọi lãnh vực.

Việc hành xử từ tên đại việt gian Hồ chí Minh và cái đảng việt gian mà chúng tự nhận là đảng cộng-sản Việt nam (CSVN) đã thừa hành mọi chỉ thị của Nga Tàu, vì quyền lợi Nga Tàu mà giết hại người dân Việt Nam và bán đất dâng biển của đất nước cho Tàu cộng từ những năm khởi đầu cuộc chiến. Cuộc chiến tàn phá đất nước này, do chính chúng nhận súng đạn từ Nga Tàu về khởi xướng. Điển hình là công hàm bán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Phạm văn Đồng ký thừ lệnh tên đại việt gian Hồ chí Minh năm 1958. Một điều gian manh là phần lãnh thổ hai quần đảo trên thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng-Hòa vào thời điểm nêu trên.

Đến nay, vẫn còn nhiều người mù mờ về hai chữ “việt-gian” mà chưa gọi hoặc không dám gọi đúng tên của lũ việt-gian cộng-sản bán nước giết dân. Một số các ngòi bút truyền thông hải ngoại cũng không dùng đúng tên của kẻ thù tàn ác, vô luân, thâm độc nhất của dân tộc mà mục tiêu, hành động của cả cái đảng gọi là CSVN rõ ràng là hành động của lũ VIỆT GIAN!

Đúng như ngôn từ mà Tổ Tiên chúng ta đã xác định: “Việt gian là người Việt nam, nhưng chính chúng can tâm làm tay sai cho ngoại bang, vì quyền lợi của ngoại bang, giúp ngoại bang hành động phương hại cho đất nước và dân tộc Việt Nam.” và Tổ Tiên chúng ta đã xử dụng đặt tên cho những bọn người như chúng.

Xét về tư tưởng và nhìn vào hành động của tên đại việt gian Hồ chí Minh và cái đảng của hắn từ khởi thủy cho đến nay. Không ai trong chúng ta mà không nhận ra rằng, rành rành chúng, bọn tự nhận là đảng CSVN chính là lũ VIỆT GIAN qua những yếu tố cấu thành tội việt gian của chúng sơ lược sau đây:

  1. Cấu kết, tuân lệnh ngoại bang Nga, Tàu, đem vũ khí về khởi chiến, gây chết chóc tang thương cho chính người dân Việt.
  2. Tiêu diệt bốn thành phần căn bản xây dựng của đất nước: Trí, Phú, Địa, Hào với khẩu hiệu:

“Trí, Phú, Địa, Hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ”

  1. Truy giết, bách hại mọi thành phần cá nhân, đảng phải yêu nước chân chính.
  2. Dâng đất dâng biển của tiền nhân để lại cho Tàu cộng.
  3. Buôn dân làm nô lệ lao động và tình dục trên khắp thế giới.

Có gọi đúng tên, nêu đúng tội, thì bọn việt gian và con cháu của chúng mới sợ. Người dân Việt nam khắp mọi nơi đều biết mới khinh khi, ruồng ghét và không còn sợ hãi cả lũ bất lương, tàn ác đã gây ra bao tội ác, khổ đau cho dân tộc chúng ta. Từ đó, việc giành lại tự do, nhân quyền và chủ quyền của đất nước sẽ chẳng bao xa.

Sau 30/4/1975, chiếm cả nước để vơ vét tài sản và vật chất của người dân miền Nam sống dưới chế độ VNCH bằng nhiều phương thức, nào đổi tiền, bắt tù “cải tạo”, đánh tư sản mại bản… Cướp nhà cửa, tài sản không chỉ của những người bỏ nước ra tìm tự do trước đó mà cả những gia đình giàu có; gia đình của quân, cán chính VNCH và đày đọa họ lên các vùng kinh tế mới. Thực chất là để giết lần mòn những nạn nhân bị cướp bóc này, hệt như việc bọn vgcs theo đuôi Hồ vào chiếm Hà nội năm 1954 sau hiệp định Genève về Việt Nam. Nghĩa là chúng cưỡng chiếm nốt cả nhà cửa, tài sản và cả người dân sống từ phía Nam của cầu Hiền Lương (vĩ tuyến 17) đến tận mũi Cà Mau.

Tục ngữ Việt nam ta có câu: “Miệng ăn núi lở!”, “Lòng tham không đáy”. Với bản chất chỉ tuân lệnh Nga Tàu cướp phá, chém giết người dân Việt, bọn vgcs đã không thể tự kiếm kế sinh nhai lương thiện để lo liệu cho chính bản thân và gia đình của chúng. Vì thế, sự thành công của số người bỏ nước ra đi tìm tự do mà chính chúng tìm cách hãm hại, tàn sát trên đường đào tẩu nanh vuốt của vgcs. Mà ngay Phạm văn Đồng, thủ tướng ngụy quyền vgcs đã mỉa mai, hỗn láo, nhục mạ là: “thành phần phản cách mạng, ma cô, đĩ điếm, lười lao động, ôm chân đế quốc….”. Thì chúng đã đổi lại thành: “Việt kiều yêu nước, khúc ruột xa ngàn dặm và còn là “bộ phận không thể tách rời Tổ quốc VN!”” (sic). Qua những hơi đồng USD (đô la Mỹ) ồ ạt đổ về vì tình liên đới ruột thịt, bà con, nhân đạo… của tập thể người Việt tỵ nạn vgcs khắp nơi trên các quốc gia có người Việt tỵ nạn định cư. Món ngoại tệ có bảo chứng thật của các quốc gia tự do trên thế giới đã được người Việt tỵ nạn vgcs gửi về giúp thân nhân và vô điều kiện để thân nhân mình đổi lấy những tờ giấy lộn như toa thuốc dầu Nhị Thiên Đường xoa cơn trúng gió. Còn bọn vgcs lần lượt trở thành những tên tư bản đỏ với hàng trăm triệu đến hàng tỷ đô la Mỹ gửi tại các ngân hàng nước ngoài. Đó là chưa kể của chìm, tiền mặt và bao nhiêu dinh thự, bất động sản chúng chia nhau cướp bóc của người dân trong nước. Hố ngăn cách của bè lũ việt gian bán nước với người dân ngày càng sâu rộng thêm. Con cháu và gia đình bọn vgcs lần lượt bò ra hải ngoại như đi chợ với nhiều mục đích khác nhau. Mới đây trên các Diễn Đàn điện tử đã đăng tải hình một đám cưới thật sang trọng, đắt tiền như các đám cưới của minh tinh màn bạc ở các nước Âu Mỹ giàu có. Chỉ riệng một bó hoa cưới đã tốn trên hai tỷ đồng VN (gần 200,000 đô la Mỹ). Chưa kể tiền chúng bỏ ra mướn một hòn đảo, nhà hàng và các phục dịch khác.

Để “nắm được” cái khúc ruột xa ngàn dặm tại các nước tư bản mà tiếp tục moi tiền dài dài; tựa những con bò với các bầu sữa béo tốt, vô tận. Nghị quyết 36 của đảng vgcs ra đời nhắm vào mục tiêu đầy lòng nhân ái từ tâm hay quên tại hải ngoại. Lần lượt các màn kịch: Những nhà đối kháng đấu tranh cho dân chủ với các diễn viên như Trần Độ, Trần Khuê, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Khắc Toàn, Phương Nam Đỗ Nam Hải, Nguyễn Đan Quế… ở trong nước lần lượt được tô hồng chuốt lục, tung lên các phương tiện truyền thông trong cũng như ngoài nước. Với sự hỗ trợ của bọn bút nô, văn nô và một số cơ quan truyền thông đã bị mua chuộc, cài cấy người của bọn vgcs vào hoạt động. Một số kẻ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn vgcs đã vì lý do nào đó, bị vgcs cấy sinh tử phù nên đã răm rắp đồng loạt thổi ống đu đủ cho bọn đấu tranh cuội trong nước nêu trên.

Đồng thời, bọn quan thầy Trung cộng của bọn vgcs mè nheo đòi hỏi bọn vgcs chia công, chia lời việc giúp đỡ người và của trong cuộc chiến tay sai cho chúng nhuộm đỏ được cả nước Việt nam sau 30/4/1975. Không những chỉ bọn Tàu phù xâm lược chính thức chiếm lĩnh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam mà năm 1958 tên thủ tướng ngụy quyền vgcs Phạm văn Đồng đã ký nhượng quyền kiểm soát cho chúng.

Phần lãnh thổ, Tàu phù bành trướng còn xâm lược sâu khỏi biên giới vào đất nước Việt nam tại sáu tỉnh địa đầu cực Bắc. Những bài tập đọc và học thuộc lòng qua bao thế hệ của tiền nhân gầy dựng đất nước: “Nước Việt Nam hình cong chữ S, một giải từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau…” kể từ đó đã không còn nguyên vẹn mà đã bị bọn vgcs cắt mất khúc đầu dâng cho Tàu cộng. Về mặt kinh tế, Tàu cộng còn yêu sách và đã được bọn vgcs “hồ hởi, phấn khởi” vui lòng chấp thuận cho Tàu cộng mặc tình thao túng thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức và luật lệ của bọn khách trú. Thêm vào đó, người Tàu với thông hành của Trung cộng, việc xuất, nhập hoặc cư trú trên đất nước Việt nam không cần xin phép hoặc gia hạn.

Phần lãnh hải, bọn Tàu phù bành trướng vạch cắt lằn ranh đánh cá và dò tìm mỏ dầu ngoài khơi biển Đông của Việt nam, cũng đã được bọn đầu lãnh vgcs gật đầu “hảo lớ” hết trọi. Tàu phù vạch đến đâu, cha con bọn vgcs gật đầu đến đó.

Việc xâm lấn dần dần của Tàu cộng dưới sự ưng thuận của bè lũ vgcs đã là một bảo kê cho chúng được hưởng quyền làm “Thái Thú” của Tàu cộng xâm lăng lâu dài trên giải đất còn lại của Việt Nam. Thực chất người của Tàu cộng và tay sai của chúng đã cầm quyền lãnh đạo bọn vgcs còn lại trong cái gọi là đảng CSVN từ những năm của thập niên 1950.

Bọn vgcs nhắm vào khối người việt tỵ nạn vgcs tại hải ngoại và chúng quan trọng đến nỗi phải chi ra hàng tỷ đô la Mỹ. Từ là một tổ chức Viêt kiều bình thường chúng đã phải nâng lên một ủy ban ngang hàng một Bộ và chúng lại ra nhiều nghị quyết của từ Ban bí thư đến nghị quyết của Bộ chính trị. Không những thế ngoài việc tìm cách thâu tóm, “quản lý” cái cộng đồng người Việt tị nạn vgcs ra chúng còn tổ chức một bộ phận tìm cách đầu độc, câu mồi tại hải ngoại. Tiền chi tiêu cho cái nghị quyết 36 khởi đầu gần một tỷ đô la Mỹ, mà hàng năm còn bổ xung thêm. Chúng tìm cách “quản lý” thân nhân của những người Việt tỵ nạn vgcs mà thân nhân còn kẹt lại ở trong nước. Không riêng gì trung ương mà cho đến các tỉnh, huyện địa phương cũng có những bộ phận quản lý, móc nối những người “yêu nước”và thân nhân của họ. Chúng tìm mọi cách gây mơ hồ cho tập thể người Việt tị nạn vgcs tại hải ngoại mà mau quên. Thí dụ việc chúng chi ra mấy triệu đô la Mỹ cho cái gọi là “Duyên dáng VN”. Mở màn tại Úc Châu, Mỹ rồi sang Âu Châu.

Một cộng đồng giàu tài nguyên chất xám lẫn tài chính sau khi ổn định, bao năm cần mẫn làm việc, học hỏi hấp thụ nền dân chủ và được hưởng đủ nhân quyền nơi các xứ định cư. Nhưng không bao giờ quên nguồn cội và tràn đầy tính người, từ tâm mặc dù quả cảm trước gian nguy thử thách, ứng phó với những nghịch cảnh trên con đường tìm đến bến bờ tự do. Họ nhìn về quê hương và đa số chỉ thấy đồng loại đang gánh chịu những tai ương do chính bọn mệnh danh “giải phóng” hà hiếp, cướp mòn tinh thần lẫn thể xác từ thế hệ này sang thế hệ khác của người thân và đồng bào ruột thịt trong nước. Có người đã phải than: “Chúng cũng là người Việt Nam, tại sao chúng lại có thể nhẫn tâm như vậy với đồng bào của chúng?!!! CSVN chúng có còn là người không???”

Trong cộng đồng người Việt tỵ nạn vgcs tại hải ngoại cũng có những thành phần chủ hàng, trí nô, bút nô, các đảng phái ma trơi làm tay sai cho vgcs, thừa hành mọi chỉ thị chủa vgcs nhằm làm suy yếu tinh thần đấu tranh cho một nước Việt nam dân chủ, nhân quyền và thịnh vượng qua các cuộc gây rối, chi rẽ, phân hóa trong hàng ngũ tỵ nạn vgcs chúng ta. Những đảng phái, tổ chức ma trơi thực thi mọi kế sách làm mất lòng tin vào chính nghĩa và lẽ tất thắng của người Việt tỵ nạn vgcs tại hải ngoại. Đánh lạc hướng đấu tranh của người Việt tỵ nạn qua nhiều hiện tượng giật gân có, tiêu cực có. Nhất là việc kêu gọi “Quên quá khứ xóa bỏ hận thù, Hòa Hợp Hòa Giải” để xây dựng đất nước mà mập mờ chỉ có vế đầu. Còn vế sau Hòa Hợp Hòa Giải với ai thì lại bỏ lửng.

Để thực hiện được những việc trên, bọn vgcs đã xử dụng chính tiền của người Việt tỵ nạn vgcs gửi về, cộng thuế của người dân trong nước, thêm với các khoản tiền viện trợ nhân đạo và từ các cơ quan từ thiện quốc tế. Những bất hạnh, khó khăn trong xã hội VN do chính sách cướp bóc của bọn vgcs gây ra, thì chúng lại không dùng tiền thâu thuế của dân, tiền viện trợ nhân đạo của quốc tế nhận được mà giúp đỡ giải quyết, lại đùn cho cộng đồng người Việt tỵ nạn vgcs “đóng góp từ thiện”. Trong khi đó, tại hải ngoại đã từng có những kẻ ngu xuẩn đứng ra tổ chức các buổi “gây quỹ từ thiện” cho chúng bóp cổ mình và bóp cổ cả đồng hương tỵ nạn vgcs nữa. Là người Việt tỵ nạn vgcs, trong khi quyên góp tiền xây dựng tượng đài, bia tưởng niệm thuyền nhân, giúp Thương binh QLVNCH thì khó khăn. Nhưng quyên góp tiếp máu cho vgcs thì thật là mau mắn! Chẳng lẽ, sau một thời gian dài tỵ nạn, óc của bọn người này đã hóa bùn?!

Với người dân bị trị trong nước, chắc chắn không cần các đảng phái hay cá nhân nào đó lên tiếng Hòa Hợp Hòa Giải. Vì đại đa số người dân bị trị trong nước với người Việt tỵ nạn vgcs tại hải ngoại chẳng có oán thù, giận hờn, đố kỵ ngoài tình ruội thịt đồng bào. Còn đối với bọn vgcs đang chiếm quyền cai trị đất nước thì như Boris Yelsin đã nói: “Cộng sản chỉ có thay thế chúng chứ không có thể sửa đổi chúng”. Và bọn vgcs cũng không ngoại lệ.

Đồng thời một số đảng phái chính trị dỏm như Việt Tân phở bò thường xuyên tìm cách đưa những thành phần dân chủ cuội, phản tỉnh cuội do vgcs “gởi gắm” với ý đồ hợp thức hóa tỵ nạn để rồi sau thời gian được đóng ấn phản tỉnh thứ thiệ, đi diễn thuyết, viết bài tham luận chửi CSVN dữ dội. (Thực ra, những tên phản tỉnh cuội này chỉ nêu ra và rủa xả vào những điều mà ngay cả người dân trong nước và tập thể người Việt tỵ nạn vgcs đã biết cả rồi). Nhằm sẽ luồn lách nhảy ra lãnh đạo cộng đồng người Việt tỵ nạn vgcs. Từ Bùi Tín, Vũ Thư hiên, Nguyễn Minh Cần, Hoàng Minh Chính… Gần đây con cờ Nguyễn chí Thiện (NCT) lại được đánh bóng do băng đảng Việt Tân cùng các tên chủ hàng qua nghị quyết 36 của vgcs. Cộng đồng người Việt lại được chứng kiến cảnh NCT và đám lâu la tung trò xiếc khỉ. Hết việc Thiện giả, Thiện thật rồi đến tác giả thật của tập thơ Vô Đề. Sự chú tâm của đại đa số đồng bào tỵ nạn vgcs trong vụ NCT này là: Ai là tác giả tập thơ Vô Đề mà thôi. Đúng như bà Hoàng Dược Thảo và một số người khác quan tâm đã viết: Đây là một nghi án văn học mà tác giả thực cần được bạch hóa và trả lại sự thật cho tác giả tập thơ. Thế là một cuộc tranh luận kẻ bênh, người chống trên các Diễn Đàn điện tử kéo theo một số tờ bóa điện tử trên mạng lưới toàn câu và tờ Sàigòn Nhỏ ở California cũng nhập cuộc. Qua những chứng cớ trình làng của hai phía bênh chống việc NCT không phải là tác giả tập thơ vô đề, ngay cả một cuộc họp báo do NCT mời và nhóm người thuộc đảng Việt Tân tổ chức ngày 25/10/2008 vừa qua tại Garden Grove, California. Thêm vào đó những lập luận bênh đỡ cho NCT cũng được tuần tự đưa ra. Nào là phỏng vấn, hình ảnh NCT cầm tập thơ, bằng chứng giảo nghiệm chữ viết, thư của Olivier Todd, sự hiện diện lên tiếng của bà nhà văn Jean Libby. Tiếp theo dẫn chứng NTC với tổng cộng 27 năm gian khổ trong tù dưới chế độ vgcs… Thêm dẫn chứng mới đây phóng ảnh tờ Việt Báo số 32, ngày 24 tháng 11 năm 1980 đăng tải nguồn tin NCT sau khi được vgcs thả, đã mở động điếm tại Hải Phòng để kiếm ăn. Vì lý do đó mà NCT thôi không làm thơ chống cộng nữa. Xin quý bạn đọc xem phần phóng ảnh đính kèm phía dưới bài viết để thẩm định.*

Nói đến khổ đau của nạn nhân do họa vgcs gây ra thì hầu hết mọi người dân Việt đều là nạn nhân của vgcs cả. Có những nạn nhân đã ra người thiên cổ trong các cuộc đấu tố, thanh trừng, giết hại hàng lọat như vụ Ba Làng ở miền Bắc Việt nam trước đây, vụ chôn sống tập thể hàng ngàn người dân miền Trung tại Huế, các vụ nổ tàu vượt biên do chính chúng tổ chức để cướp thật hết tiền, vàng của các nạn nhân đã tin lời hứa bịp của chúng. Những quân, cán chính VNCH trong các trại tù khổ sai trá hình “cải tạo” qua những đầy ải, đau thương tinh thần lẫn thể xác. Có người bỏ cả mạng sống mình trong khi bị chúng giam cầm hành hạ. NCT, hai mươi bảy năm?!

Trong ba, bốn lần tù của NCT mà tổng cộng được NCT kể lại là 27 năm. Nhưng, không biết lý do tại sao bị vgcs bắt tù? Và, sự đau khổ thể xác mà NCT kể lại qua Hạt máu thơ, truyện Hỏa Lò thì sự khổ đau đó chẳng thấm tháp vào đâu so với sự khổ đau, tủi nhục của các Thương Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hơn 33 năm rồi và vẫn còn đang tiếp diễn! Không những chính bản thân họ mà gia đình họ cũng bị bọn vgcs phân biệt đối xử; đến nỗi có người đã phải tự thiêu để không là gánh nặng cho vợ con của họ. Trường hợp Thương binh Nguyễn Văn Báu là một điển hình. (Đến lúc chết, bọn vgcs còn hành hạ, yêu sách thân nhân gia đình anh Nguyễn Văn Báu như thế nào. Xin mời quý bạn đọc xem lại bài tường thuật phía dưới bài.)*

Ai khổ hơn ai???

Anh quốc ngày 21 tháng 11 năm 2008

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Phóng ảnh báo Người Việt số 32 - ngày 24/11/1980

"tường thuật lý do ngưng làm thơ chống chế độ vgcs của Nguyễn chí Thiện"

Lê Trần
Cám ơn Bưu điện từ Miền Bắc Cali gởi đến chúng tôi một số tài liệu về NCT
xin gởi lên đây bản tin báo Người Việt số 32 ngày 24 tháng 11, 1980
bản tin Nguyễn Chí Thiện mở động điếm Quán Bà Mậu, Hải Phòng.


Chuyện về anh thương binh tự thiêu

Cập nhật lúc 3:32:56 AM - 03/08/2008

Văn Quang
(Anh Nguyễn Văn Báu khi còn sống)


Vào buổi sáng sớm tinh mơ ngày thứ ba 29 tháng 7 -2008 vừa qua, tôi nhận được cú điện thoại của anh Trần Văn Giáo (người mà anh em Thương phế binh (TPB) vẫn gọi là “Trưởng Làng” TPB Thủ Đức). Anh vẫn có giọng nói điềm tĩnh, nhưng sáng nay đầy tức tưởi:

– Anh ơi, đêm qua có một anh em mình tự thiêu.


Tôi hiểu ba tiếng “anh em mình” ở đây có nghĩa là một anh thương binh VNCH nào đó. Tôi chưa kịp hỏi thêm, anh Giáo đã tiếp:

– Hiện nay đang nằm ở phòng cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy.

– Tình hình thế nào rồi?

– Rất nguy hiểm, chắc khó qua khỏi.

Trong đầu tôi bị ám ảnh bởi hai tiếng “tự thiêu”, chắc là có điều gì bất mãn nên tôi hỏi ngay:

– Lý do nào anh ấy ... tự thiêu? Có phản đối điều gì không?

– Không phản đối ai cả, chỉ vì cái nghèo và bệnh tật của mình. Không muốn làm khổ vợ con. Bây giờ gia đình anh ấy chưa có tiền đóng tiền bệnh viện.

Việc này trong khả năng chúng tôi có thể lo được, song tôi chưa rõ số tiền của độc giả và đồng đội ở nước ngoài gửi tặng, anh Giáo còn giữ bao nhiêu vì từ Tết tới nay đã chi nhiều rồi. Tuy nhiên tôi vẫn trấn an:

– Anh yên tâm, mình sẽ lo cho anh ấy. Tôi sẽ lên bệnh viện ngay bây giờ.


Anh Giáo nói có một số anh em đang ở đây, nếu muốn đi, sẽ cùng đi luôn.

Lúc này tôi mới nhớ ra rằng chưa biết tên người tự thiêu là ai. Thật ra là ai thì cũng thế thôi, nhưng điều cần biết vẫn cứ phải biết:


(Chiếc thẻ quân nhân vẫn theo anh cho đến hơi thở cuối cùng)

– Anh ấy tên là gì nhỉ?

– Anh Nguyễn Văn Báu, thương binh cụt hai chân. Ở Bình Hưng Hòa. Anh xem trong danh sách những kỳ tặng quà vừa rồi có tên đấy, anh ấy được tặng một triệu đồng.

Trong khi chờ các anh em đến gặp, tôi mang danh sách ra tìm tên người tự thiêu. Chúng tôi thường phải có những địa chỉ rất cụ thể để tìm nhau cho dễ và tránh thất lạc nếu có gửi quà thì đích thân anh em mang đến.

Người tự thiêu là Nguyễn Văn Báu, trước đây là Binh 2, của Tiểu đoàn 52, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Anh bị thương tại mặt trận Bình Long- An Lộc năm 1972. Địa chỉ hiện nay là nhà thuê ở số 15, Đường 19A, Tổ 69, Khu Phố 4, Bình Hưng Hòa A, Quận Bình Tân, TP. Sài Gòn. Điện thoại là số gọi nhờ nhà hàng xóm số 08- 4087517.

Nửa giờ sau, anh Giáo cùng vài anh em thương binh đến nhà tôi. Hôm đó tôi có dự định gặp một số anh em để bàn về vài việc phải làm. Nên có cả Đoàn Dự và Hàm Anh cùng đến.


Đến bệnh viện để được chờ...


Hai chiếc xe gắn máy ba bánh, loại xe dành cho người tàn tật, của anh TB Tân Lưu Thạnh và Nguyễn Văn Đẹp đậu sẵn trước cầu thang chung cư. Nguyễn Văn Đẹp vẫy tôi:

– Anh đi xe này với em nhá.


Anh Đẹp, chúng tôi thường gọi đùa là Robinson, vì khi giã từ quân ngũ tháng 4 năm 1975, về thành phố, không một mảnh đất dung thân, ở đâu cũng bị đuổi, anh liền mang gia đình ra sống giữa cái cù lao của dòng sông Sài Gòn. Trên đường đi Thủ Đức có thể nhìn thấy khu cù lao này chơ vơ giữa ngã ba sông. Nơi không có làng xã nào dính vô, đồng nghĩa với không có địa chỉ, không có hộ khẩu, và cũng chẳng có chứng minh nhân dân. Trong người anh chỉ có mỗi cái Thẻ Căn Cước Quân Nhân chứng nhận anh là ... người. (Tôi đã có lần tường trình với bạn đọc trong loạt bài này). Anh sống cùng gia đình như giữa hoang đảo. Nhưng hai năm gần đây, vì cần đất làm khu giải trí hay công nghiệp gì đó nên người ta “đền bù” cho anh một số tiền rồi đưa gia đình anh “lên bờ”.

Tôi leo lên chiếc xe ba bánh, lần đầu tiên tôi được đi trên chiếc xe gắn máy ba bánh của người tàn tật. Loại xe đặc biệt nên hai chiếc ống nhún rất tốt làm chiếc xe lắc tới lắc lui, ngồi phía sau nghiêng ngả giữa lòng thành phố đầy những lô cốt. Chúng tôi đến bệnh viện Chợ Rẫy trong không khí lộn xộn, hàng chục khu linh tinh đầy rẫy những người bệnh, người đưa bệnh, người chờ được khám bệnh. Kẻ nằm, người ngồi ngay tại chân cầu thang, trải miếng vải hay cái chiếu, túm tụm quanh các vỉa hè ... dưới con mắt lạnh lùng của các bác bảo vệ. Hầu hết những người đó là từ các tỉnh thành lân cận đến để ... được chờ đợi. Nếu không biết trước chỗ nằm của người bệnh, khó tìm ra.


Một anh thương binh đêm qua đã từng tới đây, hướng dẫn chúng tôi gặp hai người con anh Báu. Người con trai lớn là Nguyễn Thành Tâm, sinh năm 1979 đã có vợ và hai con, làm nghề đạp xích lô. Người con gái út là Nguyễn Thanh Hiếu, sinh năm 1983, làm công nhân của công ty may Đại Quang cũng đã có 2 con. Còn một người chị nữa, chồng chết, đang đi bán vé số. Bà vợ anh Báu bị tai nạn đứt gân nhượng chân nên không đến bệnh viện được. Nhìn nét mặt hai người con anh Báu như vẫn còn thất thần, đau đớn vì tai nạn kinh hoàng đêm trước của bố, người con trai nước mắt lưng tròng, kể:

– Nhà em là nhà đi thuê, ở xóm lao động nghèo sau nghĩa trang Bình Hưng Hòa mà mỗi tháng phải trả một triệu hai. Mới đây chủ nhà lại đòi tăng lên triệu rưởi. Dưới nhà chật, chỉ đủ để hai chiếc xe đạp, xe gắn máy cũ. Chúng em ngủ trên gác xép. Bố em cụt hai chân nên trải chiếu nằm dưới nhà cho tiện. Gần một tháng vừa qua bố em bị bệnh tai biến, hai chân lại đau nhức và nhất là sạn thận hành hạ. Ông nằm rên suốt ngày mà cố giấu con cháu. Ông đau lắm, chúng em biết, đang cố chạy tiền đưa ông đi chữa bệnh.

Tôi nói ngay:

– Sao anh không cho chúng tôi biết?


(Con trai và con gái anh Báu ở nhà thương Chợ Rẫy đợi mang xác bố về)


Người con trai lắc đầu:

– Các bác, các anh còn giúp nhiều người khác, làm sao cúng em dám xin thêm, các bác giúp mấy lần đã làm gia đình em biết ơn lắm rồi. Có mấy chú thỉnh thoảng cũng đến cho, nhưng bạn thương binh cũ của bố em có ai làm ra tiền đâu. Các chú cũng chỉ bớt xén cho vài ba chục thôi.

Thật sự lúc này tôi có cảm tưởng như mình có lỗi với gia đình anh, dù biết rằng đó là điều tôi không thể với tới được. Những người thương binh đứng bên tôi cúi đầu, dường như họ cùng chung một ý nghĩ như tôi. Chỉ bởi một ý nghĩ “nếu mình biết trước mà giúp đỡ, chắc tai nạn đã không xảy ra”.

Hai chiếc chân cụt quẫy đạp trong đống lửa


Người con trai anh Báu kể tiếp:

– Đêm 27 tháng 7, vào khoảng 12 giờ, hàng xóm la lên có người cháy. Lúc đó gia đình em ở trên lầu mới đổ xô xuống. Một người đang cháy bùng bùng trong khoảng đất trống nhỏ trước cửa nhà. Khi nhìn thấy hai chiếc chân cụt quẫy đạp giữa đống lửa, lúc ấy gia đình em mới biết đó là bố em. Mọi người nhào vô cứu, nhưng ông đã cháy gần như 90% rồi. Tuy vậy, vẫn còn có thể dập tắt ngọn lửa được. Gọi xe cứu thương đưa ông vào bệnh viện. Nhưng theo bác sĩ cho biết thì không hy vọng gì cứu sống. Toàn thân ông cháy đen. Ông tưới xăng lên người, nhưng sợ cháy nhà, con cháu lại phải thường cho người ta, nên bò ra miếng đất trống trước cửa tự thiêu.

Hai người con lặng lẽ khóc. Cô con gái út sụt sùi:

– Hàng ngày bố cháu thường phải bò chứ có đi được đâu. Ông cố giấu mọi bệnh tật, mọi nỗi đau. Chỉ có lũ trẻ là biết ông nội đau, ông rên rỉ. Khi nào có mấy chú là “lính cũ” đến chơi là lúc bố cháu tươi tỉnh, lại râm ran nói về những chuyện chiến đấu, chuyện chung sống với anh em ngày xưa. Các chú ra về là bố cháu lại bó gối ngồi trước cửa nhìn trời!

Là công nhân nên cô gái nói năng có phần trôi chảy và có vẻ như cô con gái út thông cảm với tâm trạng bố mình nhiều hơn cả.

Tôi nói với anh Giáo mang hai trăm đô la Mỹ, đổi thành tiền VN đi nộp tiền “viện phí”. Người con trai kể:

– Trước khi vào bệnh viện, họ đòi ba triệu, chúng em chỉ mới vay muợn được một nửa, họ cho nằm, nhưng báo trước sẽ phải nộp sáu triệu.

Số tiền hai trăm đô la đổi được hơn ba triệu, vừa đủ cho khoản phải nộp đầu tiên. Thôi thì đến đâu lo đến đấy vậy.

Đợi mãi, mười giờ rưỡi sáng mới cho thăm bệnh. Anh Báu còn nằm trong khoa “săn sóc đặc biệt”, người con trai đưa tôi lên lầu 4. Nhưng cánh của song sắt vẫn đóng chặt. Một chị to béo ngồi canh cửa, chỉ những người có giấy chứng nhận nuôi bệnh mới được vào. Trong trường hợp của anh Báu thì người nuôi bệnh cũng chỉ được đứng ngoài nhìn qua khung kính. Tôi đã “lỉnh” được vào trong khu cửa sắt, nhưng rồi chị to béo gác cửa cũng lôi tôi ra. Tôi đi bài ca con cá: “Chị vui lòng cho tôi vào nhìn mặt anh bạn già của tôi một vài phút thôi”. Vẻ mặt chị gác cửa trở nên dữ dằn: “Không được”. Thấy tôi đứng tần ngần chị nạt: “Có đi không thì bảo”. Tôi vẫn đứng đó, bởi đứng ngoài khung cửa sắt vẫn là quyền của tôi. Chị lườm tôi, tôi vẫn “ngây thơ” nhìn chị, chẳng buồn cãi lý sự với những người như thế làm gì, còn đầy rẫy những nhân viên trong những cơ quan có tí quyền hành còn ngang ngược hơn. Tôi nghĩ giá mà có cái thẻ nhà báo thì may ra “thuyết phục” được chị này. Nhưng tôi chả là cái “thá” gì ở đây, đành quay xuống dưới nhà cùng anh em ra về vậy.


6 triệu một cái xác


Buổi chiều, khoảng 4 giờ, tôi lại nhận được tin báo: “Anh Báu mất rồi”. Đó là điều chúng tôi cũng đã tính đến từ trước. Người con của anh Báu đã nói, nếu bố cháu mất, phải có đủ sáu triệu nộp cho bệnh viện mới được mang xác về. Đó là quy định của bệnh viện. Một anh thương binh bàn:

– Thì cứ nói bố tôi đã tự thiêu vì không có tiền chữa bệnh, nhà tôi không có đủ tiền. Nếu không cho mang về thì chúng tôi xin “biếu” bệnh viện cái xác đó vậy.

Lời bàn có lý, nhưng đó chỉ là “nước cờ liều”, chúng tôi không nỡ nào để việc đó xảy ra. Bệnh viện cứ đòi, tất nhiên chúng tôi phải lo để mang được thi hài anh Báu về với gia đình.

Cho nên ngay buổi trưa hôm đó chúng tôi đã cùng nhau ngồi lại bàn bạc với nhau về số tiền mà độc giả của Tuần Báo Thời Báo ở Canada chuyển về giúp đỡ TPB và người nghèo. 200 đô Canada đã được trả “viện phí”, chúng tôi đồng ý trích thêm 300 nữa để gia đình anh Báu có thể lo hậu sự.

Rất may, khi biết gia đình nạn nhân quá nghèo, bệnh viện đã bớt cho 3 triệu. Số tiền còn lại mua áo quan, thuê mướn dịch vụ tang lễ cũng là tạm đủ cho lúc ban đầu. Lúc này mới thấy được sự giúp đỡ của độc giả và đồng đội ở nước ngoài giá trị đến như thế nào.


(Người cụt hai giò ngồi trên ghế nhựa, người chống nạng thắp nén nhang cho người quá cố)


Buổi sáng hôm sau, chúng tôi lại cùng nhau đến từ biệt người bạn đồng đội. Nhà anh ở tuốt sau nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Tôi ngồi sau xe Anh TB Trần Văn Bảo, một chân gỗ, chuyên chạy xe ôm. Hàm Anh lại nhảy lên chiếc xe 3 bánh của Rô Bin Sơn Nguyễn Văn Đẹp.

Khi chúng tôi đến nơi thì chiếc rạp đã được dựng lên ngay mặt đường hẻm. Chừng hai chục anh em TPB đã có mặt, chỉ cần nhìn những chiếc xe lăn, xe ba bánh xếp hàng bên dãy rào tre là đủ biết đám tang này ... đặc biệt như thế nào. Người què, người cụt, người đui cùng ngồi lặng lẽ quanh hai chiếc bàn tròn mới thuê. Thấy chúng tôi đến họ đứng cả dậy. Sợi dây ân tình của chúng tôi đã bắt nguồn từ lâu. Có anh cụt cả hai dò đang ngồi trên những chiếc ghế nhựa cũng lồm cồm tìm cách đứng lên. Tôi ôm từng anh em lâu ngày mới có dịp gặp lại.

Sau đó tôi và anh Giáo vào chia buồn cùng gia đình người quá cố. Gian nhà chật hẹp, chỉ vừa đủ chỗ đặt cái quan tài ngay cửa ra vào và hai người đứng hai bên. Vợ anh Báu khóc nức nở, không thể nói lời cảm tạ. Tôi nói ngay:

– Toàn bộ số tiền giúp gia đình hôm nay là của độc giả các báo ở nước ngoài và anh em đồng đội ở Canada, ở Mỹ, ở Úc… gửi về. Tôi sẽ chuyển lời cảm ơn của gia đình chị đến với những ân nhân của chúng ta. Còn chúng tôi rất ân hận vì đã không biết rõ hoàn cảnh gia đình ta nên không giúp kịp thời, để chuyện này xảy ra, chúng tôi ân hận lắm.

Tôi và anh Giáo đến trước bàn thờ, thắp hương, nhìn hình ảnh người đồng đội của chúng tôi vừa nằm xuống. Bỗng dưng tôi có cảm tưởng như đó là cái chết của một người “anh hùng”, không khác là bao với những cái chết của những vị tướng lãnh đã tuẫn tiết vào những này 30-4-1975. Cuộc sống của người Thương Binh này kéo dài hơn 30 năm trong muôn điều khốn khó, bệnh tật, đau đớn. Nỗi khổ ấy liệu có ai biết, ai thông cảm, ai nhớ tới? Họ âm thầm chịu đựng và rồi cũng tự kết liễu đời mình, không muốn làm phiền cho con cháu. Chọn một chỗ để chết không liên lụy tới ai. Cái chết quả là dũng cảm.

Ngay cả những người sống quanh anh có lẽ cũng quên anh là một thương phế binh, chỉ biết anh là “ông lão cụt chân”. Khi Hàm Anh hỏi:

– Vậy chính quyền địa phương có biết anh là Thương Binh và có giúp đỡ gì gia đình chị không?

Vợ anh Báu lắc đầu:

– Chẳng biết họ có biết hay không, nhưng họ ... nhiều việc quá nên không giúp đỡ gì bao giờ.

– Thế gia đình chị có được ghi vào “diện” gia đình nghèo khó không?

Lại lắc đầu, chị Báu hạ thấp giọng:

– Không thấy ai nói gì cả. Có lẽ những gia đình được chính quyền ở địa phương quan tâm là những gia đình chính sách, vợ con, con cháu cán bộ, thương binh liệt sĩ “bên này” thôi.

Thật ra đây cũng là chủ trương chung ở tất cả các địa phương chứ chẳng riêng gì ở một nơi đông dân cư như TP. Sài Gòn.


Vẫn giữ đúng “lễ nghi quân cách”


(Vẫn giữ đúng tác phong quân nhân, đúng “lễ nghi quân cách”, hai người một, chào tiễn biệt đồng đội)


Những anh em thương binh khác cũng lần lượt, hai người một cặp, vào thắp hương cho đồng đội quá cố. Người què leo lên ghế, người chống nạng thắp nhang. Cuối cùng là một động tác từ biệt, chào kính vẫn còn giữ đúng “Lễ nghi quân cách”. Họ giơ tay ngang mặt chào theo kiểu “nhà binh”, rất trang nghiêm và trên nét mặt của mỗi người đều hiện rõ một vẻ tự hào, như cái gạch nối không bao giờ hết của một truyền thống ăn vào mạch máu, chảy từ trong đáy sâu tâm khảm. Chính từ những thái độ này mà nghĩa tình đồng đội càng thêm gắn bó.

Khi quay ra, tôi thấy trên bàn có một chiếc bì thư, anh Ký (người lính nhảy dù cụt tay lái xe ôm) cho biết, đó là bì thư để anh em đến viếng có bao nhiêu thì cứ việc bỏ vào đó, không ghi tên, cũng không biết ai đi viếng bao nhiêu.

Tôi hỏi một anh TB cụt một chân ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ:

– Vậy anh để bao nhiêu?

Anh gãi đầu có vẻ bẽn lẽn:

– Tối hôm qua em bán vé số được sáu chục. Chúng em ăn cơm rồi còn ba chục em để vào bì thư. Hy vọng sáng nay bán được kha khá, em để luôn. Nhưng hồi này xăng lên giá nên cũng “hẻo” lắm, chưa thêm được đồng nào.

Tôi nói với anh em, lần này để chúng tôi lo phần hậu sự, nhưng anh em nhất định không nghe, họ nói đó là tấm lòng của mỗi người, không thể thiếu được. Chiếc bì thư lại được đưa đến cho gia đình anh Báu. Người con trai anh tiết lộ riêng với tôi là được bảy trăm hai mươi hai ngàn. Tôi thật sự xúc động vì cái “hai ngàn lẻ” đó. Của ai? Không biết. Nhưng tấm lòng quá lớn.

Hai giờ chiều ngày 31-7-2008 tức ngày 22 tháng 6 năm Mậu Tý, chúng tôi đến đưa anh Nguyễn Văn Báu về nơi an nghỉ cuối cùng. Những chiếc nạng, những chiếc xe lăn, xe 3 bánh, người cụt hai dò di chuyển trên hai chiếc ghế gỗ… lặng lẽ trên con đường nhựa đầy những ổ gà, ổ voi, mấp mô. Từ nhà anh ra nghĩa trang Bình Hưng Hòa gần lắm, anh được hỏa táng lần thứ hai. Tôi không biết có phải tôi vừa đưa tiễn một người “anh hùng thầm lặng” hay không? Điều đó hoàn toàn không cần thiết đối với anh, cả cuộc đời chưa bao giờ anh nghĩ tới hai tiếng này, nhưng sự thật trong cuộc sống và cái chết là như thế.

Xin vĩnh biệt người đồng đội dũng cảm.

Thông tin về việc giúp đỡ anh em TPB và người nghèo

* Tòa soạn Thời Báo Canada cũng vừa gửi về VN, tổng cộng 8.215 đô la Canada. Đây là số tiền của độc giả Thời Báo gửi giúp TPB và người nghèo. Tiếc rằng danh sách quá dài tôi không thể nêu tên từng độc giả. Nhưng những yêu cầu của độc giả tặng cho thành phần nào hoặc một người nào, chúng tôi tôn trọng ý kiến của các vị.

Trong buổi họp ngắn gọn trước khi đến thăm anh Báu, chúng tôi đã phân chia công việc rõ ràng. Anh Trưởng làng TPB Trần Văn Giáo và anh Bảo, đại diện TPB đã giữ 5.000 đô la để giúp anh em TPB trong mọi trường hợp. Anh Đoàn Dự giữ 3.000 đô la để giúp người nghèo. Cô Hàm Anh giữ 1.215 đô la để giúp cả hai thành phần kể trên. Tất cả mọi việc chi tiêu dành cho từ nay đến cuối năm 2008, đều được hỏi ý kiến của anh em và được quyết toán cụ thể đầy đủ.

* Không biết cơ duyên nào đưa đẩy, ngay buổi chiều ngày 2-8-2008, tôi nhận được 1.100 Mỹ Kim của anh Hoàng Trung Toại (ở Mỹ) gửi về tặng anh em TPB và người nghèo (trong đó có 100 tặng chị Thụy Vũ). Anh Toại trước đây cũng là một quân nhân chiến đấu tại mặt trận Bình Long - An Lộc và bị bắt vào năm 1972 cũng tại Bình Long. Sau đó được trao trả và nay định cư tại Mỹ. Anh hoàn toàn chưa biết gì về người đồng đội vừa tự thiêu. Như thế anh Báu cũng là bạn chiến đấu trên cùng một chiến trường với anh Toại. Chúng tôi đã đồng ý trích thêm một phần trong số tiền anh Toại gửi để giúp gia đình anh Báu qua cơn hoạn nạn và gia đình anh có thêm điều kiện để ổn định được cuộc sống.

Nay anh Báu đã mất, xin liên lạc với gia đình anh qua địa chỉ của người con trai anh: Nguyễn Thanh Tâm số 15, Đường 19A, Tổ 69, Khu Phố 4, Bình Hưng Hòa A, Quận Bình Tân, TP. Sài Gòn. Điện thoại là số gọi nhờ nhà hàng xóm số 408.7517 (hoặc số di động 0122379.1632).

Xin tri ân tấm lòng nhân hậu của độc giả và các bạn đồng đội.

Vien Dong Daily News



Từ Thiện và Cúng Dường

Tuấn Phan

Vụ nữ cán bộ từ thiện Tim Rebeaud đã tốn hao nhiều giấy mực, nên bài nầy tôi chỉ bàn một vài khía cạnh về việc từ thiện của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở hải ngọai, gọi tắt là NVHN. Ai cũng biết làm việc từ thiện là nghĩa cử tự nguyện của những người may mắn dành cho những người bất hạnh, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, địa vị xã hội. Từ thiện là hành vi không có ở thú vật, chỉ có ở người với điều kiện: Nếu thiệt người thì biết thương người – Lời Đức Thầy.

Tại sao? Bởi vì có loài động vật hai chân tự nhận là người nhưng chẳng những không thương người mà còn làm đau khổ, gây ra những bất hạnh cho người dù là đồng chủng đồng bào. Lọai nầy không phải thiệt là người. Lại còn một lọai động vật hai chân khác cũng tự nhận là người lại lợi dụng lòng thương người để kiếm ăn bằng mánh khóe lường gạt; bọn nầy cũng không phải thiệt là người. Thí dụ:

Tại Sàigon hiện nay có nghề sinh nhai mới là nghề giả sư vãi đi khất thực. Sáng sớm, một đám người lớn nam nữ kéo nhau vào một con hẻm, sau chừng 15 phút họ đi ra với bộ cà sa trên người, ôm bình bát, đầu đội mũ ni che hết tóc. Họ bủa ra các nẻo đường nhất là gần các chợ, hay khu phố đông người. Xế chiều, họ trở lại con hẻm, cũng độ 15 phút sau, họ trở ra với y phục khi sáng; ai cũng có nét mặt rạng rỡ, nói cười vui vẻ vì họ đã làm xong một buổi khất thực! Trong hẻm có ngôi nhà chuyên cho mướn đồ nghề giúp họ cải trang tăng ni để kiếm sống, được người đời cung kính, cúng dường vật thực và cả tiền bạc!

Lại có một mánh khóe khác mà bọn bất lương, vô nhân đạo dùng làm phương tiện sinh nhai đã xảy ra nhan nhãn ở các nơi thị tứ từ lâu đời, đó là dùng trẻ em tật nguyền, bệnh họan làm mồi nhằm khai thác lòng trắc ẩn của người đời. Ai có ngờ sự tật nguyền, bệnh họan của các đứa trẻ đáng thương này là do bọn bất lương cố ý gây ra và các đứa trẻ không bao giờ hết tật nguyền và bệnh họan cũng khó dứt để giúp cho bọn chúng kiếm tiền lâu dài.

Bọn VC trong nước moi đô la của NVHN cũng y chang hai cách lừa gạt trên:

- Lợi dụng tín ngưỡng của NVHN qua các lần xuất ngọai của những cha cố Thiên Chúa, tăng ni Phật Giáo nhắm vào giáo dân và Phật tử.

- Lợi dụng lòng trắc ẩn của NVHN dành cho đồng bào bất hạnh trong nước qua các cuộc quyên góp cứu mù, giúp trẻ mồ côi, người cùi v.v….

Ngoài ra, VC còn sử dụng ngay tại hải ngọai những cán bộ từ thiện có tiếng tăm trong cộng đồng như các tu sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ v.v…, đó là Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, ca sĩ Phương Dung, nhạc sĩ Vũ Thành An v.v…

Sau nầy, có lẽ VC thấy lọai cán bộ từ thiện gốc tu sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ v.v.. không còn hấp dẫn và sinh lợi nhiều nữa nên VC đã đào tạo lọai cán bộ từ thiện mới gốc người nước ngoài như cô ả Thụy Sĩ Aline Rebeaud. Đây là chiêu thức hữu hiệu nhất giúp cho VC moi đô la của NVHN bằng cách khai thác tư tưởng: Người ngọai chủng như cô gái Thụy Sĩ nầy còn có lòng nhân hậu, từ bi thương người Việt mình, huống chi NVHN và NV trong nước là đồng bào ruột thịt?

VC tin tưởng chắc chắn sẽ thành công hòan tòan ở bình diện thế giới bằng con mồi cô gái Thụy Sĩ Aline Rebeaud đi đôi với việc hạ Cờ Vàng như đã từng xảy ra qua các tu sĩ Thiên Chúa và Phật Giáo ra hải ngọai quyên góp từ thiện. Nhưng tham thì thâm, NVHN đã mau chóng nhận diện cô gái Thụy Sĩ chỉ thuần túy là công cụ đắc lực của VC nên lập tức con mồi bị vô hiệu hóa khiến lợi lộc thu vào không bù được công sức VC bỏ ra cho kế họach từ thiện, nhà may mắn Aline Rebeaud!

Lý do? Dễ hiểu, NVHN đã sử dụng trái tim cùng lúc với bộ óc, có nghĩa là NVHN biết rõ đây là thủ đọan bòn rút đô la kiếm được từ mồ hôi nước mắt của NVHN. Vả lại, việc cung ứng những phúc lợi xã hội cho dân nghèo, bất hạnh hay xây dựng các công trình cầu đường, trường học, trạm xá v.v… là thuộc về nhiệm vụ bắt buộc của giới cầm quyền CSVN mà nay đa số trở thành tư bản Đỏ, có tài sản hàng trăm tỷ đô la gửi ngân hàng Thụy Sĩ.

Moi đô la càng nhiều từ NVHN nhưng VC chỉ thực hiện MỘT PHẦN NHỎ các phúc lợi cho dân trong nước để còn thừa nhiều đô la chúng bỏ túi đồng thời rút ngân sách quốc gia ra làm của riêng. Rốt cuộc khối NVHN trở thành những “cán bộ, nhân viên phục vụ chẳng những không lương cho các Bộ Xã Hội, Công Chánh, Y Tế chi nhánh hải ngọai” mà còn đem tiền của mồ hôi nước mắt nạp cho bọn cán bộ tư bản đỏ VC trong khi đói nghèo của đồng bào vẫn còn là quốc sách xóa đói giảm nghèo của CSVN kéo dài suốt 33 năm.

Thử hỏi có quốc gia nào giống Việt Nam, trong đó bọn chóp bu cầm quyền VC có tài sản hàng trăm tỷ đô la cất giữ ở ngân hàng Thụy Sĩ lại đi moi từng đô la của NVHN mà chúng gọi là khúc ruột ngàn dậm, đồng thời lấy cắp tiền viện trợ, ăn hối lộ hàng trăm triệu đô la của nước ngoài khiến đa số nhân dân vẫn mãi nghèo đói, nông dân phải ăn cháo ngay trên cánh đồng lúa của mình, trong khi gạo dư thừa xuất cảng đổi đô la, làm giàu thêm cho chúng?

Từ những phân tích trên, xin đề nghị NVHN dứt khóat không tự biến thành con bò sữa cho VC vắt mãi bởi vì NVHN không thể có lòng NHÂN (hay BI) vô điều kiện. NVHN làm từ thiện với cái TRÍ xét đóan tại sao dân tộc phải khổ sở bất hạnh và phải biết đô la từ thiện của mình bị lọt vào túi ai và được sử dụng thế nào ở trong nước? Rõ ràng nguyên nhân là lòng tham và tội lỗi của nhà cầm quyền VC, do vậy chúng ta phải kiên quyết, tức có cái DŨNG, không cho cán bộ VC đội lớp từ thiện một xu vì NVHN không muốn VC vừa có tiền vừa chê là…ngu!

(Ghi chú: Nhân–Trí-Dũng là tiêu ngữ trên quân hiệu TSQ Việt Nam; BI-TRÍ-DŨNG là tiêu ngữ của Gia Đình Phật Tử)

2. CÚNG DƯỜNG. Đây là một thuật ngữ của Phật Giáo, có ghi trong kinh điển. Cúng dường có ba lọai, gọi chung là cúng dường TAM BẢO (Phật, Pháp và Tăng). Bài nầy xin nói về cúng dường Tăng, có nghĩa là cung cấp phương tiện vật chất cho đời sống thường ngày của giới Tăng sĩ, giúp họ yên tâm chuyên lo nhiệm vụ hoằng pháp.

Phật tử có bổn phận cúng dường đi đôi với sự cung kính dành cho giới tăng sĩ để đôi bên cùng hưởng lợi lộc Phật pháp. Cúng dường mà không cung kính thì không mang ý nghĩa cao quý theo lời dạy của Đức Phật. Cúng dường theo kinh điển gồm các thứ: y phục, thực phẩm, nơi trú ngụ và thuốc men trị bệnh. Tăng sĩ nhận sự cúng dường phải mang một trọng ân đối với Phật tử gọi là Ân Đàn Na Thí Chủ.

Tăng sĩ nói ở đây là các vị chân tu mà vào thời mạt pháp ngày nay hiếm thấy; họ xem cúng dường chỉ là phương tiện phục vụ thân tứ đại, trong khi đa số tăng sĩ bây giờ xem cúng dường là mục đích, là cứu cánh.

Đặc biệt giới tăng sĩ dối tu ở hải ngoại đều xem cúng dường là cứu cánh và thích Phật tử cúng dường tiền bạc (đô la, euro v.v…) hơn là bốn món cúng dường ghi trong kinh điển. Họ rất quan tâm đến thùng phước sương đặt ở chánh điện nhất là tiền bạc được Phật tử dúi riêng vào túi họ. Không như ngày xưa, tăng sĩ chân chính sống đạm bạc, hạn chế tối đa nhu cầu vật chất; ngày nay văn minh giới tăng sĩ có nếp sống vật chất có khi còn cao hơn Phật tử bởi lòng tham không đáy của họ!

Để có nhìều cúng dường, tăng sĩ dối tu thường cất chùa, tịnh xá ở nơi thị tứ, tiện việc đi lại của Phật tử bởi vì họ kiếm sống nhờ vào chùa, nên gọi là thầy chùa, không khác gì thầy kiện sống nhờ kiện cáo, thầy bói sống nhờ bói tóan, thầy giáo sống nhờ dạy học v.v…, hòan tòan trái ngược tăng sĩ chân tu tìm nơi u tịch vắng người để định tâm tu hành. Thầy chùa xem chùa như cơ sở tạo ra tiền, biến chùa thành … tiệm bán nhang, thành rạp hát thâu tiền vào cửa nghe thuyết pháp và nhiều dịch vụ trái Phật pháp như bói tóan, cúng sao giải hạn kể cả làm đám cưới!

Cũng xin kể ra luôn một kiểu cúng dường nổi tiếng trong cộng đồng Phật giáo của người Việt hải ngọai mà ai nghe cũng lạnh mình, không tin là có thật đã xảy ra mới đây tại xứ Úc, gây xôn xao dư luận. Đó là kiểu cúng dường triệt để ngoài tiền bạc, vật thực tín nữ Diệu Đức, một người học thức, trong suốt 15 năm dài dâng hiến luôn thân xác của mình để thỏa mãn dục tình của dâm tăng Phước Huệ, có tuổi đáng cha mình, là một chức sắc cao cấp, lãnh đạo GH/PGVNTN tại Úc và Tân Tây Lan!

Để bào chữa tội lỗi và vỗ về người tình Diệu Đức, dâm tăng Phước Huệ không ngại miệng nói: Anh rất cám ơn Em đã cho Anh sức khỏe. Nhờ Em cho Anh sức khỏe bằng cách giúp cho Anh “giải quyết” được nên Anh không còn nghĩ tưởng mà có thể để hết tâm trí làm Phật sự. Anh không bao giờ quên ơn em đâu. (Trích Saigon Nhỏ, Seattle số 613 ngày-9-2008).

Chắc chắn đã có rất nhiều trường hợp “quan hệ tình dục” giữa thầy chùa và tín nữ nhưng khéo ém nhẹm, vì phần lớn tín nữ bị đám dâm tăng đầu độc tư tưởng: Giúp “Thầy” giải quyết sinh lý cũng là một cách gián tiếp “làm Phật sự” (!?) theo luận điệu dâm tăng Phước Huệ, cũng là một dạng cúng dường!

Phật tử càng ngu dốt Phật pháp bấy nhiêu thì đám tăng sĩ dối tu, ma tăng quỷ sứ càng hưởng thụ nhiều cách cúng dường bất chánh khiến cho hai chữ cúng dường không còn ý nghĩa tốt đẹp và cao quý theo kinh điển nhà Phật, mang ý nghĩa thô tục là “thí cô hồn”, cho không, hối lộ v.v…! Thí dụ, có tín nữ thản nhiên kể chuyện phòng the cho bạn: “Đêm qua thằng chả đòi quá, tao phải cúng dường phứt cho rồi dù mệt mỏi trong người và không hứng thú gì!”; hoặc “ Về tới sân bay Tân Sơn Nhất, tôi phải cúng dường tụi hải quan 5 đô la kẹp trong passport nó mới cho qua!”.

Có thể không phải Phật tử dốt Phật pháp nhưng họ cúng dường sai lầm thường vì nghĩ đơn giản rằng họ chỉ biết làm xong bổn phận cúng dường, còn Thầy nhận cúng dường mà làm bậy thì chịu tội với Phật. Tương tự họ cho tiền từ thiện sẽ được phước đức còn ai lừa gạt thì người ấy mang tội.

Họ không nhớ rằng trong Phật pháp, Từ Bi luôn đi kèm Trí Tuệ mà mục đích tu hành là phát triển trí tuệ để diệt trừ sự vô minh, - là chướng ngại trên đường giải thóat.

Khi thể hiện TÂM LÀNH trong việc từ thiện và cúng dường, Phật tử cần sử dụng cái TRÍ xét đóan xem việc từ thiện và cúng dường của mình đem đến kết quả ra sao để tránh vô tình đưa dao cho kẻ giết người rồi mang tội đồng lõa.

Trong Ngũ Thường của Khổng Giáo đã có hai thường đó là NHÂN TRÍ; trong lời dạy thiện nam tín nữ trong tôn giáo nhà Phật, Đức Thầy cho biết TÂM và TRÍ phải đi đôi. Ngài nói: Người có TÂM nếu không tập suy gẫm cho mở TRÍ thì hay dễ bị lường gạt. Người có TRÍ mà vô TÂM thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế, chắc chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.”

Dựa vào lời dạy nầy của Đức Thầy, tôi đem hai hành động Từ Thiện và Cúng Dường đặt chung thành một đề tài vì cả hai đều cần sử dụng cái TRÍ của người làm việc từ thiện và cúng dường; nếu hữu tâm mà vô trí thì tiền của mất mà còn bị VC chê ngu và bị ma tăng đè đầu bắt lạy chúng!

Tuấn Phan

Cách Mạng và Phản Cách Mạng


Đỗ Thái Nhiên

Đảo chánh là một cuộc thay bậc đổi ngôi trên địa bàn tranh chấp quyền lực chính tri. Nhân cuộc tranh chấp này, nhà cầm quyền cũ bị lật đổ. Nhà cầm quyền mới được suy tôn. Cách mạng không phải là đảo chánh. Cách mạng bao gồm mọi suy nghĩ và hành động nhằm làm thay đổi đời sống của con người. Thay đổi ở đây phải là thay đổi theo hướng làm cho đời sống của xã hội loài người ngày càng trở nên ấm no hơn, công bằng hơn và Người hơn. Một cá nhân hoặc một tập thể tự nhận là những người phục vụ lý tưởng cách mạng. Thế nhưng, trong thực tế, công việc làm của họ đã đẩy xã hội loài người rơi xuống ngang tầm với hình thức sinh sống của một bầy động vật. Trong trường hợp này, cá nhân kia, tập thể kia hiển nhiên là những phần tử phản cách mạng.

Bây giờ, căn cứ vào ý niệm phổ quát về cách mạng và phản cách mạng như đã trình bày ở trên, chúng ta hãy nhìn vào hiện tình vận động của xã hội Hoa Kỳ và xã hội Việt Nam để có cơ hội nhận biết một cách tròn đầy và sinh động: sự chuyển động ngược chiều giữa cách mạng và phản cách mạng.

Xã hội Hoa Kỳ

Cách mạng là làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Ý dân là tiếng nói duy nhất có thẩm quyền xác định thế nào là tốt đẹp hơn. Cách mạng không thể không hành động theo ý dân. Cách mạng là xây dựng và bảo vệ dân chủ. Trong rất nhiều thập niên qua, nền dân chủ Hoa kỳ phải đối diện với hai dấu hỏi lớn:

Một là: Phải chăng không xuất thận từ một gia đình quyền quý, một ngưới không thể trở thành tổng thống Hoa Kỳ?

Hai là: Phải chăng người da màu, đặc biệt là người da đen, sẽ chẳng bao giờ có thể là tổng thống Hoa Kỳ? Câu trả lời nằm trong tiểu sử của tổng thống đắc cử Barrack Obama. Đồng thời nó cũng nằm trong kỳ bầu cử tổng thồng Hoa Kỳ 2008.

Tiểu sử của ông Barrack Obama

Obama sanh ngày 04/Aug/1961 tại Honolulu, Hawai, con của ông Barrack Obama, Sr, công dân Kenya và bà Ann Dunham, một phụ nữ da trắng, cư dân củaWichita,Kansas, Hoa Kỳ. Năm Obama lên 2 tuổi thì bố mẹ ly dị. Năm 1967 mẹ của Obama kết hôn với một người đàn ông Nam Dương. Từ đó Obama sống với mẹ và bố ghẻ để đi học tại Indonesia trong 04 năm. Năm 1971, Obama lên 10 tuổi, cậu bé này được gửi về Honolulu sống với ông bà ngoại cho đến ngày tốt nghiệp trung học năm 1979.

Rời trường trung học, Obama học đại học Occidental College tại Los Angeles. Sau đó nhập học đại học Columbia của New York. Năm 1983 Obama tốt nghiệp đại học Columbia với văn bằng cử nhân, chuyên ngành bang giao quốc tế. Các năm từ 1983 đến 1988, Obama đi làm việc kiếm tiền sinh sống tại New York và Chicago. Cuối năm 1988 Obama nhập học đại học Havard, ngành luật học. Năm 1991 tốt nghiệp tiến sĩ luật. Từ 1992-2004 dạy luật hiến pháp tại đại học Chicago. Từ 1996 đến 2004 thượng nghị sĩ tiểu bang Illinois. Tháng 11/2004 Obama đắc cử vào thượng nghị viện liên bang Hoa Kỳ. Tháng 11/2008 đắc cử tổng thống Hoa kỳ.

Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tháng 11/2008

Tháng 02/2007, Barrack Obama công bố ý định tranh cử chức vụ tổng thống Hoa Kỳ năm 2008.

Ngày 03/06/2008 Obama chiến thẳng nữ thượng nghị sĩ Hillary Clinton qua lần bầu cử sơ bộ để trở thành ứng viên đại diện của đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2008.

Ngày 04/11/2008 Obama chiến thắng thượng nghị sĩ Jonh McCain của đảng Cộng Hòa để trở thành tổng thống thứ 44 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Về cử tri đoàn Obama có 364 phiếu, Jonh McCain chỉ 164 phiếu. Về bầu trực tiếp của người dân Obama chiếm 53%, Jonh McCain 46%.

Như vậy trên con đường đi vào Tòa Bạch Ốc, Obama phải vượt thắng hai nhân vật da trắng. Đó là thượng nghị sĩ Hillary Clinton (Đảng Dân Chủ) và thượng nghị sĩ Jonh McCain (Đảng Cộng Hòa)

Những suy nghĩ về văn hóa Mỹ và bầu cử Hoa Kỳ 2008.

Đầu thập niên 1960, xã hội Mỹ vẫn duy trì tập tục: người da đen phải ngồi các hàng ghế sau trên những phương tiện di chuyển công cộng. Trẻ em da đen phải đi học những trường dành riêng cho da đen. Giữa đen và trắng tuy cùng là công dân Mỹ nhưng trong sinh hoạt xã hội có tới một ngàn lẽ một cái riêng. Thế rồi chỉ già nửa thế kỷ sau đó, tai sao Obama một công dân da đen, lớn lên trong cảnh đời vất vả lại có thể được quần chúng Hoa Kỳ đẩy lên ngôi vị tổng thống với số lượng phiếu bầu làm cho cả thế giới choáng ngợp? Câu trả lời dẫn chúng ta đứng trước một cuộc cách mạng rất âm thầm và mềm dẽo nhưng rất dứt khoát và bền bỉ. Đó là cách mạng văn hóa. Hai cánh tay rắn chắc của cách mạng văn hóa là giáo dục và luật pháp. Giáo dục là phương pháp giải thích và thuyết phục con người thay đôi suy nghĩ và hành động sao cho đời người ngày một văn minh hơn, người hơn. Luật pháp là công cụ răn đe và trừng phạt những ai chống lại quyền làm người của mỗi người và mọi người. Đó là lý do giải thích tại sao nhiều thập niên qua guồng máy giáo dục của Hoa Kỳ - Giáo dục học đường cũng như giáo dục xã hội thông qua các loại truyền thông – đã không ngừng truyền bá tư tưởng chống mọi hình thức kỳ thị, đặc biệt là kỳ thị màu da. Đó còn là lý do giải thích tại sao hệ thống công lý hình sự Hoa Kỳ rất quan tâm đến các loại tội ác có nguồn gốc từ tâm lý kỳ thị, gọi chung là “Hate crime laws” . Sau rất nhiều thập niên chăm chỉ làm việc, giáo dục Hoa Kỳ và luật pháp Hoa Kỳ đã gặp nhau trong ngày văn hóa Mỹ thăng hoa, ngày 04/11/2008: lần đầu tiên nước Mỹ có một vị tổng thống da đen. Đây đích thực là một cuộc cách mạng văn hóa. Cách mạng văn hóa Mỹ không bạo lực và ầm ỉ như cách mạng văn hóa Mao Trạch Đông. Cách mạng văn hóa Mỹ diễn ra trong phòng đầu phiếu, diễn ra trong tuyệt đối hòa ái. Cách mạng văn hóa Hoa Kỳ là cách mạng do tâm phục. Tâm phục trong trường hợp này là người dân Hoa Kỳ tự nguyện phục tòng quyền làm người và quyền hoạt động bình đẳng của mọi chủng tộc sinh sống trên đất nước Hoa Kỳ.

Từ cách mạng văn hóa 2008 tại Hoa kỳ, chúng ta hãy hướng mắt nhìn về quê hương Việt Nam.

Xã hội Việt Nam

Như đã trình bày ở trên, cách mạng là xây dựng một xã hội thuận lòng người, hợp ý dân. Cách mạng lá dân chủ hơn, nhân quyền hơn. Theo các chuẩn mực vừa nêu, chế độ Hà Nội ngày nay tại Việt Nam là một chế độ triệt để phản cách mạng. Thực vậy, sau đây là những bằng chứng phản cách mạng điển hình của CSVN:

1. Giáo dục phản cách mạng:

Ngày 14/11/2008 đài Á Châu Tự Do cho biết: tổ chức UNESCO vừa công bố báo cáo toàn cầu về giáo dục 2008. Báo cáo này cho thấy Việt Nam đứng thứ 79 trên tổng số 129 quốc gia, tức là tụt xuống 9 hạng so với năm 2007. Theo UNESCO, trong các năm tới giáo dục Việt Nam tiếp tục tụt hạng. Có hai lý do để Giáo dục Việt Nam tụt hạng:

Một là trong nhiều năm qua, hàng năm Việt Nam có khoảng một triệu học sinh cấp một không được đi học. Nhà cầm quyền CSVN vẫn ù lì trước vấn nạn này.

Hai là chương trình giáo dục của CSVN vẫn ngoi ngóp trong vũng lầy từ chưong. Nay học Marx, mai học Hồ. Từ chương đồng nghĩa với xa rời thực tế và nhàm chán. Thầy không muốn dạy. Trò không muốn học.

2. Luật pháp phản cách mạng:

Trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1985 tất cả những người chống đối chế độ Hà Nội đều bị CSVN truy tố tội phản cách mạng. Sau này CSVN biến thể thành đảng của tư bản đỏ, một thể chế tham ô bậc nhất thế giới. Từ đó CSVN không còn tự nhận là “nhà nước cách mạng” nữa. Từ đó, những người đấu tranh cho tự do dân chủ bị CSVN truy tố đủ loại tội: nói xấu nhà nước, làm gián điệp, khủng bố, trốn thuế, lợi dụng quyền tự do dân chủ v.v…

Mặt khác, CSVN thường xuyên kêu gọi toàn dân chống tham nhũng. Thế nhưng những vụ đảng viên CS cướp nhà - đất của dân, những vụ tham ô lớn PMU18, vụ xa lộ Đông Tây Saigon ( PCI Nhật Bản), công ty Vedan thải chất độc xuống sông Thị Vải…tất cả chỉ là câu chuyện đầu voi đuôi chuột. Tệ hai hơn nữa nhà báo Nguyễn Việt Chiến bị phạt 2 năm tù giam chỉ vì đã giám tố cáo tham ô.

Luật pháp cộng với hệ thống tòa án của CS rõ ràng là đã hợp thành guồng máy pháp lý phản cách mạng.

3. Kinh tế phản cách mạng:

Tuyệt đa số nhân dân Việt Nam là nông dân. Hãy quan sát cung cách của CSVN trong việc chăm lo cơm áo cho nông dân, chúng ta sẽ biết được phẩm chất của guồng máy kinh tế Việt Nam.

Đầu tháng 03/2008 giữa lúc giá gạo thế giới tăng cao, CSVN ra lệnh ngưng xuất cảng gạo. Lý do: bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế lạm phát. Sự việc này làm cho hàng triệu tấn gạo tại đồng bằng sông Cửu Long bị ứ đọng, không bán được. Thêm vào đó, từ thượng tuần tháng 11/08 cho đến nay CSVN cho phép gao Kampuchia và gạo Thái Lan ùn ùn công khai kéo vào Việt Nam. Nông dân Việt Nam bị dè bẹp dưới khối gạo nội địa ế ẩm cộng với khối gạo thơm từ Thái và Kampuchia nhập vào. Đâu là cội nguồn của quyết định cấm xuất cảng gạo đi kèm với lệnh cho phép nhập cảng gạo? Cội nguồn kia nằm trong dự mưu tham ô của Hà Nội. Không còn nghi ngờ gì nữa: kinh tế nông nghiệp của CSVN là kinh tế phản cách mạng.

4. Chính trị phản cách mạng

Ngày 9/11/2008 trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC Luân Đôn, khi được hỏi về đòi hỏi dân chủ của người Việt Nam trong và ngoài nước, bà Tôn Nữ Thị Ninh trả lời: “Khát vọng dân chủ là của cả người dân thế giới, là xu thế của loài người. Một số người nhắc tới dân chủ để tạo sức ép hơn là vì mong muốn cái tốt đẹp cho người dân Việt Nam. Vấn đề khó là mổ sẻ thực tế cho sát hợp và nếu có đề xuất, phải khả thi”

Bà Tôn Nữ Thị Ninh nguyên là đại sứ Việt Nam tại Liên Minh Châu Âu,và là phó chủ nhiệm Ủy Ban Đối Ngoại quốc hội CSVN. Qua câu trả lời của Bà Tôn Nữ Thị Ninh công luận nhận biết CSVN không thể phủ nhận ước vọng dân chủ của loài người như một công lý hiển nhiên. Thế nhưng, CS độc tài và thể chế dân chủ như nước với lửa. Vì vậy, mỗi lần nhắc tới dân chủ, CSVN vội vàng tránh né dân chủ bằng các loại nghi vấn: Rằng liệu chừng có kẻ thù địch nào đó dùng dân chủ làm sức ép hay không? Rằng liệu chừng dân chủ có khả thi hay không? Nếu thực tâm muốn thỏa mãn ước vọng dân chủ của người dân, chế độ Hà Nội hãy mạnh dạn bắt tay vào công việc kiến tạo dân chủ bằng cách tức thời thực hiện luật pháp dân chủ đi kèm với giáo dục dân chủ. Giáo dục dân chủ bao gồm giáo dục học đường và giáo dục xã hội. Giáo dục xã hội hàm chứa báo chí và các loại truyền thông dân chủ. Chừng nào CSVN còn tránh né nghĩa vụ tuân phục dân chủ, chừng đó chế độ Hà Nội còn phục vụ tư tưởng chính trị phản cách mạng.

Khảo sát cung cách của CSVN trong việc cai trị đất nước trên bốn địa bàn trọng yếu: giáo dục, luật pháp, kinh tế và chính trị, người khảo sát không thể không đi đến kết luận: chế độ Hà Nội hiển nhiên là một chế độ chống lại quyền sống của người dân, chống lại dân chủ. Nó là chế độ phản cách mạng. Một mặt CSVN long trọng nhìn nhận dân chủ là ước mơ chung của nhân loại. Mặt khác CSVN lại thường xuyên nhanh chóng dấu mặt mỗi lần phải đối diện với dân chủ. Hai mặt đối nghịch vừa nêu họp lại, tạo thành hố đào thải của lịch sử. Chế độ Hà Nội sẽ rơi xuống dưới đáy của hố kia như một hệ quả tất nhiên.

ĐỗTháiNhiên

Thursday, November 20, 2008

Suy Tư Tỵ Nạn 11


Vip KK Nguyễn Văn Chức


Sấm truyền cũ (Ancien Testament) kể rằng: thanh niên Jacob
chăn trừu 7 năm cho ông chủ đồn điền, để được kết hôn với người con gái của ông chủ đồn điền ---nàng Rachel đẹp chim sa cá lặn. Sau 7 năm, ông chủ đồn điền giữ lời hứa. Đêm đó, ông chủ đồn điền dẫn "nàng Rachel" tới giường của Jacob. Và đêm đó, Jacob đã tận hưởng lạc thú của đời, tận hưởng cái trinh tuyết của người trinh nữ mà mình hằng mơ tưởng. Sáng sớm hôm sau, Jacob tỉnh dậy, mới biết mình bị lừa; người con gái không phải là Rachel, mà là con nô lệ của ông chủ đồn điền. Tên con nô lệ là Leah.

Điển tích nói trên, đã được kể lại trong quyển "The God That Failed"
Tác giả của "The God That Failed" là André Gide, Richard Wright, Arthur Koestler, Stephen Spender, Ignazio Silone và Louis Fischer. Những trí thức này đã mê theo cộng sản, và đã bị lừa. Họ đã nằm ngủ với con nô lệ không đáng giặt quần lau đít cho họ.

Trong một bài phổ biến cách đây không lâu, tôi có viết: ngày xưa Vũ Văn Mẫu là bộ trưởng tư pháp thời Đệ Nhât Cộng Hòa. Xin lỗi bạn đọc, tôi đã viết sai. Nay xin đính chính.

Theo hồ sơ mà tôi tìm được, cũng như theo tài liệu mà em tôi, BS Nguyễn văn Luân, gửi cho, thì Vũ văn Mẫu là:

Thạc sĩ giáo sư đại học Luật Khoa Hà Nội thời Pháp thuộc, Khoa trưởng Đai Học Luật Khoa Sàigòn sau 1954. Bộ Trưởng Ngoại Giao, thời Ngô Đình Diệm, Thủ trưởng Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viện VNCH năm 1970, thủ tướng chính phủ trong chính quyền hòa hợp hòa giải Dương văn Minh tháng 4/1975.

Riêng tôi, từng đi họp Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế với Vũ văn Mẫu tại Âu Châu. Tôi cũng là người nhiều lần lên tiếng bênh vực ông tại diễn đàn Thương Nghị Viện VNCH.

Ông xuất sắc về hàn lâm, nhưng ngây thơ trong chính trị. Cái sai lớn nhất của ông là đã cạo trọc đầu đi theo lũ sư sãi Ấn Quang.

Trong quyển tiểu thuyêt lừng danh "1984", văn hào George Orwell kể rằng: Winston và người tình của anh ta là Julia -- cả hai đều là đảng viên CS -- bị đảng CS bắt giam vì bị nghi ngờ là đã mưu toan hãm hại đại ca (Big Brother) của đảng.

Winston bị giam trong một căn hầm tối, không biết ngày đêm, bị bỏ đói bỏ khát, và nhất là không được quyền ngủ. Hơi chợp mắt, là có một luồng ánh sáng điện chói chang chụp vào mắt. Winston bị đá lên đạp xuống như trái banh, đầu ngón chân ngón tay bị kìm kẹp và đôi khi bị dí điện ngất lên ngất xuống. Thân xác anh ta đau một, tinh thần anh ta đau mười. Tụi nó tra tấn anh ta, và lừa gạt anh ta rằng Julia đã nhận hết các tội. Thân xác bị đánh đập, tâm thần bị dầy xéo vì sự bội bạc của người tình, anh ta chịu hết nổi. Anh ta nhắm mắt đầu hàng: tội gì cũng nhận, giấy tờ gì cũng ký. Lập tức anh ta hết bị tra tấn, được cho ăn uống và được trả tự do. Theo Orwell, đó là tự do mang nhãn hiệu Cộng Sản.

Đó cũng là cái tự do mà nhà nước chó đẻ cờ đỏ sao vàng ban phát cho những trí thức đi theo chúng nó và cho nhân dân Việt Nam hiện nay.

Ngày xưa, tôi từng đi họp Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế tại nhiều thủ đô trên thế giới.
Nghị sĩ và dân biểu phái đoàn Mỹ đeo dấu hiệu USA trên ngực. Nghị sĩ và dân biểu phái đoàn Liên Sô đeo dấu hiệu USSR trên ngực, ở dưới có khẩu hiệu ASU.
Như chúng ta đã biết: USA là United States of America, tức Hiệp Chúng Quốc, tức Mỹ Quốc.
Còn ASU? ASU là chữ viết tắt của khẩu hiệu AVE SPES UNICA. Khẩu hiệu đó có nghĩa là: chào mừng (Ave) niềm hy vọng (Spes) độc nhất (Unica) của nhân loại dưới sự lãnh đạo của Liên Sô (USSR). Trong một nghị hội tại Tây Bá Linh, phái đoàn Liên Sô đã tặng tôi dấu hiệu đó, như kỷ vật vô cùng quý giá. Tôi giữ trong túi quần, rồi ban đêm liệng vào sọt rác trong cầu tiêu.

"Ông Nguyễn Văn Chức, Ông có thể khác chính kiến với đảng và nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng xin đừng chửi là quân chó đẻ. Người Cộng Sản, Người Quốc Gia, và người Việt Tỵ Nạn, đều là người Việt Nam, cùng chung một chiến tuyến, cùng chung một lý tưởng: đấu tranh cho tự do và quyền làm người của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể khác nhau về lý tưởng và phương pháp đấu tranh. Nhưng, chúng ta không nên - cũng như không được phép - gọi nhau là chó đẻ".

Trên đây là nguyên văn bức thư vô danh của một độc giả vô danh. Và dưới đây là suy nghĩ của tôi.

Bạo quyền Viêt Cộng "cờ đỏ sao vàng" là kẻ thù của dân tộc Việt Nam, trước đây cũng như bây giờ. Gọi chúng nó là quân chó đẻ, e rằng còn quá lịch sự.

Ngày xưa, hồi chưa mất nước, tôi đã bị các đàn anh - Nghị sĩ Trần Chánh Thành, Nghị si Thái Lăng Nghiêm, NS Trần Trung Dung, và dân biều Trần Văn Tuyên - trách là chống cộng quá khích. Quý vị đó dậy bảo tôi: cộng sản VN cũng là người như chúng ta, chúng ta không nên quá tàn bạo và dùng những từ ngữ không đẹp đối với họ.

Tháng 4 năm 1975, Việt Cộng vào tiếp thu Miền Nam. Những gì đã xẩy ra cho quê hương Việt Nam, cho đồng bào ruột thịt Miền Nam, cho các anh em cựu chiến sĩ Quần Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Và cho bản thân những đàn anh đã trách tôi chống cộng quá khích ?

Nghị sĩ Trần Chánh Thành tự vẫn. Dân biểu Trần văn Tuyên chết nhục trong tù, xác bị kéo lê liệng xuống lỗ, như xác một con chó. Nghị sĩ Trần Trung Dung bị tù, đói khổ như súc vật. Trước khi nghị sĩ Dung chết tại Cali, tôi có hân hạnh nói truyện với ông trong điện thoại. Ông nói "Chức ơi, anh đúng; tôi sai, Việt Cộng là súc vật, là loài chó". Nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm, từ Geneva, viết cho tôi: "Chức ơi, mày đúng tao sai, Việt Cộng là quân chó đẻ".

Chó có thể đổi lông. Nhưng cộng sản Việt Nam cớ đỏ sao vàng, không bao giờ đổi lông, không thể đổi lông, và không được phép đổi lông.

Tôi ngồi cô đơn "nhìn mặt trời lặn" trong cái giá buốt của chiều đông. Chiếc áo len cũ trùm lên mái tóc bạc, tôi nâng ly rượu lên môi. Ly ruợu đã cạn, ly ruợu đời của tôi. Tôi liên tưởng đến ông già (trong thơ Victor Hugo?) :

Ông già đang qua đi, nhìn mặt trời đang lặn
Mặt trời đang lặn, nhìn ông già đang qua đi

Vip KK Nguyễn Văn Chức .
( 11/ 11/2008)


THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI THAM DỰ ĐÊM TỪ THIỆN CỦA TIM ALINE REBEAUD


Tập thể Người Việt Tỵ Nạn tại Pháp
  • THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI THAM DỰ ĐÊM TỪ THIỆN CỦA TIM ALINE REBEAUD
Thưa quý bà / ông và cô Tim

Chúng tôi, những người tị nạn cộng sản Việt Nam đang trú ngụ tại Pháp quốc và khắp năm Châu, cùng với đại đa số đồng bào chúng tôi ở Việt Nam.

Xin gửi tới quý vị thông điệp trần tình sau đây:

1. Việc làm từ thiện phát xuất từ tình thương của con người đối với những kẻ kém may mắn trong cuộc sống. Cũng trong chiều hướng đó, lần này quý vị muốn chia sớt tình thương đến vài trăm trẻ em trong «làng may mắn» của cô Tim tại Việt Nam.

2. Nhưng, có thể quý vị không biết cô Tim từ lâu đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam kín đáo điều khiển và chỉ đạo. Do đó, số tiền từ thiện mà quý vị đóng góp sẽ bị kiểm soát và ăn chặn. Điển hình là tất cả các cuộc từ thiện cho lũ lụt, thiên tai ... từ trước đến nay chỉ có một số nhỏ đến được tay người cần được giúp đỡ. Phần lớn còn lại là vào tay các giới chức chính quyền tham nhũng (Nếu còn chút lương tâm, yêu cầu Cô Tim công khai xác định điều này).

3. Như quý vị đã biết nạn tham nhũng ở VN được xếp vào hàng số 1 trên thế giới. Bằng chứng điển hình là vụ PMU18

4. Chính vì tham nhũng mà ngày nay Việt Nam có rất nhiều nhà tỉ phú, triệu phú Euro. Những người này là các đảng viên cao cấp của đảng cộng sản VN.

5. Cũng chính vì chế độ cộng sản tàn độc đó mà tại Đất Nước chúng tôi hiện có hàng chục triệu trẻ em đói rách, bệnh tật giống như hoặc hơn trẻ em của «làng may mắn» (cô Tim hẳn phải biết điều này). Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam không hề có một chính sách xã hội để giúp đỡ các trẻ em kém may mắn này.

6. Xin quý vị hãy cùng chúng tôi tẩy chay những cuộc từ thiện nhằm làm giàu cho các giới chức tham nhũng tại Việt Nam, đồng thời tiếp tay đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thực thi một chính sách công bình xã hội, diệt trừ nạn tham nhũng và tái phân phối lợi tức cho dân nghèo.

7. Chúng tôi quan niệm rằng đồng tiền không được xử dụng cho mục đích trong sáng sẽ là những đồng tiền dung túng cho tội lỗi và xấu xa, đưa đến một xã hội ngày càng bất công mà lương dân Việt Nam là nạn nhân khốn cùng của một chế độ tàn độc mà thế giới đang dung dưỡng.

8. Do đó, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi quý vị ngưng tiếp tay giúp cho chế độ csVN thêm phần vô trách nhiệm, vô lương tâm và ngày càng độc ác, bạo tàn với trẻ em và đồng bào của chúng tôi.

9. Chúng tôi khẩn xin quý vị suy xét lại việc làm từ thiện cho Việt Nam và hợp tác với người Việt yêu TỰ DO trong nỗ lực thiết lập một Việt Nam Tự Do, công bình và thịnh vượng.

Xin Thượng Đế chúc lành cho quý vị và gia đình.

Xin chân thành cám ơn,

Tập thể Người Việt Tị Nạn tại Pháp.
(Thư ngỏ này đã được dịch qua Pháp ngữ để chuyển đến người Pháp)


Wednesday, November 19, 2008

NÓI CHUYỆN VỚI BÀ ANH ĐÀO TRAXEL


Đinh Lâm Thanh

Thưa Bà Anh Đào Traxel

Mấy ngày qua cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Pháp và cá nhân tôi đã nhiều lần đề cập đến danh tánh cũng như phản đối việc làm của bà khi bà tổ chức xin tiền và gắn huy chương cho cô Aline Rebeaud vào ngày 22.11.2008. Nhưng tiếc thay, lý trí và lương tâm của bà đã mất khi bà quay mặt phản lại cộng đồng, mọi tiền vét túi người Việt hải ngoại để đưa về dâng cho kẻ thù không đội trời chung là đảng cộng sản !

Trước hành động thiếu thiện chí và khiêu khích của bà, hôm nay một lần nữa, với tư cách thành viên của cộng đồng người Việt tự do tại Pháp, một tù nhân chính trị, một thuyền nhân và một người tranh đấu cho tự do nhân quyền, tôi công khai nói chuyện trực tiếp với bà.

Tôi nghĩ rằng thân phận của bà là một cô bé tỵ nạn Việt Nam, trên đường chạy trốn cộng sản người thân có thể đã chết, hoặc vì một lý do gì đó, bỏ rơi bà ở một phi trường tại Pháp. Bà may mắn được ông bà Jacques Chirac, lúc bấy giờ là Đô Trưởng thành phố Paris đưa về nhận làm con nuôi. Cuộc đời của bà gặp vận tốt, từ một cô bé bị bỏ rơi nơi công cộng bước ngay lên tột đỉnh danh vọng trong một sớm một chiều. Nhưng dù thế nào cũng đừng quên rằng bà là một thuyền nhân đã vượt biết bao gian khổ và nguy hiểm để đánh đổi mạng sống với biển cả đi tìm tự do.

Bây giờ bà còn chấp nhận thân phận của một người vượt biên hay tự cho rằng nhờ cộng sản vào cướp nước mà bà có cơ may làm con nuôi của một tổng thống ? Nếu bà còn chút suy tư của một người mất nước thì tôi xin hân hạnh tâm tình cùng bà. Nhưng bà cho rằng nhờ cộng sản đổi đời từ một cô bé "lọ lem" lên làm "công chúa" thì tôi xem bà như hạng người chợ trời, vượt biên vì kinh tế và không đáng đề cập đến nữa!

Trường hợp bà còn giữ trong người giòng máu tỵ nạn thì tôi mong rằng bà hãy suy nghĩ việc làm của bà và tự xử sự bằng cách:

1. Trước tiên, hãy tìm hiểu con người của cô Tim Aline Rebeaud hay bất chấp nhắm mắt tuân theo chỉ thị của Hà Nội để rồi mượn cơ hội từ thiện đánh bóng cá nhân bà ? Nếu bà không rõ thì tôi lướt qua quá khứ và mục đích hành động của cô Tim:

Đến Việt Nam như một sinh viên "du lịch balô", tỏ ra có thiện cảm và hành động tốt đối với thành phần trẻ em nghèo đói, vô gia cư và tật nguyền. Nhưng hình ảnh một cô gái da trắng tóc vàng là miếng mồi ngon, là công cụ tốt của Hà Nội. Cô đã lọt vào mắt cơ quan tình báo và gián điệp cộng sản trong kế hoạch đào tạo nhân sự với mục đích và âm mưu đen tối sau nầy. Trước khi xử dụng, cộng sản đã "cấy vào người" cô Tim trong nhiều năm các chương trình huấn luyện tình báo, kiều vận, văn hóa vận cũng như "móc túi vận" tại nội địa cũng như ở Thái Lan. Sau khi thấm nhuần đường lối và bị "dính chàm" một vấn đề gì đó, cô Tim phải chấp nhận vai trò "từ thiện dổm" của mình để cộng sản đánh bóng đưa ra nước ngoài. Mở đường là Thúy Nga đưa cô ta lên tận mây xanh trong chương trình ca nhạc nhằm đánh động lòng người. Tiếp đến Hà Nội ra lệnh cho các đám nằm vùng, cò mồi ham danh mê tiền, lập kế hoạch đưa đi khắp năm châu để vét túi thiên hạ. Từ thiện chỉ là màn kịch mà kế hoạch chủ yếu là đánh phá Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ, tạo cơ hội phân tán, chia rẽ tập thể cộng đồng người Việt hải ngoại. Đây là mục đính chính việc xuất ngoại của cô Tim. Bà đừng cảm động vớ vẩn trước vài giọt nước mắt cá sấu và những lời thuyết phục rắn độc, vì làm từ thiện là nghề chính thức của cô ta để cô sống thoải mái, vừa có tiền đi chu du khắp thế giới vừa được thiên hạ tôn sùng như một thần tượng. Nhưng thưa bà, bộ mặt cô Tim đã rớt xuống, những ai còn chạy theo ăn bã đều đồng lõa với tội ác.

2. Hủy bỏ đêm Gala móc túi (vừa bán vé vào cửa vừa dùng những người đẹp ngửa nón đi từng bàn xin tiền – đã sắp sẵn mỗi bàn một hai cò mồi bỏ tiền vào mũ một cách hậu hỉ, mục đích làm gương … để câu khách mời !!!). Nhân tiện đây tôi hỏi bà có biết sự thật này không ? Chín mươi phần trăm (90%) tiền thu được phải trao cho Mặt Trận Tổ Quốc, nghĩa là đưa cho cộng sản. Mười phần trăm (10%) là tiền lương của cô Tim và Một phần trăm (1%) có thể đến tay các em bé. Đây là lời tố cáo của một nhà văn nhà báo trong nước, cô Trần Khải Thanh Thủy. Chúng tôi đã tận tình trình bày, nếu bà không chấp thuận, chúng tôi bắt buộc sẽ vạch hành động của bà và các nhóm cò mồi Việt cũng như địa phương ra trước công luận và giới truyền thông Pháp.

3. Trong trường hợp bất khả kháng đối với bà cũng như với người ngoại quốc, chúng tôi đề nghị bà cho treo cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ bên ngoài cũng như bên trong hội trường. Nếu cô Tim Aline Rebeaud chống đối bỏ ra về thì chúng tôi sẽ có thái độ với cô ta, còn cô ta chấp nhận, thì yêu cầu cô Tim và tất cả phải đứng thẳng người và nghiêm chỉnh trong lúc chào Quốc Kỳ.

Bà phải nhớ rằng, toàn thể người Việt tự do tại Pháp đã ủng hộ triệt để ông Jacques Chirac trúng cử trong các kỳ bầu tổng thống. Chắc bà cũng hiểu, ngoài việc ông Chirac là người chống chế độ cộng sản mà còn một lý do thầm kín bên trong nữa: Đó chính là chúng tôi ủng hộ một đồng hương, một thuyền nhân tỵ nạn đứng phía sau liên danh ứng cử. Người đó là chính bà, bà có biết không ? Bây giờ bà trả ơn cho đồng bào, những người ủng hộ bà, ủng hộ cha nuôi của bà bằng hành động phản bội, đâm ngay dao vào tim những người đã một thời âu yếm thiết tha nghĩ đến bà !!!

Đinh Lâm Thanh
Paris, 19 Novembre 2008


Tuesday, November 18, 2008

Con gái Nguyễn Tấn Dũng lấy chồng Việt kiều Mỹ

Theo bản tin của báo Sài Gòn Tiếp Thị trong nước thì ngày Chủ nhật 16/11/2008 vừa qua con gái của Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Phượng 27 tuổi đã thành hôn với Nguyễn Bảo Hoàng, Việt kiều Mỹ 36 tuổi.

Nguyễn Bảo Hoàng lớn lên ở Mỹ và mang quốc tịch Mỹ, đã tốt nghiệp cử nhân văn học cổ điển hạng xuất sắc tại đại học Harvard vào năm 1995.

Nguyễn Thanh Phượng cũng từng được đào tạo tại Mỹ.
Đám cưới được tổ chức tại Caravelle Hotel, Việt Nam.

Cô dâu Nguyễn Thanh Phượng và chú rể Việt kiều Mỹ Nguyễn Bảo Hoàng








Chú rể Việt kiều Mỹ Nguyễn Bảo Hoàng và cô dâu Nguyễn Thanh Phượng


Nguyễn Thanh Phượng, con gái của Nguyễn Tấn Dũng



Seattle-Sàigòn nối vòng tay lớn


Đả Cẩu Hiệp


Chuyện cô TIM Aline Rebeaud, một phụ nữ trẻ đẹp người Thụy Sĩ, chủ nhân sáng lập tổ chức Từ Thiện có tên là "Maison Chance" (Nhà May Mắn), cô đã đi khắp thế giới để vận động, gây quỹ nhằm giúp đỡ cho những người kém may mắn ở Việt Nam. Nhưng khi cô tới những nơi có cộng đồng VN, cô đều từ chối treo cờ VNCH. Cô đã bị chống đối dữ dội, và có lần cô đã khóc. Những giọt nước mắt của cô ví như những giọt nước mắt cá sấu.

Hôm 31-10-2008, dưới sự bảo trợ chủ lực của doanh gia Trần Đức, chủ nhân các cơ sở VietWah và ông Võ Thành Đông, chủ báo Phương Đông Times (VT), đã tổ chức một đêm gây quỹ tại nhà hàng Tea Palace ở thành phố Renton cho cô TIM, và được Ban Tổ Chức MIỄN TREO CỜ VÀNG theo yêu cầu của cô. Việc này đã gây sự phẫn nộ trong CĐVN tại địa phương.

Chúng tôi có đọc bài tường thuật đêm gây quỹ trên của nhà thơ Linh Vũ trên báo Phương Đông Times, số 866 ra ngày 7-11-08, nơi trang 2, 60 và 61, cô TIM trả lời về câu hỏi tại sao cô không chịu cho treo cờ vàng. Cô nói đại ý: Tổ chức của cô là làm từ thiện, không muốn dính đến vấn đề chánh trị, cho nên cô không cho treo bất cứ cờ nào cả, kể cả cờ Thụy Sĩ của cô. Và ngay tại ngôi Nhà May Mắn của cô ở VN cũng không có treo cờ VC !

Lý luận này rõ ràng không thể chấp nhận được. Sự thực thì, lý do cô từ chối treo cờ vàng là vì cô đang phục vụ cho bạo quyền CS Hànội. Là vì cái ngôi Nhà May Mắn của cô chỉ có ở VN !

Tức là cô chỉ làm từ thiện ở VN mà thôi.

Bởi vậy cho nên khi cô đi đến đâu đều được các cơ sở ngầm của băng đảng Việt Tân và những tên tay sai Việt gian có liên hệ xa gần với CS Hànội hỗ trợ tích cực.

Vấn đề đã sáng tỏ. Chúng tôi không bàn tới chuyện cô TIM nữa.

Như chúng tôi đã nhấn mạnh, vụ tổ chức gây quỹ cho cô TIM chính ông Trần Đức chủ nhân các cơ sở VietWah và nhà báo Võ Thành Đông, đảng VT, là chủ chốt. Bởi vì, ở đâu có ông Võ Thành Đông là ở đó có ông Trần Đức. Tuy 2 người nhưng là một.

Ông Trần Đức là người Mỹ gốc Hán, có vợ Việt. Cơ sở VietWah của ông làm ăn với Việt Cộng, Trung Cộng, và cả Đài Loan, Hồng Kông, v.v... Mà đã làm ăn với VC thì không tránh khỏi bị bọn VC nó lợi dụng. Như trường hợp hơn 10 năm trước, khi chánh phủ HK vừa bãi bỏ lịnh cấm vận, một phái đoàn đông đảo các doanh gia VC ở thành hồ kéo tới Seattle, bắt buộc ông Trần Đức phải tận tình phục vụ tiếp đãi, bao cho chỗ ăn ngủ ở khách sạn, và giúp cho các phương tiện đi, lại thăm viếng khắp nơi, giải trí , v.v...

Đó là cái mà chúng ta biết, còn những cái ta không biết thì sao ?

Chuyện mới đây, khi CĐVN ở Seattle nhờ ông Trần Đức yểm trợ một xe hoa, ông Trần Đức vui vẻ ủng hộ, nhưng ông lại để cho Đại Đế Quang Trung mặc sắc phục màu đỏ của tướng Hán Tôn Sĩ Nghị. Những người dễ dãi thì cho rằng, vì ông Trần Đức chẳng hiểu gì về văn hoá và lịch sử VN nên nhầm lẫn. Nhưng dưới con mắt của những người Quốc Gia chống Cộng thì hoài nghi, có thể ông Trần Đức có dụng ý xúc phạm Đại Đế Quang Trung, tát vào mặt CĐVN một phát đau !? Ai muốn hiểu sao cũng được!?

Bởi vậy mình nên tự trách mình. Chúng tôi đã lên tiếng kêu gọi bà con đừng có ngửa tay xin tiền ông Trần Đức nữa ! Nhục lắm ! Bởi vì ông ta chỉ dám giúp làm những gì có lợi cho VC. Còn giúp những gì bất lợi cho VC như cho tiền tổ chức Ngày Quân Lực hay Ngày Quốc Hận 30-4, v.v... thì chắc chắn ông ta sẽ bị VC nó làm khó dễ. Vậy xin tiền ông ta để làm gì ?

Là người VN biết tự trọng, không bao giờ làm mặt dày tới gõ cửa công ty VietWah ĂN MÀY ông Trần Đức ! Ngoại trừ bọn Việt gian.

Thế nhưng, ông Võ Thành Đông, một cán bộ Việt Tân vẫn bất chấp. Cụ thể như vụ ông Võ Thành Đông tổ chức cho cô TIM tới Seattle, có dính dáng tới ông Trần Đức.

Và ngày 23-11-2008 tới đây, ông VTĐ tổ chức ra mắt sách cho ông Du Miên Lê Thanh Hoa, cũng có ông Trần Đức bảo trợ danh dự (sic). Nên hiểu rằng, vụ yểm trợ ra mắt sách chỉ là cái cớ.

Ông VTĐ chủ trương lôi kéo một số vị nhân sĩ, có tên tuổi trong cộng đồng vào công tác NỐI VÒNG TAY LỚN SEATTLE-SÀIGÒN !?

Trong công tác này, ông VTĐ đã bất chấp thủ đoạn gian manh, ông ta chơi trò ma giáo "bắt cua bỏ rọ", tự ý ghi tên một số nhân vật cộng đồng vào "danh sách những nhà bảo trợ danh dự" trong vụ ra mắt sách nói trên. Ông VTĐ cố tình "đặt một chuyện đã rồi", như 3 trường hợp mà chúng tôi biết được :

1.- Bác sĩ Nguyễn Xuân Dũng, Chủ tịch CĐVN Tacoma.
2.- Ông Nguyễn Kim Long, GĐ trường Việt Ngữ Chu Văn An.
3.- Ông Phạm Kim, Chủ báo NVTB.

Chúng tôi yêu cầu quý vị trên đây hãy lên tiếng phản đối công khai, bắt ông VTĐ phải đăng báo cãi chánh. Quý vị chỉ phân bua bằng miệng thì không ai tin đâu !?

Quý vị cần hành động để tránh trường hợp sau này vẫn bị bọn lưu manh VT & VC lợi dụng tên tuổi của quý vị, gây nghi kỵ trong cộng đồng và làm tổn hại thanh danh của quý vị, tưởng rằng quý vị đã đầu hàng VC, cam tâm bán mình làm công cụ cho bọn VT, muốn bắt tay hoà hợp hoà giải với CS !

Xin bà con hãy nhớ rằng, ông Võ Thành Đông đã từng tình nguyện gia nhập Đảng VT trong ngày Việt Tân ra mắt tại Seattle mấy năm trước. Bây giờ ông VTĐ cũng chối ông không còn ở VT nữa. Nhưng có thể ông ta "đi thẳng" với Ủy Ban Văn Hoá Tư Tưởng thành Hồ, như việc ông ta quan hệ chặt chẽ với nhà văn Văn Quang, quyên tiền cứu trợ TPB rồi chuyển qua tay Văn Quang là một bằng chứng hùng hồn !

Tóm lại, ông Võ Thành Đông, một đảng viên Việt Tân, đang làm cái nhiệm vụ "nối vòng tay lớn Seattle-Sàigòn". Một nhà báo tự xưng chống Cộng, không thể nào được VC nó để cho ông ta tự do đi, về VN thoải mái và quan hệ khắn khít với nhà văn Văn Quang, thuộc Hội Văn Nghệ Sĩ thành Hồ !

Đả Cẩu Đại Hiệp

Tuyên Cáo Văn Phòng Liên Lạc Người Việt Tự Do tại Pháp Văn Phòng Liên Lạc Người Việt Tự Do tại Pháp Văn Phòng Liên Lạc Người Việt Tự Do tại Pháp

Văn Phòng Liên Lạc Người Việt Tự Do tại Pháp
Địa chỉ: 54 Rue Lebrun , 94400 Vitry-Sur-Seine.
Tél : 0146778257 – email:
ttk.vpll@gmail

    Tuyên cáo
Nhà may mắn, Maison Chance, do Tim Aline Rebeaud sáng lập sẽ tổ chức buổi từ thiện ngày 22-11-2008 vào lúc 19:30 tại Vélézy-Villacoublay dưới sự bảo trợ của Bà Anh Đào TRAXEL, chủ tịch Hội Étoile Europénne du Dévouement Civil et Militaire để giúp đở trẻ em tại Việt nam.

Việc từ thiện giúp trẻ em mồ côi và tật nguyền tại Việt Nam là một đều tốt, cần làm, có thề nói là mọi người Việt đang sống ở hải ngoại nên làm, nhưng trao tiền cho cò mồi cộng sản là một đều không thể chấp nhận được:
  • - Có ai biết Tim Aline Rebeaud là ai ? Tại sao Tim Rebeaud không đi xin những nhà tư bản đỏ tại VN có cả tỷ mỹ kim.
  • - CSVN cố tình đưa Tim Rebeaud ra hải ngoại với âm mưu móc túi người nhẹ dạ nước ngoài luôn có lòng từ thiện và muốn giúp đở đồng bào ruột thịt nhưng vô tình làm hại cho công cuộc dấu tranh chung và gây chia rẻ trong cộng đồng.
  • - Nuôi dưởng và giúp đở trẻ em mồ côi và khuyến tật là trách nhiệm của nhà cầm quyền CSVN
Vì những lý do nêu trên các Hội Đoàn và Người Việt Tư do tại Pháp long trọng tuyên bố:
  • Cực lực phản đối ban tổ chức buổi gây quỷ từ thiện ngày 22-11-08 tại Vélézy –Villacoublay
  • Kêu gọi đồng bào tẩy chay không tham gia buổi gây quỷ
  • Vận động dư luận người Pháp về thái độ vô trách nhiệm của chế độ CSVN
    Làm tại Paris ngày 16-11-2008
    Tổng thư ký Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn và Người Việt Tự Do tại Pháp
    Nguyễn Phúc Tửng