Monday, October 13, 2008

Tên Tưởng Thú "Dũng Xà Mâu" dến Úc

  • TÊN THỦ TƯỚNG "DŨNG XÀ MÂU" THAM QUAN NƯỚC ÚC
Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CS Úc châu biểu tình Nguyễn Tấn Dũng
trước tiền Đình Quốc Hội Canberre

Trương Minh Hòa


Bài viết nầy nhằm tường trình diễn biến trước và sau khi tên Nguyễn Tấn Dũng đi "tham quan" Úc Châu theo lời mời của thủ tướng Lao Động kevin Rudd. Người viết chỉ đưa ra những gì nghe thấy, phần phán đoán tùy theo đọc giả và nhất là thái độ, việc làm của một cơ quan truyền thông do người Việt tỵ nạn điều hành, hưởng lương chính phủ, từ tiền thọ thuế của dân Úc, trong đó có người Việt tỵ nạn.

Tên thủ tướng "không người lái" Nguyễn Tấn Dũng, tức là Dũng Xà Mâu có chuyến "tham quan" nước Úc Đại Lợi vào ngày 13 tháng 10 năm 2008 tại thủ đô Canberra và ngày 14 tháng 10 năm 2008 tại Melbourne được cộng đồng người Việt Tự Do Úc Châu sẵn sàng "dàn chào bằng rừng cờ vàng ba sọc đỏ, những câu đòi hỏi nhân quyền, đàn áp tôn giáo, nhất là vụ Thái Hà, Tòa Khâm sứ Hà Nội .... Ngày 7 tháng 10 năm 2008, đài phát thanh SBS do Quốc Việt làm trưởng đài, đã làm cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Thế Phong, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu. Hình như đây là "qui luật" của đài phát thanh sắc tộc tiếng Việt ở Úc Châu, đài nầy có "truyền thống" là không đọc thông cáo của cộng đồng, hay bất cứ tổ chức nào mời đồng bào đi bày tỏ "sinh hoạt dân chủ tại một quốc gia tự do như Úc" là quyền tập hợp như các tổ chức, các sắc tộc, được hiến pháp công nhận và đương nhiên là cộng đồng có xin phép cảnh sát, thì không thể coi là "bất hợp pháp", hay biểu tình lậu. Chỉ có các nước theo chế độ Cộng Sản như Việt Nam mới cấm, cho nên giáo dân ở Thái Hà, Hà Nội chỉ cầu nguyện ôn hòa mà vẫn bị đàn áp, chụp mũ, bắt bớ, đe dọa.

Tuy nhiên, đài SBS tỏ ra là rất "lịch sự, tế nhị" sợ làm mất cái tình "hữu nghị Úc-Việt đời đời bền vững, túi liền túi, tiền liền tiền viện trợ" nên đài không đọc những thông báo của cộng đồng là điều dễ hiểu.

"Ai về nhắn với Ếch Bi Ếch.
Được cả Vi Si lẫn đồng bào"

Cho nên, cuộc phỏng vấn của Nguyễn thế Phong mới nói không nhiều, hình như là ông Phong đang sắp nói, chưa kịp nói những điều quan trọng như ngày, giờ tập trung, thì bị Quốc Việt cắt ngay, làm nhiều người nghe đài bực mình và thừa biết đây là lối ngăn chận những điều mà đài không muốn phổ biến, có lẽ là cũng biết tôn trọng sứ quán chăng?. Thay vào đó là bài phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, không quan trọng bằng cuộc biểu tình và những điều mà người Việt ở Úc Châu muốn biết, điều nầy không ai ngạc nhiên cả, vì đài nầy là như vậy thôi. Nếu không nhờ có các tờ báo tiếng Việt, các đài phát thanh tư nhân, các trang web, thì người Việt ở Úc Châu bị bưng bít nguồn thông tin cần thiết, như người dân Việt Nam ở trong nước vậy.

Tuy nhiên, đài SBS cũng làm cái gọi là "lập trường chính trị còn lại" như câu của truyện Kiều: "chữ trinh còn ở chỗ nầy". Nên ngày 13 tháng 10 năm 2008, trưởng đài Quốc Việt đến làm cuộc tường trình, đến tận thủ đô Canberra được phát thanh vào buổi tối 7 giờ ngày 13 tháng 10 năm 2008. Tuy nhiên phần đầu tin tức giới thiệu, đài nói chỉ có 300 người biểu tình. Nhưng phần phỏng vấn những người tham dự, cho biết là con số lên đến khoản 1500 người, con số đông, dù đây là ngày thứ hai, làm việc. Phần diễn biến từ lúc 8 giờ sáng, đoàn biểu tình đến với các biểu ngữ, cờ vàng ba sọc đỏ tại tiền đình quốc hội liên bang ở Canberra (các đài truyền hình số 10, SBS, ... đều có hình ảnh). Trong phần biểu tình, trưởng đài SBS hình như có ưu ái với thượng tọa Thích Quảng Ba nên dành cho ông ta phần nói chuyện dong dài, theo kiểu nói mất nhiều thời giờ mà đài hay dùng để mời Quảng Ba trong nhiều lần phát thanh; trong khi phần phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu, ông Võ Trí Dũng, phó chủ tịch liên bang, kiêm chủ tịch cộng đồng N.S.W, linh mục Nguyễn Khoa Toàn, cộng đồng Công Giáo ... thì được Quốc Việt lướt qua, với vài câu; khiến cho người nghe đài từ phương xa, tưởng đây là cuộc biểu tình do "thượng tọa Thích Quảng Ba" là nhân vật quan trọng "chủ trì" vậy. Đây cũng là lối làm việc của hệ thống đài phát thanh SBS, chỉ mục đích làm những gì mà đài muốn, nhiều khi làm mất đi ý nghĩa, làm lu mờ vai trò của cộng đồng và những người tham dự biểu tình; đây là cách làm truyền thông theo kiểu của các chế độ "độc tài" cần phải vứt vào thùng rác thường (không phải là Recycle) trong các nước dân chủ, để có được ý nghĩa trung thực, khách quan và giữ vững lập trường của người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Sau khi biểu tình trước quốc hội liên bang, đoàn biểu tình di chuyển đến khách sạn Hyatt để tiếp tục chống tên" ăn mày Nguyễn Tấn Dũng.

Được biết, cuộc viếng thăm nầy nằm trong "túi liền túi" trong tình hữu nghị Úc-Việt, đô la đời đời bền vững, mà Việt Nam ngữa tay nhận số tiền viện trợ lên đến 93 triệu Úc Kim. Hai bên nói về giao thương, quyền lợi. Tuy nhiên ông Malcom Turnbull, thủ lãnh đối lập đảng Tự Do đã thẳng thừng hạch hỏi tên đồ tề Nguyễn Tấn Dũng về tình trạng vi phạm nhân quyền, không có tự do, dân chủ tại Việt Nam. Nhân dịp nầy, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm một cử chỉ nhằm chứng minh là "nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam" cũng có tiến bộ về mặt nhân quyền là: giảm hai án tử hình cho hai người Úc gốc Việt về tội buôn bán ma túy, nhân quyền và nhân đạo ở chỗ đó, còn tù nhân lương tâm, đất đai của các tôn giáo, dân oan ... là không có "chế độ nhân đạo".

Trương Minh Hòa

Lòng Tự Hào


Bảo Giang


Người ta có hai điều đáng để tự hào là: Sống đời lương thiện vói chính mình và đem sự lương thiện, tài đức của mình vào làm tăng tiến thêm tinh hoa cho xã hội. Nhưng người có lòng tự trọng là người cảm thấy tủi hổ, nhục nhã vì những hành vi bất lương, kém giáo dục do người đồng chủng gây ra.…

Thật vậy, nói về lòng tự hào, tôi tin rằng nhiều người chưa dễ quên hình ảnh của một vận động viên bơi lội Mỹ, cô Janet Evans đã biểu lô khi đứng trên lễ đài nhận tấm huy chương vàng trong kỳ thế vận hội Olimpic tai Soul vào năm 1988

Janet Evans năm ấy 17 tuổi, đi dự Olimpic lần đầu tiên và đã thắng được 3 huy chương vàng. Những huy chương ấy là tài năng. Nhưng lòng tự hào của Janet lại nằm đúng vào lúc, đôi mắt thơ ngời sáng nhìn theo bóng cớ, tai nghe hồn non sông như lòi gọi mời vượt thời gian trổi vang vang theo bài quốc ca. Bỗng chốc, sức sống như rung động đến từng làn da thớ thịt, rồi dòng nưóc mắt thánh thót lăn dài trên đôi gò má … Mặc cho dòng nước mắt tuôn rơi, cô vẫn hát theo lời tự hào của non sông…

Tôi cho rằng đó là hình ảnh tuyệt mỹ đã được biểu lộ từ tấm lòng lương thiện, mang khát vọng của đời mình tô thêm nét đẹp cho quê hương, xứ sở, nơi mình đã được sinh ra và lớn lên để làm người.

Janet Evans tự hào là phải. Cô tự hào không phải chỉ vì thành tích của cá nhân, nhưng còn là niềm tự hào to lớn từ dân tộc ấy, nơi đã sinh ra và làm trưỏng thành nhân loại. Nơi có những vĩ nhân đã giải phóng dân tộc, mở ra một trường dân chủ cho nhân loại. Ở đó có George Washington và ở đó có Abraham Linlcon, người đã giải phóng kiếp nô lệ của con ngưòi. Và ở nơi đó đã ấp ủ, hơn thế, như luồng gió mới truyền vào hơi thở của thế giới tư tưỡng Nhân Quyền và Dân Quyền. Và cũng là nơi, Tự Do, Công Lý của xã hội được tôn trọng và đặc biệt, nơi ấy đã cưu mang con người bằng tình người lương thiện.

* Anh nói thế, chẳng lẽ chỉ có một mình Janet Evans hay dân Mỹ mới có lòng tự hào và lòng tự trọng dân tộc, còn những người không thắng cuộc, và các dân tộc khác không có lòng tự hào về đất nước và con người của mình hay sao?

- Ồ, dĩ nhiên, mỗi người và mỗi dân tộc đều có lòng tự hào và tự trọng về thành tích và về dân tộc mình chứ. Ngay như chúng tôi đây, tuy người của chúng tôi chưa một lần đứng trên bục cao danh dự của quốc tế để lĩnh nhận những huy chương cao quý của nhân loại, Nhưng chúng tôi có khi nào không hãnh diện và tự hào về giòng dõi Việt tộc của chúng tôi đâu.

Này nhá, từ khởi đầu cuộc dựng nước và cứu nước của dân Việt, sách sử nước tôi đã ghi lại bao nhiêu nét hùng vỹ. Từ những cuộc kháng Minh, diệt Mông, đánh Hán đuổi Tây đến những ngày chinh chiến Quốc - Cộng, chẳng có khi nào mà không có những anh hùng của non sông làm rạng danh giòng giống Lạc Hồng. Anh mở sách ra mà xem, sau các vua Hùng là những triều Lý Lê Trần Nguyễn với những Trưng Nữ Vương, Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Hưng Đạo Vương, Bình Định Vương Lê Lợi, rồi Quang Trung Nguyễn Huệ đến Hàm Nghi, Phan đình Phùng, Hoàng hoa Thám, Ngô đình Diệm … Cà tây lẫn tầu đã dễ gì mà quên được những tên tuổi ấy. Rồi đến cuộc chiến bảo vệ quê hương, những danh tướng làm rạng màu cờ sắc áo Tự Do của giống nòi cũng hiển lộ thần oai vì dân tử tiết như Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê đăng Vỹ, Trần văn Hai…Tất cả là hồn thiêng sông núi còn sinh động trong lòng chúng tôi, lẽ nào chúng tôi không tự hào.

Còn hơn cả lòng tự hào nữa đấy. Chúng tôi đi mà dám ngửa mặt lên nhìn đời. Này nhá, khi Tổng Thống Ngô đình Diệm, tuy lãnh đạo đất nước chưa bao lâu, nhưng đến xứ người thì được anh hùng của dân tộc Hoa Kỳ, và là tổng thống đương nhiệm, thống tướng Dwight Eisenhower, đưa cả nội các ra tận chân máy bay mà đón rươc với đại lễ dành cho nguyên thủ một quốc gia.

Kế đến, trong cuộc tỵ nạn Việt cộng mới cách đây vài ba chuc năm thôi, hàng ngũ người tỵ nạn cộng sản với hai bàn tay trắng bị bóc lột hôm nào, nay đã thành một lực lượng xây dựng được chỗ đứng vững chắc nơi mình sinh sống. Họ trưởng thành trong lương thiện và còn góp mặt trong tất cả các cơ chế từ hành pháp đến lập pháp và tư pháp tại các cấp chính quyền địa phương. Thuyền Nhân tỵ nạn cộng sản năm nào nay đã có những danh vị hàng quốc tế. Những danh tánh như Dương Nguyệt Ánh, Eugen Châu, Elizabeth Pham …. đã là những điển hình, chứng minh cho lòng tự hào và tự trọng của người Việt Nam trên trường quốc tế đấy!

- Phải những điều ấy thì đúng và ai là người Việt mả không tự hào về non sông đất nưóc cũng như dân tộc của minh. Nhưng tại sao, Ngài Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà Nội, lại bảo: “chúng tôi cảm thấy nhục nhã khi cầm tờ hộ chiếu Việt Nam …” Nóí như thế là nghĩa gì? Có phải là Ngài phỉ báng Dân Tộc Việt Nam và chống đối dân tộc Việt Nam chăng?

- Sao mà lại có những kẻ đặt câu hỏi ngu đến như thế nhỉ? Há những kẻ đặt câu hỏi ấy không biết rằng, nóí như thế là Ngài Tổng Giám Mục đã biểu lộ lòng Tự Trọng của dân tộc một cách cao độ hay sao?

- Ối bác đảng ơi! hởi các đồng chí ơi! Họ bảo nói như thế là sự biểu lộ lòng tự trọng cao tầng đấy. Không phải là chống đối dân Việt Nam đâu! Chỉ có lủ phản động tin chúng chứ bác đảng nào mà tin cho cái “ný nuận” ấy được nhỉ?

- Này, không phải có mình tôi hay có vài người chấp nhận suy nghĩ ấy đâu. Nhưng là toàn dân Việt Nam đều nhận chân gíá trị như thế. Mà không phải chỉ riêng người Việt Nam tâm phục khẩu phục lời của Ngài Tổng Giám Mục công bố trước mặt những cán cộng cao cấp trong hàng ngũ gọi là cửa quyền Hà Nội đâu, nhưng là cả loài người văn minh, có đạo lý và luân lý trong cuộc sống đời thường đều công nhận lời nói với lòng tự trọng của Ngài đấy!

Bởi vì người có lòng tự trọng là người thấy tủi hổ vì những hành vi bất lương, thiếu đạo đức, thiếu gíao dục của người đồng chủng với mình gây ra! (ở đây được hiểu là do nhà cầm quyền Việt cộng gây ra)

Giải thích cách khác, bớt nhức nhối và đau đớn là vì Ngài thường đi ra ngoài nước, Ngài thấy chính quyền các nưóc thì tôn trọng nhân dân, tôn trọng quyền sống, quyền làm người cơ bản của đồng bào, tôn trọng sự tự do, tôn trọng Nhân Quyền, tôn trọng Nhân Phẩm và đạo đức xã hội. Sự tôn trọng ấy đã tạo điều kiện để phát triển về nhân bản và luân lý xã hội làm cho xã hội ngày một tốt đẹp, ngày thêm phát triển. Ngài muốn cho dân ta có được một ngày có những cái vinh dự như thế trên trường quốc tế,

Nhưng than ôi, khi quay về quê hương mình thì Ngài rơi nước mắt khi thấy nhân dân đi kêu oan, đòi đất đòi nhà trên bình diện cả nước. Chính quyền thì mặc sức vơ vét trên những luống cày một cách bất lương, vô đạo. Tệ hơn thế, còn ra sức dùng vũ lực trấn áp tinh thần của đồng bào. Đạo đức xã hội thì suy đồi. Đi đến bất cứ nơi nào thì cũng chỉ thấy cảnh công an, cán bộ cửa quyền tác oai tác quái. Tự Do Dân Chủ Độc Lập Hạnh Phúc của đồng bào chỉ là cái bánh vẽ trên giấy để cho nhà nươc tự do sử dụng mua vui trong cuộc chơi lừa bịp. Bởi vì, thực tế là người ta không thể tìm ở đâu ra sự Tự Do và ấm no của người dân, nói chi đến Hạnh Phúc và Độc Lập như cái khẩu hiệu của nhà nước này dựng lên!

Nhưng mãi đến nay, mới chỉ có một minh Ngài Tổng Giám Mục Hà Nội thay mặt toàn dân mà nói lên lời chân thật, tự trọng ấy. Nhưng ngày toàn dân sẽ hét vào mặt nhà nước Việt cộng như thế cũng không còn là xa nữa đâu.

- Tại sao Ngài Tổng Giám Mục và toàn dân Việt Nam lại thấy nhục nhã vì cái chế độ Việt cộng này?

Đơn giản là vì chúng đã làm tổn thương danh dự và nhân phẩm của Việt Nam trong mấy chục năm qua. Ngày nay, hai tiếng Việt Nam không còn được nhắc trên trường quốc tế với lòng kính trọng vì nơi đó có một giống dân lương thiện, hiền hoà, cần mẫn, can đảm, hiếu khách, đầy lòng tự hào và tự trong về khí phách của hồn thiêng sông núi. Trái lại, đi đến đâu cũng bị soi mói, bị nhìn dưới đôi mắt như những kẻ hạ cấp, trộm cắp thiếu lòng lương thiện, kém văn hóa.

- Tại sao dân Việt ta lai bị nhìn bằng đôi mắt khinh khi ấy nhỉ?

Dễ hiểu thôi, hảy điểm qua một số công việc của nhà nước này trong mấy chục năm qua. Từ việc lớn đến việc nhỏ. Từ việc chúng bán đất cầu quyền lực đến tàn sát giết hại nhân dân, đến việc đẩy ngưòi dân ra khỏi nước để vơ vét tiền của của của nhân dân, đến việc, xưa là đấu tố, nay là quy hoạch để cướp đoạt tài sản ruộng đất của nhân dân thì sẽ nhìn ra cái lý do tại sao người Việt Nam bị đánh giá và bị nhìn chung cái nhìn với Việt cộng.

Này nhá, hãy bắt đầu bằng cái tên Hồ chí Minh để xem cái chế độ vô đạo lý này đã lập được những công trạng gì cho Việt Nam:

1. Sau khi không được nhận vào trường bảo hộ để thoả mãn khát vọng làm nô lệ cho thực dân Pháp. Hồ chí Minh đã xin làm nô lệ cho đảng cộng sản Pháp rồi đến đảng cộng sản Liên Sô.

2. Khi ra khỏi nhà tù Quảng Châu, Hồ chí Minh đã nổi danh khắp năm châu vì món nghề chôm chỉa cuốn Ngục Trung Thư của một người tù cùng thời với Hồ.

3. Khi về nước thì Hồ chí Minh đã mượn đỡ cái tên Trần dân Tiên để viết về cuộc đời cách mệnh của Hồ. Tuy thế, Trần dân Tiên cũng không dám viết về cái gia phả đích thực của Hồ là con cái nhà ai. Trần dân Tiên là ai? Tại sao không viết sự thật đời “Chí Phèo” với thị Tăng Minh Tính, thị Khai, thị Xuân, mà lại ca tụng Hồ chí Minh? Phải chăng đây chỉ là một cái tên khác trong toan tính lường gạt nhân dân cả nước của Hồ chí Minh?

4. Rồi Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng đã phản bội toàn dân trong công cuộc kháng chiến chống thực dân. Chúng đã thiết lập chế độ cộng sản nô lệ cho Nga Tàu trên toàn miền bắc, rồi ký công hàm bán nước, công nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung cộng trên vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trực thuộc thẩm quyền hành chánh của Việt Nam Cộng Hoà theo hiệp định Geneve năm 1954 quy định.

5. Tập đoàn Hồ chí Minh, Đặng xuân Khu đã giết chết hơn 60,000, ngàn người Việt Nam trong sách lược cướp của giết ngươi ngụy trang dưới chiêu bài cải cách ruộng đất 1954-1957. và gần 5000 đồng bào ta ở Huế trong tết Mậu Thân. Cũng chính tập đoàn này đã gây ra cuộc hiến thảm khốc tại miền nam Việt Nam . Rồi đẩy hàng triệu người dân Việt bỏ nhà, bỏ nước ra đi. Khiến hàng trăm ngàn ngưòi bị chôn vùi dưới lòng đại dương.

6. Rồi tập đoàn Việt cộng hậu Hồ chí Minh là Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Phan văn Khải, Võ văn Kiệt thì đã cúc cung tận tụy làm nô lệ cho Tàu và chúng dám bán đất, bán bờ biển của Việt Nam cho Trung cộng qua hai hiệp thương và hiệp định biên giới 12-1999 và 12/2000.

7. Đồ đệ của Hồ Chí Phèo thì bịt miệng công lý, bịt miệng Linh Mục Nguyễn văn Lý giữa công đường. Tạo ra được một bức hình làm ô nhục toàn thể dân tộc Việt Nam . Người Việt Nam ngửa mặt lên làm sao được khi tấm hình này đã được truyền đi, và còn xây dựng trên những bức tường cao ở các thành phố hải ngoại cho nhân dân thế giới chiêm ngưỡng. Có ai không lên án, rồi kinh tởm cái dã man của cái chế độ Việt cộng này?

8. Rồi những kẻ có tài cầm búa, nhiễu loạn nhân tâm như Nguyễn thế Thảo, Hoàng công Khôi, Nguyễn đức Nhanh ở Hà Nội, Hoàn Kiếm thì tạo ra được những văn thư không thuộc thế giới loài ngươi, chúng nhân danh đảng và nhà nước Việt cộng để hù đọa và đưa bọn bất lương đến đập phá nhà cửa của lương dân và bạo hành nhân tâm con người Công Lý. Ấy là chưa kể đến những lau nhau ăn theo từ các cơ quan truyền thông, báo chí truyền hình, đài phát thanh. Chúng tự chà đạp và phi báng nhân phẩm, nhân tâm của chúng bằng cách cắt xén lời Công Lý, và hô hoán hỗ trợ cho cuộc bạo hành vô đạo này.

9. Hơn thế, đảng và nhà nước Việt cộng sau gần 6 thập niên cầm quyền đã tạo ra được một xã hội không còn biết đến sự thật, lời thật là gì. “ngày nay chúng tôi phải nói dối nhau mà sống …. Trần quốc Thuận, phó chủ nhiệm quốc hội Việt cộng, khoá X” rồi “người ta nói dối lem lẻm, nói dối ở mọi nơi và mọi lúc … Nguyễn Khải, nhà văn nhớn của chế độ việt cộng” Bấy nhiêu vẫn chưa đủ, chúng còn thi nhau tạo ra một xã hội không còn luân thường đạo lý. Vào cửa quan chỉ gặp trộm cướp. Ra đường thì gặp toàn công an bất lương. Vào trường học thì ma cô bất lương hành nghề gạ tình lấy điểm, tung hoành. Người Dân lành trên khắp cả nước thì trở thành những dân oan lang thang đi đòi nhà đòi đất! Độc Lập ở đâu, Tự Do, Dân Chủ và Hạnh Phúc ở đâu? Ấy la chưa kể đến biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam bị chúng bán ra ngoại quốc để làm nô lệ tình dục cho khắp năm châu

Đấy là một số thành tích vẻ vang của nhà nước Việt cộng trong mấy chục năm qua tạo ra. Nhìn vào bảng thành tích này, Ai ? Ai? Và những ai nữa dám hãnh diện, dám tự hào về những hành động bất lương, vô luân của nhà cầm quyền Việt cộng?

Câu trả lời rõ ràng và dứt khoát là:

- Ngoài những cán cộng của Việt cộng và bọn việt gian ra, không một ngưòi Việt Nam nào dám hãnh diện, dám ngửa mặt lên vì những hành động dã nhân của nhà nước Việt cộng này.

Nói cách khác, toàn thể dân tộc Việt Nam là những ngưòi có lòng tự hào, có lòng tự trọng dân tộc đều thấy tủi hổ và nhục nhã vì cái hộ chiếu của mình do nhà nước Việt cộng cấp phát, nhưng đành phải ngậm đắng qua ngày.

Như thế, lòng tự trọng của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đã biểu lộ một cách toàn bích khi Ngài công khai nói trước cuộc họp của cái gọi là chủ toạ đoàn của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Lời ấy không chỉ được nói trong cuộc họp, nhưng đã truyền đi trong cả nước, ra hải ngoại, toàn thể nhân dân đã nức lòng vì lời công tâm ấy. Như thế. lời lẽ ấy không chỉ biểu lộ sự nghiêm minh của lòng tự hào dân tộc. Nhưng còn là một bản án cho những hành động vô đạo lý do chế độ này tạo ra. Chúng phải chịu trách nhiệm vì đã làm ô nhục tiền nhân, cũng như danh dự của người Việt Nam .

Nói cách khác, Đó là lời Công Lý, ngài nói thay cho toàn dân Việt. Toàn thể dân tộc Việt Nam hãnh diện và biết ơn tấm lòng tự trọng và qủa cảm ấy.

- Nhưng tại sao Việt cộng lại lên án Ngài?

- Việt cộng lên án Ngài vì Những kẻ sống trong gian dối vô đạo, không bao giờ dám nghe, chứ đừng nói chi đến việc chúng sẽ chấp nhận lời Công Lý. Vì chúng u mê bảo vệ sự vô đạo nên phải lên án Công Lý.

- Vì sợ tiếng nói Công Lý sẽ bùng nổ trên cả nước và sợ nhân tâm sẽ quy về Ngài để đứng lên đòi lại công Lý, đòi lại Tự Do. Và vì phát xuất từ một nền văn hóa thấp hèn, suy đồi về đạo đức luân lý gia đình, không có nền tảng xã hội, lớp cán cộng không thể hiểu nổi lòng tự hào và tự trọng của dân tộc mang ý nghĩa gì? Chính vì sự không có hiểu biết này, nhà nước Việt cộng đã cắt xén lời nói của Ngài trên hệ thống phát thanh, trên truyền hình, báo chí rồi khích động, đưa những quân bất lương đến đập phá hàng rào đất đai của toà Giám Mục và của Thái Hà và cuồng loạn trong mưu đồ bôi nhọ một hình ảnh kiệt xuất trong tự hào của Việt Nam.

Tuy nhiên, ngày nay dân ta đã hiểu thế nào là Công Lý, thế nào là vô đạo. Nên chỉ có mình nhà nước Việt cộng và hệ thống của chnúg hãnh diện và tự hào về những hành động cuồng bạo, bất nhân vô đạo lý của họ. Toàn dân ta thì không.

Thật vậy, càng nhìn, càng đọc, càng thấy chúng diễn xuất trọn vẹn vai trò Chí Phèo của Nam Cao. Chỉ khác là thằng Chí Phèo không làm lãnh đạo và tiếc rằng, tác giả Nam Cao đã viết xong câu chuyện của Chí Phèo vào năm 1941 nên đã không ghi cho Chí Phèo cái họ Hồ! Nếu ông viết trễ mấy năm, cái kết chắc phãi khác?

Dầu vậy, bao lâu ánh nắng của mặt trời còn chiếu dọi trên đấu thì bấy lâu Công Lý còn hiện diện và người bước đi trong công lý luôn hân hoan và vui mừng. Và Ngày Vui Mừng của con dân Việt đã nằm trong tầm tay rồi.

Bảo Giang


Sunday, October 12, 2008

Không ai có thể chứng minh Nguyễn Chí Thiện là giả tập thơ “Hoa Ðịa Ngục”

Không ai có thể chứng minh Nguyễn Chí Thiện là tác Giả tập thơ "Hoa Địa Ngục", ngoài Nguyễn Chí Thiện


Sơn Tùng


Cuộc tranh cãi lại đang bùng lên chung quanh đề tài “Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả”, một cuộc tranh cãi dai dẳng kéo dài từ năm 1995, sau khi ông Nguyễn Chí Thiện đặt chân lên nước Mỹ.

Trong 13 năm qua, người Việt hải ngoại đã tốn khá nhiều thì giờ và giấy mực mà cho đến nay, vấn đề “Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả” vẫn chưa ngã ngũ, chưa đi đến đâu, và vẫn chưa thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ðúng như lời của chính ông Nguyễn Chí Thiện - những ai tin thì đã tin rồi, còn những người không tin thì vẫn tiếp tục không tin. Không ai thuyết phục được ai. Bên chống vẫn tiếp tục chống và bên bênh vẫn tiếp tục bênh.


Vì sao?


Vì cả hai bên đều không có những bằng chứng vật chất hay nhân chứng khả tín. Tất cả lập luận của hai bên đều dựa trên suy đoán hay căn cứ vào lời kể của đệ tam nhân.


Nói chung, bên không tin ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục gồm ba nhóm với những lập luận như sau:


1. Ông Nguyễn Chí Thiện đã ăn cắp những bài thơ của Thái Dịch Lý Ðông A, lãnh tụ Ðảng Duy Dân trước kia.

2. Ông Nguyễn Chí Thiện đã chiếm đoạ t những bài thơ của một người nào đó từng ở tù chung với ông ta tại Bắc Việt mà người ấy, tức tác giả thật, đã chết trong tù.

3. Nguyễn Chí Thiện đã được CSVN đưa ra nhận là tác giả tập thơ “Hoa Ðịa Ngục” sau khi tác giả thật đã đem bản thảo tập thơ vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội và bị công an CSVN thủ tiêu.


Lập luận thứ nhất do ông Lê Tư Vinh, lãnh đạo Ðảng Duy Dân ở Virginia, nêu lên nhưng đã không đưa ra được chứng từ nào cho thấy có liên hệ giữa Lý Ðông A và những bài thơ trong Hoa Ðịa Ngục.


Lập luận thứ hai và thứ ba được nhiều người nói đến, nhưng cho đến nay cũng không chứng minh được “tác giả thật sự” là ai mà chỉ nêu lên những nghi vấn và sự mâu thuẫn giữa những bài thơ trong Hoa Ðịa Ngục và thân thế, cuộc sống hiện nay của ông Nguyễn Chí Thiện để suy đoán rằng ông ta không phải là tác giả của tập thơ Hoa Ðịa Ngục.


Những lập luận và suy đoán của những người này không phải là vô lý nhưng đã không đưa ra được bằng cớ về sự hiện hữu của “tác giả thật sự” ấy. Nếu “tác giả thật sự” ấy đã có mặt trên đời thì khó mà tin rằng người ấy không có thân nhân, bạn hữu để đứng ra tố cáo – như trường hợp hai chi em Nông Thị Xuân, Nông Thị Vàng bi thủ tiệu sau khi được đưa tới Hà-nội “phục vụ” Hồ Chí Minh. “Tác giả thật sự” ấy không thể biến đi khỏi mặt đất này mà không để lại dấu vết gì, và không có ai hay biết, nhất là qua những năm làm thơ trong tù chắc chắn phải quen biết nhiều người.


Nhưng ngược lại, ông Nguyễn Chí Thiện, ngoài những lý lẽ để trả lời các thắc mắc, cũng không đưa ra được bằng chứng cho thấy chính ông là người đã đưa tập bản thảo Hoa Ðịa Ngục vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội ngày 16-7-1979 như lời tự thuật của ông. Không có nhân viên nào ở Bộ Ngoại Giao Anh từng phục vụ tại tòa đại sứ ở Hà-nội năm 1979 xác nhận Nguyễn Chí Thiện chính là người đã xâm nhập khuôn viên tòa đại sứ và đưa cho họ tập thơ Hoa Ðịa Ngục. Và tập thơ nằm ở Bộ Ngoại Giao Anh cũng chưa bao giờ được giảo nghiệm dấu tay để xem có dấu tay ông Nguyễn Chí Thiện trong đó không, vì nếu chính Nguyễn Chí Thiện đã chép tay tập bản thảo ấy và cầm vào tòa đại sứ Anh, như lời thuật của ông, thì không thể không có dấu tay ông trong đó.


Tôi đã nói điều này với Nguyễn Chí Thiện trong dịp ông sang Vùng Hoa Thịnh Ðốn vào tháng 6 năm 2006 để ra mắt tập Hoa Ðịa Ngục do Tổ Hợp Miền Ðông tái bản, và tôi đã đề nghị ông làm chứng thư (affidavit) ủy nhiệm cho tôi để liên lạc với Bộ Ngoại Giao Anh tìm tập bản thảo và giảo nghiệm dấu tay. Ðây là bước đầu tiên để xác định Nguyễn Chí Thiện có phải là người đã mang tập bản thảo vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội hay không.


Tôi cũng cho ông Nguyễn Chí Thiện biết tôi sẽ làm việc này một cách khách quan và sau đó sẽ điều tra thêm để viết một tài liệu về vụ này hầu làm sáng tỏ một “nghi án” về văn học và chính trị quan trọng vì tập thơ đã vào văn học sử và Nguyễn Chí Thiện đã trở thành một khuôn mặt văn học và chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại.


Ðể việc giảo nghiệm dấu tay có giá trị, tôi cho ông Nguyễn Chí Thiện biết khi Bộ Ngoại Giao Anh đồng ý giao tập bản thảo, tôi sẽ nhờ một văn phòng luật sư ở London tiếp xúc với Bộ Ngoại Giao để nhận tập bản thảo, lập biên bản, và đưa đi giảo nghiệm. Cho đến khi việc giảo nghiệm có kết quả, ông Nguyễn Chí Thiện không được đụng tay vào tập bản thảo. Ông Nguyễn Chí Thiện đồng ý như vậy và đã làm “Affidavit”, thị thực chữ ký ngày 21.6.2006, ủy nhiệm cho tôi làm công việc nói trên.


Ngày 26.6.2006, tôi đã gửi thư cho Bà Bộ trưởng Ngoại giao Anh Margaret Beckett để yêu cầu được tiến hành việc giảo nghiệm tìm dấu tay ông Nguyễn Chí Thiện trên tập thơ đã được đưa vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội ngày 16.7.1979.


Nên biết gần 30 năm đã trôi qua kể từ ngày bản thảo tập thơ Hoa Ðịa Ngục được tác giả đưa vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội, sau đó được chuyển về Bộ Ngoại Giao Anh ở London, và rồi một phóng ảnh của tập thơ đã được chuyển đến ban Việt ngữ đài BBC và sau đó đến bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong tại Virginia, Hoa Kỳ, do ông Nguyễn Thanh Hoàng làm chủ nhiệm.


Trên phóng ảnh tập bản thảo viết tay được chuyển đến Văn Nghệ Tiền Phong không có tên tác giả mà cũng không có nhan đề, nên khi xuất bản tập thơ đã được đặt tên là “Bản Chúc Thư của Một Người Việt Nam” và tác giả được ghi là “Khuyết Danh”. Một ấn bản khác lại được đặt tên là “Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực”, và cũng không có tên tác giả.


Cho đến khi ông Nguyễn Chí Thiện ra tù và nhận là tác giả, tập thơ mới có tên tác giả là Nguyễn Chí Thiện và được mang tựa đề là “Hoa Ðịa Ngục”, sau đó được dịch ra tiếng Anh là “Flowers from Hell”, cùng vài ngôn ngữ khác như Pháp, Nhật, Ðức, Triều Tiên...


Khi ông Nguyễn Chí Thiện sang Mỹ vào tháng 11.1995, ông đã được cộng đồng người Việt tại đây đón tiếp nồng nhiệt. Sau đó ông cũng đã được nhiều cộng đồng người Việt tị nạn ở khắp nơi mời tới ra mắt với tư cách là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục và được mọi người ngưỡng mộ. Nhưng cũng từ đó, vấn đề “Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả” được đặt ra và được tranh cãi cho đến nay.


Nhưng cũng cho đến nay, chưa có vụ tranh tụng nào trước pháp luật liên quan đến tác quyền tập thơ Hoa Ðịa Ngục trong khi nó đã được ông Nguyễn Chí Thiện xuất bản và tái bản, đã đăng ký bản quyền tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Do đó, cuộc tranh cãi mang tính chất chính trị và văn học hơn là pháp lý.


Còn đối với ông Nguyễn Chí Thiện, cuộc tranh cãi chỉ là một vấn đề danh dự. Và chỉ có Nguyễn Chí Thiện mới có thể chứng minh chính ông là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục để chấm dứt mọi nghi ngờ, bảo toàn danh dự cho ông.


Có lẽ cũng nghĩ như vậy nên năm 2006 ông Nguyễn Chí Thiện đã muốn tôi giúp ông làm sáng tỏ sự thật, và tôi cũng muốn thực hiện một cuộc điều tra khách quan và khoa học để chấm dứt một “nghi án” văn học trong cộng đồng người Việt hải ngoại – khởi đầu với việc giảo nghiệm dấu tay trên tập bản thảo.


Nhưng sau gần 30 năm, số phận tập bản thảo nguyên thủy là điều rất đáng lo ngại. Liệu nó có còn được lưu giữ tại Bộ Ngoại Giao Anh? Và nếu còn, nó đang nằm nơi xó xỉnh nào và do ai trách nhiệm? Hiển nhiên, tập bản thảo không phải là một tài liệu quan trọng cần được xếp hạng và lưu giữ giữa hàng triệu giấy tờ, hồ sơ của Bộ Ngoại Giao Anh. Có thể nó đã bị thất lạc vì không ai có trách nhiệm lưu giữ.


Sự lo ngại của tôi về sau đã chứng tỏ là không xa sự thật. Sau mấy tháng không nhận được hồi âm của Bộ Ngoại Giao Anh, tôi nhờ một người bạn tại Virginia dò hỏi vì ông có liên hệ hoạt động về nhân quyền với tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) ở London. Không bao lâu sau, vào giữa tháng 12.2006, người bạn chuyển cho tôi e-mail của một viên chức tại tổ chức Ân Xá Quốc Tế báo tin đã tiếp xúc với ông Nick Alexander, Trưởng Ban Mekong và Miến Ðiện thuộc Nhóm Ðông Nam Á và Thái Bình Dương tại Bộ Ngoại Giao Anh. Ông Alexander cho biết đã có nhiều người hỏi về tập thơ, và ông cho số điện thoại với đề nghị Nguyễn Chí Thiện gọi cho ông ta, nếu muốn hỏi về tập thơ. Tôi đã chuyển ngay những tin tức này cho ông Nguyễn Chí Thiện.


Về sau, tôi được Nguyễn Chí Thiện cho biết ông đã gọi nói chuyện với ông Alexander và ông ta cũng không biết tập thơ ở đâu, và nói rằng nếu ông Thiện biết tập thơ đang do ai giữ thì cho ông ta biết!


Ðúng như tôi lo ngại, tập bản thảo đã bị thất lạc. Bô Ngoại Giao Anh không thấy cần phải lưu giữ tập bản thảo sau khi đã làm theo yêu cầu của tác giả là phổ biến ra ngoài Việt Nam. Người Anh không biết đến cuộc tranh cãi trong cộng đồng người Việt hải ngoại chung quanh tập thơ.


Bẵng đi hơn một năm không có tin gì thêm về tập bản thảo, bỗng vào tháng 4.2008, tôi được ông Nguyễn Chí Thiện cho biết ông đã nhận được tập bản thảo do vợ một nhà văn người Anh gửi tới. Theo lời ông Thiện, nhà văn này (tôi quên tên) vừa qua đời, bà vợ trong khi dọn dẹp kho sách của chồng đã thấy tập bản thảo nên tìm cách liên lạc với ông để trả lại. Cũng theo lời Nguyễn Chí Thiện, ông đã yêu cầu bà vợ nhà văn Anh gửi tập bản thảo cho ông Ðinh Quang Anh Thái, một nhà báo quen thân với ông tại Orange County, California. Khi nhận được tập bản thảo, ông Thái đã bóc ra, sau đó giao lại cho ông Nguyễn Chí Thiện. Ông Thiện cho biết ông Thái không chịu cất giữ, vì sợ thất lạc.


Vào đầu tháng 8 vừa qua, trong dịp sang Virginia, ông Nguyễn Chí Thiện ngỏ ý muốn tôi thực hiện việc giảo nghiệm dấu tay và chữ viết trên tập bản thảo. Tôi đã từ chối, cả vì lý lẫn vì tình.


Về lý, ông Nguyễn Chí Thiện đã nhận và giữ tập bản thảo, nó không còn giá trị để giảo nghiệm dấu tay nữa. Nó đã bị “ô nhiễm” (contaminated), theo cách gọi của khoa học hình sự. Tôi không rõ với tiến bộ khoa học hiện nay, các chuyên viên giảo nghiệm có thể phân biệt được dấu tay mới với dấu tay 30 năm về trước hay không, nhưng dù sao vai trò của tôi cũng không còn cần thiết nữa khi ông Nguyễn Chí Thiện đã cầm trong tay tập bản thảo.


Về tình, năm 2006 ông Nguyễn Chí Thiện đã làm chứng thư ủy nhiệm cho tôi liên lạc với Bộ Ngoại Giao Anh tìm bản thảo tập thơ để giảo nghiệm dấu tay. Tôi đã tiến hành công việc một cách nghiêm túc. Khi được tin về tập bản thảo, thay vì báo cho tôi, ông Thiện lại tự quyết định gửi tập thơ cho người khác. Hành động này, dù suy diễn cách nào cũng cho thấy ông Nguyễn Chí Thiện đã chấm dứt sự ủy nhiệm đối với tôi.


Hành động của ông Nguyễn Chí Thiện có thể đưa tới nhiều suy đoán, nhưng kết quả vẫn là ông đã bỏ lỡ một cơ hội “có một không hai” để chứng minh ông chính là người đã cầm tập bản thảo “Hoa Ðịa Ngục” vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội ngày 16.7.1979.


Tôi đã đề nghị với ông Nguyễn Chí Thiện, nay đang có tập bản thảo trong tay, nên tự tiến hành việc giảo nghiệm chữ viết và tìm dấu tay, nếu có thể phân biệt dấu tay mới và dấu tay 30 năm trước.


Chỉ cách đó mới có bằng chứng vật chất để bác bỏ suy đoán của những người nói rằng Nguyễn Chí Thiện không phải là người cầm tập bản thảo vào tòa đại sứ Anh ở Hà-nội năm 1979. Nếu không làm được như vậy, suy đoán này vẫn còn tiếp tục được nói đến mà không ai có thể dứt khoát bác bỏ.


Trong những lần nói chuyện với tôi trước đây, ông Nguyễn Chí Thiện cho biết khi trao tập bản thảo cho nhân viên tòa đại sứ Anh, ông có viết nhan đề tập thơ là “Hoa Ðịa Ngục” và tên ông cùng địa chỉ trên một tờ giấy kèm vào tập thơ. Rất tiếc cho đến nay, không có ai đủ thẩm quyền để xác định có tờ giấy ấy và giải thích vì sao tờ giấy ấy không còn trong tập bản thảo.


Trước những nghi ngờ và tranh cãi đang diễn ra, việc “Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả” đã trở thành một “nghi án” văn học và chính trị, và tạo chia rẽ trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Mặt khác, tuy việc nghi ngờ không trực tiếp đe dọa tác quyền của ông Nguyễn Chí Thiện trên tập thơ Hoa Ðịa Ngục, không thể chối cãi việc ấy đã gây phiền nhiễu cho ông và làm tổn thương danh dự của ông.


Một số người đặt câu hỏi rằng tại sao Nguyễn Chí Thiện không viết hồi ký, một việc ông có thể làm để sự thật được sáng tỏ. Với quá khứ nhiều biến cố và tư thế hiện nay của ông Nguyễn Chí Thiện, cuốn hồi ký của ông sẽ là một tác phẩm bán chạy, và là một tài liệu ghi lại những diễn biến của đời ông liên quan đến quá trình sáng tác tập thơ Hoa Ðịa Ngục mà mọi người có thể dùng để so chiếu, tìm hiểu sự thật.


Trong những lần gặp gỡ trước đây, vài người quen khuyên ông Nguyễn Chí Thiện nên viết một cuốn hồi ký. Ông đồng ý, nhưng đến nay tôi không được biết ông có viết hay không.


Nếu ông không viết là một điều rất đáng tiếc, vì đó là cơ hội có thể là cuối cùng để ông tự chứng minh là “Nguyễn Chí Thiện thật”, và là tác giả của tập thơ “Hoa Ðịa Ngục”.


Sơn Tùng





Friday, October 10, 2008

Thông Báo của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney



Thông Báo

  • V/V BIỂU TÌNH TẠI CANBERRA NGÀY 13/10/2008

  • Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney trân trọng thông báo:

    1. Cộng Đồng CGVN Tổng Giáo Phận Sydney hoàn toàn ủng hộ và đồng hành với Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu để cùng biểu tình vàoThứ Hai ngày 13.10.2008 tại Canberra, đòi hỏi Thủ Tướng và nhà cầm quyền CSVN chấm dứt những hành vi đàn áp tôn giáo và vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt qua sự kiện Toà Khâm Sứ và Giáo Xứ Thái Hà Hà Nội.

    2. Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney tha thiết kêu gọi anh chị em CĐCGVN nói riêng và quý Đồng Hương nói chung tích cực tham gia cuộc biểu tình chính đáng này. Các phương tiện thuận lợi di chuyển đến Canberra sẽ được thông báo chi tiết trong các Thánh Lễ cuối tuần này, và CĐ sẽ sắp xếp các xe Bus tại các Nhà Thờ Bankstown, Cabramatta, Lakemba, Marrickville, Miller, Mt Pritchard, và Revesby.

    3. Để hỗ trợ tích cực cho cuộc biểu tình chính đáng này, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney sẽ dời Ngày Hành Hương truyền thống ngày 13.10.2008 lên Chúa Nhật ngày 12.10.2008, để anh chị em tích cực tham gia ngày biểu tình 13.10.2008 tại Canberra. Ngày Hành Hương 12.10.2008 sẽ bắt đầu như thường lệ vào lúc 10.15 sáng Chúa Nhật, để cầu nguyện cho Hoà Bình, Công Lý, và Nhân Quyền cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam.

    Trân trọng kính mời toàn thể anh chị em trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam và Quý Vị Đồng Hương tích cực tham gia cuộc biểu tình nói trên, như một trách nhiệm với quê hương và dân tộc của Người Việt Nam Tỵ Nạn, để tranh đấu cho Hoà Bình, Công Lý, và nhân quyền, nhất là Hiệp Thông với Tổng Giáo Phận Hà Nội và Giáo Xứ Thái Hà.

    Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney
    10.10.2008.

    Quyền-Lợi và Trách-Nhiệm


    Thanh Thủy


    Thành phần Chú-Thích của chương Kết-Luận trong quyển Can-Trường Trong Chiến Bại của Phó Đề-Đốc Hồ-Văn Kỳ-Thoại, tác-giã có viết lại lời của Gs.Nguyễn-Ngọc-Huy như sau: ”Giữa người và người mới có tình-cảm, mới có yêu thương mới có phản bội, giữa quốc gia và quốc gia chỉ có quyền lợi quốc gia, chớ không có tình cảm”.

    Câu nói trên của Gs. Nguyễn-Ngọc-Huy tưởng là 2 mệnh-đề khác nhau, nhưng thực ra chỉ là một, tất cả đều là Quyền-Lợi, có điều khác biệt là giữa con người với nhau, được hành sử theo Quyền-Lợi Riêng, còn giữa quốc-gia với nhau, được hành sử theo Quyền-Lợi Riêng rộng lớn hơn của mỗi quốc-gia và quyền-lợi riêng của mỗi quốc.gia chính là Quyền-Lợi Chung của mỗi quốc-gia đó.

    Con người trời sanh ra vốn mang tách-chất ích-kỹ, cho nên muốn dành quyền-lợi cho mình và vì có tình-cảm, có yêu-thương cho nên những quyền-lợi muốn dành cho những thân-nhân của mình, xa hơn nữa là cho cơ-sở, cho tổ-chức, phe nhóm của mình, vì thế mới có phản-bội, tạo nên chia rẽ tổ-chức, phân-hóa đoàn thể. Tất cả những thứ đó đều là quyền-lợi riêng, còn đối với quốc gia, chỉ có một quyền-lợi tối thương là quyền-lợi quốc-gia dân-tộc, đó là quyền-lợi chung của mỗi quốc-gia mà người lãnh-đạo quốc-gia yêu nước thật sự không bao giờ đem dâng hiến hay chia sẻ cho quốc-gia khác.

    Giữa con người với nhau thì quyền-lợi riêng lúc nào cũng ở trước mặt, là thực-tế của cuộc sống hàng ngày. Con người luôn bị bon chen trong cái quyền-lợi thực-tế và trước mặt đó cho nên luôn bị quay cuồn trong vòng xoáy của thời cuộc, của lợi-danh, của những ham-muốn, của những cám-dỗ chung-quanh cho nên thông thường càng lúc càng xa rời lý-tưởng lúc ban đầu, quay mặt với bạn bè, xoay lưng với đoàn-thể, phản-phúc với chiến-hữu, với anh em.

    Từ khi vượt thoát khỏi vòng kìm-tỏa của bạo-quyền Cộng-sản Hà-nội, sang đến bến-bờ tự-do, ai cũng ấp-ủ trong lòng một ngọn lửa đấu-tranh, hận-thù tập-đoàn Cộng-sản Việt-Nam đã cam tâm làm tay sai cho Cộng-sản Nga-Hoa, phản dân, hại nước, giết hại đồng-bào, nên ai cũng quyết tâm nuôi dưỡng lý-tưởng đánh-đổ bạo-quyền Cộng-sản để quang-phục lại quê-hương.

    Từ những ngày đầu của năm 1980, những tổ-chức, những phong-trào chống Cộng thi nhau ra đời đều đã được sự hưởng-ứng nồng-nhiệt của mọi người và ngọn lửa đấu-tranh luôn luôn sôi sụt khắp nơi ở hải ngoại. Nhưng từ khi bạo-quyền bắt đầu nới lỏng kinh-tế để cứu nguy chế-độ, cho phép người Việt ở hải-ngoại được đem tiền về thăm quê nhà, thì làn sóng “Áo Gấm Về Làng” và những tổ-chức tranh-đấu “Cuội” do Việt-cộng và do những người vô liêm-sĩ dựng lên để “Làm Tiền” đã dần dần làm nghiêng đi cán cân tranh-đấu. Tai-hại đầu tiên là tạo lý-do để Cao-Ủy Tị-Nạn Liên-Hiệp-Quốc và lòng nhân-đạo của thế-giới quay lưng với hàng trăm ngàn đồng-bào còn đang bị kẹt trong các trại tị-nạn ở Hồng-Kông, Thái-Lan, Mã-Lai, Nam-Dương …, và bao nhiêu thảm-cảnh thường xuyên xảy ra công-khai trên biển Đông, trên đường bộ của những người đi sau.

    Nhiều nhà tranh-đấu chân-chánh thời bấy giờ đã không ngớt lên tiếng kêu gọi đến lương-tâm của mọi người, nhưng đều vô-ích vì quyền-lợi riêng đã làm mờ mắt tất cả, thậm chí một số người còn mang tiền về làm ăn, bị lừa-đảo bỏ của chạy thoát thân mà vẫn chưa sáng mắt! Một vài tướng-lãnh và một số người có chức-quyền thời Việt-Nam Cộng-Hòa cũng a-dua “Áo Gấm Về Làng” một cách ô-nhục, chẳng những thế mà còn nghe theo Việt-cộng tuyên-bố trên đài phát-thanh những điều bất lợi cho Cộng-Đồng tranh-đấu ở hải-ngoại, tất cả cũng chỉ vì quyền lợi riêng. Thật là mai-mỉa!

    Vào tháng 5 năm 1983, ông nhạc-sĩ già thời-danh đang ở Mỹ cùng với người con dâu mang đờn đi khắp nơi và sang các quốc-gia tự-do ở Âu-Châu hát với chủ-đề “Hát Cho Nhân-Quyền” rất được người Việt tị-nạn hoan-nghinh và mua ủng-hộ hết số băng cassette mà ông mang theo.

    Trong một ca khúc mà ông hát, có đoạn hàm ý nói: Thời tiền-sử, loài vượn phải mất bao nhiêu triệu năm để trở thành người, còn với Cộng-sản thì chỉ cần ba năm, hay ba ngày thôi, họ biến con người trở thành loài vượn. Ông hát câu nầy một cách say-mê trước những tràng pháo tay và lòng thổn-thức của bao nhiêu khán-giả.

    Nhưng, sau nầy ông đã tự-nguyện trở về sống với bạo-quyền, có lẽ ông chán cuộc sống của loài người và muốn được bọn Cộng-sản nhanh chóng biến ông thành loài vượn như ông đã hát hay là ông đã quên đi câu hát để quay lưng với niềm thương yêu của đồng-bào đã một thời dành cho ông? Tất cả đều chỉ là quyền-lợi riêng, không những ông, mà hầu như cả gia-đình ông đều như thế: “Sống chết mặc ai, tiền tao bỏ túi”.

    Thời Việt-Nam Cộng-Hòa, nhiều cấp lãnh-đạo quốc-gia cũng vì lo củng-cố cho quyền-lợi riêng mà không làm tròn bổn-phận với quốc-dân, với quân-đội trong thời chiến để cho Việt-cộng từ Bắc tràn xuống xăm-lăng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta mất nước vào tay giặc Cộng, quyền-lợi chung của quốc-gia, dân-tộc là quyền tự-do, dân-chủ đều bị tước-đoạt tất cả.

    Như những gì chúng ta được chứng-kiến sau đó, khi quyền-lợi chung bị tước-đoạt thì tất cả mọi người dân đều trở thành tay trắng, quyền-lợi riêng chẳng những không giữ được mà ngay cả bản-thân cũng không được an-toàn, nhanh chân chạy thoát nạn được đã là điều may.

    Từ bao nhiêu năm nay, nếu người Việt ở hải-ngoại không ồ-ạt “Áo Gấm Về Làng”, không mang tiền của về cứu chế-độ Cộng-sản, và một số người tranh-đấu không vì quyền-lợi riêng mà biến-chất làm rạn-nức đoàn-thể, phân-hóa tổ-chức thì chắc-chắn là bạo-quyền Việt-cộng không thể còn tồn-tại cho đến ngày nay và đất nước chúng ta chắc chắn đã được quang-phục từ lâu, tự-do, dân-chủ đã được phục-hồi, mọi người Việt chúng ta đều được quyền đem khả năng và tài sức của mình về xây-dựng lại quê-hương mỗi ngày một thêm giàu mạnh. Chúng ta đều được tự-do đi về mà không phải lo sợ cúi đầu một cách nhục-nhã khi bước qua cửa khẩu như hiện nay. Quyền-Lợi Riêng của mọi người đều được tôn-trọng và thăng-hoa trong Quyền-Lợi Chung tối-thượng của đất nước.

    Lời nói trên của Gs.Nguyễn-Ngọc-Huy tuy ngắn-ngủi, nhưng chất chứa một nhắn-nhủ tâm-huyết: ”Quyền-Lợi Chung của quốc-gia, nếu mình không lo thì không có quốc-gia nào đứng ra lo cho mình, và một khi Quyền-Lợi Chung bị mất thì tất cả mọi Quyền-Lợi Riêng cũng đều bị mất theo”.

    Hơn một ngàn năm đất nước chúng ta bị giặc Tàu đô-hộ và một trăm năm bị thực-dân Pháp xăm chiếm đã chứng-minh lời nói trên: qua đó, người Việt-Nam không còn gì hết, tài nguyên quốc-gia bị chiếm mất, tài-sản tiêu-tan, dân tình sống triền-miên trong cảnh lầm-thang khốn-khổ và giờ đây, dưới ách thống-trị của bạo-quyền Việt-cộng, tình-cảnh còn thê-thãm hơn nhiều.

    Những kẻ thường hay “Áo Gấm Về Làng” có khi nào dành được một phút suy-tư để nhận thấy trách nhiệm của mình đối với niềm đau thương dai-dẳng của dân-tộc từ hơn ba chục năm nay không? Có thấy hổ-thẹn với những Trần-Văn-Bá, với những Lê-Quốc-Quân, với những Hồ-Thái-Bạch không? Và suy cho cùng, xem lại mình có phải là một tội-đồ không? vì đã tiếp tay để cứu sống một chế-độ phi-nhân của bạo-quyền ở Bắc-bộ-phủ để chúng tiếp-tục gieo-rắc tang-thương cho dân-tộc, bóc-lột nhân-dân, tham-nhũng tột cùng, cướp đất, cướp nhà, cướp chùa, cướp nhà thờ của những kẻ tu-hành, cướp ruộng vườn của dân để bán buôn, khai-thác thương-mại, làm của riêng, sanh ra những phong-trào Dân Oan Khiếu-Kiện ở khắp nơi, sanh ra những cuộc tranh-đấu đòi lại tài-sản của Tòa Khâm-Sứ, của giáo-xứ Thái Hà, của Giáo-Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống-Nhứt,v.v… và tàn-tệ nhứt là vụ hiến đất, dâng biển cho ngoại bang.

    Có lẽ hỏi là đã tự trả lời và ước-mong sao mỗi người trong chúng ta cần phải có những hành-sử với chính mình sao cho được thích-nghi.

    Cám ơn Phó Đề-Đốc Hồ-Văn-Kỳ-Thoại đã ghi lại những điều đáng được ghi nhớ.

    Thanh-Thủy (09/10/2008)


    Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ Sỹ là đầu mối ly khai của một số Tăng sĩ ở hải ngoại hiện nay

    Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức

    Bài viết "Mưu đồ của Thẩy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN" từ Huế gửi ra mà chúng tôi đăng tải dưới đây, là những dữ liệu làm sáng tỏ sự dương đông kích tây của các nhóm Thân hữu Già Lam, Về Nguồn, Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại đang tìm cách phân liệt cộng đồng Phật giáo từ nhiều năm qua.

    Động loạn khởi đầu khi Giáo chỉ số 2 của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 29.11.2005 về việc công cử thành phần nhân sự của Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Do Thượng tọa Tuệ Sỹ có những hành động chống phá đường hướng cố hữu của GHPGVNTN, và do Thượng tọa viết đơn xin từ chức, nên tên Thượng tọa không còn trong thành phần nhân sự của Giáo hội trong Giáo chỉ số 2. Thế là những thân hữu và đệ tử của Thượng tọa trong nhóm Thân hữu Già Lam rồi Về Nguồn khởi đầu cuộc phân liệt Giáo hội, mà những người chủ động có thể kể là các Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Thích Quảng Ba, Thích Tâm Hòa, Thích Bổn Đạt, Thích Nguyên Trí, Thích Vân Đàm ..., các Hòa thượng Thích Minh Tâm, Thích Tín Nghĩa, Thích Thắng Hoan, Thích Trí Chơn, v.v... và hai Cư sĩ Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận ...

    Nan đề của nhóm người tranh chấp nói trên được Hòa thượng Minh Tâm nêu ra trong buổi họp của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ ở chùa Diệu Pháp ngày 16.3.2006 là: « Tại sao Giáo chỉ số 2 ban hành mà không hỏi ý kiến họ ? ». Nói theo ngôn ngữ ngoài đời cho dễ hiểu, chẳng khác chi câu hỏi của một vị Tỉnh trưởng nói rằng : « Thông điệp của Tổng thống sao không hỏi ý kiến tôi trước khi phổ biến ?! ». Luận điệu của những vị này trong buổi họp ngày 16.3 đều đoan quyết như đinh đóng cột rằng: Hai Ngài Huyền Quang và Quảng Độ bị bưng bít trong nước nên không biết gì tình hình ở hải ngoại và khắp nơi. Thêm một số người thao túng, lũng đoạn Giáo hội, giả tạo những văn kiện của hai Ngài mà hai ngài không biết ». Trước luận điệu ấy, Hòa thượng Thích Trí Lãng giơ tay phát biểu: « Lâu nay nghe luân lưu những luồng tin như vậy, nên tôi đã điện thoại thỉnh ý Hòa thượng Viện trưởng Thích Quảng Độ và có xin ngài thu băng cuộc điện đàm này. Nay xin đại hội cho phép phát ra cho mọi người cùng nghe ».

    Cuốn băng được phát 90 phút. Lời Hòa thượng Thích Quảng Độ ngược hẳn tất cả những luận điệu mà nhóm tranh chấp thổi phồng bấy nay, kể cả sự kiện Thượng tọa Tuệ Sỹ xin từ chức, hoặc những khi Viện Hóa Đạo có việc nguy biến, cần khẩn, phải họp bàn, thì Thượng tọa « nhập thất » không đến.

    Buổi họp dấy lên như lửa, sau khi nghe cuốn băng thu, liền xuôi êm như nước. Tưởng như được giải quyết ổn thỏa. Nhưng không, nhóm người tranh chấp vẫn tiếp tục tiếng kèn trận thôi thúc: « Tại sao Giáo chỉ số 2 ban hành mà không hỏi ý kiến chúng tôi ? », « Hai Ngài bị bưng bít », « Giáo chỉ giả ...Vân vân và vân vân »...

    Bởi vậy bài viết « Mưu đồ của Thẩy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN » đăng tải dưới đây cho thấy bàn tay và sợi dây từ trong nước đang giật liên hồi ra hải ngoại như một màn Múa Rối Nước :

    Mưu đồ của Thầy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN

    BỐI CẢNH

    1. Lễ Chung Thất Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống:

    Khoảng cuối tháng 7/2008 Môn Đồ Pháp Quyến có xin Giáo Hội cho Môn Đồ Pháp Quyến được chủ động tổ chức Lể

    Chung Thất cho Đức Tăng Thống với mục đích “đền ơn đáp nghĩa”. Nếu lễ Chung Thất do Hội Đồng Lưỡng Viện tổ chức thì sẽ có một số thành phần “cấn cái” không đến tham dự được. Đồng thời Chính Quyền sẽ cản trở Phật Tử đến tham dự vì họ sợ tập trung đông đảo để công bố Di Chúc, Giáo Chỉ như GH đã tuyên bố trong Lễ Nhập Tháp.

    Hoà Thượng Viện Trưởng chấp thuận yêu cầu nói trên và để cho Lể Chung Thất tại Nguyên Thiều do Môn Đồ Pháp Quyến tổ chức được nhẹ nhàng hoàn mãn, Hoà Thượng Viện trưởng quyết định tổ chức Khai Kinh tuần Chung Thất Đức Tăng Thống để công bố Di Chúc và Giáo Chỉ trong lể Lục Tuần ngày 17/8/2008 (17/7/Mậu Tý) đồng thời uỷ quyền Văn phòng II Viện Hóa Đạo tuyên đọc Di Chúc, Giáo Chỉ và cử hành lể Suy Tôn cùng ngày nói trên tại chùa Pháp Luân, Hoa Kỳ.

    Để thực hiện quyết định trên, ngày 17 tháng 8 năm 2008 ( 17/7/Mậu Tý ) Hội Đồng Lưỡng Viện đã tổ chức một phiên họp đặc biệt tại Văn Phòng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN ở Chùa Giác Hoa, đường Nơ Trang Long, Saigon. Phiên họp nầy có hai mục đích chính :

    - Công bố Di Chúc và Giáo Chỉ của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN.

    - Lể Khai Kinh tuần Chung Thất Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN.

    2.Công bố Di Chúc và Giáo Chỉ:

    Theo đề nghị của Hoà Thượng Thích Đức Chơn (Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ, Viện Chủ Tu Viện Quảng Hương Già Lam) là nên công bố Di Chúc và Giáo Chỉ tại Chánh Điện ngay trong lể Khai kinh tuần Chung Thất. Nhưng Hoà Thượng Viện Trưởng giải thích rằng: « Hiện nay Công An đang bao vây dày đặc chung quanh Chùa Giác Hoa, nếu chúng ta đọc trước Chánh Điện họ có thể xông vào chụp giựt, Di Chúc và Giáo Chỉ bị mất hoặc rách nát, buổi lể bất thành mà họ còn rêu rao trên báo đài là “đã phá vỡ được âm mưu của GHPGVNTN » gây hoang mang cho quần chúng Phật Tử thì chẳng ích lợi gì. Cho nên tôi đề nghị chúng ta nên công bố Di Chúc và Giáo Chỉ ngay trong buổi họp trước giờ hành lể, còn lể Khai kinh Tuần Chung Thất chỉ thuần tuý nghi lễ mà thôi.

    Sau khi đọc xong sẽ uỷ nhiệm Văn Phòng II Viện Hoá Đạo công bố chính thức đồng thời làm lể suy tôn trong buổi lể Chung Thất do Văn Phòng II tổ chức tai Chùa Pháp Luân, Hoa Kỳ cùng ngày 17/8/2008.

    SỰ KIỆN:

    Tại phiên họp Hội Đồng Lưỡng Viện sáng ngày 17/8/2008 tại Chùa Giác Hoa, sau khi công bố Di Chúc và Giáo Chỉ của Đức Tăng Thống, Hoà Thượng Thích Đức Chơn nêu ý kiến là trong Di Chúc Đức Tăng Thống kêu gọi hoà hợp, đoàn kết, vậy tại sao GH lại bỏ Thượng Toạ Tuệ Sỹ.

    Thái độ của Hòa Thượng Viện Trưởng

    Hòa Thượng Không Tánh và Thượng Toạ Thanh Quang đứng dậy xin trả lời nhưng Hoà Thượng Viện Trưởng nói rằng: «Không ai hiểu thầy Tuệ Sỹ bằng tôi, cho nên để tôi trả lời cho rõ ràng hơn». Sau đó Ngài nói với HT Đức Chơn: “ Thầy hãy nghe cho kỹ ”:

    a. - Năm 1999 tôi ra thăm Hoà Thượng Huyền Quang, đang bị quản thúc tại Chùa Hội Phước Tỉnh Quảng Ngãi. Cuộc thăm viếng nầy có sự hiện diện của Thầy Hải Tạng. Trong hoàn cảnh tù đày Ngài vô cùng cảm xúc, tôi trình bày lên Ngài công việc của Giáo hội, nhân đó xin Ngài chấp thuận thỉnh cử Thượng Toạ Tuệ Sỹ vào chức vụ Phó Viện Trưởng kiêm Tổng Thơ Ký Viện Hóa Đạo để có người gánh vác công việc Giáo hội trong công cuộc phục hoạt hiện tại. Ngài lắc đầu không đồng ý, Ngài nói, cử một chức Tổng Thư ký thử làm xem sao, chứ cử chi một lần hai chức lớn vậy? Tôi tiếp tục câu chuyện đến hồi vui vẻ tôi nhắc lại việc thỉnh cử nói trên, nhưng Ngài cũng không đồng ý. Sau đó tôi nhắc lại lần thứ 3 Ngài vẫn không đồng tình. Vì công việc đòi hỏi phải có người trong chức vụ nói trên, tôi khẩn thiết đề nghị thêm một lần nữa tức là lần thứ 4, Ngài ngồi yên lặng một lúc rồi nói: thôi được tôi giao toàn quyền cho Hoà Thượng quyết định.

    Kể từ đó Thượng Toạ Tuệ Sỹ chính thức đảm trách chức vụ Phó Viện Trưởng kiêm Tổng Thư Ký Viện Hoá Đạo. Một thời gian sau, khoảng năm 2001, thì Thượng Toạ từ chức. Năm 2003, tại Đại hội bất thường ở tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định, Thượng tọa được cử lại làm Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo.

    b. - Trong thời gian đảm trách chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Thượng Toạ có thông báo cho tôi rằng: «Nhà Nước sẽ chấp thuận cho GHPGVNTN được hoạt động với điều kiện thành phần lãnh đạo Giáo hội không có Ôn và Ôn Huyền Quang, Ôn tính sao?» Tôi hỏi lại: Vậy thì Thầy tính sao? Thầy Tuệ Sỹ nói: Không có Ôn và Ôn Huyền Quang thì ai lãnh đạo GH, chúng con làm việc với ai.

    c. - Sau đó một thời gian, Thầy Tuệ Sỹ lại thông báo cho tôi biết rằng: « Nhà nước sẽ cho GHPGVNTN được hoạt động nếu GHPGVNTN đăng ký ». Tôi giải thích cho Thầy Tuệ Sỹ hiểu rằng:

    « Đăng ký nghĩa là xin Nhà nước cho mình cái quyền được hoạt động. Cái quyền đó hiện nay mình đã có rồi, đó chính là pháp lý của GHPGVNTN, chưa ai giải thể Gíao hội, chưa có một sắc lệnh nào cấm Gíao hoạt động cả. Tại sao chúng ta lại thả hình mà bắt bóng. Nếu chúng ta làm đơn đăng ký rồi, họ cứ để hoài không giải quyết, chúng ta làm việc gì họ cũng sẽ lấy cớ là chưa giải quyết mà hoạt động là bất hợp pháp, đó là cái bẫy để họ đàn áp chúng ta một cách hợp pháp, Thầy thấy không ? ».

    d. - Sau Đại Hội bất thường của GHPGVNTN tại Tu viện Nguyên Thiều và sự biến Lương Sơn, Thầy Tuệ Sỹ cũng như tôi, mỗi người bị quản thúc mỗi nơi. Thời gian này, Thầy đã ra quyết định bổ nhiệm Ông Nguyễn Châu làm Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ mà không trình cho tôi biết. Trong Quyết Định nầy thay vì Thừa Uỷ Nhiệm Viện Trưởng VHĐ thì Thầy đã ghi Thừa Uỷ Nhiệm Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo, nghĩa là không có Viện Trưởng, và đóng ấn riêng của Thầy lên văn bản. Cùng với Quyết Định nầy Thầy Tuệ Sỹ đã ra quyết định tấn phong 4 Huynh Trưởng GĐPT lên cấp Dũng mà tôi chẳng hay biết gì cả.

    e. - Thầy Tuệ Sỹ liên lạc với các Huynh Trưởng hải ngoại thành lập « Gia Đình Phật Tử Việt Nam trên Thế Giới » mà tôi không biết gì cả. Đến khi mọi việc xong xuôi rồi Thầy mới sai Thầy Nguyên Vương đem điện thoại của Thầy đến cho tôi nghe, trong điện thoại Thầy yêu cầu tôi duyệt y Gia Đình Phật Tử trên Thế Giới. Tôi không chấp thuận vì 3 lý do:

    - Việc tổ chức tôi không biết.

    - Không thông qua Văn phòng II, cũng như Ban Đại Diện các Quốc Gia , các Châu lục.

    - Tổ chức nầy không có trong Hiến Chương GHPGVNTN.

    f. - Khoảng giữa năm 2005 Thầy Tuệ Sỹ gởi đơn xin hoán chuyển công việc vì không thích hợp với chức vụ Phó Viện Trưởng. Nhân ngày giổ Tổ Nguyên Thiều, tôi triệu tập Hội Đồng Viện Hoá Đạo họp để giải quyết các công việc của Gíao hội, trong đó có vấn đề Thầy Tuệ Sỹ, nhưng Thầy không đến họp viện cớ bận nhập thất. Nhưng mấy hôm sau, Thầy lại ra Nha Trang để lo tang lễ cho Sư Bà Tâm Đăng. Tôi rất ngạc nhiên vì mấy hôm trước nghe Thầy Nhập Thất không dự họp được. Do đó, tôi cử Thầy Không Tánh ra đi đám, đồng thời gặp Thầy Tuệ Sỹ, để yêu cầu Thầy cho biết là nếu Thầy không đãm đương chức vụ Phó Viện Trưởng nữa thì Thầy muốn giữ chức vụ gì để Viện sắp xếp. Thầy Tuệ Sỹ đã nặng lời với Thầy Không Tánh: “Nói với Ôn Viện Trưởng tôi không làm chi hết, đừng để vào rồi sau nầy tôi từ chức thì mất mặt đó. Bây giờ tôi đang giúp cho thầy Lê Mạnh Thát”. Tại đám tang nầy có Thầy Thanh Huyền, Thầy Đức Thắng, Thầy Phước An, Thầy Nguyên Giác, Thầy Phước Viên. Sau đám tang, cả 6 thầy đồng loạt từ chức làm cho Gíao hội vô cùng khó khăn.

    Thái độ của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống kiêm Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo.

    Sau khi Hoà thượng Viện Trưởng trả lời HT. Đức Chơn xong, nhiều vị trong Hội Đồng Lưỡng Viện muốn phát biểu thêm nhưng Hoà Thượng Thiện Hạnh yêu cầu im lặng. Hoà Thượng Thiện Hạnh nói với HT Đức Chơn: « Ôn về nói với Thầy Tuệ Sỹ rằng việc Thầy Tuệ Sỹ thì Thầy Tuệ Sỹ biết rõ hơn ai hết ». Nói như vậy Thầy Tuệ Sỹ sẽ hiểu. HT Thiện Hạnh cũng đã cho qúi Thầy biết 2 sự kiện quan trọng liên quan đến Thầy Tuệ Sỹ:

    a. Trong khi Thầy Tuệ Sỹ làm đơn xin thôi giữ chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo và xin hoán chuyển đến một chức vụ khác phù hợp với khả năng, HT Thiện Hạnh đã gặp Thầy Tuệ Sỹ và nói với Thầy Tuệ Sỹ rằng: « Nếu Thầy thấy chức vụ Phó Viện Trưởng VHĐ không thích hợp thì tôi xin nhường chức vụ Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống cho Thầy, còn tôi Viện Hoá Đạo bố trí việc gì tôi làm việc nấy ». Thầy Tuệ Sỹ đồng ý. Tôi đã trình việc nầy lên Hoà Thượng Tăng Thống và Hoà Thượng Viện Trưởng, được cả hai ngài chấp thuận. Nhưng sau đó Thầy Tuệ Sỹ nói với Thầy Không Tánh những lời như trên làm cho tôi bị mất uy tín với Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao GHPGVNTN.

    b. Sau khi không tham gia GHPGVNTN, Thầy Tuệ Sỹ đã nhiều lần vận động tôi nghỉ việc. Năm 2007 khi đưa Đức Tăng Thống vào điều trị tại bệnh viện Pháp Việt, tôi về nghỉ tại Già lam, Thầy Tuệ Sỹ nói với tôi rằng: « Ôn nên nghỉ việc đi, theo Di chúc của Hoà Thượng Huyền Quang mà Bùi Ngọc Đường đọc được thì Ôn không có chức vụ chi mô. Ôn nghỉ đi và cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát. Sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại. Tôi đã nói cho Thầy Tuệ Sỹ biết rằng tôi làm việc vì Gíao hội, vì tấm lòng của tôi đối với Nhị Vị Lãnh Đạo, xin Thầy hãy bỏ luận điệu ấy đi và xin Thầy suy nghĩ cho kỹ về hành động của mình ».

    Thế nhưng khi tôi về Huế, Thầy Tuệ Sỹ lại gọi điện ra nhắc lại một lần nữa, sau đó có Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận về vận động tôi nghỉ theo ý đồ của Thầy Tuệ Sỹ như tôi đã nói trong bản Phúc Trình Phật Sự của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống đã phổ biến.
    Thái độ của Hoà Thượng Thích Như Đạt, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự

    Hoà Thượng Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tăng Sự chỉ nói với Hoà Thượng Thích Đức Chơn một câu : « Xin Hoà Thượng xem lại việc Hoà Thượng theo lệnh ai mà đứng ra chủ trì lễ thắp nến cầu nguyện cho nhóm Nguyễn Châu – Bạch Hoa Mai hôm đám Ôn Tăng Thống ? ».

    Chỉ một câu thôi nhưng làm cho mọi người nhớ lại cảnh tượng đêm 10/7/2008 tức là đêm cuối cùng Tang Lễ Đức Tăng Thống: (đây là phần phụ lục để Phật Tử hiểu thêm)

    - Hoà Thượng Thích Đức Chơn đích thân chủ lễ và châm nến cho nhóm Nguyễn Châu – Bạch Hoa Mai, bên cạnh Hoà Thượng có Thượng Toạ Hải Tạng đứng điều khiển.

    - Hoà Thượng Tăng Sự đích thân ngồi trước Kim Quan tụng kinh từ 10g đêm cho đến 3g30 sáng, hai bên có 10 Thầy và 20 Huynh Trưởng túc trực không cho nhóm Châu - Mai vào Linh đài, đề phòng nhóm nầy gây ra biến động như việc đọc Điếu văn trước đó mấy hôm.

    - Khi Hoà Thượng Đức Chơn châm nến cho nhóm Châu - Mai xong vừa trở về phương trượng, đang còn y áo trên người, Hoà Thượng Thiện Hạnh, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống mời Hoà Thượng Đức Chơn ngồi xuống và khiển trách ngay “ Tôi không chấp nhận việc làm của Thầy, một người trong Ban Chỉ đạo Viện Hoá Đạo mà lại bao che, tiếp tay cho nhóm chống phá Giáo Hội ”. Hoà Thượng Đức Chơn nói “ Tụi hắn có lỗi chi”. Hoà Thương Thiện Hạnh đáp: “ Thầy muốn tôi kể tội bọn nó ra không ?” Hoà Thượng Đức Chơn làm thinh.

    - Sau đó Hoà Thượng Thiện Hạnh ra trước Linh Đài nói với Thầy Hãi Tạng “ Thầy vào đây thì phải có phép có tắc nghe chưa, thầy đừng có tự tung tự tác, tôi là Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, tôi đuổi Thầy ra khỏi đây chừ”. Thầy Hãi Tạng làm thinh.

    PHẦN KẾT

    Qua tâm sự của Hoà Thượng Viện Trưởng Viện Hoá Đạo và Hoà Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và Hoà Thượng Tăng Sự trả lời Hoà Thượng Đức Chơn, chúng ta thấy Hoà Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Hoà Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng thống đã hết lòng chìu Thầy Tuệ Sỹ chứ không hề bỏ Thầy. Thầy muốn chức gì Quí Ngài sẵn sàng bố trí vào chức đó. Nhưng tham vọng của Thầy Tuệ Sỹ đã thể hiện qua tiến trình như sau:

    - Giai đoạn 1: Loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao để chiếm vị thế: Như trên chúng ta thấy, từ lâu Thầy Tuệ Sỹ đã có quan hệ với Chính Quyền, nắm bắt được ý đồ của Chính Quyền là muốn loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao. Để gây áp lực với Nhị Vị Lãnh Đạo

    Thầy đưa ra chiêu bài đăng ký của Chính Quyền để gài GHPGVNTN vào bẫy, để Nhị Vị Lãnh Đạo nãn lòng mà rút lui. Nếu kế hoạch nầy thành công, dĩ nhiên Phó Viện Trưởng Thích Tuệ Sỹ sẽ nghiễm nhiên ngồi vào ngôi vị lãnh đạo tối cao GHPGVNTN như cả Thầy lẫn chính quyền mong nuốn.

    - Giai đoạn 2: Không chiếm được vị thế lãnh đạo thì tiếm quyền: Vì không đạt được mưu đồ loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo để làm Viện Trưởng cho nên : Thầy bắt đầu tiếm quyền như quyết định công cử Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ, quyết định thăng Cấp Dũng, quyết định tổ chức « Gia Đình Phật Tử trên Thế giới » mà không trình cho HT Viện Trưởng biết. Có lẽ Thầy nghĩ rằng Hoà Thượng Viện trưởng sẽ bị quản thúc không có ngày tự do, cho nên dù có biết, Hoà Thượng cũng chẳng làm gì được.

    - Giai đoạn 3: Không tiếm quyền được, Thầy bèn phá rối cho Giáo hội tan nát: bằng cách nhũng nhiểu chức vụ, vận động Quí Tổng Vụ trưởng đồng loạt từ chức … để cho Gíao hội không có nhân sự mà phải đi đến chổ tan rã.

    - Giai đoạn 4: Khi Giáo hội tan rã, Thầy sẽ đứng ra tổ chức lại Gíao hội: Đây là tham vọng cuối cùng. Tham vọng nầy đã thể hiện trong câu nói khi Thầy vận động Hòa thượng Thiện Hạnh nghỉ việc: « Ôn nghỉ việc đi rồi cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát, sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại ».

    Vì tham vọng ấy mà Thầy đã im lặng (hay nói cách khác là ngấm ngầm hỗ trợ) để cho Thân Hữu Già Lam, Về Nguồn, Tăng Ni Hải Ngoại suy tôn Thầy, tích cực chống lại GHPGVNTN. Vì tham vọng ấy mà Thầy bảo bọc nuôi dưỡng, dạy dỗ Gia Đình Phật Tử của nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai để hậu thuẫn cho Thầy hôm nay và mai sau.

    Cố Đô, Tuần Chung Thất Đức Đệ Tứ Tăng Thống
    Vu Lan PL 2552 – 2008 - Mậu Tý
    Phật Tử Lê Nguyền Minh Đức


    "Phó Đề Đốc Giả"

  • "Phó Đề Đốc Giả" Nguyễn Võ Trung Huân Đã Ra Tòa

    Tuyết Mai

    Theo tin Washignton Post ngày Thứ Năm, 9 Tháng 10, 2008, "Phó Đề Đốc giả" Nguyễn Võ Trung Huân đã bị đưa ra tòa U.S. District Court ở Alexandria VA về tội giả dạng là một Phó Đề Đốc Hải Quân HK.

    Sự thực, Ông Nguyễn Võ Trung Huân, cư dân của Middletown, Delaware, chỉ là một cựu quân nhân, Hạ sĩ quan, E-4, cấp 3, tương đương với Hạ sĩ. Ông đã phục vụ trên the USS Missouri, USS Constellation và Naval Air Station ở North Island San Diego. Ông ở trong Hải Quân bốn năm và giải ngủ trong danh dự, đã rời Hải Quân được 13 năm.

    Luật sư David Hubbard, đại diện Nguyễn Võ Trung Huân trình bày trước tòa, Ông Huân khoảng bốn mươi tuổi, đến Hoa Kỳ từ VN. Ông gia nhập vào Quân Đội để tìm một chỗ đứng trong xã hội Hoa Kỳ. Ông Huân đã giả mạo sĩ quan cao cấp Hải Quân vì ông muốn được là một sĩ quan Hải Quân nhưng đã không thể thực hiện được mặc dầu cố gắng hết sức. Ông Huân rất thất vọng vì không thể đạt đuợc điều ông mơ ước.

    Luật sư Hubbard không nói lý do ông Huân không được là sĩ quan mà chỉ nói Ông Huân được cho giải ngủ danh dự.

    Sau khi Ông Huân xuất hiện ở Trung Tâm Thương Mãi Eden trong dịp lễ Kỷ niệm Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6, 2007, nhiều người nghi ngờ ông là Phó Đề Đốc giả, nên Ủy ban Điều Tra Tội Phạm Hải Quân (Naval Criminal Investigative Service) đã tiến hành cuộc điều tra.

    Tại tòa, công tố viện trình bày, không những Ông Nguyễn Võ Trung Huân giả mạo, lừa dối người Việt Nam trong buổi lễ ở Eden, mà ông còn đi xa hơn bằng cách lập hồ sơ trong Military.com, ông phục vụ như một bác sĩ năm 1985 trong Hải Quân và được thụ huấn nhiều khóa đặc biệt về chiến tranh. Về lý lịch thì Ông Huân cho biết có nhiều kinh nghiệm chiến đấu và ông đã phục vụ ở Persian Gulf, Iraq và chống khủng bố toàn cầu.

    Tại phiên tòa, Ông Huân đã nhận tội, xin lỗi quan tòa và “rất hối tiếc cho những việc làm của ông”. Hiện ông được tại ngoại hầu tra. Ông có thể bị án ba năm tù và 250 ngàn mỹ kim. Theo hồ sơ tại tòa, Ông Huân đồng ý trả lại quân phục, những huy chương, huy hiệu mà ông không được phép giữ. Ông Huân cũng phải nộp hồ sơ thẩm định và chửa trị về sức khỏe tâm thần và bỏ tất cả những đặc quyền cá nhân (confidentiality).

    Tưởng cũng nên nhắc lại là vào dịp Lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực VNCH, 19 Tháng 6, 2007, tại Trung Tâm Thương Mãi Eden, Falls Church, VA, Ông Nguyển Võ Trung Huân có mặt trong số những quan khách tham dự cùng khoảng hơn hai trăm đồng hương VN. Tại đây ông mặc quân phục Hải Quân trắng, áo ngắn tay và đeo cấp bậc Phó Đề Đốc Hải Quân HK trên vai, trên ngực áo có nhiều huy chương. Trước đó, Ban tổ chức không có mời ông tham dự, nhưng khi thấy có sự hiện diện của một sĩ quan cao cấp Hải Quân, BTC mời ông lên phát biểu.

    Ông Huân bước lại micro và tự giới thiệu tên và chức vụ, đã phục vụ nhiều nơi trên thế giới như ở Afghanistan, Kosovo, Iraq … Bằng một giọng nhỏ nhẹ, khiêm tốn ông nói, mặc dầu ông có chức vụ cao trong hải Quân HK nhưng ông không bao giờ quên mình là người Việt Nam và ông nội của ông cũng trong quân đội VNCH. Ông sẽ dạy con cháu ông không quên mình là người Việt Nam … Mọi người hiện diện vỗ tay vang dội sau lời phát biểu của Ông Huân. Ai cũng hãnh diện về ông, như nhiều người trẻ đã thành danh trong xã hội HK, đem lại niềm tự hào, hãnh diện cho dân tộc.

    Sau lễ, nhiều người đến trò chuyện thân mật, xin chụp hình lưu niệm. Phóng viên Tuyết Mai có xin phỏng vấn nhưng Ông Huân không đồng ý và cũng không cho danh thiếp để liên lạc lại. Có người hoài nghi nên bắt đầu tìm hiểu, theo sau có nhiều nghi vấn nêu lên, Bác sĩ Võ Đình Hữu, Chủ Tịch Cộng Đồng Pomona Valley là người thân trong gia đình Ông Huân, có phổ biến thư ngày 31 Tháng 7, 2007 nói rõ về sự thành công của Ông Huân. Vào ngày 25 Tháng 7, Phụ Tá của Thượng Nghị Sĩ McCain xác nhận là TNS McCain không hề giới thiệu Ông Nguyễn Võ Trung Huân trước Thượng Viện và Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện HK cũng điều tra và xác nhận không có một Phó Đề Đốc nào có tên trên trong Quân chủng Hải Quân HK (US Navy).

    Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh, Cố vấn khoa học của Phụ Tá Bộ trưởng Hải Quân HK cũng xác nhận là trong Hải Quân HK không có Phó Đề Đốc gốc VN có tên như trên.

    Mọi người nôn nóng muốn biết sự thật, mãi đến hơn một năm thì Ủy ban Điều Tra Tội Phạm của Hải Quân HK mới tìm ra được sự thật và đưa ông Nguyễn Võ Trung Huân ra tòa.

    Tuyết Mai




  • Ex-Sailor Guilty of Pretending to Be an Admiral

  • Delaware Man Gave Speech to Vietnamese American Group in Va.
    By Christian Davenport and Jerry Markon
    Washington Post Staff Writers
    Thursday, October 9, 2008; B01

    He wore a short-sleeve Navy summer white uniform, crisp and pressed. Had the black and gold shoulder boards of a rear admiral and a chest full of ribbons and carried himself with the confidence such a high rank bestows. He said he was a veteran who had served all over the world, in Afghanistan, Kosovo, Iraq.

    Last year, at a ceremony in Falls Church to commemorate the Republic of Vietnam Armed Forces Day, Trung Huan Nguyen took the stage and addressed a crowd of about 100 Vietnamese Americans.

    Although he certainly seemed like the real thing, there was something that wasn't quite right about the man in white. No matter how perfect his uniform , or how plentiful his service and personal decoration ribbons, some attendees were suspicious. They checked him out. And yesterday, Nguyen pleaded guilty in U.S. District Court in Alexandria to impersonating a Navy rear admiral.

    In truth, Nguyen, of Middletown, Del., was an enlisted man and had been out of the Navy for 13 years.

    Prosecutors said Nguyen's deceit went far beyond merely playing the part of a highly ranked officer at the event, held at the Eden Center in June 2007. They said that he kept a profile on military.com that claimed he was commissioned into the Navy as a medical doctor in 1985 and received special warfare training. In his online biography, he played up his combat experience and said he had served in the Persian Gulf War, the global war on terrorism and the Iraq war.

    The reality, prosecutors said, was that he was an E-4, a petty officer third class, the equivalent of an Army corporal. He served aboard the USS Missouri and the USS Constellation and at the Naval Air Station at North Island San Diego. His Navy career lasted just four years and ended with an honorable discharge.

    Lawyer David Hubbard said his client told the judge that he perpetrated the fraud because he had always wanted to be a naval officer and could never get over the disappointment of not realizing his dream.
    "I think that he very much wanted to be in the officer corps and that despite his best efforts, he was disapp ointed that he never made it,'' Hubbard said. "That was just sort of his goal, in the sense that maybe someone becomes a doctor and they really want to specialize in pediatrics. He wanted to go into the Navy and be an officer.''

    Hubbard could not say why the military rejected Nguyen's request but said he was honorably discharged. He said Nguyen, who is in his early 40s, came to the United States from Vietnam and "joined the military as a way to fit in in society, to find a place in America.''

    He added that Nguyen apologized to the judge and is "very sorry for what he has done.''

    When Nguyen showed up at the Eden Center last year, he spun a tale that raised some eyebrows.

    "Nguyen's charade collapsed when several of those in attendance checked out his claim and determined it to be false," according to a news release issued by prosecutors.

    The Naval Criminal Investigative Service investigated the case, and Nguyen is facing a maximum penalty of three years in prison and a $250,000 fine. He was released on a personal recognizance bond. As part of his plea, he agreed to turn over any uniforms, insignias and decorations he is not entitled to. He is also required to send in a "mental health evaluation and treatment and waive all confidentiality, " according to court documents.

    A Navy spokeswoman declined to comment last night, as did prosecutors.

    Nguyen's case follows that of a Louisiana man who never served in the military but wore a full-dress captain's uniform complete with a Navy Cross, Silver Star and Purple Heart to his wedding in an effort to impress his wife. That man was sentenced to a year of home confinement after pleading guilty a week ago.

    Staff researcher Meg Smith contributed to this report.