Saturday, July 26, 2008

Đã Đến Lúc Phải Chấm Dứt “Mục Vụ Xin Tiền”


Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Vấn đề các vị Hồng Y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ trong nước ra hải ngoại xin tiền từ nhiều năm qua, đã đến lúc phải được đưa ra thảo luận và phân tích một cách công khai. Nhất là gần đây, nhiều việc đáng tiếc đã xảy ra trong các tiệc gây quỹ của một số Giám mục.

Vào thời điểm cận ngày Quốc Hận 30 tháng Tư 2007, trường hợp Giám mục Nguyễn Văn Hoà - Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cùng một vài vị Giám Mục sang viếng thăm Hoa Kỳ, trong một buổi tiệc mừng gây quỹ đã bị một số giáo dân tại Quận Cam xuống đường biểu tình phản đối. Cách nay vài ngày, một bức thư ngỏ của Ông Lý Văn Hợp gởi Đức Cha Mai Thanh Lương và Cha Mai Khải Hoàn được công bố trên diễn đàn điện tử, kể lại ông tới tham dự bữa tiệc tại nhà hàng Seafood World ở thành phố Westminster Nam California vào ngày 19 tháng 8:

“Các giáo dân đến tham dự với mục đích nghe nghe Đức Cha Tri nói chuyện và quyên góp tiền bạc để gây quỹ”. Trong thư ngỏ đó, ông Hợp có than phiền rằng khi ông lên cầm micro xin hỏi vị Giám mục chủ tọa: “Xin Đức cha cho biết, VN có tự do tôn giáo không?” thì bị một số người la ó, giật micro và: “Người xiết tay, kẻ xốc nách, xô đẩy và lôi ra khỏi nhà hàng”. Tôi chỉ nêu lên trường hợp Đức Cha Châu Ngọc Tri với sự dè dặt thường lệ và trích dẫn một vài câu trong Thư Ngỏ của Ông Lý Văn Hợp mà không có lời bình luận nào, vì tôi chưa biết hết sự thật và bối cảnh xảy ra câu chuyện. Tuy nhiên, tôi coi đây là một việc đáng tiếc.

Nếu hai sự kiện trên chưa đủ mạnh để phải đặt lại vấn đề “mục vụ xin tiền”, có lẽ tôi phải nhắc tới bản tin mới đây từ VietCatholic đăng tải: “LM Phanxicô Xaviê Nguyễn Đức Quỳnh dùng giấy giới thiệu giả mạo đang quyên tiền tại Hoa Kỳ”. Bản tin cho biết đương sự nói là xin tiền để “Xây một một trung tâm cho các linh mục tàn tật ở Việt Nam.” Bản thân LM Quỳnh cũng bị tàn tật, ngồi xe lăn đi xin tiền nên càng được nhiều người thương. Cũng may là hành vi bất chính đó bị phát hiện sớm và LM Quỳnh đã phải hoàn lại số tiền $ 6,000 mỹ kim ... chờ Bề trên quyết định.

Giọt Nước Làm Tràn Ly

Trong bài viết này, tôi không có ý đi sâu vào chi tiết các sự việc nói trên, nhưng tôi coi những sự việc đó như là một giọt nước cuối cùng, làm tràn ly nước vốn đã đầy trong lòng tôi, trước cảnh hỗn loạn của đạo quân nhiều màu sắc trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ trong nước ra quyên tiền đồng bào Hải ngoại. Thậm chí có người đã bày trò giả mạo, lường gạt để kiếm ăn.

Thật vậy, hiện tượng các chức sắc các cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra hải ngoại xin tiền từ lâu nay, đã trở thành một đề tài đàm tiếu cho nhiều người nhiều giới. Dù vậy, phần đông chỉ than phiền và đề cập tới những điều chướng tai gai mắt hoặc nói cho qua chuyện rồi lãng quên. Thậm chí như việc giáo dân Quận Cam xuống đường biểu tình mang theo biểu ngữ, bắc loa kêu gọi ầm ĩ phản đối Giám mục Nguyễn Chí Linh thuộc Giáo Phận Thanh Hóa tại bữa tiệc gây quỹ, đã làm dư luận chú ý một thời gian, rồi mọi việc lại chìm vào quên lãng.

Có thể nói, vấn đề này như một thứ ung nhọt gây nhức nhối trong thân thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đã mang đến không biết bao nhiêu lời bàn ra tán vào. Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề, có nhiều người đã dùng cách xoa dầu cao lên nó, có người đã dùng thuốc dán để chặn không cho nó xì mủ ra. Các cách chữa trị đó chỉ có tác dụng làm giảm đau nhưng không thể chặn đứng được sự phát triển của khối ung nhọt. Chưa thấy một người nào đưa vấn đề này ra phân tách, tìm hiểu một cách công khai và đưa ra lời kết luận hợp tình hợp lý cho sự việc. Có người nghĩ rằng, vấn đề này rất tế nhị, nếu nói lên sẽ bị đụng chạm và bị kết án là chống phá Giáo Hội xét vì mục đích việc xin tiền rất cao cả, nào là xây sửa nhà thờ, làm quỹ hưu dưỡng cho các cha già, giúp trẻ em mồ côi. Và gần đây nhất là vị LM tàn tật Phanxicô Xaviê Nguyễn Đức Quỳnh quyên tiền có mục đích xây một “Trung tâm cho các linh mục tàn tật ở Việt Nam”. Có ai dám lên tiếng phản đối việc “mục vụ xin tiền” cho các mục đích quá sức thánh thiện như thế, nếu không khéo bị cho là “kẻ chống phá Giáo Hội”?

Có người cảm thấy việc xin tiền này không ổn, nhưng ngại không dám đặt vấn đề vì thấy chiến dịch “mục vụ xin tiền” quá quy mô, có sự góp mặt rất tích cực của Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Tu sĩ, nói chung là “bộ phận đầu não” của Giáo hội Công Giáo Việt Nam hiện nay đang tham gia vào chiến dịch này. Ai dám lên tiếng? Người Công giáo Việt Nam thường có câu nói: “Chống Cha là chống Chúa”. Như vậy, nếu có một người nào dám nói hoặc viết điều gì đụng chạm tới Hồng Y, Giám mục thì sẽ bị mang tội nặng đến mức nào, chắc chắn bị cho là “kẻ phá đạo” và... xuống hỏa ngục đời đời!

Bài Học Lịch Sử

Quan niệm đó đã làm tê liệt ý chí của người Công giáo, dung dưỡng cho bao nhiêu thứ sai lầm và tội lỗi xảy ra trong Giáo hội. Tôi nghĩ là còn lâu lắm người Công giáo Việt Nam mới học được bài học về Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus ở Ba Lan. Trong quá khứ, vị Tổng Giám mục này có thành tích làm tay sai cho mật vụ Cộng sản Ba Lan, đã chỉ điểm và báo cáo hãm hại nhiều giáo sĩ chống Cộng sản. Dân chúng biết nhưng không ai dám phản đối vì sợ bị tội “Chống Cha là chống Chúa”, cho đến lúc Tổng Giám mục Wielgus được Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nâng lên chức vụ cao trọng nhất của Giáo Hội Ba Lan, là chức vụ Tổng Giám Mục Warsaw. Sự bổ nhiệm này đã gây ra làn sóng chống đối mạnh mẽ trong những người biết chuyện, nhưng Giáo Hoàng vẫn giữ nguyên quyết định của mình.

Trời bất dung gian! Ngay trong ngày lễ nhậm chức rất long trọng tại nhà thờ Chánh Toà Warsaw vào ngày 7 tháng Giêng, 2007, bên ngoài nhà thờ có số đông biểu tình phản đối ầm ĩ. Chỉ một giờ trước khi nhậm chức, người ta đã trưng ra bằng chứng cụ thể với lá thơ Tổng Giám mục Wielgus đã ký tên tình nguyện làm điểm chỉ viên cho mật vụ Cộng sản Ba Lan, tiếng bình dân gọi vai trò này là “chó săn”. Do vậy, Wielgus đã phải cúi đầu khóc lóc một cách nhục nhã giữa nhà thờ trước mặt các chức sắc cao cấp nhất của đạo và đời hiện diện trong buổi lễ nhậm chức, kể cả Tổng thống Ba Lan, và dĩ nhiên là trước các ống kính truyền hình phát đi trên toàn thế giới. Một phút trước đó, Tổng Giám mục Wielgus đã chuẩn bị bước lên đài vinh quang như là vị Thiên Thần đại diện Thiên Chúa. Nhưng một phút sau đó, thì con người mang tên Wielgus trong bộ phẩm phục Tổng Giám Mục, bước xuống trong nhục nhã và hiện nguyên hình là một tên “chó săn” của mật vụ Cộng sản Ba Lan! Tôi có viết một bài về sự kiện này vào ngày 10 tháng Giêng 2007. Hôm nay, tôi muốn nhắc lại để kết luận rằng, dù Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục, Linh mục hay Tu sĩ, họ cũng chỉ là những con người, mà đã là con người thì ai cũng có thể sai lầm được.

Xác Định Tên Gọi

Nói như thế không có nghĩa bao gồm tất cả mọi chức sắc của Giáo hội Công giáo Việt Nam được phép ra nước ngoài đều là đi xin tiền, nhưng có một số chỉ vì nhằm mục đích này. Người ta tìm cách thay thế việc xin tiền bằng lối nói văn hoa dễ nghe hơn như: kêu gọi đóng góp, vận động tài chánh. Về sau này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy việc ra nước ngoài xin tiền đã được nâng cấp với hai chữ “mục vụ” đi kèm theo, tôi thấy hai chữ mục vụ dùng ở đây là không ổn.

Dù sao tôi cũng là một linh mục, tôi hiểu ý nghĩa của hai chữ “mục vụ”. Nói một cách dễ hiểu, mục vụ là việc các vị chủ chăn thăm viếng và chăm sóc đoàn chiên, nhất là những con chiên ốm đau, bệnh tật và túng nghèo, lo lắng giúp đỡ cho họ, nhất là về mặt tinh thần. Hồi còn nhỏ tôi làm “mục đồng” tức là thằng bé chăn trâu, vì gia đình tôi làm nghề nông. Trong vai trò mục đồng tôi chăn giữ đàn trâu 7 con của gia đình, ban ngày tôi lùa trâu cho ăn nơi có nhiều cỏ, buổi chiều tôi tắm rửa kỳ cọ cho đàn trâu trước khi lùa vào chuồng. Khi lớn lên làm linh mục, thi hành mục vụ trong phạm vi được giao phó, thăm viếng, an ủi giúp đỡ giáo dân về mặt tinh thần và cố gắng giúp họ những gì tôi có thể làm được trong vai trò một linh mục. Trong 37 năm của đời Linh mục, tôi cảm thấy được an ủi rất nhiều trong công tác mục vụ, ý nghĩa nhất là trong thời gian dài tôi làm mục vụ trong nhà tù Cộng sản. Hiểu như vậy, nên tôi không yên tâm khi các vị chủ chăn trong nước ra hải ngoại xin tiền lại kèm theo hai chữ “mục vụ”. Đây là trường hợp lạm dụng danh từ.

Trong thực tế, Cộng đồng giáo dân Việt Nam Hải ngoại có cần các vị chủ chăn trong nước lặn lội ra hải ngoại để “mục vụ” cho họ hay không? Và nếu cần thì cần đến mức độ nào? Và khi ra ngoài này làm mục vụ thì thực sự “công tác mục vụ” đó là gì? Điều tôi thấy không ổn khi nói “mục vụ hải ngoại” là mỗi sau chuyến đi “mục vụ” ngắn hạn, các vị chủ chăn lại về nước mang theo một vò ... sữa chiên! Và vò sữa chiên này đầy hay vơi là tùy thuộc vào đẳng cấp và chức vụ mà vị chủ chăn làm công tác “mục vụ” hải ngoại đang nắm giữ trong nước.

Có lúc tôi suy nghĩ vẩn vơ và tự hỏi không biết các vị “chủ chăn” từ trong nước ra “mục vụ" đàn chiên Hải ngoại, thực sự có phải vì các ngài thương yêu đàn chiên “bơ vơ không người chăn dắt” hay vì các ngài thương cái bầu sữa căng đầy của đàn chiên, nhất là đàn chiên béo tốt sống tại Mỹ? Nếu tôi có hiểu sai thì xin Chúa tha tội cho tôi, có nhiều bằng chứng cho tôi biết các vị chủ chăn trong nước ra “mục vụ” Hải ngoại là nhắm vào “bầu sữa chiên” hơn là chính con chiên.

Thân Phận Đồng Bào Tị Nạn Cộng Sản

Điều này khiến tôi cảm thấy xót xa cho số phận người Việt Nam tị nạn Cộng sản. Sau ngày 30 tháng Tư 1975 họ đã liều chết trốn chạy chế độ Cộng sản bạo tàn, họ phải bỏ nước ra đi và không biết bao nhiêu người đã phải chết trên đường vượt biên. Bao nhiêu người bị bắt lại, đã chịu tù đày, đánh đập và có nhiều người đã bỏ mạng trong tù vì vượt biên không thành. Số người may mắn còn sống sót trong đó có bao nhiêu phụ nữa, đã bị hải tặc hãm hiếp trên bước đường trốn chạy chế độ cộng sản. Khi tìm đến được bến bờ tự do, đồng bào tị nạn vẫn còn nghe văng vẳng bên tai câu nói của tên Thủ tướng Việt cộng Phạm Văn Đồng: đàn ông là hạng ma cô, đàn bà là hạng đĩ điếm ... bọn đó phải ra đi cho sạch đất nước.

Nhưng rồi mấy chục năm sau, khi người Việt tị nạn làm ăn phát đạt và chế độ Việt cộng cần đô-la thì con cháu của Phạm Văn Đồng đã trở giọng và âu yếm gọi họ là “khúc ruột xa quê hương ngàn dặm!”. Mới đây chế độ Việt cộng còn ra Nghị quyết 36 với lời lẽ đầy yêu thương và mời gọi đối với Cộng đồng người Việt Hải ngoại. Thực tế, thì chế độ bất nhân đó thương đồng bào Hải ngoại hay thương cái túi tiền của họ, tôi chắc là người mù cũng nhìn thấy được.

Viết tới đây, tôi thấy thương cho thân phận người Công giáo tị nạn Cộng sản. Có lần đọc tin trên Net tôi giật mình khi thấy trong một bài tường thuật của một người tên là Sr Minh Nguyên, viết về chuyến đi Nhật Bản của Hồng Y Phạm Minh Mẫn có linh mục Huỳnh Công Minh, Linh mục Trương Kim Hương tháp tùng, trong đó có đoạn nhắc lại Hồng Y Phạm Minh Mẫn gọi những người Công giáo Hải ngoại là “tha phương cầu thực”. Thấy câu này chướng tai quá, tôi đã email hỏi vị Hồng Y xem thực sự Ngài có nói câu đó hay không. Hồng Y Phạm Minh Mẫn hồi âm, không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi nhưng bằng một email khá dài và đầy văn hoa. Cuối cùng tôi cũng hiểu được ý của Ngài qua câu “tôi không có thói quen dùng cách nói như vậy”. Tôi đã email lại và nói rằng nếu Ngài không có nói câu đó thì xin Ngài cải chính vì tôi e rằng câu đó làm tổn thương cho nhiều người và có thể có hậu quả không hay, nhưng vị Hồng Y không trả lời tôi.

Câu chuyện “Tha phương cầu thực” đã qua đi và tôi tin là Hồng Y Phạm Minh Mẫn không nói câu đó, nhưng tác giả bài tường thuật đã đặt câu nói đó vào miệng của Ngài, và điều ngộ nhận đó đã làm buồn lòng một số người Công giáo tị nạn Cộng sản tại hải ngoại. Tôi đọc được tâm trạng này và xin vị Hồng Y đính chánh để an ủi những người Công giáo Hải ngoại, là những người đã đóng góp rất tích cực khi Ngài ra Hải ngoại xin tiền, vì họ vẫn nghĩ là Ngài đã dùng câu nói “tha phương cầu thực” đối với họ, nhưng Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không làm. Điều này khiến tôi thấy thương cho thân phận “những con bò sữa” hải ngoại.

Nguyên Nhân Thành Hình

Bất cứ một hiện tượng nào cũng đều có nguyên nhân thành hình của nó. Sự kiện các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo trong nước ra hải ngoại xin tiền được cấu thành bởi 3 yếu tố sau đây.

1. Tính rộng rãi của người Công giáo Việt Nam hải ngoại. Đây là một đặc tính rất cao quý của đồng bào Công giáo, họ rất sẵn sàng đóng góp vào các việc chung, nhất là các việc cụ thể như xây nhà thờ, nhà dưỡng lão, cô nhi viện... Sau thời gian ổn định cuộc sống tại Hải ngoại, họ đã cần cù chăm chỉ làm ăn nhiều người đã trở nên khá giả và rất sẵn sàng để bố thí đóng góp thật rộng rãi vào các việc tôn giáo mỗi khi có lời kêu gọi của các vị chủ chăn, nhất là các chủ chăn có chức vụ cao như Hồng Y, Giám mục, họ càng dâng cúng mạnh hơn.

2. Nhu cầu cần tiền của những chủ chăn trong nước. Nói về nhu cầu thì vô hạn vì đồng tiền bao giờ cũng có thế đứng nhất định của nó trong đời sống con người. Chẳng thế mà có câu ví vui tai sau đây về đồng tiền: “Đồng tiền là tiên là Phật - Là sức bật của tuổi trẻ - Là sức khoẻ của tuổi già - Là đà danh vọng - Là lộng che thân - Là cân công lý - Đồng tiền “hết ý”.

Trong đời sống tôn giáo cũng không thoát khỏi định luật này, nhất là trong hoàn cảnh nghèo túng của Giáo hội Công Giáo Việt Nam đã bị chế độ Việt cộng tước đoạt tài sản đến trắng tay thì nhu cầu phải kiếm tiền lại càng khẩn thiết hơn. Chính vì nhu cầu đó mà bất cứ ai trong tư thế có thể ra hải ngoại xin tiền đều không bao giờ bỏ lỡ cơ hội. Mỗi vị “chủ chăn” ra hải ngoại xin tiền đều có một lý do thánh thiện riêng để trình bày và lý do nào nghe qua cũng cảm động và đáng giúp cả.

3. Nhu cầu làm đẹp mặt cho chế độ. Chế độ Việt gian Cộng sản chắc chắn phải khuyến khích và tạo điều kiện cho phong trào mục vụ xin tiền này vì họ có lợi trước mắt. Theo tôi nghĩ, không có cách gì làm đẹp cho bộ mặt của chế độ vô thần Cộng sản hữu hiệu cho bằng hình ảnh các nhà thờ được mọc lên như nấm và càng lúc càng lộng lẫy hơn tại Việt Nam. Hơn nữa việc các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo lũ lượt ra hải ngoại kiếm tiền mang về “xây dựng giáo hội quê nhà” là cách tốt nhất để khóa mồm những ai lên tiếng tố cáo chế độ cộng sản Việt Nam là chế độ đàn áp tôn giáo! Đó là chưa nói tới việc các cán bộ “tốt bụng” cho phép các vị ấy ra nước ngoài xin tiền, không thể nào nhắm mắt làm ngơ trước số tiền kếch sù mà các vị chủ chăn mang về trong nước. Ai cũng có thể hiểu là số tiền đó phải chia chác cho bọn cán bộ, vì bọn chúng đã chịu khó “vét từng xu” trong túi của Việt kiều về thăm nhà khi bước qua ngưỡng cửa phi trường, thì không lẽ lại không để ý tới cái túi nặng chình chịch của các vị Hồng Y, Giám mục, Linh mục ... đang bước xuống phi trường?

Nói tóm lại, 3 yếu tố nói trên được ví như giấy bổi, dầu xăng và ... cái quạt đã giúp cho ngọn lửa của cao trào “mục vị xin tiền” bốc lên cao. Thực tế, cao trào này đã bắt đầu làm xôn xao dư luận, có thể làm gây rối loạn và phân hoá trong nội bộ các Cộng đồng Công giáo Hải ngoại mà từ lâu có nhiều người gọi cách vui vui là những... con bò sữa!

Đôi Dòng Lịch Sử

Khi viết những dòng chữ này này tôi chợt nhớ tới phong trào bòn vàng ở Mỹ trong các thế kỷ trước. Khi các tin tức về việc khám phá mỏ vàng được loan truyền, dân chúng đổ xô tới làm thành một phong trào bòn vàng rất sôi nổi và có nhiều chuyện đáng nói. Cơn sốt bòn vàng đã làm thay đổi hẳn đời sống xã hội của dân chúng và hình thái mội sinh của một số vùng ở Mỹ. Nhờ vào đó, một số người may mắn đã trở nên giàu có, ngược lại một vài vùng đất màu mỡ trước kia, sau khi bị cơn sốt bòn vàng hoành hành, đã trở nên hoang phế không còn canh tác được vì đã bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” để tìm vàng. Phong trào bòn vàng ở Mỹ ngày xưa có những điểm tương đồng với phong trào “bòn đô-la” của các chức sắc Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ngày nay, tuy có 2 điểm khác biệt.

Điều khác biệt trước tiên là ngày xưa bên Mỹ tài nguyên vàng đã nằm sẵn trong lòng đất, dân bòn vàng cứ kéo tới mà đào, xới, đãi, lọc để lấy vàng, nhưng đào mãi có ngày sẽ hết. Ngược lại, ngày nay tài nguyên đô-la nằm trong túi của đồng bào Công giáo tị nạn Cộng sản Hải ngoại không phải tự nhiên mà có. Đây là kết quả của sự cần cù làm ăn, tiết kiệm và để dành tích lũy mà có. Và tài nguyên này có khả năng sẽ còn dài dài.

Điều khác biệt thứ hai là các tài liệu viết về phong trào bòn vàng bên Mỹ có ghi lại tên tuổi những người có công khám phá ra mỏ vàng, nhưng không thấy tài liệu sách vở nào ghi lại ai là người đã lập công đầu trong việc phát hiện ra “mỏ đô-la” nằm sâu trong túi những người Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại Hải ngoại. Nếu biết được, tên tuổi người đó phải được các sử gia viết xuống để đời sau nhớ ơn, nhất là những ai may mắn bòn được nhiều “đô-la” nhất. Về vấn đề này, tôi đã lục lọi lại trí nhớ và nói chuyện bàn hỏi với nhiều người, cuối cùng có thể tạm kết luận phải dành vinh dự tiên phong đó cho Giám mục Nguyễn Văn Sang thuộc Giáo phận Thái Bình. Được biết cách nay không lâu, Giám mục Nguyễn Văn Sang là một trong hai vị Giám mục còn sống được chủ tịch nhà nước Việt cộng Nguyễn Minh Triết trao tặng huân chương “cao quý”. Tôi không hiểu hết những công sức của Giám mục Nguyễn Văn Sang đã và đang tích cực đóng góp cho chế độ như thế nào để được ban thưởng loại huân chương gọi là “cao quý” đó, nhưng tôi nghĩ là trong đó phải kể tới công đã khám phá ra mỏ đô-la nằm trong túi những người Công giáo Việt Nam Hải ngoại.

Những Điều Nghe Thấy

Đã từ lâu rồi, những gì tôi được nghe và thấy liên quan tới “mục vụ xin tiền” thật là phong phú và đa dạng. Phong phú vì được nghe từ nhiều người nhiều giới khác nhau. Đa dạng vì được nghe từ nhiều thành phần ở Hải ngoại cũng như trong nước. Ở Hải ngoại, từ những linh mục phụ trách các cộng đồng, những người cho tiền, người trung gian giúp tổ chức để quyên tiền, người đứng ra tổ chức tiệc quyên tiền, những việc xảy ra chung quanh việc tổ chức tiệc quyên tiền, trường hợp lừa đảo để quyên tiền và còn nhiều chuyện khác nữa. Khi đồng tiền về tới Việt Nam, từ việc quản lý đồng tiền, về cách thức xử dụng đồng tiền, việc thi đua xây cất nhà thờ ở Việt Nam, trường hợp mất tiền, về lối sống xa hoa của một số người xin được tiền, về vị Linh mục có ngôi nhà thờ gắn máy lạnh đầu tiên tại Việt Nam? và còn nhiều chuyện khác nữa. Tôi không thể kể ra hết những điều mắt thấy tai nghe liên quan tới vấn đề này, tôi tin là có nhiều người cũng đã nghe và biết như tôi. Vả lại, chẳng hay ho và đẹp đẽ gì khi kể lại những sự việc như vậy nên tôi chỉ ghi lại cảm nghĩ về hai sự việc sau đây.

Cách đây vài năm, tôi có dịp đồng tế với một Giám mục từ Việt Nam qua, tại một Cộng đồng khá lớn và giàu có ở Mỹ. Trong thánh lễ, cha quản nhiệm có nhắc giáo dân giúp vị Giám mục. Sau khi tan lễ, vị Giám mục mặc nguyên phẩm phục ra đứng bên ngoài cửa chính nhà thờ, hai bên có 2 vị chức sắc cầm cái giỏ khá to. Giáo dân lần lượt bước ra, người thì đặt tiền vào giỏ, người thì tới bắt tay nói chuyện với vị Giám mục, người khác cố nhét tiền vào tay, vào áo ... và vào nơi nào có thể nhét được trên người vị Giám mục. Vì có đông người muốn bắt tay và cho tiền nên số tiền giấy rơi lả tả dưới đất và vị Giám mục cúi xuống nhặt lên. Cảnh tượng này làm tôi bị “shock”! Có lẽ vì tôi thuộc thế hệ cũ, sinh ra và lớn lên tại một xứ đạo nhà quê và chẳng mấy khi được trông thấy các vị Giám mục. Khi họ đạo có dịp đón Giám mục về ban phép Thêm sức thì quả là một biến cố của họ đạo với nghi thức đón tiếp Giám mục rất linh đình với đầy đủ cờ quạt. Giờ đây, nhìn hình ảnh vị Giám mục đang mặc phẩm phục, cúi khom người nhặt những đồng tiền giấy nằm dưới chân, trước mặt một số đông giáo dân khiến lòng tôi đau xót. Ước gì tôi đừng chứng kiến cảnh tượng đó.

Việc thứ hai tôi muốn viết ra đây là trong chuyến ghé qua Mỹ vừa rồi, tôi có ghé Nam Cali. ở nhà một người bạn học từ hồi nhỏ. Trong một lần đề cập tới “chuyện dài quyên tiền”, vợ người bạn kể lại rằng có người đưa giới thiệu với nhóm cầu nguyện của chị một linh mục từ Việt Nam qua xin tiền. Vị linh mục này trình bày lý do rất thương tâm ở Việt Nam và xin mọi người trong nhóm giúp đỡ. Điều đáng nói là trong lúc vị Linh mục này đang ca “bài ca con cá” để xin tiền thì luôn miệng gọi những người đang hiện diện và đồng bào Hải ngoại là “ngụy”. Nhiều người tỏ ra khó chịu, cuối cùng chị vợ người bạn tôi chịu hết nổi đã lên tiếng: “Cha à! Cha gọi tụi con là “ngụy”, tụi con buồn lắm!” Khi ngồi nghe câu chuyện này tôi cảm thấy khó chịu trong người, nhưng cố dằn xuống vì tôi không muốn những giáo dân nghe những lời tôi định nói ra!

Kết Luận

Qua những phần nói trên đọc giả đã hiểu được tâm trạng và sự khó khăn của tôi khi phải đề cập tới vấn đề này một cách công khai. Một vấn đề có thể gây ra tranh luận và sẽ bị phản bác từ những cái loa của chế độ Việt gian Cộng sản. Điều chắc chắn nhất là sẽ bị kết án là nói xấu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận tất cả phản ứng bởi bài viết này, vì tôi đã viết ra những gì tôi biết và suy nghĩ. Tôi biết là sau bài viết này, sự kiện “bòn đô-la” vẫn tiếp tục, vì màu sắc của tờ giấy bạc đôla lúc nào cũng chiếu sáng và mùi vị của nó lúc nào cũng thơm, nhưng sẽ được thực hiện cách kín đáo hơn.

Xin nói rõ ở đây là mục đích tôi viết bài này không phải để phản đối việc người Công giáo Việt Nam Hải ngoại đóng góp tiền bạc để sửa sang và xây dựng lại các cơ sở tôn giáo đã bị đổ nát tại quê nhà. Bản thân tôi đã từng làm công việc đó và tôi sẽ còn làm trong trường hợp thật sự có nhu cầu cần thiết. Tôi biết có nhiều người rất thành tâm thiện chí gởi tiền về giúp các nơi thật sự túng nghèo. Đây là những người đáng ca ngợi vì họ đã sống đúng tinh thần chia sẻ trong Phúc Âm.

Tôi cũng không nói xấu hay đả kích Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, vì Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đáng thương hơn là đáng trách. Điều tôi muốn nói là có một số người trong hàng ngũ chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã lạm dụng và khai thác quá mức cái túi tiền của người Công giáo Việt Nam Hải ngoại. Hành vi của những con người này đã làm ố danh cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Cũng nên ghi nhận là phong trào bòn-đô la này mới xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử 300 năm của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, khi mà Giáo Hội sống dưới chế độ Cộng sản là chế độ vô thần quyết tâm triệt hạ tất cả mọi tôn giáo chân chính, trừ ra các loại Giáo hội do bọn chúng dựng lên hoặc do chúng nắm được quyền kiểm soát.

Ngày nay, khi nhìn vào bề mặt bên ngoài, nhiều người, nhất là những người ngoại quốc lầm tưởng rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang ở vào thời kỳ phồn thịnh, phát triển và có tự do. Không có mấy người biết rằng hiện nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang phải trải qua thời kỳ u tối và đáng thương nhất vì CHẾ ĐỘ VÔ THẦN CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ CƯỚP ĐI QUYỀN PHONG CHỨC VÀ BỔ NHIỆM CÁC CHỨC SẮC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM.

Nói một cách dễ hiểu, hiện nay tại Việt Nam chỉ có những người nào ĐƯỢC CỘNG SẢN CHO PHÉP MỚI ĐƯỢC PHONG CHỨC GIÁM MỤC VÀ LINH MỤC. Đây là điều đau đớn nhất mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang phải chịu. Phái đoàn Toà Thánh qua Việt Nam nhiều lần để xin lại quyền này nhưng không được.

Với quyền phong chức và bổ nhiệm nằm trong tay đảng Cộng sản, không lạ gì chiến dịch “mục vụ xin tiền” càng lúc càng phát triển rầm rộ, vì không ai có nhu cầu phải chuyển đô la về trong nước để làm đẹp bộ mặt của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho bằng chính đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà thờ càng nhiều và “hoành tráng” bao nhiêu thì giúp cho bộ mặt của chế độ càng đẹp đẽ bấy nhiêu. Xin mọi người đừng quên rằng, khi nào cần thì đảng Cộng sản chỉ việc ra một Quyết Nghị là tất cả nhà thờ và tài sản đó của Giáo hội sẽ thuộc về nhà nước như họ đã làm trong quá khứ. Hiện nay còn rất nhiều giáo xứ, dòng tu, giáo phận trong đó có Giáo phận Vĩnh Long của tôi, đang làm đơn khiếu nại và “xin lại” tài sản của Giáo hội bị chế độ cướp đi từ năm 1975, nhưng nào có được kết quả gì!

Có ai dám bảo đảm với tôi rằng chế độ ăn cướp đó sẽ không tái diễn lại màn tịch thu tài sản của Giáo Hội một lần nữa? Có lúc tôi nghĩ, những tay cán bộ Cộng sản quỷ quái ở Việt Nam là những tên phù thủy cao tay ấn, bọn chúng ngồi nhà và sai “âm binh” đi thu gom về những gì chúng muốn.

Nguyện Vọng Thiết Tha

Sự phát triển rầm rộ của chiến dịch mục vụ xin tiền đã tạo ra xôn xao trong dư luận và bắt đầu gặp phản ứng công khai rất bất lợi của giáo dân hải ngoại. Xin hàng Giáo phẩm trong nước hãy nhớ rằng, cộng đồng Việt Nam Hải ngoại là những nạn nhân của chế độ Cộng sản, phải hiểu rằng họ có cái nhìn và sự hiểu biết về chế độ Cộng sản khác hơn cái nhìn của một số chức sắc Công giáo trong nước. Do đó việc các Giám mục chọn thời điểm gần ngày Quốc Hận 30 tháng Tư 2007 để mở tiệc mừng quyên tiền ngay giữa lòng Thủ Đô Tị Nạn bị nhiều người coi là hành động vô tâm, mang tính cách thách thức sự đau đớn của những nạn nhân Cộng sản.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin nói, qua dư luận từ nhiều phía và những lời đàm tiếu về tình trạng các Hồng Y, Giám Mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ từ trong nước ra hải ngoại xin tiền từ nhiều năm qua và nhất là qua các sự việc đáng tiếc xảy ra trong các tiệc gây quỹ của một vài Giám mục trong thời gian gần đây, tôi xin thưa với hàng Giáo phẩm và Linh mục Tu sĩ trong nước rằng “ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI CHẤM DỨT MỤC VỤ XIN TIỀN”.

Xin đừng biến Cộng đồng Công Giáo Việt Nam Hải ngoại vốn là vùng đất màu mỡ trước kia phải trở nên hoang phế không còn canh tác được vì bị những kẻ bòn đô-la “đào tận gốc, trốc tận rễ” như hậu quả thảm thương gây ra bởi bàn tay của những kẻ bòn vàng trong lịch sử Hoa Kỳ. Đã có dấu hiệu cho thấy sự bất mãn của Cộng đồng Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại Hải ngoại dâng cao lên tới mức đáng phải chú ý.

Tại thành phố Auckland, New Zealand
Ngày 25 tháng 8 năm 2007
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Màu Cờ Sắc Áo


Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Cuộc viếng thăm 9 ngày của Đức Giáo Hoàng Benedicto tại Úc kết thúc, Ngài đã trở về Roma đầu tuần này. Chuyến đi của Giáo Hoàng chủ yếu là chủ trì Đại hội Thanh niên Công giáo toàn cầu, một cuộc họp có tầm quan trọng lớn trên bình diện quốc tế. Tòa thánh Vatican nói có đến 350,000 giáo dân của khoảng 170 nước lớn nhỏ trên thế giới tham dự. Buổi Thánh lễ chót đã diễn ra ngày Chủ nhật 20-7 tại trường đua Randwick, Sydney - nhiều người đã đem theo đồ cắm trại để ngủ tại đây đêm thứ bẩy. Cha Lombardi, phát ngôn nhân Vatican nói Sydney đã chứng kiến một tập hợp đông đảo hiếm có kể từ ngày Thế vận hội 2000. Ngày 21-7 Giáo hoàng đã họp riêng với 4 người Công giáo Úc, thời còn trẻ họ đã từng bị lạm dụng tình dục tại nhà thờ. Ngài rất quan tâm và đau lòng về những tai biến này. Hôm thứ bẩy, Ngài đã chính thức ngỏ lời xin lỗi về các vụ lạm dụng như vậy. Ngoài ra trong cuộc viếng thăm Úc, Giáo Hoàng đã đề cập đến một số vấn đề có tầm quan trọng sống còn cho cả loài người, như nạn bạo động, sự phát triển có duy trì liên tục trong công lý và hòa bình.

Theo dõi tin tức trên TV và các mạng lưới (net) trong suốt tuần qua, những hình ảnh mầu sắc rực rỡ đã gây cho tôi một niềm cảm xúc vô biên. Đó là những hình cờ xí rợp trời của những người Công giáo các nước đã trương lên vào dịp này. Riêng tôi, và có lẽ rất nhiều người Việt ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đã chăm chú theo dõi hai mầu vàng và đỏ. Đó là hai mầu có liên hệ đến dân tộc Việt Nam chúng ta. Từ nửa thế kỷ qua Việt Nam có hai lá cờ khác nhau, cùng chọn hai mầu vàng và đỏ. Đó là cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa và cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa của hai lá cờ này như thế nào?

Hãy nhìn đến thông lệ và nguyên tắc hình thành một lá cờ tiêu biểu cho một nước, một dân tộc trên trường quốc tế. Quan trọng nhất là nền cờ, nghĩa là mầu sắc chiếm trọn bề mặt lá cờ hình chữ nhật theo quy định về kích thước. Ngoài ra những hình ảnh hay dấu hiệu nhỏ trên cờ có mầu sắc khác cũng chỉ phụ thuộc. Chính vì thế cờ Việt Nam Cộng Hòa có nền vàng nên gọi là cờ vàng, còn cờ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa gọi là cờ đỏ.

Sắc vàng vốn dĩ tiêu biểu cho tinh thần quật cường của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn xưa, bắt đầu từ lá cờ vàng của Trưng Vương, cũng như chiến bào mầu vàng của Bà khi cưỡi voi ra trận chống lại quân nhà Hán bên Tầu đến xâm lược nước ta năm 42 đầu Công Nguyên. Rồi kế đến năm 246 bà Triệu Ẩu, kiện tướng "cuỡi cá kình trên biển Đông", một hình ảnh biểu tượng trong tâm người Việt để ghi nhớ công đức của Bà chỉ huy quân đội chống lại giặc Đông Ngô xâm phạm bờ cõi Việt Nam. Lịch sử ghi lại bà Triệu thường mặc áo ngắn mầu vàng cầm thương cưỡi ngựa ra trận.

Còn cờ đỏ là mầu của máu, mầu của cách mạng vô sản. Trước đó đã có những cuộc cách mạng ôn hòa của một số nước Âu châu khi người dân tìm cách thay đổi các chế độ vua chúa phong kiến vì nhu cầu tiến bộ và phát triển. Nhưng khi những người Cộng sản Nga làm cách mạng vô sản để nhuộm đỏ cả hoàn cầu vào đầu Thế kỷ 20, họ chọn nền cờ đỏ cũng đúng, vì đây là cuộc cách mạng đẫm máu trong suốt 100 năm, dài hơn cả hai cuộc thế chiến. Ngày nay những người Cộng sản Việt Nam tiếp tục dùng cờ máu, nhưng sự thật lá cờ máu đó nay chỉ còn đại diện cho chế độ cai trị của một nhóm người tàn dư một chủ nghĩa chính trị đã lỗi thời. Nó không thể nào tiêu biểu cho một dân tộc có lương tri và đức độ, có sức sống mãnh liệt từ bốn ngàn năm qua. Đại họa cho dân tộc Việt Nam là cờ đỏ đã làm biết bao máu đổ thịt rơi vì chiến tranh, ở bên này cũng như bên kia lằn mức.

Trước ngày Đại hội Thanh niên Công giáo ở Úc, nhiều người theo dõi thời cuộc đã dự liệu sẽ có một cuộc đấu gay go giữa cờ vàng và cờ đỏ, vì người ta cho rằng cả hai bên đối nghịch đều sẽ có dịp trương ra ngọn cờ tiêu biểu của họ. Thế nhưng kỳ lạ thay, sự va chạm đã không xẩy ra. Trước ngày Đại hội Thanh niên, một cuộc Diễn hành Quốc kỳ đã được tổ chức tại Barangaroo, Sydney hôm 15-7. Hình ảnh gửi qua các "net" đã cho thấy những lá cờ vàng sọc đỏ được tuổi trẻ gốc Việt trên thế giới đến dự Đại hội mang giơ lên cao, quy tụ thành một nhóm rất đông giữa rừng cờ các nước, nhưng không thấy bóng lá cờ đỏ sao vàng. Có lẽ Sứ quán của mấy anh Cộng sản đã bị bất ngờ. Nhưng đến cuộc Đại lễ ngày 20-7, người ta càng thấy lạ, vì trong rừng cờ đầy đủ mầu sắc vẫn không thấy bóng cờ đỏ sao vàng, mà chỉ thấy hàng ngàn cờ lớn nhỏ nền vàng ba sọc đỏ.

Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự do ở Úc, trong một cuộc phỏng vấn của đài Phát thanh 4EB (FM), đã cho biết một số chi tiết về vụ rước cờ vàng. Từ 7 giờ sáng, thanh niên gốc Việt ở Úc và một số ở nước khác khoảng 4,000 người đã tập trung ở Công viên Belmore. Ông Phong nói tổ chức của ông đã làm 5,000 lá cờ, trong đó 1,000 lá cờ cỡ lớn và cỡ trung, còn lại cỡ nhỏ để cầm tay. Từ công viên, đoàn thanh niên Việt đã rước cờ đi bộ quãng đường dài 4 cây số trong thành phố để đến nơi hành lễ là trường đua Randwick. Dọc lề đường dân Úc cũng như rất nhiều du khách đều đứng lại xem, vỗ tay hoan hô đoàn thanh niên VN mang cờ vàng. Tại nơi hành lễ những người được dự thánh lễ đã vào sân từ trước, trong số này đã có khoảng 1,000 thanh niên gốc Việt và cả giới trẻ từ VN qua. Nhưng khi đoàn 4,000 thanh niên cầm cờ vàng tới, ban tổ chức cũng mở cổng cho họ vào luôn với tất cả cờ vàng. Sau đó những lá cờ lớn nhỏ được phân phát hết cho giới trẻ VN có mặt từ trước, và cả những người nước ngoài cũng đòi được cầm cờ vàng ba sọc đỏ. Rút cuộc khu cờ vàng chiếm chỗ lớn nhất trong rừng cờ quốc tế.

Ông Phong cho biết một thanh niên Công giáo Việt ở Úc, anh Phạm Vũ Anh Dũng đã có dịp dâng lên Giáo Hoàng một khăn choàng mầu vàng có ba sọc đỏ, vì thời tiết ở Úc lúc này là mùa đông. Đức Thánh Cha đã cười vui, ban phúc lành cho khăn và Ngài cầm khăn tự choàng lên cổ. Cờ vàng đã đại thắng, không phải chỉ thắng trong một dịp hiếm có, mà còn thắng dài dài trong những ngày sắp tới. Cờ vàng là linh hồn của dân tộc. Linh hồn còn, dân tộc còn ... mãi mãi trong tương lai của loài người.

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh







Con Đường Hiệp Thông

Bảo Giang

Lời người viết: Trưóc đây trong loạt bài “Sự yên lặng của HĐGMVN“ tôi rất trân quý và đánh gía rất cao sự yên lặng của HDGMVN trước những sự kiện ồn ào có liên quan đến vụ việc LM Nguyễn văn Lý và các vấn đề nhạy cảm về chính trị. Tôi đã trân quý sự yên lặng này như sự yên lặng của Đức Maria trên đường theo con đi chịu chết để giừ lấy đoàn chiên vẹn toàn. Rất nhiều người, kể cả những người không chấp nhận sự yên lặng của HĐGMVN vẫn không thể phản bác quan điểm của loạt bài này.

Nhưng nay, một sự kiện không nhỏ vừa xảy ra, sự kiện mà trước đây, người ta chỉ nghe nói, hoặc võ đoán về hướng đi với bắc bộ phủ của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Nay thì không cần suy diễn nữa, bởi vì chính Ngài đã công khai hóa việc muốn dẹp bỏ cờ Vàng, là lá cờ biểu tượng cho một khát vọng Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý của người Việt Nam, mà không phải chỉ có người tỵ nạn cộng sản Việt Nam, lúc bỏ nước ra đi vẫn hằng đem theo bên minh, mà toàn thể con dân Việt Nam, người còn sống cũng như đã chết, vẫn luôn mơ ước cho đất Mẹ có được ngày sống trong Tự Do, Dân Chủ Nhân Quyền, Công Lý. Bằng một văn thư chính thức, Ngài lên án ngọn cờ ấy đã … làm nghẽn con đường hiệp thông! Tệ hơn thế, Ngài còn ca nền văn hoá vô đạo, bất nhân, bất nghĩa của Việt cộng như một truyền thống văn hóa giá trị của dân tộc Việt … thì quả là một điều không thể chấp nhận được.

Dĩ nhiên, sự kiện này còn để lại nhiều hệ lụy cho vết thương chưa bao giờ lành. Tuy thế, tôi cũng không có ý định viết về chuyện này. Nhưng sáng nay, trong bài phúc âm, tôi được nghe lại lời của Chúa truyền dạy cho các môn đệ rằng ”Đừng sợ hãi, những điều gì thày truyền dạy các con trong đêm tối, các con hãy rao giảng giữa ban ngày … Và đừng sợ những kẻ chỉ có thể giết được phần thân xác nhưng không bao giờ có thể giết được linh hồn của các con” ( Mt 10. 26-30). Theo đó tôi buộc tôi phải viết. Viết theo tiếng nói của công tâm, còn việc mất lòng ai hay được lòng ai thì đó không phải là vấn đề của tác giả nữa.

Trân trọng.


“người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng) lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hóa của dân tộc VN, một nền văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức. ĐHY Phạm Minh Mẫn. (Hết trích).

Kính thưa qúy độc giả,
Kính thưa Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn,

Đọc xong đoạn thư ngắn này, tôi thực sự không muốn tham gia bàn luận, càng không muốn viết một chữ nào về sự kiện tôi tạm gọi là “Sự cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn“ trong vụ việc Ngài cảnh tỉnh sự kiện Cờ Vàng xuát hiện trong ngày World Youth Day tại Úc. Hơn thế, Ngài còn nặng lời cho rằng sự xuất hiện của những lá cờ Vàng trong ba kỳ đại hội trước đây tại Pháp, Đức, Canada đã làm nghẽn lối con đường hiệp thông của giới trẻ Việt Nam. Nhưng rút cuộc, tôi lại phải viết lên đôi dòng. Những dòng chữ vì nghĩa đồng bào cũng như vì nền văn hóa của dân tộc Việt Nam!

I. Vì đồng bào, những người di cư, di tản, vượt biên, vượt biển. Những người không kịp di cư, di tản và những người không có phương tiện hoặc không thể vượt biên, vượt biển khi bọn cộng sản tràn vào và chiếm đóng trên quê hương Việt Nam, nay còn sống hay đã chết.

Như có một giọt nước mắt bỗng dưng chảy lăn xuống trên mặt tôi. Tôi nhớ đến họ, tôi mủi lòng. Rồi tôi nhớ đến hai Vị Giám Mục khả kính của Giáo hội Công Giáo Việt Nam là Đức cố Giám Mục Lê Hữu Từ và Đức Cố Giám Mục Phạm Ngọc Chi, cùng với nhiều quý Linh Mục, tu sỹ đạo đức thánh thiện, trong đó có cha sở của tôi suốt một đời lao tâm khổ tứ. Các Ngài lao tâm khổ tứ bởi vì, trước là muốn cho con chiên, bổn đạo của mình được hưởng lấy phần Tự Do, Nhân Bản, Công Lý trong đời sống, sau là được tự do trong việc giữ gìn đạo thánh Chúa, nên đã không quản ngại gian lao khi dẫn dắt đoàn chiên vào nam. Trong những vị ấy, có Người đã về nhà Cha trước khi Việt cộng mò vào nam năm 1975. Có Người lại giật nẩy mình lên khi thấy cái đôi dép râu bước vào khuôn viên nhà thờ rồi mới về với Chúa trong lo âu không biết cuộc đời của đoàn chiên kia sẽ ra sao? Rồi lại có Vị thì đã chết trong nhà tù với vòng gông cùm của cộng sản như Linh Mục Nguyễn Huy Chuơng, Linh Mục Hoàng Qùynh … đều mơ ước chữ Tự Do Nhân Quyền và Công Lý cho con dân Việty Nam. Những niềm mơ ước của họ nay đã bị kết án là làm nghẽn đường hiệp thông rồi hay sao? Tại sao thế nhỉ?

Viết đến đây, tôi lại nhớ đến chuyện đức Thánh Cha Gioan Phaolo Đệ Nhị, khi Ngài vế thăm quê hương Ba Lan, Ngài nắm lấy tay Lech Walecca mà dẫn đi lên đường chính nghĩa. Chính nhờ sức mạnh từ nơi Đức Thánh Cha Giooan Phao Lô Đệ Nhị mà Ba Lan nói riêng, và toàn khối cộng sản Đông Âu và Liên Sô nói chung đã sụp đổ. Toàn thể thế giới như đã nhảy mừng, reo vui khi chế độ cộng sản toàn cầu đổ xuống âm phủ. Nhưng nay thì chuyện đời bỗng dưng trớ trêu và thật là may cho Đức Thánh Cha quá, Chúa đã gọi Ngài về sớm, chứ nếu Ngài còn sống đến hôm nay thì chắc Ngài cũng bị Đức Hồng Y Minh Mẫn ra cho bản án là đã làm nghẽn đường hay làm tan nát sự hiệp thông đấy nhỉ?

Chuyện ấy đã xa, mới đây, Đức Tổng Hà Nội đã kêu gọi đoàn chiên đến cầu nguyện trong hoà bình để đòi lại Công Lý, đòi lại phần đất của nhà chung đã bị bọn Việt cộng chiếm đoạt từ mấy chục năm qua. Nhiều nơi giáo dân phấn khởi nghe theo lời cha chung, kéo nhau về hoặc cùng hiệp chung một lời ý cầu. Riêng toà tổng Sài gòn do Đức Hồng Y trấn nhiệm thì lặng như thóc ngâm. Cho đến nay, sau bài viết của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, người dân mới bàng hoàng để biết và suy ra rằng, đòi lại Công Lý như thế là đang làm nghẽn đường hiệp thông đấy! Ngài yên lặng là phải phép lắm!

Vậy, Không biết việc giáo dân Hà Nội tập trung đến Toà Khâm Xứ cũ để đọc kinh cầu nguyện trong hòa bình theo lời kêu mời của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội để đòi lại Công Lý có phải là một “thói đời đối kháng“ mà ngài nhắc đến không, thưa Ngài?

Thưa quý anh hồn tướng sỹ trận vong, quý anh hồn các thần lương tướng của non sông Việt. Những anh tài của non sông như quý tướng Đỗ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh … Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Pham văn Phú, Lê đăng Vỹ, Trần văn Hai … Máu xương của quý vị đã đổ ra trên non sông Việt để bảo vệ cho màu cờ sắc áo, để bảo vệ cho người dân được hưởng tự do an vui lạc nghiệp, là một ơn nghĩa vô cùng lớn lao cho toàn dân Việt. Nhưng nay, khéo mà bị coi như công … Dã Tràng, nếu không muốn nói là đã bị Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn chính thức lên án rồi đấy. Lý do của sự việc kết án là? Bởi vì việc làm của quý tướng sỹ trận vong, của các anh hồn tử đã bảo vệ cho non sông Việt được tươi thắm trong Tự Do Công Bằng và Nhân Bản lúc trước là … làm nghẽn đường hiệp thông! Bởi vì nếu không có sự hy sinh cao qúy của qúy vị giữ lấy màu cờ sắc áo ở miền nam mấy chục năm, để chính Đức Hồng Y hưởng lợi là có được tự do đi học, đi tu và rồi lên tới phẩm hàm Hồng Y của Giáo Hội Công Giáo thì đã …. hiệp thông lâu rồi, Ngài cần gì phải đi học!

Lại đến những người vượt biên bượt biển, di tản còn sống hay đã chết nữa. Qúy vị có biết là giơ cao lá cờ ấy lên trong những nơi công cộng, trước khách ngoại như thế là ... làm nghẽn đường hiệp thông không đấy? Ai bảo thế? Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đấy! Không ở nhà để hiệp thông còn đi tỵ nạn làm gì?

Thế mới biết, chữ viết của Ngài còn sắc và lạnh lùng hơn đường dao mã tấu!

II. Vì nền Văn Hóa của dân tộc Việt.

Thưa Đức Hồng Y khả kính,

Nếu Ngài cho rằng đoạn văn này Ngài viết là đúng với lương tâm và nhận xét của Ngài, kính xin Ngài vui lòng chứng minh cho, không những chỉ cho con chiên bổn đạo của Ngài, mà cả Quốc Dân Việt Nam biết là truyền thống văn hóa của Việt cộng trong suốt mấy chục năm qua trên đất nước Việt là truyền thống nào và giá trị của chúng ra sao?

Phần chúng tôi, những con dân Việt nam thì tất cả đều thấy rõ một điều là: Kể từ ngày 03-02- 1930, Việt Minh cộng sản gọi tắt là bọn Việt cộng đã đem và gieo rắc vào Việt Nam một nền văn hóa vô luân, bạo ngườc, bất nhân và phi pháp.

1. Cuộc đấu tố vô đạo, bất nhân

Nhờ văn hóa dép râu, nón cối, bịt mắt, bịt mặt của Việt cộng, người dân Việt Nam mới biết đến Đại Từ đấu tố. Hơn thế, được chúng giáo dục và rồi cùng buộc nhau đi vào cuộc người đấu tố người. Trong cuộc đấu tố, việc gõ cửa, bịt mắt người dẫn đi ban đêm rồi cắt cổ, giết người vùi xuống sông hồ, ao tù có thể còn là chuyện … nhỏ, nhưng chủ trương tiêu diệt nền luân lý đạo nghĩa trong làng xóm Việt Nam chắc không phải là chuyện nhỏ đâu thưa Ngài. Nhưng đó chính là một sách lược khởi động nền văn hóa vô luân, bất nhân của Hồ của cộng đấy.

Khi tôi viết lại những điều này, có thể Đức Hồng Y sẽ trách là tại sao tôi cứ nhắc lại cái tội ác của Việt cộng mãi, thay vì quên nó đi để mà hiệp thông? Xin thưa với Ngài rằng. Tội tổ tông truyền không biết là có từ bao giờ nhỉ?, mà đến hôm nay vẫn còn truyền lại cho chúng tôi và con cháu chúng tôi. Đã thế, không tự nhiên mà được khỏi tôi tổ tông truyền đâu, nhưng phải qua phép Thánh Tấy cơ đấy!. Theo đó, xin Ngài nhìn xem, bọn dã nhân Việt cộng đã có bao giờ công khai xin lỗi đồng bào tôi vì những điều vô đạo chúng đã thực hiện trong suốt mấy chục năm qua chưa.? Hình như chẳng có ai nhìn thấy cái dấu chỉ là chúng sẽ xin lỗi đồng bào vì những hành động dã nhân giết người ấy.

Vậy, cuộc bạo hành luân lý ấy là giá trị tinh thần và đạo đức của Việt cộng mà con dân Việt Nam phải đề cao chăng?

2. Cuộc tuyên truyền và thuật áp dụng nền văn hóa vô luân.

Ngày xưa, một đứa trẻ từ khi còn nằm nôi đã thấm nhuần tình nghĩa đồng bào theo những bài ca dao:

- Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con

Hoặc là

- Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Nhưng từ sau năm 1954 ở miền bắc, và miền nam sau 1975, khi vào nhà trường, trẻ được giáo dục về nền luân lý và nhân bản con ngưòi ra sao? Ngài có thấy chúng mở sách và dạy dỗ cho trẻ truyền thống đồng loại phải biết bao bọc lẫn nhau theo tình huynh đệ, nghĩa đồng bào hay không? Ngài có thấy chúng dạy Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín Trung cho trẻ hay không? Ngài có thấy chúng nói đến chữ luân lý và công bằng xã hội hay không? Hay Ngài chỉ thấy đâu đâu chúng cũng o ép và dạy trẻ theo gương “bác Hồ“ vĩ đại. Mà cái gương vĩ đại của Hồ chí Minh là cài gương nào nhỉ?

a. Gương bất hiếu, vô gia đình chăng?

Áo rách giữ lấy lề, cổ nhân đã dạy thế. Và có lẽ, người dân Việt từ bắc chí nam, dù nghèo khó, hay giàu sang cũng đều có một điểm giống nhau là giữ lấy chữ hiếu làm đạo con trong nhà trong những ngày giỗ chạp tết nhất cho ông bà cha mẹ. Nhưng Hồ chí Minh, tên cầm đầu của cái tổ chức dã nhân cộng sản. Kẻ huyênh hoang là vì dân vì nước và cũng chính là kẻ đẻ ra cái nền văn hóa Việt cộng vô luân ấy không còn biết đến cha mẹ mình là ai, rồi họ sống chết ra sao? Phận làm con không làm được một ngày giỗ chạp cho cha mẹ, thì luân lý ở đâu, đạo đức làm người ở đâu, mà Ngài lại bảo rằng mẹ mìn Việt cộng đã dày công dưỡng dục và đem vào xã hội Việt Nam một “di sản vô giá, di sản ấy là một truyền thống văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức” ?

Ấy là chưa kể đến một văn học vô phụ vô phu của Việt cộng do Tố Hữu làm lãnh đạo và cổ võ cho giống nòi Việt làm nô lệ là:

- “Thương cha thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một thương ông thương mười”

Tưởng ông là ai. Không ngờ lại là tên đồ tể Stalin, kẻ mà dân Liên Sô đã treo cổ lên vào năm 1989 khi chế độ tàn bạo vô luân của y đổ xuống âm phủ. Thật tởm qúa!

b. Hay là gương trộm cướp?

Khi sang Pháp thì Nguyễn Tất Thành đi cướp lấy cái tên Nguyễn Ái Quốc là tên viết chung trên báo của nhiều người. Vào tù thì nghề đi ăn cướp vặt càng tinh vi hơn. Cuốn sách Ngục Trung Thư có phải là của Hồ không? Rõ ràng là không phải, ấy thế mà Hồ cũng sang đoạt tài sản ttri tuệ của người khác và được bọn lưu manh Việt cộng ra sức chà bóng! Gương trộm cướp này có phải là truyền thống giá trị Văn Hóa không thưa Ngài?

C. Hay là noi theo gương bất nhân, bất nghĩa của Hồ?

Có phải cuộc đấu tố vô đạo giết chết hơn 60 ngàn người dân miền bắc, không còn kể đến chữ Nhân chữ Nghĩa là truyền thống văn hóa vô gía chăng? Sự thật, chỉ riêng vụ án đấu tố bà Nguyễn thị Lan, là người mà có thể nói là toàn bộ cái trung ương đầu tiên của chúng, từ Hồ chí Minh, đến Đặng xuân Khu, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn. Lê Duẩn … đều đến ăn ở lê la ở nhà bà và nương nhờ bà giúp đỡ. Nhưng ngay khi cái gọi là kháng chiến ấy thành công, chúng đã lôi bà ra đấu tố và làm thịt vào năm 1955 đã đủ nói lên toàn bộ cái bất nhân, bất nghĩa của đám vô loại này rồi. Những bất nhân, vô đạo này lại được coi là truyền thống văn hóa có giá trị về mặt tinh thần và đạo đức chăng, thưa Ngài? Hãi qúa!

3. Cuộc bịt mặt vĩ đại

Bằng những cú lừa vĩ đại của thế kỷ, Hồ và Việt cộng đã đẩy toàn bộ Quốc Dân Việt Nam vào vòng chết để chúng mưu cầu mục đích xích hóa dân ta vào vòng nô lệ đỏ.

A . Cú lừa thứ nhất:

Chiêu bài chống Tây để giải phóng dân tộc! Hầu như chả còn mỹ từ nào hay hơn thế nữa để lừa phỉnh biết bao tầng lớp, từ sỹ phu cho đến anh công nhân, nông dân nổi lên đánh đuổi ngoại xâm. Những tưởng là dân ta sẽ được độc lập tự do và nhân phẩm con người không còn bị chà đạp như dưới thời thằng tây đô hộ. Kết qủa ra sao thưa Ngài? Có phải là cái vòng ngoại xâm vừa được bẻ gẫy thì toàn dân phải đeo lấy cái ách cộng sản còn nặng nề và tàn độc hơn ngàn lần cái kìm kẹp của ngoại xâm không? Dưới ách đô hộ của thực dân thì người dân rên xiết lầm than. Nay dưới cách ách của Việt cộng thì chẳng còn phải rên xiết và lầm than nữa. Bởi vì, người chưa kịp rên la thì chúng đã giết chết rồi thì còn ai đâu nữa mà rên với xiết.

Xem thế thì cái ác độc của thằng Tây chả thấm gì cái tàn bạo của Hồ của Cộng nhỉ?

B. Cú lừa thứ hai: Đánh Mỹ cứu nước?

Nay chiêu bài đánh Mỹ cứu nước ra sao rồi thưa Ngài? Từ những tên cán gộc Kiệt, Khải, Dũng , Triết ngày đêm lê la đến nhà Mỹ để van nài xin ăn, xin ngoại giao. Nếu Mỹ ngoảnh mặt làm ngơ thì chúng ăn không ngon ngủ không yên, vậy thì cái liêm sỉ của “Việt cộng chống Mỹ cứu nước“ ở đâu? và xương máu của biết bao nhiêu người chết vì cái chiêu bài ấy nay ra sao? Nghe nói rất nhiều những anh hùng của ngày ấy nay lại là dân oan lang thang trên bình diện cả nước đấy thưa Ngài. Rồi khi đọc danh sách dân oan thì thấy toàn là tên của các cha mẹ, phụ huynh của các chiến sĩ anh hùng đánh Mỹ, chống Pháp cứu nước đấy thưa Ngài.

Không biết có cái chiến thắng nào lại hèn mạt như cái chiến thắng ấy không thưa Ngài?

C. Cú lừa thứ ba Tự Do Nhân Quyền Công Lý?

Thưa Ngài ở Việt Nam ngày nay có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý không nhỉ? Tôi tin rằng Ngài sẽ bảo là có. Như thế, chắc chuyện Giáo Trình huấn luyện các chủng sinh Đại Chủng Viện Sài Gòn hiện nay, mà người ta đồn rằng phải được Việt cộng duyệt xét trước là không có thật đâu nhỉ? Tổng Giáo Phận Sài Gòn muốn nhận bao nhiêu người nhập học mà chả được, cần gì phải xin phép VC?

Rồi không biết cái tấm hình Linh Mục Lý bị bịt miệng giữa toà như thế là có thật không nhỉ, hay lại là cái bọn xấu nó ghép phim đấy? Ngài đã nhìn thấy tấm hình …. “nghịch Lý” ấy bao giờ chưa, thưa Ngài ?

Để trả lời những thắc mắc trên, tôi xin trích lại đây một đoạn phát biểu của đại biểu Trần Quốc Thuận, phó chủ nhiệm quốc hội khóa X của Việt cộng để xem sự việc ra sao? Trần Quốc Thuận công bố:

“Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống … Nói dối lâu ngày thành thói quen. Thói quen lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng nó lại là đạo đức của xã hội (Việt cộng). Trích bài phỏng vấn trên Vnexpress 10-2006,

Trong hai đoạn trích của bài viết này. Một của Ngài, một của cán gộc Trần quốc Thuận, không biết ai là người đã nói lên sự thật?

Ngài thì cho rằng: Việt cộng đã dày công dưỡng dục và đem vào nhà Việt Nam một nền văn hóa phong phú và có giá trị tinh thần và đạo đức!

Trong khi đó, Trần quốc Thuận lại thẳng thắn nhìn nhận rằng: Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống, nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là đạo đức cách mạng (của Việt cộng). Như thế, theo Trần quốc Thuận, cái xã hội Việt cộng ấy không có nền tảng luân lý và đạo đức mà chỉ có dối trá.

Phần Ngài, không biết phải giải thích thế nào khi Ngài đánh gía đó là một nền văn hóa có gía trị tinh thần và đạo đức?

Kính thưa qúy độc giả,
Kính thưa Đức Hồng Y

Viết lắm thì nhiều khi cũng giống như nước đổ lá môn, nhưng không viết thì không được. Để kết:

Tôi xin thưa rằng: Tôi lấy làm tiếc, tiếc qúa. Tiếc cho vị thế của Ngài. Bởi lẽ, Ngài đã sống, sống trong đạo cao trọng vọng mà không theo kịp một tấm gương can trường của thời đại mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao Lô Đệ Nhị đã dẫn đường. Đó là việc Ngài sống anh dũng giữa lòng Cộng Sản. Rồi chính Ngài đã nắm tay Lech Walesa để mở đường cho Công Lý tiêu diệt toàn bộ cộng sản ở Ba Lan nói riêng, và ở Đông Âu cũng như chính cái nôi Liên Sô nói Chung. Tấm gương can trường vĩ đại ấy, Ngài đã không có gan để theo, thiết tưởng cũng nên giữ im lặng qua ngày thì tốt hơn. Ai ngờ Ngài lại đi nói tiếng nói của cộng quyền mà hòng bóp nghẹt một lá cờ là niềm mơ ước cuối cùng của đồng bào mình thì qủa là một điều rất lạ, nếu như không muốn nói là quái lạ! Lòng dân không phục, nếu như không muốn nói là oán vọng!

Vì thế, tôi tiếc. Tiếc vì, phải chi Ngài nói được một câu: Cái lá cờ đỏ sao sàng ấy đã làm nghẽn đường hiệp thông của dân tộc Việt Nam mấy chục năm qua. Sau đó, Ngài đến thăm Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân, LM Nguyễn văn Lý thì có lẽ Ngài đã trở thành một vị Anh Hùng cứu dân cứu nước rồi, chứ có đâu lại phải nghe tiếng bấc tiếng chì như hôm nay.

Thế mới biết, lằn ranh của Võ Mục Vương và Tần Cối chỉ cách nhau bằng một cách nhìn, một hành động, mà không phải vì lớp áo hay cái mũ.

Bảo Giang


Cộng đồng Việt Nam kiện hội đồng thành phố San Jose

LUẬT SƯ THÀNH PHỐ SAN JOSE THỈNH CẦU HỦY VỤ KIỆN!
BỊ TÒA BÁC BỎ!

Sáng ngày 24-7-2008, lúc 9 giờ, tại Tòa Án Quận Hạt Santa Clara, số 191 đường North First, San Jose, CA 95113, phòng số 19, đã diễn ra phiên tòa xử vụ Little Saigon Foundation đại diện Cộng Động Việt Nam Bắc California kiện Hội Đồng Thành Phố San Jose đã vi phạm luật Brown Act của tiểu bang trong cuộc biểu quyết cái tên Saigon Business District đêm 20 tháng 11, 2007.

Vụ kiện này đã được chuẩn bị sau khi ông Williams Forrest, một nghị viên trong Hội Đồng Thành Phố tiết lộ rằng việc bỏ phiếu cho cái tên Saigon Business District đêm 20 tháng 11, 2007 đã được nghị viên Madison Nguyễn vận động trước với ông ta rồi. Việc vận động riêng tư các nghị viên khác trước cuộc biểu quyết cho một vấn đề là vi phạm luật Brown Act, do đó báo chí và dư luận đã đặt nghi vấn là Nghị viên Madison Nguyễn đã phạm luật với sự đồng lõa của một số nghị viên khác trong Hội Đồng Thành Phố San Jose.

Luật sư của Hội Đồng Thành Phố, Richard Doyle nói rằng ông không thấy có bằng cớ là Hội Đồng Thành Phố và nghị viên Madison đã vi phạm luật Brown Act, nhưng ông ta đã khuyên ông Thị Trưởng Chuck Reed và Nghị viên Madison Nguyễn lập tức ra Memorandum hủy bỏ ngay nghị quyết đặt tên Saigon Business District đã được biểu quyết 8/3 đêm 20 tháng 11, 2007, gây phẫn nộ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn vì hành động bóp chết nền Dân Chủ Hoa Kỳ khi ông Chuck Reed chấp nhận sự thắng lợi của cái tên do nhóm thiểu số 4% thay vì cái tên Litlle Saigon do nhóm đa số 94% lựa chọn và phát biểu ngay tại phiên họp đêm đó.

Ngày 29-1-2008, Luật sư của Ủy Ban Pháp Lý Phong Trào Cử Tri Đòi Dân Chủ đã gửi một “Demand Letter” cho Thị Trưởng Chuck Reed và Hội Đồng Thành Phố yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 74127 ngày 20-11-2007. Nhưng ngày 6-2-2008, Thị Trưởng Chuck Reed vẫn cương quyết không thay đổi quyết định nào cả.

Đùng một cái, trên báo San Jose Mercury News, ký giả Joshua Molina đưa tin “Saigon” vote in question. COUNCILMAN'S ADMISSION THAT NGUYEN LINED UP HIS VOTE TRIGGERS LEGAL PROBE. Rồi một bài khác tựa đề “San Jose Council members may have broken law with 'Little Saigon' Vote”(SJMN, Feb. 12, 2008).

Thế là, lúc 3:00 giờ chiều ngày 11-2-2008, Thị Trưởng Chuck Reed và nghị viên Madison Nguyễn khẩn cấp mở cuộc họp báo tuyên bố rút lại quyết định đặt tên Saigon Business District, đêm 20-11-2007 và đề nghị đưa cái tên “Little Saigon” ra cho cử tri toàn Thành Phố biểu quyết trong cuộc tổng tuyển cử.

Nghị viên Madison Nguyễn đã khẩn cấp sửa sai, nhưng vẫn khư khư không nhận là đã phạm luật Brown Act của tiểu bang, cho nên, cái tên Saigon Business District đã bị chính hai đương sự khai tử, nên vụ kiện của Cộng Đồng Việt Nam Bắc Califonia vẫn được tiếp tục.

Trong phiên tòa sáng 24-7-2008, luật sư biện hộ cho Hội Đồng Thành Phố San Jose đã nói là không có bằng chứng Hội Đồng Thành Phố đã vi phạm luật Brown Act, hơn nữa mọi việc đã được hủy bỏ và dàn xếp rồi, xin tòa hủy bỏ vụ Cộng Đồng Việt Nam Bắc California kiện Thành Phố San Jose Vi Phạm Luật Brown Act.

Ông Chánh Án phán “overrule”! Tức là bác bỏ phản biện của luật sư cãi cho Hội Đồng Thành Phố và bác bỏ thỉnh cầu hủy bỏ vụ kiện.

Luật sư của Cộng Đồng Việt Nam, ông James Chadwik, một luật sư danh tiếng về các vụ phạm luật hành chính Hoa Kỳ và luật sư phụ tá, bà Margaret Pak được Tòa cho phép bổ túc hồ sơ pháp lý với những bằng chứng cụ thể, rõ ràng hơn để tiếp tục vụ kiện Thành Phố San Jose.

Về việc sưu tập các thông tin liên quan đến vụ việc vi phạm luật Brown Act, phía luật sư của Hội Đồng Thành Phố đòi phía Cộng Đồng phải trả số tiền chi phí in ấn điện tử trên 3,800 Mỹ kim. Luật sư James Chadwid của Cộng Đồng bác bỏ sự đòi hỏi này, nói rằng Thành Phố có bổn phận phải cung cấp các thông tin và các dữ kiện liên quan đến Văn phòng Nghị viên Madsion Nguyễn cho bên nguyên đơn theo “Public Record Act”.

Tòa hứa là sẽ can thiệp để bên nguyên đơn có các thông tin cần thiết cho vụ kiện. Như vậy, về phương diện pháp lý, Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali đã có thắng lợi bước đầu với phán quyết “Vụ kiện vẫn được tiếp tục”, cần bổ túc thêm các bằng chứng.

Theo tiết lộ của các luật sư, thì, trong phiên tòa sắp tới, có thể những người liên quan đến vụ vi phạm luật Brown Act sẽ phải ra khai hoặc làm chứng trước tòa án. Khai trước tòa là lời khai hữu thệ, chắc chắn nghị viên Madison Nguyễn sẽ không dám gian dối như bà ta đã từng làm khi nói trước đồng hương và báo chí. Khai gian dối dưới lời thề (under Oath) sẽ dẫn đến tội danh “Obstruction of justice” (ngăn cản công lý) là một tội hình sự nghiêm trọng.


Trong phiên tòa, cơ quan Tái Phát Triển Thành Phố cũng bị đề cập đến, nhưng tòa phán quyết là không thấy vụ việc có liên quan trực tiếp đến cơ quan này và miễn tố. Luật sư của Cộng Đồng Việt Nam cho rằng có thể gác lại vấn đề về cơ quan tái thiết vì không quan trong bằng Vụ Brown Act, có thể sẽ tiến hành sau.

Tiến sĩ Lê Hữu Phú, một trong những đồng hương quan tâm theo dõi vụ kiện, bầy tỏ sự lo âu về tài chánh trong trường kỳ. Ông ước mong mọi thành viên của Cộng Đồng hãy tích cực hỗ trợ bằng cách đóng góp và kêu gọi đóng góp vào quỹ pháp lý, bởi vì số tiền cần cho vụ kiện sẽ khá lớn. Ông nói, phía Thành Phố, họ có hàng triệu đồng tiền đóng thuế của chúng ta, còn chúng ta thì rất khó khăn về tài chánh. Luật sư Tâm và luật sư Tiệp thì tỏ vẻ vui mừng cho bước đầu thắng lợi, nhưng cho biết là tòa chưa có một phán quyết nào ngoài việc cho Cộng Đồng Việt Nam tiếp tục bổ túc hồ sơ kiện.

Phiên tòa đã diễn ra khoảng chưa đầy nửa tiếng đồng hồ.

Phóng viên OngCali/San Jose

Thơ Mời tham dự Lễ Chung thất Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang tại chùa Pháp Luân, Houston, Hoa Kỳ - PTTPGQT báo động các tin tức loan tải sai lạc

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 25.07.2008

Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác kính mời chư Tôn giáo phẩm, đồng bào Phật tử và đồng bào các giới tham dự Lễ Chung thất Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang tại chùa Pháp Luân, thành phố Houston, Hoa Kỳ - PTTPGQT báo động các tin tức loan tải sai lạc về Tang lễ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống

PARIS, ngày 25.7.2008 (PTTPGQT) - Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác vừa viết Thư Mời tham dự Lễ Chung thất Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang gửi đến Chư Tôn đức Giáo phẩm, quý vị Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo, quý Đoàn thể, Tổ chức, Cộng đồng, quý Cơ quan Truyền thông, Báo chí, Phật tử và Đồng bào các giới. Đồng thời, Hòa thượng cũng ra Thông tư gửi Chư Tôn đức Giáo phẩm Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và quý Thiện tín Cư sỹ Phật tử lãnh đạo các cấp Giáo Hội về cuộc Lễ Chung thất này.

Lễ Chung Thất của đức cố Đệ tứ Tăng thống sẽ cử hành lúc 10 giờ sáng Chủ nhật ngày 17 tháng 8 năm 2008 tại Chùa Pháp Luân, 13913 S. Post Oak Road, ở thành phố Houston, bang Texas 77045. Số điện thoại và số Fax liên lạc chùa Pháp Luân là: (713) 433 – 4364; Fax: (713) 413 – 1672.

Theo Thư mời cũng như Thông tư cho biết, thì «Tại buổi lễ trọng đại nầy, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo sẽ công bố Di chúc và Giáo chỉ của đức cố Đệ tứ Tăng thống». Hòa thượng Thích Hộ Giác mong cầu sự tham dự đông đảo, vì «Sự hiện quý báu của chư liệt vị sẽ không chỉ nói lên sự kính ngưỡng đối với đức cố Đệ tứ Tăng thống mà còn biểu tỏ sự đồng tình trước đường lối đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền của Giáo hội».

Riêng Thông tư kêu gọi các cấp Giáo hội tham gia Lễ Chung thất nói trên hôm 17.8 tại chùa Pháp Luân, thành phố Houston, Hòa thượng Thích Hộ Giác còn kêu gọi giới Cư sĩ Phật giáo «Ghi tên tham dự Khóa Tu Học dành cho Cư sĩ do Miền Thiện Luật tổ chức vào các ngày 15, 16 và 17 tháng 8 năm 2008 tại chùa Pháp Luân để hồi hướng công đức dâng lên cúng dường Giác linh đức Đệ Tứ Tăng Thống».

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn Thư Mời và Thông tư của Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác sau đây:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HÒA KỲ
VIETNAMESE AMERICAN UNIFIED BUDDHIST CONGRESS IN THE UNITED STATES OF AMERICA
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
HỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH
311 E. Mission Rd., San Gabriel, CA 91776 – U.S.A
Tel: (626) 614-0566 • Fax: (626) 286-8437 • Email: vp2vhd@gmail.com

Số: 200816/VPIIVHĐ/VPTT/HĐĐH/TM/CT

THƯ MỜI

Tham Dự Lễ Chung Thất Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang

Kính gởi: Chư Tôn đức Giáo phẩm, quý vị Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo, quý Đoàn thể, Tổ chức, Cộng đồng, quý Cơ quan Truyền thông, Đồng bào và Phật tử các giới

Kính thưa chư liệt vị,

Đức cố Đại lão Hòa thượng thượng Huyền hạ Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là bậc Cao tăng thạc đức đương đại, bậc long tượng thiền lâm, bi nguyện hùng lực bạt tục, đạo phong trí đức trác việt, là vị lãnh đạo kiệt xuất khả kính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã lèo lái con thuyền Giáo hội vượt bao sóng gió hiểm nguy trong bối cảnh lịch sử nghiệt ngã của dân tộc; đồng thời Ngài còn là một biểu tượng vô úy bất khuất cho sự đấu tranh tự do, dân chủ và nhân quyền.

Để báo đáp thâm ân giáo dưỡng của bậc Tôn sư kỳ vĩ đã phụng hiến cuộc đời cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ long trọng tổ chức Lễ Chung Thất của đức cố Đệ tứ Tăng thống thượng Huyền hạ Quang lúc 10 giờ sáng Chủ nhật ngày 17 tháng 8 năm 2008 tại Chùa Pháp Luân, 13913 S. Post Oak Rd., Houston, TX 77045; Tel: (713) 433 – 4364; Fax: (713) 413 – 1672.

Tại buổi lễ trọng đại nầy, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo sẽ công bố Di chúc và Giáo chỉ của đức cố Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN.

Thay mặt Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và Hội Đồng Điều Hành, chúng tôi kính mời chư liệt vị hoan hỷ quang lâm tham dự đông đủ.

Sự hiện quý báu của chư liệt vị sẽ không chỉ nói lên sự kính ngưỡng đối với đức cố Đệ tứ Tăng thống mà còn biểu tỏ sự đồng tình trước đường lối đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền của Giáo hội.
Trân trọng,
Los Angeles ngày 23 tháng 7 năm 2008
Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
Kiêm Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành, GHPGVNTNHN/HK
(ấn ký)
Sa môn Thích Hộ Giác

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HÒA KỲ
VIETNAMESE AMERICAN UNIFIED BUDDHIST CONGRESS IN THE UNITED STATES OF AMERICA
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
HỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH
311 E. Mission Rd., San Gabriel, CA 91776 – U.S.A
Tel: (626) 614-0566 • Fax: (626) 286-8437 • Email: vp2vhd@gmail.com

Số: 200815/VPIIVHĐ/VPTT/HĐĐH/TT/CT

THÔNG TƯ
Về Việc Lễ Chung Thất của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang

Kính gởi: Chư Tôn đức Giáo phẩm Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và quý Thiện tín Cư sỹ Phật tử lãnh đạo các cấp Giáo Hội

Kính bạch chư Tôn đức Giáo phẩm,
Kính thưa quý Thiện tín Cư sỹ Phật tử,

Để đền đáp thâm ân hóa dục của đức Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang, bậc Tôn sư thạc đức đương đại, vị lãnh đạo bạt tục, kiệt xuất của GHPGVNTN, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và GHPGVNTNHN/HK sẽ long trọng cử hành Lễ Chung Thất của Ngài lúc 10 sáng Chủ Nhật, ngày 17 tháng 8 năm 2008 tại Chùa Pháp Luân, 13913 S. Post Oak Rd., Houston, TX 77045. Tel: (713) 433 – 4364; Fax: (713) 413 – 1672.

Trong buổi Lễ này, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo sẽ công bố Di Chúc và Giáo Chỉ của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống, đồng thời trước đó hai ngày, Miền Thiện Luật cũng sẽ tổ chức Khóa Tu Học nhằm trang bị hành trang trên hành trình hướng đến giải thoát giác ngộ cho mọi giới Phật tử tại cùng địa điểm.

Để Lễ Chung Thất của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang được trang nghiêm long trọng, thay mặt Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và Hội Đồng Điều Hành, chúng tôi yêu cầu các cấp Giáo Hội thực hiện một số Phật sự sau đây:

1. Thân lâm tham dự Lễ Chung Thất của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang do Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và GHPGVNTNHN/HK tổ chức tại Chùa Pháp Luân thật đông đủ.

2. Ghi tên tham dự Khóa Tu Học do Miền Thiện Luật tổ chức vào các ngày 15, 16 và 17 tháng 8 năm 2008 tại chùa Pháp Luân để hồi hướng công đức dâng lên cúng dường Giác linh đức Đệ Tứ Tăng Thống.

3. Dụng công hành trì chánh pháp, tích cực vận động cho sự phục hoạt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và xem đây như hành động thiết thực nhất nhằm nói lên lòng tri ân và báo ân sâu xa của mình đối với đức cố Đệ Tứ Tăng Thống, bậc Cao tăng đã hy hiến cuộc đời cho đạo pháp và dân tộc.

4. Riêng tại địa phương sở tại, tùy theo hoàn cảnh, phương tiện tổ chức thật trang nghiêm Lễ Chung Thất của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang.

Nhằm thể hiện trọn vẹn sự kính ngưỡng và lòng biết ơn đối với đấng Minh sư trí bi khả kính, xin chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng Ni và quý Thiện Tín Cư sỹ Phật tử toàn tâm thực hiện các Phật sự được đề ra trong Thông tư này.

Trân trọng,

Los Angeles, ngày 23 tháng 7 năm 2008
Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành, GHPGVNTNHN/HK

(ấn ký)

Sa môn Thích Hộ Giác

Nơi nhận:
-Như trên “để tri hành”
Bản sao kính gởi:
-Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo “để kính thẩm tường”
-Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế “để phổ biến”
-Hồ sơ lưu

* Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế báo động các tin tức loan tải sai lạc về Tang lễ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định

Nói về tang lễ Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, những luồng tin thất thiệt do các cơ quan báo chí truyền thông của nhà cầm quyền Cộng sản trong nước nhằm mục tiêu dối gạt dư luận thế giới và đồng bào các giới trong và ngoài nước. Chẳng hạn như loan tin Giáo hội Phật giáo Nhà nước đứng ra tổ chức tang lễ của Đức cố Tăng thống, từ lễ Nhập quan ngày 6.7 cho đến lễ Nhập Bảo tháp ngày 11.7, chứ không là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) như trong thực tế.

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã vạch trần sự gian dối này qua bản Thông cáo báo chí phát hành ngày 7.7.2008 về sự kiện Đài tuyền hình VTV1 của nhà nước Cộng sản, phát hình và loan truyền ngay hôm Lễ Nhập quan Đức Tăng thống ngày 6.7 tại Tu viện Nguyên Thiều. Y hệt như thế, còn có sự tiếp tay tại hải ngoại của một số Website/Trang nhà gọi là Phật giáo tại Hoa Kỳ, Canada, Úc, kiểm duyệt tất cả mọi hình ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện.

Đài truyền hình nhà nước VTV1 chỉ cho chiếu một số chư Tăng áo vàng và quần chúng Phật tử, tuyệt nhiên che giấu Hòa thượng Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm cao cấp GHPGVNTN. Rồi xướng ngôn viên còn long trọng dối gạt rằng: «Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ. Theo đúng như nguyện vọng của hòa thượng Thích Huyền Quang và những đệ tử của ông, sau khi ông viên tịch vào ngày 5/7/2008, ngày 6/7, Ban Trị sự Giáo hội Việt Nam (tức Giáo hội Nhà nước) tỉnh Bình định, môn đồ cùng gia quyến đã tổ chức lễ nhập quan cho Hòa thượng Thích Huyền Quang».

Vì vậy khi tường thuật Lễ Nhập quan do GHPGVNTN chủ trì, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã đăng bức hình Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, chư giáo phẩm cùng chư Tăng trẻ cung nghinh kim thân Đức Tăng thống làm lễ Nhập quan.

Ai không biết sự tán tận lương tâm của người Cộng sản vì lý do tuyên truyền đã không ngừng bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật suốt sáu mươi năm qua ?!

Chỉ đơn cử một chuyện mới xẩy ra hôm qua: Kể từ biến động Thiên An Môn năm 1989, lần đầu tiên từ 19 năm qua, một cơ quan truyền thông của Cộng sản Hà Nội mới cho đăng bức hình một thanh niên Trung quốc đơn độc nhưng can đảm đem thân chắn đoàn chiến xa trên đại lộ Trường an tiến vào Thiên An Môn đàn áp sinh viên biểu tình đòi dân chủ.

Sự kiện này do Trang nhà VietnamNet của nhà nước công bố trên địa chỉ http://vietnamnet.vn/vanhoa/tinanh/2008/07/794993/. Tại hải ngoại 24 giờ qua có những người lạc quan tếu đánh giá Hà Nội đang có «chuyển hướng dân chủ». Nhưng hôm nay, 25.4, bao nhiêu người Việt mở cờ tìm kiếm, bấm vào địa chỉ nói trên thì chỉ còn thấy dòng ghi: « Địa chỉ này không tồn tại ».

Than ôi, ngày vui qua mau, hy vọng chóng tàn ! trong một chế độ chỉ biết những «ngày mai ca hát», nhưng hôm nay, hiện tại ai nấy đều chỉ biết khóc thầm.

Chuyện hôm qua thì thế, chuyện cách đây 2 tháng cũng thế thôi dưới triều đại của Chủ tịch nước Vũ Như Cẩn. Ấy là vụ Phật Đản LHQ 2008 tại Hà Nội. Ai có dịp vào Trang nhà của Giáo hội Phật giáo Nhà nước do Sư Thích Nhật Từ giữ cổng và coi sóc sẽ thấy hai điều ngộ nghĩnh. Một là tuyệt nhiên không nói gì đến sự trạng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tiết lộ trước đây, là Đại lễ Phật Đản LHQ 2008 vẫn tiếp diễn tại Văn phòng Trung ương LHQ (ESCAT) ở thủ đô Bangkok, Thái Lan, song song với Hà Nội. Lý do có nhiều quốc gia thành viên chống đối việc «chính trị hóa Phật Đản» của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Tại lễ Phật Đản LHQ 2008 ở Bangkok nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới về tham dự. Thủ tướng Thái Lan là một trong những khách mời danh dự đọc diễn văn.

Chuyện ngộ nghĩnh thứ hai là Trang nhà của Sư Nhật Từ nói trên còn bơm phồng sự ủng hộ của thế giới. Chẳng hạn như hàng loạt thông điệp các quốc gia trên thế giới gửi lời chào mừng Phật Đản ở Hà Nội. Trong danh sách này thấy có nước Pháp Cộng hòa (République Française). Ai cũng tưởng Tổng thống Pháp Sarkozy gửi điện văn chào mừng. Nào ngờ vào xem thông điệp của Cộng hòa Pháp quốc, không thấy Tổng thống Sarkozy đâu mà chỉ thấy tên Sư Ông Nhất Hạnh nhân danh Đạo tràng Làng Mai chúc tụng !

Trên Trang nhà này chỉ có một điều rất thật, là trước kia quảng cáo rầm rộ sẽ có Giáo sư Amartya Sen, Giải Nobel Kinh tế và giáo sư Đại học Havard, Diễn giả chính tại Đại lễ Hà Nội. Thế nhưng trước ngày Phật Đản, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã tiết lộ Giáo sư Sen sẽ không đến Việt Nam, thì nay Trang nhà đã rút tên giáo sư ra cái rụp.

Trên đây là lối loan tin dối gạt rất Việt Cộng của nhà cầm quyền Hà Nội và tay chân của họ áp dụng vào Lễ Nhập quan ngày 6.7 cũng như lễ Nhập tháp hôm 11.7.
  • Thế nhưng khi những tin loan sai lạc từ phía truyền thông báo chí không cộng sản thì sao ?

  • Trong bài viết «Cuộc đời sóng gió» của ông Lữ Giang đưa lên mạng Internet ngày 17.7 và gửi đến địa chỉ chúng tôi. Bài này ông Lữ Giang đặt vấn đề quá khứ chính trị theo Cộng sản của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang. Sau những dẫn giải, những trích lục chi chít tài liệu, ông quy kết «giới lãnh đạo Phật giáo, trong đó có Hòa thượng Huyền Quang, đều có dính líu đến Việt Minh, tức Đảng Cộng sản Việt Nam».

    Sự này thực hay giả ? Chúng tôi tạm chưa đề cập. Vì luận đề hôm nay tập trung vào việc loan tin sai lạc về Tang lễ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang tại Tu viện Nguyên Thiều. Vậy xin giới hạn ở chủ đề này.

    Nhập đề bài viết nói trên ông Lữ Giang ghi ngay ở đoạn đầu: «Sự ra đi của Hoà Thượng Huyền Quang đã gây khá nhiều tranh luận. Tranh luận trước tiên là tranh luận về tin Hoà Thượng đã qua đời hay chưa qua đời. Trong khi Nhà Nước CSVN loan tin Hoà Thượng đã qua đời thì ông Võ Văn Ái ra thông cáo cải chính nói rằng Hoà Thượng chưa qua đời và đặt câu hỏi: Nhà cầm quyền CSVN có âm mưu gì khi loan tin này? Nhưng sau đó tin Hoà Thượng ra đi đã trở thành sự thật: Hoà Thượng đã qua đời hôm thứ bảy 5.7.2008, thọ 89 tuổi» (PTTPGQT nhấn mạnh).
Chúng tôi ngỡ ngàng đọc cách «thông tin» chắc nịnh như thế của một người làm báo sống tại đất nước văn minh Hoa Kỳ. Nơi có đủ mọi nguồn tin mà chẳng ai có quyền kiểm duyệt hay che giấu. Xin ông Lữ Giang vui lòng trưng bằng cớ sự kiện ông quả quyết: «Trong khi Nhà Nước CSVN loan tin Hoà Thượng đã qua đời thì ông Võ Văn Ái ra thông cáo cải chính nói rằng Hoà Thượng chưa qua đời».

Trong khi chờ ông Lữ Giang trưng bằng cớ để công luận minh xét và chúng tôi có dịp xin lỗi về sự sai lạc của chúng tôi, thì chúng tôi xin đưa bằng chứng của sự thật. Hẵng nhiên cho đến khi ông Lữ Giang trưng bằng cớ trái ngược, chúng tôi vẫn quyết tin đây là sự thật:

Mười lăm phút sau khi Đức Tăng thống viên tịch tại Tu viện Nguyên Thiều, ông Võ Văn Ái được điện thoại từ Bình Định thông báo. Ông liền điện thoại báo tin dữ đến Hòa thượng Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Thích Hộ Giác, và Thượng tọa Tổng thư ký Thích Viên Lý. Một giờ đồng hồ sau đó, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành thông cáo báo chí loan tải bản Cáo Bạch của Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khẩn báo tin buồn Đức Tăng thống viên tịch.

Hãng thông tấn Pháp liên xã AFP và Mỹ liên xã AP đã ghi nhận lấy tin từ Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế khi loan tải sự qua đời của Đức Tăng thống. Hai giờ đồng hồ sau khi Phòng Thông tin loan tải tin buồn, Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan thông tin của nhà cầm quyền Cộng sản, mới loan 2 dòng tin: «Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Viện chủ Tu viện Nguyên Thiều (tại huyện An Nhơn, Bình Định) đã viên tịch tại Tu viện hồi 13 giờ 20 phút ngày 5/7/2008, hưởng thọ 90 tuổi ».

Chúng tôi chưa mắc bệnh Alzheimer, nên không thể quên trước quên sau chuyện mình thực hiện trong ngành truyền thông. Nên chúng tôi rất ngỡ ngàng về việc ông Lữ Giang viết rằng: «Trong khi Nhà Nước CSVN loan tin Hoà Thượng đã qua đời thì ông Võ Văn Ái ra thông cáo cải chính nói rằng Hoà Thượng chưa qua đời». Đây là lý do chúng tôi đòi hỏi ông Lữ Giang trưng bằng cớ.

Trong bài viết nói trên, có đoạn ông Lữ Giang thông báo rằng: «Hoà Thượng bị phạt hai năm tù treo. Trong phiên tòa, Viện Kiểm Sát có đọc lời tự thú của Hoà Thượng khi bị giam ở công an như sau: “Từ trước đến nay, chủ trương của chúng tôi là bất hợp tác với chính quyền. Chúng tôi xin xác nhận rằng, trong quá khứ cũng như từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, chúng tôi có những việc làm sai trái với đường lối, chính sách, luật pháp của chính quyền. Những tội lỗi là do chúng tôi gây ra.".

Có lẽ bị độc giả chất vấn, nên ông Lữ Giang đã hồi đáp qua bài «Những món nợ máu» đưa lên mạng Internet ngày 24.7 đồng thời gửi đến địa chỉ chúng tôi. Ông Lữ Giang tự hào chất chính:

Có người đã hỏi: “Làm thế nào ông lại có được “Bản tự khai” (Bản khẩu cung) do “chấp pháp” lập trong khám. Như vậy ông tự tố cáo ông là ai rồi!”.

Chúng tôi hiểu đây là một trong những cố gắng ngụy biện và chụp mũ theo thói thường của các thành phần cực đoan nhưng thiếu kiến thức để biện minh cho những gì không thể biện minh được. Trong bài nói trên, chúng tôi đã nói rõ trong phiên xử ngày 8.12.1978. Viện Kiểm Sát có đọc “lời tự thú của Hoà Thượng khi bị giam ở công an”. Lời tự thú này đã được ông Võ Văn Ái cho đăng lại trên Tạp Chí Quê Mẹ số 125 và 126 tháng 10 và 11 năm 1993, trang 70. Như vậy Võ Văn Ái cũng đã “tự tố cáo mình là ai rồi”?».

Vừa chối vừa gắp lửa bỏ tay người. Ông Lữ Giang chối, ý như phủ nhận không làm ăng ten cho công an để có thể biết «Bản khẩu cung do «Chấp pháp» lập trong khám». Mà là do «Võ Văn Ái cho đăng lại trên Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10 & 11 năm 1993, trang 70».

Ông Lữ Giang không lấy làm đủ việc trích dẫn xuất xứ để chạy tội, ông vẫn trường kỳ với quán tính chụp mũ những ai không cùng phe cánh ông để bình luận tiếp :

«Như vậy Võ Văn Ái cũng đã “tự tố cáo mình là ai rồi”?». Ông không nói, nhưng độc giả phải hiểu «nó là cộng sản đấy». Nếu không, thì làm sao nó biết «Bản khẩu cung do «Chấp pháp» lập trong khám» để đem đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris ?!.

Thưa ông Lữ Giang. Ông trích một mà không trích mười. Ông trích để vu oan giá họa người hiền lương, mặc nhiên ông chối bỏ sự lương thiện trí thức của người làm báo đích thực, biết tôn trọng công tác thông tin trung thực hầu giúp đỡ độc giả thiếu tài liệu đoán định hay phán xét sự đời.

Thưa ông Lữ Giang, ông trích chi tiết trên ở trang 70 trong Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 xuất bản tại Paris năm 1993. Đúng là có chi tiết ấy ở trang 70. Nhưng chi tiết ở trang 70 này nằm trong bức thư kết án của Cộng sản gửi cho Hòa thượng Thích Huyền Quang. Trang 70 nằm trong một chuỗi sự kiện trình bày từ trang 63 đến trang 76. Các chuỗi trang này viết gì ? - Viết 3 bài liên quan đến việc 3 cán bộ cộng sản tra vấn Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang tại Quảng Ngãi hôm 10.4.1993 :

- Bài một: Có tựa đề «Mào đầu cho cuộc đàn áp Phật giáo tháng 5.1993», tức Bản Tự thuật số 2 của Hòa thượng Thích Huyền Quang «Về cuộc gặp gỡ ông Vũ Quang, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ»;

- Bài hai: Thư hăm dọa của Nhà nước Cộng sản gửi Hòa thượng Thích Huyền Quang với 6 điều xuyên tạc, tức Thư của ông Vũ Quang kết án Hòa thượng Thích Huyền Quang sau cuộc gặp gỡ nói trên; và

- Bài ba: Trả lời 6 điều vu khống và hăm dọa của chính quyền Hà Nội.

Nếu ông Lữ Giang là người lương thiện, không có tư kiến, thiên kiến tà vậy, hẳn nhiên ông sẽ trình bày sự kiện đối đáp của một nhà Sư già tay không tấc sắt, quanh mình không người bảo vệ, trước cuộc hỏi cung nhưng tố khổ tới tấp tại Quảng Ngãi ngày 10.4.1993 do 3 người Cộng sản đánh hợp đồng: Ông Vũ Quang, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ từ Hà Nội vào, ông Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, và Đại tá Phạm Thuộc, sở Công an Quảng Ngãi. Trình bày xong trong bối cảnh bức hiếp một nhà Sư già cùng sự đối đáp đanh thép không khiếp phục của vị Sư này, với tính minh bạch báo chí, nhờ vậy độc giả sẽ có thể phán quyết như ông Lữ Giang: «Giới lãnh đạo Phật giáo, trong đó có Hòa thượng Huyền Quang, đều có dính líu đến Việt Minh, tức Đảng Cộng sản Việt Nam», hay ngược lại.

Đằng này qua 13 trang đầy chữ hàng hàng, ông Lữ Giang chỉ «trích phán» bốn (4) câu «tự thú của Hoà Thượng khi bị giam ở công an». Mưu mô và thủ đoạn thật.

Vấn đề đặt ra ở đây và xin ông Lữ Giang trả lời cho chúng tôi và mọi người cùng biết:

- Ông Lữ Giang có tin rằng Công an Cộng sản nói gì cũng đúng ?

- Ông Lữ Giang có tin rằng bằng cớ, văn kiện, khẩu cung gì Công an Cộng sản trình làng hay đưa lên báo chí Nhà nước đều đúng ?

- Ông Lữ Giang có tin rằng Viện Kiểm sát Nhân dân tuyên bố trước tòa để quy tội hay kết tội những tù nhân vì lương thức lúc nào cũng đúng ? Nhất là tại phiên tòa ở « thành phố Hồ Chí Minh » sau ngày cưỡng chiếm miền Nam hôm tám tháng mười hai năm một chín bảy tám (8.12.1978) ?

Nếu ông Lữ Giang trưng cho MỘT VÍ DỤ thôi từ suốt 33 năm qua, rằng Công an cộng sản đúng, Chấp pháp cộng sản phân minh, Viện Kiểm sát nhân dân và Tòa án Nhân dân cộng sản chí công vô tư, thì chúng tôi sẽ phục thiện và sẽ có lời XIN LỖI ông Lữ Giang trước công chúng. Và trước tòa án lương tâm, chúng tôi sẽ trả ông Lữ Giang một đồng danh dự.

Bao lâu ông Lữ Giang chưa trả lời câu chất vấn trên đây, chúng tôi còn đánh giá bài viết «Cuộc đời sóng gió» của ông công bố hôm 17.7 vừa qua nhằm quy chụp Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và giới lãnh đạo Phật giáo «dính líu đến Đảng Cộng sản Việt Nam», là bài viết nhỏ nhen, vô giá trị. Vì từ thông tin, tài liệu trích dẫn, lập luận đến bình luận bấp bênh và dối gạt hệt như khi ông khẳng định vô bằng rằng «Trong khi Nhà Nước CSVN loan tin Hoà Thượng đã qua đời thì ông Võ Văn Ái ra thông cáo cải chính nói rằng Hoà Thượng chưa qua đời». Chuyện mới xẩy ra có hai tuần lễ mà đã sai trật từ cơ bản, thì chuyện của năm mươi năm trước làm sao ông Lữ Giang nhớ biết ?!
  • Một số độc giả khắp nơi, trong số này có một số ít giới trẻ thuộc tổ chức Gia Đình Phật tử, điện thoại và điện thư hỏi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế rằng có phải Gia Đình Phật tử Việt Nam do huynh trưởng Nguyễn Châu cầm đầu cùng với vài huynh trưởng từ Hoa Kỳ về Bình Định đã cáng đáng việc tang lễ Đức cố Tăng thống, từ việc trai soạn đến trật tự hay thức hầu kim quan Đức Tăng thống ?
Chúng tôi không biết báo nào loan tin thất thiệt như thế. Sự thật không phải vậy. Gia Đình Phật tử phái Nguyễn Châu và vài huynh trưởng từ Hoa Kỳ về quả thực có tham dự lễ tang y như hàng chục nghìn Phật tử khác. Đương nhiên phải tán dương sự tham dự này, như phải tán dương hàng chục nghìn Phật tử đến tiễn đưa Đức cố Tăng thống về nơi an nghỉ. Tán dương cả những phái đoàn thuộc cơ quan công quyền Bình Định hoặc phái đoàn cao cấp thuộc Giáo hội Giáo hội Phật giáo Nhà nước đến phúng điếu, bái lễ trước kim quan Đức Tăng thống. Có lẽ nhờ vậy, mà lần đầu tiên, các cơ quan công quyền địa phương hay Giáo hội Nhà nước vừa bái lạy vừa được nghe Môn đồ hiếu quyến xướng danh và chức vị Đại lão Hòa thượng Thích thượng Huyền hạ Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Lúc Ngài còn sinh tiền, những người này phủ nhận chức vị Tăng thống, chối bỏ Giáo hội của Ngài lại còn tỏ lời đàn hặc, bất kính.

Trở về với câu hỏi Gia Đình Phật tử cánh Nguyễn Châu, chúng tôi xin trả lời chung rằng phái này không ở trong Ban Tổ chức Tang lễ, cũng không phụ giúp bất cứ việc gì. Trái lại, tham dự tổ chức Tang lễ Đức cố Tăng thống là Gia Đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN) thống thuộc Gia đình Phật tử Vụ của Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN. Đặc biệt là anh chị em huynh trưởng và đoàn viên GĐPT tỉnh Bình Định cùng với GĐPT trực thuộc GHPGVNTN đến từ Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng và các tỉnh thành khác. Dưới sự hướng dẫn đặc biệt của hai Thượng tọa Thích Viên Hoa, Thích Viện Diệu và Huynh trưởng Lê Công Cầu.

Thượng tọa Thích Viên Hoa là Đặc ủy Thanh niên trong Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Định. 40 đoàn sinh thuộc GĐPT Bình Định khiêng Kim quan Đức Tăng thống trên một cây số đường đến nơi kim tỉnh. Thay phiên nhau 20 đoàn sinh khiên, 20 đoàn sinh nghỉ. Tất cả đã làm lễ phục tang trước kim quan, cùng nhau chít khăn tang vàng lên trán trước khi hành sự. Ngoài ra, GĐPT trực thuộc GHPGVNTN còn làm các công tác túc trực bảo vệ kim quan Đức Tăng thống 24 giờ trên 24 giờ, bảo vệ chư Tôn đức giáo phẩm thuộc Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo), giữ trật tự trên đường di chuyển kim quan nhập Bảo tháp. Đặc biệt ngăn chận tất cả những ai không có nhiệm vụ lên nơi kim tỉnh nhập tháp, vì chỗ này đất hẹp và cũng để ngăn ngừa mọi sự phá hoại hay phá đám từ phía công an hay các thế lực tay sai.

Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia đình Phật tử Vụ thuộc Viện Hóa Đạo cùng với nhiều anh chị em huynh trưởng, đoàn sinh tham gia các công tác nói trên, đồng thời làm Phó Ban Xướng ngôn. Ngoài ra, toàn thể GĐPT thuộc Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tham gia vào 5 ban: Âm thanh và ánh sáng, Vận chuyển, Trật tự, Liên lạc, Cư trú và Vệ sinh.

GĐPT cánh Nguyễn Châu và một vài huynh trưởng từ Hoa Kỳ về không đóng một vai trò nào cả, ngoài việc tham dự như mọi Phật tử bình thường theo sau chân hàng nghìn Tăng Ni. Ngoại trừ nhóm GĐPT này có những động thái đáng tiếc mà bản thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành hôm 11.7 đã tiết lộ như sau:

«Hôm 8.7, vài chục đoàn viên của Huynh trưởng Nguyễn Châu đến Tu viện Nguyên Thiều phúng điếu Đức Tăng thống. Nhưng họ đã hành xử thiếu đứng đắn và gây rối cuộc lễ. Theo quy định của Ban Tổ chức Lễ tang yêu cầu mọi người trang nhgiêm, thanh tịnh và cầu nguyện, không được đọc điếu văn hay phát biểu, theo tinh thần Vô tướng mà Giáo hội chỉ thị.

«Thế nhưng, vào lúc 11 giờ 15 sáng ngày 8.7, phái đoàn GĐPT do Htr Nguyễn Châu cầm đầu đến phúng điếu. Nhưng đã tùy tiện hành lễ theo cung cách phô trương và gây rối. Một người tên Lê Văn Sang đứng ra xướng ngôn, vượt khỏi quy định của Ban Tổ chức. Họ đứng trước Kim quan hô to từng đơn vị đến viếng. Rồi đồng loạt hát bài Sen Trắng. Sau đó tới lượt một người có tên Phan Đình Thắng lên giọng đọc Điếu văn.

«Thượng tọa Thích Chơn Tâm đứng hầu Kim quan Đức Tăng thống liền can thiệp yêu cầu giữ trật tự, yên lặng phúng điếu, và xin chấm dứt việc đọc Điếu văn. Tức thời một người tên Nguyễn Công Minh, pháp danh Như Thật, đang quì vội vàng đứng dậy lao thẳng vào Thượng Toạ Chơn Tâm thốt những lời hăm doạ, đưa tay xỉ vào mặt Thượng Toạ. Chư Tăng cùng phật tử đứng chung quanh bất mãn. Có người nói “Phật Tử gì mà lại hành hung chư Tăng ?!”. Do phản ứng của Phật tử nên nhóm gọi là GĐPT này mới bỏ dở bài Điếu văn và rút lui».

Sự cố trên đây có thể do là người ngoại cuộc, GĐPT của Htr Nguyễn Châu không hiểu rõ tinh thần tang lễ do Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN ấn định, nên đã vi phạm quy tắc. Tuy nhiên dù vô tình hay cố ý, động thái trên đây mang lại những hệ lụy trầm trọng cho Tang lễ mà Nhà nước Cộng sản đang âm mưu giành giật nhằm tuyên truyền cho chế độ. Khi Đức Tăng thống còn sinh tiền, cộng sản đàn áp, tù đày, quản chế, đến lúc ngài viên tịch thì giả vờ «ca tụng» và đòi giành tổ chức tang lễ.

Nếu GĐPT cánh Nguyễn Châu, vốn đã quy phục Giáo hội Phật giáo Nhà nước, mà thành công hát hò, hô khẩu hiệu rồi đọc Điếu văn thì chắc chắn gây thành tiền lệ cho Nhà nước Cộng sản và Công an sấn vào tham dự đọc Điếu văn. Chắc chắn Điếu văn của Cộng sản sẽ vừa «ca tụng» một Người bị họ hành hạ lúc sống nay khóc lóc mị dân khi Người này chết. Đồng thời Cộng sản sẽ lợi dụng Điếu văn mà «chửi xéo» nếu không là kết án các bậc Cao tăng còn sống của GHPGVNTN như Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là một. Cho nên cái vô tình hay cố ý của cánh Nguyễn Châu rất tai hại, không thể nào bênh vực hay bào chữa.

Tình hình Bình Định rất căng thẳng từ đầu tháng 7. Đã có những nguồn tin mật cho biết nhà cầm quyền Cộng sản quyết tâm giành giật tổ chức lễ tang, thông qua việc khá tàn nhẫn là «cướp nhục thân» Đức Tăng thống, và áp giải Hòa thượng Thích Quảng Độ về Saigon.

Nhưng một mặt, cuộc vận động quốc tế của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã kịp thời làm gióng lên các lời tố cáo công khai của các tổ chức nhân quyền, tôn giáo và chính giới Âu Mỹ về ý đồ đen tối của Hà Nội. Một vài cường quốc thông qua đường dây ngoại giao đã tạo áp lực trực tiếp đến Hà Nội. Mặt khác, chí bất khuất và hành xử khôn ngoan linh động của hàng giáo phẩm lãnh đạo Hội đồng Lưỡng Viện cộng với sự sẵn sàng dấn thân của hàng trăm Tăng sinh Bình Định theo kế hoạch đối phó đã vạch. Nên nhà cầm quyền cộng sản phải chồn chân. Cộng sản chỉ «thắng» trên báo chí truyền thông nhà nước qua mấy lời bá vơ hữu ngôn vô thực là «Nhà nước cử hành Tang lễ»!

Do đó, Hội đồng Điều hành Tang lễ của GHPGVNTN đã hùng hậu hình thành, với dự trù nghi lễ theo thời bình: Cung tuyên tiểu sử Đức Tăng thống, tác bạch trước Kim quan, tuyên đọc Điếu văn, phát biểu của hàng giáo phẩm và chư Tăng Ni đại diện ... Thế nhưng đến phút chót, trước tình hình cực kỳ gay cấn với những âm mưu tấn chiếm lễ tang của cộng sản, Hội đồng Lưỡng Viện đã thay đổi nghi thức, áp dụng tinh thần Vô Tướng cho Tang lễ. Một chiêu thức Vô chiêu thắng Hữu chiêu. Nghĩa là bỏ tất cả chương trình dự trù. Chỉ còn lại động thái duy nhất, là tất cả chư Tăng tụng niệm ngày đêm không dứt, 24 giờ trên 24 giờ đồng hồ, kể từ lễ Nhập quan hôm 6.7 cho đến lễ Nhập Bảo tháp ngày 11.7. Tuyệt đối không một lời phát biểu, không một lời Điếu văn.

Vào giây phút cuối của lễ Nhập Bảo tháp ngày 11.7, lần đầu tiên và bất thần mới có Tiếng Nói cất lên. Đó là lời Tác bạch của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thay mặt Hội đồng Lưỡng Viện, các cấp Giáo hội trong nước và Văn phòng II Viện Hóa Đạo ở hải ngoại, phát nguyện trước Kim quan Đức Tăng thống. Tiếp đấy, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, thông báo cho mọi người được biết rằng : Do tuổi cao và bệnh tật chồng chất, nên Đức Tăng thống đã tiên liệu chuyến ra đi về cõi Phật. Nên Ngài đã chuẩn bị Di chúc và Giáo chỉ sắp đặt các Phật sự tại hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Di chúc và Giáo chỉ sẽ được công bố trọng thể vào lễ Chung thất tức 49 ngày.
  • Để ghi lại kỷ yếu về sau, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin công bố thành phần Hội đồng Điều hành Tang lễ gồm có chư vị sau đây:
HỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH TANG LỄ CỦA GHPGVNTN:

Trưởng ban: Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.

Phó ban: Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Phó Viện trưởng VHĐ kiêm Chánh thư ký Viện Tăng thống GHPGVNTN ; Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký VHĐ ; HT Thích Như Đạt, Tổng Vụ trưởng Tăng Sự, VHĐ ; và HT Thích Đức Chơn, Tổng Vụ trưởng Cư Sỹ, VHĐ.

Thư ký: TT Thích Chơn Tâm, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Giáo Dục, VHĐ.

Thành viên: HT Thích Không Tánh, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội, VHĐ ; TT Thích Chí Thắng, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Kiến Thiết, VHĐ ; TT Thích Thanh Quang, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên, VHĐ ; TT Thích Như Tấn, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, VHĐ ; TT Thích Nguyên Lý, Tổng Thủ Bổn VHĐ ; và HT Thích Tâm Liên, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Định.

Ban Chức sự Đạo tràng Nghi lễ:
Chứng minh: Hòa thượng Thích Bảo An, Thành viên Hội đồng Viện Tăng thống kiêm cố vấn Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Định.
Ban Nghi lễ:
Chủ sám: HT Thích Liễu Giải
Công văn: TT Thích Đồng Trụ
Kinh sư: Chư TT Thích Nhuận Đạo, Thích Đồng Tịnh, Thích Đồng Chơn, Thích Đồng Thành, Thích Viên Liên,Thích Phước Điền, Thích Viên Hải, Thích Đồng Quả, Đồng Phước, và Quảng Trì.
Lễ nhạc: Đạo hữu Thiện Ngộ.
Ban Điều hành Tang lễ:
Trưởng ban: TT Thích Viên Định.
Phó ban: HT Thích Không Tánh, TT Thích Minh Hạnh, Phó Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Định.
Các Tiểu ban:
1. Ban Thư ký: Trưởng Ban: TT Thích Chơn Tâm ; Phó Ban : TT Thích Viên Kiên.
2. Ban Tư liệu, Phim ảnh: ĐĐ Thích Viên Hỷ, ĐĐ Thích Đồng Kỳ, ĐĐ Thích Đồng Minh.
3. Ban Thủ quỹ: TT Thích Đồng Thinh.
4. Ban Xướng ngôn: Trưởng Ban: HT Thích Không Tánh ; Phó Ban : TT Thích Chơn Tâm ; TT Thích ThiệnTánh, và Huynh trưởng Lê Công Cầu.
5. Ban Trần thiết: Trưởng Ban: TT Thích Viên Diệu ; Phó ban : ĐĐ Thích Đồng Định và ĐĐ Thích Đồng Tín.
6. Ban Cung nghinh: Chư Tăng sinh.
7. Ban Tiếp tân: Trưởng Ban : HT Thích Thiện Hạnh ; Phó Ban : TT Thích Viên Định, Chánh Đại diện các Tỉnh, Thành, và toàn Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình định (gồm 18 vị Hòa thượng, Thượng tọa và Đại đức).
8. Ban Tiếp lễ: Trưởng Ban: Chư Ni Phật Giáo tỉnh Bình Định
9. Ban Sổ tang: Chư Ni.
10. Ban Hương đăng: Chư Tăng sinh.
11. Ban Chung cổ: Chư Tăng sinh.
12. Ban Thị giả: Trưởng Ban: ĐĐ Thích Đồng Minh.
13. Chúng Hiếu đồ: TT Thích Quảng Bửu, TT Thích Minh Hạnh, và TT Thích Minh Tuấn.
14. Ban hầu Kim quan: Trưởng Ban: ĐĐ Thích Đồng Thọ.
15. Ban Âm thanh và Ánh sáng: Trưởng Ban: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
16. Ban Trai soạn - Ẩm thực: Trưởng Ban: Tăng Ni sinh và Phật tử.
17. Ban Hành đường: Trưởng Ban: Tăng Ni sinh và Phật tử.
18. Ban Vận chuyển: Trưởng Ban: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
19. Ban Trật tự: Trưởng Ban: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
20. Ban Liên lạc: Trưởng Ban: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
21. Ban Giữ xe: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
22. Ban Cư trú: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.
23. Ban Y tế: Trưởng Ban: Bác sĩ Dẩy và Tú.
24. Ban Vệ sinh: Gia Đình Phật tử thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.

Friday, July 25, 2008

Văn Bút Quốc Tế thương tiếc Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang vừa viên tịch

• Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ngay sau khi được tin Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang viên tịch, nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt* đã gởi điện thư khẩn báo tin buồn đó đến Văn Bút Quốc Tế và các Trung tâm Văn Bút Anh, Đan Mạch, Pháp và Sydney mà nhà trí thức thâm sâu về Phật học từng là hội viên danh dự. Điện thư đã nhắc lại tiểu sử thân thế và quá trình hoạt động của Cố Tăng Thống cho quyền Tự do ngôn luận và tín ngưỡng nói riêng, và Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền nói chung. Thi hữu cũng thay mặt Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong cảm ơn Văn Bút Quốc Tế, các văn hữu thuộc nhiều Trung tâm, gồm cả ba Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp, Đức và Ý thoại và Québec, đã hết lòng ủng hộ và đoàn kết với Cố Đại lão Hòa Thượng. Trong những ngày qua, có rất nhiều điện thư phân ưu của Hiệp Hội Nhà Văn Thế Giới và các nhà cầm bút hội viên Văn Bút Quốc Tế ở khắp năm châu.

Sáng hôm nay, 23 tháng 7 năm 2008, trong một Thông cáo phổ biến toàn cầu, Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm tù bày tỏ lòng thương tiếc đối ‘’người tù lương tâm’’ Việt Nam nổi tiếng vừa qua đời.

Thông cáo nhắc rằng Người quá cố là một nhà lãnh đạo Phật giáo, nhà văn và nhà dân chủ đối kháng. Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang mất ngày 5 tháng 7 năm 2008 sau một thời gian dài đau yếu, hưởng thọ 87 tuổi. Vị tu sĩ cao niên này là người đã lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt bị cấm (dưới chế độ cộng sản). Tác giả của nhiều tác phẩm về Phật giáo và Triết lý Đông phương, Ngài cũng là một học giả tôn giáo rất được tôn kính. Năm 1978, hai ‘’người tù lương tâm’’ Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Thích Quảng Độ được bà Mairead Corrigan và bà Betty Williams, người Bắc Ái Nhĩ Lan, đồng Giải Nobel Hoà Bình năm 1976, đề cử làm ứng viên Giải Nobel Hoà Bình. Cố Đệ Tứ Tăng Thống từng trải qua gần ba mươi năm dài trong nhà tù hoặc bị lưu đày, quản chế vì vận động cho Tự do tôn giáo và Nhân Quyền. Từ năm 2003, Ngài bị quản thúc biệt lập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định. Nơi đó, lễ tang của Ngài đã diễn ra trong sự canh chừng nghiêm ngặt của công an vào tuần qua.

Nhân dịp này, Văn Bút Quốc Tế xác định rằng Hiệp Hội tiếp tục đòi phóng thích tất cả những người đang bị giam cầm ở Việt Nam chỉ vì hành sử ôn hoà quyền tự do phát biểu, phù hợp với Điều 19 Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà nhà nước Việt Nam (C.H.X.H.C.N) đã ký kết.

Cuối Thông Cáo, Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm tù đề nghị các Trung tâm Văn Bút thành viên gởi Văn Thư đến nhà cầm quyền C.H.X.H.C.N.V.N để:

- Bày tỏ sự thương tiếc đối với nhà văn và nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam, Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang vừa qua đời. Nhắc rằng Ngài đã trải qua gần ba thập niên cuối đời mình trong nhà tù hoặc bị lưu đày, quản chế vì vận động cho Tự do tôn giáo và Nhân Quyền.

- Lưu ý nhà cầm quyền C.H.X.H.C.N.V.N. về những bổn phận của họ đối với Điều 19 Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà họ đã ký kết. Đồng thời kêu gọi họ phóng thích tức khắc và vô điều kiện tất cả những nhà văn đang bị giam cầm tại Việt Nam.

Genève ngày 23 tháng 7 năm 2008
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland


* Hội viên Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại, Trung tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu vong và Trung tâm Âu Châu/Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.



Envoyé: mercredi, 23. juillet 2008 12:53
Objet: VIETNAM: Death of dissident and spiritual leader Thich Huyen Quang.

International PEN Writers in Prison Committee,
Brownlow House, 50/51 High Holborn, London WC1V 6ER,

RAPID ACTION NETWORK
23 July 2008 RAN 38/08

VIETNAM: Death of dissident and spiritual leader Thich Huyen Quang.

The Writers in Prison Committee of International PEN mourns the death of Buddhist leader, writer and dissident, Venerable Thich Huyen Quang, on 5 July 2008 at the age of 87 after a long illness. Thich Huyen Quang had spent most of the past thirty years in prison or under house arrest for his work in support of religious freedom, human rights and political reform in Vietnam. International PEN continues to call for the release of all those currently detained in Vietnam solely for the peaceful exercise of their right to free expression, in accordance with Article 19 of the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR), to which Vietnam is a signatory.

Ven. Thich Huyen Quang, leader of the banned Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) and author of books on Buddhism and Oriental philosophy, was also a respected religious scholar. In 1978, he was proposed by Nobel Peace laureates, Mairead Corrigan and Betty Williams, as a candidate for the Nobel Peace Prize. He had been detained under house arrest since 1982 for alleged "anti-government activities", but in spite of this he continued his public appeals for religious freedom and freedom of speech. Since 2003 he had been held incommunicado at Nguyen Thieu Monastery, Binh Dinh Province, where his funeral was held under tight security last week.

Please send appeals:

Mourning the death of writer and Buddhist leader Ven. Thich Huyen Quang, who spent the last thirty years of his life in prison or house arrest for his campaign for religious freedom and human rights.

Reminding the Vietnamese authorities of their obligations to Article 19 of the International Covenant on Civil and Political Rights to which Vietnam is a signatory, and calling for the immediate and unconditional release of all writers currently detained in Vietnam.

Appeals to be sent to:
His Excellency Nguyên Minh Triêt
President, Socialist Republic of Vietnam

C/o Ministry of Foreign Affairs
Hanoi Socialist Republic of Vietnam

Please note that there are no fax numbers available for the Vietnamese authorities, so you may wish to ask the diplomatic representative for Vietnam in your country to forward your appeals. It would also be advantageous to ask your country’s diplomatic representatives in Vietnam to intervene in the case.


Ghi chú: Bản Thông Cáo cũng được phổ biến trên hệ thống quốc tế IFEX Action Alert Network.”.


Nguồn tin "Giựt Con Mắt"

Trương Minh Hòa

Trên trang Vietland.net có bản tin của tác giả Hiếu Dân (thành viên, cuối bài có nói thêm nguồn gốc tin tức khác được cung cấp để xác định đây là tin đáng tin cậy, chớ không phải tin Vịt: theo vietbaonline.com. Vào ngày 15/7/2008 có đưa bản tin hết sức hấp dẫn, có khả năng gây hoang mang trong cộng đồng người Việt hải ngoại, nhất là những người đã và đang tranh đấu vì nhân quyền, tự do, dân chủ cho người dân trong nước; đương nhiên là không dung tha bọn đầu lãnh "vừa ăn cướp vừa dạy đời" ở Bắc Bộ Phủ, kể cả những bầy quạ đen "linh mọp quốc doanh", đám "thầy chùa lửa thuộc thành phần CHÁN TU, chớ không phải CHÂN TU... sang ăn mày ở các nước giàu mạnh, nơi có người Việt tỵ nạn định cư, nên chúng tới đâu cũng có dàn chào "cờ vàng ba sọc đỏ", bọn nầy di tới đâu cũng phải nhờ cảnh sát sở tại canh giữ. Tin nầy có khả năng làm cho những người "yếu bóng vía" nghe qua cũng dám bị "teo dái" lắm, nếu không kiểm chứng và nhận xét rõ ràng.

Bản tin có tựa đề, y như "nguồn tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển" hay là "báo cáo thủy văn khí tượng" rằng: THÁI LAN BẮT BÁC SĨ NGUYỄN XUÂN NGÃI. Theo sự tường thuật, được tiết lộ là: ngày thứ ba, 15 tháng 7 năm 2008, bác sĩ Nguyễn xuân Ngãi từ San Fransisco (Hoa Kỳ) đến thủ đô Thái Lang là Bangkok, nhưng khi ông vừa đến phi trường quốc tế Savarnabhumi internanional, thì bị 5 cảnh sát Thái cầm giữ về lý do là ông bác sĩ Ngãi có tên trong danh sách KHỦNG BỐ do Việt nam "báo cáo", nên cảnh sát Thái Lang nhân danh là thành viên Interpol (cảnh sát quốc tế) bắt giữ.

Tuy nhiên, cuộc bắt giữ và điều tra nầy kéo dài vài giờ, bị tra vấn lung tung, cảnh sát Thái còn liên lạc với chính phủ Hoa Kỳ, Việt Nam để xác nhận đây là "thành viên khủng bố" như là THE MOST WANTED MAN, được theo sát. Rồi sau đó họ cho phép bác sĩ Ngãi được tự do 3 ngày ở đất Thái để "thành thật khai báo" những hoạt động có quan hệ hữu cơ đến khủng bố, sau đó được cho phép về Mỹ, an toàn .... thật là mừng! Thiên tai, thiên tai, đại thiên tai!...... Bản tin còn cho biết là trên tờ báo điện tử An Ninh Thế Giới của Công An Việt Cộng ngày 2 tháng 7 năm 2008, có bài viết lên án hai nhân vật bị đảng và nhà nước kết tội khủng bố là Lý Tống và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi.

Bác sĩ Ngãi cư ngụ tại San Jose (Bắc Cali) là người được tổng thống Hoa Kỳ George.W.Bush mời làm cố vấn y tế, bác sĩ giải phẫu tim mạch và đồng thời cũng là phó tổng thư ký đặc trách ngoại vụ của đảng Dân Chủ Nhân Dân, mà người "nổi tiếng" là nhà "tù lươn lẹo" từng "phản tỉnh giả, chống đảng cuội", đã "tiêu diêu nơi miền Lê-Mác" là Hoàng Minh Chính.

Được biết, bác sĩ Ngãi là người từng đột nhập vào vùng đất địch như "chỗ đông người" bằng phi cơ phản lực "có người lái", chứ nào phải "không người lái" thì bà cố nội cũng không dám đi, dù hoàn toàn miễn phí. Hành động cực kỳ can đảm, táo bạo nầy của bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi không khác gì điệp viên Jame Bond (Jame bond đọc theo tiếng Việt là: dám- bắn) 007 trong nhiều bộ phim trinh thám thời danh, nên ông xứng đáng được gọi là Dám- Bòn KHÔNG, KHÔNG THẤY (00 thấy), trước đây có "vào tận hàng hùm" mà không vuốt được "dái cọp" nên bị cắn và bị trục xuất. Sau nầy gia nhập vào tổ chức của Hoàng Minh Chính, Viện Trưởng Nghiên Cứu Mác Lê Nin. Để "biến mục tiêu thành hành động" nên cuối tháng 8 năm 2005, Hoàng Minh Chính được đảng bố trí "qui mã" với lý để chữa bịnh, như kế "thuận thủ thu dương" trong tam thập lục kế. Dưới sự hỗ trợ đắc lực, tài trợ, tổ chức, môi giới thật "chất lượng" của bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, cho nên "nhà tù lươn lẹo" cùng cho khai sanh quái thai "Tiểu Diên Hồng", dù trong suốt cuộc đời làm giặc, phục vụ đắc lực cho tên già Hồ Chí Manh, đảng, Liên Sô ... Hoàng Minh Chính chưa hề tiếp xúc với "chất độc màu da cam" lần nào mà sinh ra bào thai dị dạng, bởi thế nên đơn thưa đòi bồi thường chất độc Da Cam của Vẹm bị tòa án xù đẹp cũng có lý do chánh đáng. Do đó, cái quái thai Tiểu Diên Hồng bị chết yểu, mà giới bác sĩ đỡ đẻ như Phạm Đăng Long Cơ gọi là "unborn baby", đáng được cán bộ Cộng Sản đem bào thai dị dạng ngâm rượu đế, với mật ong Hà Giang (ong hút mật từ cây thuốc phiện) để làm thuốc "cường dương" theo như sự tin tưởng của họ.

Từ dạo cái quái thai Tiểu Diên Hồng chết non, lòi mặt ra một số tay "đỡ đẻ" hụ hợ theo đóm ăn tàng, có mưu đồ "hòa hợp hòa giải" trong nghề làm môi giới bán đứng tập thể tỵ nạn hải ngoại lần nữa. Nên uy tín bác sĩ Nguyễn xuân Ngãi càng ngà càng đi dần vào "thoái trào cách mạng", rồi vụ Lý Tống tuyệt thực để ủng hộ tên "Little Saigon" ở San Jose, sau khi thành công, bác sĩ Ngãi muốn lấy tiếng là hào hiệp khi thấy Ly Tống nghèo, yếu sức nên có tấm lòng là muốn trả tiền cho phí bịnh viện khi Lý Tống nằm điều dưỡng; tưởng thật, nào dè đây đúng là:

"Hứa rất nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu.
Khi bác sĩ vẫn duy trì HỨA CUỘI"

(Chuyện nầy có đăng trên trang web Take 2 tango. Trong phấn ý kiến, có người là chủ garage, còn cho biết thêm là bác sĩ nhà ta từng sửa xe không trả tiền, phải đòi nhiều lần).

Cũng giống như "màn kịch Lói vô duyên" của đảng Vịt Tiềm qua vụ đưa những thành viên trung ương như tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân về nước chỉ để "rải truyền đơn" bị bắt, thả ra, tên tuổi được khắp nơi quan tâm, trở thành "nhà dân chủ mấy hồi", nhằm lấy lại uy tín của tổ chức qua những việc làm: kháng chiến cuội, làm thương nghiệp bằng lợi dụng lòng yêu nước-biến ngày tang đất nước 30 tháng 4 thành ngày ăn mừng "đại thắng mùa xuân" được biến thành nhóm chữ "diễn hành cho tự do"- sáng kiến lẫn tối kiến biến ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thành ngày Quốc Khánh nên kỳ nầy, bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi cũng làm một SCANDALE, về vụ bị interpol bắt ở Thái.

Sự kiện nầy không khác gì "phê bình như nói láo, báo cáo như nói chơi", câu tục ngữ trong sinh hoạt đảng bộ Cộng Sản từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở. Không cần phải là một nhà khoa bảng có bằng tiến sĩ, bác sĩ, kỷ sư, giáo sư như những tay viết THAM LUẬN "nghiệp chuyên" trên Giao Điếm thường gắn liền, đi trước tên tác giả trong các bài viết ca tụng Vẹm, đánh phá sự đoàn kết tôn giáo cũng biết ngay là "màn kịch lói vô duyên nữa" được tung ra trên "sân khấu chống Cộng cuội" qua vài tổ chức dỏm. Vì nếu bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi thật sự là kẻ khủng bố nguy hiểm, thuộc dang "Most wanted", thì FBI, CIA, các cơ quan an ninh đã tìm đến hỏi thăm sức khỏe từ lâu, vì trên thế giới nầy, Hoa Kỳ là quốc gia lãnh đạo chống khủng bố toàn cầu, nếu không tóm được tên "khủng bố Nguyễn Xuân Ngãi" tại đất nước mình, mà đợi cho cảnh sát Thái Lan tóm cổ trên đất Thái, thì cái bảng hiệu của FBI, CIA, nên được đem quăng vào "Ao cá Bác Hồ" cho đỡ nhục. Cho nên việc bác sĩ Ngãi tới Thái Lan bị bắt, mà lại do Việt Cộng đề nghị thì coi như "trớt quớt và cuội". Mặt khác, không biết có tờ báo tiếng Anh, Pháp, đài truyền hình lớn loan tin chưa? Nếu do người của tổ chức loan tin thì càng "trớt quớt" nữa. Vì không còn được ai tin qua vụ Tiểu Diên Hồng, nên mới được cơ quan truyền thông báo điện tử An Ninh Thế Giới ghép bác sĩ Nguyễn xuân Ngãi chung danh sách với trung úy không quân Lý Tống để cho có bạn mà.

Cơ quan Inperpol (cảnh sát quốc tế) là do các nước Tây Phương, nhất là Hoa kỳ thành lập, tài trợ, liên kết, nhằm bắt giữ các tội phạm hình sự, thuộc loại nguy hiểm "Most wanted", đặc biệt là bọn khủng bố thế giới. Cơ quan nầy không phải là "công cụ" cho bất cứ nước nào, họ làm việc theo những tin tức tình báo chính xác, dựa theo nguyên tắc: "thà tha lầm hơn là kết án oan", nên những tội phạm bị truy nã đều phải có bằng chứng rõ ràng, còn chụp mũ mơ hồ như Việt Cộng, Trung Cộng là không nằm trong phương cách hành xử của Interpol.

Việt Cộng chỉ là kẻ "đeo dè" theo Interpol, chúng không thể "lái tổ chức cảnh sát quốc tế" nầy theo "tấm bản chỉ đường" hay là "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" để nhờ bàn tay Interpol truy lùng, tiêu diệt những người chống Cộng hải ngoại. Nên một số người về Việt Nam bị chụp mũ "khủng bố" dù dàn cảnh như vụ các thành viên đảng Vịt Tiềm, rồi cũng phải thả, vì không có bằng chứng "hard evidence", đã chứng minh được bản chất "cà chớn" của tư cách thành viên của Việt Cộng trong tổ chức quốc tế nầy.

Quốc tế làm việc có nguyên tắc, chớ không phải luật rừng của Việt Cộng, do đó đảng Cộng Sản Việt Nam dựa hơi Interpol để hù là hoàn toàn đi ngược lại tôn chỉ của Interpol hay nền luật pháp của bất cứ quốc gia dân chủ nào trên thế giới. Nếu vụ Nguyễn xuân Ngãi nầy có THIỆT hay được kiểm chứng rõ ràng, thì yêu cầu Bác Sĩ Ngãi và tổ chức của ông nên nộp đơn thưa các cơ quan tài phán quốc tế để bắt đám Interpol Việt Cộng phải trả lời hành vi chụp mũ, và đòi bồi thường và đồng thời dằn mặt đám công an vu cáo người khác mà không trưng ra bằng chứng.

Tuy nhiên, vụ đưa tin bác sĩ Ngãi bị Interpol bắt cũng nằm trong chính sách "KHỦNG BỐ ĐEN" của đảng, được coi như là thông điệp mạnh mẻ gởi đến những người nào còn "kiên cường chống Cộng" mà bọn gián điệp, đón gió, có làm ăn, quyền lợi dính liền với Việt Cộng trong nước gọi là "chống Cộng quá khích, cực đoan" hay bị một tay mạo nhận nhà văn, nhà báo cho là "chống Cộng lưu manh".... đảng Hù là: mấy người còn chống lại đảng và nhà nước, coi chừng Interpol đến hỏi thăm sức khỏe và nếu có đi đâu cũng bị interpol các nước sở tại tóm cổ như bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi đấy!

Interpol không phải là "công cụ" của đám ác ôn Công An, đảng và nhà nước Cộng Sản. Thân phận "đeo dè" tổ chức Interpol rõ ràng, tổ chức nầy không phải muốn bắt ai thì cứ bắt, chỉ cần nghe theo "báo cáo" của thành viên Việt Cộng là "thà bắt lầm hơn tha lầm".

Thôi, Bỏ qua đi Vẹm!.

Trương Minh Hòa