Wednesday, July 16, 2008

Nhân phiên họp lần 7 khóa 10 đảng csVN

Nguyễn Tấn Dũng Sẽ Bị Thay Thế (?)

Lê Hồng Anh

Đảng CSVN đang họp Ban Chấp Hành Trung Ương (BCHTƯ) khoá 10 lần thứ 7, phiên họp bắt đầu từ ngày 9 và sẽ kết thúc trong ngày 17/7. Báo chí quốc tế, đặc biệt là báo chí Việt Nam hải ngoại, trước đó đã nêu lên nhiều đồn đãi sẽ có thay đổi nhân sự qua phiên họp. Phần lớn đều cho rằng nhân cơ hội suy sụp kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây, thành phần bảo thủ trong đảng sẽ viện cớ để lật đổ Nguyễn Tấn Dũng là người thuộc phe cải cách.

Những người thuộc khuynh hướng bảo thủ có thể sẽ lên thay thế Nguyễn Tấn Dũng là Lê Hồng Anh, nhân vật số 2 trong Bộ Chính Trị, hay một trong ba phó thủ tướng: Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Sinh Hùng. Họ là những người đã bị ông Dũng tước bỏ bớt quyền hành bằng cách chỉ định thêm hai phó thủ tướng là Nguyễn Thiện Nhân và Hoàng Trung Hải.

Từ lâu, sự phân tích tình hình chính trị ở Việt Nam và Trung Cộng của các bình luận gia Tây Phương phần lớn đều trong mẫu mực cho rằng trong nội bộ luôn luôn có hai khối canh tân và bảo thủ tranh giành nhau. Đặc biệt đối với đảng CSVN còn phân ra 2 khối Thân Tàu và Thân Mỹ! Họ cho rằng hiện ông Nông Đức Mạnh là người cầm đầu phe bảo thủ thân Tàu, ông Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng là những người cầm đầu phe cải cách thân Mỹ. Trong ngày 19 tháng 6, một chuyên viên nghiên cứu Việt Nam là Giáo sư Carlyle Thayer của Trường Đại Học New South Wales, Viện Quốc Phòng Úc ở Canberra cũng đã viết một bài báo trên tờ Wall Street Journal nói rằng ông Mạnh cầm đầu phe bảo thủ đang thắng thế, nếu những dân biểu trong quốc hội Việt Nam không cứng rắn đối với phe bảo thủ thì mọi sự cải cách ở Việt Nam bao lâu nay sẽ bị hạn chế tất cảû! (For Vietnam to succeed in its present course, it is vital for National Assembly deputies, not back room party conservatives, to assert their authority to review government policy and the stewardship of the prime minister. If they don't, Vietnam's recent successes could soon be curtailed.).

Những bài bình luận mới nhất, sau khi thấy phiên họp BCHTƯ của đảng CSVN chỉ tập trung bàn luận về những vấn đề kinh tế, một số bình luận gia cũng đã vội vã nói rằng nhờ chuyến đi Hoa Kỳ của ông Dũng rất thành công nên vấn đề thay đổi ông Dũng sẽ không còn đặt ra trong phiên họp BCHTƯ/CSVN khoá 10, lần 7!

Bất cứ đoàn thể, tổ chức chính trị nào cũng có sự tranh giành ảnh hưởng và thế lực nội bộ. Một số đảng Quốc Gia và đoàn thể Quốc Gia ở hải ngoại trong nhiều năm qua cũng đã cho thấy rõ với những chức vụ chỉ có “tiếng”, có thể chỉ đem lại một chút ít danh dự tương đối nào đó trong Cộng Đồng bằng cơm nhà áo vợ, nhưng cũng đã có tình trạng tranh giành nhau chí choé. Cũng có những ông Chủ tịch đảng đi không vững, nói không ra hơi vẫn cố bám “chức” cho tới chết làm cho đảng hay đoàn thể mà ông ta làm Chủ tịch ngày càng tê liệt, cũng chết theo ông ta, thì việc cạnh tranh chức vụ trong một đảng đang cầm quyền, mang đến nhiều quyền lợi vô cùng “cụ thể” cho bản thân, gia đình, dòng họ cũng là những việc dĩ nhiên.

Tuy nhiên, sự phân biệt canh tân và bảo thủ, thân Tàu và thân Mỹ trong hàng ngũ giới lãnh đạo CSVN là những sự sai lầm rất lớn, có thể tạo cảm tưởng tốt, hy vọng tốt cho một số nhân vật nào đó nhưng hoàn toàn sai lạc. Có thể từ trên quan niệm ủng hộ “người thân Mỹ” sẽ có lợi có quốc gia, một ngày nào đó khối người Việt hải ngoại sẽ hai tay “ủng hộ” thủ tướng CSVN. Từ ông Kiệt, ông Khải, tới ông Dũng.. ông nào cũng coi được coi là phe cải cách, thân Mỹ cả! Ảo tưởng này có thể ảnh hưởng nhiều tới tinh thần đấu tranh, công cuộc đấu tranh, và chứng tỏ người “đấu tranh” không biết gì về tổ chức đảng Cộng Sản.

Có thể những bình luận gia Tây Phương có dụng ý rất sâu sắc nào đó, bởi vì những hợp đồng làm ăn mua bán đầu tư của các nước đều phải ký kết với chính phủ CSVN, hay các cơ quan chính phủ chứ không phải với đảng CS. Mọi sự biện hộ, cho rằng những người cầm đầu chính phủ CSVN đều là những người canh tân đổi mới, đi ngược với thành phần bảo thủ lãnh đạo đảng CS cũng có thể là một hình thức biện hộ chính đáng cho sự đầu tư, làm ăn buôn bán của họ. Một ngày nào đó, họ có thể nói rằng: hỡi những người chống Cộng Việt Nam hãy ủng hộ chính phủ Việt Nam ở Hà Nội vì họ là những người canh tân, thân Tây Phương có lợi cho Việt Nam.

Không có điều gì để có thể kết luận một người từng tham gia hoạt động CS từ lúc mới 13 tuổi, đã giữ nhiều chức vụ bí thư, chính ủy, đặc trách ngành công an, thứ trưởng bộ nội vụ là một người canh tân, thân Mỹ. Một điều, mà các nhà phân tích cũng đã quên là cách nay vừa đúng 11 năm, hàng ngàn người dân 52 làng tỉnh Thái Bình, từng là cái nôi của đảng CS, của những người “chiến sĩ CS” như Tạ Quốc Luật, người bắt tướng de Castries, dựng cờ ở Điện Biên Phủ; Bùi Quang Thận là người đầu tiên đưa xe tăng vào Dinh Độc Lập; Phạm Tuân là người CSVN đầu tiên lên không gian, nhưng cũng là quê hương của những nhà đấu tranh chống Cộng tên tuổi như Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Dương Thu Hương, Nguyễn Hữu Đang ... đứng lên biểu tình chống nghèo đói, tham ô. Cầm đầu cuộc biểu tình là những cựu đảng viên, quân nhân từng tham gia 2 cuộc chiến, điều này đã làm đảng CS bối rối. Lúc bấy giờ Nguyễn Tấn Dũng không còn làm thứ trưởng bộ nội vụ, chỉ đảm nhận chức chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Ban chấp hành Trung Ương đảng CSVN, nhưng Dũng là người đã tỏ ra cứng rắn, tuyên bố nhiều câu sắt máu nhất, chống lại chủ trương vuốt ve người biểu tình của Phạm Thế Duyệt vốn là người gốc Thái Bình. Dũng đã vận động phải đàn áp mạnh cuộc đứng dậy. Chính thái độ của Dũng trước cuộc biểu tình này đã đưa Dũng lên chức Phó Thủ tướng sau đó. Quá trình quân đội, công an của Dũng không có điều nào để nói Dũng là người Canh Tân. Nhìn qua quá trình của ông Mạnh, ngoài chức tổng bí thư hiện nay, trước sau ông ta chỉ là một chuyên viên lâm nghiệp, không có điều nào để kết luận ông ta là bảo thủ. Tuy nhiên, điều mà ta có thể kết luận chính xác: cả hai đều là những người lãnh đạo CSVN, một đảng đã và đang làm cho dân tộc chúng ta chưa một ngày được biết thế nào là tự do dân chủ.

Theo tổ chức của đảng CS, mọi quyết định căn bản, sắp xếp nhân sự đều do BCHTƯ, cầm đầu là Bộ Chính Trị quyết định. Quốc Hội CS chỉ là bù nhìn giơ tay theo lệnh của đảng, của Bộ Chính Trị chứ không phải giống như quốc hội của các nước tự do theo chế độ Đại Nghị. Bài báo ngày 19/6 của Giáo sư Carlyle Thayer hình như ông ta đã lầm lẫn giữa quốc hội CSVN với quốc hội Úc!.

Chuyến thăm viếng của một nguyên thủ nào đến một nước khác, mọi hợp đồng, hiệp ước đều đã được nhân viên ngoại giao hai bên làm việc đâu vào đó. Họ chỉ là người đặt bút ký, hay chứng kiến các công ty ký kết, chương trình đã được ấn định sẵn từ lâu, có thể nhiều tháng trước, cả năm trước, chứ không phải ông Dũng tới Mỹ mới trổ tài ngoại giao thuyết phục để đem về những kết quả mong muốn. Việc cho rằng nhờ thành công chuyến đi Mỹ, ông Dũng mới không bị hạ bệ .. chỉ là những lời “trời ơi thiên hạ” Chuyến đi Mỹ của ông Dũng đúng ra là một sự thất bại, trước sự phản đối của khối cộng đồng Việt Nam chống Cộng ở Hoa Kỳ, nhiều giới chức Hoa Kỳ đã phải hủy bỏ những cuộc tiếp xúc đã được ông Dũng và phái đoàn của ông ta hy vọng từ trước. Ông Dũng tới Houston ký hợp đồng với thương gia trong thành phố, nhưng chính quyền Houston không tiếp rước, chiêu đãi là một sự thất bại chua cay.

Hệ thống tổ chức đảng CSVN khác chút ít với đảng CS Tàu. Ở Tàu, tổng bí thư đảng kiêm luôn chức chủ tịch nhà nước nên Hồ Cẩm Đào có danh nghiã chính đáng là nguyên thủ lãnh đạo nước Tàu, ông ta có thể đến các quốc gia khác trên tư cách Chủ tịch nước, chính danh tham dự các cuộc hội nghị thượng đỉnh. Ở Việt Nam, tổng bí thư không kiêm chức chủ tịch nước, cho nên ông Nông Đức Mạnh chỉ có thể đi tới những nước có đảng Cộng Sản còn đang cầm quyền như nước Tàu, Cuba và một số nước độc tài, không bị trở ngại mới tiếp đón ông ta với tư cách một người lãnh đạo VN, còn đối với hầu hết các nước trên thế giới, ông Mạnh không phải là người có tư cách đại diện cho một nước. Sự đi lại của bí thư đảng CSVN trên thế giới bị giới hạn, nhưng theo quyền lực của đảng CSVN, tổng bí thư đảng mới là người thực sự chỉ đạo chính sách ngoại giao và mọi chính sách căn bản trong nước. Không thể có việc ông Nông Đức Mạnh theo Tàu, nhưng ông Dũng chống Tàu, theo Mỹ! Cá nhân ông Mạnh, ông Triết, ông Dũng bị chi phối bởi một tập thể là Bộ Chính Trị, chóp bu của BCHTƯ. Mọi chính sách căn bản đối ngoại và đối nội trong nước đều do những bộ phận nằm ngoài khuôn khổ guồng máy nhà nước là các Ủy Ban Trung Ương Đảng nghiên cứu đề xướng, được Bộ Chính Trị thông qua. Thủ tướng và chính phủ CSVN chỉ là những người thừa hành, điều khiển cơ sở hành chánh, các cơ quan trong nước triển khai, áp dụng, thi hành những “nghị quyết”, đường hướng của Đại Hội Đảng, BCHTƯ và trên hết là Bộ Chính Trị đưa ra, không thể đi ra ngoài khuôn khổ đó.

Chính sách của đảng CSVN đã liên tiếp lập lại trong các đại hội đảng, đó là tiếp tục “ đẩy mạnh đổi mới, hội nhập quốc tế, tạo bước ngoặc trong kinh tế đối ngoại” cho nên việc mở rộng liên hệ đối ngoại, kêu gọi đầu tư, đặc biệt là cải thiện liên hệ với siêu cường kinh tế Hoa Kỳ, hay với các nước Tây Phương không thể coi là nằm ngoài chủ trương của đảng, coi việc ông Dũng đi Mỹ là đang thách thức và đối chọi với việc ông Mạnh mới đi Tàu.

Đối với CS Tàu, là nước mặc dù vẫn còn nhiều tranh chấp trên biển Đông, đảng CSVN đã liên tiếp xác định liên hệ hai nước CS anh em vẫn là môi hở răng lạnh, được chỉ đạo bằng 16 chữ : “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”! CSVN là đảng đang dưạ theo Chính sách của Trung Cộng, chính sách từ thời Mười-Anh-Kiệt tới nay chỉ là rập khuôn theo Bắc Kinh với vài chút thay đổi trong ngôn ngữ, danh xưng. Những nhà đầu tư ở Việt Nam, dân chúng Việt Nam không ai muốn chế độ CS tồn tại, thì cũng không ai muốn Việt Nam thân Tàu, lệ thuộc Tàu, nhưng đối với đảng CSVN lại hoàn toàn khác, họ vẫn luôn lo sợ “diễn biến hoà bình”; đòi hỏi nhân quyền, tư tưởng dân chủ và tự do Tây Phương luôn luôn là đe doạ đối với chế độ độc đảng; đảng CS Tàu là chỗ dưạ chắc chắn nhất đối với đảng CSVN nên những hy vọng người CSVN vì lẽ này, hay lẽ khác, như bị Trung Cộng áp bức, CSVN sẽ đi với Mỹ, nhờ Mỹ giúp để chống Trung Cộng chắc chắn chỉ là những ảo tưởng!

Cổ võ hô hào cho chủ trương chống Tàu, thân Mỹ của một số tổ chức đấu tranh hải ngoại có thể cũng rất cần để chúng ta phải cân nhắc lại, tự hỏi đây có phải là một chiến lược giữ an đất nước, là chiến lược cần có của một nước nhỏ nằm bên một nước lớn hay không? Chúng ta cũng từng có kinh nghiệm xương máu khi dựa vào Hoa Kỳ để chống lại sự xâm lăng của CS miền Bắc. Chúng ta cũng cần tự hỏi chiến lược ngàn đời của ông cha ta giúp giữ yên đất nước vẫn luôn luôn là “Bắc Hoà”, khi bị xâm lăng cầm gươm đứng lên hào hùng chống lại, khi chiến tranh kết thúc vẫn tìm cách làm hoà để tránh cảnh chiến tranh liên tục có phải là sai lầm hay không? Với thời đại nguyên tử hiện nay biến Việt Nam làm nơi tranh chấp của các siêu cường, dưạ vào nước này chống lại nước kia, lợi có thể rất ít mà hiểm họa thì có thể vô cùng khủng khiếp. Muốn lật đổ CSVN, chiến lược giữ nước của những người tranh đấu đưa ra rất cần phải có tính thuyết phục, phục vụ lợi ích lâu dài của dân tộc, thích hợp với điạ lý chính trị quốc gia.

Hội nghị lần 7 khoá 10 của đảng CSVN lần này, qua bài diễn văn khai mạc của ông Mạnh là: “Tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng đội ngũ trí thức; vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn; nghe báo cáo, thảo luận và cho ý kiến về tình hình kinh tế, xã hội trong 6 tháng đầu năm 2008, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2008”.

Vấn đề thanh niên, ông Mạnh ca tụng đảng CSVN đã tạo được một thế hệ thanh niên có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ và tư duy phát triển năng động, tiếp nối truyền thống hào hùng của dân tộc, nêu cao lòng yêu nước v.v. và v.v. Nhưng thực tế là gì? Thế hệ thanh niên Việt Nam hiện nay như thế nào? Dĩ nhiên cũng có những người chăm làm, chăm học, thì hầu hết do thất vọng với chế độ, do xã hội suy đồi, đạo đức băng hoại, đa số đã trở thành những người nghiện rượu, bê tha, xì ke, đĩ điếm. Những thanh niên thể hiện được lòng yêu nước, quan hoài tới vận mệnh và tương lai dân tộc thì hình như lại bị chế độ đày ải, cho vào tù!

Đề cập tới hàng ngũ trí thức, ông Mạnh cũng đã thẳng thắn thừa nhận “Số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức chưa đáp ứng nhu cầu của sự phát triển, số chuyên gia đầu ngành còn thiếu, đội ngũ kế cận hụt hẫng..” Sự thưà nhận này của ông Mạnh cũng đã được nhiều lần nêu lên, giống như CSVN lúc nào cũng nói rằng tham nhũng là đại nạn của đảng, của đất nước. Hàng ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay có thể vẫn còn thiếu, nhưng hàng ngũ trí thức thất nghiệp ở Việt Nam lại rất nhiều. Thành phần trí thức lương thiện có thực tài không muốn làm việc với nhà nước, họ có khuynh hướng tìm việc ở các công ty ngoại quốc. Hàng ngàn kỹ sư, bác sĩ tốt nghiệp đã không thể tìm được việc làm chỉ vì không có tiền hối lộ khi xin việc, hay họ cũng không thể làm việc lâu dài nếu không sớm hoà đồng trở thành một người tham nhũng, vào bè, vào băng, a tòng với thành phần lãnh đạo. CSVN nhấn mạnh đến nhu cầu đào tạo trí thức, hoàn toàn giống như lời than đối với tham nhũng, càng chứng tỏ muốn trong sạch đội ngũ, tham nhũng càng phát triển, càng nói tới nhu cầu trí thức, trí thức vẫn tiếp tục bị bạc đãi. Trường học cũng tham nhũng, buôn bán bài thi ... đa số du học sinh là con ông cháu cha, ít người do học hành giỏi dang được đưa ra nước ngoài du học.

Không hiểu ông Dũng sẽ nêu lên những điểm lạc quan nào đối với nền kinh tế. Nhưng với những ghi nhận từ năm 2007 tới nay, nền kinh tế Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn, và chính vì thế mới có tin đồn ông Dũng sẽ bị thay thế trong phiên họp lần này. Thâm thủng mậu dịch trong 6 tháng đầu năm 2008 là 14.7 tỷ mỹ kim, lạm phát trong tháng 6 lên mức 26.8% là mức cao nhất trong vòng 1 thập niên qua. Thị trường bất động sản đứng chựng, chỉ số chứng khoán mất trên một nửa từ 800 điểm xuống còn 384 điểm, giá thực phẩm từ đầu năm tới nay tăng lên 74.3%. Nợ ngoại quốc lên 34.6% GDP. Tình trạng vật giá leo thang đã đưa tới nhiều cuộc đình công của công nhân đòi tăng lương. Tình hình chung đang làm nãn lòng các nhà đầu tư. Ông Mark Matthews của công ty Merrill Lynch đặc trách Á Châu Thái Bình Dương cảnh cáo các nhà đầu tư nên cẩn thận đối với thị trường Việt Nam khi tình hình kinh tế chưa sáng tỏ. Công ty chứng khoán Daiwa của Nam Hàn đã lỗ nặng ở Việt Nam và cảnh cáo sự vội vàng đầu tư ở Việt Nam.

Theo các nhà kinh tế, hiện tình kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn hiện nay là do chính sách điều hành kinh tế sai lầm. Kinh tế gia Jonathan Pincus của Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) nói rằng tình hình VN xấu hơn các nước trong vùng là do chính quyền không nắm vững nguyên tắc tài chánh và ngân khố. Những nhà kinh tế khác nói rằng Chính phủ Việt Nam đã không quan tâm tới quân bằng xuất nhập cảng, quan tâm tới con số tỷ lệ phát triển, nhưng không phải là phát triển có thực chất làm cho người công nhân kiếm được nhiều tiền hơn, nhưng đời sống khó khăn hơn. Theo những báo cáo kinh tế mới đây, kinh tế Việt Nam hiện gặp khó khăn là do chủ trương bảo thủ chứ không phải từ nổ lực canh tân, đổi mới, sửa đổi theo hướng đi quốc tế mong muốn. Ông Dũng là một trong những người bảo vệ quyền lợi của các của các Tổng Công Ty, gom thu khai thác mọi tài nguyên và dịch vụ quan trọng trong nước. Các tổng công ty này là biến thái, tập trung của những công ty, xí nghiệp quốc doanh thua lỗ bị thế giới chỉ trích, có hại cho nền kinh tế. Khoảng 20 tổng công ty của CSVN hiện mắc nợ ngân hàng khoảng 69.577 tỷ đồng, gấp đôi số vốn đầu tư, và đang tiếp tục bòn rút tiền tiền ngân hàng, tiền thuế của dân chúng. Nó là phương tiện giúp CSVN kiểm soát nền kinh tế đất nước, làm giàu cho thành phần lãnh đạo, các ban ngành trong đảng.

Với những nguyên nhân nào, người làm thủ tướng chính phủ cũng là người phải chịu trách nhiệm đối với tình hình kinh tế. Ông ta sẽ bị coi là người không thi hành đúng đắn những “nghị quyết” của đảng, là sự lầm lẫn, bất lực, thiếu khả năng của ông Dũng mà không phải đảng.

Sự thay thế ông Dũng một ngày nào đó, không thể được coi một cách đơn giản là đổi mới thất bại, bảo thủ thắng thế như quan điểm của một số nhà báo Tây Phương. Bởi đổi mới là chủ trương của cả đảng. Lúc nào đảng ta cũng “ đẩy mạnh công cuộc đổi mơí”. Tất cả 3 triệu đảng viên CSVN đều là những người hưởng lợi ích lớn nhất từ chủ trương đổi mới, từ sự phát triển kinh tế. Thất bại kinh tế sẽ làm cho thành phần này thiệt hại lớn nhất. Bất động sản của họ sẽ mất giá, chứng khoán của họ mất giá, đầu tư của gia đình họ sẽ bị thua lỗ. Sự thay đổi Nguyễn Tấn Dũng có xảy ra, thì Dũng chỉ là con vật tế thần để trấn an sự bất mãn của người dân và cứu nguy cho tài sản của thành phần đảng viên CS và nhất là thành phần lãnh đạo mà thôi.

Sự suy sụp kinh tế của Việt Nam có thể là cơ hội để CSVN phải “đổi mới” thêm, chứ sẽ không làm cho CSVN dừng lại. Đây là quyền lợi của chúng. Con người CSVN hiện nay không có ai “bảo thủ” và cũng không có ai “canh tân”. Mỗi con người CSVN hiện nay đều có 2 bản thể. Một, muốn tiếp tục canh tân đổi mới để tiếp tục làm giàu. Bản thể thứ 2 trong con người của chúng là làm sao tiếp tục giữ “ổn định chính trị”, tức tiếp tục giữ sự cai trị của đảng, sự cầm quyền của đảng, để có thể tiếp tục hưởng được lợi ích lâu dài, cha truyền con nối. Đổi mới để phát triển kinh và “ổn định chính trị” là 2 trụ cột phải quân bằng của đảng CSVN.

Hình như chỉ khi nào sự “đổi mới” tiếp tục theo xu hướng hiện nay làm mức thang lợi tức xã hội thêm lớn rộng, sự giàu có của thành phần lãnh đạo quá lớn đè lên cổ người dân không còn chịu đựng được nữa, CSVN chỉ còn phải nghĩ tới “ổn định chính trị” thì lúc đó thì lúc đó Việt Nam mới hy vọng có tương lai tươi sáng.

Thanh niên Việt Nam, những người thanh niên Việt Nam hào hùng thật sự, đội ngũ trí thức Việt Nam, những thành phần trí thức thực sự, sẽ là niềm hy vọng của dân tộc Việt Nam. Thanh niên, trí thức VN hãy nhìn rõ bộ mặt của từng tên lãnh đạo CSVN, nhìn rõ sẽ thấy chúng là cá mè một lưá, cùng là quà quạ, kênh kênh trên xương thịt mẹ VN. Hãy cùng nhau đứng dậy cho quê mẹ, cho tương lai dân tộc Việt. Mong thay!

Huệ Vũ

Tự Do Khỏi Nỗi Khiếp Sợ

Aung San Suu Kyi


(VNC) - Tiểu Luận “Tự do khỏi nỗi khiếp sợ” của Aung San Suu Kyi lần đầu được phổ biến để xuất bản với mục đích kỷ niệm Giải Thưởng Sakharov vì Tự Do Tư Tưởng mà Nghị Viện Âu Châu trao tặng. Lễ trao giải diễn ra tại Strasbourg vào ngày 10 tháng Sáu 1991 mà không có sự hiện diện của bà.

Không phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ đánh mất quyền lực làm tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực và sự khiếp sợ bị quyền lực trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm dưới tay quyền lực. Đại đa số người Miến quen thuộc với bốn gati, bốn hình thức của tha hóa. Changda-gati (Tham), sự tha hóa bắt nguồn từ lòng ham muốn, là sự từ bỏ chính đạo để tìm kiếm tặng vật bất chính hay những thứ mình thèm khát. Dosa-gati (Sân) là việc đi vào lạc đạo nhằm trừng phạt những người mà mình ghét bỏ, Moga-gati (Si) là sự sai lầm do si đần. Nhưng có lẽ cái tồi tệ nhất trong bốn hình thức tha hóa là Bhaya-gati (Úy), không phải chỉ vì bhaya (sự khiếp sợ) làm tê cứng và dần phá hủy tất cả các cảm giác về đúng-sai, mà nó thường là nguồn cơn của ba hình thức tha hóa còn lại. Giống như Tham, khi không bắt nguồn từ tính hám lợi thuần túy thì có thể là sản phẩm của sự khiếp sợ cảnh nghèo túng hoặc sợ làm phật lòng những người mình yêu quí, sự khiếp sợ bị vượt qua, bị lăng nhục hoặc thương tổn theo cách nào đó có thể xô đẩy con người đến những ác ý. Cũng khó có thể xua tan u mê trừ phi có tự do theo đuổi chân lý và không bị trói buộc bởi sự khiếp sợ. Với quan hệ gần gũi đến thế giữa sự khiếp sợ và tha hóa, không có gì phải ngạc nhiên là ở bất kỳ xã hội nào, khi sự khiếp sợ lan tràn, tha hóa dưới mọi hình thức sẽ bám rễ sâu trong lòng xã hội.

Việc công chúng không hài lòng với những khó khăn kinh tế vẫn được nhìn nhận là nguyên nhân chính dẫn tới phong trào đòi dân chủ ở Miến, được châm ngòi bởi những cuộc biểu tình của sinh viên năm 1988. Đúng là nhiều năm với những chính sách thiếu ăn nhập, các giải pháp sai lạc của chính quyền, lạm phát leo thang và thu nhập thực tế tụt giảm đã đưa đất nước đến tình trạng khủng hoảng kinh tế. Nhưng không phải những khó khăn trong việc nâng cao hơn mức sống - ở mức gần như không thể chấp nhận được - là lý do duy nhất xói mòn lòng kiên trì của người dân vốn đôn hậu và hiền lành, mà còn do sự lăng nhục bởi một lối sống bị biến dạng bởi tha hóa và khiếp sợ.
Các sinh viên đã đấu tranh không phải thuần túy vì cái chết của các đồng chí, mà còn chống lại sự phủ nhận quyền được sống của họ bởi chính thể toàn trị - một chính thể đã tước đi sự hiện diện của lẽ phải và không đem đến bất kỳ một hi vọng nào cho tương lai. Và vì các cuộc tranh đấu của sinh viên đã truyền tải rõ ràng sự thất vọng của công chúng, những cuộc biểu tình này lan nhanh thành một phong trào toàn quốc. Một trong những người ủng hộ nhiệt thành nhất cho phong trào là các doanh gia, những người đã hình thành những kỹ năng và quan hệ cần thiết để không chỉ tồn tại mà còn giàu có trong hệ thống. Nhưng sự giàu có không đem đến cho họ cảm nhận thực sự về an ninh và thành đạt, và họ không thể không nhận thấy rằng nếu họ và đồng bào họ, bất kể địa vị kinh tế, muốn có được một sự sinh tồn khả dĩ thì một bộ máy nhà nước khả tín ít ra phải là điều kiện cần, nếu không phải là điều kiện đủ. Người dân Miến đã lo ngại về tình trạng bấp bênh của kẻ nằm dưới sự trị vì của người khác, khi mà thân phận họ “như nước ... trong bụm tay” của những kẻ nắm quyền lực tối cao.

Chúng ta đẹp xanh như ngọc
Trên bụm tay người
Nhưng ôi, chúng ta cũng có khi là
Những vụn gương vỡ nát
Trên bụm tay người

Các vụn gương, những mảnh nhỏ nhất, óng ánh và sắc nhọn, có thể tự bảo vệ mình khỏi những bàn tay muốn nghiền nát chúng là một biểu trưng sống động của tinh thần can đảm, một phẩm chất cần thiết của những người muốn giải phóng mình khỏi sự kìm kẹp của bạo quyền. Bogyoke Aung San coi mình là một nhà giải phóng và không ngừng tìm kiếm câu trả lời cho những trở ngại mà Miến Điện gặp phải trong thời khắc thử thách của dân tộc. Ông hô hào đồng bào mình hãy can đảm hơn: “Hãy đừng lệ thuộc vào lòng can đảm và tinh thần dũng cảm của người khác, mỗi người trong các bạn hãy biết hi sinh để trở thành một anh hùng và tạo dựng sự dũng cảm và can đảm của chính mình. Chỉ đến khi đó chúng ta mới có thể cùng chung hưởng tự do thực sự”.

Nỗ lực cần thiết để tránh không bị tha hóa - trong một môi trường mà sự khiếp sợ là một phần máu thịt của sự tồn tại hàng ngày - không tức khắc rõ ràng với những người có may mắn sống trong những nhà nước có sự hiện diện của pháp quyền (rule of law). Luật pháp công minh không chỉ ngăn chặn sự tha hóa thông qua việc trừng phạt không thiên vị những kẻ phạm pháp. Luật pháp còn giúp tạo dựng một xã hội mà trong đó mọi người có thể thỏa mãn những yêu cầu căn bản-vốn thiết yếu cho việc bảo tồn nhân phẩm con người mà không cần phải cầu viện đến những hành vi tha hóa. Khi thiếu vắng luật pháp như thế, gánh nặng gìn giữ các nguyên tắc của công lý và sự đoan chính chuyển sang vai những con người bình thường. Chính hiệu ứng tích lũy những nỗ lực bền bỉ và sự nhẫn nại sẽ thay đổi một dân tộc - nơi lý trí và lương tri bị bóp méo bởi sự khiếp sợ - sang một xã hội mới- nơi luật pháp tồn tại là để đáp ứng khát vọng của con người về sự hòa hợp và công lý, trong khi giúp ngăn chặn những tính ác trong bản chất thiên bẩm của con người.

Trong một thời đại mà sự phát triển lớn lao của kỹ nghệ đã tạo ra những vũ khí chết người-những thứ có thể được, và đang được, những kẻ nắm quyền vô đạo dùng để thống trị kẻ yếu và không có khả năng tự vệ, có một đòi hỏi cấp thiết về mối quan hệ gần gũi hơn giữa chính trị và đạo đức, trên cả cấp độ dân tộc và quốc tế. Tuyên Ngôn Nhân Quyền Toàn Cầu của Liên Hợp Quốc khẳng định rằng tất cả mọi người và mọi hợp phần của xã hội phải đấu tranh nhằm thúc đẩy tự do và các quyền cơ bản mà theo đó mọi người, bất kể chủng tộc, quốc gia và tôn giáo đều được hưởng. Tuy nhiên, chừng nào còn tồn tại các chính quyền được thiết lập dựa trên sự áp bức thay vì sự chấp thuận của công chúng, chừng nào còn tồn tại các nhóm lợi ích chỉ biết đặt lợi ích trước mắt lên trên hòa bình và thịnh vượng lâu dài, thì hành động phối hợp quốc tế bảo vệ và phát huy quyền con người bất quá chỉ là một nửa cuộc đấu tranh. Vẫn sẽ có những đấu trường nơi các nạn nhân của bạo quyền phải tự dựa vào những nội lực của chính họ để bảo vệ các quyền bất khả nhượng với tư cách là những thành viên của gia đình nhân loại.

Cuộc cách mạng rốt ráo là cuộc cách mạng trong tinh thần, được khai sinh từ niềm tin trí tuệ về nhu cầu cần phải thay đổi các thái độ và các giá trị - những thứ định hình tiến trình phát triển của một dân tộc. Một cuộc cách mạng chỉ tập trung vào thay đổi các chính sách của nhà nước và các thể chế, với mục tiêu cải thiện các điều kiện vật chất, sẽ chỉ có rất ít cơ hội thành công thực sự.

Thiếu vắng cuộc cách mạng trong tinh thần, nguồn gốc tạo ra cái vô đạo của trật tự cũ vẫn sẽ tiếp tục vận hành, gây ra một đe dọa thường trực cho quá trình cải cách và phục hồi. Sẽ không đủ nếu chỉ cổ súy cho tự do, dân chủ và các quyền con người. Cần có quyết tâm thống nhất nhằm duy trì cuộc đấu tranh, chấp nhận hi sinh vì chân lý vững bền, chống lại các ảnh hưởng tha hóa của lòng ham muốn, của ác ý, của si đần và sự khiếp sợ.

Người ta từng nói rằng các vị Thánh là những tội nhân luôn cố gắng [rửa sạch lỗi lầm của mình]. Vì thế, người tự do là những người bị áp bức luôn cố gắng và trong quá trình đó, chuyển hóa mình để thích hợp với việc gánh vác các trách nhiệm và gìn giữ các nguyên tắc cho một xã hội tự do. Trong số những sự tự do cơ bản mà con người mong ước nhằm tạo dựng một cuộc sống tràn đầy và không bị trói buộc, tự do khỏi khiếp sợ nổi lên là một phương tiện, đồng thời là mục đích. Một dân tộc muốn xây dựng một đất nước mà trong đó các thể chế dân chủ mạnh được xây dựng bền vững như là một bảo đảm chống lại sự lạm quyền của nhà nước thì trước hết phải học cách giải phóng tâm mình khỏi sự vô cảm và sự khiếp sợ.

Luôn là một người thực hành những gì mình kêu gọi, bản thân Aung San luôn chứng tỏ sự can đảm – không chỉ là những biểu hiện bên ngoài, mà còn là sự can đảm cho phép ông nói lên sự thật, giữ lời, chấp nhận phê bình, thừa nhận những lỗi lầm mình có và sửa chữa, tôn trọng đối lập, hòa đàm với kẻ thù và để dân chúng vào vị trí quan tòa phán xét sự xứng đáng của ông trong vai trò lãnh đạo. Chính vì sự dũng cảm đạo đức như thế mà ông luôn được kính yêu ở Miến – không chỉ với tư cách là một chiến binh anh hùng mà còn với tư cách là nguồn cảm hứng và lương tri cho cả dân tộc. Những từ ngữ do Jawaharlal Nehru sử dụng khi nói về Thánh Gandhi có thể áp dụng tốt trong trường hợp của Aung San:

“Tinh hoa trong các bài giảng của ngài là sự không khiếp sợ và sự thật, cùng với các hành động thống nhất với hai yếu tố này [trong khi vẫn] luôn quan tâm đến phúc lợi của đám đông”.

Gandhi, nhà truyền giáo vĩ đại của tư tưởng bất bạo động, và Aung San, người sáng lập quân đội quốc gia, là hai người có tính cách rất khác nhau, nhưng cũng giống như có sự tương đồng hiển nhiên trong những thách thức của chế độ toàn trị ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, thì cũng có những tương đồng trong các phẩm chất vốn có ở những người đứng lên đối mặt với những thách thức ấy. Nehru, người nhìn nhận việc lan truyền lòng can đảm trong dân chúng Ấn là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của Gandhi, là một nhà chính trị canh tân, nhưng khi ông tiếp cận với các đòi hỏi của phong trào đòi độc lập trong thế kỉ hai mươi, ông đã nhận thấy là mình quay trở về với triết học cổ điển Ấn: “Món quà lớn nhất cho một cá nhân hay một dân tộc … là Abhaya, không khiếp sợ, không thuần túy là sự can đảm bề ngoài, mà còn là sự vắng bóng sự khiếp sợ trong tâm”.

Sự can đảm có thể là một món quà, nhưng có lẽ còn quý giá hơn nếu can đảm được khơi lên từ sự nỗ lực, thứ can đảm đến từ việc gieo trồng thói quen không để sự khiếp sợ kiểm soát hành vi của mình, thứ can đảm có thể được miêu tả bằng “tự tại trước áp lực” – sự tự tại được làm mới liên tục ngay khi đối mặt với những áp lực căng thẳng và dai dẳng.

Trong một hệ thống chính trị luôn chối bỏ sự tồn tại của các quyền con người cơ bản, sự khiếp sợ có vẻ như là thuộc tính nổi bật. Sợ tù đày, sợ tra tấn, sợ cái chết, sợ bị mất đi những bạn bè, gia đình, tài sản hay phương tiện sống, sợ đói nghèo, cô lập, trước thất bại. Hình thức quỷ quyệt nhất của sự khiếp sợ là hình thức ngụy trang dưới mặt nạ common sense (lẽ thường) hoặc thậm chí là sự thông thái, kết án những hành vi can đảm bé nhỏ thường nhật – những hành vi giúp bảo toàn niềm tự trọng và phẩm giá ẩn chứa trong mỗi con người – là [những hành vi] ngu ngốc, khinh suất, không đáng giá hoặc vô ích. Không dễ dàng để quần chúng đang khiếp sợ dưới sự cai trị hà khắc hiểu rằng họ có thể tự giải thoát mình khỏi bầu khí độc của sự khiếp sợ hãi đang làm họ kiệt sức. Ấy thế mà ngay cả khi dưới sự đàn áp của những bộ máy cai trị hà khắc nhất, tinh thần can đảm vẫn trỗi dậy hết lần này qua lần khác, vì sự khiếp sợ không phải là trạng thái tinh thần tự nhiên của một người văn minh.

Suối nguồn của lòng can đảm và sự vững vàng trước bạo quyền vô hạn độ thường là lòng tin son sắt vào các giá trị đạo đức thiêng liêng kết hợp với sự hiểu biết lịch sử rằng dù cho mọi khó khăn, lịch sử loài người được đặt trên một lộ trình duy nhất là sự tiến bộ cả về tinh thần lẫn vật chất. Chính khả năng tự cải biến và sửa sai là yếu tố quan trọng nhất phân biệt con người với con vật. Cội rễ của trách nhiệm người là khái niệm hoàn mỹ, sự khao khát đạt được nó, sự thông tuệ để tìm đường đến với nó, và sự sẵn lòng đi theo con đường đó cho tới đích cuối cùng, hoặc ít ra cũng đi được khoảng cách cần thiết để vượt lên trên các giới hạn cá nhân và các trở ngại của môi trường. Chính viễn kiến của con người về thế giới tương thích với nhân tính duy lý và văn minh đã dẫn chúng ta đến chỗ dám chịu đựng mất mát để xây dựng các xã hội tự do khỏi đói nghèo và khiếp sợ. Các khái niệm như sự thực, công lý và lòng trắc ẩn không thể bị loại trừ vì lặp đi lặp lại quá nhiều trong khi chúng thường là những bức tường thành duy nhất hiên ngang chống lại bạo quyền.

Aung San Suu Kyi


Cộng Đồng, Ông Là Ai ?

Nhã Nam

Khi còn trong nước trước năm 75, chúng ta thường nghe đến từ cộng đồng qua, cộng đồng người Hoa, sinh hoạt cộng đồng, trường tiểu học cộng đồng…nhưng không một ai quan tâm đến, vì bấy giờ cộng đồng chẳng có liên hệ và ảnh hưởng gì đến cuộc sống đời thừơng hằng ngày của mọi người. Từ cộng đồng chỉ thực sự được mọi người chú ý và quan tâm đến khi phải bỏ nước ra đi, không thể sống dưới chế độ cộng sản Hà Nội, để đến định cư tại một quốc gia mà ở đó, tất cả mọi thứ đều hoàn toàn xa lạ với mình. Vì nhu cầu sống còn cho cuộc sống mới trong một xã hội mới, tất cả mọi người cùng sống quây quần bên nhau thành một công đồng để nuơng tựa và giúp đở lẫn nhau và cũng để bảo tồn những sắc thái đặc thù của dân tộc khi ở xứ lạ, quê người. Do đó , cộng đồng ở đây chỉ là hình ảnh của xã hội cũ được hình thành trong một môi trường mới, hay nói khác đi cộng đồng là nơi tập hợp tất cả mọi thành phần của xã hội: tôn giáo, chính trị, nghề nghiệp, địa phương… có chung một ngôn ngữ, mội nền văn hóa và một phong tục, tập quán.

Nhưng một số người, vì không nắm vững ý nghĩa của cộng đồng nên khi thấy trong cộng đồng nở rộ lên nhiều hội đoàn, đoàn thể: hội Cựu Quân Nhân, hội Đồng Hương Quảng Ngãi, hội Tranh Đấu Cho Nhân Quyền, Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia, hội HO, hội Diên Hồng, hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Đà Lạt, hội Cảnh Sát, hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức…thì cho rằng, cộng đồng không có sự đoàn kết mới nẩy sinh ra sự thể như vậy, do đó, dù có thiện chí, đã bi quan nên không màng đến việc đóng góp cho cộng đồng. Không, nhiều hội đoàn trong cộng đồng không có nghĩa là thiếu sự đoàn kết, sự có mặt của họ chỉ để biểu hiện lên nét sắc thái đặc biệt riêng của nhóm mình trong cộng đồng, nhưng họ vẫn là thành viên của cộng động. Sự kết hợp các hội đoàn lại thành một khối là trách nhiệm của Cộng Đồng và nếu chưa thực hiện được sự đoàn kết, có thể thời gian chưa đủ để đi đến kết quả hay do sự thiếu sót của một vài cá nhân nào đó trong ban lãnh đạo cộng đồng hoặc chưa có chương trình hoạt động phù hợp với cộng đồng chăng? Nếu được, sẽ tạo nên một sức mạnh vô song, cụ thể qua biến cố Trần Trường và chiến dịch Làm Sáng Màu Cờ đã và đang diễn ra khắp nơi trên toàn nước Mỹ.

Nắm vững về ý nghĩa của cộng đồng chưa đủ, chúng ta cần phải ý thức thế nào là sự đóng góp (ăn cơm nhà, vác ngà voi) cho cộng đồng nếu không, đây là mầm mống tạo ra sự bất đồng. Việc đóng góp cho cộng đồng, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người sẽ được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Người có điều kiện thuận tiện không vướng bận nhiều về gia đình thì năng nổ trực tiếp ra gánh vác việc cộng đồng nhưng không vì thế mà dèm pha những ai không dấn thân như mình là, trí thức trùm chăn, thiếu thiện chí, không có long hay ngại không về Việt Nam được…Họ không năng động dấn thân như mình, có thể vì hoàn cảnh gia đình chưa cho phép hay vì bản tính nhưng bù vào đó, họ đã cố gắng dạy dỗ con em trở thành niềm hãnh diện, niềm tự hào Vẻ Vang Dân Việt qua những Đinh Việt,Lữ Anh Thư,Lương Nguyệt Ánh, Trần thái Văn, Nguyễn Đạt….Như vậy sự dấn thân trực tiếp hay không trực tiếp không là điều quan trọng, điều quan trọng là kết quả của sự đóng góp.

Tránh được những điều trên chỉ là yếu tố cần nhưng chưa đủ cho việc kết hợp cộng đồng, để hội đủ điều kiện đủ, chúng ta nên tránh những sai sót vô tình hay cố ý sau:

Khi thấy cộng đồng, ngoài các công tác xã hội, đã và đang tham gia vào những buổi biểu tình chống văn hóa vận của cộng sản, đòi hỏi nhân quyền cho Việt Nam…một số người cho rằng ,cộng đồng làm chính trị, tôi không làm chính trị do đó tôi không muốn hoạt động với cộng đồng. Tại sao lại bảo mình không làm chính trị? Nếu không, sao không ở lại Việt Nam với cộng sản? Bỏ nơi chôn nhao, cắt rún ra đi (dù dưới hình thước nào) là, chúng ta đã bỏ phiếu bằng hai chân không chấp nhận chế độ công sản, đó là hành vi chính trị. Do đó khi lý luận tôi không tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng vì cộng đồng làm chính trị không còn đứng vững nữa, vì đó chỉ là sự ngụy biện cho sự thiếu thiện chí hay không ý thức về câu nói của mình mà thôi.

Trong sinh hoạt cộng đồng đôi khi có nhiều vấn đề cần phải được đưa ra để thảo luận. Do thiện chí và sự hăng say của mọi người, buổi họp để thảo luận vấn đề càng lúc càng sôi nổi và gây cấn, bởi lẽ ai cũng muốn qua lý lẻ để binh vực cho ý kiến của mình là giải pháp đúng cho vấn đề, nếu được đem ra thi hành sau này. Rồi lời qua, tiếng lại đã làm sự bất đồng ý kiến càng lúc càng lớn lên mà chẳng ai chịu nhường ai để rồi đi đến tình trạng không thèm nhìn mặt nhau, đôi khi còn chụp mũ cho nhau nữa là đằng khác. Sự bất đồng không dừng tại đây, khi quyết định cuối cùng của đa số không đồng thuận với ý kiến của mình, thế là chẳng những không hợp tác mà còn phát biểu những điều linh tinh không mấy lợi cho cộng đồng hoặc tự đứng ra thành lập một hội đoàn khác để đối đầu. Đây là căn bệnh trầm kha của chúng ta: Cái Tôi, cái tôi là cái đáng thô bỉ (le Moi est haissable). Tại sao chúng ta không học hỏi tinh thần của các ứng cử viên của Mỹ? Trong lúc tranh cử họ đã tố lẫn nhau như mỗ bò, tưởng chừng như có thể giết nhau được nhưng đến hồi chung cuộc, kẻ bại đã chúc mừng và hứa sẽ hợp tác với kẻ thắng để phục vụ cho quyền lợi chung của đất nước.

Dấn thân vào sinh hoạt cộng đồng là để phục vụ cho lợi ích và quyền lợi của tập thể nhưng một vài cá nhân khi tham gia cộng đồng đã không vì mục tiêu chung nên khi nắm cộng đồng họ đã lợi dụng để phục vụ cho quyền lợi cá nhân hay phe nhóm. Tình trạng bè phái, phe nhóm này đã đẩy những người có thiện chí đã và đang tham gia xa dần với cộng đồng và đồng thời tạo nên một hình ảnh không mấy tốt đẹp về sự đoàn kết, thì còn uy tín đâu nữa để kêu gọi mọi người hổ trợ cộng đồng trong công cuộc đòi hỏi quyền lợi hay đấu tranh chống cộng ở tương lai.Hơn nữa ngoài vấn đề phe nhóm ra, khi hoạt động cộng đồng còn cần đến sự nhiệt tình nhưng sự nhiệt tình này cần phải được đặt đúng chỗ, nghĩa là người có nhiệt tình phải biết mình làm được gì và không làm đuợc gì để sau này nhận trách nhiệm phù hợp với khả năng của mình, nếu không ý thức được điều này, đôi khi đặt tự ái không đúng chỗ sẽ bị va chạm khi so sánh với những người đang có vai trò khác có vẽ trang trọng hơn rồi đâm ra chỉ trích và bất mãn để dẫn dần đến sự đỗ vỡ.

Là người Việt Nam tha phương đang sống ở xứ lạ quê người, ai lại không muốn cộng đồng của mình vững mạnh. Sự vững mạnh này sẽ tạo thế mạnh ở địa phương mình đang sinh sống. Từ thế mạnh đó, chúng ta sẽ đòi hỏi được những quyền lợi tất yếu cho cộng đồng Hãy nhìn lại, đã bao nhiêu năm qua, nếu so với quyền lợi của cộng đồng người Spanish nhận được từ phía chính quyền thì cộng đồng người Việt nhận chẳng bao nhiêu cả. Do đó, Cộng Đồng, Ông Là Ai chính là sức mạnh của sự đoàn kết cho nên những ai đã và đang có trách nhiệm với cộng đồng hãy bình tâm nhìn lại những sai sót của mình nếu có, rồi trong tinh thần chín bỏ làm mười để cùng ngồi lại với nhau trong tinh thần hài hòa , để tìm hiểu nhau thêm hầu tạo niềm thông cảm và gần gủi nhau hơn,để từ đó dẫn đến sự đoàn kết, vì ở chúng ta bất đồng nhưng không bất hòa. Nếu được như vậy, qua sức ép của lá phiếu bầu của chúng ta thì quyền lợi của cộng đồng sẽ không bị mất mát và cộng sản cũng như bọn tay sai nằm vùng sẽ không còn đất dụng võ nữa.

Nhã Nam


Phải chấm dứt tấn tuồng gian dối



Ngô Nhân Dụng

Coi bài “phát biểu” của ông Nông Ðức Mạnh đọc trước hội nghị trung ương đảng ở Hà Nội hôm Thứ Tư vừa qua, những lời lẽ in đầy bốn trang giấy - chỉ toàn là khẩu hiệu, những khẩu hiệu trống rỗng, không thấy được một ý kiến thành thật hay một đề nghị cụ thể nào cả.

Bài diễn văn của một tổng bí thư đảng Cộng Sản đọc trước một hội nghị ban chấp hành trung ương đảng có tầm quan trọng ngang với những bản thông điệp về “Tình trạng Liên bang” mà các vị tổng thống Mỹ phải đọc trước Quốc Hội mỗi năm. Ðó là dịp để người nắm quyền cao nhất trong một nước trình bày những ý kiến, những chương trình, kế hoạch cho cả nước theo.

Ông Nông Ðức Mạnh chỉ hô những khẩu hiệu. Nội dung bài phát biểu của ông nêu lên bốn điểm, về thanh niên, về trí thức, về nông thôn và nông dân, và về tình hình kinh tế, xã hội trong năm. Nhưng ông chỉ nói chung chung, hùng hồn và rỗng tuếch, tuyệt nhiên không có một kế hoạch cụ thể nào cả. Ðó là một cách lảng tránh, trốn trách nhiệm. Những lời nói hoa hoét mĩ miều không chứa đựng nội dung nào đáng chú ý, đó chỉ là một hình thức nói dối.

Về thanh niên, ông Nông Ðức Mạnh nói những câu như “Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là xây dựng một thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, có tri thức, sức khỏe và tư duy phát triển năng động; tiếp nối truyền thống hào hùng của dân tộc, của đảng...”

Các thanh niên ở Việt Nam đều biết rằng đảng Cộng Sản không hề “khởi xướng” việc đổi mới. Họ bị buộc phải thay đổi, nếu không thì đi theo số phận của Ceausescu ở Rumani. Trong thực tế thì đảng Cộng Sản đã thất bại trong việc giáo dục. Chưa có một quốc gia nào ở Á Châu bắt học sinh tiểu học phải đóng học phí, chỉ có ở Việt Nam. Ðầu năm nay, ông Nguyễn Thiện Nhân, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục vừa mới thú nhận rằng trong năm rồi có 100 ngàn học sinh phải bỏ học. Niên học 2003-04 có 580 ngàn học sinh bỏ học; niên học 2005-06 có 600 ngàn học sinh bỏ học. Còn về đạo đức, chưa bao giờ tình trạng gian lận thi cử, bằng giả, thi giả tung hoành như báo chí ở Việt Nam tường thuật gần đây. Chưa bao giờ nạn ma túy lan tràn đầu độc thanh niên, phụ nữ phải đi bán thân nhiều như trong chế độ Cộng Sản bây giờ. Ðọc những lời khoe khoang “công ơn đảng” như vậy mà không thấy xấu hổ hay sao?

Ông Nông Ðức Mạnh hô to: “Tương lai của thanh niên gắn liền với vận mệnh và tương lai của dân tộc...” thì điều này đứa trẻ con cũng biết. Nhưng ông nói câu đó để tiếp theo liền một đoạn khác “...vận mệnh và tương lai của dân tộc dưới sự lãnh đạo của đảng!” Nghe đến đó thì phải hãi hùng. Các ông còn muốn tiếp tục “lãnh đạo” cho đến bao giờ mới tha cho thanh niên, tha cho dân tộc?

Ðối với đề tài trí thức, ông Nông Ðức Mạnh cũng “khua chiếc thùng rỗng” y như vậy. Xin phép lạm dụng tính kiên nhẫn của quý vị để trích ra đây vài câu, quý vị có thể vừa đọc vừa cười để giải trí, như khi nghe các em bé nói những lời ngây ngô chúng ta cũng bật cười vậy. Ông Nông Ðức Mạnh nói về đội ngũ trí thức như thế này: “ ... trí thức ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và đang đứng trước những đòi hỏi cao và yêu cầu mới, cả thời cơ lớn và những thách thức gay gắt.” Có điều gì mới lạ hay không? Nhưng ông cũng không quên nói tiếp ngay: “Ðảng cần tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo đối với trí thức!”

Gần đây, đảng đã “nâng cao năng lực lãnh đạo” rồi! Ðảng đã bắt giam những luật sư, những nhà báo có ý kiến khác ý lãnh tụ, bắt luôn cả hai nhà báo nổi tiếng chống tham nhũng!

Ðọc vài đoạn như trên đủ thấy tất cả chỉ là những lời lẽ khuôn sáo, trống rỗng! Ðọc vài chữ cũng có thể đoán được cả câu sẽ viết như thế nào, trí óc người đọc và người nghe hoàn toàn không cần phải suy nghĩ! Nếu một học sinh trung học ở Việt Nam kiên nhẫn cắt các bài xã luận của nhật báo Nhân Dân về cùng một đề tài rồi ghép lại, thế nào cũng thành một bài diễn văn tương tự như ông tổng bí thư đảng mới đọc! Có thể còn hay hơn. Những vị phụ trách viết diễn văn cho ông Nông Ðức Mạnh thật sự là thiếu trí tưởng tượng. Hoặc là họ không thể viết điều gì sâu xa hơn, vì trình độ của ông tổng bí thư đảng Cộng Sản chỉ có thể đọc những thứ khẩu hiệu rỗng như vậy. Hoặc là họ cố ý không muốn cho ông nói gì hết, ngoài việc hô những khẩu hiệu quen thuộc, để chính họ được an toàn. Vì những người viết diễn văn không thể bịa ra những điều mà họ biết không chứa trong đầu ông tổng bí thư, cũng không chứa trong đầu trung ương đảng. Cho nên những người viết diễn văn cứ phải tiếp tục cho cậu học sinh lên diễn đàn “trả bài” một bài học thuộc lòng trống rỗng. Khi nói những lời trỗng rỗng như thế tức là nói những lời dối trá.

Nhà văn Nguyễn Khải, rất nổi tiếng trong quân đội miền Bắc với lối viết tiểu thuyết lúc nào cũng theo đúng chính sách của đảng Cộng Sản từng giai đoạn, trước khi từ biệt cuộc đời, đã hối tiếc vì phí phạm tài năng của mình cả đời phục vụ một chế độ dối trá. Ông viết một bài nhan đề “Ði Tìm Cái Tôi Ðã Mất,” trong đó ông nhận xét về ngôn ngữ của các lãnh tụ Cộng Sản như sau: “...các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của đảng, chính phủ, Quốc Hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất.”

Nguyễn Khải đã nói thẳng, “Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy... Nói dối lem lẻm, nói dối lỳ lợm, không biết xấu hổ...”

Nhấn mạnh đến căn bệnh dối trá nhưng Nguyễn Khải cũng đề cập tới một căn bệnh khác của các lãnh tụ Cộng Sản từ trên xuống dưới, là trốn tránh không nhận trách nhiệm cá nhân. Trong chế độ này, chỉ những lãnh tụ tối cao kiểu Stalin, Mao Trạch Ðông mới dám đứng trước công chúng nhận mình là người chịu trách nhiệm. Và không ai dám phê bình họ. Nhưng lãnh tụ cỡ nhỏ đều lấy nhãn hiệu “tập thể lãnh đạo” để lẩn trốn không chịu trách nhiệm cá nhân. Muốn khỏi chịu trách nhiệm, cứ nói những lời lẽ đại cương, mơ hồ, thời nào nghe cũng đúng, chỗ nào cũng dùng được thành khẩu hiệu đẹp đẽ. Nông Ðức Mạnh không có bản lĩnh được như những Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, lại càng có lý do sợ hãi cúi đầu nấp đằng sau những khẩu hiệu rỗng, cho an toàn!

Nhưng trong tình thế Việt Nam hiện nay, khai mạc một cuộc họp ban chấp hành trung ương đảng với những khẩu hiệu chung chung, mơ hồ như thế, còn cho thấy tình trạng khô cạn về tư tưởng, khô cạn về ý kiến của toàn bộ giới lãnh đạo đảng Cộng Sản. Họ không còn gì để nói với nhau ngoài việc hô các khẩu hiệu. Họ cũng không nẩy ra một sáng kiến nào trước những khó khăn chồng chất do chính họ tạo ra.

Trong bốn trang bài phát biểu của ông Nông Ðức Mạnh không hề thấy nhắc đến chủ nghĩa Mác Lê nin, cũng không đả động tới cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa. Hai chữ được nhắc tới nhiều lần là “Ðổi Mới.” Mà ai cũng biết rằng “đổi mới” tức là đi ngược đường với chủ nghĩa Mác Lê và đường lối chính trị, kinh tế Cộng Sản. Ngoài cái khẩu hiệu “đổi mới” ra, những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam hiện giờ không còn một cái kim chỉ nam nào hết! Và họ biết chỉ còn một nhãn hiệu “đổi mới” có thể bán được, cho nên cứ bám lấy, dù chính họ không biết cái lối đổi mới nửa vời của họ đã dẫn tới những bế tắc, ngay trước mắt.

Vì ngay trong phạm vi chính sách để đối phó với các khó khăn chồng chất hiện nay, bài phát biểu của ông Nông Ðức Mạnh cũng không nói điều nào hết! Ông không hề nhắc đến nạn lạm phát gần 30% một năm; không nói tới tình trạng tê liệt của hệ thống ngân hàng, nỗi hoang mang của giới đầu tư quốc tế; không nói tới cảnh một nước xuất cảng gạo mà dân thiếu ăn; xuất cảng dầu lửa mà xe hàng phải nằm ụ không chạy vì thiếu xăng; không nói tới cảnh chênh lệch giầu nghèo làm cho chính những người tự mình tạo ra của cải trở nên giầu có họ cũng phải hổ thẹn khi nhìn thấy những đồng bào không may đang đói khổ bên mình. Chính các đảng viên Cộng Sản cũng phải hổ thẹn. Ðảng Cộng Sản bây giờ được gọi là “Ðảng của Hồ Chí Minh, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Việt Tiến!”

Trong cả bài diễn văn ông Nông Ðức Mạnh không hề nói đến tình trạng tham nhũng và sự thoái hóa, giật lùi trong việc chống tham nhũng. Nhưng điều đáng thất vọng nhất là trong một phần ba bài nói đến nông thôn và nông dân ông Nông Ðức Mạnh không hề nhắc tới những nỗi oan ức mà nông dân Việt Nam đang phải chịu vì cường hào cướp đất tư và đất công để cung ứng cho tư bản trong nước và ngoại quốc.

Trong một bài đang trên báo Nông Thôn Ngày Nay ra ngày 1 Tháng Tư năm 2008 chúng ta thấy hình ảnh tiêu biểu ở ba thôn trong xã Phù Chẩn ở tỉnh Bắc Ninh, dân chúng đã dùng gạch đá đánh bọn cường hào. Dân ném gạch ngói vào nhà bí thư chi bộ xã, nhà của tất cả bọn lãnh đạo thôn, xóm đều bị dân kéo tới ném gạch. Cứ tối đến là người dân đánh kẻng tập trung lại, các phụ nữ lo tiếp tế gạch ngói vụn, học sinh cấp II và cấp III làm pháo thủ ném gạch. Cảnh sát huyện Từ Sơn phải đem 2 xe với các công an cơ động mặc áo giáp, vác lá chắn, đội mũ bảo hiểm đến tận nhà giải vây cho ông bí thư đảng xã.

Tại sao người nông dân lại nổi giận? Chỉ vì tham nhũng lộng hành. Khi thi hành lệnh giải tỏa ruộng đất của dân để trao cho công ty ViSip (Việt Nam-Singapore) khai thác, thay vì chỉ bán những ruộng đất trong khu thuộc dự án, các cán bộ đã nhân cơ hội giải tỏa hết, để có cớ cướp ruộng của dân. Không những thế, bọn cán bộ cầm đầu các thôn còn tìm ra những mảnh đất công rải rác, đất của thôn xã, nhưng chúng ghi tên các cán bộ làm chủ những mảnh đất đó, để khi bán cho liên doanh ViSip thì các cán bộ đương nhiên được “bồi thường” bỏ túi! Tổng cộng 23 mảnh đất công, diện tích lên tới hàng chục ngàn mét vuông đã được các cán bộ lãnh đạo thôn xã “ăn” hết!

Cảnh xẩy ra ở xã Phù Chẩn tiêu biểu cho cảnh tượng trên toàn quốc: Một nhóm người tự chiếm quyền lãnh đạo, thừa cơ “đổi mới” để bòn rút của cải chung, bỏ vào túi riêng cho mình và đồng đảng cùng hưởng trong khi tìm đường “hạ cánh an toàn” theo lối đồng chí Nguyễn Việt Tiến!

Chúng ta lại có dịp cảm thông với tâm sự của nhà văn Nguyễn Khải vào lúc cuối đời. Ông đã tham dự hai cuộc chiến tranh, đã góp công “xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội” ở miền Bắc rồi đem vào trong Nam. Nhưng lúc cuối đời ông cũng nhận thấy bao công lao của ông chỉ dẫn tới “...một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng; nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được hoàn toàn thỏa mãn trong mọi nhu cầu; là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loại tương lai ư?”

Những lời thành thật, chân tính trong câu hỏi đó có ai nghe hay không? Tất cả mọi người dân và tất cả các đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam có quyền và có bổn phận đặt câu hỏi đó gửi tới ông Nông Ðức Mạnh và tất cả nhóm người thuộc trung ương đảng Cộng Sản. Phải hét vào tai cho họ nghe thấy. Bảo họ phải chấm dứt cái tấn tuồng gian dối mà họ đang trình diễn trong cái hội nghị này và những hội nghị khác, chấm dứt càng sớm càng tốt.

Ngô Nhân Dụng



Hiện tượng

Nguyễn Đạt Thịnh

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ dùng hai chữ “hiện tượng” trên tựa bài báo mới nhất của ông; cái tựa đó là “Hiện tượng Phạm Minh Mẫn”; từ điển Nguyễn Văn Khôn dịch hiện tượng là “phenomenon, người hay vật phi thường, hiếm có, dị thường, kỳ dị”.

Chữ “phê nô men” cũng được Việt hoá, và thường dùng trong ngôn từ phê bình mang ý chê bai.

Linh mục Lễ viết,
    “Càng gần tới ngày khai mạc đại hội Giới Trẻ Thế Giới thì "hiện tượng Hồng Y Phạm Minh Mẫn" càng trở nên nóng bỏng hơn. Có người đã dùng ngôn từ không ra gì với lời lẽ nặng nề để phản đối Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Là một linh mục Việt Nam, tôi rất đau buồn và cảm thấy nhục nhã khi phải đọc những lời lẽ nặng nề mà một số người đã dùng với một chức sắc cao cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như thế.

    “Vậy Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã viết những gì trong lá thư để rồi sóng gió và giông bão nổi lên như thế?

    “Trọng tâm của lá thư gồm 6 đoạn và dài hơn một trang giấy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai bày tỏ thái độ chống báng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không muốn hình ảnh lá cờ vàng hiện diện trong ĐHGTTG tại Sydney và gọi đó là "sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN" (đoạn 2).

    "Trong đoạn 3, Hồng Y Phạm Minh Mẫn giải thích khá dài dòng về ý nghĩa lá cờ và nhắc lại bài học qúy giá mà ngài đã học được từ một vị giám mục quá cố về "Người mẹ VN lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ) ..." Lá thư đó, đã được nhiều cơ quan ngôn luận và các diễn đàn điện tử cho in lại cùng với những lời bình luận chung quanh ý nghĩa và giá trị tinh thần của lá cờ vàng ba sọc đỏ trong tâm trí của đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở Hải Ngoại và để phản đối quan điểm của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong nhận định về lá cờ này.

    “Lá thư đó đã gây ra nhiều sự chống đối mạnh mẽ từ nhiều phía, từ những người Công giáo và các tín hữu thuộc các tôn giáo bạn, đáng kể nhất là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã lên tiếng quan ngại về nội dung lá thư một cách chính thức. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu còn ra một Tuyên Bố Chung kêu gọi đồng hương bày tỏ lập trường quyết tâm bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong dịp ĐHGTTG tại Sydney. Khi tôi đang viết những dòng này cũng nhận được một bản Tuyên Cáo của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tiểu bang Washington phản đối lời tuyên bố của Hồng Y Phạm Minh Mẫn và kêu gọi đồng hương mang cờ vàng ba sọc đỏ "dàn chào" Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong thánh lễ dự trù được diễn ra vào chiều ngày 9 tháng 7 tại nhà thờ Thánh Tử Đạo Việt Nam ở Seatle.

    “Đứng trước làn sóng chống đối càng lúc càng dâng cao, đặc biệt là thái độ phản kháng một cách quyết liệt tại những nơi mà trong chương trình Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ tới với danh nghĩa làm công tác Mục Vụ, tôi nghĩ là Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên xem xét lại việc xuất hiện trong ĐHGTTG ở Sydney. Trong quá khứ đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản tại Úc Châu đã nhiều lần chứng tỏ sự đoàn kết quyết tâm bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ và không bao giờ khoan nhượng trong việc thẳng tay tẩy trừ những kẻ nào có manh tâm muốn gieo rắc ảnh hưởng của chế độ Cộng sản Việt Nam tại đất nước này.

    “Vai trọ̀ Mục Vụ của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong những chuyến thăm viếng theo đúng nghĩa là đem an bình và hợp nhất đến cho đàn chiên. Nhưng trong lần tham dự ĐHGTTG sắp tới tại Sydney, đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Hồng Y Phạm Minh Mẫn chẳng những không mang lại được cho đàn chiên Công Giáo tại Úc Châu sự hợp nhất và bình an, mà còn có thể gây ra sự phẫn nộ, chia rẽ và rối loạn trong Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại quốc gia này. Như vậy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến Sydney trong dịp đó để làm gì? Nếu vì một lý do nào khác mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn vẫn phải xuất hiện tại ĐHGTTG ở Sydney thì chắc chắn ngài sẽ thất vọng vì "sự cố" mà ngài đã viết trong thơ là "làm tắc nghẽn sự hiệp thông của các bạn trẻ VN" ở ba lần ĐHGTTG trước tại Pháp, Đức và Canada, lần này chắc chắn sẽ được đồng bào tỵ nạn ở Úc Châu bày tỏ cách dữ dội hơn. Không lẽ khi thấy cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện trong ĐHGTTG, lúc đó Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ rời ghế đứng dậy ra về?

    “Tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ cho dù bị Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho là: "Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng", điều này cũng không có gì khó hiểu. Là một linh mục Việt Nam tỵ nạn Cộng sản, tôi xin nói rằng đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở Hải Ngoại và ngay cả đại đa số những đồng bào đang phải sống ở trong nước với hiểm họa Cộng Sản sau biến cố đau thương 30/4/1975, trong tâm tư mỗi người luôn ấp ủ hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đó là linh hồn của Dân Tộc Việt.

    “Lá cờ vàng ba sọc đỏ là hình ảnh mạnh mẽ nhất mà những đồng bào tịỵnạn đã may mắn trốn chạy thoát khỏi chế độ độc tài Cộng sản dùng để bày tỏ sự đối kháng chế độ phản dân hại nước và những kẻ làm tay sai cho chúng.”
Một ông bạn ở San Jose viết điện thư cho tôi nói, “hôm nay tôi mặc sơ mi vàng, thắt cà vạt vàng dắt bà vợ mặc áo dài mầu vàng đến nhà thờ với dụng tâm dàn chào bằng mầu sắc hồng y Phạm Minh Mẫn, nhưng hồng y không đến.

“Bà vợ tôi bảo "cảm ơn Hồng Y đã không truy lùng người Việt Nam đến tận chỗ họ tỵ nạn’" tôi, thì tôi xin Hồng Y đừng đem chiến tranh quốc cộng vào giáo đường.”

Người viết bài này xin Hồng Y giúp người Việt hải ngoại quên đi lá thư Ngài viết; dù không đồng ý với Ngài về “bà mẹ mặc áo đỏ”, nhưng trong thâm tâm không bao giờ tôi muốn coi Ngài như một “phê nô men”.

Nguyễn Đạt Thịnh


Tuesday, July 15, 2008

Lễ khai mạc WYD 2008 tại Barangaroo 15.07.2008



Cờ Vàng được chính thức trong đoàn rước quốc kỳ các quốc gia ...





Việt Catholic

Buổi chiều Thứ Ba ngày 15/7/2008, từng đoàn các bạn trẻ thuộc mọi ngôn ngữ, mọi Quốc gia, đều đổ dồn về Barangaroo để tham dự Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 năm 2008 tại Sydney. Các ngả đường Sydney đều đông đúc các bạn trẻ như một ngày hội lớn...Các ga xe lửa, trạm xe bus, tràn ngập các bạn trẻ...Rừng cờ muôn sắc của khoảng trên 170 quốc gia tham dự...Các bạn trẻ Việt Nam hân hoan và tung tăng với những lá cờ vàng ba sọc đỏ trên khắp các nẻo đường Sydney.

Các phóng viên Vietcatholic tới địa điểm Barangaroo để ghi lại những hình ảnh và tường trình đến quý độc giả...Khi chúng tôi tới nơi, các bạn trẻ đã tràn ngập các lối vào...Chúng tôi phải xếp hàng rất dài để vào địa điểm hành lễ Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội. Khoảng 4.15pm, Đoàn Cờ đại diện của các quốc gia tham dự...Chúng tôi rưng rưng giọt lệ cảm động và sung sướng khi nghe tin Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được chính thức trong đoàn rước các quốc kỳ của Đại Diện các quốc gia tham dự...Càng sung sướng hơn khi thấy anh Đường Phước Lộc, trưởng ban tổ chức WYD4VN, Cô bạn trẻ Trần Thị Thuỳ Linh, với lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đại diện cho Giới Trẻ Việt Nam trên lễ đài...Nhìn về phía dưới bạn trẻ các nước tham dự, phóng viên chúng tôi nhìn thấy giữa các mầu cờ của các quốc gia, Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay khắp nơi...

Đúng 4.30 chiều, Thánh Lễ khai mạc Đại Hội Giới Trẻ năm 2008 bắt đầu với đoàn Thánh Giá nến cao, tiếp đến, quý Giám Mục trang nghiêm, và sau cùng là Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Giáo Phận Sydney chủ tế. Phía bên trái lễ đài, khoảng gần 200 Giám Mục đồng tế, trong đó có 4 Vị Giám Mục Việt Nam. Phía sau Bàn Thờ, Ca Đoàn Tổng Hợp với giàn orchestra vĩ đại phụng vụ Thánh Ca cho Thánh Lễ.

Đức HY George Pell đã chào mừng các bạn trẻ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Ý Ngữ, Tây Ban Nha...Ngài đã nói đến sự lạc quan về tương lai...Trước Thánh Lễ, sau mục diễn hành cờ của các nuớc tham dự, đoàn nghi lễ chào đón cổ truyền của người thổ dân Úc Châu chào đón Đại Hội Giới Trẻ và các khách hành hương. Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Kevin Rudd chia sẻ với các bạn trẻ, ông diễn tả những khách hành hương như là “ánh sáng của thế giới trong thời đại tăm tối.” Thánh Giá Giới Trẻ và Icon Đại Hội Giới Trẻ được đặt trên Lễ Đài...

Sau Thánh Lễ, Đức Hồng Y Rylco, Chủ Tịch Uỷ Ban Giáo Hoàng về Giáo Dân đã chào mừng các bạn trẻ hành hương trong Đại Hội.

Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội kết thúc, rất nhiều các bạn trẻ ở lại tham dự đêm hoà nhạc chào đón rất tuyệt vời do nhiều nghệ sĩ nổi tiếng và các hoạt cảnh về văn hoá của các dân tộc.

Chúng tôi vộ vã tiến về đoàn nghi lễ phụng vụ, Linh Mục Văn Chi đã phỏng vấn Đức Hồng Y George Pell. Ngài đã chào đón các bạn trẻ Việt Nam từ muôn phương về hội ngộ.

Phóng viên Vietcatholic sẽ tường trình chi tiết hơn trong những ngày còn lại.

Chúng ta tạ ơn Chúa đã làm những việc phi thường trong ngày khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 tại Sydney, khi tất cả các tiểu bang khác mưa tầm tã, nhưng Sydney bừng lên nắng ấm giữa mùa đông. Tạ Ơn Chúa đã làm những việc kỳ diệu...

Hẹn gặp quý vị trong bài tường thuật ngày mai.






Tri Tuệ "Giao Điểm" Với Đỉnh Cao "Giao Điểm"


Trương Minh Hòa

Giao Điểm là nơi xuất phát nhiều "đỉnh cao trí tệ nòi người" tại hải ngoại, nên những cây viết và người mê nó cũng thuộc thành phần" cực kỳ tiên tiến" như hai câu ca dao miền Bắc:

"Bác Hồ cùng với bác Tôn.
Hai ông đều muốn sờ L...Minh Khai"

Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai đều là "đỉnh cao trí tuệ nòi người" cả, nên có "sờ mó" nhau ở những "điểm chiến lược, bí mật quốc phòng" cũng đạt và vô cùng phù hợp với chủ thuyết Marx Lenin ưu việt thôi; do đó một số những bài viết trên Giao Điểm, người ái mộ cũng thuộc dạng "ngưu tầm ngưu, mả tầm mã", chớ những người đọc sách có trình độ, theo lời khuyên của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: "đọc sách biết được điều hay là tốt, nhưng biết được điều dở là tốt hơn". Cho nên đọc Giao Điểm cũng không khác gì đọc các tờ báo trong nước như Nhân Dân, Tuổi Trẻ, Thanh Niên ... "cùng dắt tay nhau đi theo tấm biển chỉ đường của Ban Văn Hóa Tư Tưởng" mà lòng "phơi phới một tương lai bưng bít", từ đó có một số người viết, đọc một cách đam mê cũng không ai ngạc nhiên. Ngoại trừ những người đọc Giao Điểm trong tinh thần "tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng" để biết họ nói gì, tuyên truyền lếu láo ra sao mà cảnh báo với nhiều người khác. Phải công nhận là trên Giao Điểm có nhiều giao điếm "thúi", được ví von là thứ vi trùng không phát triển tại môi trường sạch, và luôn bị bao vây bởi các loại thuốc sát trùng mạnh, hay là bải cứt chó trên lề đường, sân cỏ tại một quốc gia văn minh, sạch sẻ, cần phải đề cao cảnh giác để đạp nhằm.

"Nói dóc như Vẹm.
Lếu láo như Giao Điểm.
Dấu dím như nằm vùng.
Cùng ló đuôi như đón gió".

Đọc Giao Điểm, với những bài viết rất phù hợp với "chính sách" và gần đây cũng gần với nghị quyết 36,"bài viết thường dài lê thê, chủ tâm dùng từ để" phô trương chủ nghĩa anh hùng khoa bảng lề", một số bài viết hay lấy học vị, thông dụng như bác sĩ, tiến sĩ là thứ Đốc Tờ, Đốc Tưa, Đốc bậy, đốc sảng nhưng viết để binh vực kẻ ác, lếu là là "VÔ LIÊM SĨ", khiến cho giới khoa bảng chân chính chán ngán cái "tình huống lạm phát" tiến sĩ, ngày nay nhan nhản đầy đường ở Việt Nam như "quân hàm học vụ" tiến sĩ Cầu Muối, cử nhân Cầu Ông Lãng, bác sĩ Cầu Chữ Y, chuyên gia Ngã Ba Ông Tạ không phải bất cứ ai có bằng tiến sĩ mà viết là có nhiều người răm rắp tin như Việt Cộng ngày xưa, mang súng AK, Mã tấu, khủng bố ở nông thôn:

"AK, mã tấu kè kè.
Nói lếu, nói láo, chúng nghe rầm rầm".

Đọc những bài viết của thành phần "đốc tờ" hay những "đỉnh cao trí tuệ" trên Giao Điểm, lối lý luận cũng không khác chi những bài THAM LUẬN cực kỳ chất lượng của gã thiến heo Đổ Mười hay tên đánh xe Bù Ệt ở Bến Thủy là Lê Duẫn, người nổi tiếng là "nhỏ đếch học, lớn làm tổng bí". Bài tham luận lừng danh của gã đánh xe nầy có đề tài là "Dân Chủ Nhân Dân" được coi như là bài học tập chính trị cơ bản, chủ yếu nhằm đào tạo tư tưởng cho một số đảng viên nồng cốt, cao cấp vào năm 1952 tại vùng U Minh Hạ, đã bị Lưu Quý Kỳ, chủ nhiệm báo Nhân Dân Miền Nam chê trật lất như "những tiếng kèn trật nhịp" nên Duẫn bèn cho Kỳ đi hạ tầng công tác, giao tờ báo cho tên Trần Bạch Đằng coi. Đúng là "thằng khôn đi học, thằng ngu dạy đời".

Một "bài tham luận" cực kỳ chất lượng của "đỉnh cao trí tệ" Trần Chung Ngọc, đăng trên Giao Điểm, bài viết cũng" trớt quớt" được coi như "trật nhịp" trong "tiếng chày trên sóc Bam Bo", và cũng như "những tiếng kèn trật nhịp" của một tác giả khác trên Giao Điểm là Bùi Xuân Phú, cũng giống như những bài tham luận của tổng thiến heo, tổng đẩy xe bù ệt thôi hay bất cứ tên cán ngố nào từ hạ tầng cơ sỡ đến thượng tầng kiến trúc đọc trước đồng đảng và nhân dân, như những còn khỉ ngồi trên bàn diễn trò "khọt khẹt".

Bài viết nầy thật là "chất lượng cao đấy", nhưng không phổ biến trúng môi trường "thời thượng" và thời điểm, nên được cho là: khinh thường những đọc giả có trình độ dân trí cao, được thấm nhuần tư tưởng tự do, dân chủ ở các cường quốc dân chủ bậc nhất thế giới tức là tác giả nói riêng và Giao Điểm nói riêng, coi người Việt hải ngoại là thứ nói gì cũng nghe, dễ bảo, dễ xỏ mũi, nhất là những "đốc tờ, đốc tưa" nói là không bao giờ trật, dù xăng có thể cạn, xe có thể nằm đường, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi đâu, xin đừng lầm mà đánh giá quần chúng quá thấp. Nói đúng hơn, thì nhân cách con người không nằm trong những "tờ giấy có một đỏ" được các trường đại học cấp sau khi thi xong để chứng minh là thuộc bài với những danh hiệu gắng liền với "SĨ, SƯ", chớ đem bằng cấp luận kiến thức, tư cách, tư tưởng, lập trường nếu thứ có học mà không có hạnh, thì chẳng khác nào "đám khoa bảng lưu manh", hay "thành phần lưu manh có trình độ văn hóa", còn đáng khinh hơn đám dốt lưu manh như câu hát trong vở tuồng tếu Đắc Kỷ Ho Gà của Xuân Phát rằng:" bằng quí tử tham sanh, còn thua mấy đứa lưu manh ..."

Tuy nhiên nếu bài viết nầy được viết và phổ biến vào năm 1945 đến 1954 thì chắc chắc tác giả được "vỗ tay biểu dương" nhiệt liệt như Lê Duẫn đọc bài dạy chính trị ở U Minh Hạ. Nhưng thời đại ngày nay, khi mà khối Cộng Sản tan rã, chỉ còn tàn dư và đã bị thế giới lên án, coi là "lạc hậu" thì bài viết của" đỉnh cao trí tuệ Trần Chung Ngọc" trong Giao Điểm, trở thành "Giao Điếm" là khó thuyết phục và cũng chả có chút gì giá trị, còn tuyên truyền thì cũng "trớt quớt, trớt quớt, đại trớt quớt"; nhưng cũng phải khen tác giả là người khéo và có khả năng, trình độ cao để "nói trắng thành đen" như Vẹm, như chuyện Việt Cộng cướp của, giết người, gọi là "đấu tranh giai cấp", ăn chực gọi là "đoàn kết mô bửa ăn", công an đánh người bể đầu là" giáo dục", biểu tình gọi là" phản đối tập thể", tịch thu nhà cho là "đánh tư sản".

Bất cứ xã hội nào, những tên cướp, bất lương, gian manh, lường đảo đều bị tuyệt đại đa số quần chúng, dĩ nhiên là cảnh sát, tòa án không xem là "thành phần cấp tiến". Nhưng cũng có một số ủng hộ, binh vực cho đám bất lương; đó là đồng bọn, gia đình có ăn chia và những người cùng nghề ăn cướp, lừa đảo, lưu manh, gian hùng. Do đó, trong các nước dân chủ, một số vấn đề nhạy cảm, thường được thăm dò ý kiến quần chúng, thì ngoài đa số, còn có thiểu số ngược lại; như ở Úc Châu mới đây, có một tu sĩ Hồi Giáo lên tiếng yêu cầu quốc hội liên bang "nhất trí" đạo luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ như luật Hồi Giáo, bị chính phủ thẳng thừng bác bỏ và sau cuộc thăm dò, có đến 98% chống và chỉ có 2% thuận (theo cuộc thăm dò trên đài truyền hình số 9).

Do đó bài viết của "đỉnh cao trí tệ" Trần Chung Ngọc về một số sự kiện bị tuyệt đại đa số quần chúng tỵ nạn hải ngoại chống, vì nói hợp với nghị quyết 36 như:

- Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
- Vụ Đỗ Ngọc Yến, sáng lập báo Người Việt, chụp hình với Nguyễn Tấn Dũng-Vụ tờ báo Người Việt đăng hình lá cờ vàng với chậu rửa chân nghề làm nail cả tướng phản Đỗ Mậu cũng được đăng đàn ca tụng. Nhưng cũng có thiểu số "nhất trí với Trần Chung Ngọc về các vấn đề trên, trong đó thì đảng và nhà nước biểu dương, kể cả Giao Điểm, nếu bài nầy gởi các trang báo khác, kể cả báo lá cải cũng chưa chắc có ai đăng; do vậy, thiểu số đồng ý với tác giả nầy cũng có thể là: gián điệp nằm vùng, tay sai đón gió, dân tỵ nạn gian, những kẻ có" quyền lợi cá nhân gắng liền với xã hội chủ nghĩa" ...?

Những vấn đề mà tác giả cố tình binh vực dùng ngụy luận như Vẹm đó xin không bàn nhiều, vì có nhiều bài báo, đa số đã cảnh tỉnh và đã vạch trần những thủ đoạn của Việt Cộng qua tay sai nằm vùng ở hải ngoại, dần dàn chúng ló đuôi chồn cả. Qua bao kinh nghiệm xương máu, người Việt hải ngoại không chụp mũ đâu, nhưng đọc và nhìn thành phần xuất hiện Giao Điểm, thì đây mới đúng là" mặt trời chân lý rọi trong tim" đã" lội ngược dòng thời gian, trở về quá khứ với phút giây lổi thời", tức là Trần Chung Ngọc có lẽ chui vào" hang Pác Pó" quá lâu, không chịu chui ra để nhìn thấy" ngày tàn lụi của chủ nghĩa Cộng Sản" gần kề và trở thành:" nếu là chim, tôi sẽ là loài chim không cánh", thay vì chim bay, nay lại nhủi, nhủi và cứ nhủi. Không cần" điều nghiên" cho mất thời giờ, qua những bài viết, thì thấp thoáng trong Giao Điểm có lố nhố từ" chiến nón cối" đến" chiếc nón tai bèo ai đội nấy mua, hổng phải của chùa đội hoài đếch trả.." và thấp thoáng bóng" CỜ HÒE" mà giới Nho chùm gọi là" quần hòe".

Trần Chung Ngọc viết mà không hiểu vấn để để viết, hay cố tình đánh lạc hướng quần chúng, tung hòa mù qua lối dùng ngụy luận ngây ngô, khó thuyết phục được ai... như vụ Đổ Ngọc yến chụp hình với đám cán ngố cao cấp Việt Cộng, không cần bằng chứng, cũng biết chắc là hắn có quan hệ" hữu cơ" với Vẹm từ lâu; nếu Trần Chung Ngọc có chụp hình chung với một tên trùm khủng bố như Osama Bin Laden, khi hình được tiết lộ, thì cảnh sát, cơ quan tình báo cũng không bỏ qua, đánh giá và nếu cần tóm cổ điều tra theo luật chống khủng bố của từng quốc gia; CIA, FBI.. đã vào Việt Nam từ lâu, có thể trước thời Bill Clinton xã vận 1994, nên không cần một thứ điệp viên hạng gà như Đổ Ngọc Yến để làm lợi cho Mỹ đâu, chỉ có những" đầu óc đầy bùn" mới nghĩ và tâm đắc chuyện nầy, chưa kể đến điệp viên mà bị nhiều người biết thì có cơ quan tình báo nào" recycle" đâu, chưa kễ đến" khi người thợ săn cảm thấy con chó của mình không còn khả năng săn mồi được nữa, thì người thợ săn phải biết ăn thịt chó".


Tên nhạc sĩ" ăn cơm quốc gia, CẦM CA cho Cộng Sản" đã hồ hởi phấn khởi" nối CÒNG tay lớn" ngày 30-4-1975, được trung tướng Trần Bạch Đằng ( Trương Gia Thiều) gắng quân hàm" thiếu tá quân đội nhân dân" và kết thân với Sáu Dân ( Võ Văn Kiệt), gọi MẠ của Trịnh bằng MẸ....nên sau nầy mới có" em còn nhớ hay em đã quên" hoặc" em ở nông trường, anh ra biến giới"....nên Trịnh Công Sơn đã trở thành" đóa hoa VÔ THẦN" từ dạo miền Nam lọt vào tay lũ quỷ đỏ, khi hắn" một cõi đi về" với sự lưu luyến của đồng bọn qua đám tang có nhiều lãnh tụ quỷ đỏ như Võ Nguyên Giáp....niềm thương tiếc nầy được một số" đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu- Đồng minh tương ý đồng chí tương ngôn" ở hải ngoại, nhất là ở Hoa Kỳ đã biến thành" đóa hoa vô thường" nên mới vứt lá cờ vàng vào thùng rác, gây phẩn nộ đồng bào hải ngoại:


" NHẠC LỠ âm- u NHỠ LẠC hồn.
LẠI ĐỢI Cộng vào ĐẠI LỢI hơn.
CA BÀI phản chiến CÀI BA lối.
ĐẠT NHỊP ru- mê, ĐIỆP NHẠC lòn.
KHÁNH LY bỏ nước KHI LÁNH nạn.
CƠN XÔNG xáo mãi, Trịnh CÔNG SƠN.
ĐÀ CƠN Bác, Đảng ĐỜN CA hát...
ÁNG MÂY nhạc Trịnh, ẤY MANG chôn."

Tác giả bài viết còn" thành thật khai báo" là đã về Việt Nam nhiều lần, cảm thấy" em ra đi, nơi nầy cũng thế" và còn hồ hởi phấn khởi về sự phát triển cao tốc" lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", thế NÀ nước Việt Nam" giàu đẹp" rừng vàng, bạc biển...sung sướng như" thiên đàng" đấy!. Nhưng tại sao Trần Chung Ngọc hổng chịu" một cõi quay về" sống với đảng, bác, còn hơn sống ở" địa ngục tư bản phản động, ăn bơ thừa sửa cặn" làm gì cho cực tấm thân?.


Không biết Trần Chung Ngọc có phải là người tỵ nạn?. Nhưng xin nhắc lại là muốn làm người tỵ nạn chính trị cũng phải vượt biển, đi đường bộ để tìm tự do, đến trại tỵ nạn còn phải thanh lọc, nếu chưa được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ban cấp Thẻ Tỵ Nạn, thì không có nước nào nhận cả. Thủ tục muốn có thẻ tỵ nạn phải viết tờ đơn tựa là" Lý Do Rời Việt Nam" ( Reason leaving Vietnam), có cả chữ ký, lời cam kết...lời khai càng lâm ly, bi đát thì càng" đi định cơ sớm". Nếu trong lời khai, hay lúc nói chuyện phỏng vấn, ai nói là:" sau khi định cư sẽ trở về Việt Nam thăm quê hương, dù chế độ Cộng Sản vẫn còn", chắc chắn bị đóng mộc Xù và chờ ngay trục xuất. Cho nên chuyện tác giả bài viết đi về Việt Nam là tự lừa dối mình, gạt cao ủy, quốc gia tạm dung... đã thế mà còn khoe khoang, ca tụng Việt Cộng...thì rõ ràng đây là thứ tỵ nạn gian, tỵ nạn kinh tế.


Trần Chung Ngọc đã từng về Việt Nam, hình như tâm thần chao đảo và cũng "động não" khi nhìn thấy "khắp nơi nơi đều là QUẦN HÒE" từ phi trường, khách sạn, quê nhà nên bị u mê ám chướng mà ca tụng cái chế độ "dùng quần hòe" làm cờ, lấy tướng cướp Hồ Chí Minh làm lãnh tụ, nên không nhìn thấy: "trẻ thơ lang thang, người đói rách suốt đêm ngày ...", cảnh buôn bán phụ nữ công khai, nhà nước đòi tiền hối lộ: "tự nhiên như người Hà Lội".... chớ người tri thức, khi về thăm quê hương vì hoàn cảnh bất khả kháng, cũng chán ngán cái "xã hội chó ngựa" nhan nhản bọn đầu trâu mặt ngựa nắm chính quyền. Tuy nhiên, nếu những tay viết Giao Điểm nầy mà về đầu quân với các tờ báo Nhân Dân, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Công An thì chắc chắn là tài năng phát triển vượt chỉ tiêu như "thày lày phải cứt chó":

"Trồng cây ta lại nhớ người.
Cây bao nhiêu lá, thù già bấy nhiêu."

Do đó những bài viết của Trần Chung Ngọc có khả năng là những bài tham luận "chất lượng cao" đối với Ban Văn Hóa Tư Tưởng Vẹm, muốn dùng cơ quan truyền thông của một nhóm người trong "mười năm trồng người" với chủ trương "văn hóa tải đảng", là không thể đầu độc, thuyết phục được ai, nhưng khi lòi ra những "chốt, kiềng văn hóa" chẳng khác nào: "lạy ông con ở bụi nầy" ở hải ngoại. Đối với giặc Cộng tham tàn, nói chuyện bằng lời với chúng như "nói với đầu gối", đối với bọn đón gió, không thể dùng những ngôn từ lịch sự, làm mất nhiều thời giờ mà lại không bao giờ có kết quả, tùy theo đối tượng để hành xử hầu không lầm lần nữa.

Đó là luật chơi trong bất cứ cuộc chiến, xung đột nào, nếu không muốn thất bại thì cứ "lịch sự với kẻ thù", như tinh thần quân tử Tàu, được nhồi nhét từ hàng ngàn năm đô hộ. Nên nhớ là việc vạch mặt bọn Việt Cộng, nằm vùng, đón gió với những ngôn từ thích hợp với bọn bất lương, đểu cán, gian manh nầy là điều cần làm, như dùng "đúng phụ tùng cho từng loại xe" chớ lấy phụ tùng xe Toyata mà ráp vô xe Honda là không ổn, như dùng kiếm chém đúng đối tượng thì mới diệt được gian, trừ bạo. Đây là thông điệp mạnh mẽ gởi đến những kẻ ngây thơ hay là giặc Cộng bị trúng đòn, nên la làng, chẳng lẽ ăn cướp kêu bằng Ông, Ngài ... con đĩ kêu bằng bà đĩ, tên đón gió gọi là ông đón gió thì ngôn ngữ Việt Nam bị đảng "dắt đi theo tấm bản chỉ đường" mất rồi.

Trương Minh Hòa

Lễ Thọ tang Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang tại trụ sở Giáo hội ở chùa Diệu Pháp miền Nam California


BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE l INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net




THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 14.07.2008

Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức Lễ Thọ tang Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang tại trụ sở Giáo hội ở chùa Diệu Pháp miền Nam California

LOS ANGELES, ngày 14.7.2008 (PTTPGQT) - Văn phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các châu vừa tổ chức trang nghiêm và long trọng Lễ Tưởng nguyện và Thọ tang Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang tại trụ sở Giáo hội ở chùa Diệu Pháp, thành phố San Gabriel, miền Nam California vào lúc 14 giờ chiều chủ nhật 13.7.2008

Trên hai trăm chư Tăng Ni và hàng nghìn Phật tử và đồng bào các giới đã đến tham gia ngồi chật sân chùa Diệu Pháp. Đáp lời chúng tôi hỏi có bao nhiêu ghế tại hội trường cả thảy, Thượng toạ Thích Viên Lý, Trưởng ban Tổ chức Lễ Thọ tang, cho biết đã thuê 3300 ghế. Dưới tràng vải ngũ sắc chắn nắng che sân trong ngày hè California nóng gắt. Ban Tổ chức đặt hai ống dẫn nước trên cao phun những hạt nước li ti làm tươi mát không khí.

Hai xướng ngôn viên chính của buổi lễ là Thượng toạ Thích Giác Đẳng và chị Ỷ Lan với sự cộng tác của hai chị Ái Cầm và Minh Phượng.

Sau khi cung nghinh Long vị đức cố Đệ tứ Tăng thống từ bàn Tổ ra Lễ đài, Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức đọc Cáo Bạch của Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).

Tiếp đấy, Đại lão Hoà thượng Thích Hộ Giác, Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hoá Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ tuyên đọc Khải bạch. Nguyên văn như sau:

Kính bạch chư tôn giáo phẩm, chư Hoà thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni
Kính thưa chư liệt vị quan khách
Kính thưa quí đồng hương, đồng bào Phật tử.

Đức Đệ tứ Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang đã viên tịch ngày 5 tháng 7 năm 2008. Hôm nay Văn Phòng II Viện Hoá Đạo cùng với giáo hội các châu tổ chức Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang. Chúng tôi chân thành cảm kích sự hiện diện của chư liệt vị để tưởng niệm Đức cố Tăng Thống và chia sẻ sự mất mát lớn lao của Giáo hội.

Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang viên tịch năm Ngài 89 tuổi. Cả cuộc đời Ngài sống vì Phật Pháp. Xuất gia từ thời niên thiếu năm 12 tuổi. Nhanh chóng trở thành một học tăng xuất sắc trong Tăng chúng. Năm Ngài ra đi với pháp lạp 69, Ngài là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong ngôi vị Tăng Thống. Không ai có thể phủ nhận sự thể hiện trác việt của Ngài trên cả ba phưong diện học đạo, hành đạo và hoằng đạo.

Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang một tăng sĩ suốt đời thao thức và đóng góp cho quê hương dân tộc. Từ thời còn là một nhà sư trẻ Ngài đã dấn thân cho đại cuộc giành độc lập tự chủ cho đất nước thời Pháp thuộc. Những giai đoạn sau nầy mãi cho đến những tháng năm cuối cuộc đời Ngài vẫn tiếp tục lên tiếng cho lẽ sống tự do dân chủ. Trong tâm khảm của Ngài chưa bao giờ có một Đạo Phật hiển sinh mà thiếu sự song hành với vận mệnh của quê hương dân tộc.

Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là một biểu tượng cao cả của tinh thần vô úy. Cái giá Ngài phải trả cho sự dấn thân vì đại nghĩa là những năm tháng tù đày qua các giai đoạn lịch sử. Từ thời Việt Minh cho đến ngày nhắm mắt trong chế độ cộng sản đã nhiều lần sống trong lao lý, an trí, quản thúc. Bao mua chuộc không làm mềm lòng, lắm đoạ đày lao khổ không làm thối chí. Những lên tiếng khẳng khái của Ngài trước bạo quyền là hình ảnh kẻ sĩ trước sự hưng vong của đất nước, là bản nguyện của bồ tát trước nỗi khổ của chúng sinh.

Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là một bậc lãnh đạo trí dũng song toàn. Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không có lãnh vực nào không có dấu ấn của Ngài. Là vị Tổng thư ký đầu tiên và suốt 5 nhiệm kỳ sau đó Ngài đã đóng góp to lớn cho sự xây dựng nền tảng Giáo Hội. Giữa bao nhiêu phong ba bão táp Ngài luôn luôn xác định được hướng đi đích thực. Ngài đã không để cho những cuốn hút của thời thế làm lệch hướng giá trị căn bản của lý tưởng phụng sự. Ngày Ngài nằm xuống, các tổ chức nhân quyền trên thế giới gọi Ngài là một biểu tượng của dân chủ nhân quyền.

Trong giờ phút lắng đọng nầy xin chúng ta đồng tâm thắp nén tâm hương tưởng niệm Ngài. Xin cảm ơn chư liệt vị.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật.

Sau khi Hoà thượng Thích Chánh Lạc cung tuyên tiểu sử Đức cố Đệ tứ Tăng thống, buổi lễ bắt đầu với Nghi thức Tưởng nguyện và Thọ tang qua hai truyền thống Nam, Bắc tông.

Toàn thể hội trường vô cùng xúc động nghe qua máy vi âm giọng Đức Tăng thống ban lời dặn dò chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước khi còn sinh tiền, và lời cuối của Ngài chúc Tết vừa qua trên Đài Á châu Tự do. Đặc biệt, đồng bào tham dự còn nghe tiếng nói của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, phát nguyện tại Tu viện Nguyên Thiều trước lễ Di quan nhập tháp. Trong thông cáo báo chí phát hành hôm 11.7 chúng tôi đã chép lại nguyên văn Lời bạch trước giờ Di quan này.

Tiếp theo là bài Điếu văn do Hoà thượng Thích Trí Lãng tuyên đọc. Rồi chư Tăng giáo phẩm Văn phòng II Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, GHPGVNTN tại Canada và GHPGVNTN tại Úc châu, và Phái đoàn Tổng vụ Thanh Niên với Gia Đình Phật tử Hoa Kỳ do Hoà thượng Thích Huyền Việt dẫn đầu lên lễ đài dâng hoa cúng dường Giác linh đức Đệ tứ Tăng thống.


Cuộc lễ cực kỳ xúc động lúc toàn thể hội trường chứng kiến cảnh quý vị Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ, đại diện các tôn giáo bạn, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ cùng các vị lãnh đạo các đảng phái, đoàn thể trong Cộng đồng, Phật tử và đồng bào các giới lần lượt lên lễ đài thắp hương và dâng hoa cúng dường Giác linh đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang.

Trong phần phát biểu của các quan khách quốc tế, hội trường đặc biệt chú ý lời chia sẻ của ông Rahula Vihananda, Chủ tịch Tôn giáo vụ và Cố vấn của Tổng thống Sri Lanka và Dân biểu Edward Royce của Quốc hội Hoa Kỳ.

Ông Rahula Vihananda nói :

“Chúng ta vân tập về đây hôm nay để tưởng kính Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, GHPGVNTN. Ngài là nhà lãnh đạo, người yêu nước. Ngài đã vào tù cho chúng ta và để bảo vệ đạo Phật, bảo vệ Tăng già. Đó là những lý do khiến Ngài mắc vòng lao lý. Nay Ngài đã viên tịch, xả thân tứ đại. Nhưng Ngài không mất đi, vì Ngài hiện hữu mãi hoài trong trái tim chúng ta”.

Dân biểu Edward Royce phát biểu :

“Xin cho tôi nói lên lời chia buồn chân thành trước sự viên tịch của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thật là một mất mát lớn. Ngài là một trong những nhà lãnh đạo kính yêu của đất nước Việt Nam. Ngài chống đối bạo quyền dưới mọi hình thức. Cuộc đời kỳ vĩ cùa Ngài nổi bật qua việc thăng tiến không ngừng nghỉ cho dân chủ và nhân quyền. Ngài đã phải trả một giá quá đắt cho sự quyết tâm và không thoả hiệp này, vì vậy ngài đã trải nửa cuộc đời mình trong nhà tù, quản chế hay lưu đày dưới chế độ đàn áp Cộng sản. Suốt ba thập niên tiến hành ôn hoà cuộc chống đối chế độ Cộng sản, Ngài trở thành biểu tượng trong thế giới về cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật giáo cho tự do tôn giáo và nhân quyền. Ngài sáng danh trên hành tinh này.

“Vừa qua, hàng nghìn nghìn người về Tu viện Nguyên Thiều tiễn đưa Ngài. Và đây cũng là điều thường xẩy ra dưới chế độ Cộng sản, nhà cầm quyền giành giật để cướp lễ tang không cho GHPGVNTN cử hành. Tôi muốn chia sẻ với quý liệt vị điều sau đây, tôi đã viết thư cho Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết nói lên mối quan tâm của tôi về việc nhà cầm quyền muốn xâm lấn vào lễ tang. Rồi tôi được biết nhà cầm quyền đã bớt cứng rắn và để cho GHPGVNTN cử hành tang lễ. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng nhân quyền cơ bản đang thường trực bị giày xéo, và tất cả chúng ta phải kiên quyết đấu tranh để bảo vệ các quyền này.

“Hôm nay chúng ta về đây làm lễ thọ tang ngài, điều chúng ta có thể an ủi khi biết rằng cuộc đời của ngài làm xúc động biết bao người, thành quả và công đức Ngài quá lớn lao. Và chúng ta không quên Ngài”.

Cuối cùng Ban Tổ chức mời Cư sĩ Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, kiêm Tổng Uỷ viên Ngoại vụ Văn phòng II Viện Hoá Đạo, lên trình bày về những khó khăn trong thời gian Đức Tăng thống nằm viện, cùng những chướng ngại, bức bách khi tổ chức Tang lễ. Nhà cầm quyền Cộng sản đã muốn giành giật việc tổ chức lễ tang cho Giáo hội Phật giáo Nhà nước và ngăn cấm Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cử hành. Nhưng theo Cư sĩ Võ Văn Ái GHPGVNTN đã thu đạt thắng lợi nhờ hai yếu tố quyết định : một là tinh thần bất khuất của hàng giáo phẩm và chư Tăng Ni GHPGVNTN cũng như Phật giáo đồ trong nước trước bao hăm doạ, cản ngăn chư Tăng Ni và quần chúng Phật tử các tỉnh về Bình Định thọ tang hay phong toả đường sá. Thế nhưng bất chấp sự cấm đoán, gần một nghìn Tăng Ni và trên dưới mười nghìn Phật từ đã tiễn đưa Ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng. Yếu tố thứ hai là công luận quốc tế đã mạnh mẽ lên án Hà Nội trong việc xâm lấn này. Nhiều vị Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ đã viết thư phản kháng Hà Nội đồng thời với thư phân ưu gửi Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Ngoài ra, còn cả sự lên tiếng quyết liệt của các tổ chức quốc tế như Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới, Human Rights Watch, Ân Xá Quốc tế, Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, Hội đồng Nhân quyền, v.v… Rồi ông Ái kết luận :

“Đức Tăng thống Thích Huyền Quang tự đánh giá cuộc đời ngài dưới chế độ Cộng sản bằng bốn cái không trong đời sống. Ngài nói : “Tôi là người sống không nhà, đi không đường, chết không mồ, tù không tội”. Nhưng hôm nay chúng ta thấy gì, thưa quý vị ?

“Ngài nói tôi là người sống không nhà. Nhưng bây giờ nhà của ngài là trái tim của hàng chục triệu người dân Việt trong nước và ngoài nước. Đó là ngôi nhà mà chúng ta mời đón ngài vào.

“Ngài nói tôi đi không đường. Nhưng bây giờ mười nghìn người trên một cây số đường tiễn ngài về nơi an nghỉ cuối cùng, thì đó là con đường đã hiện ra tại Bình Định. Và ở hải ngoại, chúng ta đang hướng về quê hương theo con đường của ngài đấu tranh cho tự do tôn giáo, đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh cho dân chủ. Đó là con đường chúng ta dâng hiến cho ngài. Như vậy ngài đã có một con đường.

“Ngài nói rằng tôi sẽ chết không mồ. Nhưng một Bảo tháp đã dựng lên trong khuôn viên Tu viện Nguyên Thiều. Như vậy là Cộng sản đã thất bại trong việc cướp mồ ngài.

“Ngài nói rằng tôi là người tù không tội. Nhưng thưa quý vị, trong mấy ngày qua cũng như trước đây, sự lên tiếng của Quốc hội Hoa Kỳ, của Quốc hội Châu Âu, của các tổ chức nhân quyền quốc tế và công luận thế giới hậu thuẫn ngài và GHPGVNTN của ngài, là vết son ghi rõ Ngài không có tội. Mà tội đồ là chế độ Cộng sản kia”.

Sau lời cảm tạ của Thượng toạ Thích Viên Lý, Trưởng ban Tổ chức, lễ Tưởng nguyện và Thọ tang chấm dứt vào lúc 18 giờ trong niềm thương tiếc, ngậm ngùi.

Lễ Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong

LỄ TƯỞNG NIỆM CHIẾN SĨ TRẬN VONG NGÀY 12.7.2008 TẠI PARIS


Đinh Lâm Thanh

Buổi Lễ Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong của Tập Thể Quân Nhân tại Pháp năm nay được đặc biệt tổ chức sớm hơn thường lệ (thường vào ngày 02.11 hằng năm), nhằm trong thời điểm 60 năm vinh danh cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ. Ban tổ chức muốn chọn cơ hội thời điểm nầy để tưởng niệm các chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ Quốc dưới Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ.






Từ phải sang trái: Trung Tướng Trần văn Trung
ĐT Nguyễn phúc Tửng-L.s Vương văn Bắc


Đại Tá Trần Đình Vỵ - ĐT Hoàng Cơ Lân

Theo thường lệ hằng năm, nghi lễ quân cách được tổ chức trong nghĩa trang của thành phố Nogent Sur Marne, cách chừng15 cây số về hướng Đông Nam Paris, là nơi đặt tượng đài tưởng niệm ghi ơn các anh hùng tử sĩ đã nằm xuống. Đặc biệt năm nay số người đến tưởng niệm đông hơn những năm vừa qua. Ngoài Ban Điều Hợp Tập Thể Chiến sĩ Châu Âu, các vị cựu quân nhân các cấp của QLVNCH và Cảnh Sát (Trung Tướng Trần Văn Trung, Y Sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, Đại Tá Trần Đình Vỵ, ông Phạm Thìn, chủ tịch Tổng Hội Cảnh Sát Châu Âu…) chúng tôi ghi nhận đạc biệt sự hiện diện của Cựu Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc, Cựu Đại Tá Nguyễn Phúc Tửng, Tổng Thư Ký Văn Phòng Liên Lạc các hội đoàn tại Paris, anh Nguyễn Ngọc Bách, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Paris (Trưởng Ban Tổ Chức Vinh Danh Cờ Vàng tại Paris ngày 09.07.2008 vừa qua) và một số đông đồng hương đến tham dự buổi lễ.

Sau khi năm quân nhân trong y phục binh chủng Dù rước Cờ Pháp, Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ và Cờ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiến vào trong khuôn viên vị trí hành lễ và mở đầu buổi lễ bằng nghi thức chào Cờ Pháp, Việt Nam cũng như mặc niệm anh hùng tử sĩ đã bỏ mình bảo vệ quê hương, Y sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tập Thể Chiến Sĩ Châu Âu đọc bài diễn văn ngắn, nhắc lại ý nghĩa của ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong đồng thời kêu gọi tất cả các cựu quân nhân các binh chủng cũng như Cảnh Sát Quốc Gia về đây hàng năm để tưởng niệm những quân nhân đã nằm xuống.

Nguyễn Ngọc Bách - Dương My
(Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Paris)


Tiếp đến Đại Tá Trần Đình ỵị cho biết tiểu sử Khu Tượng Đài cũng như các cuộc vận động của ông với người Pháp để hoàn thành một khuôn viên tưởng niệm trong nghĩa trang Nogent Sur Marne, dành riêng cho những người lính Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Một tấm bia chạm nổi theo mẫu hình bức tượng Thương Tiếc trước nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa và một tháp đài cao vinh danh những các quân nhân đã chết cho Độc Lập Tự Do Việt Nam.

Bốn vòng hoa do các vị đại diện kính cẩn đặt trước bia tượng : Luật Sư Vương Văn Bắc đại diện cho dân sự, Trung Tướng Trần Văn Trung đại diện cho quân nhân các cấp, Anh Nguyễn Ngọc Bách đại diện cho thế hệ một rưỡi và cô Dương My đại diện cho con cháu thuộc thế hệ Hai.

Trước giờ kết thúc buổi lễ bằng những lời cám ơn nồng nhiệt của Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, tất cả đều lần lượt đến thắp nhang kính vái vong linh của những Anh Hùng Liệt Sĩ đang nằm trong nghĩa trang nầy.

Đinh Lâm Thanh
Paris ngày 12.07.200